intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Khóa luận tốt nghiệp: Kháng nghị giám đốc thẩm trong tố tụng hành chính ở Việt Nam

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:87

3
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của khóa luận nhằm xây dựng hệ thống lý luận cơ bản về kháng nghị giám đốc thẩm, tiến hành nghiên cứu các quy định của pháp luật, thực tiễn thực hiện các quy định về kháng nghị giám đốc thẩm trong tố tụng hành chính và kiến nghị các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng kháng nghị giám đốc thẩm trong tố tụng hành chính ở Việt Nam.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Khóa luận tốt nghiệp: Kháng nghị giám đốc thẩm trong tố tụng hành chính ở Việt Nam

  1. BỘ NỘI VỤ HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP KHÁNG NGHỊ GIÁM ĐỐC THẨM TRONG TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH Ở VIỆT NAM Họ và tên tác giả : Nguyễn Ngọc Hiếu Hệ đào tạo : Đại học chính quy Khóa học : 2020 - 2024 Lớp : 2005LHOB Mã sinh viên : 2005LHOB027 HÀ NỘI - NĂM 2024
  2. BỘ NỘI VỤ HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP KHÁNG NGHỊ GIÁM ĐỐC THẨM TRONG TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH Ở VIỆT NAM Họ và tên tác giả : Nguyễn Ngọc Hiếu Ngƣời hƣớng dẫn : Thạc sĩ Nguyễn Thị Hƣơng Hệ đào tạo : Đại học chính quy Khóa học : 2020 – 2024 Lớp : 2005LHOB Mã sinh viên : 2005LHOB027 HÀ NỘI - NĂM 2024
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi cam đoan: Khóa luận tốt nghiệp này là kết của nghiên cứu của tôi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của Thạc sĩ Nguyễn Thị Hương, đảm bảo tính trung thực và tuân thủ các quy định về trích dẫn, chú thích tài liệu tham khảo. Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về lời cam đoan này. Tác giả Nguyễn Ngọc Hiếu
  4. DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT GCN Giấy chứng nhận HĐXX Hội đồng xét xử TAND Tòa án nhân dân TANDCC Tòa án nhân dân cấp cao TANDTC Tòa án nhân dân tối cao TTDS Tố tụng dân sự TTHC Tố tụng hành chính TTHS Tố tụng hình sự THCS Trung học cơ sở UBND Ủy ban nhân dân UBTVQH Ủy ban Thường vụ Quốc hội VAHC Vụ án hành chính VKSNDCC Viện kiểm sát nhân dân cấp cao VKSNDTC Viện kiểm sát nhân dân tối cao
  5. MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 1 CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ KHÁNG NGHỊ GIÁM ĐỐC THẨM TRONG TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH VIỆT NAM................................... 7 1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa kháng nghị giám đốc thẩm trong tố tụng hành chính ở Việt Nam ....................................................................................... 7 1.1.1. Khái niệm ................................................................................................ 7 1.1.2. Đặc điểm ............................................................................................... 10 1.1.3. Ý nghĩa................................................................................................... 13 1.2. Kháng nghị giám đốc thẩm theo quy định của pháp luật tố tụng hành chính Việt Nam .................................................................................................. 17 1.2.1. Đối tượng của kháng nghị giám đốc thẩm ............................................ 18 1.2.2. Căn cứ, điều kiện kháng nghị giám đốc thẩm ....................................... 21 1.2.3. Chủ thể có thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm .............................. 28 1.2.4. Thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm .................................................... 29 1.2.5. Trình tự, thủ tục kháng nghị giám đốc thẩm ......................................... 30 1.2.6. Thay đổi, bổ sung, rút kháng nghị giám đốc thẩm................................ 32 CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN KHÁNG NGHỊ GIÁM ĐỐC THẨM TRONG TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH Ở VIỆT NAM ............................ 35 2.1. Những kết quả đã đạt đƣợc trong thực tiễn thực hiện quy định của pháp luật tố tụng hành chính Việt Nam về kháng nghị giám đốc thẩm ...... 35 2.2. Những khó khăn trong thực tiễn thực hiện quy định của pháp luật tố tụng hành chính Việt Nam về kháng nghị giám đốc thẩm ............................ 41 2.3. Nguyên nhân của những khó khăn trong thực tiễn thực hiện quy định của pháp luật tố tụng hành chính Việt Nam về kháng nghị giám đốc thẩm 46 2.3.1. Nguyên nhân pháp lý ............................................................................ 46 2.3.2. Nguyên nhân khác ................................................................................. 54 CHƢƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO KHÁNG NGHỊ THEO THỦ TỤC GIÁM ĐỐC THẨM TRONG TỐ
  6. TỤNG HÀNH CHÍNH VIỆT NAM .................................................................... 60 3.1. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về kháng nghị giám đốc thẩm trong tố tụng hành chính Việt Nam ................................................................. 60 3.2. Giải pháp nâng cao kháng nghị giám đốc thẩm trong tố tụng hành chính tại Việt Nam ............................................................................................. 67 KẾT LUẬN ............................................................................................................ 74 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................. 76
  7. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong những năm qua, sự khó khăn chung của nền kinh tế thế giới, tác động của biến đổi khí hậu hay dịch bệnh Covid-19 và nhiều khó khăn khác đã tạo ra không ít những cản trở cho sự phát triển của nước ta song nhờ sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của Đảng và Nhà nước cùng với sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, vượt qua những khó khăn Việt Nam đã và đang vươn lên một cách mạnh mẽ, những thành tựu to lớn trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội đạt được ngày càng nhiều. Hòa mình vào sự vươn lên của đất nước, nền tư pháp nước nhà thời gian qua cũng đã đạt được nhiều thành tích quan trọng góp phần không nhỏ vào sự phát triển chung của đất nước, đáp ứng phần nào mục tiêu xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Với việc đẩy mạnh thực hiện nâng cao chất lượng hoạt động tư pháp, tăng cường trách nhiệm của các cơ quan tư pháp mà đặc biệt là Tòa án và Viện kiểm sát, Đảng và Nhà nước đã từng bước đem lại bộ mặt mới hoàn thiện hơn, toàn diện hơn cho nền tư pháp nước nhà. Bên cạnh đó; những năm qua, cán bộ, các công chức trong ngành tư pháp đã không ngừng nỗ lực trong việc bảo đảm pháp luật được thực hiện hiệu quả, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa, quyền và lợi ích hợp pháp của các cơ quan, tổ chức, cá nhân. Song, với sự phát triển của xã hội, yêu cầu đặt ra cho hệ thống cơ quan tư pháp ngày càng nhiều và phức tạp hơn trong khi nguồn nhân lực, tài lực, vật lực của hệ thống cơ quan này phần nào còn hạn chế, do vậy mà khó tránh khỏi những sai sót trong quá trình công tác. Đặc biệt phải kể đến những sai lầm trong các bản án, quyết định của Tòa án, sai phạm trong quá trình xét xử các vụ án, bởi xét xử là hoạt động trực tiếp bảo vệ công lý, có ý vô cùng nghĩa lớn lao và luôn là hoạt động mà người dân đặt trọn niềm tin với mong muốn quyền và lợi ích hợp pháp của mình được bảo đảm. Bất kỳ sai phạm nào trong quá trình xét xử đều có thể dẫn đến những hậu quả khôn lường, xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của các cơ quan, tổ chức, cá nhân. Để có thể kịp thời xem xét, phát hiện và sửa chữa những sai phạm trong bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, chế định giám đốc thẩm đã được đặt ra và tiền đề để thực hiện hoạt động giám đốc thẩm là kháng nghị giám đốc thẩm. Với vai trò là phương thức góp phần bảo đảm tính đúng đắn của bản án, quyết định của Tòa án, giúp Tòa án cấp trên tổng kết, rút kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn Tòa án cấp dưới áp dụng thống nhất pháp luật, bảo vệ quyền 1
  8. và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân, củng cố niềm tin của người dân vào hoạt động xét xử của Tòa án, công tác này đã và đang được quan tâm thực hiện trong thời gian qua. Qua thực tiễn thực hiện công tác kháng nghị giám đốc thẩm vụ án hành chính hiện nay, có thể nhận thấy phần nào công tác này vẫn còn những hạn chế và vướng mắc. Về mặt quy định pháp luật, hiện nay quy văn bản hướng dẫn chi tiết về căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm; cách quy định về thay đổi, bổ sung, rút kháng nghị giám đốc thẩm trong Luật Tố tụng hành chính hiện hành chưa rõ ràng. Những điều này đã tạo ra không ít khó khăn cho quá trình áp dụng pháp luật và phần nào làm giảm tính hiệu quả của hoạt động kháng nghị giám đốc thẩm trong tố tụng hành chính. Về mặt thực tiễn, không quá khó để tìm ra những bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án có sai lầm, có vi phạm nhưng chưa được kịp thời phát hiện, sửa chữa; những quyết định kháng nghị giám đốc thẩm không đạt yêu cầu, thiếu căn cứ, căn cứ kháng nghị thiếu rõ ràng, không chính xác dẫn đến vẫn còn một tỷ lệ quyết định kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm nhất định không được Hội đồng giám đốc thẩm chấp nhận. Có thể thấy, mặc dù kháng nghị giám đốc thẩm là một chế định pháp luật có vai trò hết sức quan trọng, song thực tiễn thực hiện và áp dụng quy định của pháp luật về kháng nghị giám đốc thẩm còn tồn tại nhiều bất cập, khó khăn. Xuất phát từ nhu cầu cấp thiết của thực tiễn, với mục đích nâng cao chất lượng hoạt động giám sát, khắc phục sai lầm trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án, đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của người tham gia tố tụng, việc nghiên cứu về kháng nghị giám đốc thẩm trong tố tụng hành chính là một yêu cầu cấp thiết, phù hợp với yêu cầu mà cải cách tư pháp ở Việt Nam đặt ra. Do đó, tác giả lựa chọn đề tài “Kháng nghị giám đốc thẩm trong tố tụng hành chính ở Việt Nam” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình, đề tài sẽ nêu lên các vấn đề còn tồn tại của pháp luật và thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật hiện nay về kháng nghị giám đốc thẩm trong Luật Tố tụng hành chính và từ đó tác giả đưa ra một số quan điểm, kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện hơn các quy định của pháp luật về kháng nghị giám đốc thẩm trong tố tụng hành chính. 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu Vì tính chất đặc thù của thủ tục giám đốc thẩm là hoạt động xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án, hiện nay đã có không ít công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề này. Phần lớn, các công trình hiện nay mới chỉ nghiên cứu khái quát 2
  9. về các vấn đề liên quan đến kháng nghị giám đốc thẩm mà chưa có một công trình nào thực hiện nghiên cứu một cách toàn diện và đầy đủ về kháng nghị giám đốc thẩm trong Tố tụng hành chính. Song, trên cơ sở nghiên cứu đã có từ trước, có thể dùng để tham khảo một số vấn đề trong đó có thể kể đến các tác phẩm tiêu biểu như sau:  Giáo trình, sách chuyên khảo: Trường Đại học Luật Hà Nội (2019), Giáo trình Luật Tố tụng hành chính Việt Nam, sửa đổi bổ sung, Hoàng Văn Sao chủ biên, Nxb. Công an nhân dân: Giáo trình đã có giá trị tham khảo vấn đề lý thuyết về kháng nghị giám đốc thẩm trong tố tụng hành chính như: thủ tục kháng nghị, thẩm quyền của Hội đồng xét xử,… và phân tích các quy định của Luật Tố tụng hành chính 2015. Giáo trình có giá trị tham khảo về mặt lý luận về quy trình, thủ tục kháng nghị giám đốc thẩm trong tố tụng hành chính. Nguyễn Cảnh Hợp (2017), Bình luận và giải thích Luật Tố tụng hành chính năm 2015, Nxb. Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam. Tác phẩm có một chủ đề với tên gọi là “Thủ tục giám đốc thẩm vụ án hành chính” phân tích chi tiết các quy định về giám đốc thẩm bao gồm hoạt động kháng nghị. Bên cạnh đó, tác giả vừa giải thích vừa đưa ra bình luận, so sánh với các điều của Luật Tố tụng hành chính năm 2010 liên quan đến thủ tục giám đốc thẩm, cung cấp nhiều thông tin bổ ích cho việc nghiên cứu. Tác phẩm có giá trị tham khảo chính về những kiến thức cơ bản về kháng nghị giám đốc thẩm trong tố tụng hành chính  Tạp chí khoa học: Lê Thị Mơ (2023), “Bất cập trong quy định của Luật Tố tụng hành chính về thay đổi, bổ sung, rút kháng nghị giám đốc thẩm và kiến nghị hoàn thiện”, Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử. Bài viết đưa tới độc giả những kiến thức tổng quan về quy định thay đổi, bổ sung, rút kháng nghị giám đốc thẩm của Luật Tố tụng hành chính. Từ đó, tác giả chỉ ra một số bất cập, hạn chế còn tồn tại trong quy định của pháp luật về việc thay đổi, bổ sung, rút kháng nghị giám đốc thẩm trong Luật Tố tụng hành chính như: chưa quy định về thời điểm mà chủ thể đã kháng nghị giám đốc thẩm được quyền thay đổi, bổ sung kháng nghị; quy định về rút kháng nghị giám đốc thẩm tại khoản 2 Điều 265 Luật Tố tụng hành chính 2015 cũng chưa toàn diện, thiếu rõ ràng; chưa có quy định về thời hạn cũng như việc bắt buộc Tòa án giám đốc thẩm phải gửi quyết định đình chỉ xét xử giám đốc thẩm cho các chủ thể có liên quan và Viện kiểm sát cùng cấp. Từ đó, tác giả đưa ra một số giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về thay đổi, bổ sung, rút kháng nghị giám 3
  10. đốc thẩm. Trần Thị Quỳnh (2022), “Luật Tố tụng Hành chính 2015, một số vướng mắc và kiến nghị sửa đổi”, Tạp chí Tòa án nhân dân. Bài viết này đã cung cấp những quy định liên quan về thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm theo quy định của Luật Tố tụng hành chính. Bên cạnh đó, tác giả đưa ra một số quan điểm khác nhau về thẩm quyền kháng nghị và thẩm quyền giám đốc thẩm đối với các bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án cấp tỉnh, Tòa án cấp huyện có hiệu lực pháp luật nhưng vụ án lại có Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm. Từ đó, tác giả nêu quan điểm giải thích và kiến nghị hoàn thiện quy định tại Khoản 2 Điều 260 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 theo hướng quy định rõ Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao có thẩm quyền kháng nghị đối với các Bản án, quyết định sơ thẩm có hiệu lực của Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án nhân dân cấp tỉnh thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ mà có Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm.  Khóa luận Võ Văn Sơn Thất (2014), Kháng nghị giám đốc thẩm vụ án hành chính, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh: khóa luận đã trình bày các vấn đề lý luận chung về kháng nghị giám đốc thẩm vụ án hành chính, bên cạnh đó tác giả đã so sánh các quy định về kháng nghị giám đốc thẩm trong tố tụng hành chính với các quy định về cùng vấn đề này trong tố tụng dân sự. Thêm vào đó, tác giả đã phân tích những quy định pháp luật của Luật Tố tụng hành chính năm 2010 và thực tiễn áp dụng để chỉ ra các bất cập còn tồn tại trong kháng nghị giám đốc thẩm vụ án hành chính. Qua đó, tác giả các đưa ra các kiến nghị với mong muốn góp phần hoàn thiện quy định pháp luật về kháng nghị giám đốc thẩm trong tố tụng hành chính. 3. Mục đích nghiên cứu đề tài Mục đích nghiên cứu của khóa luận nhằm xây dựng hệ thống lý luận cơ bản về kháng nghị giám đốc thẩm, tiến hành nghiên cứu các quy định của pháp luật, thực tiễn thực hiện các quy định về kháng nghị giám đốc thẩm trong tố tụng hành chính và kiến nghị các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng kháng nghị giám đốc thẩm trong tố tụng hành chính ở Việt Nam. Trong đó, mục đích cơ bản của khóa luận là chỉ ra một số ưu điểm, những hạn chế của Luật Tố tụng hành chính năm 2015 chưa giải quyết được về chế định kháng nghị giám đốc thẩm. Ngoài ra, kiến nghị các giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng thời nâng cao chất lượng công tác kháng nghị giám đốc thẩm. 4
  11. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu  Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của khóa luận tập trung vào các quy định của Luật Tố tụng hành chính Việt Nam, thực tiễn thi hành. Từ đó, tác giả nêu lên quan điểm, ý kiến và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện hơn nữa các quy định pháp luật về kháng nghị giám đốc thẩm trong tố tụng hành chính.  Phạm vi nghiên cứu Khóa luận tập trung vào các quy định của Luật Tố tụng hành chính năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2019 (sau đây gọi là Luật Tố tụng hành chính năm 2015). Trong khuôn khổ của khóa luận, trên cơ sở xây dựng khái niệm về kháng nghị giám đốc thẩm, tác giả tập trung nghiên cứu, phân tích và đánh giá một cách toàn diện quy định của pháp luật cũng như thực tiễn áp dụng quy định về kháng nghị giám đốc thẩm trong tố tụng hành chính. Thông qua đó, tác giả chỉ ra một số nguyên nhân của những hạn chế còn tồn tại gồm có nguyên nhân về mặt pháp lý và nguyên nhân về mặt thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật Tố tụng hành chính về kháng nghị giám đốc thẩm. Thêm vào đó, tác giả đưa ra phương hướng, giải pháp về mặt pháp lý, thực tiễn để góp phần hoàn thiện những quy định pháp luật về kháng nghị giám đốc thẩm. Đề tài không nghiên cứu chuyên sâu các vấn đề liên quan đến tạm hoãn thi hành án khi thực hiện kháng nghị giám đốc thẩm. 5. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp phân tích: Phương pháp này được sử dụng phổ biến ở Chương 1 “Một số vấn đề cơ bản về kháng nghị giám đốc thẩm trong tố tụng hành chính Việt Nam” để trình bày và làm rõ những luận điểm nêu ra trong khóa luận, giải thích các vấn đề lý luận, các quy định pháp luật liên quan đến hoạt động kháng nghị giám đốc thẩm. Ngoài ra, phương pháp này cũng được tác giả sử dụng ở Chương 2 của khóa luận trong việc phân tích thực tiễn xét xử của Tòa án. Phương pháp tổng hợp: phương pháp này được tác giả sử dụng nhằm tập hợp tất cả các tài liệu đã thu thập được để hoàn thành đề tài. Đồng thời, tác giả sử dụng để đúc kết lại các vấn đề đã trình bày, qua đó nêu lên quan điểm của cá nhân mình trong việc góp phần hoàn thiện hơn nữa các quy định của pháp luật. Phương pháp so sánh luật học: được sử dụng nhằm để chỉ ra được những sửa đổi, bổ sung của pháp luật tố tụng hành chính hiện hành về chế định kháng nghị giám đốc 5
  12. thẩm tham chiếu với các quy định được ban hành trước đây. Phương pháp thống kê: tác giả sử dụng phương pháp này chủ yếu tại Chương 2 của công trình nhằm đưa ra các số liệu chi tiết liên quan đến công tác kháng nghị giám đốc thẩm trong 05 năm gần nhất như số vụ án có kháng nghị giám đốc thẩm, số kháng nghị được chấp nhận và không được chấp nhận. Qua số liệu đó, tác giả đưa ra những minh chứng cụ thể về thực tiễn thực hiện công tác kháng nghị giám đốc thẩm, qua đó rút ra những thành tựu và hạn chế trong công tác kháng nghị giám đốc thẩm qua từng năm. Phương pháp nghiên cứu vụ án điển hình: với việc sử dụng phương pháp này, tác giả cung cấp những minh chứng cụ thể trong thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về kháng nghị giám đốc thẩm. Đồng thời, làm tăng thêm tính thuyết phục cho các vấn đề lý luận, số liệu mà tác giả đưa ra. 6. Bố cục tổng quát của khóa luận Bên cạnh phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận tốt nghiệp này gồm có ba chương: Chương 1. Một số vấn đề cơ bản về kháng nghị giám đốc thẩm trong tố tụng hành chính Việt Nam. Chương 2. Thực tiễn thực hiện quy định của pháp luật tố tụng hành chính Việt Nam về kháng nghị giám đốc thẩm. Chương 3. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả kháng nghị giám đốc thẩm trong tố tụng hành chính Việt Nam. 6
  13. CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ KHÁNG NGHỊ GIÁM ĐỐC THẨM TRONG TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH VIỆT NAM 1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa kháng nghị giám đốc thẩm trong tố tụng hành chính ở Việt Nam 1.1.1. Khái niệm Kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm trong TTHC là một nội dung quan trọng, đây là hoạt động có tính chuyên biệt của một số chủ thể đặc biệt được Nhà nước trao quyền. Thuật ngữ “kháng nghị giám đốc thẩm” đã xuất hiện rất nhiều trong các diễn đàn khoa học pháp lý, tuy nhiên không phải ai cũng thật sự nắm chắc được đầy đủ nội hàm của khái niệm này. Do đó, việc hiểu chính xác và đầy đủ khái niệm kháng nghị giám đốc thẩm là hết sức cần thiết, có ý nghĩa rất quan trọng trong khoa học nghiên cứu về kháng nghị giám đốc thẩm trong TTHC ở Việt Nam. Để đảm bảo được tính logic, toàn diện và dễ hiểu, tác giả sẽ minh thị nội hàm của khái niệm “kháng nghị giám đốc thẩm” thông qua việc giải thích về hai cụm từ “kháng nghị” và “giám đốc thẩm”. Theo Từ điển Tiếng Việt, kháng nghị được hiểu là “sự bày tỏ ý kiến phản đối bằng văn bản chính thức”[64, tr.621], bên cạnh đó theo Từ điển Từ và Ngữ Việt Nam thì “kháng nghị” có thể hiểu là “sự bày tỏ quan điểm phản đối, chống đối về một vấn đề, một ý kiến gì đó bất kì mà chủ thể kháng nghị cho rằng vấn đề đó, ý kiến đó là sai lầm” [27, tr.927]. Như vậy, xét theo góc độ ngôn ngữ thông thường, kháng nghị là bày tỏ ý kiến không đồng ý, phản đối đối với một quyết định, ý kiến nào đó. Nhận thấy, những từ điển đưa ra khái niệm trên là từ điển giải thích từ ngữ chung cho mọi lĩnh vực trong cuộc sống nên phần nào còn mang tính tổng quát, khái quát, thiếu chuyên sâu do đó các đặc điểm và đặc trưng của kháng nghị giám đốc thẩm trong TTHC vẫn chưa được thể hiện rõ ràng. Theo Từ điển Luật học, kháng nghị là “việc người có thẩm quyền bằng văn bản của mình gửi đến Tòa án có thẩm quyền làm ngưng hiệu lực phán quyết của Tòa án trong bản án, quyết định để xét xử theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm làm cho vụ án được chính xác, khách quan và đúng pháp luật” [63, tr.249]. Với cách tiếp cận này, khái niệm kháng nghị đã làm nổi bật được một số đặc điểm của kháng nghị theo pháp luật như: thẩm quyền kháng nghị chỉ thuộc về một số cá nhân có thẩm quyền, hình thức kháng nghị được thể hiện bằng văn bản, mục đích hướng tới của kháng nghị là làm cho vụ án được giải quyết, xét xử một cách chính xác và đúng theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, có sự khác biệt hơn, Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học có nêu: “kháng 7
  14. nghị là việc người có thẩm quyền yêu cầu Tòa án xét lại bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật theo thủ tục phúc thẩm, xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm” [56, tr.183]. Thông qua khái niệm này, một số vấn đề về chủ thể có thẩm quyền kháng nghị, đối tượng của kháng nghị là bản án, quyết định của Tòa án chưa có hoặc đã có hiệu lực pháp luật đã được làm rõ. Như vậy, từ khái niệm, khía cạnh giải thích từ ngữ như trên, có thể hiểu: kháng nghị trong TTHC là hành vi tố tụng của người có thẩm quyền, thể hiện việc phản đối toàn bộ hoặc một phần bản án, quyết định của Tòa án nhằm bảo đảm cho việc xét xử được chính xác, công bằng. Để có thể xây dựng khái niệm kháng nghị giám đốc thẩm trong TTHC đầy đủ và toàn diện thì việc giải thích khái niệm “giám đốc thẩm” cũng rất quan trọng. Không khó để nhận thấy, khái niệm giám đốc thẩm hiện nay được đề cập trong khá nhiều công trình khoa học, được tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhay và khá gần gũi. Về mặt thuật ngữ, Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học xác định đây là một giai đoạn tố tụng đặc biệt trong TTHC trong đó Tòa án cấp trên có thẩm quyền tiến hành xem xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp dưới nếu phát hiện sai lầm dựa trên cơ sở kháng nghị của chủ thể có thẩm quyền [56, tr.54]. Như vậy, thông qua cách hiểu này, khái niệm giám đốc thẩm không quá phức tạp và từ đây chúng ta thấy được tính chất đặc thù của việc giám đốc thẩm trong tố tụng nói chung và TTHC nói riêng. Với tính chất là việc “ xem xét bản án do một Tòa án ban hành, chứ không phải xét xử một vụ án do người dân khiếu kiện” [35, tr.16] có thể thấy giám đốc thẩm là một giai đoạn tố tụng đặc biệt mà không phải là một cấp xét xử độc lập trong TTHC nói chung và giai đoạn tố tụng đặc biệt này chỉ phát sinh khi người có thẩm quyền kháng nghị trên cơ sở họ đã phát hiện những sai lầm trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhằm “chữa lỗi” của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, cho dù là lỗi về khía cạnh pháp lí hay khía cạnh sự kiện của vụ án, chứ không nhằm mục đích trực tiếp giải quyết vụ án về mặt nội dung” [22, tr.12]. Mặt khác, về mặt quan điểm khoa học, trong sách Bình luận Luật Tố tụng hành chính, tác giả Lê Việt Sơn cũng nhận định “giám đốc thẩm là thủ tục đặc biệt nhằm xét lại tính đúng đắn, hợp pháp của bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị khi có đủ căn cứ và điều kiện theo quy định của pháp luật” [23, tr.365]. Qua cách tiếp cận này, tác giả cũng đã khẳng định giám đốc thẩm là thủ tục đặc biệt với mục đích là xét lại tính đúng đắn, hợp pháp của bản án, quyết định đã phát sinh hiệu lực pháp luật, cơ sở để phát sinh giám đốc thẩm là bị các chủ thể có thẩm quyền 8
  15. kháng nghị dựa trên các căn cứ và điều kiện do pháp luật quy định. Về mặt pháp lý, hiện nay Luật TTHC nước ta không có điều khoản nào quy định chính thức về khái niệm giám đốc thẩm tuy nhiên với quy định về tính chất của hoạt động giám đốc thẩm tại Điều 254 khi nêu ra rằng “Giám đốc thẩm là xem xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị giám đốc thẩm khi có căn cứ quy định tại Điều 255 của Luật này” phần nào đã làm rõ cách hiểu, cách tiếp cận của các nhà làm luật về chế định này. Do vậy, dù các học giả, các nhà nghiên cứu có nhiều cách diễn đạt khác nhau về khái niệm giám đốc thẩm nhưng nhìn chung hiện nay họ đều thừa nhận những đặc điểm cơ bản của giám đốc thẩm như: một là, giám đốc thẩm không phải là cấp xét xử độc lập, là thủ tục đặc biệt trong TTHC; hai là, đối tượng của giám đốc thẩm là bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án; ba là, điều kiện để phát sinh giám đốc thẩm là phải có kháng nghị của các chủ thể đặc biệt được Nhà nước trao quyền và bốn là, cơ sở để kháng nghị giám đốc thẩm phải có các căn cứ pháp luật quy định. Đối với thuật ngữ “kháng nghị giám đốc thẩm”, cả về mặt lý luận và học thuật cũng có những quan điểm có đề cập. Với TTHC, tác giả Võ Văn Sơn Thất cho rằng: “kháng nghị giám đốc thẩm là hoạt động tố tụng, do người có thẩm quyền thực hiện theo một trình tự, thủ tục luật định, khi phát hiện sai lầm trong các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, để yêu cầu Tòa án xem xét lại vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm” [52, tr.7]. Với TTHS, tác giả Phạm Ngân Giang cho rằng kháng nghị giám đốc thẩm là việc ban hành một văn bản để can thiệp trực tiếp vào toàn bộ hoặc một phần bản án, quyết định của Tòa án đã phát sinh hiệu lực pháp luật nhưng có căn cứ cho rằng có sai lầm nghiêm trọng trong quá trình xử lý vụ án và văn bản này phải được ban hành bởi các chủ thể có thẩm quyền theo trình tự, thủ tục luật định; đây sẽ là cơ sở để phát sinh việc xét lại tính đúng đắn, hợp pháp của một bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm và có thể dẫn tới sự thay đổi hoặc chấm dứt hiệu lực pháp luật của toàn bộ hoặc một phần bản án, quyết định bị kháng nghị [19, tr.8]. Có thể thấy, dù khái niệm này không đặt trong bối cảnh của TTHC tuy nhiên thông qua cách tiếp cận đó chúng ta có thể tiếp cận hoàn chỉnh hơn về kháng nghị giám đốc thẩm trong TTHC. Như vậy, trong khuôn khổ quan điểm học thuật, các tác giả đều cùng chung quan điểm rằng kháng nghị giám đốc thẩm là hành vi tố tụng của chủ thể có thẩm quyền theo quy định của pháp luật tố tụng nhằm yêu cầu Tòa án có thẩm quyền xem xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật khi có căn cứ do Luật quy định. 9
  16. Từ các phân tích, bàn luận chi tiết nêu trên, đặt trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, tác giả rút ra được khái niệm kháng nghị giám đốc thẩm trong TTHC như sau: Kháng nghị giám đốc thẩm trong tố tụng hành chính là hành vi tố tụng của người có thẩm quyền yêu cầu Tòa án có thẩm quyền xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án khi có những căn cứ, điều kiện do pháp luật quy định nhằm bảo đảm cho việc xét xử VAHC luôn được chính xác, công bằng, khách quan. 1.1.2. Đặc điểm Làm rõ các đặc điểm của kháng nghị giám đốc thẩm luôn là phần quan trọng không thể thiếu trong quá trình nghiên cứu, giúp chúng ta nhận thấy được sự khác biệt với kháng nghị phúc thẩm, kháng nghị tái thẩm trong TTHC. Theo đó, từ khái niệm đã nêu trên, kháng nghị giám đốc thẩm trong TTHC có các đặc điểm sau: Thứ nhất, kháng nghị giám đốc thẩm trong tố tụng hành chính là hành vi của một số chủ thể có thẩm quyền Nhìn chung, trong TTHC, hầu hết các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm đều bảo đảm được tính chính xác, hợp pháp, đúng đắn. Tuy nhiên, điều này khó có thể tuyệt đối. Bởi quá trình giải quyết sơ thẩm, phúc thẩm VAHC là quá trình phức tạp, gồm nhiều trình tự, thủ tục khác nhau, các văn bản pháp luật được áp dụng để đưa ra phán quyết cũng rất đa dạng, phức tạp, trải rộng ở nhiều lĩnh vực của quản lý hành chính nhà nước do vậy còn tồn tại một số bản án, quyết định sơ thẩm, phúc thẩm mặc dù đã có hiệu lực pháp luật nhưng chưa thật sự chính xác, chỉn chu, không đúng pháp luật, xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự trong vụ án. Do đó, để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, bảo đảm dân chủ trong xét xử VAHC, bảo đảm hiệu quả trong công tác xét xử và bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa, pháp luật TTHC đã ghi nhận quyền kháng nghị giám đốc thẩm của một số chủ thể đặc biệt. Theo đó, chỉ khi có kháng nghị của các chủ thể có thẩm quyền mà Luật TTHC trao quyền, thủ tục giám đốc thẩm VAHC mới có thể được phát sinh. Xem xét dưới khía cạnh là quyền, việc kháng nghị giám đốc thẩm phụ thuộc vào ý chí của chủ thể có thẩm quyền; dựa trên những căn cứ, điều kiện được Luật quy định họ có quyền thực hiện kháng nghị giám đốc thẩm đối với bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Khi đặt dưới khía cạnh là hành động thì kháng nghị giám đốc thẩm phải là hành vi tố tụng của một số chủ thể có thẩm quyền với mục đích đề nghị Tòa án có thẩm quyền tiến hành việc xem xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục 10
  17. giám đốc thẩm. Quá trình thực hiện hành vi này, các chủ thể có thẩm quyền phải tuân thủ chặt chẽ các quy định về trình tự, thủ tục trong Luật TTHC, không được tiến hành một cách tùy tiện. Tòa án có thẩm quyền sẽ chỉ tiến hành giám đốc thẩm để thẩm định lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị chủ thể có thẩm quyền đã kháng nghị khi việc thực hiện hành vi kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đáp ứng đầy đủ các quy định về cách thức, thủ tục, trình tự thực hiện và Tòa án chỉ xem xét theo phạm vi, đối tượng đã bị kháng nghị. Ngược lại, khi kháng nghị không đáp ứng đúng trình tự, thủ tục do luật định thì sẽ không làm phát sinh trách nhiệm của Tòa án trong việc giải quyết kháng nghị của chủ thể có thẩm quyền. Nói chung, khi đặt dưới khía cạnh là hành động thì kháng nghị giám đốc thẩm được hiểu là hành vi tố tụng của một số chủ thể đặc biệt có thẩm quyền. Thứ hai, đối tượng của kháng nghị giám đốc thẩm trong tố tụng hành chính là bản án, quyết định của Tòa án đã phát sinh hiệu lực pháp luật Khi xem xét các quy định về kháng nghị giám đốc thẩm nói riêng và hệ thống pháp luật tố tụng ở Việt Nam nói chung; có thể thấy kháng nghị giám đốc thẩm trong TTHC, TTDS, TTHS sẽ có những khác biệt nhất định điều này phần nào xuất phát từ bản chất, nguyên tắc trong các lĩnh vực này là khác nhau, song đều có chung một đặc điểm đó là đối tượng của kháng nghị giám đốc thẩm là bản án, quyết định của Tòa án đã phát sinh hiệu lực pháp luật. Đây chính là một trong những sự khác biệt lớn nhất giữa kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm và kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Bởi khác với kháng nghị giám đốc thẩm, đối tượng của kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm là bản án, quyết định của Tòa án chưa có hiệu lực pháp luật. Không khó để nhận thấy tính chất của hoạt động giám đốc thẩm chính là nguyên nhân của sự khác biệt này, khi đây không phải là một cấp xét xử mà là một thủ tục tố tụng đặc biệt để xét lại bản án, quyết định bị kháng nghị bởi các chủ thể có thẩm quyền. Từ đó có thể nhận định rằng những bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm nếu chưa có hiệu lực pháp luật thì không phải là đối tượng của kháng nghị giám đốc thẩm. Quan điểm này cũng được kế thừa bền vững trong lịch sử tố tụng ở nước ta và phù hợp với mô hình thẩm xét. Cụ thể hơn, đối tượng của kháng nghị giám đốc thẩm là những bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật; bản án, quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm; những quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Ủy ban thẩm phán TANDCC. Về mặt lý luận, bản án, quyết định của Tòa án sơ thẩm sau khi xét xử sẽ chưa phát sinh hiệu 11
  18. lực pháp luật ngay lập tức mà sau khi xét xử sẽ có một khoảng thời gian nhất định để nếu như không đồng ý với bản án, quyết định được Tòa án đưa ra, các chủ thể tham gia tố tụng có thể thực hiện quyền kháng cáo, Viện kiểm sát thực hiện quyền kháng nghị, việc kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm sẽ làm phát sinh thủ tục xét xử phúc thẩm vụ án; nếu hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị mà không có kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm thì bản án, quyết định của Tòa án sơ thẩm sẽ phát sinh hiệu lực pháp luật. Một vụ án khi trải qua hai cấp xét xử thì coi như đã được giải quyết xong. Tuy nhiên, bên cạnh những bản án chính xác, hợp pháp, nghiêm minh thì vẫn còn số ít những bản án, quyết định của Tòa án vì một số nguyên nhân chủ quan hoặc khách quan mà xuất hiện những sai lầm, những vi phạm nghiêm trọng trong công tác giải quyết vụ án. Xuất phát từ sự tôn trọng công lý, sự thật, lẽ công bằng trong TTHC, trách nhiệm của các cơ quan trong hệ thống cơ quan tư pháp cho nên pháp luật đã quy định về việc kháng nghị giám đốc thẩm đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhưng phát hiện có sai lầm nghiêm trọng. Tựu chung lại, đối tượng của kháng nghị giám đốc thẩm trong TTHC là bản án, quyết định đã phát sinh hiệu lực pháp luật của Tòa án. Thứ ba, kháng nghị giám đốc thẩm phải được thực hiện theo trình tự, thủ tục luật định Để đảm bảo tính thống nhất, trật tự của các thủ tục tố tụng, giống như Luật TTHS, TTDS, Luật TTHC cũng đặt việc thực hiện các hành vi tố tụng trong khuôn mẫu chuẩn chỉnh trên những trình tự, thủ tục chặt chẽ. Do đó, tương tự như các hành vi kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm, kháng nghị giám đốc thẩm trong TTHC cũng phải được thực hiện theo trình tự, thủ tục nhất định. Như đã nêu ở trên, thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm thuộc về một số chủ thể đặc biệt Luật định, tuy nhiên không phải vì vậy mà việc kháng nghị không phải tuân theo quy trình nào. Các chủ thể có thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm khi thực hiện kháng nghị không chỉ tuân theo các quy định về mặt nội dung như: đối tượng kháng nghị, căn cứ kháng nghị, điều kiện kháng nghị… mà còn phải tuân theo các quy định về mặt thủ tục như: cách ban hành quyết định kháng nghị, gửi quyết định kháng nghị tới cơ quan có thẩm quyền, thông báo về việc kháng nghị. Những thủ tục này đều được quy định trong Luật TTHC và đều đòi hỏi các chủ thể có thẩm quyền thật sự cẩn thận, tỉ mỉ trong việc thực hiện kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Việc đặt ra trình tự, thủ tục đối với hoạt động kháng nghị giám đốc thẩm không chỉ để đảm bảo tính thống nhất, trật tự của các thủ tục tố tụng mà còn bởi kháng nghị giám đốc 12
  19. thẩm là hoạt động mang tính định hướng của các chủ thể có thẩm quyền khi tham gia tố tụng nên chỉ khi hoạt động kháng nghị giám đốc thẩm được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật thì việc ban hành quyết định kháng nghị mới đạt được giá trị pháp lý cao nhất từ đó các Tòa án có bản án, quyết định bị kháng nghị có thể kịp thời, nghiêm túc nhìn nhận những sai lầm; Tòa án giám đốc thẩm có căn cứ đầy đủ nhất, tốt nhất để xem xét giải quyết tính hợp pháp hay không hợp pháp cả về hình thức và nội dung của kháng nghị. Thứ tư, kháng nghị giám đốc thẩm là cơ sở phát sinh trách nhiệm giám đốc thẩm của Tòa án có thẩm quyền Giám đốc thẩm là một thủ tục đặc biệt trong TTHC, nó không phải là một thủ tục mặc nhiên tồn tại đối với tất cả các VAHC mà chỉ phát sinh khi các chủ thể có thẩm quyền theo quy định của pháp luật thực hiện kháng nghị hợp pháp. Nói cách khác, kháng nghị giám đốc thẩm là cơ sở làm phát sinh trách nhiệm giám đốc thẩm của Tòa án cấp có thẩm quyền. Dù muốn hay không thì Tòa án có thẩm quyền giám đốc thẩm cũng phải thực hiện xem xét lại bản án, quyết định của Tòa án cấp dưới đã có hiệu lực pháp luật khi có kháng nghị giám đốc thẩm hợp pháp của các chủ thể có thẩm quyền. Trong TTHC, Tòa án nhân dân được chia thành 4 cấp, tuy nhiên theo quy định tại Điều 264 Luật TTHC năm 2015 thì chỉ có TANDCC, TANDTC là có thẩm quyền giám đốc thẩm. Việc giám đốc thẩm rất quan trọng đồng thời có tính phức tạp cao, do đó cần có đội ngũ Thẩm phán có chuyên môn cao mới có đủ kinh nghiệm, kiến thức để xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị, do đó việc pháp luật giao thẩm quyền giám đốc thẩm cho TANDCC, TANDTC là hoàn toàn hợp lí. Qua đây cũng thể hiện được tư duy tiến bộ của những nhà làm luật khi đã nhìn nhận, xem xét một cách nghiêm túc, kỹ lưỡng để có thể chọn lọc được Tòa án có thẩm quyền giám đốc thẩm, từ đó đã khắc phục được những vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong quá trình giải quyết VAHC, bảo đảm tính đúng đắn của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật đồng thời góp phần đảm bảo hiệu quả, chất lượng của công tác giám đốc thẩm. 1.1.3. Ý nghĩa Từ mục đích của việc kháng nghị giám đốc thẩm trong TTHC là nhằm khắc phục, sửa chữa những sai lầm, những vi phạm pháp luật xuất hiện trong quá trình giải quyết vụ án đồng thời đảm bảo tính hợp pháp của bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, tính thống nhất trong hoạt động xét xử, chúng ta nhận thấy việc tìm hiểu và 13
  20. phân tích về ý nghĩa của kháng nghị giám đốc thẩm trong Luật Tố tụng hành chính Việt Nam là một nội dung quan trọng góp phần làm sâu thêm phạm vi nghiên cứu của đề tài. Trên những góc độ nhất định, việc kháng nghị giám đốc thẩm trong TTHC có những ý nghĩa sau: Thứ nhất, kháng nghị giám đốc thẩm là cơ sở để đảm bảo tính đúng đắn của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án Về nguyên tắc, khi Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm ban hành bản án, quyết định đều phải đảm bảo tính hợp pháp, chính xác, đúng đắn, công bằng và bảo đảm khách quan, dân chủ. Đây là yêu cầu quan trọng đồng thời là mục tiêu của hoạt động TTHC nói riêng hay bất kỳ hoạt động tố tụng nào khác trong công cuộc cải cách hoàn thiện ngành tư pháp nước ta nói chung. Tuy nhiên, có thể thấy trên thực tế do TTHC là một quy trình nhiều bước, tính phức tạp cao, các văn bản áp dụng ở mỗi giai đoạn cũng rất đa dạng nên khi tiến hành xét xử sơ thẩm, phúc thẩm VAHC, những chủ thể tiến hành tố tụng khó tránh khỏi những sai sót, thậm chí có những quan điểm, nhận định chưa thật sự chính xác gây ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng của bản án, quyết định được ban hành, “gây hậu quả là làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự” [30, tr.154] và hậu quả sẽ càng nghiêm trọng hơn nếu các bản án, quyết định này đã phát sinh hiệu lực pháp luật. Do đó, việc một số chủ thể đặc biệt trong phạm vi, quyền hạn của mình thực hiện kháng nghị giám đốc thẩm trên cơ sở phát hiện những sai lầm, vi phạm trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án để yêu cầu Tòa án có thẩm quyền xem xét lại tính đúng đắn, hợp pháp của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm là rất cần thiết và có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Qua hoạt động giám đốc thẩm, Tòa án sẽ kịp thời phát hiện ra những thiếu sót, sai phạm trong bản án và quá trình giải quyết VAHC từ đó kịp thời đưa ra những quyết định cho phù hợp như: quyết định hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm và giữ nguyên bản án, quyết định đúng pháp luật của Tòa án cấp dưới đã bị sửa hoặc bị hủy; hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị giám đốc thẩm để tiến hành xét xử sơ thẩm lại hoặc phúc thẩm lại; hủy bản án, quyết định của Tòa án đã giải quyết vụ án và đình chỉ việc giải quyết vụ án; sửa một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật [7] nhằm làm cho bản án, quyết định đó trở nên hoàn chỉnh, hợp pháp, quyền và lợi ích của các đương sự trong VAHC được bảo vệ, nâng cao chất lượng trong công tác xét xử VAHC, đảm bảo tính khách quan, công 14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2