TẠP CHÍ KHOA HỌC, Đại học Huế, Số 23, 2004<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
KIỂU NHÂN VẬT MA TRONG VĂN XUÔI ĐƯƠNG ĐẠI VIỆT NAM<br />
Bùi Thanh Truyền <br />
Trường Đạûi học Sư phạm, Đại học Huế<br />
<br />
<br />
1. Trong khu rừng văn học kì ảo xưa nay, truyện về các hồn ma bóng quỷ bao <br />
giờ cũng là cây đại thụ um tùm nhất. Theo thời gian, cây phả hệ truyện ma không vì <br />
thế mà già cỗi, trái lại như được cung cấp thêm nhiều dưỡng chất mới của thời đại, <br />
nó càng tiếp tục đẻ nhánh, sinh cành thành một dòng chủ đạo của bộ phận văn học kì <br />
ảo. Sức sống mãnh liệt của dòng truyện này khiến không ít người phải tốn nhiều <br />
công sức để tìm hiểu những căn nguyên ra đời và trưởng thành của nó. Theo chúng <br />
tôi, muốn làm được điều này, có lẽ không ngoài việc lần lại cội nguồn xa xưa của <br />
truyện ma.<br />
Trước khi có văn học thành văn, làng quê phương Đông nói chung và Việt <br />
Nam nói riêng đều được tắm mình trong bộ phận văn học truyền miệng thô mộc, <br />
khỏe khoắn, trong đó hấp dẫn người nghe nhất vẫn là những câu chuyện thần linh, <br />
quái dị. Mà cái thế giới ma trong dân gian thì thiên hình vạn trạng, nó xuất phát từ thế <br />
giới tự nhiên ngỡ như gần gũi, nhẵn mặt nhưng cũng hết sức xa lạ, kì bí đối với con <br />
người. Quan niệm vạn vật hữu linh khiến người ta nhìn sự vật nào cũng như thấy có <br />
sinh mệnh, có cuộc sống riêng. Chính vì thế, ma đâu chỉ là người chết hiện hồn, ma <br />
còn là loài vật, đồ vật, cây cối, thậm chí cả các hiện tượng địa lí, tự nhiên như sông <br />
núi, gò hoang... "lâu ngày thành tinh". Niềm tin về các thế lực siêu nhiên lẩn khuất <br />
xung quanh dường như khá thường trực ở mỗi người và "thần cây đa, ma cây gạo, cú <br />
cáo cây đề" trở thành câu cửa miệng của cả một cộng đồng. Hít thở bầu không khí li <br />
kì, rùng rợn từ thuở ấu thơ, chuyện ma đã ăn sâu vào tâm khảm mỗi cá nhân, trở <br />
thành cái "vô thức tập thể" của dân tộc. Nghe chuyện ma thì sợ, nhưng càng sợ càng <br />
thích nghe. Chất ma túy của chuyện ma cùng với nỗi sợ bản năng ấy không hề mất <br />
đi mà chỉ ngụy trang, biến thái khi con người giã từ tuổi thơ sang tuổi trưởng thành, <br />
khi dân tộc chia tay với giai đoạn nguyên thủy, sơ khai trong tư duy, nhận thức để <br />
bước vào thời đại văn minh, tiến bộ.<br />
Cùng với quan niệm vạn vật hữu linh thuần phác của dân gian, ma trong văn <br />
học thành văn còn bị chi phối bởi quan niệm phi nhị nguyên về thế giới một quan <br />
niệm khá đặc trưng và rất phổ biến ở đa số các nước phương Đông tiền công <br />
nghiệp, ở đó không có sự ngăn cách tuyệt đối giữa người sống và người chết, giữa <br />
cõi âm và cõi dương. Trong tâm thức người Việt, cõi âm là cõi vĩnh hằng, là biểu <br />
hiện của phạm trù thời gian vĩnh cửu. Chết không phải là hết mà là chuyển từ trạng <br />
31<br />
thái sống này sang trạng thái sống khác, từ trạng thái người sang trạng thái ma (hoặc <br />
quỷ) để tiếp tục cuộc đời ở thế giới bên kia. Đó chỉ là sự "khuất núi", nghĩa là vẫn <br />
tồn tại trên mặt đất này nhưng vẫn hiện diện một khoảng cách nhất định đối với <br />
người sống (tức ở bên kia núi) [xem 1] như kiểu "lên đường theo tổ tiên", "về với <br />
ông bà ông vải" vậy. Hai cõi dương (bên này) và âm (bên kia) gắn bó với nhau như <br />
hai mặt của một tờ giấy, tương thông và tác động qua lại lẫn nhau mà "sứ giả của <br />
chúng là những thần tiên, quái vật, những ông đồng, bà cốt, đạo sĩ, thầy pháp, chân <br />
nhân..." [2] nhưng thường gặp hơn cả vẫn là ma quỷ. <br />
Truyện ma đương đại, do được kế thừa một di sản đồ sộ từ truyền thống, <br />
nên sức sống vẫn không hề suy giảm. Dĩ nhiên, cùng với đặc trưng huyết thống, ảnh <br />
hưởng của môi trường, thời đại cũng là "chất tăng trọng" đáng kể đối với sự tái sinh <br />
rầm rộ của chúng. Do khuôn khổ của bài viết và cũng xuất phát từ hạn chế của việc <br />
bao quát tư liệu, chúng tôi chỉ hướng trọng tâm vào khảo sát hệ thống nhân vật ma <br />
với tư cách là hiện hình (vision) của những người đã khuất mà thôi.<br />
2. Có lẽ cũng nên bắt đầu việc dựng chân dung của kiểu nhân vật này bằng <br />
cách phát thảo đôi nét về diện mạo. Dù là tồn tại song song với thế giới thực, là anh <br />
em song sinh của con người, thế giới ma trong văn xuôi hôm nay vẫn có thể khu biệt <br />
mình qua ba motip quen thuộc: Họ là phaøn vật chất, đứng ngoài quy luật nghiệt ngã <br />
của thời gian với âm khí nặng nề.<br />
Dường như là một sự quy ước ngầm: Nếu như cảm nhận được bằng giác <br />
quan thì ma (quỷ) trong văn xuôi đương đại bao giờ cũng mang theo cái lạnh ghê <br />
người từ cõi âm (đối lập với cái ấm của con người trên dương thế). Âm khí thường <br />
toát ra từ "đôi môi lành lạnh" (Thần đất Vũ Bão), từ đôi mắt "xanh biếc, cái mầu <br />
xanh lạnh của mầu xanh con đom đóm" (Ám ảnh có thật Trần Huy Quang), từ giọng <br />
nói "lạnh như băng", từ thân xác "to lớn lạnh lẽo" (Giữa trần gian và địa ngục <br />
Nguyễn Đình Bổn)... nhưng nhiều nhất vẫn là từ bàn tay. Không hẹn mà nên, bàn tay <br />
của tráng sĩ cụt đầu (Đêm vu lan Võ Thị Hảo), của Quỷ Vô thường (Giữa trần gian <br />
và địa ngục), của nàng Bướm Trắng trong câu chuyện cùng tên, của những liệt sĩ <br />
như Lăng (Bến trần gian Lưu Sơn Minh), Dương (Thần đất) đều khiến người sống <br />
phải ngạc nhiên xen lẫn nghi ngờ tư cách tồn tại của họ trên cõi trần, bởi nó "nhợt <br />
nhẽo và giá lạnh", "lạnh ngắt", "cứng lạnh như sắt", "lạnh băng", "lạnh thế", "lạnh <br />
lắm nhưng có sức hút lạ kì"...<br />
Trường hợp thứ hai, nếu không cảm nhận được bằng xúc giác thì nhân vật <br />
ma chính là những phản vật chất. Họ là Lăng với cái bóng "trôi nhè nhẹ trên sông", là <br />
Dương với "khuôn mặt chỉ là một bóng mờ mờ có in hình đôi mắt đắm đuối", là <br />
những người trong phiên chợ dưới trăng rằm với hình hài "không phải là da thịt mà <br />
chỉ như không khí cô đặc lại mà thôi...". Và khi họ di chuyển, bước chân "sao cứ như <br />
bay, như lướt" trên mặt đất (Chợ rằm dưới gốc dâu cổ thụ Y Ban), "không nghe <br />
thấy tiếng chân, dường như không có sự nhún nhảy của bước chân" (Ám ảnh có <br />
thật). Rời dương thế để vào cõi âm, họ mang gương mặt nửa thực nửa hư của <br />
những cư dân nghĩa địa. Nghĩa là, như cách mô tả của hồn ma ông giáo trong Nghĩa <br />
địa xóm Chùa (Đoàn Lê), "ngoài đầu lâu xương sọ bên trong chúng tôi mang thêm lớp <br />
<br />
32<br />
bọc lờ mờ xanh lợt, y hệt nét mặt sinh thời. Tấm màn bao phủ này nhìn rõ nhưng <br />
không sờ mó thấy. Có vậy chúng tôi mới phân biệt được nhau, chứ lủng củng rặt <br />
những xương ai chả giống ai". Tương tự như lời nhân vật này, chúng ta cũng có thể <br />
nói rằng, nếu không tồn tại hai đặc trưng vừa nêu, thật khó có thể xác định ranh giới <br />
giữa ma và người. <br />
Chính cái bản chất phản vật chất này khiến cho ma không thể hiện diện giữa <br />
thanh thiên bạch nhật, vì họ "không chịu nổi cả gió lẫn mặt trời" (Đợi bạn Ngô Tự <br />
Lập) bởi "khí âm hễ gặp ánh mặt trời là bị tan biến ngay" (Cõi âm Triệu Bôn) mà <br />
phải lấy đêm với bóng tối dày đặc làm môi trường tồn tại. Nhưng "đêm" vẫn chưa <br />
hẳn là lí do tối thượng để hồn ma từ thế giới bên kia dấn thân vào chốn nhân gian <br />
nhiều nghiệp chướng. Cội rễ của vấn đề nằm ở chỗ khác, sâu xa hơn, đó là một cái <br />
tâm "còn ham cõi dương", vẫn nặng nợ với bao căn duyên nơi trần thế.<br />
Đứng ngoài quy luật nghiệt ngã của thời gian là đặc trưng thứ ba thường thấy <br />
ở các nhân vật ma. Cái chết đã đưa họ bước từ cõi trần "sinh lão bệnh tử" sang cõi <br />
vĩnh hằng, ở đó nhân vật không hề thay đổi diện mạo trước lúc nhắm mắt xuôi tay. <br />
Chúng ta sẽ gặp ở đây một hài nhi "mấy nghìn năm tuổi" (Cõi âm), một ông già tuổi <br />
trên thất thập vẫn trong hình hài của chàng trai tuổi hai mươi ( Tàn đen đóm đỏ <br />
Phạm Ngọc Tiến), một cung nhân từ thời Nguyễn vẫn là một cô bé "mười lăm mười <br />
sáu tuổi", "với vẻ đẹp lạc loài và y trang lạc thời" (Bức tranh thiếu nữ áo lục Quế <br />
Hương). Tráng sĩ cụt đầu thì "tay phải (...) cầm bảo kiếm, tay trái đỡ một cái đầu lâu <br />
râu tóc xoã xượi" (Đêm vu lan), một vị tướng "thể xác lừng lững, cao đến mét bảy, <br />
đóng khung trong bộ quân phục cấp tướng, huân chương đầy ngực" (Nghĩa địa xóm <br />
Chùa). Nhưng có lẽ day dứt trái tim người đọc hơn cả là trăm ngàn hồn ma liệt sĩ. <br />
Họ cứ thế, mãi mãi tuổi đôi mươi, "trẻ nguyên, trẻ mãi", vẫn hồn nhiên thắp lên <br />
những ước mơ, hoài bão ấm cả cõi âm (Những khóm cúc hoa vàng Thang Sắc, Ăn <br />
mày dĩ vãng Chu Lai, Cặp bồ với ma Ngô Văn Phú, Tiếng rừng Hiền Phương, <br />
Đốm lửa Nguyễn Thị Minh Thúy, Đợi bạn, Thần Đất, Bến trần gian, Tàn đen đóm <br />
đỏ...). Dường như tất cả đều muốn gửi đến cho những người đang sống lời nhắn <br />
nhủ thiết tha: Xin gửi lại các bạn quỹ thời gian của chúng tôi trên trần thế; vì người <br />
đã khuất mong các bạn hãy sống tốt đẹp hơn...<br />
Cũng giống như truyền kì, chí dị, phần lớn ma trong văn xuôi hôm nay là nữ, <br />
họ về dương gian với những mục đích khác nhau. Nếu là do còn vương vấn bụi trần, <br />
còn biết xót thương những nỗi đau trần thế, còn "khát yêu đương", họ sẽ hiện lên <br />
trong chân dung "người đàn bà quyến rũ", chủ động, cuồng nhiệt trong tình yêu, vượt <br />
ra ngoài những khuôn phép thường tình. Khác với những chị em song sinh trong <br />
truyền kì, dẫu vẫn "xăm xăm băng lối vườn khuya một mình" để đến với tình lang <br />
nhưng "tam tòng tứ đức" của Nho gia dù sao vẫn dựng lên giữa họ một ranh giới <br />
không sao xóa sạch ("xé rào" cỡ Liễu Nhu Nương và Đào Hồng Nương trong Truyện <br />
kì ngộ ở trại Tây (Truyền kì mạn lục) cũng chỉ dám "đứng ở bên trong bức tường đổ <br />
(...) hái những quả ngon, bẻ bông hoa đẹp mà ném cho Hà Nhân" để gợi sự chú ý của <br />
chàng, "lâu ngày như thế Nhân không mần ngơ được, một hôm mới đứng lại trò <br />
chuyện lân la" [3]; vì thế họ cũng không thoát khỏi thân phận của kẻ liễu yếu đào tơ <br />
<br />
33<br />
tìm cội tùng quân nương bóng), ma nữ giờ đây là những người hoàn toàn chủ động: <br />
nửa đêm đến, mờ sáng đi, thậm chí chủ động cả ... tỏ tình với cung cách "bạo dạn lạ <br />
lùng" (Độc huyền Nguyễn Đình Bổn), đặc biệt là chủ động quyết định số phận của <br />
chính họ. Nhưng quan trọng hơn, họ đến với người yêu trần thế không phải để tìm <br />
sự chở che, an ủi mà chính là để xẻ chia, giúp đỡ những người đàn ông cô đơn, bất <br />
hạnh. Với Nguyễn Văn Nhân "độc thân, vợ bỏ, không con cái", mấy ngày tết vẫn hiu <br />
quạnh ở nghĩa trang hoặc chàng trai đang gặp nhiều bất như ý một mình sống giữa <br />
vùng bán sơn dã tĩnh lặng, chàng đánh cá mồ côi khốn khó thì hồn ma của Hoàng Thu <br />
Huệ, của Lan, của cô gái vô danh như là thứ nước cam lồ xoa dịu nỗi cô đơn, xả cho <br />
họ những nhọc nhằn cay đắng (Hoa lạ Nguyễn Đình Bổn, Độc huyền, Cặp bồ với <br />
ma). Với người chiến sĩ văn công thì cô gái áo lục như một tấm bùa hộ mệnh, một <br />
cảm hứng nghệ thuật đích thực nâng đỡ tâm hồn anh vượt qua những gian nan khốc <br />
liệt của chiến tranh và bao cám dỗ của thời bình (Hồn trúc Nguyễn Văn Thông). <br />
Điệp (Bướm trắng Ngô Văn Phú) không kể sự nguy hiểm đến tính mạng giúp <br />
người yêu ân nhân đỗ đạt, trả được món nợ công danh, hồn vợ hoûa sĩ Xuân Tư <br />
chấp nhận bán mình (đồng nghĩa với việc chết thêm một lần nữa) để cho chồng có <br />
tiền thực hiện bức tranh hằng ấp ủ ( Bán cốt Võ Thị Hảo)... Rõ ràng cái "thiên tính <br />
nữ" lúc sống vẫn còn vẹn nguyên khi nhân vật "giã từ cõi thật để vào hư"...<br />
Ngược lại, nếu kiếp trước chịu nhiều oan khuất để đến nỗi phải chọn cái <br />
chết tức tưởi thì họ sẽ hiện về trong sắc diện của những hồn ma báo oán, trả thù <br />
những kẻ đã gây nỗi bất hạnh cho mình bằng vẻ ngoài khủng khiếp, bất thành nhân <br />
dạng: "lè lưỡi (...), mắt trợn trừng sáng quắc", "nhe hai hàm răng trắng nhởn ra", "cái <br />
đuôi tóc hồi trước bây giờ là một con rắn ngoe nguẩy" (Người cùng phố Nguyễn <br />
Anh Thư); "bóng ma lõa lồ với mái tóc dài đến gót chân ôm quanh người lúc ẩn lúc <br />
hiện (...) cất lên tiếng cười nghe lạnh đến xương" ( Huyền thoại về người đẹp <br />
Kiều Bích Hậu); hoặc "khuôn mặt (...) trắng như sáp (...), hai con mắt không có lòng <br />
đen, nó chỉ tròn như hai đồng xu" (Ám ảnh có thật)... Họ chính là những tín sứ của tử <br />
thần dẫn dụ những linh hồn tội lỗi xuống địa ngục.<br />
Nhưng cuộc sống âm cung không phải lúc nào cũng khiến nhân vật thực hiện <br />
hành vi trả thù với trái tim lạnh băng, vô cảm. Trái lại, trong thẳm sâu của cõi lòng <br />
nhiều thương tổn bởi hận thù kia vẫn còn âm ỉ cháy lên ngọn lửa nhân hậu, nhân <br />
tình, nhất là khi họ đứng trước những con người giàu đức hi sinh, chung thủy như <br />
trường hợp hồn ma của Xoan trong Huyền thoại về người đẹp dưới đây:<br />
"Thương chắp tay lại, giọng cô run lên vì đau khổ:<br />
Ôi thưa bà, tình yêu của chúng con thật tha thiết, con yêu anh ấy, anh ấy yêu <br />
con, chúng con không thể rời nhau được. Nếu bà không thể tha cho anh ấy thì xin bà <br />
hãy ban cho con một ân huệ.<br />
Điều gì vậy? bóng ma lạnh lùng hỏi.<br />
Xin bà hãy cho con được chết cùng anh ấy.<br />
Cô còn trẻ, đời còn dài. Cô không nên chết.<br />
Nhưng con sống mà không có anh ấy, thì đau khổ hơn cả cái chết.<br />
Xin bà hãy cho chúng con được chết bên nhau.<br />
<br />
34<br />
Bóng ma bỗng lay động, đầu gục rũ xuống. Thương thoảng nghe như có tiếng <br />
khóc. Rồi một làn gió bay qua mặt cô, bóng ma biến mất"<br />
Thì ra cái quan niệm đức năng thắng số, tình yêu hóa giải hận thù vẫn còn <br />
bảo lưu giá trị ở thế giới bên kia. Nhờ thế cõi âm không còn hoang ảo, dịu vợi mà <br />
gần gũi, ấm áp tình người, và ma cũng không còn gợi cảm giác xa lạ hay khiếp sợ mà <br />
lung linh trong vẻ đẹp thánh thiện rất con ngưòi, bởi "hễ ai có tình thì ma hay người <br />
đều quý" (Cặp bồ với ma). <br />
Nếu "ma yêu" khêu gợi lòng hướng thiện ở người đọc thì "ma báo oán" lại là <br />
sự răn đe, cảnh tỉnh. Hai kiểu nhân vật thoáng nhìn có vẻ trái ngược nhưng lại khá <br />
thống nhất với nhau, làm nên sự đầy dặn trong chân dung nhân vật theo quan điểm <br />
của con người hiện đại. Bởi cũng như người sống, nhân vật ma cũng tồn tại song <br />
hành hai thái cực tình cảm "biết căm thù và biết yêu thương". <br />
Nếu như trong văn xuôi truyền thống, hầu hết các "ma yêu" đều là nữ thì văn <br />
xuôi hôm nay lại dành một vị trí khá trang trọng cho phái mạnh, đặc biệt là những <br />
người lính từ giã cõi đời khi tóc còn rất xanh. Thắng tham dự những phiên chợ rằm <br />
dưới gốc dâu cổ thụ cũng chỉ với mục đích dùng tiếng sáo trầm bổng, mê hoặc để <br />
dẫn gọi người yêu; anh lính tên Dương đêm đêm vẫn hiện về để được "nhìn đắm <br />
đuối vào đôi mắt Mai", để những ngón tay cứ vô thức "run bần bật" trong bàn tay <br />
người tình (Thần Đất). Với Hiền, tình yêu của người đã khuất, như lời chị "nâng <br />
đỡ tâm hồn côi cút của tôi trên sa mạc cuộc đời" (Tiếng rừng). Tương tự như thế, <br />
tình yêu lẫn trong tình đồng chí, đồng đội của Thanh là ánh sáng hướng đạo cho <br />
Ngọc và Mĩ thoát khỏi họng súng của kẻ thù ( Đốm lửa). Nhưng có lẽ se thắt trái tim <br />
người đọc hơn cả vẫn là nỗi hoài nhớ trần gian đến quắt quay của những vong hồn <br />
liệt sĩ. Không may mắn như những đồng đội khác có được một nắm đất gửi mình, <br />
họ bị "kẹt giữa trần thế và âm cung" bởi "chết không mồ không mả, không tên, <br />
không tuổi, không hương khói, hồn cứ dật dờ" không sao tìm được đường về quê <br />
mẹ. Thế nhưng, cũng như người sống, anh lính Phương trong tiểu thuyết Tàn đen <br />
đóm đỏ vẫn từng phút đợi chờ ngày hòa bình rồi mỏi mòn mong đợi ngày được đồng <br />
đội phát hiện ra hài cốt, vẫn dành cho người yêu (vong hồn cô gái giao liên) những <br />
tình cảm đầy thủy chung, trong sáng. Còn Lăng, anh đã đi mấy chục năm mà vẫn <br />
luẩn quẩn trong rừng. Cho tới một hôm, trong cuộc viễn du vô định, anh gặp một ông <br />
già râu tóc bạc phơ cho anh một chiếc lá để gài vào vành tai; cái lá sẽ giữ cho linh <br />
hồn anh không tan ra khi quay về chốn cũ gặp lại mẹ già và người yêu thuở trước... <br />
Nỗi khát sống, khát yêu vẫn cháy bỏng trong trái tim người lính sau khi trút hơi thở <br />
cuối cùng này khiến chúng ta bàng hoàng xúc động xen lẫn niềm ngưỡng mộ, trân <br />
trọng bởi một lần nữa phát hiện thêm ở họ những điều quý giá.<br />
Ở đây tình yêu đã trở thành diệu pháp để "người hóa" nhân vật ma "ma khát <br />
yêu đương sẽ hóa người". Nhưng tình yêu, cái "nhịp cầu" nối hai thế giới người ma <br />
cũng mong manh, dễ gãy, nhất là khi nhân vật đối diện với sự thật khắc nghiệt để <br />
rồi xót xa bừng ngộ về thực tại của mình: Dù nặng nợ và mê đắm đến đâu họ cũng <br />
chỉ là kiếp ma, mà "tình ma liệu có được bằng người" (Bướm Trắng), "âm dương <br />
cách trở cả một đời người thì làm sao mà chung sống với nhau được" ( Chợ rằm dưới <br />
<br />
35<br />
gốc dâu cổ thụ). Cái lằn ranh mơ hồ giữa hai cõi âm dương như đặt dấu chấm hết <br />
cho những mối tình nặng màu sắc liêu trai của họ: Hoàng Thu Huệ phải theo hài cốt <br />
trở về quê hương, Dương, Lăng, Thắng... cũng phải ngậm ngùi " quay về xứ ma" <br />
trước khi gửi lại trần gian cái nhìn lưu luyến và chan chứa ân tình. Vậy là thế giới <br />
bên kia dù quyến rũ bao nhiêu chăng nữa thì cuộc đời thực tại vẫn là "điểm quy <br />
chiếu" để người sống hướng đến. Dẫu sao tình yêu hư ảo như phù vân ấy vẫn để <br />
lại trong lòng người nỗi ám ảnh, day dứt khôn nguôi về lẽ sống, về cái đẹp vụt qua <br />
như ánh sao băng giữa cuộc đời này.<br />
Cũng là kiểu nhân vật siêu thực như ma nhưng văn xuôi hôm nay ít đề cập <br />
đến hình tượng quỷ. Trong số 53 truyện xây dựng kiểu nhân vật này, quỷ chỉ có 4 <br />
truyện, chiếm 7,5%. Họ là những sứ giả của Diêm phủ xuất hiện trong tác phẩm chỉ <br />
như chất phụ gia quan trọng để nhà văn tái tạo kiểu con người dục vọng những nô <br />
lệ bị đồng tiền, danh lợi làm méo mó, quái dị cả nhân tính lẫn nhân hình.<br />
Người đọc sẽ bắt gặp ở những truyện có kiểu nhân vật này một môtip khá <br />
quen thuộc trong văn xuôi kì ảo thế giới: môtip kí giao kèo (hoặc bán linh hồn, lương <br />
tâm) với quỷ sứ (chẳng hạn một số tác phẩm của Balzac như Miếng da lừa, Thuốc <br />
trường sinh, Đá, Tấm bùa...). Là kẻ mua lương tâm nên quỷ xuất hiện trong truyện <br />
với tư thế của một thương gia chính hiệu: "dáng vẻ phong lưu đường bệ lắm" ( Trái <br />
đắng Nguyễn Minh Dậu), "cặp mắt (...) cân đối đến lạ kì, như luôn luôn ở thế cân <br />
bằng trên một chiếc cân tiểu li (...) Ở vị trí của cái xương cụt không hề có một cái <br />
đuôi của quỷ sứ", bàn chân cũng "là một bàn chân người, không có bộ móng guốc <br />
như chân dê", "không hề có đầu một cái sừng nào nhú lên cả" (Ai là quỷ dữ? Hồ <br />
Anh Thái). Tự xưng là Quỷ Vô thường thì cũng chỉ "trùm kín mình từ đầu tới chân <br />
bằng một chiếc áo khoác màu tối", thế thôi (Giữa trần gian và địa ngục). Nghĩa là <br />
tuyệt nhiên không có một chút dấu hiệu nào của quỷ. Vậy quỷ dữ là ai? Lần theo <br />
diễn tiến hai cuộc bán lương tâm kì quặc của hai nhân vật "hắn" và ông Tô Lệch <br />
trong Trái đắng và Ai là quỷ dữ ta sẽ phần nào giải mã được điều bí ẩn này:<br />
*Quá khứ của kẻ bán lương tâm: Hắn có "thói quen thấy mình là vua mỗi khi <br />
có đồng tiền trong tay"/ Tô Lệch "là kẻ vô lương tâm", "gây nên nỗi thống khổ cho <br />
đồng nghiệp và dân chúng".<br />
*Tình trạng hiện tại của người bán lương tâm: thất nghiệp, ăn bám vợ/ Hoàn <br />
toàn nghỉ việc, đang ngồi chờ làm nốt một số thủ tục để về hưu. <br />
*Diễn biến của quá trình bán lương tâm: Qua hai công đoạn:<br />
Lần 1: Người đàn ông lạ mặt đề nghị hắn giao vợ mình cho y, ngược lại y <br />
sẽ cho hắn một con số để đánh đề với lời căn dặn "nhớ là không được vượt qua giới <br />
hạn ta đã cho phép đâu đấy!" / " Người kia đưa hai tay về phía ông như đang nhẹ <br />
nhàng tóm bắt một vật mềm và trơn nhuội. Ông bỗng lắc mạnh, hai vai đau đớn"... <br />
Sau lần này, hắn "chỉ còn một nửa là người", Tô Lệch còn lại "một nửa lương tâm", <br />
"cảm giác là mình nhẹ đi rõ rệt".<br />
Lần 2: Hắn khấn vái để người kia hiện về: "Ông sẽ cho tôi nữa chứ?" <br />
"Được, (...) nhưng hãy nhớ là không được tham quá! Tham là mắc tai hoûa" xong cho <br />
hắn một con số rồi biến mất/ Tô Lệch thì "có còn gì đâu mà mua".<br />
<br />
36<br />
* Tình trạng của nhân vật sau khi bán linh hồn:<br />
Lần1: Trở thành con bạc khát nước, "hắn chơi bạt mạng", "nướng sạch số <br />
tiền được đề", "có gì bán cả"/ Có trong tay bạc triệu, Tô Lệch "bất ngờ cảm thấy có <br />
thể chuộc được lỗi lầm". Hành vi chuộc lỗi bằng cách gia ân, bố thí này khiến cơ <br />
thể nhân vật "nặng hẳn lên", "tăng trọng một trăm rưỡi kí".<br />
Lần 2: Trong lúc hắn sướng rơn vì trúng đậm, "những một triệu tám", "gấp <br />
hai mươi lần món tiền còm con ma keo kiệt kia thí cho" thì được tin "vợ hắn vừa bị <br />
bắt tại khách sạn với một gã đàn ông trong bộ trang phục nguyên thuỷ"/ Tô Lệch thì <br />
hầm hầm tức giận vì nghĩ mình bị kẻ kia "dìm giá".<br />
* Kết quả cuối cùng: Vợ hắn đem hai đứa con theo chồng mới vào Nam làm <br />
ăn. "Còn hắn đánh rơi mất mảnh giấy một triệu tám", "phát ngộ, đi lang thang cả <br />
ngày ngoài đường"/ Tô Lệch với bộ mặt làm cho lão Tầm Man, người chuyên yểm <br />
tà, trị quỷ phải "tái mặt", "hết hồn", "đâm nhào ra cổng quên cả chuyện trừ tà" vì vừa <br />
phát hiện một điều khủng khiếp: "Trong nhà này không phải chỉ có quỷ mà thôi".<br />
Vậy là đã rõ, quỷ không ở đâu xa, nó hiện diện ngay chính trong lòng người <br />
mảnh đất nương náu và gieo mầm của lỗi lầm và tội ác. Chính lòng tham, thần <br />
tượng hóa đồng tiền và sự chai lì trước nỗi bất hạnh của đồng loại như những chất <br />
xúc tác quyết định phản ứng từ người sang quỷ. Sự xuất hiện của quỷ kẻ mua <br />
lương tâm chỉ có ý nghĩa tượng trưng, là "vật truyền dẫn" để nhân vật nhanh chóng <br />
bộc lộ cái bản chất đích thực của mình. <br />
Việc xây dựng kiểu nhân vật này cho thấy sự kết hợp thú vị giữa Đông và <br />
Tây, truyền thống và hiện đại (môtip bán linh hồn cho quỷ dữ, chi tiết hóa điên và <br />
lẩm bẩm "ba bảy xì" của Gherman trong Con đầm pích (Puskin) và quan niệm của <br />
Đumbatze về sức nặng của linh hồn so với thể xác trong tiểu thuyết Quy luật của <br />
muôn đời...). Riêng môtip bán linh hồn cho quỷ dữ của văn học phương Tây, khách <br />
quan mà nói, một khi vào Việt Nam cũng đã "nhập gia tùy tục": Nó chỉ giữ vai trò thứ <br />
yếu, một đường viền bắt mắt, vì cốt lõi của vấn đề trong những câu chuyện này vẫn <br />
là những quan niệm ngàn đời của ông cha được tác giả của Truyền kì mạn lục nêu <br />
lên từ mấy trăm năm trước: "Thanh lòng không bằng ít dục, dục nếu yên lặng thì <br />
lòng trống rỗng mà điều thiện sẽ vào, khí bằng phẳng mà cái lí sẽ thắng, tà quỷ còn <br />
đến quấy nhiễu làm sao được" [4]. Hay nói như Kim Ba của thời Tiền chiến thì "ma <br />
là bởi lòng tà mà có". Trong thời hiện đại khi không ít giá trị bị đảo lộn bởi đồng tiền <br />
và quyền lực, cái xấu và cái ác lẫn lộn thì sự gặp gỡ này cũng đã làm mới hoá những <br />
vấn đề đã cũ, tạo ra sức nặng và tính cấp thiết trong tiếng kêu cảnh báo của văn xuôi <br />
hôm nay. <br />
3. Khác với văn học dân gian Việt Nam và quan niệm mang nặng lí tính ở <br />
phương Tây, ở đó ma quỷ luôn luôn đồng hành với cái xấu, cái ác (xấu như ma, ác <br />
như ma, ác quỷ, quỷ dữ...), trong văn xuôi hôm nay, xuất phát từ bản chất của nhân <br />
vật mà chúng tôi vừa đề cập, thế giới ma (quỷ) cũng chẳng khác thế giới người. Ở <br />
đó cũng tồn tại cả hai mặt thiện và ác với đầy đủ những gương mặt, đẳng cấp: có <br />
ma quyền thế hống hách, ma xun xoe bợ đỡ cấp trên, ma khiếp nhược nhún nhường, <br />
ma tốt bụng hay giúp đỡ ma mới v.v... (Nghĩa địa xóm chùa). Điều này cũng bắt gặp <br />
<br />
37<br />
trong Cặp bồ với ma với sự hiện diện đủ đầy mọi giai tầng, lứa tuổi, hằn sâu bao <br />
số phận, cảnh đời: "Ma trẻ con, long tong đứa nọ chạy theo đứa kia, dồng dồng một <br />
lũ", "ma hau háu cặp mắt nịnh, ma đỏ vằn cặp mắt tình dục, ma hụt hơi vì tàn tạ xác <br />
thịt, ma người tanh lợm mùi tiền, ma mặt đau đớn vì oan ức chưa cởi, bần thần bị <br />
tình duyên trắc trở. Ma tu sĩ già râu dài... Ma ôm một chồng sách trước ngực, đeo kính <br />
trắng, đầy tư lự; ma bị cưỡng hôn, ma mười lăm tuổi bị hiếp dâm, còn ôm mặt không <br />
dám mở bàn tay cho người ta xem mặt...". Thực chất cõi âm ở đây cũng chính là phản <br />
quan của thế giới trần tục và hệ thống nhân vật siêu thực cũng chỉ là "quỷ vật giả <br />
thác dĩ tác hiếu kì" (lấy nhân vật ma quỷ để gợi tính hiếu kì) [5] giữ vai trò như một <br />
tấm lá chắn hữu hiệu để người viết gởi gắm những quan niệm, suy tư, trăn trở về <br />
cuộc đời đồng thời cũng là đối trọng để con người sống xứng đáng với danh hiệu <br />
"hoa của đất" mà thượng đế đã ưu ái ban tặng.<br />
<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
1. Nguyễn Kiến Giang. Đi tìm cách tiếp cận bản tính tộc người Việt (trong Văn hóa <br />
Việt Nam đặc trưng và cách tiếp cận . Lê Ngọc Trà (tập hợp và giới thiệu). NXB <br />
Giáo dục (2001) 31<br />
2. Đỗ Lai Thúy. Từ cái nhìn văn hóa. NXB Văn hóa dân tộc, H. (1999) 168 169.<br />
3. Cù Hựu, Nguyễn Dữ. Tiễn đăng tân thoại, Truyền kì mạn lục. NXB Văn học Trung <br />
tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, H. (1997) 250.<br />
4. Sách đã dẫn; tr. 265.<br />
5. Dẫn theo Phạm Văn Thắm. Nghiên cứu văn bản và đánh giá tác phẩm truyền kì Việt <br />
Nam (thế kỉ XVI XIX), Luận án Phó tiến sĩ khoa học Ngữ văn. Viện Nghiên cứu Hán <br />
Nôm, H. (1996) 18.<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Sự bùng phát mạnh mẽ của truyện ma đương đại một phần do được kế thừa, tiếp <br />
nối truyền thống truyện ma dân tộc, thêm vào đó là những ảnh hưởng của môi trường, thời <br />
đại. Điều này góp phần mang lại sự mới mẻ, phong phú và dân chủ của đời sống văn học <br />
những năm gần đây. Bên cạnh những đặc điểm về mặt 'huyết thống", nhân vật ma trong văn <br />
xuôi hôm nay vẫn có những đặc trưng riêng trong chân dung, tính cách, kiểu loại... và là <br />
những tín sứ mang thông điệp nghệ thuật tích cực của người viết. <br />
<br />
<br />
THE GHOSTS IN VIETNAMESE CURRENT PROSE<br />
Bui Thanh Truyen<br />
College of Pedagogy, Hue University<br />
<br />
SUMMARY<br />
A part of powerfut development of the current ghost stories has inherited and continued <br />
the tradition of nation and affects of the environment and the age which were added to that. <br />
This has taken part in fresh, rich and democratic points in the literature life in recent years. <br />
Beside characteristics of blood line, the ghosts in prose of today still have private specific <br />
38<br />
traits in potraits, traits, types ect. and they are messengers who bring active art message from <br />
authors. <br />
<br />
<br />
<br />
<br />
39<br />