Khảo về số 3 trong văn hóa Việt
lượt xem 2
download
Trong văn hóa truyền thống Việt, số 3 có thể được coi là “con số tâm linh, tinh thần”. Phát triển trong môi trường văn hóa - xã hội truyền thống Việt Nam, con số 3 có mặt rất nhiều trong đời sống của cộng đồng cư dân Việt. Từ đời sống tinh thần đến đời sống vật chất, các mối quan hệ xã hội giữa con người với con người và các sự vật, hiện tượng khác nhau trong đời sống sinh hoạt xã hội đều ít nhiều có liên hệ với con số 3.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Khảo về số 3 trong văn hóa Việt
- TRAO ĐỔI - NGHIỆP VỤ KHẢO VỀ SỐ 3 TRONG VĂN HÓA VIỆT DƯƠNG VĂN SÁU* Tóm tắt Trong văn hóa truyền thống Việt, số 3 có thể được coi là “con số tâm linh, tinh thần”. Phát triển trong môi trường văn hóa - xã hội truyền thống Việt Nam, con số 3 có mặt rất nhiều trong đời sống của cộng đồng cư dân Việt. Từ đời sống tinh thần đến đời sống vật chất, các mối quan hệ xã hội giữa con người với con người và các sự vật, hiện tượng khác nhau trong đời sống sinh hoạt xã hội đều ít nhiều có liên hệ với con số 3. Từ khóa: Số 3, tam nhân, tam hữu, tam tài Abstract In Vietnamese traditional culture, the number 3 can be considered as a “spiritual number”. Developing in Vietnamese traditional cultural and social environment, the number 3 appears a lot in the life of the Vietnamese community. From the spiritual life to the material life, the social relationships between people and people, between people and the various things and phenomena in social life are more or less related to the number 3. Keywords: The number 3, Tam Nhan, Tam Huu, Tam Tai 1. Số 3 trong đời sống tâm linh - tinh thần mặt Trăng và các vì sao, tạo nên Thái dương hệ của con người (hệ Mặt trời), nơi tồn tại của muôn loài, muôn T rong dãy số tự nhiên, số 3 được viết vật. Trên đời, có “Tam tài”, “Tam hợp” thì cũng bằng các tự dạng sau: 3, ba. Với chữ có “Tam tai”: 3 tai họa lớn gây họa cho loài Hán, số 3 đọc viết là tam (三;叁;弎) người, đó là: Thủy tai (水災): mưa gió, bão lũ, để chỉ số thứ tự thứ ba trong dãy số tự nhiên. sóng thần, lũ quét…; Hỏa tai (火災): sấm sét, Trong đời sống tinh thần của con người, số 3 nắng nóng gay gắt, hỏa hoạn dữ dội; Phong là số lẻ, mang dương tính mạnh mẽ; biểu hiện tai (風災): bão tố, lốc xoáy, gió giật... Ngoài ra, cho “Tam tài” (三才), ba ngôi vị cao quý nhất trong đời sống con người ta cũng còn luôn trong vũ trụ, gồm Thiên - Địa - Nhân (ứng với phải đối mặt với các nguy cơ đến từ “Tiểu tam Trời - Đất - Con người) luôn gắn bó mật thiết tai”, đó là: “cơ hàn chi tai” (飢寒之災): tai họa với nhau không thể thiếu, không thể tách rời đói rét do mất mùa gây ra; “tật bệnh chi tai” (疾 trong quá trình tồn tại và phát triển của con 病之災): tai họa do dịch bệnh gây ra; và “đao người và vạn vật. Số 3 là một con số tâm linh; binh chi tai” (刀兵之災): tai họa do chiến tranh, sự hiện diện của nó gắn với nhiều sự vật, hiện xung đột gây ra. Theo đạo Lão, trong mỗi con tượng bí ẩn có liên quan trực tiếp hoặc gián người đều có “Tam báu”, đó là: tinh - khí - thần tiếp với nhiều cấp độ, mức độ khác nhau đến làm nên sức khỏe, trí tuệ, phong thái cho mỗi các cá nhân, cộng đồng mà không dễ gì lý giải, chúng ta. Trong đời sống văn hóa - xã hội các hóa giải. Trong vũ trụ có rất nhiều hành tinh nước phương Đông, “Tam giáo” (三教): Nho - nhưng người ta thường nhắc tới “Tam tinh” Phật - Đạo (儒,佛, 道) được coi là ba mạch máu (三星) tức là 3 loại tinh tú vĩ đại, gồm: mặt Trời - tinh thần của xã hội Á Đông, làm nên một xã hội đa văn hóa, đa tôn giáo - tín ngưỡng. Cả * PGS.TS, Khoa Du lịch, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội ba tôn giáo này đều dung hội một cách khá Số 31 (Tháng 3 - 2020) VĂN HÓA NGHIÊN CỨU 83
- VĂN HÓA NGHIÊN CỨU thống nhất trong xã hội Việt Nam tự cổ chí kim dung tư tưởng Phật giáo luôn coi “Tam độc” thể hiện qua quan niệm “Tam đồng” khi người (三毒): tham - sân - si (tham lam - nóng giận - ta nói: “Tam giáo đồng nguyên”: 3 tôn giáo đều vô minh ngu tối) là 3 thứ cần phải loại trừ để cùng cội nguồn; “Tam giáo đồng tôn”: 3 tôn đem lại sự an vui cho mỗi chúng sinh. giáo đều được tôn trọng, tôn quý; “Tam giáo Phật giáo truyền thống Việt Nam có Trúc đồng đường”: 3 tôn giáo cùng được thờ phụng Lâm tam tổ là: Nhân Tông - Pháp Loa và Huyền trong không gian di tích Việt. Trong cúng tế Quang là ba vị tổ truyền thừa của thiền phái thì có cúng “Tam sinh” (三牲): dâng 3 con vật Trúc Lâm. Tín ngưỡng thờ Mẫu có Tam tòa Trâu/bò - Dê/cừu - Lợn trong dịp lễ trọng để tế Thánh Mẫu, gồm: đệ nhất Mẫu Thượng thiên, Thần, cúng Thánh. Trong phong thủy phương đệ nhị Mẫu Thượng ngàn và đệ tam Mẫu Đông, khi đón năm mới, hình tượng “Tam Thoải phủ. Trong các di tích, các ban thờ Phật dương khai thái” (三羊開泰) thường được sử - Thánh/Thần cũng thường bài trí 3 ngôi: nhân dụng nhiều vào những năm Mùi, hay gắn với vật chính ngồi chính giữa ngôi vị và 2 trợ thủ những người tuổi Mùi. Với hình 3 con dê đứng hai bên. Chùa có cổng “Tam quan” với 3 cửa chung với nhau trong 3 tư thế khác nhau, “Tam dùng để vào - ra là công trình kiến trúc truyền dương khai thái” được bài trí trong nhà mang thống thể hiện thế giới quan Phật giáo. Trong ước vọng sẽ đem đến cho gia chủ sự may mắn, Kitô giáo cũng có hình tượng Đức Chúa 3 ngôi: hanh thông, cát tường; gặp được người quân Đức Chúa Cha - Đức Chúa Con - Đức Chúa tử, tránh được kẻ tiểu nhân. Thánh Thần. Ba ngày là thời gian Chúa Giêsu Trên đất nước Trung Hoa, từ xưa, Đức Khổng chết rồi sống lại trở về Trời. Chuông nhà thờ Phu Tử (479 - 551 BC) đã viết trong sách Luận được gióng 3 hồi báo, nhắc cho tín đồ Kitô hữu ngữ: “Tam nhân đồng hành tất hữu ngã sư yên” tới lễ nhà thờ vào 4 giờ sáng, 12 giờ trưa và 5 (三人同行必有我師焉). Có nghĩa là: trong ba giờ chiều trong ngày. người cùng đi đường, nhất định có thầy ta ở Chúng tôi chưa có điều kiện khảo cứu sâu đó; trong đám đông tất có người mà mình về con số 3 trong văn hóa phương Tây, nhưng đáng học tập. Điều này muốn nhắn nhủ rằng điều ai cũng nhận thấy là khi học tiếng Anh và “Nhân tài trong đám quần chúng ấy”, “Nhân nhiều ngôn ngữ quốc tế khác đều phải nắm dân là bậc thầy vĩ đại nhất”. Dưới thời Tam quốc chắc và sử dụng đúng ngữ pháp của 3 thì: quá (220 - 280), điển tích “tam cố thảo lư” (三故草 khứ - hiện tại - tương lai. Chúng ta cũng thấy 盧) là cụm từ chỉ việc Lưu Bị đã 3 lần hạ mình lá quốc kỳ Pháp có 3 màu xanh, trắng, đỏ nên đến lều tranh ở đất Long Trung để mời Khổng thường gọi là “Cờ tam tài”: cờ mang ba sắc Minh Gia Cát ra giúp mình. Hình tượng này thể màu biểu tượng cho Tự do - Bình đẳng - Bác ái. hiện lòng kiên trì của đấng quân vương trong Ngoài ra, có rất nhiều quốc kỳ của các cường việc “cầu hiền”, “chiêu hiền đãi sĩ”, trọng dụng quốc trên thế giới như Ý, Đức, Nga,… cũng đều nhân tài để làm nên nghiệp lớn. có 3 màu. Trong Bát quái, quẻ Càn (乾) ứng với Trời, là 2. Số 3 trong đời sống văn hóa - lịch sử quẻ số 1 trong bát quái, có 3 gạch liền như Con số 3 cũng là con số được chọn trong chữ tam, cũng hàm chứa sự quy tụ, thống hợp lịch sử - văn hóa của cả một dân tộc và ngoài trong vũ trụ, quy về đấng tối cao. cuộc sống xã hội, trong đời thường của mỗi Số 3 là con số gắn với tâm linh nên nó hiện một gia đình để cho một em bé đủ thời gian hữu rất nhiều trong các tôn giáo, tín ngưỡng để khẳng định mình. Điều này phần nào thể ở Việt Nam. Trong ngôi chùa Phật giáo, “Tam hiện qua truyền thuyết về “cậu bé làng Phù bảo” gồm Phật - Pháp - Tăng là 3 thứ quý giá Đổng”, khi lên 3 mới vươn mình lớn dậy giết nhất, không gì hơn. Trong Phật giáo Đại thừa, giặc, cứu nước. Con số 3 cũng là con số đi vào vị trí cao nhất trên Thượng điện thường có 3 lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc sớm nhất pho “Tam thế”, thể hiện cho 3 ngôi vị Phật gắn của người Việt Nam. Đó là thời gian 3 năm (40 với Quá khứ - Hiện tại - Vị lai. Ba cõi thuộc về - 43) diễn ra cuộc khởi nghĩa đầu tiên chống lại “Tam giới”: dục giới - sắc giới - vô sắc giới cũng giặc phương Bắc đô hộ của dân tộc ta do Hai là 3 giới trong vũ trụ quan Phật giáo. Trong nội Bà Trưng lãnh đạo. Sau này, dấu mốc thời gian 84 Số 31 (Tháng 3 - 2020)
- TRAO ĐỔI - NGHIỆP VỤ 3 năm lịch sử đó được ngợi ca qua lời của các cho kẻ mới nhập “cửa Khổng sân Trình”. Với danh sĩ Lê Ngô Cát/Phạm Đình Toái trong Đại những ai yêu thích thơ Đường thường biết Nam quốc sử diễn ca: “Ba thu gánh vác sơn hà/ và nhắc tới cuốn “Đường thi tam bách thủ” (唐 Một là báo phục, hai là bá vương”. 詩三百首) là một tuyển tập gồm hơn 300 bài Với các công trình kiến trúc truyền thống thơ Đường xuất sắc do học giả Tôn Thù (1722 thuộc về hoàng gia hay giới bình dân, con số - 1778) tuyển soạn vào khoảng năm 1763 triều 3 cũng xuất hiện trong rất nhiều vị thế khác vua Càn Long thời nhà Thanh. Ở Việt Nam, đại nhau. Với người dân ở nông thôn, ngôi nhà 3 thi hào Nguyễn Du cũng đã từng viết trong bài gian (dù nhà tranh vách đất của nhà nghèo hay “Độc Tiểu Thanh ký”: “Bất tri tam bách dư niên được xây bằng gạch đối với gia đình khá giả) hậu - Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?” (不知 là kiểu nhà phổ biến nhất. Ở kinh đô, với triều 三百餘年後,天下何人泣素如): Chẳng biết ba đình phong kiến trung ương thì những tòa trăm năm sau nữa, thiên hạ người đời có ai thành, dinh thự, lâu các cũng phổ biến được khóc Tố Như ta? xây dựng với kiểu thức kiến trúc gắn nhiều Trong các tác phẩm có giá trị khi khảo cứu với số 3. Có thể kể đến như kiểu thức kiến trúc về văn hóa lịch sử Trung Hoa, “Tam tài đồ hội” “Tam trùng nhất điểm” (三重弌点) của các tòa (三才圖會) là tên gọi một bộ bách khoa thư cổ thành phương Đông, mà ở Việt Nam tòa của người Trung Hoa do tác giả Vương Kỳ cùng thành cổ nhất là thành Cổ Loa (Đông Anh, Hà con trai của ông là Vương Tư Nghĩa biên soạn Nội) với 3 vòng thành được đắp bằng đất. Tòa và công bố vào năm 1609. Nội dung tác phẩm kinh thành thời kỳ cận hiện đại của lịch sử dân này được xem là tư liệu cho mọi hiểu biết của tộc là Kinh thành Huế dù có cấu trúc Vau-ban hậu thế về bối cảnh đất nước Trung Hoa dưới cũng vẫn là kiến trúc 3 vòng thành: Kinh thành triều Minh và các nước lân cận đương thời - Hoàng thành và Cấm thành. Cột cờ Hà Nội với trong đó có xứ An Nam ta1. cấu trúc 3 tầng đế hình chóp vuông cụt chồng Trong cuộc sống con người, người ta luôn lên nhau. Trong khi đó, Kỳ đài Huế với phần cầu mong có được “Tam đa”: Phúc - Lộc - Thọ Đài kỳ cũng gồm ba tầng hình chóp cụt chữ cho mỗi người, mỗi gia đình hạnh phúc. Vậy nhật chồng lên nhau. Công trình quan trọng nên hình tượng “Tam đa”: ông Phúc - ông Lộc nhất về mặt tâm linh của triều đình Huế là Đàn - ông Thọ được điêu khắc và sử dụng rất phổ Nam giao nơi dành cho các vị Vua nhà Nguyễn biến để bài trí trong các gia đình người Việt. tiến hành Tế Nam giao (tức là tế Trời). Ở trung Con số 3 cũng xuất hiện trong các hình thái tư tâm của Đàn Nam giao, Giao đàn cũng gồm duy, suy luận diễn dịch ngôn từ, trong đó, “Tam 3 tầng: tầng trên cùng là Viên đàn, xây thành đoạn luận” là “diễn dịch hình thức” - một hình hình tròn, tượng trưng cho Trời; hai tầng dưới thức chặt chẽ nhất của suy luận, là cách suy là Phương đàn, xây thành hình vuông, tượng luận để chỉ ra kết quả xác đáng đối với các sự trưng cho Đất. Kết cấu 3 phần phổ biến như vật - hiện tượng. vậy mang tính chủ đạo trong các công trình kiến trúc thuộc về vương quyền của các thể 3. Số 3 trong đời sống xã hội chế quân chủ phong kiến phương Đông và Trong đời sống xã hội Việt truyền thống, số Việt Nam. 3 biểu trưng cho sự đoàn kết gắn bó, hỗ trợ lẫn Trong các mối quan hệ xã hội thì có “Tam nhau tạo nên sự chắc chắn, vững mạnh; thể cương” (三綱): Quân - sư - phụ để giữ gìn kỷ hiện rõ nhất trong hình tượng về chiếc “Kiềng cương, nề nếp trong gia đình và xã hội. Ở các 3 chân”: “Dù ai nói ngả nói nghiêng/ Lòng ta vẫn nước phương Đông dùng chữ Hán, kẻ nho vững như kiềng ba chân”. Tục ngữ Việt Nam có sinh khi mới bắt đầu học chữ Thánh hiền (chữ câu: “Một cây làm chẳng nên non/ Ba cây chụm Hán) thì phải học “Tam tự kinh” (三字經) là lại nên hòn núi cao” để nhắc nhở, giáo dục mọi cuốn sách dùng cho trẻ em mới đi học; mỗi người phải đoàn kết, chung sức, đồng lòng câu có 3 chữ, mở đầu là 人之初,性本善: nhân làm nên việc lớn. chi sơ, tính bản thiện. Sau đó phải học “Tam Trong gia đình Việt truyền thống, cụm từ thiên tự” (三千字): 3.000 chữ Hán thông dụng “Tam đại đồng đường” (三代仝堂) thể hiện sự Số 31 (Tháng 3 - 2020) VĂN HÓA NGHIÊN CỨU 85
- VĂN HÓA NGHIÊN CỨU gắn bó liên kết chặt chẽ về huyết thống trường cô yếm thắm bỏ bùa cho sư”. Với tình yêu dang thọ, trường tồn giữa 3 thế hệ: Ông bà - cha mẹ dở, đầy tiếc nuối thì: “Ba đồng một mớ trầu cay, - con cháu trong một gia đình. Việc sinh con sao anh chẳng hỏi những ngày còn không?”. Xã trong các gia đình ngày xưa, mọi người cũng hội xưa vốn “Nam tôn nữ ti” (男尊女卑), nhưng thường có quan niệm “tam nam bất phú, tứ trong con mắt của người dân lao động, người nữ bất bần” (三男不冨 - 四女不貧): 3 con trai phụ nữ vẫn được coi trọng: “Ba đồng một mớ thì không thể giàu có, 4 con gái thì không thể đàn ông, đem bỏ vào lồng cho kiến nó tha/ Ba nghèo hèn. trăm một mụ đàn bà, đem về mà trải chiếu hoa Con số 3 cũng là số được chọn làm “chỉ số cho ngồi”. Con số 3 trong các mối quan hệ xã định lượng” trong cấu trúc hợp thành của đời hội cũng phần nào thể hiện sự thống nhất cao, sống xã hội con người. Danh sĩ Cao Bá Quát nhất quán, ràng buộc, liên kết lẫn nhau khi (1809 - 1855) trong bài thơ “Uống rượu tiêu sầu” người ta nói: “Ba mặt một lời” để khẳng định có câu “Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy/ Cảnh phù và thể hiện sự cam kết về một vấn đề gì đó. du trông thấy đã nực cười”. Trong câu này, ba Trong xã hội cũ, luật lệ thời xưa cũng ít nhiều vạn sáu ngàn ngày tức là 100 năm, ý muốn chỉ quan tâm đến nữ quyền, trong đó quy định: một đời người dẫu có sống thọ đến trăm tuổi người phụ nữ nếu chẳng may chồng chết, sau cũng chỉ là sự phù du, huyễn hoặc… Trong ba năm được quyền tái giá, sang ngang. Việc quân đội, biên chế nhỏ nhất là “Tổ 3 người” (hay tang chế trong gia đình, con cái để tang cha được gọi là “Tổ tam tam”) giúp cho việc sinh mẹ 3 năm; việc sang cát, cải táng, bốc mộ cho hoạt, rèn luyện, tổ chức phòng ngự hoặc tấn người chết của người Việt ở Bắc Bộ xưa thường công theo 3 hướng được đảm bảo chắc chắn. được tiến hành sau khi chết 3 năm... Biên chế trong các đơn vị lục quân thường gắn Ngày nay, trong các công trình nghiên cứu với số lượng là 3, ví dụ: 3 tiểu đội hợp thành 1 khoa học, luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ… trung đội, 3 trung đội hợp thành 1 đại đội, 3 thường có cấu trúc 3 chương theo mô típ: Đặt đại đội hợp thành 1 tiểu đoàn, 3 tiểu đoàn hợp vấn đề - giải quyết vấn đề và kết thúc vấn đề. thành 1 trung đoàn, 3 trung đoàn hợp thành Nếu một ngày có 3 buổi: sáng - chiều - tối thì 1 sư đoàn… Trong cuộc sống quân ngũ, lính con người ta cũng có 3 thời: thơ ấu - trung tráng có câu “cơm ba bát, hát ba bài” như một niên và tuổi già. Trong cuộc sống xã hội, số “tiêu chuẩn định lượng” trong sinh hoạt của 3 cũng thể hiện sự giới hạn cuối cùng của sự người chiến sĩ. Trong nếp sống sinh hoạt hàng thay đổi: cha ông ta thường nói “quá tam ba ngày của con người, việc ăn uống được duy trì bận” thì không thay đổi nữa dù kết quả có đều đặn để đảm bảo sức khỏe, thì: cơm ngày thế nào. Lễ hội xuân truyền thống ở các địa ba bữa. Nếu chẳng may ốm đau, dùng thuốc phương thường có trò chơi thi đấu vật mang Đông y theo chuẩn: “Cơm ba bát, thuốc ba tinh thần thượng võ, trong thi đấu thường vật thang”. Ở đô thị cổ Hội An (Quảng Nam), trong 3 ván, dân gian gọi là “ba keo - mèo mở mắt” các món ăn truyền thống đặc trưng có món để phân định sức mạnh thắng thua”, ván thứ mà người Quảng gọi là món “Tôm hữu”. Thực 3 sẽ quyết định ai mạnh hơn ai. Điều này cũng chất đây là món “Tam hữu” (三友), nghĩa là 3 gặp trong thi đấu một số môn thể thao như người bạn, gồm 3 nguyên liệu là tôm, thịt heo bóng bàn, bóng chuyền. Trong thi đấu bóng và cọng hành quấn lại với nhau rồi hấp chín, đá, nếu một cầu thủ nào đó ghi được ba bàn nhưng do giọng Quảng Nam khi phát âm “a” trong một trận thì cầu thủ đó được gọi là lập bị biến thành “ô” vì thế món Tam hữu bị biến một “hat-trick”... thành món “Tôm hữu”. Xưa kia, cuộc sống hàng Trong cuộc sống đời người, cha ông ta nói: ngày dù có vất vả đến đâu nhưng ba ngày Tết “Tam thập nhi lập” (三十而立), để nói người phải no, thể hiện qua câu nói: “Đói quanh năm, con trai 30 tuổi là phải vững vàng lập thân, lập no ba ngày Tết” hoặc “Đói ngày giỗ cha, no ba nghiệp. Số 3 là giới hạn của sự chắc chắn, khỏe ngày Tết”. Con số 3 cũng đi vào những câu hát, mạnh nếu chúng ta biết giới hạn, tự chủ, điều câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ khác. Khi đi tiếp độ trong sinh hoạt. Một dị bản bài thơ tương tế nhà chùa, thì: “Ba cô đội gạo lên chùa/ Một truyền của Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác: 86 Số 31 (Tháng 3 - 2020)
- TRAO ĐỔI - NGHIỆP VỤ “Bán dạ tam bôi tửu/ Bình minh số trản trà/ Mỗi Kết luận nhật y như thử/ Lương y bất đáo gia” (半夜三 Văn minh Việt Nam là văn minh ngôn từ, 杯酒/ 平明數琖茶/ 每日依如此/ 良醫不到 các vấn đề có liên quan đến các khía cạnh của 家): Nửa đêm 3 chén rượu/ Sáng sớm một tuần đời sống vật chất và tinh thần của người Việt trà/ Mỗi ngày cứ như thế/ Thầy thuốc không có thể nói bằng rất nhiều ngôn từ phong phú đến nhà. Theo vòng quay thời gian, trong một khác nhau. Trong những ngôn từ chỉ số lượng, mùa có 3 tháng, gọi là mạnh - trọng - quý (孟- số 3 không chỉ dừng lại ở số lượng hay chất 仲-季); trong một đêm có 5 canh, gồm canh 1 - canh 2 - canh 3 - canh 4 - canh 5, nhưng lượng, vị trí hay cấu hình, định tính hay định canh 3 quan trọng nhất, bởi đó là “nửa đêm giờ lượng,… mà con số 3 đã gắn bó chặt chẽ, rộng Tý, canh ba”: thời điểm giao hòa giữa ngày cũ - rãi với rất nhiều khía cạnh của cuộc sống con ngày mới, thời gian giao hòa chuyện vợ chồng người, trở thành một phần tất yếu không thể nhạy cảm khó nói… tách rời của xã hội truyền thống Việt Nam. Trong dãy số tự nhiên, các số 3, 5, 7, 9 đều là D.V.S các số lẻ, được coi là các số dương. Tuy nhiên, trong văn hóa Á Đông, số 3 được dùng nhiều hơn trong đời sống tâm linh - tinh thần cũng Chú thích như văn hóa - xã hội của con người vì số lượng 1 Bộ bách khoa thư Tam tài đồ hội chia làm 106 ít; biểu đạt các mối liên hệ cơ bản của con quyển (chương) về 14 chủ đề khác nhau: người có liên quan đến đời thường, mang tính 1. Thiên văn (天文): 01-04 phổ cập xã hội, gắn với cuộc sống xã hội của 2. Địa lý (地理): 05-20 con người nhiều hơn. Trong khi đó, số 5 cũng là con số mang dương tính nhưng gắn bó sâu 3. Nhân vật (人物): 21-34. Tranh vẽ người Giao hơn với các quan niệm của Nho giáo về: “ngũ Chỉ xuất hiện ở trang 16-17, quyển 32. luân, ngũ thường” (Nhân - Nghĩa - Lễ - Trí - Tín) 4. Thời linh (时令): 35-38 đem lại “ngũ phúc” (Phú - Quý - Thọ - Khang - 5. Cung thất (宫室): 39-42 Ninh) của người quân tử. Con số 7 lại gắn với 6. Khí dụng (器用): 43-54 thế giới quan Phật giáo nhiều hơn vì Phật giáo 7. Thân thể (身体): 55-61 là một “Tôn giáo âm tính”; chăm lo cho cái chết, 8. Y phục (衣服): 62-64 “sự sống sau cái chết” của con người nhiều hơn. 9. Nhân sự (人事): 65-74 Vậy nên thế giới quan Phật giáo bàn nhiều đến “lục dục - thất tình” (Lục dục là sáu việc ham 10. Nghi chế (仪制): 75-82 muốn của con người; Thất tình là bảy thứ tình 11. Trân bảo (珍宝): 83-84 cảm biểu lộ ra bên ngoài gồm: hỉ, nộ, ai, lạc, ái, 12. Văn sử (文史): 85-88 ố, dục). Lễ Vu lan báo hiếu, một trong những 13. Điểu thú (鸟兽): 89-94 đại lễ của Phật giáo được thực hiện vào ngày 14. Thảo mộc (草木): 95-106 [1] rằm tháng Bảy… Trong khi đó, số 9 là số thành dương lớn nhất, số cực dương lại gắn chặt với Tài liệu tham khảo đạo Lão; gắn với bùa phép, đàng tràng của các đạo sĩ, thầy phù thủy; nhằm hóa giải, biến ảo 1. Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, “Tam tài thế giới đời thường chuyển sang cõi Tiên, cõi đồ hội”, https://vi.wikipedia.org/wiki/Tam_t%C3 Thánh với “Cửu trùng thiên tiên”, “Hạc giá vân %A0i_%C4%91%E1%BB%93_h%E1%BB%99i du” đi mây về gió, thăng giáng dị thường, v.v. 2. Vũ Ngọc Phan (1956), Tục ngữ ca dao, dân ca Tóm lại, số 3 xuất hiện nhiều trong cả đời sống Việt Nam, Nxb. Văn học, Hà Nội. tâm linh - tinh thần, văn hóa - lịch sử và xã hội vì số 3 gắn với đời sống con người của mọi giai Ngày nhận bài: 5 - 3 - 2020 tầng trong xã hội, trong khi các số 5, 7, 9 gắn Ngày phản biện, đánh giá: 15 - 3 - 2020 nhiều hơn với các quan hệ Nho - Phật - Lão, nên ít phổ biến hơn. Ngày chấp nhận đăng: 25 - 3 - 2020 Số 31 (Tháng 3 - 2020) VĂN HÓA NGHIÊN CỨU 87
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Bài giảng Cơ sở văn hoá Việt Nam
99 p | 1104 | 246
-
Tiểu luận môn Cơ sở văn hóa Việt Nam: Chiếc nón lá trong đời sống người Việt
16 p | 1687 | 193
-
Bài giảng Cơ sở văn hóa Việt Nam - ThS. Huỳnh Thị Thùy Trinh
23 p | 759 | 193
-
thú chơi cổ ngoạn - vương hồng sển
64 p | 150 | 26
-
Tài liệu bồi dưỡng cán bộ quản lí và giáo viên trung học phổ thông về giáo dục bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc thiểu số
222 p | 120 | 23
-
Nguồn gốc dân tộc Việt Nam và Ðịa đàng phương Ðông – Phần 3
21 p | 130 | 19
-
Tạp chí Giáo dục số 258 (Kì 2 – 3/2011)
65 p | 82 | 16
-
Vài thách thức đối với thư viện số và những chiến lược đối phó
6 p | 114 | 11
-
Tìm hiểu về Văn hóa, văn minh và văn hóa truyền thống của Hàn Quốc: Phần 1
137 p | 26 | 10
-
Tạp chí Cộng sản Số 9 (3-2003)
63 p | 73 | 9
-
Tiếp cận các nghiên cứu lời kể, lịch sử qua lời kể và lịch sử cuộc đời trong khảo sát về Nhân học biển tại vùng biển, đảo Nam Trung bộ và Nam bộ Việt Nam
9 p | 100 | 5
-
Phong tục Việt Nam: Phần 1
241 p | 19 | 5
-
Dấu ấn người Hoa trong văn hóa Hội An: Phần 1
163 p | 33 | 5
-
Di tích Giồng Nổi (Bến Tre) trong bối cảnh khảo cổ học Nam Bộ thời tiền - sơ sử
12 p | 57 | 4
-
Nhân vật liệt nữ trong văn học Việt Nam thế kỷ X - XIX: Phần 1
154 p | 8 | 4
-
Phương pháp dạy và học tích cực trong môn Văn học - GS. Trần Bá Hoành
130 p | 22 | 3
-
Khảo sát thủ pháp học chữ Hán của sinh viên tiếng Nhật
13 p | 85 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn