Lợi thế nguồn nhân lực cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam hiện nay
lượt xem 4
download
Bài viết này sẽ phân tích cơ hội và thách thức trong việc phát huy lợi thế nguồn nhân lực của Việt Nam khi tham gia Cộng đồng kinh tế ASEAN. Để hiểu rõ hơn mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết của bài viết này.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Lợi thế nguồn nhân lực cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam hiện nay
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG LỢI THẾ NGUỒN NHÂN LỰC CHO TĂNG TRƢỞNG KINH TẾ VIỆT NAM HIỆN NAY ThS. Đo n Thị Oanh Khoa Kinh tế v Quản trị Kinh doanh, Trƣờng Đại học Hải Phòng TÓM TẮT Trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, nguồn nhân lực dồi dào chính là lợi thế quốc gia của Việt Nam. Số người trong tuổi lao động đã tăng từ 26,63 triệu người năm 1979 lên 57,09 triệu người vào năm 2009, và dự báo còn tiếp tục tăng, đỉnh điểm đạt mức 65,76 triệu người vào năm 2039. Nước ta đang trải nghiệm thời kỳ “cơ cấu dân số vàng” với tỷ số phụ thuộc dân số nhỏ hơn 50, tức là cứ hơn 2 người trong tuổi lao động mới “gánh” một người phụ thuộc, và thời kỳ này sẽ kéo dài khoảng 30 năm nữa với nhiều cơ hội cho tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội. Việc tham gia vào Cộng đồng kinh tế ASEAN với tự do hóa di chuyển lao động, một mặt đem lại nhiều cơ hội cho Việt Nam trong việc phát huy lợi thế nguồn nhân lực, mặt khác cũng xuất hiện nhiều thách thức cần phải được giải quyết thỏa đáng. Bài viết này sẽ phân tích cơ hội và thách thức trong việc phát huy lợi thế nguồn nhân lực của Việt Nam khi tham gia Cộng đồng kinh tế ASEAN. Từ khóa: Nguồn nhân lực, lực lƣợng lao động, t ng trƣởng kinh tế 1. MỞ ĐẦU Tăng trưởng kinh tế là mục tiêu quan trọng của mỗi quốc gia. Tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có nguồn nhân lực. Đặc biệt, nguồn nhân lực chất lượng cao có ảnh hưởng lớn đến mục tiêu tăng trưởng của quốc gia trong cuộc cách mạng 4.0 hiện nay. Việt Nam đang trong thời kỳ "cơ cấu dân số vàng" với nhiều cơ hội và thách thức. Việc tham gia vào Cộng đồng kinh tế ASEAN với tự do hóa di chuyển lao động đem lại nhiều cơ hội cho Việt Nam trong việc phát huy lợi thế nguồn nhân lực. Bên cạnh đó cũng xuất hiện nhiều khó khăn, thách thức cần phải được giải quyết. Đó chính là những tồn tại yếu kém của nguồn nhân lực nước ta như: trình độ chuyên môn kỹ thuật thấp, không đồng đều, lao động chủ yếu làm nông nghiệp, chưa qua đào tạo... Đây là những vấn đề đặt ra cần được giải quyết để phát huy tốt lợi thế nguồn nhân lực cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam khi tham gia Cộng đồng kinh tế ASEAN trong cuộc cách mạng 4.0 hiện nay. 2. NỘI DUNG 2.1 Nguồn nhân lực đối với t ng trƣởng và phát triển kinh tế ở các nƣớc Đông Á v Đông Nam Á Nguồn nhân lực là một trong bốn yếu tố cơ bản nhất của tăng trưởng kinh tế. Cả lý thuyết và thực tế nghiên cứu đều cho thấy vai trò của nguồn nhân lực đối với tăng trưởng, phát triển kinh tế và có tầm quan trọng hàng đầu về chính trị, xã hội của mỗi nước. Biến động về nguồn nhân lực gắn liền với quá trình biến đổi dân số ở mỗi quốc gia. Các nhà nhân khẩu học cho rằng, biến đổi dân số dẫn đến “cơ cấu dân số vàng” chính là thời kỳ dồi dào nhất về nguồn nhân lực, là cơ hội để các nước thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế. Thuật ngữ “cơ cấu dân số vàng” được sử dụng để nói về tình trạng dân số của một nước có tỷ trọng người trong tuổi lao động chiếm khoảng 2/3 tổng dân số, tức là ít nhất 2 người lao động mới phải “gánh” một người phụ thuộc. Số người tham gia hoạt động kinh tế chiếm phần lớn trong tổng dân số tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất, tiêu dùng, tích lũy và đầu tư, từ đó kích thích kinh tế phát triển. Nhiều nghiên cứu ở một số nước Đông Á đã nêu bật tầm quan trọng của nguồn nhân lực đối với tăng trưởng và phát triển, nhấn mạnh đó là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển kinh tế “thần kỳ” ở một số nước và nó cũng chính là yếu tố quyết định phát triển bền vững cho các quốc gia này. Tốc độ tăng lao động hàng năm ở khu vực Đông Á là 2,4% trong suốt thời kỳ 1965-1990 làm cho tốc độ tăng thu nhập bình quân đầu người của khu vực này tăng 550
