Khóa luận tốt nghiệp: Giáo dục đạo đức cho học sinh THPT thông qua dạy học môn GDCD - thực trạng và giải pháp (Qua khảo sát tại trường THPT Bùi Thị Xuân, Quận 1, TP. Hồ Chí Minh)
lượt xem 13
download
Mục đích của khóa luận là xác định phương hướng và tìm ra một số giải pháp cơ bản để nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho học sinh THPT nói chung, học sinh trường THPT Bùi Thị Xuân, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Khóa luận tốt nghiệp: Giáo dục đạo đức cho học sinh THPT thông qua dạy học môn GDCD - thực trạng và giải pháp (Qua khảo sát tại trường THPT Bùi Thị Xuân, Quận 1, TP. Hồ Chí Minh)
- MỤC LỤC
- 2 A. MỞ ĐẦU 1) Tính cấp thiết của đề tài Giáo dục và đào tạo là một trong những lĩnh vực được quan tâm hàng đầu trong sự phát triển của quốc gia. Giáo dục, đào tạo mang trong mình sứ mạng cao cả là “nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài” cho đất nước. Vì vậy Đảng và Nhà nước ta luôn luôn xác định chiến lược giáo dục là "quốc sách hàng đầu". Nhằm mục tiêu xây dựng con người phát triển toàn diện, bên cạnh việc trang bị trình độ chuyên môn, nghiệp vụ thì giáo dục đạo đức là một yếu tố vô cùng quan trọng trong việc hình thành và phát triển nhân cách cũng như tạo nên giá trị mỗi con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Đạo đức là cái gốc của người cách mạng” và coi giá trị của mỗi người gồm hai mặt: đức và tài. Người chỉ rõ: “có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó, có tài mà không có đức là người vô dụng”, và: “cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn…Người phải có đạo đức, không có đạo đức thì có giỏi mấy cũng kông lãnh đạo được nhân dân”. Trong tương lai gần, học sinh THPT sẽ là những người kế tục sự nghiệp cách mạng của cha anh, là những người tiếp bước trên con đường xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Là lớp thanh niên đang ở tuổi trưởng thành với những bước ngoặt lớn về phát triển nhân cách sinh ra và lớn lên trong môi trường thông tin đa chiều và xu thế hội nhập quốc tế, học sinh THPT là lớp người chịu nhiều ảnh hưởng tích cực cũng như tiêu cực từ những biến đổi của đất nước và thế giới. Đa số học sinh Việt Nam biết tiếp thu và phát huy được những giá trị văn hóa đạo đức tốt đẹp của dân tộc và thế giới, thi đua học tập, rèn luyện để trở thành những chủ nhân tương lai của đất nước. Tuy nhiên bên cạnh đó cũng có một bộ phận học sinh chạy theo lối sống thực
- 3 dụng, có biểu hiện xa rời các giá trị đạo đức truyền thống, dễ bị dao động về mặt định hướng đạo đức và lối sống. Đây cũng là điều tại Hội nghị BCH TW lần thứ mười, khoá IX Đảng ta từng khẳng định: “Tình trạng suy thoái, xuống cấp về đạo đức, lối sống, sự gia tăng các tệ nạn xã hội và tội phạm, đáng lo ngại nhất là trong giới trẻ”. Bộ môn GDCD có vai trò, vị trí rất quan trọng trong giáo dục nhân cách học sinh, đặc biệt trong việc xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân cho học sinh THPT. Thông qua môn học người giáo viên sẽ trang bị, hình thành cho học sinh những phẩm chất, những chuẩn mực, hành vi đạo đức cần thiết trong cuộc sống một cách có hệ thống, đúng phương pháp, đúng quy trình. Trường THPT Bùi Thị Xuân, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh là một trong những trường có điểm chuẩn đầu vào cao nhất thành phố, có thành tích xuất sắc trong học tập cũng như các kì thi học sinh giỏi cấp thành phố. Tuy nhiên thành tích này đã tạo áp lực cho cả giáo viên lẫn học sinh, làm cho học sinh mang nặng tư tưởng học chữ hơn học làm người. Trong đợt thực tập sư phạm 2, với vai trò là người giáo viên, tôi cảm thấy rất lo ngại về việc tiếp thu những quan niệm đạo đức, hay nói chính xác hơn là là tiếp thu bài giảng môn GDCD “môn dạy làm người và kĩ năng sống” của các em học sinh. Chính vì thế, để góp phần tìm ra những cách thức, giải pháp nhằm xây dựng và phát triển đạo đức của học sinh, đặc biệt là học sinh THPT, tôi chọn đề tài “Giáo dục đạo đức cho học sinh THPT thông qua dạy học môn GDCD thực trạng và giải pháp (Qua khảo sát tại trường THPT Bùi Thị Xuân, Quận 1, TP. Hồ Chí Minh)” cho khóa luận tốt nghiệp của mình. 2) Tổng quan tình hình nghiên cứu Trong thời đại ngày nay vấn đề đạo đức đang trở thành vấn đề bức thiết cả về lý luận và thực tiễn. Bên cạnh xu hướng phát triển của đời sống kinh tế
- 4 xã hội là những biểu hiện suy thoái về đạo đức, nhất là vấn đề đạo đức học sinh. Việc tìm ra nguyên nhân và giải pháp khắc phục hiện tượng suy thoái đạo đức đã và đang là mối quan tâm của nhiều nhà khoa học. Đã có khá nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến vấn đề đạo đức và giáo dục đạo đức trong nền kinh tế thị trường hiện nay, chẳng hạn như: "Đạo đức mới" Giáo sư Vũ Khiêu chủ biên, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1974; “Đạo đức xã hội ở nước ta hiện nay vấn đề và giải pháp” do GS,VS. Nguyễn Duy Quý (chủ biên), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội (2006). “Đạo đức học mácxít với việc giáo dục đạo đức sinh viên hiện nay ở nước ta” của Dương Văn Duyên, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội (2003); “Hệ thống phạm trù đạo đức học và giáo dục đạo đức cho sinh viên” của PGS, TS Trần Hậu Kiêm TS. Đoàn Đức Hiếu, Nxb Chính trị quốc gia (2004); “Mấy vấn đề đạo đức trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay” do Nguyễn Tr ọng Chuẩn, Nguyễn Văn Phúc (đồng chủ biên), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội (2003). Trên các tạp chí cũng có khá nhiều các bài viết liên quan về sự tác động của kinh tế thị trường đến đạo đức như: "Đôi điều suy nghĩ về giá trị và biến đổi của các giá trị khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường" của Nguyễn Trọng Chuẩn (Tạp chí Triết học, số 11995); "Những nguyên nhân chủ yếu của tình trạng suy thoái đạo đức ở nước ta hiện nay" của Nguyễn Thanh Hà (Tạp chí Triết học, số 32002); "Thực trạng và một số giải pháp giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông" của Phạm Khắc Chương (Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục, số 21997); "Văn hoá và sự phát triển nhân cách thanh niên" của Hoàng Chí Bảo (Nghiên cứu lý luận, số 11995); "Quan hệ giữa đạo đức và kinh tế trong việc định hướng các giá trị đạo đức hiện nay" của Nguyễn Thế Kiệt (Tạp chí Triết học, số 61996); "Vai trò của giáo
- 5 dục đạo đức đối với sự phát triển nhân cách trong cơ chế thị trường" của Nguyễn Văn Phúc (Tạp chí Triết học, số 51996). Một số đề tài luận văn, luận án đã đề cập vấn đề này ở những góc độ khác nhau, như: “Giáo dục đạo đức đối với sự hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam hiện nay”, luận án tiến sỹ Triết học của Trần Sỹ Phán, (1999); “Giáo dục đạo đức cho học sinh THPT ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay”của Phạm Thị Thanh Ngoan, luận văn thạc sỹ chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học (2011); Giáo dục đạo đức cho học sinh THPT trên địa bàn Quận 5, thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Lý luận và phương pháp dạy học Bộ môn Giáo dục chính trị của Nguyễn Thị Định (2014); “Giáo dục đạo đức cho học sinh THPT ở tỉnh Bình Dương hiện nay” của Nguyễn Thị Hằng Nga, luận văn thạc sỹ chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học (2016); … Các công trình nghiên cứu, bài viết nêu trên là cơ sở lý luận và thực tiễn thiết thực để chúng tôi thực hiện đề tài khóa luận của mình. Tuy nhiên, theo tìm hiểu của tác giả thì chưa có công trình nào đề cập một cách trực tiếp, cụ thể đến việc giáo dục đạo đức cho học sinh THPT Bùi Thị Xuân ở TP. Hồ Chí Minh thông qua việc dạy học môn GDCD. 3) Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Khóa luận nghiên cứu vấn đề giáo dục đạo đức cho học sinh THPT. Phạm vi nghiên cứu: Học sinh trường THPT Bùi Thị Xuân, Quận 1, TP. HCM. 4) Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu:
- 6 Mục đích của khóa luận là xác định phương hướng và tìm ra một số giải pháp cơ bản để nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho học sinh THPT nói chung, học sinh trường THPT Bùi Thị Xuân, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng. Nhiệm vụ nghiên cứu: + Thứ nhất, làm rõ những nội dung cơ bản của đạo đức + Thứ hai, phân tích vai trò, ý nghĩa của giáo dục đạo đức cho học sinh THPT, tác động của kinh tế thị trường tới quá trình giáo dục đạo đức cho học sinh THPT hiện nay. +Thứ ba, đánh giá tình hình giáo dục đạo đức cho học sinh ở trường THPT Bùi Thị Xuân, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh . +Thứ tư, đề xuất một số giải pháp cơ bản, khả thi nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục đạo đức cho học sinh phổ thông, đặc biệt là học sinh THPT Bùi Thị Xuân, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh . 5) Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận: Khóa luận dựa trên quan điểm triết học và đạo đức học MácLênin, tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh; quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đạo đức. Phương pháp nghiên cứu: Khóa luận được thực hiện trên cơ sở vận dụng phương pháp luận chung của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, phương pháp logic, phương pháp so sánh, tổng hợp cùng với phương pháp điều tra xã hội học. Ngoài ra khóa luận còn sử dụng phần mềm thống kê và phân tích dữ liệu SPSS và phần mềm xử lý bảng tính excel.
- 7 6) Cấu trúc của khóa luận Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận gồm 3 chương, 10 tiết. Chương 1: TẦM QUAN TRỌNG, NỘI DUNG, YÊU CẦU GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY Chương 2: THỰC TRẠNG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH Ở TRƯỜNG THPT BÙI THỊ XUÂN, QUẬN 1, TP. HỒ CHÍ MINH Chương 3: CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH THÔNG QUA DẠY HỌC MÔN GDCD Ở TRƯỜNG THPT BÙI THỊ XUÂN, QUẬN 1, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH. B. NỘI DUNG Chương 1: TẦM QUAN TRỌNG, NỘI DUNG, YÊU CẦU GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 1.1. Đạo đức và tầm quan trọng của giáo dục đạo đức cho học sinh THPT trong giai đoạn hiện nay 1.1.1. Khái niệm đạo đức Cho đến nay đã có rất nhiều quan niệm, định nghĩa khác nhau về đạo đức. Trong quan niệm thường ngày, người ta thường dùng từ “đạo đức” để nhận xét, đánh giá thái độ, hành vi của mọi người trong xã hội, để chỉ những người có biểu hiện tốt trong quan hệ ứng xử với mọi người xung quanh. Đạo đức là một khái niệm tôn vinh những người có trách nhiệm với công việc với tư cách là một công dân, một thành viên trong gia đình và cộng đồng xã hội,
- 8 thực hiện tốt nghĩa vụ, trách nhiệm được giao phó, góp phần xây dựng cộng đồng, phát triển kinh tế xã hội, thiết lập quan hệ hàng xóm láng giềng. Từ “đạo đức” còn được sử dụng để đánh giá tình cảm, thái độ, hành vi của con người so với những chuẩn mực đạo đức xã hội của mỗi thời kỳ lịch sử. Những người sống theo chuẩn mực xã hội, gương mẫu, tự giác thực hiện các chuẩn mực xã hội, được nhiều người quý mến thì coi là người có đạo đức. Quan niệm đạo đức xét từ phương diện khoa học, trước hết phải kể đến định nghĩa của Từ điển Triết học: “Đạo đức là quy tắc chung trong xã hội và hành vi của con người, quy định những nghĩa vụ của người này đối với người khác và đối với xã hội. Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, trong một xã hội có giai cấp, đạo đức có tính giai cấp. Những hình thức kết cấu xã hội và cơ sở kinh tế biến đổi thì đạo đức cũng biến đổi theo...” Giáo trình Đạo đức học của Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh(2000) định nghĩa: “ Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tổng hợp những nguyên tắc, chuẩn mực xã hội, nhằm điều chỉnh và đánh giá cách cư xử của con người trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội”[16,26]. Trong công trình khoa học có tên Phát triển giáo dục, phát triển con người phục vụ phát triển xã hội kinh tế, Nxb. khoa học Xã hội, Hà Nội, 1996, tác giả Phạm Minh Hạc lý giải khái niệm đạo đức theo hai nghĩa: Theo nghĩa hẹp: Đạo đức là luân lý, những quy định, những chuẩn mực ứng xử trong quan hệ của con người. Nhưng trong điều kiện hiện nay, chính quan hệ con người đã mở rộng và đạo đức bao gồm những qui định, chuẩn mực
- 9 ứng xử của con người với con người, với công việc, với bản thân, với thiên nhiên và môi trường sống. Theo nghĩa rộng: Khái niệm đạo đức có liên quan chặt chẽ với phạm trù chính trị, pháp luật, lối sống. Đạo đức là thành phần cơ bản của nhân cách, phản ánh bộ mặt của nhân cách đã được xã hội hóa. Đạo đức biểu hiện ở đời sống tinh thần lành mạnh, trong sáng, ở hành động góp phần giải quyết hợp lí, có hiệu quả những mâu thuẫn của cuộc sống. Khi thừa nhận đạo đức là một hình thái ý thức xã hội thì đạo đức của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng, mỗi tầng lớp, giai cấp trong xã hội cũng phải phản ánh ý thức chính trị của họ đối với vấn đề đang tồn tại[13, 9]. Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm: “Đạo đức là sự thống nhất trong tư tưởng và phong cách. Người có đạo đức là người biết kính yêu nhân dân, khiêm tốn, thật thà, thắng thắn, có thái độ cầu thị, làm việc chí công vô tư, không kiêu ngạo, không dấu dốt. Ở người, đạo đức đóng vai trò như lẽ sống thấm sâu vào tư tưởng và chỉ đạo hành động, lối sống”[3,46]. Với Hồ Chí Minh, đạo đức là nền tảng và là sức mạnh của người cách mạng, là cái gốc của cây, ngọn nguồn của sông nước. Người quan niệm đạo đức tạo ra sức mạnh, nhân tố quyết định sự thắng lợi của mỗi công việc: “Công việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hay kém”. Quan niệm lấy đức làm gốc của Hồ Chí Minh không có nghĩa là tuyệt đối hóa mặt đức, coi nhẹ mặt tài. Người cho rằng: “Có tài mà không có đức là người vô dụng nhưng có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”. Cho nên, đức là gốc, nhưng đức và tài phải kết hợp với nhau để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng. Theo Hồ Chí Minh, những phẩm chất đạo đức cơ bản của con người Việt Nam trong thời đại mới là: Trung với nước, hiếu với dân; yêu thương con
- 10 người; cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm; tinh thần quốc tế trong sáng. Qua sự phân tích một số quan niệm về đạo đức nêu trên, có thể đi đến một quan niệm khái quát về đạo đức như sau: Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là hệ thống những qui tắc, chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh và đánh giá hành vi, cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và với quan hệ xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội. 1.1.2. Khái niệm giáo dục đạo đức Giáo dục là quá trình tổ chức có ý thức, hướng tới mục đích khơi gợi và biến đổi nhận thức, năng lực, tình cảm, thái độ của cả người dạy và người học theo hướng tích cực. Nghĩa là, hoàn thiện nhân cách của cả thầy và trò bằng những tác động có ý thức từ bên ngoài, đáp ứng các yêu cầu tồn tại và phát triển trong xã hội loài người. Giáo dục theo nghĩa chung nhất, đó là hoạt động nhằm tác động một cách có hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của một đối tượng nào đó, làm cho đối tượng ấy dần dần có được những phẩm chất và năng lực có được như yêu cầu đề ra. Hoạt động này nhằm hướng tới con người thông qua một hệ thống các biện pháp tác động nhằm truyền thụ những tri thức và kinh nghiệm, rèn luyện kĩ năng và lối sống, bồi dưỡng tư tưởng và đạo đức cần thiết cho đối tượng, giúp hình thành và phát triển năng lực, phẩm chất, nhân cách phù hợp với mục đích, mục tiêu chuẩn bị cho đối tượng lựa chọn nghề nghiệp phù hợp với khả năng, điều kiện và hoàn cảnh bản thân. Giáo dục đạo đức là quá trình tác động của nhà trường, gia đình và xã hội đến học sinh, nhằm mục đích hình thành cho học sinh ý thức, tình cảm niềm tin đạo đức và quan trọng nhất là hình thành thói quen, hành vi đạo đức trong
- 11 đời sống xã hội, giúp nhân cách con người phát triển đúng về mặt đạo đức, tạo cơ sở để họ có hành vi ứng xử phù hợp với chuẩn mực đạo đức trong mối quan hệ của cá nhân đối với bản thân, với người khác và xã hội. Kết quả của quá trình giáo dục đạo đức là con người có được các phẩm chất tốt đẹp, bền vững, có bản lĩnh đạo đức để ứng xử đúng trong các mối quan hệ xã hội. Giáo dục đạo đức là những tác động sư phạm có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống của người làm công tác giáo dục đến người được giáo dục nhằm đạt được mục đích cung cấp, bồi dưỡng cho họ những phẩm chất đạo đức phù hợp với yêu cầu của xã hội. Giáo dục đạo đức cho học sinh là hình thành những tri thức như: Khái niệm đạo đức, các phạm trù đạo đức, các chuẩn mực giá trị đạo đức…Đó là cơ sở, là nguồn gốc để học sinh có được những chuẩn mực đạo đức, giúp họ nhận ra chân giá trị của các giá trị đạo đức, thấy được tính nhân bản, nhân văn trong đời sống xã hội do đạo đức mang lại, hình thành trong mỗi học sinh tình cảm đạo đức, biến tri thức đạo đức thành thói quen, tình cảm đạo đức. Tình cảm đạo đức ngấm ngầm trong mỗi học sinh như là máu với thịt, hòa quyện chặt chẽ với nhau để khi bật ra thì đã thành một hành vi thói quen đạo đức. Giáo dục đạo đức còn là lĩnh vực hoạt động đặc thù của nhà trường, trong đó đội ngũ giáo viên nói riêng và nhà trường nói chung, tác động qua lại với học sinh, để giúp họ có được tri thức và tình cảm đạo đức phù hợp với những yêu cầu xã hội. Đây là một trong những nội dung quan trọng h àng đầu của mục tiêu giáo dục. Như vậy, giáo dục đạo đức là quá trình tác động có mục đích, kế hoạch của nhà giáo nhằm trang bị cho học sinh phẩm chất đạo đức, hình thành niềm tin, tình cảm, thói quen, hành vi đạo đức phù hợp với yêu cầu, chuẩn mực của xã hội.
- 12 1.2. Vị trí, vai trò của học sinh THPT đối với sự phát triển đất nước Theo quan điểm của các nhà kinh điển mác xít, học sinh có vai trò, vị trí quan trọng trong sự phát triển của xã hội: “Tương lai của giai cấp công nhân và do đó tương lai của nhân loại hoàn toàn phụ thuộc vào việc giáo dục thế hệ công nhân đang lớn lên” [11,118]. Chủ tịch Hồ Chí Minh là người cộng sản Việt Nam đầu tiên sớm nhận thức đúng vị trí, vai trò của thế hệ trẻ đối với sự nghiệp cách mạng và phát triển đất nước. Bác khẳng định: “Thanh niên là chủ nhân tương lai của nước nhà” [21,375]. “Nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên”[21,18]. Trong những lần dự Đại hội Đoàn toàn quốc, Đại hội Hội sinh viên, khai giảng năm học mới của trường Đại học nhân dân hay là gửi thư cho thanh niên sinh viên Hồ Chí Minh đều căn dặn: Thanh niên sinh viên phải đoàn kết chặt chẽ, luôn trau dồi đạo đức, rèn luyện thể lực, học lý luận kết hợp với thực hành, học tập kết hợp với lao động; học để phụng sự tổ quốc, phụng sự nhân dân, làm cho dân giàu, nước mạnh. Như vậy, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác Lênin cũng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai trò, vị trí của thanh niên học sinh trong đời sống xã hội, trong sự nghiệp cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đồng thời, các ông cũng nhắc nhở những người cộng sản là muốn cho thanh niên hoàn thành được sứ mệnh vẻ vang của mình, thì Đảng Cộng sản phải tổ chức, lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện họ. Trong đó, vấn đề giáo dục đạo đức cho học sinh là nhiệm vụ hàng đầu của công tác giáo dục. Trên nền tảng của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, trong cương lĩnh hoạt động của mình, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi công tác thanh niên học sinh là một trong những nhân tố có ý nghĩa quyết định đến sự thành bại của “cách mạng”. Bởi vậy, việc đoàn kết, tập hợp thanh niên nhằm
- 13 phát huy vị thế, vai trò của thanh niên trong thực tiễn cách mạng Việt Nam luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm, chú ý. Nghị quyết Trung ương 4, khoá VII của Đảng ta khẳng định: Vấn đề thanh niên phải đặt ở vị trí trung tâm trong chiến lược phát huy nhân tố và nguồn lực con người… Sự nghiệp đổi mới có thành công hay không, đất nước bước vào thế kỷ XXI có vị trí xứng đáng trong cộng đồng thế giới hay không, cách mạng Việt Nam có vững bước theo con đường xã hội chủ nghĩa hay không phần lớn tuỳ thuộc vào lực lượng thanh niên, vào việc bồi dưỡng, rèn luyện thế hệ thanh niên [21,51]. Nghị quyết Đại hội IX của Đảng đã xác định nhiệm vụ chung của toàn xã hội đối với thế hệ trẻ là: “Chăm lo giáo dục, bồi dưỡng đào tạo phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, văn hoá, sức khoẻ, nghề nghiệp, giải quyết việc làm, phát triển tài năng và sức sáng tạo, phát huy vai trò xung kích trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [8,126]. Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 7 (khoá X) đã ban hành Nghị quyết số 25NQ/TW “Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá” đã khẳng định vai trò, vị trí của thanh niên sinh viên: thanh niên là tường cột của nước nhà, chủ nhân tương lai của đất nước, là lực lượng xung kích trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, một trong những nhân tố quyết định sự thành bại của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, hội nhập quốc tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thanh niên được đặt vào ở vị trí trung tâm chiến lược bồi dưỡng, phát huy nhân tố và nguồn lực con người. Chăm lo, phát triển thanh niên vừa là mục tiêu, vừa là động lực bảo đảm cho sự ổn định và phát triển vững bền của đất nước. Học sinh nói chung và học sinh THPT nói riêng sẽ là thế hệ tương lai sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là lực lượng tiêu biểu của xã hội đang
- 14 vươn lên khẳng định mình. Khi nói đến vị trí, vai trò của học sinh THPT cần nói đến vai trò xung kích trong học tập, phát huy trí tuệ tài năng và tính tích cực của họ, góp phần mình vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, học sinh THPT cũng là lực lượng trẻ còn thiếu kinh nghiệm sống và bản lĩnh, thiếu hiểu biết về chính trị nên dễ bị các thế lực xấu lôi kéo, kích động dẫn đến mất định hướng. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta cũng như toàn xã hội cần phải quan tâm giáo dục đạo đức để các em trở thành những công dân tốt, những người có ích cho xã hội. 1.3. Vai trò, nội dung của giáo dục đạo đức cho học sinh THPT trong giai đoạn hiện nay 1.3.1. Vai trò của giáo dục đạo đức đối với sự hình thành, phát triển nhân cách cho học sinh trung học phổ thông 1.3.1.1. Đặc điểm tâm sinh lý của học sinh THPT Giáo dục đạo đức có vai trò rất quan trọng đối với sự hình thành, phát triển nhân cách cho học sinh trung học phổ thông. Muốn giáo dục đạo đức đạt hiệu quả thì chúng ta phải biết đặc điểm, tâm sinh lý lứa tuổi học sinh trung học phổ thông. Học sinh trung học phổ thông thuộc lứa tuổi thanh niên. Trong tâm lí học, lứa tuổi thanh niên được định nghĩa là giai đoạn phát triển bắt đầu từ lúc dậy thì cho đến bước vào tuổi trưởng thành . Theo quy định của Luật Giáo dục Việt Nam thì học sinh trung học phổ thông có độ tuổi từ 15 đến 19, theo học từ lớp 10 đến lớp 12, nằm ở giai đoạn đầu của tuổi thanh niên. Lứa tuổi này có những đặc điểm sau: Một là, học sinh trung học phổ thông bước vào thời kỳ đạt được sự trưởng thành về mặt cơ thể. Sự phát triển thể chất đã bước vào thời kỳ phát triển bình thường, hài hòa, cân đối. Cơ thể của thanh niên đã đạt tới mức phát
- 15 triển của người trường thành, nhưng sự phát triển còn kém so với người lớn. Lứa tuổi này có thể làm những việc nặng của người trưởng thành, hoạt động trí tuệ có thể phát triển ở mức cao. Khả năng hưng phấn và ức chế ở vỏ não tăng lên rõ rệt, có thể hình thành mối liên hệ thần kinh tạm thời phức tạp hơn. Tư duy ngôn ngữ và những phẩm chất ý chí có điều kiện phát triển mạnh. Ở độ tuổi này, học sinh dễ bị kích thích và biểu hiện của nó giống như độ tuổi thiếu niên. Tuy nhiên, tính dễ bị kích thích này không phải chỉ do nguyên nhân sinh lý như ở tuổi thiếu niên mà còn do cách sống của cá nhân. Nhìn chung, ở tuổi này học sinh trung học phổ thông có sức khỏe và sức chịu đựng tốt hơn tuổi thiếu niên. Thể chất của học sinh trung học phổ thông đang ở độ tuổi phát triển mạnh mẽ nhất. Sự phát triển thể chất ở lứa tuổi này có ảnh hưởng đến sự phát triển tâm lý và nhân cách, đồng thời nó còn ảnh hưởng tới việc lựa chọn ngành nghề trong tương lai của học sinh. Trong gia đình, học sinh trung học phổ thông đã có nhiều quyền lợi và trách nhiệm như người trưởng thành, cha mẹ bắt đầu trao đổi về một số việc quan trọng trong gia đình. Học sinh cũng thấy được quyền hạn và trách nhiệm của bản thân đối với gia đình, bắt đầu quan tâm chú ý đến nề nếp, lối sinh hoạt và điều kiện kinh tế chính trị của gia đình. Có thể nói rằng học sinh trong độ tuổi này vừa học tập vừa lao động. Ở nhà trường, học tập vẫn là hoạt động chủ đạo nhưng tính chất và mức độ thì phức tạp và cao hơn hẳn so với tuổi thiếu niên, đòi hỏi học sinh tự giác, tích cực độc lập hơn, phải biết cách vận dụng tri thức một cách sáng tạo. Nhà trường lúc này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng vì nội dung học tập không chỉ nhằm trang bị tri thức và hoàn chỉnh tri thức mà còn có tác dụng hình thành thế giới quan và nhân sinh quan cho học sinh[2,77].
- 16 Hai là, xã hội đã giao cho lứa tuổi học sinh trung học phổ thông quyền công dân, quyền tham gia mọi hoạt động bình đẳng như người lớn. Tất cả học sinh đã có suy nghĩ về việc chọn nghề. Khi tham gia vào hoạt động xã hội, học sinh phổ thông được tiếp xúc với nhiều tầng lớp xã hội khác nhau, quan hệ xã hội được mở rộng, có dịp hòa nhập vào cuộc sống đa dạng, phức tạp của xã hội, giúp học sinh tích lũy vốn kinh nghiệm sống để chuẩn bị cho cuộc sống tự lập sau này. Lứa tuổi học sinh trung học phổ thông là giai đoạn quan trọng trong việc phát triển trí tuệ. Do cơ thể học sinh phát triển hoàn chỉnh, đặc biệt là hệ thần kinh phát triển mạnh tạo điều kiện cho sự phát triển các năng lực của học sinh. Cảm giác và tri giác của học sinh đã đạt tới mức độ của người trưởng thành. Quá trình quan sát gắn liền với tư duy và ngôn ngữ. Khả năng quan sát một phẩm chất cá nhân cũng bắt đầu phát triển ở học sinh phổ thông. Tuy nhiên, sự quan sát ở lứa tuổi này thường phân tán, chưa tập trung cao vào một nhiệm vụ nhất định, trong khi quan sát một số đối tượng vẫn còn mang tính đại khá, phiến diện, thiếu khoa học. Đây cũng là lứa tuổi có những hạn chế nhất định. Thứ nhất, tâm lý không thích nghe, không thích bàn luận đến các vấn đề chính trị mà thiên về những vấn đề tình bạn, tình yêu, văn hóa, nghệ thuật, do đó chính trị ít được quan tâm. Thứ hai, vì chưa trải qua các hoạt động thực tiễn trong sản xuất, chiến đấu, kinh nghiệm sống, vốn sống chưa đủ nên dễ mơ hồ về chính trị. Sự chưa từng trải này nguy hiểm ở chỗ là dễ bị các thế lực chính trị xấu lôi cuốn thông qua các hình thức hoạt động khác... Do có sức sống dồi dào, có nguyện vọng muốn được thử sức mình nhưng lại chưa đủ kinh nghiệm sống và không phải mọi mục tiêu đặt ra đều được ý thức rõ ràng, cho nên đôi khi trong thâm tâm học sinh không thấy thỏa mãn, họ
- 17 dễ thay đổi mục tiêu đã đề ra. Họ thường quan tâm tới bản thân và nhân cách của mình nên càng đề cao mình quá mức, và trong mọi hoạt động họ đều muốn thử sức, muốn bộc lộ khả năng của mình và nhiều khi không phân biệt hoạt động đó là xấu, là tốt thế nào. Những đặc điểm này dẫn đến dễ ngả nghiêng trước những bước ngoặt, trước những vấn đề phức tạp của cuộc sống, dẫn đến những hành động bộc phát trái với pháp luật, trái với đạo đức, với những tiêu chuẩn hành vi đã được xã hội chấp nhận, nhất là trong lối sống, nếp sống. Bác Hồ đã nêu rõ trong bức thư gửi thanh niên: Nói tóm lại: ưu điểm của thanh niên ta là hăng hái, giàu tinh thần xung phong; khuyết điểm là: ham chuộng hình thức, thiếu thực tế, bệnh cá nhân, bệnh "anh hùng". Nhìn chung, tư duy của học sinh trung học phổ thông phát triển mạnh, hoạt động trí tuệ linh hoạt và nhạy bén hơn. Học sinh có khả năng phán đoán và giải quyết vấn đề rất nhanh. Tuy nhiên, bên cạnh đó một số học sinh vẫn còn nhược điểm là chưa phát huy hết năng lực độc lập suy nghĩ của bản than, còn kết luận vội vàng theo cảm tính. Vì vậy, giáo viên cần hướng dẫn, giúp đỡ học sinh tư duy một cách tích cực độc lập để phân tích đánh giá sự việc và tự rút ra kết luận cuối cùng. Hiểu rõ vị trí và ý nghĩa của giai đoạn phát triển tâm sinh lý của học sinh trung học phổ thông, thầy cô giáo chọn lựa và sử dụng phương pháp giáo dục đạo đức phù hợp giúp học sinh phát triển hoàn thiện nhân cách. 1.3.1.2. Sự cần thiết của việc giáo dục đạo đức cho học sinh THPT trong giai đoạn hiện nay Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tổng hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mục đạo đức hướng dẫn con người điều chỉnh hành vi trong quan
- 18 hệ giữa con người với con người, giữa con người với xã hội nhằm đạt cái “chân, thiện, mỹ”. Trong điều kiện nước ta, việc tiến hành quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã và đang dẫn đến những tác động vừa tích cực, vừa tiêu cực. Mặt tích cực của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, giải quyết tình trạng công nghệ lạc hậu như hiện nay dẫn đến năng xuất lao động tăng, làm cho tổng sản phẩm xã hội tăng lên và do vậy có điều kiện nâng cao phúc lợi cho nhân dân. Hơn nữa, chính sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn đến sự mở rộng lao động xã hội, góp phần giải quyết tình trạng thiếu việc làm, tăng năng lực sản xuất, làm cho nền kinh tế hàng hóa phát triển, tạo điều kiện mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế và tiếp thu thành tựu văn minh nhân loại. Sự phát triển kinh tế do quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa mang lại sẽ là nhân tố quan trọng đảm bảo sự ổn định chính trị, tạo điều kiện cho kinh tế phát triển. Nó làm cho mối quan hệ giữa các ngành, các lĩnh vực và các vùng tăng lên. Những thành tựu trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa sẽ góp phần quan trọng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, tạo điều kiện cho việc mở mang dân trí, nâng cao nhận thức, phát triển văn hóa, cũng cố truyền thống yêu nước và lòng tự hào dân tộc, tăng thêm niềm tin vào chế độ xã hội. Như vậy, công nghiệp hóa, hiện đại hóa có tác dụng to lớn trên nhiều lĩnh vực đời sống xã hội, từ kinh tế, văn hóa tư tưởng đến an ninh quốc phòng . Tuy nhiên, thực tế cho thấy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng phá vỡ cân bằng giữa xã hội và tự nhiên, giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội. Chúng ta đều biết hành vi của con người tuân theo hệ thống quy tắc xã hội đặt ra. Có những người tuân thủ nó do nhập tâm, do ý thức được các giá trị
- 19 đạo đức, các chuẩn mực xã hội. Có người tuân thủ vì xung quanh họ có những cơ chế “kiểm soát xã hội” mạnh mẽ như gia đình, họ hàn g, hàng xóm, luật lệ. Thế nhưng khi xã hội chuyển biến dồn dập, quá trình công nghiệp hóa, hiện đạo hóa, đô thị hóa nhanh chóng làm cho hệ thống quy tắc bị phá vỡ. Lúc đó, phải trái, trắng đen không còn rạch ròi. Trong hoàn cảnh như vậy, con người dễ thờ ơ trước cái thiện, dửng dưng trước cái ác. Chính điều đó đã tạo điều kiện cho cái ác, cái bất lương phát triển. Lối sống thực dụng, cá nhân ích kỷ đã làm cho tình trạng tham nhũng , buôn lậu lừa đảo trong sản xuất, kinh doanh ngày càng có đà sinh sôi, nảy nở. Chính tâm lí sống gấp, sống hưởng thụ đã làm cho nhiều người sa vào các tệ nạn xã hội. Thậm chí một bô phận không nhỏ bị tha hóa bởi đồng tiền, vì những hưởng thụ vật chất mà hành động mù quáng. Ngày nay, khi những tiến bộ khoa học công nghệ đã đạt tới mức vượt ra ngoài sự tưởng tượng của không ít người thì cùng với điều đó, sự biến động của xã hội cũng mạnh mẽ và nhanh chóng đến mức không có vận hội nào mà không đi kèm nguy cơ. Có thể thấy rõ bên cạnh giá trị văn minh to lớn mà con người được hưởng, những hiểm họa cũng đang rình rập thường trực đối với con người và nhiều quốc gia, nhất là các quốc gia nghèo đói, chậm phát triển. Nhiều nhà nghiên cứu đã thận trọng cho rằng,: chỉ riêng sự tăng trưởng và phát triển kinh tế , chỉ riêng công nghiệp hóa, hiện đại hóa bộ mặt xã hội , thì đời sống xã hội chưa chắc được đảm bảo trở nên lành mạnh hơn, văn minh hơn. Song nếu không tiến hành quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa hoặc nếu người ta thờ ơ với nó thì chắc chắn xã hội không thể đạt tới sự phát triển và tiến bộ. Cho nên vấn đề đặt ra là công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải thực hiệ một cách đồng bộ với việc giải quyết các vấn đề xã hội. Nói cách khác,
- 20 xã hội muốn có hạnh phúc thì công bằng xã hội phải là bạn đồng hành với sự tiến triển của văn minh. Đường lối phát triển đất nước của Đảng ta đã xác định mục tiêu vì con người, vì công bằng xã hội, vì độc lập dân tộc. Có điều phải làm sao cho những mục tiêu trên không chỉ duy trì ở khẩu hiệu mà còn phải biến thành chính sách, cơ chế, chỉ tiêu... nghĩa là các biện pháp cụ thể lồng ghép các kế hoạch phát triển. Mặt khác phải làm cho toàn dân khi xưa sẵn sàng hi sinh tất cả vì độc lập dân tộc thì ngày nay từng nhà, từng người hãnh diện chọn lối sống giản dị, tiết kiệm, công bằng, chan hòa với cộng đồng. Làm sao cho toàn dân, toàn xã hội ý thức về độc lập và bản sắc dân tộc không chỉ bằng khẩu hiệu mà trong lựa chọn cụ thể cách ăn mặc, học hành tới vui chơi giải trí. Làm sao để từng người biết đau lòng trước những hoàn cảnh khó khăn, hoạn nạn, phẫn nộ với những hành vi sai trái. Làm sao để tất cả mọi người, mọi tầng lớp ý thức được rằng: Phát triển không chỉ nhằm vào đời sống vật chất cao mà để mọi người sống trong sự chan hòa, yêu thương nhau. Cùng với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa để phát triển đất nước, chúng ta cần nhận thức được rằng: giá trị và giá trị đạo đức luôn là vấn đề có ý nghĩa đối với bất kì xã hội nào, thời đại nào. Chẳng phải ngẫu nhiên mà cái nhìn đạo đức là cái nhìn của toàn xã hội. Trong nền văn minh hiện đại, việc đánh giá trình độ tiến bộ của các hiện tượng xã hội, trên thực tế vẫn rất cần sự tham gia của các tiêu chuẩn đạo đức. Có thể nói rằng, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa sẽ đem lại những nhân tố mới cho việc làm sâu sắc thêm, phong phú thêm những giá trị truyền thống, đồng thời cũng gây ra những xáo trộn, những thay đổi trong lối sống, những quan niệm chuẩn mực đạo đức xã hội. Vấn đề là làm sao để thực hiện thành công công nghiệp hóa, hiện đại
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Khóa luận tốt nghiệp Giáo dục mầm non: Thiết kế một số trò chơi học tập nhằm phát triển vốn từ cho trẻ mẫu giáo 4 – 5 tuổi
109 p | 1218 | 151
-
Khóa luận tốt nghiệp Giáo dục tiểu học: Xây dựng bài tập đọc hiểu có ứng dụng công nghệ thông tin cho HS lớp 1 mắc chứng khó đọc
116 p | 742 | 99
-
Khóa luận tốt nghiệp Giáo dục tiểu học: Xây dựng hệ thống bài tập mở rộng vốn từ cho học sinh lớp 1 mắc chứng khó đọc
114 p | 554 | 81
-
Khóa luận tốt nghiệp Giáo dục mầm non: Ứng dụng công nghệ thông tin vào việc xây dựng bài tập nhằm củng cố một số kỹ năng sống cần thiết cho trẻ 5 - 6 tuổi
234 p | 310 | 71
-
Khóa luận Tốt nghiệp Giáo dục tiểu học: Một nghiên cứu về dạy – học diện tích đa giác phẳng
84 p | 547 | 69
-
Khóa luận tốt nghiệp Giáo dục mầm non: Thiết kế 100 sản phẩm tạo hình về loài bướm nhằm phát triển tính sáng tạo trong hoạt động tạo hình cho trẻ 5 – 6 tuổi
102 p | 561 | 67
-
Khóa luận tốt nghiệp Giáo dục mầm non: Một số hình thức tổ chức các hoạt động nhằm đưa dân ca đến với trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi
98 p | 263 | 54
-
Báo cáo khóa luận tốt nghiệp: Một số giải pháp nhằm giúp cho học sinh, sinh viên trường Cao đẳng Cần Thơ học tập tốt và yêu thích môn học Giáo dục quốc phòng an ninh
24 p | 295 | 45
-
Báo cáo khóa luận tốt nghiệp: Một số giải pháp nhằm giúp cho học sinh, sinh viên trường Cao Đẳng Cần Thơ học tập tốt và yêu thích môn học Giáo dục quốc phòng, an ninh - Bùi Thanh Sang
24 p | 246 | 39
-
Khoá luận tốt nghiệp Giáo dục tiểu học: Xây dựng hệ thống học liệu phục vụ dạy học chủ đề thực vật và động vật trong chương trình khoa học lớp 4
87 p | 76 | 32
-
Khóa luận tốt nghiệp: Xây dựng hệ thống câu hỏi trắc nghiệm khách quan nhiều lựa chọn nhiệt học phần "Thuyết động học phân tử của vật chất"
140 p | 195 | 30
-
Khóa luận tốt nghiệp Giáo dục Tiểu học: Giá trị của truyện dân gian nước ngoài với học sinh Tiểu học
104 p | 99 | 24
-
Khóa luận tốt nghiệp Thông tin thư viện: Nghiên cứu nhu cầu đọc và công tác giáo dục nhu cầu đọc của học sinh tiểu học
96 p | 62 | 18
-
Khóa luận tốt nghiệp Giáo dục Tiểu học: Thiết kế một số dự án học tập môn Khoa học 4 ở tiểu học (Chương trình giáo dục phổ thông môn Khoa học 2018)
138 p | 98 | 17
-
Khóa luận tốt nghiệp Giáo dục tiểu học: Bệnh răng miệng và tích hợp giáo dục sức khỏe răng miệng cho học sinh tiểu học
92 p | 55 | 16
-
Khóa luận tốt nghiệp Giáo dục tiểu học: Bệnh béo phì và tích hợp giáo dục sức khỏe phòng chống bệnh béo phì cho học sinh Tiểu học
100 p | 60 | 16
-
Khóa luận tốt nghiệp: Phân tích công việc tại Công ty Cổ phần Đầu tư Giáo dục và phát triển công nghệ quốc tế Langmaster
64 p | 11 | 8
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn