intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Khóa luận tốt nghiệp: Nỗi buồn đau trong thơ làng quê Việt Nam của Nguyễn Khuyến

Chia sẻ: Minh Lộ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:49

31
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tìm hiểu khoá luận này, người viết nhằm vào các mục đích chính sau đây: Tìm hiểu nỗi đau buồn thê lương qua cảnh sắc làng quê; tìm hiểu nỗi đau buồn, thê lương qua cuộc sống làng quê; góp phần nghiên cứu, giảng dạy Nguyễn Khuyến được tốt hơn.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Khóa luận tốt nghiệp: Nỗi buồn đau trong thơ làng quê Việt Nam của Nguyễn Khuyến

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN  CAO THÚY HẰNG NỖI BUỒN ĐAU TRONG THƠ LÀNG QUÊ VIỆT NAM CỦA NGUYỄN KHUYẾN KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Văn học Việt Nam HÀ NỘI, 2018
  2. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN  CAO THÚY HẰNG NỖI BUỒN ĐAU TRONG THƠ LÀNG QUÊ VIỆT NAM CỦA NGUYỄN KHUYẾN KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN THỊ TÍNH HÀ NỘI, 2018
  3. LỜI CẢM ƠN Em xin chân thành cảm ơn TS. Nguyễn Thị Tính – người đã trực tiếp hướng dẫn em trong thời gian thực hiện khoá luận. Qua khoá luận này, em xin trân trọng gửi lời cảm ơn tới toàn thể các thầy cô; cảm ơn thư viện Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã giúp đỡ, tạo điều kiện tốt nhất để em hoàn thành khoá luận tốt nghiệp. Hà Nội, ngày tháng năm 2018 Sinh viên Cao Thúy Hằng
  4. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin khẳng định đây là kết quả nghiên cứu của cá nhân tôi. Đề tài nghiên cứu này không trùng với đề tài nghiên cứu của tác giả nào khác. Hà Nội, ngày tháng năm 2018 Sinh viên Cao Thúy Hằng
  5. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1 2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 2 3. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 4 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................. 4 5. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 5 6. Bố cục khoá luận ........................................................................................... 5 B. PHẦN NỘI DUNG....................................................................................... 6 Chương 1. NGUYỄN KHUYẾN VÀ SỰ GẮN BÓ VỚI LÀNG QUÊ ........... 6 1.1.Bối cảnh thời đại ......................................................................................... 6 1.2.Tiểu sử và con người................................................................................... 8 1.3 Sự gắn bó với làng quê của Nguyễn Khuyến............................................ 10 Chương 2: THƠ LÀNG QUÊ CỦA NGUYỄN KHUYẾN – ÁM ẢNH ĐAU BUỒN, THÊ LƯƠNG .................................................................................... 16 2.1. Đau buồn thê lương qua cảnh sắc làng quê.............................................. 16 2.1.1. Cảnh ngột ngạt, hư ảo........................................................................... 16 2.1.2. Cảnh xác xơ, hiểm hoạ vì lũ lụt hạn hán .............................................. 22 2.2. Đau buồn, thê lương qua cuộc sống làng quê .......................................... 27 2.2.1. Cuộc sống lam lũ, đói nghèo ................................................................. 27 2.2.2. Cuộc sống loạn lạc, phi đạo lí .............................................................. 35 KẾT LUẬN ..................................................................................................... 41 TÀI LIỆU THAM KHẢO
  6. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Nhìn chung, văn chương thời Trung đại thường mang tính quy phạm, ước lệ. Tuy nhiên, khi xem xét một cách cụ thể ta sẽ nhận thấy mỗi một tác gia lớn lại có một đặc trưng riêng. Nếu như Tú Xương có một giọng thơ trào phúng, mỉa mai sâu cay thì Nguyễn Khuyến lại gây ấn tượng với giọng thơ trào lộng nhẹ nhàng với những vần thơ về làng quê Bắc Bộ yên ả, thanh bình. Ông vừa coi mọi chuyện trên đời như không có gì đáng lưu tâm lại vừa mang trong mình nỗi ưu sầu thế kỉ. Có thể nói, Nguyễn Khuyến là một trong những nhà thơ viết thành công nhất về quê hương, làng cảnh Việt Nam. Ông từng được Xuân Diệu mệnh danh là “nhà thơ của quê hương làng cảnh Việt Nam”. Đa số các tác giả nghiên cứu về Nguyễn Khuyến đều khẳng định thơ viết về làng quê của Nguyễn Khuyến là những bức tranh nên thơ, thanh bình khắc hoạ một cách tinh tế cảnh thiên nhiên thôn dã, con người hồn hậu; ẩn sâu trong cảnh vật thanh bình ấy là nỗi u hoài thầm kín về nỗi đau nước mất nhà tan mà bản thân thì bất lực, bế tắc. Những ý kiến này không sai, tuy nhiên, nhìn từ một góc độ khác ta có thể thấy một sắc thái hoàn toàn đối lập với sự nên thơ, thanh bình ấy. Một số tác giả đã bàn về vấn đề này, song vẫn hướng đến khẳng định cái hay trong thơ viết về quê hương, làng cảnh Việt Nam của Tam nguyên Yên Đổ là cảnh đẹp của làng quê Bắc Bộ và sâu xa hơn ẩn chứa trong đó là nỗi đau đớn trước thời cuộc một cách kín đáo của tác giả. Khoá luận này xin tiếp cận tác phẩm của ông từ một góc nhìn mới: nỗi buồn đau trong thơ làng cảnh của Nguyễn Khuyến với những ám ảnh đau buồn, thê lương. 1
  7. Tìm hiểu đề tài này, người viết muốn có thêm vốn kiến thức văn học phong phú, sâu sắc hơn để phục vụ cho công việc giảng dạy sau này, đồng thời bước đầu tập dượt những phương pháp nghiên cứu khoa học cho bản thân. Mặt khác, trong chương trình văn học ở THCS và THPT, Nguyễn Khuyến được chọn giảng với tư cách là một tác gia văn học với những tác phẩm tiêu biểu đại diện cho phong cách nghệ thuật của nhà thơ: “Thu điếu”, “Thu ẩm”, “Thu vịnh”, “Bạn đến chơi nhà”, “Khóc Dương Khuê”... Như vậy, qua việc biên soạn chương trình chúng ta phần nào thấy được vị trí, vai trò của thơ Nguyễn Khuyến. Vì thế, tìm hiểu đề tài này, tôi nghĩ là một việc làm có ý nghĩa lớn đối với việc giảng dạy tác gia Nguyễn Khuyến trong nhà trường một cách có định hướng. 2. Lịch sử vấn đề Nguyễn Khuyến là một tác gia lớn, bởi vậy, từ xưa đến nay có rất nhiều đề tài nghiên cứu xoay quanh cuộc đời và sự nghiệp của ông. Bàn về những sáng tác của cụ Tam, cả phần chữ Hán và chữ Nôm đã có nhiều nhà nghiên cứu và sinh viên Ngữ văn tìm hiểu. Cụ thể, khi lựa chọn đề tài này bản thân người viết đã tham khảo tài liệu tổng hợp nhiều ý kiến của nhiều nhà nghiên cứu. Trong đó, phải kể đến các công trình nghiên cứu, các bài viết sau có liên quan trực tiếp đến vấn đề mà khoá luận đề cập: 1 Nguyễn Huệ Chi (1992), “Thi hào Nguyễn Khuyến đời và thơ”, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. 2 Bùi Văn Cường sưu tầm, biên soạn(1984), “Nguyễn Khuyến và giai thoại”, Nxb. Hội văn học nghệ thuật Hà Nam Ninh, Hà Nam Ninh. 3 Xuân Diệu (1979), “Thơ văn Nguyễn Khuyến”, in lần thứ hai có sửa chữa, Nxb. Văn học, Hà Nội. 2
  8. 4 Nguyễn Văn Huyền (2002), “Nguyễn Khuyến tác phẩm”, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh. 5 Ngô Ngọc Ngũ Long, “Ba bài thơ thu”, trong sách “Nguyễn Khuyến – Tác phẩm và lời bình” (Nhiều tác giả), Nxb. Văn học, Hà Nội. 6 Nhiều tác giả (2011), “Nguyễn Khuyến tác phẩm và lời bình”, Nxb.Văn học, Hà Nội. 7 Nhóm trí thức trẻ tuyển chọn và giới thiệu (2012), “Nguyễn Khuyến Thơ và đời”, Nxb. Văn học, Hà Nội. 8 Vũ Tiến Quỳnh (1991), “Tuyển chọn và trích dẫn những bài phê bình – bình luận văn học của các nhà văn” – nghiên cứu Việt Nam – Thế giới, Nxb. Tổng hợp Khánh Hoà. 9 Trần Quốc Vượng (1992), “Nguyễn Khuyến trong bối cảnh văn hoá xã hội Việt Nam cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX”, trong sách “Thi hào Nguyễn Khuyến đời và thơ”, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. 10 Nguyễn Thị Tính (2017), “Bàn thêm về ba bài thơ thu của Nguyễn Khuyến”, “Tạp chí nghiên cứu lí luận, phê bình và lịch sử văn học”, Nxb. Toà soạn Tạp chí Nghiên cứu Văn học, Hà Nội. 11 Hoàng Thị Thuý Linh, Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2, Khoá luận: Nghệ thuật thể hiện phong cảnh làng quê trong thơ Nôm Nguyễn Khuyến. Có thể thấy, tìm hiểu về nội dung và nghệ thuật trong thơ làng cảnh Việt Nam của Nguyễn Khuyến không phải là một vấn đề hoàn toàn mới mẻ. Tuy nhiên, nhìn một cách khái quát thì người viết nhận thấy các công trình nghiên cứu, các bài viết trên chủ yếu đề cập đến cảnh đẹp thanh bình của làng quê Bắc Bộ và ẩn chứa trong đó là nỗi đau thời thế kín đáo của tác giả. Trong cuốn Thơ văn Nguyễn Khuyến tác giả Hoàng Hữu Yên nhận định: “Đọc thơ văn Nguyễn Khuyến ta thấy toát lên một nỗi niềm tâm sự thấm thía yêu nước thương nòi vô 3
  9. hạn nhưng luôn tự cảm thấy bất lực không có cách nào để cứu vãn nạn nước. Nỗi niềm tâm sự ấy gửi vào tứ thơ chi phối cả cuộc sống hàng ngày của nhà thơ”. [1,14]. Khoá luận này xin bổ sung, nhấn mạnh theo hướng tiếp cận mới: nỗi buồn đau trong thơ làng cảnh của Nguyễn Khuyến với những ám ảnh đau buồn, thê lương. Trong công trình nghiên cứu “Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hoá” Trần Nho Thìn đã chỉ ra: “Thiên nhiên làng quê không còn là không gian thanh tĩnh, xa lánh vật dục, xa lánh chốn thị thành bon chen danh lợi như không gian thơ nhà nho truyền thống nữa...” [2, 568]. Trên cơ sở kế thừa ý kiến của những người đi trước, người viết cố gắng khảo sát tác phẩm của Nguyễn Khuyến trên cả hai phương diện chữ Hán và chữ Nôm theo lối cảm nhận mới hi vọng có thể đem lại góc nhìn mới cho độc giả. 3. Mục đích nghiên cứu Tìm hiểu khoá luận này, người viết nhằm vào hai mục đích chính sau đây: 1-Tìm hiểu nỗi đau buồn thê lương qua cảnh sắc làng quê 2-Tìm hiểu nỗi đau buồn, thê lương qua cuộc sống làng quê 3-Góp phần nghiên cứu, giảng dạy Nguyễn Khuyến được tốt hơn 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Như tên đề tài đã xác định khoá luận tập trung vào tìm hiểu theo lối cảm nhận mới về nỗi buồn đau trong thơ làng quê Việt Nam của Nguyễn Khuyến xét trên cả hai bộ phận chữ Hán và chữ Nôm. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi nội dung: Những bài thơ về cảnh sắc và cuộc sống nông thôn của Nguyễn Khuyến. - Phạm vi tư liệu: Khoá luận được triển khai dựa trên nguồn tư liệu đã được công bố như: “Thi hào Nguyễn Khuyến đời và thơ” (Nguyễn Huệ 4
  10. Chi) “Nguyễn Khuyến và giai thoại” (Bùi Văn Cường sưu tầm, biên soạn); “Nguyễn Khuyến tác phẩm” (Nguyễn Văn Huyền)... 5. Phương pháp nghiên cứu Để triển khai đề tài này chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu chính sau: - Phương pháp thống kê phân loại - Phương pháp liên ngành - Phương pháp so sánh Trong quá trình triển khai khoá luận, người viết không tuyệt đối hoá phương pháp nào, lúc cần thiết có thể sử dụng tổng hợp cả ba phương pháp trên. 6. Bố cục khoá luận A. Phần mở đầu B. Phần nội dung Chương 1: Nguyễn Khuyến và sự gắn bó với làng quê Chương 2: Thơ làng quê của Nguyễn Khuyến – ám ảnh đau buồn, thê lương C. Phần kết luận 5
  11. B. PHẦN NỘI DUNG Chương 1. NGUYỄN KHUYẾN VÀ SỰ GẮN BÓ VỚI LÀNG QUÊ 1.1. Bối cảnh thời đại Tam nguyên Yên Đổ là một trong những nhà Nho lớn, đại quan cuối cùng của triều Tự Đức. Đó cũng là lúc Nho giáo ở Việt Nam đã tàn lụi. Nguyễn Khuyến sống trọn đời trong hoàn cảnh tăm tối khổ đau nhất của lịch sử. Ông là một trong những đại diện tiêu biểu cuối cùng của văn học Việt Nam, tận mắt trông thấy bi kịch lịch sử của triều đình nhà Nguyễn và sự phát triển hết sức mạnh mẽ của các phong trào yêu nước chống lại gót giầy ngoại xâm. Chính vì thế, ông cũng là người nhận thấy một cách đau xót nhất sự tàn lụi của hệ tư tưởng Nho giáo lỗi thời cũng như sự bất lực đến hài hước của một loại hình trí thức đại diện cho hệ tư tưởng lỗi thời ấy trước thực tế lịch sử. Nguyễn Khuyến ra làm quan giữa thời loạn lạc, cơ đồ nhà Nguyễn như sụp đổ hoàn toàn chính vì vậy bao ước mơ khát vọng phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân ông không thể thực hiện được. Trong khi Nguyễn Khuyến còn đang dùi mài kinh sử thì năm 1858 quân Pháp đã nổ phát súng xâm lược đầu tiên vào bán đảo Sơn Trà (Đà Nẵng), tiếp theo chúng quay sang đánh chiếm ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ (1862) rồi chiếm nốt ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ (1867). Sau đó, chúng đánh ra miền Bắc và lần lượt đánh ở Hà Nội (1882), đánh kinh thành Huế (1885). Đứng trước thực tế lịch sử đó, triều đình nhà Nguyễn đứng đầu là Tự Đức đã không lãnh đạo nhân dân đứng lên chống xâm lược bảo vệ chủ quyền dân tộc mà thay vào đó là sự bất lực của vua tôi nhà Nguyễn. Chúng lần lượt đầu hàng giặc, lần lượt kí các hiệp ước trao đổi đất đai về tay giặc Pháp. Năm 1862 kí hiệp ước nhường ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ, năm 1867 kí hiệp ước nhường ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ, đến 1883 hiệp ước Hasmard được kí kết và đến năm 6
  12. 1884 kí hiệp ước Panternot nhường cả nước cho giặc. Sau ba mươi năm lấn chiếm của thực dân Pháp, Việt Nam đã hoàn toàn rơi vào tay giặc. Trong hoàn cảnh lịch sử ấy, Nguyễn Khuyến đã bước vào con đường hoạn lộ, con đường duy nhất đối với một trí thức phong kiến muốn lập thân, muốn đem sở học ra phò đời giúp nước. Triều đình Huế để mất nước, can tâm làm tay sai cho giặc nhưng nhân dân Việt Nam vốn có truyền thống yêu nước chống giặc ngoại xâm rất oanh liệt thì không bao giờ chịu khuất phục. Họ quyết vùng lên đấu tranh để giành lại chủ quyền cho đất nước. Vua Hàm Nghi xuống chiếu Cần Vương, đứng về phía nhân dân lãnh đạo nhân dân tổ chức kháng chiến kiến quốc. Nhiều sĩ phu yêu nước có đủ dũng khí lãnh đạo cách mạng đã tổ chức nhân dân kháng chiến như Trương Định, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Tôn Thất Thuyết, Nguyễn Xuân Ôn... Một số trí thức khác tuy không trực tiếp cầm súng tham gia các phong trào kháng chiến nhưng họ cũng kiên quyết không hợp tác với giặc. Trước cảnh nước mất nhà tan họ cảm thấy xót xa tủi nhục, băn khoăn trăn trở vì vận nước lâm nguy. Họ muốn cứu dân cứu nước nhưng lại chưa đủ dũng khí nên một bộ phận đã phải tìm về lánh ẩn, giữ trọn khí tiết nơi thôn dã thiên nhiên. Nguyễn Khuyến chính là tiêu biểu cho số trí thức này. Ông chưa đủ dũng khí hoà vào cuộc chiến đấu nhưng ông cũng không can tâm chứng kiến sự thối nát của triều đình nên đã chọn cho mình một con đường là cáo quan về ở ẩn. Đây có thể là một hạn chế của Nguyễn Khuyến nhưng hạn chế này cũng dễ hiểu. Bởi Nguyễn Khuyến là một nhà nho, dưới thời phong kiến nhà Nguyễn đã từng ba lần đậu đầu, từng được Tự Đức ban cho cờ biển như thế có nghĩa ông là một nhà nho chính thống. Dưới thời nhà Nguyễn thì Nho giáo độc tôn, các vua nhà Nguyễn luôn có ý thức dùng Nho giáo làm vũ khí tinh thần để củng cố triều đại của mình. Suốt gần 30 năm lặn lội nơi cửa Khổng sân Trình, tư tưởng Nho giáo ảnh hưởng trong ông rất sâu nặng. Vì vậy, với Nguyễn Khuyến chắc chắn không 7
  13. có một quan niệm nào khác là trung quân, thờ vua giúp nước. Có lý tưởng nhưng vì lịch sử, không đủ dũng khí mà ông đã phải chọn cách lui về ở ẩn nơi quê nhà. Và cũng chính trong hoàn cảnh lịch sử ấy, Nguyễn Khuyến đã thể hiện tài năng của mình và thành công trên cả hai phương diện: tài học và tài văn thơ, cả hai đều xuất sắc, cả hai tài năng đều để lại cho đời những giá trị to lớn. Vì thế từ trước đến nay cho đến cả mai sau, Nguyễn Khuyến luôn được coi là một trong những tác gia lớn của nền văn học dân tộc. Có thể thấy, Nguyễn Khuyến sống và chứng kiến bi kịch nước mất nhà tan, xã hội đầy rẫy những điều bất đạo, ông đã phản ánh nó rất chân thực trong tác phẩm của mình. Bối cảnh lịch sử có ảnh hưởng không nhỏ đến các sáng tác của ông. 1.2. Tiểu sử và con người Từ một thế kỉ nay, đa số các tài liệu đều ghi chép tên nhà thơ là Nguyễn Khuyến. Nhưng nhân dân thường gọi theo cách tôn trọng, kiêng huý là Tam nguyên Yên Đổ hoặc Hoàng Và, do ghép học vị Tam nguyên – Hoàng giáp, với tên làng xã quê hương ông, làng Và (tên chữ là Vị Hạ), xã Yên Đổ, huyện Bình Lục (nay thuộc xã Trung Lương, huyên Bình Lục, tỉnh Hà Nam Ninh). Nguyễn Khuyến sinh ngày 15 tháng 2 năm 1835, tại quê ngoại làng Hoàng Xá, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định, nhưng ông chủ yếu lớn lên tại quê cha làng Yên Đổ - Bình Lục – Hà Nam. Nhà thơ nguyên có tên là Thắng, hiệu Quế Sơn (một ngọn núi cao đẹp trong huyện), khi thi cử thành đạt mới đổi tên thành Nguyễn Khuyến, tự Miễn Chi (nghĩa là Gắng lên, do chữ Khuyến mà ra). Nguyễn Khuyến sinh ra trong một gia đình nhà nho nghèo, có truyền thống học hành. Bên nội quê gốc ở Can Lộc – Hà Tĩnh, di cư ra Yên Đổ cho đến đời nhà thơ đã được năm trăm năm. Ông nội là Nguyễn Tông Tích đỗ nho sinh, cha là Nguyễn Liễn đỗ liền ba khoá tú tài, chuyên nghề dạy học. Mẹ là Trần 8
  14. Thị Thoan (1799-1874) – con ông Trần Công Trạc đã đỗ sinh đồ thời Lê Mạt. Trong cuốn Nguyễn Khuyến tác phẩm (Nguyễn Văn Huyền xuất bản năm 2002), theo lời nhà thơ kể lại trong Gia phả thì: mẹ ông là một bậc nữ lưu mẫu mực trong xã hội cũ “tính tình đoan trang, trầm tĩnh, thuận hoà” lại rất mực thương người, mọi việc nữ công gia chánh đều thông thạo. Cả một đời bà chịu thương chịu khó, phụng dưỡng bố mẹ chồng, chăm chỉ làm lụng, có lúc phải bán cả tư trang, may thuê vá mướn kiếm sống để khuyến khích nuôi chồng con ăn học. Thửa hưởng truyền thống của gia đình, từ bé Nguyễn Khuyến đã nổi tiếng là người ham học hỏi, thông minh tài giỏi hơn người. Năm 17 tuổi, ông đi thi Hương với cha nhưng không đỗ, ba khoa thi Hương tiếp theo 1855, 1858, 1861 ông cũng đều thi trượt. Đã có thời gian anh khoá Thắng nản đường thi cử định chuyển nghề dạy học để trang trải cuộc sống, đỡ đần vợ chăm lo gia đình. Nhưng may mắn, ông đã được một người bạn tên là Vũ Văn Báo nhận chu cấp lương ăn và khuyên đến học với cha của mình là Tiến sĩ Vũ Văn Lý ở xã Vĩnh Trụ - huyện Nam Xang (Lý Nhân – Hà Nam ngày nay). Bà mẹ ông cũng ân cần, nghiêm khắc khuyên con chớ thoái lui. Do vậy, khoa thi năm 1864, Nguyễn Khuyến đỗ đầu kì thi Hương. Sau đó ông vào thi Hội các khoa thi năm 1865, 1868 nhưng không đỗ. Cho đến năm 1871 mới liên tiếp đỗ đầu thi Hội, thi Đình khi đó ông 37 tuổi. Như vậy, cả ba kì thi ông đều đỗ đầu nên được cờ biển vua ban và tên Tam nguyên Yên Đổ xuất hiện từ đó. Triều đại nhà Nguyễn cho đến thời Nguyễn Khuyến chỉ có hai người đỗ tam nguyên thì Nguyễn Khuyến là một, còn người thứ hai là Trần Bích San (Vị Xuyên – Nam Định). Do vậy, thành tích đó đối với Nguyễn Khuyến là sự cố gắng phi thường. Sau khi thi đỗ, Nguyễn Khuyến được bổ nhiệm làm quan ở nội các Huế, năm sau đổi ra làm đốc học Thanh Hoá, rồi Án sát Nghệ An nhưng được mấy 9
  15. tháng thì mẹ ông qua đời, ông xin về quê chịu tang mẹ ba năm. Mãn tang ông vào kinh tiếp tục làm quan và giữ nhiều các chức vụ khác nhau: Biện lí bộ Hộ, Bố chánh Quảng Ngãi, Trực học sĩ, Phó sư...Cuối năm 1883 ông được giữ chức quyền tổng đốc Sơn Tây – Hưng Yên – Tuyên Quang nhưng chính lúc này ông viện cớ đau mắt nặng cáo quan về làng, khi ấy ông mới 50 tuổi (1884). Quyết định cáo quan về làng là quyết định có ý nghĩa quan trọng tạo ra bước ngoặt lớn trong cuộc đời ông. Hành động ấy thể hiện tinh thần yêu nước, bộc lộ nhân phẩm đáng trân trọng của Nguyễn Khuyến. Khi ông kiên quyết không màng đến danh lợi mà lúc đó thực chất là làm tay sai cho giặc. Đây cũng chính là khoảng thời gian giúp ông có điều kiện hoà mình với cuộc sống cơ khổ và thân phận mất nước của bà con làng xóm quê hương. Ngày 5 tháng 02 năm 1909 (tức ngày 15 tháng Giêng năm Kỉ Dậu) Nguyễn Khuyến đã trút hơi thở cuối cùng, thọ 75 tuổi. Như vậy, Nguyễn Khuyến đã làm quan trong khoảng 13 năm (trong đó có ba năm về chịu tang mẹ), còn phần lớn cuộc đời ông gắn bó với làng quê chiêm trũng Bình Lục. Do đó, Nguyễn Khuyến rất am hiểu cuộc sống nông thôn, ông gắn bó với người nông dân, với quê hương như máu thịt. Đó chính là nguyên nhân quan trọng đưa nhà thơ đến thành công đặc biệt khi viết về nông thôn. 1.3 Sự gắn bó với làng quê của Nguyễn Khuyến Mùa thu năm 1884, Nguyễn Khuyến trở về vườn Bùi để tìm kiếm sự bình yên trong tâm hồn, để tạm quên đi những điều day dứt trong lòng. Năm 1852, ông lấy vợ và đi thi Hương lần đầu tiên cùng với cha nhưng không đỗ. Năm kế tiếp, trong địa phương bỗng xuất hiện dịch thương hàn, anh khoá Thắng mắc bệnh suýt chết. Cha và em ruột cùng nhiều họ hàng thân thuộc cũng qua đời trong cơn đại dịch kinh hoàng ấy. Gia đình anh khoá Thắng càng lâm vào cảnh xác xơ, tiêu điều đói rét. Từ năm 1854, anh phải tiếp tục theo nghề cha đi dạy học ở nhiều nơi để trang trải học phí và cuộc sống, lần lượt ở Lạng Phong 10
  16. (huyện Nho Quan), Kỷ Cầu (huyện Thanh Liêm)..., vừa lần lượt học các ông Giáo thụ Nho quan là Phạm Mỹ, Đốc học cử nhân Trần Duy Vỹ ở xã Vũ Bản, được Vũ Văn Báo giúp đỡ cho chỗ ăn ở và khuyên đến học với cha mình là Tiến sĩ Vũ Văn Lý ở xã Vĩnh Trụ huyện Nam Xang. Mãi đến năm 1871, ông liên tiếp đỗ đầu thi Hội, thi Đình. Như vậy, trước khi đỗ đạt làm quan năm 1871 Nguyễn Khuyến đã có 17 năm gắn bó với quê nhà và gần 20 năm lênh đênh đây đó vừa dạy học kiếm sống vừa tìm thầy học cho mình. Sau 13 năm làm quan (trừ ba năm về quê chịu tang mẹ), mùa thu năm 1884, ông trở về quê Yên Đổ khi mới 50 tuổi và gắn bó với nơi “chôn nhau cắt rốn” của mình cho đến khi trút hơi thở cuối cùng là lúc 75 tuổi. Như vậy, trừ thời gian làm quan và lên Hà Nội dạy học, ông đã sống ở quê nhà hơn 40 năm. Do đó, ông am hiểu từ bụi tre, bờ ao, ruộng đồng, vườn tược, đến làng xóm, dân tình, phong tục. Tuy Nguyễn Khuyến không trực tiếp làm ruộng, trong cuốn “Tuyển chọn và trích dẫn những bài phê bình – bình luận văn học của các nhà văn – nghiên cứu Việt Nam – thế giới” tác giả Chu Văn có viết “Người ta thì cày cuốc, cưa đục, đan lát, be tát, chài lưới. Tối tối, nhà đó có đồng tiền bát gạo. Ông già Tam dài lưng tốn vải, chẳng biết cấy cày, nề mộc gì, có mỗi một cây bút vốn liếng, và ít chữ để bụng.” [3,15-16] nhưng nhờ gắn bó với người dân thôn quê nên ông hiểu rất rõ về cuộc sống của họ. Bởi vậy ông mới có những vần thơ rất Việt Nam: “Năm gian nhà cỏ thấp le te, Ngõ tối đêm sâu đóm lập loè.” Nhắc đến Nguyễn Khuyến là ta nhớ ngay đến những vẫn thơ thu đặc sắc. Nguyễn Khuyến trở thành thi sĩ của mùa thu với ba bài thơ bất hủ: Thu điếu, Thu ẩm,Thu vịnh. Tuy rằng trước kia cũng có những bài thơ tả cảnh thu nhưng có vẻ như thi liệu trong đó còn được vay mượn nhiều từ Trung Hoa và đầy khuôn sáo: 11
  17. “Lác đác ngô đồng mấy lá bay, Tin thu heo hắt lọt hơi may.” (Hồng Đức quốc âm thi tập) So với thơ của Nguyễn Khuyến, có phần chưa đặc sắc bằng: “Ao thu lạnh lẽo nước trong veo, Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo. Sóng biếc theo làn hơi gợn tí, Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo.” (Thu điếu) Ngay cả khi tả một ngôi chùa cũ kĩ cùng với một nhà sư đơn độc, ông cũng sử dụng những hình ảnh thật đẹp: “Chùa xưa ở lẫn cùng cây đá, Sư cụ nằm chung với khói mây.” (Nhớ núi Đọi - II) Nhưng đây là hình ảnh “sương khói” rất hiếm khi ta bắt gặp trong thơ Nguyễn Khuyến, đa số là những hình ảnh quen thuộc, chất phác, gắn liền với chân quê như: con trâu, con gà, ngõ trúc, đường làng, khúc sông, bãi chợ, vườn cà, cây cải, ao cá, bờ tre: “Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt, Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.” (Thu điếu) Tuy nhiên, điều khiến cho Nguyễn Khuyến thực sự trở thành nhà thơ của làng quê Việt Nam không chỉ dừng lại ở những vần thơ tả cảnh mà còn là tình cảm chân thành của ông đối với những người nông dân lầm than cơ cực. Ông thực sự thông cảm với đời sống cực nhọc của nhân dân phải “một nắng hai sương” lại thêm cảnh thiên tai hoành hành khiến đê vỡ lụt lội, nghèo túng làm ăn thất bát, nợ nần “lãi mẹ đẻ lãi con”. Có thể nói rằng: với Nguyễn Khuyến 12
  18. thơ văn Việt Nam “lội xuống ruộng đồng” và cảm thông sâu sắc với dân quê, để nghe: “Ình ịch đêm qua trống các làng, Ai ai mà chẳng rước xuân sang!” (Khai bút) Ông đã thực sự hoà mình với cảnh khổ của dân, Nguyễn Khuyến thấu hiểu mọi thuận lợi, khó khăn của nhà nông. Ông lo lắng với mọi thiên tai có thể xảy ra. Được mùa nhà thơ vui cùng nhân dân niềm vui ấy chẳng được là bao thì lại đau lòng khi “mắc ngay nạn chuột”. Nhà nông quanh năm lo lắng, vất vả chẳng lúc nào được yên mà cuộc sống vẫn vất vả “đầu tắt mặt tối”, nợ nần chồng chất: “Lãi mẹ, lãi con, sinh đẻ mãi, Chục năm, chục bẩy, tính nhiều sao?” (Than nợ) Chứng kiến cảnh lam lũ, nhọc nhằn, tất bật của việc đồng áng nên nhà thơ mới thấu hiểu cuộc sống cực nhọc mà nhà nông phải gánh chịu. Nguyễn Khuyến cùng “đồng cam cộng khổ” gắn bó với nghề nông. Dù gia đình ông có truyền thống khoa bảng nhưng ông cũng không quên dặn các con mỗi khi xuân về: “Nhi tào hoặc khả thừu ngô chi, Bút nghiễm vô hoang đạo, thúc, sơ.” (Ngày xuân dạy con học) “Các con nối chí cha nên biết: Nghiên bút đừng quên, lúa, đậu, cà.” (Vũ Mộng Hùng dịch) 13
  19. Chính việc trở về quê nhà đã giúp cho Nguyễn Khuyến không hoàn toàn phụ thuộc vào tư tưởng trung quân lỗi thời, xa dần những ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo, những tầm chương trích cú, những ước lệ tượng trưng sáo rỗng. Mặt khác, ông kế thừa và cách tân văn chương truyền thống để có những tác phẩm văn chương đích thực diễn tả cuộc sống khó nhọc của người dân. Ở đó, ông xây dựng được những hình ảnh cụ thể, miêu tả một hiện thực phong phú sinh động mà không kém phần ý vị. Để làm được điều đó Nguyễn Khuyến đã phải hoà mình vào cuộc sống của nhân dân mong muốn vơi đi trong lòng mình sự áy náy day dứt, đau khổ về mặc cảm của bản thân. Ông tìm thấy nơi thiên nhiên sự thanh thản trong tâm hồn, niềm lạc quan yêu đời khi hoà mình vào cuộc sống vất vả của người nông dân, sống cùng tình cảm thân mật của xóm làng. Nguyễn Khuyến sống gần gũi với người nông dân, trong cuốn Nguyễn Khuyến và giai thoại, Chu Văn có viết: “Nếu gặp một vài ông có tuổi, Cụ dừng lại hỏi về cánh lúa sào mạ, ruộng khoai nào tốt xấu, trong nhà thì con gà con lợn, có hay ăn chóng lớn không? Gặp một đám đang chí chát đục tre, xẻ gỗ làm ngôi nhà mới, thợ thuyền râm ran, Cụ rẽ lối lần vào, cùng ngồi trên manh chiếu chủ nhà trải vội nơi vỉa hè, uống bát nước chè tươi. Cụ mời trầu các bác phó cả, phó hai, các chú thợ bạn, xuề xoà, thân thuộc.” [4,16]. Từ đây ta có thể thấy, Nguyễn Khuyến có một tâm hồn thật bình dân. Và văn học sử cho ta thấy: chưa từng có một vị quan lớn tổng đốc nào lại đi làm câu đối, câu phúng điếu cho người láng giềng, bà thông gia, anh thợ rèn, chị thợ nhuộm, chị hàng thịt... Những câu đối thật đẹp, thật hay và cũng chứa đầy tình cảm đôi khi có chút hài hước bên trong, như câu đối cho chị vợ anh hàng thịt để treo trong nhà: “Tứ thời bát tiết canh chung thuỷ Ngạn liễu đôi bồ dục điểm trang” 14
  20. (Bốn mùa, tám tiết bền chung thuỷ Dặm liễu, gò bồ, muốn điểm trang) Hai vế của câu đối rất chỉnh, nó nói lên sự thông cảm với nỗi lòng người goá phụ, nhưng cũng có những hình ảnh phù hợp với nghề nghiệp của cặp vợ chồng: “bát tiết canh, đôi bồ dục”. Tác giả rất hóm hỉnh và cũng rất sâu sắc. Từ xưa tới nay có rất nhiều thi sĩ viết về cảnh làng quê Việt Nam nhưng ít nhiều cảnh trong đó còn xa lạ, thi tứ vẫn vay mượn từ thơ Đường. Sau này có những thi sĩ như Đoàn Văn Cừ, Bàng Bá Lân, Nguyễn Bính, Anh Thơ đã miêu tả nhiều nét đẹp của làng quê và tâm tình người nông thôn nhưng có lẽ mộc mạc và chân thực hơn cả ta vẫn nên tìm đến với những vần thơ của cụ Tam. Chúng ta cảm thông với những day dứt, băn khoăn, với nước mắt và nụ cười của nhà thơ. Nguyễn Khuyến gắn bó với cuộc sống nơi thôn dã, bởi vậy, ông đã sử dụng những thi liệu dân tộc để miêu tả phong cảnh nông thôn, khắc hoạ một cách chân thực cuộc sống cực khổ nhưng vẫn nên thơ của những người dân lành, ông “thi vị hoá” tình bạn, cười cái đáng cười và khóc điều đáng khóc trong xã hội và nhất là đã yêu mến quê hương với một tấm lòng chân thành. Như vậy, từ đây ta có thể khẳng định thêm một lần nữa Nguyễn Khuyến thực sự là “nhà thơ của quê hương làng cảnh Việt Nam”. 15
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2