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG bình quân 6%/năm (Bloom và Williamson, 1998). Nghiên cứu thực nghiệm về đóng góp của nguồn nhân lực cho tăng trưởng kinh tế ở một số nước khác thể hiện qua bảng 1 dưới đây: Bảng 1: Đóng góp của lực lƣợng lao động cho t ng trƣởng kinh tế ở một số nƣớc Đông Á Quốc gia Đóng góp cho Giai đoạn Nguồn TTKT (%) Nhật Bản 30% 1965-2000 Ogawa và cộng sự, 2005 Hàn Quốc 30% 1972-2003 An và Jeon, 2006 Đài Loan (Trung Quốc) 38% 1975-2009 Pei-Ju-Liao, 2010 Trung Quốc 15-25% 1965-2005 Cai và Wang, 2006 Nguồn: Tổng hợp từ Bùi Thị Minh Tiệp (2012) Bảng 1 cho thấy mức đóng góp của nguồn nhân lực dồi dào trong thời kỳ cơ cấu dân số vàng đã có đóng góp lớn cho tăng trưởng kinh tế của nhiều nước Đông Á. Có thể nói, các nước này đã tận dụng được lợi thế nguồn nhân lực để thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế, tuy nhiên cũng có một số nước trong điều kiện tương tự về nguồn nhân lực lại không thể phát huy được lợi thế này. Cụ thể, nghiên cứu của Ohno (2008) đã chỉ ra rằng ở giai đoạn 1950-1965 GDP bình quân đầu người ở các nước như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia, Thái lan, Indonesia, Philippines… có mức thu nhập bình quân đầu người tương đương nhau. Nhưng Nhật Bản là quốc gia đầu tiên vượt lên với tốc độ tăng trưởng ngoạn mục, bắt kịp tốc độ tăng trưởng của các nước giàu nhất thế giới. Nền kinh tế Đài Loan (Trung Quốc), Hàn Quốc và Singapore cũng đã cất cánh vào cuối những năm 1960 và cải thiện thu nhập một cách nhanh chóng với tốc độ tăng thu nhập bình quân đầu người giai đoạn 1960-1990 trên 6%/năm, nhờ vào chính sách đúng đắn và sự tích hợp, sự cộng hưởng lớn từ lực lượng lao động dồi dào của các quốc gia này. Tuy nhiên, trong điều kiện tương tự, Malaysia và Thái Lan kém ấn tượng hơn còn Indonesia và Philippines trong việc cải thiện vị trí của mình. Nhật Bản là một điển hình được nhắc đến trong rất nhiều nghiên cứu về kinh tế, chính trị, xã hội trên thế giới trong hơn nửa thế kỷ qua. Thành tựu đáng kể nhất đối với đất nước này là sự vượt lên ngoạn mục về kinh tế giai đoạn 1955 – 1970 với mức tăng trưởng GDP luôn ở mức 2 con số, nhanh chóng đưa Nhật Bản rút ngắn khoảng cách với phương Tây và trở thành nước giàu thứ hai trên thế giới, chỉ sau Mỹ. Thời kỳ hoàng kim của kinh tế Nhật Bản đã ghi nhận sự đóng góp đáng kể từ lực lượng lao động hùng hậu trong thời kỳ “cơ cấu dân số vàng” của đất nước này. Lực lượng lao động hùng hậu được đào tạo bởi một hệ thống giáo dục tốt cộng hưởng với các chính sách kinh tế hợp lý đã tạo nên một sự kết hợp tốt nhất để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Nhật Bản. Cùng với Nhật Bản, Hàn Quốc cũng là một điển hình về tăng trưởng kinh tế thần kỳ tại Đông Á cuối thế kỷ XX với tốc độ tăng trưởng GDP thuộc nhóm cao nhất thế giới. Định hướng phát triển kinh tế hướng vào công nghiệp, Hàn Quốc đề ra các chính sách hợp lý kết hợp với tác động tích cực từ biến đổi dân số đã tạo nên hiệu quả kinh tế kỳ diệu trong suốt mấy thập kỷ qua. Sự vươn lên mạnh mẽ của Hàn Quốc được giải thích bởi sự khác biệt về tri thức, bí quyết, nguồn vốn và lao động dồi dào thời kỳ “dân số vàng”. Thời kỳ cơ cấu dân số vàng của Hàn Quốc với lực lượng lao động tăng mạnh mẽ bắt đầu từ năm 1965 và sẽ kết thúc vào năm 2014. Đây cũng chính là khoảng thời gian mà Hàn Quốc đã làm nên “huyền thoại sông Hàn”, GDP bình quân đầu người đã tăng từ 100USD vào năm 1963 lên mức 10.000USD vào năm 1995 và đạt mức 25.000USD vào năm 2007, dự kiến đến năm 2050 sẽ đạt mức 52.000USD. Lực lượng lớn dân số trong tuổi lao động tham gia hoạt động kinh tế làm gia tăng tiết kiệm và tích lũy vốn vật chất. Chỉ tính riêng trong giai đoạn 1970 -2003, dân số trong tuổi lao động tăng từ 54,5% lên 71,7%, tỷ lệ phụ thuộc trẻ 551
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG giảm từ 42,5% xuống chỉ còn 20,0% và tỷ lệ người cao tuổi (từ 65 tuổi trở lên) tăng từ 3,1% lên 8,3%. Tỷ lệ phụ thuộc trẻ giảm mạnh là do tỷ lệ sinh giảm từ 4,53 ở năm 1970 xuống chỉ còn 1,19 vào năm 2003. Với lực lượng lao động hùng hậu gánh một tỷ lệ phụ thuộc nhỏ làm giảm chi tiêu trong các hộ gia đình và tăng tích lũy vốn. Tiết kiệm cá nhân tăng từ 10,9% năm 1970 lên 33% vào năm 1988 và giảm nhẹ xuống còn 21,1% vào năm 2003. Con số tương tự của tiết kiệm công là 6,8% tăng lên mức 11,6% vào năm 2003 (An và Jeon, 2006). Đây là những đóng góp đáng kể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Hàn Quốc với mức tăng GDP bình quân đầu người đạt 16,79%/năm trong suốt giai đoạn này. Đời sống người của nhân dân nước này cũng được nâng cao rất nhanh, chỉ số phát triển con người (HDI) đạt 0,912 vào năm 2006. Ở khu vực Đông Nam Á, quá trình chuyển đổi dân số diễn ra chậm hơn, do vậy các nước này có được “lợi thế nguồn nhân lực” cho tăng trưởng và phát triển kinh tế cũng muộn hơn. Có thể thấy được quy mô của nguồn nhân lực và thời kỳ “vàng” về nguồn nhân lực ở các quốc gia Đông Nam Á qua Bảng 2 dưới đây: Bảng 2: Dân số và thời kỳ “Dân số v ng” ở một số quốc gia Đông Nam Á STT Quốc gia Dân số Mật độ dân số Giai đoạn (triệu ngƣời) (người/km²) Cơ cấu dân số vàng 1 Indonesia 231,6 124,5 2010-2040 2 Thái lan 67,0 130,5 1990-2025 3 Việt Nam 87,2 263,4 2009-2039 4 Malaysia 27,8 83,9 2015-2050 5 Philippines 92,2 124,5 2030-2050 6 Lào 6,3 26,7 2020-2060 7 Singapore 5,1 7.105,3 1980-2020 Nguồn: Tổng hợp, tính toán từ UNFPA (2012) và World Population Prospects (2015) Bảng 2 cho thấy thời kỳ mà các quốc gia Đông Nam Á có thể thu được “lợi thế nguồn nhân lực” cho tăng trưởng và phát triển kinh tế. Sớm nhất là Singapore bắt đầu bước vào thời kỳ “dân số vàng” từ năm 1980 và muộn nhất là Philippines sẽ bắt đầu thời kỳ này vào năm 2030 với độ dài trung bình là 30 năm. Đây là cơ hội vàng cho các quốc gia Đông Nam Á, đặc biệt trong thời kỳ các quốc gia này đang nỗ lực tìm kiếm các giải pháp tốt nhất để phát huy tiềm lực kinh tế của mỗi quốc gia và của cả cộng đồng ASEAN. Tuy nhiên, nghiên cứu cho thấy lợi thế về nguồn nhân lực của khu vực Đông Nam Á hiện nay sẽ không lớn như như của khu vực Đông Á thời kỳ 1960-1990. Một trong những nguyên nhân quan trọng lý giải cho vấn đề này là có sự khác biệt giữa tỷ lệ tăng dân số hoạt động kinh tế với tỷ lệ tăng dân số không hoạt động kinh tế và sự khác nhau về chất lượng nguồn nhân lực và khả năng tạo việc làm của các nền kinh tế. Nguồn nhân lực ở mỗi nước có lợi thế lớn nhất khi nước đó ở thời kỳ “cơ cấu dân số vàng”. Mỗi nước có một giai đoạn “cơ cấu dân số vàng” khác nhau và thời gian dài hay ngắn phụ thuộc vào quá trình biến đổi cơ cấu tuổi dân số của nước đó. Tác động tích cực từ nguồn nhân lực lớn đối với tăng trưởng kinh tế mỗi nước là khác nhau và điều này phụ thuộc chủ yếu vào các chiến lược, chính sách và thể chế ở mỗi nước. 2.2 Thực trạng nguồn nhân lực cho t ng trƣởng và phát triển kinh tế Việt Nam Từ trước năm 1979 cho đến nay, số lượng lao động của Việt Nam liên tục tăng qua các năm. Số lao động tăng bình quân ở giai đoạn 1979-1989 là 820.000 người/năm, ở giai đoạn 1989-1999 là 980.000 người/năm và giai đoạn 1999-2009 hàng năm ở Việt Nam số người gia nhập thêm vào lực lượng lao động là khoảng 1,3 triệu người. Tính chung cho cả thời kỳ 1979 – 2009, dân số tăng 1,6 lần trong khi số người trong tuổi lao động tăng 2,1 lần, 552
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG riêng giai đoạn 1999 – 2009 dân số trong tuổi lao động tăng nhanh gấp 2 lần tốc độ tăng dân số nói chung. Nguồn nhân lực dồi dào này là lợi thế của quốc gia, là cơ hội tốt cho phân công lao động vào các ngành trong nền kinh tế, giảm gánh nặng phụ thuộc, tăng tiết kiệm, thúc đẩy đầu tư, kích thích sản xuất, tiêu dùng và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Bảng 3: Số lượng và tốc độ tăng lao động Việt Nam, 1979-2049 N m 1979 1989 1999 2009 2019 2029 2039 2049 Số lƣợng LĐ (triệu 26,63 34,76 44,58 57,09 62,84 65,45 65,76 61,89 người) Tốc độ t ng (%) - 2,66 2,49 2,47 0,96 0,41 0,05 (0,61) Nguồn: Tổng hợp từ số liệu tổng điều tra dân số và Nhà ở, 1979-2009 và dự báo dân số Việt Nam của TCTK (2010) Lực lượng lao động trẻ và dồi dào là đặc trưng cơ bản và rõ rệt nhất của cơ cấu dân số Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Năm 2008, ILO dự báo giai đoạn 2010-2020 tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của cả nam giới và nữ giới ở Việt Nam sẽ duy trì ở mức cao và ổn định, tương ứng 82,3% và 75,3% vào năm 2020, trong khi tỷ lệ trung bình của các nước khác là khoảng 60%. Đây là cơ hội thực sự để Việt Nam phát huy được lợi thế nguồn nhân lực cho tăng trưởng kinh tế trong những thập kỷ tới. Mặt khác, lực lượng lao động gia tăng và có việc làm với thu nhập ngày càng cao cũng sẽ tạo nguồn đóng góp lớn cho quỹ an sinh xã hội, góp phần đảm bảo vững mạnh hệ thống tài chính hưu trí trong dài hạn. Mặc dù xác định lực lượng lao động trẻ và dồi dào là lợi thế quốc gia, nhưng để khai được lợi thế này cần phải tích hợp được cả hai điều kiện về quy mô và chất lượng lao động. Tuy nhiên, lực lượng lao động nước ta có trình độ chuyên môn kỹ thuật thấp và thiếu kỹ năng. Năm 2000, số lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật (có bằng cấp, chứng chỉ) của Việt Nam là 6,1 triệu người và con số này đã tăng lên là 13,2 triệu người vào năm 2010, tức là đã tăng bình quân 8,1%/ năm. Tính trong tổng lực lượng lao động thì tỷ lệ lao động có chuyên môn kỹ thuật tăng từ 15,5% năm 2000 lên 26,2% năm 2010, cho thấy mức độ cải thiện tương đối chậm nếu so sánh với tốc độ tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu lao động. Mặt khác, trong số lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật thì số đông vẫn là lao động có trình độ sơ cấp hoặc công nhân kỹ thuật không có bằng cấp (chiếm trên 11% lực lượng lao động có chuyên môn kỹ thuật). Điều này phản ánh sự chậm chạp trong cải thiện chất lượng lao động của Việt Nam. Cơ cấu lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao vẫn chiếm tỷ trọng thấp trong lực lượng lao động trong khi lao động không có kỹ năng và lao động giản đơn lại chiếm tỷ lệ cao nhất. Đây là thách thức lớn đối với một quốc gia xác định nguồn lao động dồi dào là lợi thế quốc gia nhưng nguồn lao động lại thiếu trầm trọng về chất lượng. Nếu không nâng cao được chất lượng nguồn nhân lực chúng ta sẽ phải đối mặt với các thách thức về sụt giảm sức cạnh tranh của nền kinh tế, nguy cơ rơi vào “bẫy thu nhập trung bình” và đánh mất cơ hội tham gia thị trường quốc tế. Mặt khác, bộ phận lao động nông nghiệp vẫn lớn cả về số lượng và tỷ trọng trong khi diện tích đất nông nghiệp ngày càng thu hẹp lại do quá trình đô thị hóa và chuyển đổi mục đích sử dụng. Thực trạng này có thể đẩy hàng trăm ngàn lao động nông nghiệp bị mất sinh kế cũng như rơi vào tình trạng thất nghiệp hoặc thiếu việc làm dài hạn khi họ không có định hướng hoặc đào tạo nghề đúng nhu cầu thị trường. Hệ quả là dẫn đến hàng loạt những vấn đề nảy sinh mang tính chất thời sự và tác động lớn đến tình hình kinh tế và sự ổn định chính trị xã hội của đất nước. Lao động nông nghiệp chuyển dần sang các lĩnh vực khác và/hoặc dịch chuyển ra 553
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG thành thị tăng dần nhưng lực lượng này lại thiếu trầm trọng cả về kỹ thuật sản xuất và các kỹ năng cần thiết khác để có thể tìm kiếm được việc làm thay thế với mức lương ổn định ở thành phố hay các khu công nghiệp. Ở nhiều khu chế xuất và nhiều doanh nghiệp dân doanh, người lao động đang gặp rất nhiều khó khăn do thiếu thốn về nhà ở, thiếu về điều kiện sinh hoạt tối thiểu. Mặt khác, lao động di cư thường là những lao động chính ở khu vực nông thôn, nên nếu không có chính sách phù hợp về đào tạo nghề, định hướng nghề nghiệp… cho các nhóm lao động này thì “gánh nặng” sẽ rất lớn: khu vực nông thôn không thể phát triển do thiếu lao động và năng suất không cải thiện, trong khi khu vực thành thị đối mặt với sức ép việc làm lớn. Lao động được đào tạo cũng còn yếu kém về chất lượng, không có khả năng làm việc sau khi ra trường mà phải mất thời gian đào tạo lại. Hiện trạng này là hệ quả của những bất cập trong hệ thống giáo dục. Sự thiếu định hướng ngay từ khi lựa chọn ngành học phù hợp với khả năng bản thân sinh viên và phù hợp với nhu cầu xã hội cũng đã làm nên một hiện trạng “thừa thầy, thiếu thợ” trong lực lượng lao động Việt Nam. Với trình độ chuyên môn kỹ thuật thấp, hàm lượng vốn con người tích lũy trong lực lượng lao động thấp làm cho năng suất lao động của Việt Nam không cao, kinh tế Việt Nam tăng trưởng dựa trên mở rộng quy mô sản xuất, sử dụng nhiều lao động hơn là phát triển theo chiều sâu, dựa trên năng suất lao động. Điều này sẽ tạo ra thách thức lớn khi Việt Nam hội nhập với các nước trong khu vực, đặc biệt là khi tham gia vào cộng đồng kinh tế ASEAN với việc tự do hóa di chuyển lao động giữa các nước. 2.3 Nguồn nhân lực đối với t ng trƣởng kinh tế Việt Nam khi tham gia Cộng đồng kinh tế ASEAN trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 Với thực trạng nguồn nhân lực của Việt Nam nói trên, tham gia vào cộng đồng kinh tế ASEAN sẽ vừa mang lại nhiều cơ hội, đồng thời chúng ta cũng phải đối mặt với hàng loạt các thách thức từ việc tự do hóa di chuyển lao động trong AEC. Cuộc CMCN 4.0 sẽ phát triển mạnh mẽ do nhu cầu tìm kiếm phương thức sản xuất mới hiệu quả, bền vững hơn trước những thách thức như biến đổi khí hậu, già hóa dân số hay các vấn đề an ninh khác ngày càng tăng lên. Cuộc cách mạng này sẽ mang tới nhiều cơ hội phát triển và hội nhập, nhưng đồng thời cũng đặt ra nhiều thách thức với các nước đang phát triển như Việt Nam. Việc tiếp cận thành tựu cách mạng sản xuất mới sẽ tạo ra công cụ đắc lực giúp Việt Nam tham gia hiệu quả chuỗi giá trị toàn cầu và đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Khi công nghệ và tự động hóa lên ngôi, họ sẽ đối mặt với áp lực cần nâng cao chất lượng, cải tiến và đổi mới các dây chuyền công nghệ, tuyển nhân lực có năng lực về công nghệ, đồng thời phải đối mặt với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt của doanh nghiệp nước ngoài. Những điều này là thực sự khó khăn trong bối cảnh doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn thua kém rất lớn các doanh nghiệp nước ngoài về công nghệ, cũng như nhân lực và vốn đầu tư như hiện nay. Cơ hội - Việt Nam đang trải nghiệm thời kỳ “cơ cấu dân số vàng” với số người trong tuổi lao động chiếm trên 2/3 tổng dân số, tạo ra một lợi thế lớn về dân số hoạt động kinh tế, kích thích sản xuất, tiêu dùng, tiết kiệm và đầu tư… từ đó thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế. - Lao động Việt Nam có lợi thế trẻ tuổi, có truyền thống ham lao động, cần cù, chịu khó…chính là một trong những lý do quan trọng thu hút đầu tư nước ngoài. Người lao động nếu ham học hỏi, cầu thị thì đây chính là một trong những kênh quan trọng giúp từng bước nâng cao chất lượng lao động của nước nhà thông qua việc tiếp thu khoa học công nghệ, kỹ năng quản lý, ý thức kỷ luật… trong quá trình làm việc. - Nếu với lực lượng lao động dồi dào kết hợp với việc người lao động được đào tạo bài bản, chuyên nghiệp thì Việt Nam có thể trở thành đối tác sản xuất của các nước phát triển trong một số ngành chủ lực. Lực lượng lao động lớn và có kỹ năng sẽ giúp Việt Nam thâm nhập nhanh hơn và sâu hơn vào nền kinh tế khu vực. 554
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG - Với chính sách tự do hóa di chuyển lao động có kỹ năng trong AEC, người lao động có nhiều cơ hội việc làm hơn và phân bổ nguồn lực tốt hơn. Người lao động không chỉ có thêm cơ hội việc làm mà các cơ hội để học hỏi, nâng cao trình độ và kỹ năng cũng được tích hợp trong quá trình phân công lao động này. - Việt Nam đã và đang rất quyết tâm trong việc hoạch định và tăng cường thực thi các biện pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thông qua cải tiến chất lượng giáo dục – đào tạo và đào tạo nghề, đào tạo kỹ năng cho người lao động... Nếu các chính sách, chiến lược này phát huy hiệu quả thì việc tham gia vào cộng đồng kinh tế ASEA sẽ là cơ hội lớn để Việt Nam khẳng định vị thế của mình trong các hoạt động sản xuất kinh doanh, người lao động có cơ hội tìm kiếm được các vị trí làm việc tốt hơn,… từ đó giúp Việt Nam phát huy được lợi thế nguồn nhân lực cho tăng trưởng và phát triển kinh tế. Thách thức - Mặc dù có lợi thế lớn về nguồn nhân lực cho tăng trưởng, nhưng nguồn nhân lực của nước ta có chất lượng không tương xứng với tốc độ tăng về quy mô và tiến độ hội nhập kinh tế khu vực và thế giới của Việt Nam. Chúng ta đã có được kết quả tăng trưởng kinh tế đáng kể trong suốt hai thập kỷ qua (bình quân 7%/năm), tuy nhiên đó là kết quả dựa trên việc mở rộng quy mô sản xuất, sử dụng nhiều lao động hơn là phát triển theo chiều sâu, dựa vào năng suất lao động. Đây là một thách thức lớn cho Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế thế giới, đặc biệt là khi tham gia vào cộng đồng kinh tế ASEAN với chủ trương tự do hóa di chuyển lao động có kỹ năng. Chúng ta có thể sẽ “thua ngay trên sân nhà” do sự dịch chuyển lao động có kỹ năng từ các nước nội khối, mặt khác lại đánh mất cơ hội tìm được việc làm tốt ở các nước AEC trong quá trình di chuyển thể nhân này. - Không chỉ Việt Nam có lợi thế về nguồn nhân lực, bảng 1 (ở phần trên ) cho thấy một số nước trong cộng đồng ASEAN cũng đang trong thời kỳ “vàng” về nguồn nhân lực dồi dào như Thái lan, Singapore, Indonesia. Đây là những đối thủ lớn của nhân lực Việt Nam khi tham gia phân công lao động quốc tế, đặc biệt trong khối AEC. Mặt khác, Malaysia cũng sẽ bước vào giai đoạn bùng nổ nguồn nhân lực ở từ năm 2015, Philippines trải nghiệm thời kỳ này bắt đầu từ năm 2030…thậm chí ngay sát chúng ta là Lào cũng bước vào thời kỳ dồi dào nhất về nguồn nhân lực từ năm 2020 cho đến 2058. Nếu chất lượng nguồn nhân lực của chúng ta không cải thiện đủ mạnh để ngang tầm với trình độ lao động của các quốc gia trong khu vực thì chúng ta sẽ mất đi cơ hội việc làm ở các nước trong khu vực và ở ngay cả thị trường lao động trong nước. Khi đó, chúng ta vẫn có nguồn nhân lực dồi dào, nhưng không còn là lợi thế nữa mà sẽ là bất lợi, trở thành gánh nặng cho nền kinh tế do các vấn đề thất nghiệp, nghèo và các vấn đề xã hội nảy sinh… - Việc công nhận lẫn nhau về tay nghề sẽ tạo điều kiện cho việc di chuyển lao động có trình độ cao trong cộng đồng ASEAN. Điều này có thể giúp Việt Nam bổ sung nguồn nhân lực chất lượng cao còn thiếu, đặc biệt là trong các ngành y, dược,… Tuy nhiên, từ phía Việt Nam, chúng ta cũng phải đối mặt với thách thức bị “chảy máu chất xám” khi nguồn nhân lực chất lượng nước ta sẽ tìm đến các quốc gia khác với cơ hội việc làm và thu nhập tốt hơn. Do vậy, đã đến lúc chúng ta phải xem xét nghiêm túc về các chiến lược đào tạo và phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là nhân lực chất lượng cao, trong đó việc cải thiện chế độ đãi ngộ đối với người lao động có vai trò quan trọng. Gợi ý chính sách Nghiên cứu thực nghiệm ở các nước Đông Á khẳng định nguồn nhân lực dồi dào có đóng góp đáng kể cho tăng trưỏng kinh tế thần kỳ ở các nước này. Tuy nhiên, nhân lực dồi dào chỉ là điều kiện cần trong khi môi trường chính sách trong nước mới là điều kiện đủ để phát huy tốt nhất lợi thế nguồn nhân lực cho tăng trưởng kinh tế. Từ phân tích kinh nghiệm Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore… cho thấy họ đã xác định và thiết lập được mối quan hệ giữa phát triển các chiến lược kinh tế và chiến lược nhân lực, làm cơ sở để tiếp thu công nghệ rồi tiến tới làm chủ công nghệ trong quá trình phát triển, là nền tảng thành công về mặt kinh tế, khoa học kỹ thuật của các quốc gia này. 555
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG Việt Nam cần phải lấy sự phát triển nhân lực làm động lực cho tăng trưởng kinh tế thông qua sự kết hợp giữa các chiến lược quốc gia trong đó chính sách về giáo dục đào tạo là một điểm nhấn hết sức quan trọng. Cần phải có định hướng phát triển theo hướng đào tạo theo nhu cầu xã hội, trang bị đầy đủ kỹ năng và kiến thức cho người lao động gia nhập thị trường thay vì chú tâm đến mở rộng quy mô và chạy theo số lượng các trường đại học như hiện nay. Bên cạnh đó, việc đầu tư và phân bổ hợp lý hơn các nguồn đầu tư cho phát triển khoa học công nghệ cũng là một kênh quan trọng thúc đẩy phát triển vốn con người – từ đó tăng nâng cao lợi thế nguồn nhân lực cho đất nước. Khoa học - công nghệ là động lực của tăng trưởng, là yếu tố để nâng cao chất lượng tăng trưởng, nhưng tác động của hoạt động này đối với nền kinh tế nước ta còn thấp. Tỷ trọng chi cho hoạt động khoa học- công nghệ nhiều năm nay chỉ chiếm chưa tới 1% GDP (năm 2009 đã tăng lên nhưng cũng chỉ chiếm 0,73% tổng vốn đầu tư toàn xã hội), chưa tương xứng với vai trò của hoạt động này đối với sự nghiệp phát triển đất nước. Tuy nhiên, sự yếu kém về chất lượng giáo dục đào tạo cũng là một trở ngại lớn cho phát triển khoa học công nghệ nước nhà mặc dù Việt Nam đã sớm xác định giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu, tỷ trọng chi cho giáo dục - đào tạo trong tổng chi ngân sách ở mức cao. Khoa học - công nghệ là động lực của phát triển, còn giáo dục - đào tạo là chìa khóa của khoa học - công nghệ. Trong những năm qua, ngành giáo dục - đào tạo đã liên tục cải cách tuy nhiên hiệu quả còn thấp, còn nhiều bất cập cần được tháo gỡ. Chất lượng giáo dục đào tạo hạn chế sẽ khó có thể nói tới phát triển hoạt động nghiên cứu khoa học, phát minh sáng chế,… mà ngay cả việc ứng dụng, tiếp thu khoa học kỹ thuật tiên tiến của nước ngoài vào sản xuất cũng còn gặp nhiều khó khăn. Điều này trực tiếp làm giảm năng suất lao động, tăng chi phí sản xuất,… làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế. 3. KẾT LUẬN Việt Nam được đánh giá là có lợi thế lớn về nguồn nhân lực với số người trong tuổi lao động hiện chiếm tới 2/3 tổng dân số. Tuy nhiên, cho đến nay, nguồn nhân lực của nước ta mới chỉ thể hiện rõ lợi thế về lao động giá rẻ, lao động giản đơn, còn lao động kỹ thuật, lao động quản lý thì bất lợi, và chúng ta vẫn đang nỗ lực tìm mọi cách để phát huy tốt nhất lợi thế nguồn nhân lực của đất nước. Nhiều nước trên thế giới đã phát huy được lợi thế nguồn nhân lực để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đặc biệt là các quốc gia Đông Á với một số điều kiện khá tương đồng với Việt Nam. Do vậy, học tập kinh nghiệm từ các quốc gia đi trước trong việc phát huy lợi thế nguồn nhân lực cho tăng trưởng nhờ vào các chính sách đúng đắn và hiệu quả. “Nhân công giá rẻ” đã đến lúc không còn là lợi thế của Việt Nam mà trở thành “cái bẫy” ngăn trở sự phát triển, đất nước sẽ không thể phát triển tốt nếu không có nguồn nhân lực được đào tạo bài bản và có kỹ năng cao mà điều này lại trông chờ nhiều nhất vào sự cải tiến trong các chính sách về giáo dục đào tạo. Tầm quan trọng của nguồn lực con người trong phát triển kinh tế xã hội ngày càng được khẳng định trong nhiều nghiên cứu gần đây. Đầu tư phát triển vốn con người chính là đầu tư cho giáo dục đào tạo và đây cũng chính là một việc làm thiết thực nhất để nâng cao chất lượng dân số mà hiệu ứng của nó là của tương lai phát triển của đất nước. Mặt khác, để phát huy lợi thế nguồn nhân lực trong dài hạn, cần phải có sự kết hợp giữa các chính sách giáo dục đào tạo, y tế, lao động – việc làm và các chính sách về an sinh xã hội… Việt Nam đã tham gia cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) vào năm 2015. Việt Nam đã có những hành động thiết thực thông qua việc chủ động và tích cực tham gia xây dựng AEC. Trong bối cảnh hiện nay, lợi thế về nguồn nhân lực cũng đã và đang được Nhà nước quan tâm thông qua các chương trình, chiến lược và chính sách. Tuy nhiên, có thể phát huy được lợi thế nguồn nhân lực cho tăng trưởng và phát triển kinh tế Việt Nam hay không, điều này không chỉ trông chờ vào các chính sách và chiến lược cụ thể mà còn trông chờ vào sự chung tay hành động của mỗi doanh nghiệp, mỗi tổ chức và mỗi cá nhân người lao động trong quá trình học tập, làm việc và cống hiến… 556
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG Cách mạng công nghiệp 4.0 cũng đang đặt ra nhiều thách thức mới đối với các nước đang phát triển như Việt Nam. Đó là thách thức tụt hậu xa hơn, lao động chi phí thấp mất dần lợi thế, khoảng cách công nghệ và tri thức nới rộng hơn dẫn đến phân hóa xã hội sẽ sâu sắc hơn... Chính phủ, các doanh nghiệp, các trung tâm nghiên cứu và cơ sở giáo dục tại Việt Nam cần phải nhận thức được và sẵn sàng thay đổi và có chiến lược phù hợp cho việc phát triển công - nông nghiệp, dịch vụ và kinh tế nguồn nhân lực. TÀI LIỆU THAM KHẢO TIẾNG VIỆT 1. Viện Khoa học lao động và xã hội (2011), Báo cáo xu hướng lao động và xã hội Việt Nam thời kỳ 2000 - 2015, Bộ Lao động TB&XH, Hà Nội. 2. Bùi Thị Minh Tiệp (2012), Tác động của biến đổi quy mô, cơ cấu dân số đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam, Nhà xuất bản Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội. 3. Tổng cục Thống kê (2010), "Dự báo dân số Việt Nam giai đoạn 2009-2049", (chuyên khảo), Bộ Kế hoạch đầu tư, Hà Nội. 4. Tổng cục Thống kê (2012), “Báo cáo điều tra lao động và việc làm năm 2011”, http://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=512&idmid=5&ItemID=12540 TIẾNG ANH 1. Kenichi Ohno (GRIPS) (2008), Industrial Strategy for Vietnam’s New Era, Presented at the International Symposium on Industrialization strategy of Vietnam toward 2020, Hanoi. 2. World Population Prospects (2015, https://esa.un.org/unpd/wpp/ HUMAN RESOURCES FOR GROWTH VIETNAMESE ECONOMY In the national industrialization and modernization and international economic integration, human resources is the national advantages of Vietnam. Labour force raised from 26,63 million in 1979 to 57,09 million in 2009 and keep raising in forecast. Its peak will achieve 65,76 million people in 2039. Vietnam has experienced the time of “golden population structure” (Demographic Bonus) with the dependence proportion is lower than 50. It means that at least two labours have to work hard in order to feed up 1 person. And this period will be last for about 30 years giving many chance of Vietnamese society and economy development. Participation in ASEAN Economic Community, labor free to move in the AEC, opportunities and challenges are concurrent for Vietnam human resource. This paper will analyze the opportunities and challenges to developing human resources advantage when Vietnam participate in AEC . Key word: human resource, labour force, economic growth 557
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Quản trị nguồn nhân lực_ Chương 1
44 p | 1947 | 1033
-
Nghiên cứu việc ứng dụng lý thuyết quản trị nguồn nhân lực tại công ty cổ phần Traphaco giai đoạn 2000-2004
14 p | 1188 | 542
-
Quản trị nguồn nhân lực cho doanh nghiệp vừa và nhỏ Tập 2 Phần 1
61 p | 581 | 348
-
Tích hợp chiến lược nguồn nhân lực
6 p | 260 | 93
-
QUẢN TRỊ NGUỒN NHÂN LỰC part 1
21 p | 115 | 34
-
Tạo dựng lợi thế cạnh tranh bền vững thông qua chiến lược quản lý tài năng: Minh chứng từ một số doanh nghiệp Việt Nam
10 p | 174 | 24
-
Bài giảng Quản lý vận hành - Chương 10: Nguồn nhân lực và thiết kế công việc
58 p | 123 | 18
-
Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong quản trị nguồn nhân lực
26 p | 60 | 11
-
Tài liệu dành cho đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa - Chuyên đề: Thương hiệu và sở hữu trí tuệ, sở hữu công nghiệp
63 p | 60 | 9
-
Nhận định nhu cầu và giải pháp đào tạo nguồn nhân lực cho thị trường bán lẻ Việt Nam
6 p | 56 | 6
-
Giáo trình Quản trị nguồn nhân lực (Tái bản lần thứ 2): Phần 2
182 p | 30 | 5
-
Chất lượng nguồn nhân lực ở Lâm Đồng và những vấn đề đặt ra hiện nay
9 p | 74 | 5
-
Những lợi ích của Big Data và phân tích dữ liệu cho công tác quản trị nhân lực tại các doanh nghiệp
7 p | 23 | 4
-
Đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của thành phố Hồ Chí Minh thời kỳ hậu hội nhập quốc tế
5 p | 31 | 3
-
Chương trình giáo dục đại học ngành Quản trị nguồn nhân lực – ĐH Đà Nẵng
9 p | 41 | 3
-
Khái niệm - Vai trò đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
3 p | 81 | 3
-
Quản trị nguồn nhân lực xanh - Xu thế tất yếu cho các doanh nghiệp ở Việt Nam phát triển bền vững trong nền kinh tế số
17 p | 2 | 0
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn