v TRAO ĐỔI<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
KINH NGHIỆM ỨNG DỤNG<br />
NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM<br />
CỦA NÃO BỘ TRONG VIỆC GIẢNG DẠY<br />
TIẾNG ANH KINH DOANH<br />
PHẠM THỊ THANH THÙY*<br />
*<br />
Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội, thuyflc@gmail.com<br />
Ngày nhận bài: 08/8/2019; ngày sửa chữa: 20/8/2019; ngày duyệt đăng: 25/8/2019<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Những kiến thức cơ bản về hoạt động của não bộ có thể hỗ trợ tích cực cho giảng viên nói chung<br />
và giảng viên dạy ngoại ngữ nói riêng trong việc tổ chức lớp học, thay đổi phương pháp tiếp cận<br />
sinh viên nhằm tạo ra một môi trường học ngoại ngữ vui vẻ, hiệu quả. Thông qua những kiến thức<br />
cơ bản về 4 đặc điểm nổi trội của não bộ: đặc điểm hỗ trợ của cả 2 bán cầu não (song não), tính<br />
mềm dẻo, đặc điểm trí tuệ cảm xúc, và đặc điểm đa trí tuệ, tác giả bài viết sẽ cung cấp một số gợi<br />
ý hoạt động tổ chức trong lớp học tiếng Anh kinh doanh được rút ra từ kinh nghiệm giảng dạy<br />
giáo trình Market Leaders. Những hoạt động này được áp dụng cho các lớp học tiếng Anh thương<br />
mại ở trình độ tiền trung cấp và trung cấp. Những gợi ý này sẽ góp phần làm cho quá trình giảng<br />
dạy ngoại ngữ nói chung, giảng dạy tiếng Anh kinh doanh nói riêng đạt hiệu quả cao hơn khi vận<br />
dụng được bốn đặc điểm nổi trội này của não bộ.<br />
Từ khóa: thuyết song não, tính mềm dẻo của não bộ, trí tuệ cảm xúc, thuyết đa trí tuệ, tiếng Anh<br />
kinh doanh<br />
<br />
<br />
<br />
1. ĐẶT VẤN ĐỀ việc học ngoại ngữ như các thiết bị di động, máy<br />
tính để tự học và tự đánh giá quá trình học. Trong<br />
Khi vai trò của tiếng Anh trong giao tiếp quốc quá trình đi tìm kiếm các hình thức giảng dạy hiệu<br />
tế và trong công việc ngày càng trở nên quan quả, nhiều phương pháp mới đã được áp dụng, tuy<br />
trọng, yêu cầu về cải cách giảng dạy tiếng Anh nhiên nhiều khi áp dụng phương pháp mới, giảng<br />
trong các cơ sở đào tạo, đặc biệt là tại các trường viên chỉ tập trung vào kết quả hiểu biết của sinh<br />
cao đẳng và đại học trong nước hơn lúc nào hết viên trên lớp và quên đi việc tạo động lực cho sinh<br />
trở thành bài toán khó giải của các nhà giáo dục, viên trong quá trình học ngôn ngữ, hay đơn thuần<br />
các giảng viên ngoại ngữ. Các hình thức như kết nhiều khi giảng viên tổ chức các hoạt động trên<br />
hợp giữa công nghệ máy tính trong giảng dạy tiếng lớp mà không hiểu lợi ích của chúng, và chưa xuất<br />
Anh đã đạt được kết quả nổi bật. Sinh viên tại các phát từ quan điểm sinh học của bộ não con người.<br />
trường đại học đã sử dụng đa phương tiện trong Do đó, hiệu quả của quá trình học ngoại ngữ chưa<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
80 Số 21 (9/2019)<br />
TRAO ĐỔI v<br />
<br />
<br />
<br />
cao. Chính vì vậy, giảng viên ngoại ngữ nên có Dựa vào phân tích lý thuyết cơ bản của khoa<br />
kiến thức cơ bản về cấu tạo chức năng của bộ não học bộ não, định luật và đặc điểm của hoạt động<br />
để ứng dụng trong giảng dạy nhằm nâng hiệu quả não bộ, bài viết này sẽ cung cấp một số phân tích<br />
của quá trình dạy và học ngoại ngữ. về việc ứng dụng khoa học nhận thức não bộ trong<br />
việc giảng dạy tiếng Anh kinh doanh cho sinh viên<br />
Bộ não con người luôn là “mảnh đất màu mỡ” thông qua việc cung cấp một số gợi ý các hoạt<br />
mà các nhà khoa học không ngừng muốn khám động hỗ trợ việc dạy tiếng Anh kinh doanh giúp<br />
phá. Với sự phát triển của khoa học công nghệ cho quá trình học tiếng Anh trở nên phần nào hiệu<br />
trong các lĩnh vực khác nhau, nghiên cứu về khả quả hơn. Những đề xuất trong bài viết được xuất<br />
năng nhận thức của não đã trở thành một thách phát từ kinh nghiệm giảng dạy giáo trình “Market<br />
thức quan trọng khiến các nhà nghiên cứu trong Leader” cho sinh viên không chuyên ngữ.<br />
thế kỷ 21 phải đau đầu. Chúng ta đều biết rằng<br />
2. CÁC LÝ THUYẾT LIÊN QUAN TỚI<br />
bất kỳ hoạt động học tập nào của chúng ta cũng<br />
BỘ NÃO<br />
được thực hiện thông qua nhận thức của bộ não.<br />
Với sự phát triển của khoa học và công nghệ, kiến 2.1. Lý thuyết về song não<br />
thức của con người về não cũng đã chuyển từ giai<br />
đoạn phỏng đoán ban đầu sang giai đoạn nghiên Não của chúng ta là một trong những cấu trúc<br />
cứu rất tinh vi hiện nay và với công nghệ hình ảnh tuyệt vời nhất của cơ thể chúng ta. Tuy đã có nhiều<br />
não tiên tiến, con người có thể hiểu cơ chế hoạt nghiên cứu về não bộ nhưng vẫn còn có rất nhiều<br />
động của não và hệ thần kinh bên trong của nó. điều để khám phá về nó. Dựa trên nhận thức về<br />
Gần đây nhiều nhà khoa học lại nghiên cứu về mối cấu trúc não bộ, Bezrukih (2010) cho rằng tư duy<br />
của con người có thể được chia thành 4 loại: tư<br />
quan hệ giữa thần kinh nhận thức với não bộ. Họ<br />
duy phân tích, tư duy tổ chức, tư duy giao tiếp và<br />
cũng tiến hành kết hợp nghiên cứu về nhận thức<br />
tư duy tưởng tượng. Bốn loại tư duy trong não có<br />
não trong lĩnh vực giảng dạy, đặc biệt phương thức<br />
được là nhờ vào não trái, hệ thống limbic trái (bộ<br />
giảng dạy kết hợp khả năng nhận thức não với việc<br />
não cảm xúc trái), não phải và hệ thống libmic phải<br />
học ngoại ngữ đã được quan tâm một cách sâu sắc.<br />
(bộ não cảm xúc phải). Tư duy phân tích và tư duy<br />
Theo Kepinska (2017) và những đồng sự, việc sử tổ chức được điều khiển bởi bán cầu não trái, trong<br />
dụng các mô hình giảng dạy mới tăng cường kết khi tư duy giao tiếp và tư duy tưởng tượng được<br />
hợp việc sử dụng tất cả các bộ phận của não bộ vào điều khiển bởi bán cầu não phải (Basar, 2006). Sự<br />
việc giảng dạy ngoại ngữ sẽ giúp người học cải khác biệt của cơ chế tư duy của con người có thể<br />
thiện hiệu quả việc học tập và khả năng sử dụng liên quan đến gen di truyền và môi trường phát<br />
ngoại ngữ của người học. triển, và những người khác nhau có thể có cùng<br />
một cơ chế tư duy giống nhau hoặc có xu hướng<br />
Tuy nhiên hiện nay, hầu hết các nghiên cứu chỉ cân bằng giữa bốn hình thức tư duy này. Theo các<br />
mới dừng lại ở việc giải thích các đặc điểm của nhà nghiên cứu (Bezrukih, 2010; Basar, 2006;<br />
bộ não con người về đặc điểm vật lý, cũng như Robinson, et. al, 2010), nếu đồng thời chúng ta sử<br />
nguyên lý làm việc của bộ nhớ trong não người, dụng cả hai bán cầu não (song não) thì kết quả học<br />
mà ít đề cập trong các nghiên cứu tới mối liên hệ tập sẽ tốt hơn. Vì bộ não là một tổng thể hữu cơ<br />
giữa nhận thức não người với việc dạy tiếng Anh nên việc sử dụng toàn diện bốn hình thức tư duy<br />
nói chung và dạy tiếng Anh kinh tế kinh doanh nói trong cả hai bán cầu não này sẽ tạo nên sự thống<br />
riêng, cũng như việc tìm ra nguyên tắc học tập của nhất trong tư duy của bộ não con người và làm cho<br />
bộ não để giúp quá trình học tiếng Anh diễn ra hiệu cả hai bán cầu não phát triển đồng đều và chúng sẽ<br />
quả hơn. hỗ trợ nhau phát triển tốt hơn.<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
Số 21 (9/2019) 81<br />
v TRAO ĐỔI<br />
<br />
<br />
Bảng 1. Tổng hợp cấu trúc và chức năng của những cảm xúc đó. Cảm xúc tích cực được hình<br />
não bộ (theo Basar, 2006) thành khi con người trải qua những kích thích gây<br />
hưng phấn như niềm vui, sự thoải mái, sự thỏa<br />
Bán cần não trái Bán cầu não phải mãn; trong khi cảm xúc tiêu cực được tạo ra khi<br />
Phát triển tư duy phân tích và tư Phát triển tư duy giao tiếp và tư duy các nơ-ron thần kinh phản xạ trước những kích<br />
duy tổ chức: Có óc tổ chức tốt, tưởng tượng: Hành động thường thích tiêu cực như vết thương, nỗi đau, sự sợ hãi.<br />
dẫn dắt bởi mục tiêu. Thường suy bị chi phối, dẫn dắt bởi cảm xúc.<br />
nghĩ chín chắn và ít khi mất tập Thường giữ được bình thản trước khó Những phản ứng tiêu cực hay tích cực sẽ được các<br />
trung. khăn. nơ-ron thần kinh truyền tới não bộ.<br />
Giỏi về ngôn ngữ và suy nghĩ trừu Sử dụng tốt những trải nghiệm với<br />
tượng môi trường bên ngoài Khi xem xét mối quan hệ giữa não bộ với quá<br />
trình cảm thụ ngôn ngữ thứ hai, Parr và Hopkins<br />
Từ những thông tin về cấu trúc và chức năng (2000) cho biết, mức độ tiếp thu ngôn ngữ thứ hai<br />
của não bộ, Bezrukih (2010) đề xuất chia người bị ảnh hưởng rất lớn bởi các yếu tố cảm xúc, đặc<br />
học thành hai nhóm: nhóm (1) những người thiên biệt xúc cảm ảnh hưởng đến việc lưu giữ và thu<br />
về bán cầu não trái và nhóm (2) những người thiên thập thông tin của bộ nhớ.<br />
về bán cầu nào phải. Theo ông, nhóm (1) phù hợp<br />
với những khóa học truyền thống, cấu trúc như 2.3. Lý thuyết về tính mềm dẻo của bộ não<br />
phương pháp báo cáo nghiên cứu, tranh luận, ghi Tính mềm dẻo của não bộ hay còn gọi là tính<br />
chép khi học tập. Trong khi nhóm (2) thích hợp với dẻo dai của não (neuroplasticity) để chỉ khả năng<br />
phương pháp dạy có sử dụng hình ảnh, đồ thị và thay đổi và thích ứng của não khi con người kinh<br />
các hình dễ nhìn thấy được. Bảng 2 dưới đây tổng qua những trải nghiệm. Não bộ được cấu tạo từ<br />
hợp các khả năng của 2 nhóm người này. 86 tỷ nơ-ron, và qua nghiên cứu, nhà tâm lý học<br />
William James đã đưa ra những thông tin khác với<br />
Bảng 2. Khả năng của nhóm người thiên về<br />
những nghiên cứu trước đây từ những năm 1890.<br />
bán cầu trái và nhóm người thiên về bán cầu phải<br />
Trong cuốn Principles of Psychology, ông viết<br />
(theo Bezrukih, 2010) “chất hữu cơ, đặc biệt là các mô thần kinh, dường<br />
như vẫn tồn tại sự linh hoạt và độ mềm dẻo đáng<br />
Người thiên về não trái Người thiên về não phải<br />
kinh ngạc,” và não bộ vẫn tiếp tục thay đổi. Ngày<br />
Khả năng quản lý hành vi, kiểm soát Khả năng lãnh đạo<br />
thực hiện<br />
nay, nhiều nhà nghiên cứu (Fung và Robinson,<br />
Khả năng tư duy, tính toán, lập luận Khả năng tưởng tượng<br />
2013) cho rằng, não sở hữu một khả năng đáng<br />
kinh ngạc trong việc tái tạo những đường dẫn, liên<br />
Khả năng vận động tinh xảo Khả năng vận động kém tinh xảo<br />
kết mới, thậm chí là tái tạo cả nơ-ron mới. Tính<br />
Khả năng ngôn ngữ Khả năng thụ cảm âm nhạc, âm mềm dẻo luôn tồn tại trong suốt cuộc đời và có<br />
điệu, âm thanh<br />
liên đới đến cả các tế bào khác của não bộ chứ<br />
Khả năng quan sát, đọc Khả năng cảm nhận thẩm mỹ,<br />
hình ảnh không chỉ giới hạn ở nơ-ron. Các tế bào khác có<br />
thể bao gồm các tế bào thần kinh đệm và mạch<br />
2.2. Học thuyết về trí tuệ xúc cảm của não bộ máu. Những nghiên cứu gần đây cũng cho thấy<br />
,tính mềm dẻo của thần kinh có ảnh hưởng tích<br />
Theo Buck (1985), cảm xúc của con người cực tới việc tăng cường trí nhớ của não bộ. Fung<br />
thường bị chi phối bởi hành vi của con người theo và Robinson (2013) cũng cho rằng, các tế bào thần<br />
nhiều cách khác nhau, tuy nhiên, có thể hiểu một kinh có thể được kích thích bởi các điều kiện bên<br />
cách đơn giản là cảm xúc của con người có thể ngoài để có thể tái tạo những phần bị khiếm khuyết<br />
được chia thành các cảm xúc tích cực và các cảm và phát triển trong một số điều kiện nhất định,<br />
xúc tiêu cực thông qua phản ứng của não bộ trước trong khi các tế bào thần kinh tồn tại trong lớp vỏ<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
82 Số 21 (9/2019)<br />
TRAO ĐỔI v<br />
<br />
<br />
<br />
não có thể liên kết thành một mạng lưới trong bộ minh của mình (hay nói cách khác là phong cách<br />
nhớ để lưu trữ những ký ức mới. học tập), và khiến cho có người học dễ dàng nhưng<br />
có người lại khó khăn khi tiếp thu những thông<br />
Lý thuyết về tính mềm dẻo của thần kinh cũng tin bên ngoài ở một lĩnh vực nào đó thông qua<br />
cho thấy rằng, quá trình học tập liên tục lâu dài có một phương pháp giảng dạy cụ thể nào đó. Người<br />
tác động kích thích tới các tế bào nơ-ron thần kinh giảng viên phải nhận thức được rằng trong một<br />
mạnh hơn và thúc đẩy trí nhớ của con người mạnh lớp học có nhiều sinh viên, việc có nhiều phong<br />
hơn. Điều này cũng cho thấy quá trình học tập nói cách học là điều hiển nhiên để từ đó có phương<br />
chung và học ngoại ngữ nói riêng là một quá trình pháp giảng dạy phù hợp. Do đó, để cân bằng giữa<br />
đòi hỏi liên tục và diễn ra lâu dài. các phong cách học khác nhau và tăng hiệu quả<br />
của quá trình học, người thầy cần giúp học trò của<br />
2.4. Lý thuyết đa trí tuệ (thuyết trí thông<br />
mình hiểu được vấn đề theo cách tiếp cận riêng<br />
minh đa dạng)<br />
của từng người.<br />
Lý thuyết đa trí tuệ phân biệt trí thông minh<br />
3. ỨNG DỤNG NGHIÊN CỨU BỘ NÃO<br />
của con người thông qua các phương thức biểu<br />
TRONG GIẢNG DẠY TIẾNG ANH KINH<br />
đạt cụ thể (chủ yếu là cảm giác), thay vì đánh giá<br />
DOANH<br />
trí thông minh của con người thông qua một khả<br />
năng chung chung nào đó. Theo hai giáo sư tâm lý Học là một quá trình thay đổi hành vi thông<br />
học Howard & Slavin (2009), nếu chúng ta đánh qua trải nghiệm. Người Thầy nói chung và người<br />
đồng đo trí thông minh của con người bằng các giảng viên ngoại ngữ nói riêng cần có những kiến<br />
bài trắc nghiệm IQ thì đây là một cách rất phiến thức cơ bản về cách hoạt động của bộ não để từ đó<br />
diện. Thay vào đó, ông đã đưa ra đề xuất đánh giá thiết kế bài giảng nhằm tận dụng được tối ưu thế<br />
trí thông minh của con người thông qua khả năng mạnh của bộ não trong việc học ngoại ngữ. Giảng<br />
giải quyết vấn đề khó khăn hoặc tạo ra những sản dạy tiếng Anh kinh doanh cho sinh viên hiện nay<br />
phẩm có giá trị nhất định trong một hoàn cảnh cụ gặp khá nhiều khó khăn do từ vựng kinh tế kinh<br />
thể - và ông gọi là đó là lý thuyết đa trí tuệ. Theo doanh nhiều, xa lạ với sinh viên, các hoạt động<br />
lý thuyết đa trí tuệ, mỗi người chúng ta đều có 8 trong sách khá khó đối với những người thiếu thực<br />
loại trí thông minh khác nhau: trí thông minh ngôn tế kinh doanh như sinh viên. Dưới đây là một số<br />
ngữ, toán học lôgic; nhịp điệu âm nhạc; hình ảnh; gợi ý hoạt động ứng dụng nghiên cứu bộ não trong<br />
vận động cơ thể; giao tiếp liên nhân; thiên nhiên việc giảng dạy tiếng Anh kinh doanh xuất phát từ<br />
(nhận thức về tự nhiên); và nội tâm (khả năng suy kinh nghiệm giảng dạy giáo trình Market Leader.<br />
nghĩa và diễn đạt).<br />
3.1. Ứng dụng thuyết song não trong dạy<br />
Lý thuyết này được áp dụng ở các lĩnh vực khác học tiếng Anh kinh doanh<br />
nhau và ở một cấp độ nhất định. Theo học thuyết<br />
này, mỗi cá nhân hầu như đều sở hữu cả 8 loại Như đã đề cập ở trên, bán cầu não trái của con<br />
thông minh nhưng ở một mức độ khác nhau. Điều người có chức năng hỗ trợ tư duy lôgic, phân tích,<br />
quan trọng là, mức độ thông minh này không phải lý giải, ghi nhớ, sắp xếp, tính toán. Bán cầu não<br />
là “hằng số” trong suốt cuộc đời của mỗi người mà phải gắn liền với khả năng sáng tạo, tưởng tượng,<br />
nó có thể sẽ thay đổi (tăng hay giảm) tùy vào sự trực cảm cao. Thực tế hiện nay, 90% các môn học<br />
trau dồi của mỗi cá nhân. Theo Temur (2007), mỗi tại trường phổ thông đòi hỏi học sinh sử dụng<br />
người học có điểm mạnh và điểm yếu ở một lĩnh bán cầu não trái nhiều. Các công thức toán phức<br />
vực riêng tùy theo trí tuệ của mình. Chính điều này tạp, các hằng số trong toán học, các giờ học môn<br />
đã chi phối tới cách mỗi người biểu đạt trí thông văn, phân tích nhân vật, tác phẩm đã chiếm phần<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
Số 21 (9/2019) 83<br />
v TRAO ĐỔI<br />
<br />
<br />
lớn thời gian học tập của học sinh trên lớp khiến Ở giai đoạn này, giảng viên có thể dạy từ vựng<br />
nhiều khi học sinh có cảm giác đây là những môn thông qua hình ảnh thực (đồ vật, hoặc hình vẽ trên<br />
học chính, chủ yếu và nếu học không giỏi những bảng) để giúp người học nâng cao sức mạnh của<br />
môn học này thì sẽ trở thành học sinh yếu kém. sự hình dung (bán cầu não phải). Lối tư duy này<br />
Bên cạnh đó cách thiết kế bài giảng, phương pháp sẽ giúp tạo kết nối giữa hai bán cầu não, đồng thời<br />
giảng của giảng viên không chỉ môn toán trên gia tăng liên kết nơron trong não, giúp người học<br />
lớp mà hầu hết các môn học khác trong chương ghi nhớ tốt hơn, gắn hình ảnh với vỏ bọc ngôn<br />
trình học chính khóa chỉ tập trung vào việc tính ngữ và lưu giữ nó lâu hơn. Ở trình độ tiền trung<br />
toán, nhớ công thức, học thuộc lòng thông tin, nhớ cấp, giáo trình Market Leader sử dụng nhiều từ<br />
đoạn văn mẫu đã vô hình chung đẩy những học vựng ở cấp độ khó và nhiều chuỗi từ dài, việc đưa<br />
sinh có trí tuệ phát triển mạnh về bán cầu não phải các từ mới vào một câu chuyện lôgic là một gợi<br />
cảm thấy khó khăn, hạn chế trong việc tiếp thu ý hay giúp sinh viên nhớ từ mới dễ hơn. Ví dụ<br />
kiến thức khi các em được dạy bằng phương pháp ở bài 9 (Raising Finance), để dạy học trò từ mới<br />
này. Dần dần, các em có kết quả môn toán thấp liên quan tới việc gây tài chính, người Thầy có thể<br />
sẽ dễ bị dán những cái mác “Tiếp thu bài chậm” xâu chuỗi câu chuyện thực tế một người ở Hà nội<br />
hoặc “Kém thông minh vì điểm Toán thấp” của cần mở một shop quần áo, anh ta phải dùng tới<br />
bạn bè, của thầy cô và thậm chí chính bản thân tiền đã tích lũy (speculate), gom góp (accumulate)<br />
các em cũng suy nghĩ như vậy. Nhiều sinh viên lâu nay. Nhưng số tiền đó vẫn thiếu, anh ta phải<br />
không chuyên ngữ vẫn quen nếp cũ tại các trường vay ở ngân hàng bằng một khoản bằng hối phiếu<br />
phổ thông nên có quan niệm cho rằng một người thế chấp (collateral/ security for a loan) và để vay<br />
giỏi nghĩa là phải học giỏi các môn chuyên ngành, khoản lớn hơn, anh ta sẽ còn phải thế chấp một<br />
trong khi ngoại ngữ lại là rào cản để họ hiểu môn khoản (mortgage) nữa. Nếu anh ta làm không tốt<br />
chuyên ngành và từ đó họ sợ học ngoại ngữ, và họ<br />
thì sẽ dễ dẫn tới phá sản (face bankruptcy)… Bằng<br />
cho rằng họ toàn toàn “không có năng khiếu” học<br />
việc tạo ra một câu chuyện tương đối có ý nghĩa<br />
ngoại ngữ. Từ thực tế trên, các thầy cô trên lớp cần<br />
và gần gũi, cụ thể, giảng viên sẽ giúp sinh viên gắn<br />
thay đổi tư duy, cách tiếp cận tới quá trình học tập<br />
các từ mới với một hình ảnh sống động 3D, từ đó<br />
của sinh viên không chuyên ngữ để giúp các em<br />
ghi nhớ các từ vựng lâu và dễ hơn thay vì chỉ học<br />
tận dụng cả hai bán cầu não trong quá trình học tập<br />
vẹt các con chữ và nghĩa của chúng. Nghĩa là cả<br />
và vận dụng vào quá trình học ngoại ngữ, giúp cho<br />
hai bán cầu não được huy động sử dụng trong quá<br />
việc học ngoại ngữ không phải là “nỗi ám ảnh”<br />
trình học từ vựng.<br />
cho sinh viên không chuyên ngữ.<br />
Hoạt động trong quá trình giảng dạy nội dung<br />
Dưới đây là gợi ý một số hoạt động thay đổi<br />
chính trong bài (While teaching process): Giảng<br />
phương pháp giảng dạy tiếng Anh thương mại<br />
viên có thể cho sinh viên đọc/ nghe một tài liệu<br />
giúp thúc đẩy sự phát triển của cả hai bán cầu<br />
não, giúp cho người học phát triển khả năng tư (sử dụng bán cầu não trái) và gạch chân những con<br />
duy lôgic nhưng cũng không thiếu khả năng tưởng số, những sự kiện quan trọng. Giảng viên yêu cầu<br />
tượng và sự sắc bén trong quá trình sản sinh ngôn sinh viên vẽ lại sơ đồ nội dung theo một số cấu trúc<br />
ngữ. Những hoạt động này được áp dụng trong lớp nhất định (sử dụng bán cầu não phải) như cấu trúc<br />
học tiếng Anh thương mại cho sinh viên ở trình độ nguyên nhân- kết quả; diễn biến sự kiện từ lúc bắt<br />
tiền trung cấp và trung cấp. đầu- kết thúc; cấu trúc vấn đề- giải pháp; cấu trúc<br />
diễn biến- hậu quả. Nhờ cách kết hợp hai bán cầu<br />
Hoạt động trong quá trình giải thích từ vựng não này vào quá trình học, sinh viên sẽ phát huy<br />
(Pre-teaching): Giải thích từ vựng thông thường được tư duy liên kết chuỗi sự kiện, hình dung diễn<br />
là bước thứ nhất trong quá trình dạy tiếng Anh. tiến của cả quá trình từ đầu tới hiện tại và thậm<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
84 Số 21 (9/2019)<br />
TRAO ĐỔI v<br />
<br />
<br />
<br />
chí tới cả tương lai xa. Tất cả có thể diễn ra như giúp người học tạo ra dấu ấn từ những gì mình<br />
những thước phim 3D quay chậm trong não của học, từ đó hình thành khả năng ghi nhớ sâu và lâu<br />
sinh viên. Học cách này học sinh sẽ có thể nhớ các hơn. Ví dụ, vẫn với bài số 4 (Organization- Market<br />
chi tiết trong bài nghe/đọc lâu hơn, và còn kết hợp Leader- Intermediate), giảng viên có thể đưa ra<br />
đưa ra những chính kiến của mình liên quan tới các những gợi ý dạng như “Nếu tôi phụ trách một bộ<br />
nội dung trong bài thay vì chỉ học vẹt, nhớ thuộc phận trong tập đoàn Google…”, hoặc cũng có thể<br />
lòng và nhanh chóng quên đi sau một khoảng thời đưa ra những ý tưởng lạ như “Hãy tạo ra một công<br />
gian ngắn. Sơ đồ tư duy là một công cụ hữu hiệu ty kỳ dị, bán những sản phẩm kỳ lạ mà bạn mong<br />
trong quá trình này để giúp sinh viên cụ thể hóa muốn”, hay đơn giản chỉ những gợi ý như “Nếu<br />
hình ảnh nội dung trong bài đọc/nghe tiếng Anh. hôm nay tôi được nhận vào công ty Google làm<br />
Ví dụ, với bài 4 (Organization) trong cuốn Market thì tôi sẽ…” và yêu cầu sinh viên viết ra những<br />
Leader (Intermediate), giảng viên yêu cầu sinh tưởng tượng hoặc những kế hoạch trong tương<br />
viên đọc bài viết về công ty Google và dựng lại lai. Bằng cách này, người học chắc chắn sẽ được<br />
cấu trúc công ty Google cũng như chức năng của khuyến khích tưởng tượng và liên kết những gì<br />
các bộ phận trong công ty, từ đó phân tích vai trò liên quan đến cuộc sống xung quanh với nội dung<br />
của bộ phận quan trọng nhất tạo nên sự thành công vừa học. Điều này giúp quá trình học trở nên sống<br />
của công ty. động hơn.<br />
<br />
Cũng với bài đọc này, sinh viên sẽ được giảng Sau khi viết, giảng viên có thể tạo cơ hội cho<br />
viên phân công mình phụ trách một bộ phận trong sinh viên trình bày những ý tưởng của mình viết<br />
công ty, và sinh viên phải nêu bật được cấu trúc, ra trước lớp. Quá trình này sẽ thúc đẩy khả năng<br />
chức năng của bộ phận trong công ty mình phụ làm chủ của người học trước đám đông thông qua<br />
trách. Bằng cách này, người học sẽ làm quen kỹ năng thuyết trình, làm việc nhóm. Đây là bước<br />
với việc liên kết các hình ảnh lại với nhau nhằm giúp người học chuyển thể những gì đã học/đã viết<br />
tăng tính lôgic, khả năng sáng tạo. Thực hành và trở nên cụ thể và rõ ràng hơn bằng những diễn đạt<br />
rèn luyện cách này thường xuyên sẽ giúp người kết hợp đồng bộ bởi ngôn ngữ hình thể, âm điệu và<br />
học tăng cường khả năng tư duy một cách hệ thống ngôn từ. Từ đó kiến thức sẽ được đưa vào sâu hơn<br />
và chặt chẽ hơn và cả hai bán cầu não đều tham gia trong não các em, giúp tăng cường khả năng phản<br />
vào quá trình học sẽ giúp cho việc học diễn ra dễ xạ và giao tiếp tiếng Anh một cách tự nhiên.<br />
dàng, hiệu quả hơn.<br />
3.2. Ứng dụng lý thuyết về trí tuệ xúc cảm<br />
Gợi ý hoạt động trong quá trình sau khi giảng của não bộ trong việc dạy tiếng Anh kinh doanh<br />
nội dung chính trong chương trình (Post teaching<br />
process): Đây là giai đoạn giúp người học phóng Theo lý thuyết về trí tuệ xúc cảm, cảm xúc của<br />
thích tư duy trí tưởng tượng của mình nhiều nhất người học có ảnh hưởng lớn tới quá trình học, đặc<br />
để giúp cho quá trình ghi nhớ nội dung bài giảng biệt là tới trí nhớ của người học. Chính vì lý do này,<br />
hiệu quả hơn. Giảng viên có thể cho sinh viên của trong quá trình giảng dạy, người thầy cần có những<br />
mình tưởng tượng về kết cục tương lai xuất phát hoạt động, động thái nhằm tạo nên những cảm xúc<br />
từ thực tế hiện tại sinh viên ghi nhận được từ nội tích cực cho người học và giúp họ có trí nhớ tốt<br />
dung vừa học. Như đã đề cập ở trên, chính việc sử nhất trong quá trình học tập. Giảng viên tiếng Anh<br />
dụng cả hai bán cầu não sẽ giúp quá trình tương tác không nên ép buộc hoặc áp đặt người học trong<br />
của hai bán cầu não nhanh, mạnh hơn và giúp quá quá trình giảng dạy mà nên gợi mở, hướng dẫn<br />
trình học tập hiệu quả hơn. Nói cách khác, người họ làm chủ quá trình học của mình. Ví dụ, người<br />
học có thể sử dụng não phải để khơi gợi phát triển giảng viên có thể yêu cầu về số lượng thành viên<br />
ý tưởng, và đồng thời hợp lý hóa các ý tưởng bằng của nhóm, nêu yêu cầu công việc cho nhóm và để<br />
toán học, tư duy lôgic. Trí tưởng tượng mạnh mẽ sinh viên chủ động chọn thành viên trong nhóm<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
Số 21 (9/2019) 85<br />
v TRAO ĐỔI<br />
<br />
<br />
mình cũng như quyết định nội dung cần phát triển. khả năng tốt do các giảng viên kém dạy lại thường<br />
Điều này giúp tạo nên một môi trường học tiếng bị giảm tốc độ phát triển. Học là một quá trình thay<br />
Anh an toàn - làm việc cùng những người mình đổi hành vi thông qua trải nghiệm, do đó, người<br />
yêu mến, được nhận góp ý từ những người bạn học nên được tạo cơ hội để có thể trải nghiệm.<br />
của mình và cũng giúp tạo sự thoải mái cho người Trong giảng dạy tiếng Anh, các hoạt động nhóm,<br />
học khi họ được chủ động ra quyết định nội dung case study, đóng vai, làm dự án,… là những hoạt<br />
mà họ chọn lựa. Tất cả những điều này sẽ giúp động giúp người học “sống” trong khung cảnh<br />
cho quá trình học ngoại ngữ diễn ra hiệu quả hơn. mới, thỏa thích tưởng tượng ra những gì khác với<br />
thực tế và diễn đạt chúng bằng tiếng Anh, từ đó<br />
3.3. Ứng dụng thuyết tính mềm dẻo của não phát triển não bộ một cách tốt hơn.<br />
bộ trong việc dạy tiếng Anh kinh doanh<br />
Theo lý thuyết cấu trúc bộ não, Eric Jensen<br />
Môi trường cũng có ảnh hưởng không nhỏ tới (2005) giải thích, trong quá trình phát triển, não bộ<br />
chỉ số thông minh IQ của con người. Theo các không ngừng phải xử lý các thông tin, tạo nên các<br />
nghiên cứu (Gordon Dryden & Jeannette Vos, kết nối, nhờ đó, một số kết nối được củng cố trong<br />
2001; Eric Jensen, 2005), môi trường xung quanh khi một số khác bị loại bỏ đi. Quá trình này được<br />
con người quyết định tới 60-70% sự phát triển của biết đến với tên gọi “cắt tỉa” bớt xi-náp (cơ quan<br />
hệ thống nơ-ron thần kinh của não bộ. Có được thụ cảm trong nơ-ron thần kinh não). Các nơ-ron<br />
điều này bởi bộ não của con người có tính mềm được sử dụng thường xuyên sẽ phát triển kết nối<br />
dẻo. Thậm chí nhờ tính mềm dẻo này, trong thực mạnh mẽ hơn các nơ-ron hiếm hoặc không được<br />
tế, nhiều khi có một phần của não bị tổn thương, sử dụng thực sự. Bằng cách phát triển những liên<br />
các phần khỏe mạnh khác của não có thể đảm trách kết mới và “cắt tỉa” những nơ-ron yếu hơn, não<br />
luôn các chức năng của phần tổn thương đó và các bộ có thể thích nghi với môi trường không ngừng<br />
khả năng này có thể được khôi phục lại. Như đã thay đổi. Mỗi kinh nghiệm phong phú mà người<br />
đề cập ở trên, não bộ có tính mềm dẻo - nghĩa là học trải qua đều do các tế bào thần kinh gây ra để<br />
não bộ có khả năng xử lý các kích thích, thông tin chuyển thông tin đến tế bào thần kinh khác thông<br />
từ bên ngoài và mở rộng các kết nối. Quá trình qua một xung điện. Nếu giảng viên tạo nên một<br />
tạo và mở rộng các liên kết đó sẽ giúp cho não bộ môi trường mới thì sẽ tạo sự tò mò, kích thích cho<br />
phát triển quá trình xử lý thông tin hiệu quả hơn người học. Sự kích thích sẽ được truyền từ tế bào<br />
và nhanh chóng hơn. Nếu một người sống trong thần kinh này đến tế bào thần kinh khác, chúng<br />
môi trường phong phú, thuận lợi cho quá trình học tạo ra các phần kéo dài ra giống như nhánh cây<br />
tập thì người đó sẽ biết cách xử lý các tình huống được gọi là đuôi gai (sợi nhánh). Khi não nhận<br />
nhanh hơn, nhưng ngược lại một người thứ hai được thông tin mới, các sợi nhánh phát triển ra<br />
sống trong môi trường nhàm chán, đơn điệu thì họ bên ngoài từ các tế bào cơ thể, tìm kiếm các sợi<br />
khó có những kỹ năng xử lý tình huống như người nhánh cây khác. Chúng hình thành một kết nối đến<br />
thứ nhất - hay nói cách khác, não bộ của người thứ sợi nhánh khác bằng cách kéo dài mỏng hơn. Khi<br />
hai có tính mềm dẻo kém hơn người thứ nhất. không được kết nối, chúng ta chỉ có các nơ-ron<br />
thần kinh nghèo nàn. Số lượng và chất lượng kinh<br />
Khám phá về tính mềm dẻo của não bộ sẽ mang nghiệm mà người học trải qua có sự liên kết trực<br />
lại nhiều lợi ích trong giáo dục. Mặc dù người ta tiếp đến sự phát triển của sợi nhánh, sợi trục thần<br />
đã từng tin rằng, não bộ trở nên ổn định sau một kinh, vì vậy sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển khả<br />
độ tuổi nhất định, nhưng các nghiên cứu mới đây năng của họ trong tương lai. <br />
tiết lộ rằng, não bộ không bao giờ ngừng thay đổi<br />
do sự tác động của quá trình học tập. Một bộ não Dưới đây là một số gợi ý hoạt động giảng dạy<br />
“linh hoạt” phát triển mạnh trong môi trường giáo ngoại ngữ (lấy ví dụ từ việc giảng dạy giáo trình<br />
dục tối ưu, nhưng ngược lại những sinh viên có “Market Leader”- Intermediate) giúp ứng dụng<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
86 Số 21 (9/2019)<br />
TRAO ĐỔI v<br />
<br />
<br />
<br />
tính mềm dẻo của bộ não và hỗ trợ quá trình học 5 Money Mỗi nhóm sinh viên cử Sinh viên hoạt<br />
tiếng Anh hiệu quả hơn. Những hoạt động này một đại diện lên tham gia động trong cùng<br />
hoạt động “đầu tư khôn một công ty/môi<br />
được áp dụng trong lớp học tiếng Anh thương mại ngoan”. Mỗi sinh viên trường mới. Sinh<br />
cho sinh viên ở trình độ trung cấp. cùng hoạt động trong một viên phải đưa ra<br />
công ty, và được cung những quyết định<br />
cấp một số tiền (tượng đầu tư nhanh nên<br />
Bảng 3. Một số hoạt động ứng dụng tính mềm trưng) như nhau. Giảng sẽ rèn luyện được<br />
dẻo của não bộ trong việc dạy tiếng Anh kinh viên đưa lần lượt ra những phản xạ nhanh.<br />
doanh sản phẩm/hạng mục đầu<br />
tư với mức tiền ghi rõ. Sinh<br />
viên sẽ ra quyết định đầu<br />
Hoạt động ứng dụng tư hay không đầu tư và<br />
Phân tích lợi phải đưa ra lý giải phù<br />
STT Tên bài tính mềm dẻo của<br />
ích hợp. Cuối buổi các kết<br />
não bộ<br />
quả đầu tư sẽ được so<br />
1 Brands Giảng viên đưa cho sinh Môi trường lạ,<br />
sánh và xem đội nào đầu<br />
viên tên một nước (ví sản phẩm quen,<br />
tư hiệu quả.<br />
dụ Mỹ, Đức, Anh), sinh sinh viên sẽ kết<br />
viên trình bày ý tưởng về hợp những kiến 6 Cultures Sinh viên làm việc theo Sinh viên được<br />
một nhãn mác sản phẩm thức đã học trong nhóm. Các nhóm được “bán hàng” tại<br />
có thể bán chạy trên thị bài để đưa ra giao cùng một loại sản một nước cụ thể.<br />
trường nước đó. Sinh thiết kế nhãn hiệu phẩm nhưng tiến hành Môi trường mới<br />
viên phải đưa ra 05 lý sản phẩm phù quảng cáo/bán tại các sẽ khiến sinh viên<br />
do thuyết phục cho sự lựa hợp nước khác nhau (bốc phải thảo luận<br />
chọn của mình thăm tên nước). Sinh viên để cho ra những<br />
lý giải những thay đổi về thay đổi cho sản<br />
2 Travel Giảng viên đưa cho mỗi Sinh viên đóng<br />
mẫu mã sản phẩm, cách phẩm của mình<br />
nhóm (3 sinh viên) một tờ vai người khác<br />
thức tiếp cận bán hàng tại phù hợp hơn.<br />
thông tin về một công ty - có trải nghiệm<br />
nước được bốc thăm.<br />
du lịch với các dịch vụ của mới nên sẽ<br />
họ. Sinh viên đóng vai là nghiên cứu “vai (Nguồn: Gợi ý của tác giả)<br />
nhân viên của công ty du diễn” của mình<br />
lịch, giới thiệu về công ty để có những lập<br />
du lịch đó. Một sinh viên luận phù hợp. 3.4. Ứng dụng thuyết đa trí tuệ của bộ não<br />
khác đóng vai là khách trong việc dạy tiếng Anh kinh doanh<br />
hàng, đưa ra những lý do<br />
không lựa chọn công ty<br />
du lịch này. Sinh viên thứ Thông qua lý thuyết đa thông minh, người<br />
ba chứng kiến cuộc nói giảng viên cần lấy người học làm trung tâm.<br />
chuyện và phân tích.<br />
3 Change Giảng viên cung cấp cho Sinh viên làm<br />
Phương pháp giảng dạy phải tạo nên thế mạnh để<br />
mỗi nhóm sinh viên các việc trong môi lĩnh vực thông minh của người học được phát huy<br />
thông tin về một công ty trường mới (1<br />
kèm theo là liệt kê 5 thay công ty cụ thể và<br />
tác dụng, giúp cho họ cảm thấy hứng thú, tự tin khi<br />
đổi trên thị trường liên 5 thay đổi của thị học tập. Không nên đánh giá trí thông minh của<br />
quan tới lĩnh vực mà công trường). Sinh viên<br />
ty đó đang hoạt động. có cơ hội làm<br />
một người chỉ thông qua một tiêu chí của người<br />
Sinh viên thảo luận trong việc nhóm, đưa khác. Ví dụ, một sinh viên không thể tiếp thu bài<br />
nhóm và đưa ra những ra những lập luận học bằng các hình vẽ tưởng tượng của giảng viên<br />
quyết định thay đổi trong và những phản<br />
công ty nhằm phù hợp với ứng trước những trên bảng thì đừng vội kết luận sinh viên đó kém<br />
05 thay đổi trên thị trường. thay đổi trên thị thông minh, bởi có thể sinh viên đó có trí thông<br />
Sau thời gian thảo luận, trường.<br />
các nhóm trình bày trước minh về âm nhạc, họ có thể học tiếng Anh qua<br />
lớp để giảng viên và các nhịp gõ của thước chứ không phải qua hình ảnh<br />
nhóm còn lại đánh giá.<br />
4 Advertising Giảng viên cung cấp Sinh viên “vào<br />
trên bảng. Người giảng viên cần nắm rõ, sinh viên<br />
cho sinh viên những loại vai” những người có thể học tiếng Anh bằng cách vẽ hình, vẽ sơ đồ<br />
hình quảng cáo và những khác và làm việc<br />
đoạn quảng cáo. Sinh theo nhóm nên<br />
tư duy, nhảy theo điệu nhạc, viết blog, viết công<br />
viên đóng vai là nhóm sẽ có những trải thức và nhiều cách khác nhau. Do đó, một người<br />
lãnh đạo để lựa chọn ra nghiệm mới.<br />
loại hình quảng cáo và<br />
có trí tuệ thiên về nhịp điệu âm nhạc thì hãy để<br />
đoạn quảng cáo phù hợp họ tạo nên những âm tiết, tiết tấu hoặc một bài<br />
với sản phẩm của công ty. hát có vần trong quá trình học ngoại ngữ và điều<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
Số 21 (9/2019) 87<br />
v TRAO ĐỔI<br />
<br />
<br />
này khiến họ ghi nhớ dễ hơn, môn học cũng trở 2 Travel Giảng viên đưa cho mỗi Sinh viên được chủ<br />
nên niềm vui và không trở thành áp lực cho họ nhóm (3 sinh viên) một tờ động trong việc đưa<br />
thông tin về 1 công ty du ra cách giới thiệu về<br />
khi học. Trong khi một người khác phát triển trí lịch với các dịch vụ của công ty, và trong việc<br />
thông minh toán, lôgic thì việc học tiếng Anh nên họ. Sinh viên đóng vai đưa ra lý giải cho sự<br />
là nhân viên của công ty từ chối của mình. Có<br />
nghiêng về việc tạo ra các quy tắc, các công thức du lịch, giới thiệu về công sinh viên có thể dùng<br />
ty du lịch. Một sinh viên hình ảnh, dùng hình<br />
thì sẽ khiến họ dễ nhớ hơn. khác đóng vai là khách thể, dùng âm nhạc…<br />
hàng, đưa ra những lý<br />
Bên cạnh đó, chương trình giảng dạy có thể do không lựa chọn công<br />
ty. Sinh viên thứ 3 chứng<br />
được tạo ra bằng cách tích hợp với các hoạt động kiến và phân tích.<br />
dựa trên nhiều kiến thức theo cách phát triển các<br />
lĩnh vực thông minh khác nhau cho mỗi người học; 3 Change Giảng viên cung cấp cho Trong quá trình làm<br />
từ đó, người học sẽ khám phá những cách tốt nhất mỗi nhóm sinh viên các nhóm, nhóm trưởng<br />
thông tin về 1 công ty sẽ giao nhiệm vụ cho<br />
để họ có thể lĩnh hội được thông tin theo cách của kèm theo là liệt kê 5 thay từng thành viên dựa<br />
riêng mình. Muốn thành công, người giảng viên đổi trên thị trường liên vào khả năng của<br />
quan tới lĩnh vực mà công từng người. Có thành<br />
cần hiểu rõ sinh viên của mình và có sự chuẩn bị ty đó đang hoạt động. viên sẽ chuẩn bị hình<br />
thật kỹ lưỡng các hoạt động cho từng người mới Sinh viên thảo luận trong ảnh, vẽ minh họa, có<br />
nhóm và đưa ra những thành viên sẽ phân<br />
mong đem lại hiệu quả cao. Giảng viên cần coi quyết định thay đổi trong tích thông tin được<br />
trọng sự đa dạng về trí tuệ ở mỗi sinh viên, phải hiểu công ty nhằm phù hợp cung cấp, có thành<br />
với 05 thay đổi trên thị viên sẽ lập luận và<br />
rằng, mỗi loại trí tuệ đều quan trọng và mỗi sinh trường. Sau thời gian thuyết phục.<br />
viên đều có ít nhiều khả năng theo nhiều khuynh thảo luận, các nhóm trình<br />
bày trước lớp để giảng<br />
hướng khác nhau. Do đó, giảng viên cần giúp đỡ, viên và các nhóm còn lại<br />
khơi gợi tiềm năng, tạo điều kiện học tập theo các đánh giá.<br />
<br />
hướng khác nhau phù hợp với từng người học.<br />
4 Advertising Giảng viên cung cấp Sinh viên sẽ nghiêm<br />
Dưới đây là một số gợi ý hoạt động được sử cho sinh viên những loại vào nhận xét các<br />
dụng trong quá trình giảng dạy tiếng Anh từ cuốn hình quảng cáo và những khía cạnh cụ thể mà<br />
đoạn quảng cáo. Sinh mình quan tâm và<br />
giáo trình Market leader - Intermediate dựa trên viên đóng vai là nhóm đưa ra gợi ý để đoạn<br />
thuyết đa trí tuệ. Những hoạt động này được áp lãnh đạo để lựa chọn quảng cáo được tốt<br />
ra loại hình quảng cáo hơn: Ví dụ về âm<br />
dụng trong lớp học tiếng Anh thương mại cho sinh và đoạn quảng cáo phù nhạc, về màu sắc, về<br />
hợp với sản phẩm của nội dung của đoạn<br />
viên ở trình độ trung cấp. công ty. quảng cáo.<br />
<br />
Bảng 4: Một số hoạt động ứng dụng tính đa<br />
trí tuệ của não bộ trong giảng dạy tiếng Anh kinh 5 Money Mỗi nhóm sinh viên cử Mỗi thành viên trong<br />
01 đại diện lên tham gia nhóm sẽ được giao<br />
doanh hoạt động “đầu tư khôn 1 nhiệm vụ cụ thể<br />
ngoan”. Mỗi sinh viên để người đội trưởng<br />
cùng hoạt động trong 1 chọn lựa nhanh nhất.<br />
Cách tổ chức hoạt công ty, và được cung Ví dụ có thành viên<br />
Hoạt động ứng dụng<br />
động nhằm ứng cấp một số tiền (tượng sẽ tập trung vào việc<br />
STT Tên bài thuyết đa trí tuệ của<br />
dụng thuyết đa trí trưng) như nhau. Giảng tính toán tiền đầu tư,<br />
não bộ<br />
tuệ của não bộ viên đưa lần lượt ra có thành viên sẽ tập<br />
những sản phẩm/ hạng trung vào hiệu quả<br />
1 Brands Giảng viên đưa cho sinh Giảng viên gợi mở có mục đầu tư với mức tiền của sản phẩm trong<br />
viên tên một nước, sinh nhóm có thể sử dụng ghi rõ. Sinh viên sẽ ra tương lai, có thành<br />
viên trình bày ý tưởng về hình ảnh minh họa, quyết định đầu tư hay viên sẽ tập trung vào<br />
một nhãn mác sản phẩm có nhóm có thể sử không đầu tư và phải đưa việc đưa ra quyết<br />
có thể bán chạy trên thị dụng phương pháp ra lý giải phù hợp. Cuối định nhanh cho cả<br />
trường nước đó. Sinh viên trình bày bằng lời nói buổi các kết quả đầu tư nhóm.<br />
phải đưa ra 05 lý do thuyết giải ý tưởng sẽ được so sánh và xem<br />
thuyết phục cho sự lựa của nhóm mình đội nào đầu tư hiệu quả.<br />
chọn của mình<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
88 Số 21 (9/2019)<br />
TRAO ĐỔI v<br />
<br />
<br />
<br />
6 Cultures Sinh viên làm việc theo Mỗi thành viên thành một nhà thần kinh học hoặc ghi nhớ 100 nơ-<br />
nhóm. Các nhóm được trong nhóm sẽ phụ ron truyền thần kinh và 50 vùng não có tác động<br />
giao cùng một loại sản trách các khâu trong<br />
phẩm nhưng tiến hành quảng cáo khác tới nhận thức, mà họ cần có những kiến thức cơ<br />
quảng cáo/bán tại các nhau: có thành viên bản về 4 đặc điểm nổi trội của não bộ đã được đề<br />
nước khác nhau (bốc sẽ tập trung vào câu<br />
thăm tên nước). Sinh viên chữ trong quảng cáo, cập: sự hỗ trợ của cả hai bán cầu não, tính mềm<br />
lý giải những thay đổi về có thành viên tập dẻo, trí tuệ cảm xúc, và thuyết đa trí tuệ của não<br />
mẫu mã sản phẩm, cách trung vào chọn nhạc,<br />
thức tiếp cận bán hàng có thành viên tập<br />
bộ để hỗ trợ quá trình giảng dạy ngoại ngữ tốt hơn.<br />
tại nước được bốc thăm. trung vào việc phân<br />
tích các yếu tố văn Eric Jensen (2005) coi việc học là điều mà não<br />
hóa để làm nổi bật bộ làm tốt nhất. Ông cũng nhấn mạnh đến tầm<br />
đoạn quảng cáo.<br />
quan trọng của việc sử dụng mọi khu vực của não<br />
(Nguồn: Gợi ý của tác giả) bộ từ thị giác, thính giác đến khu vực điều khiển<br />
ngôn ngữ trong quá trình học tập. Các tế bào của<br />
Trong quá trình giảng dạy, để ứng dụng được<br />
hai bán cầu não chịu trách nhiệm xử lý thông tin<br />
thuyết đa trí tuệ, người giảng viên cần chú ý những<br />
và chuyển đổi tín hiệu điện hóa học và qua lại trên<br />
điểm sau:<br />
tế bào thần kinh. Mỗi kinh nghiệm phong phú mà<br />
Phương pháp giảng dạy: Thuyết đa trí tuệ gợi người học được trải nghiệm thông qua bài giảng,<br />
ý cho giảng viên nên lựa chọn các phương pháp thông qua tình huống, thông qua bức tranh, câu<br />
giảng dạy phù hợp cho từng sinh viên. Cho sinh chuyện của người giảng viên đều do các tế bào<br />
viên lựa chọn nhóm theo sở thích phù hợp với thần kinh gây ra để chuyển thông tin đến tế bào<br />
phong cách học của mình, và tự lựa chọn phương thần kinh khác thông qua một xung điện. Những<br />
pháp học tập phù hợp với nhóm của mình chính là xung điện này làm cho quá trình học tập trở nên<br />
cách thức hỗ trợ sinh viên học tiếng Anh hiệu quả hứng thú, đa dạng và hiệu quả. Khả năng não bộ<br />
nhất. Với mỗi bài tập nhóm, giảng viên chỉ nên tái kết nối, tái sắp xếp qua hệ thần kinh của cả hai<br />
đưa ra gợi ý tổng thể và để sinh viên chủ động lựa bán cầu não là rất rõ ràng. Giảng viên ngoại ngữ<br />
chọn cách tiếp cận cụ thể dựa trên thế mạnh của có thể tác động tới quá trình này qua quá trình xây<br />
bản thân, tránh áp đặt cho