Luận án Tiến sĩ: Đảng bộ Thành phố Hà Nội lãnh đạo bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa từ năm 1998 đến năm 2014
lượt xem 8
download
Mục tiêu nghiên cứu của Luận án nhằm làm rõ quá trình Đảng bộ Thành phố Hà Nội lãnh đạo bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH từ năm 1998 đến năm 2014, trên cơ sở đó đúc kết một số kinh nghiệm để vận dụng trong giai đoạn hiện nay. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ: Đảng bộ Thành phố Hà Nội lãnh đạo bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa từ năm 1998 đến năm 2014
- HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN BÁ TĂNG ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ HÀ NỘI LÃNH ĐẠO BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HÓA TỪ NĂM 1998 ĐẾN NĂM 2014 LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÀNH: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM HÀ NỘI - 2020
- HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN BÁ TĂNG ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ HÀ NỘI LÃNH ĐẠO BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HÓA TỪ NĂM 1998 ĐẾN NĂM 2014 LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÀNH: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM Mã số: 9 22 90 15 NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS, TS. Nguyễn Văn Sự 2. PGS, TS. Nguyễn Thắng Lợi HÀ NỘI - 2020
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tác giả. Các tài liệu, số liệu trích dẫn trong luận án đều trung thực, có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng, được trích dẫn đầy đủ theo quy định và không trùng lặp với các công trình khoa học đã công bố. TÁC GIẢ LUẬN ÁN Trần Bá Tăng
- MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 7 1.1. Quan niệm về di sản văn hóa, bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa 7 1.2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án 10 1.3. Khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình đã công bố và những vấn đề luận án tập trung nghiên cứu 30 Chƣơng 2: CHỦ TRƢƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ HÀ NỘI VỀ BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HÓA (1998 - 2008) 35 2.1. Những yếu tố tác động và chủ trương của Đảng bộ thành phố Hà Nội về bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa 35 2.2. Đảng bộ thành phố Hà Nội chỉ đạo bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa 60 Chƣơng 3: ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ HÀ NỘI LÃNH ĐẠO BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HÓA (2008 - 2014) 81 3.1. Những yếu tố mới tác động và chủ trương của Đảng bộ thành phố Hà Nội về bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa 81 3.2. Sự chỉ đạo của Đảng bộ thành phố Hà Nội về bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa 97 Chƣơng 4: NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM 120 4.1. Nhận xét quá trình Đảng bộ thành phố Hà Nội lãnh đạo bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa (1998 – 2014) 120 4.2. Những kinh nghiệm chủ yếu 139 KẾT LUẬN 156 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 159 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 160 PHỤ LỤC
- DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT DSVH : Di sản văn hóa KPC : Khu phố cổ UBND : Ủy ban nhân dân
- 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài luận án Di sản văn hóa (DSVH) là những bằng chứng có ý nghĩa quan trọng, minh chứng về lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc, giúp con người biết được cội nguồn của dân tộc mình, hiểu về truyền thống lịch sử, đặc trưng văn hóa của đất nước, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam hiện đại. Lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc trong việc bảo tồn DSVH tại Việt Nam không chỉ là bảo vệ, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc mà còn gắn liền với việc bảo vệ nền độc lập dân tộc. Di sản văn hóa Việt Nam là bộ phận DSVH của nhân loại, đây là tài sản quý giá của con người Việt Nam, là yếu tố quan trọng làm nên bản sắc của dân tộc Việt Nam và cũng là cơ sở để sáng tạo những giá trị văn hóa, DSVH. Việc bảo tồn, tôn tạo và phát huy DSVH là trách nhiệm của mỗi người, mỗi tổ chức, mỗi dân tộc để thể hiện việc "uống nước nhớ nguồn" tri ân với tiền nhân, đây cũng là những động lực tạo ra sức mạnh tinh thần và là cội nguồn của sức mạnh vật chất để bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước. Di sản văn hóa còn chứa đựng những giá trị kinh tế to lớn, là nguồn lực đối với phát triển kinh tế, nếu được khai thác, sử dụng tốt sẽ góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Nếu DSVH bị mất đi không đơn thuần là mất tài sản vật chất, mà là mất đi những giá trị tinh thần lớn lao không gì bù đắp nổi, đặc biệt là khi đất nước đang rất cần phát huy tối đa nguồn nội lực để phát triển. Trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế hiện nay, Đảng và Nhà nước rất quan tâm đến việc bảo tồn và phát huy giá trị DSVH của dân tộc. DSVH dân tộc được Đảng xác định là "tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị mới và giao lưu văn hóa" [46, tr. 63]. Đại hội IX của Đảng (2001) chủ trương: "Bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa dân tộc … chú trọng gìn giữ, phát huy các di sản
- 2 văn hóa phi vật thể, tôn tạo và quản lý tốt các di sản văn hóa vật thể, các di tích lịch sử" [47, tr. 208]. Đại hội XI của Đảng (2011) khẳng định: "Phát triển sự nghiệp văn học, nghệ thuật; bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hóa truyền thống, cách mạng". Hà Nội là trung tâm hội tụ và tỏa sáng văn hóa số một của cả nước, với sự giàu có, đa dạng về các loại hình DSVH vật thể và DSVH phi vật thể. Từ khi triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII (1998) về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đến nay, cùng với sự quan tâm lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, sự giúp đỡ của cộng đồng quốc tế, sự tham gia đầy nhiệt huyết của các nhà khoa học, đặc biệt là sự lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt của Đảng bộ và chính quyền thành phố, việc bảo tồn và phát huy giá trị DSVH ở Hà Nội đã có những chuyển biến và đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Đã có nhiều di tích khảo cổ, di tích lịch sử kiến trúc nghệ thuật, di tích danh lam thắng cảnh, di tích tôn giáo tín ngưỡng, các DSVH phi vật thể như lễ hội truyền thống, văn hóa dân gian, nghệ thuật trình diễn, bí quyết nghề cổ truyền... có giá trị tiêu biểu được khôi phục và bảo vệ, góp phần mở rộng giao lưu và hội nhập với các nước trong khu vực và thế giới. Bên cạnh những thành tựu đạt được, quá trình lãnh đạo bảo tồn và phát huy giá trị DSVH của Đảng bộ Thành phố Hà Nội từ năm 1998 đến nay cũng bộc lộ những hạn chế cả trong nhận thức cũng như trong hoạt động thực tiễn, như nhận thức của một số cấp ủy, chính quyền cơ sở về vị trí, vai trò của bảo tồn, tôn tạo, gìn giữ và phát huy giá trị DSVH chưa đầy đủ; công tác lãnh đạo, chỉ đạo quản lý di sản còn nhiều bất cập, dẫn đến tình trạng xâm lấn đất đai, cảnh quan di sản, làm biến dạng các DSVH, biến tướng các lễ hội truyền thống... Thực tiễn quá trình Đảng bộ Thành phố Hà Nội lãnh đạo bảo tồn và phát huy giá trị DSVH từ năm 1998 đến nay với những ưu điểm và hạn chế nêu trên rất cần được nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan, trên cơ sở đó đúc kết những kinh nghiệm để vận dụng trong thời gian tới.
- 3 Xuất phát từ yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn, trong thời gian qua đã có rất nhiều công trình nghiên cứu có liên quan đến Đảng bộ Thành phố Hà Nội lãnh đạo bảo tồn và phát huy giá trị DSVH được công bố dưới nhiều cấp độ và phạm vi khác nhau. Tuy nhiên, chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu một cách độc lập, có tính hệ thống về quá trình Đảng bộ Thành phố Hà Nội lãnh đạo bảo tồn và phát huy giá trị DSVH từ năm 1998 đến năm 2014, dưới góc độ chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. Với những lý do trên, nghiên cứu sinh chọn đề tài: Đảng bộ Thành phố Hà Nội lãnh đạo bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa từ năm 1998 đến năm 2014 làm luận án tiến sĩ, chuyên ngành lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Làm rõ quá trình Đảng bộ Thành phố Hà Nội lãnh đạo bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH từ năm 1998 đến năm 2014, trên cơ sở đó đúc kết một số kinh nghiệm để vận dụng trong giai đoạn hiện nay. 2.2. Nhiệm vụ của luận án Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án. Làm rõ những yếu tố tác động đến quá trình Đảng bộ Thành phố Hà Nội lãnh đạo bảo tồn và phát huy giá trị DSVH từ năm 1998 đến năm 2014. Trình bày có hệ thống chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ Thành phố Hà Nội về bảo tồn và phát huy giá trị DSVH từ năm 1998 đến năm 2014, qua hai giai đoạn 1998 - 2008 và 2008 - 2014. Nhận xét và đúc kết kinh nghiệm từ quá trình Đảng bộ Thành phố Hà Nội lãnh đạo bảo tồn và phát huy giá trị DSVH từ năm 1998 đến năm 2014. 3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Luận án nghiên cứu hoạt động lãnh đạo của Đảng bộ Thành phố Hà Nội về bảo tồn và phát huy giá trị DSVH từ năm 1998 đến năm 2014.
- 4 3.2. Phạm vi nghiên cứu Về thời gian: Từ năm 1998 đến năm 2014, với mốc chia chương là năm 2008: Năm 1998 là thời điểm Đảng Cộng sản Việt Nam ra Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về "Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc", cũng là năm Thành ủy Hà Nội ra chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII; Năm 2008 là năm Hà Nội mở rộng địa giới hành chính (sáp nhập tỉnh Hà Tây, huyện Mê Linh và 4 xã của huyện Lương Sơn, Hòa Bình); Năm 2014 là thời điểm các cấp bộ đảng trên phạm vi cả nước tiến hành tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII, trong đó có Đảng bộ Thành phố Hà Nội. Về không gian: Nghiên cứu công tác bảo tồn và phát huy giá trị DSVH trên địa bàn Thành phố Hà Nội giai đoạn 1998 - 2008 (khi Hà Nội chưa mở rộng) và khi Thành phố Hà Nội mở rộng (giai đoạn 2008 - 2014). Về nội dung: Luận án tập trung nghiên cứu làm rõ những yếu tố tác động; chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ Thành phố Hà Nội về bảo tồn và phát huy giá trị DSVH (bao gồm: bảo tồn và phát huy giá trị DSVH vật thể; bảo tồn và phát huy giá trị DSVH phi vật thể); nhận xét và đúc kết kinh nghiệm từ quá trình Đảng bộ Thành phố Hà Nội về bảo tồn và phát huy giá trị DSVH từ năm 2008 đến năm 2014. 4. Cơ sở lý luận, nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, bảo tồn và phát huy giá trị DSVH. 4.2. Nguồn tư liệu Các tác phẩm của Mác - Ăngghen, V.I. Lênin, Hồ Chí Minh; các văn kiện của Đảng và Nhà nước; các văn kiện của Đảng bộ và chính quyền Thành phố Hà Nội có liên quan đến văn hóa, bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá DSVH;
- 5 các chương trình, báo cáo của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch (nay là Sở Văn hóa - Thể thao); các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án… 4.3. Phương pháp nghiên cứu Luận án chủ yếu sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp logic, kết hợp với phương pháp thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp... để làm rõ các nội dung của luận án. Trong đó: Phương pháp lịch sử được sử dụng để làm rõ bối cảnh, quá trình hoạch định chủ trương và chỉ đạo của Đảng bộ Thành phố Hà Nội về bảo tồn và phát huy giá trị DSVH theo diễn tiến thời gian. Phương pháp logic dùng để làm rõ các bước phát triển tư duy nhận thức và chỉ đạo thực tiễn của Đảng bộ Thành phố Hà Nội về bảo tồn và phát huy giá trị DSVH; rút ra những ưu điểm, hạn chế, chỉ rõ nguyên nhân và đúc kết những kinh nghiệm từ quá trình lãnh đạo của Đảng bộ thành phố về bảo tồn và phát huy giá trị DSVH từ năm 1998 đến năm 2014. Phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê được sử dụng nhằm làm rõ chủ trương và luận chứng các mặt chỉ đạo của Đảng bộ Thành phố Hà Nội về bảo tồn và phát huy giá trị DSVH qua hai giai đoạn 1998 - 2008 và 2008 - 2014. Phương pháp so sánh được sử dụng để so sánh hoạt động lãnh đạo của Đảng bộ Thành phố Hà Nội về bảo tồn và phát huy giá trị DSVH giữa các giai đoạn cũng như giữa Hà Nội với các địa phương khác. 5. Đóng góp về khoa học của luận án Góp phần hệ thống hóa chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ Thành phố Hà Nội về bảo tồn và phát huy giá trị DSVH năm 1998 đến năm 2014. Đưa ra những nhận xét đánh giá có cơ sở khoa học về quá trình Đảng bộ Thành phố Hà Nội lãnh đạo bảo tồn và phát huy giá trị DSVH năm 1998 đến năm 2014 trên cả hai bình diện ưu điểm, hạn chế, làm rõ nguyên nhân của ưu điểm, hạn chế. Đúc kết những kinh nghiệm chủ yếu từ quá trình Đảng bộ Thành phố Hà Nội lãnh đạo bảo tồn và phát huy giá trị DSVH từ năm 1998 đến năm 2014.
- 6 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài 6.1. Ý nghĩa lý luận Góp phần vào việc tổng kết quá trình Đảng lãnh đạo bảo tồn và phát huy giá trị DSVH trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế (qua thực tiễn địa bàn Thành phố Hà Nội) Góp thêm luận cứ cho việc đổi mới chủ trương, chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Những kinh nghiệm được đúc kết trong luận án có thể được vận dụng trong lãnh đạo bảo tồn và phát huy giá trị DSVH của Thành phố Hà Nội trong thời gian tới. Luận án là tài liệu tham khảo phục vụ công tác nghiên cứu, hoạt động tuyên truyền giáo dục về bảo tồn và phát huy giá trị DSVH; đồng thời là tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu, giảng dạy lịch sử Đảng và lịch sử Đảng bộ địa phương. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận án gồm 4 chương, 9 tiết
- 7 Chƣơng 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1. QUAN NIỆM VỀ DI SẢN VĂN HÓA, BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HÓA 1.1.1. Về di sản văn hóa Di sản văn hóa là tài sản, là báu vật của tiền nhân để lại cho thế hệ sau, như các di tích lịch sử, văn hóa, kiến trúc, tín ngưỡng, các di vật, cổ vật, di tích danh lam thắng cảnh, các tác phẩm văn học, nghệ thuật... Theo nghĩa Hán - Việt, DSVH là tài sản văn hóa có giá trị của quá khứ còn tồn tại trong cuộc sống hôm nay và mai sau. Nhìn nhận một cách toàn diện, DSVH là một khái niệm có tính vận động thay đổi theo thời gian. DSVH là sản phẩm của quá khứ nhưng đó là quá khứ đã được lựa chọn theo nhu cầu của xã hội hiện đại, là sự lựa chọn từ dĩ vãng những ký ức, báu vật của con người, thể hiện nhu cầu, nguyện vọng, mong muốn của xã hội hiện đại. Luật DSVH của Việt Nam xác định: "Di sản văn hóa bao gồm di sản văn hóa phi vật thể và di sản văn hóa vật thể, là sản phẩm tinh thần vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam" [123]. Như vậy, DSVH có hai dạng khác nhau đó là DSVH vật thể và DSVH phi vật thể, được con người tạo ra và cũng để đáp ứng hai loại nhu cầu cơ bản của con người đó là nhu cầu về vật chất và nhu cầu về tinh thần. Di sản văn hóa vật thể bao gồm toàn bộ những sản phẩm do sản xuất vật chất của con người tạo ra như các công trình kiến trúc, công cụ sản xuất và sinh hoạt, đổ ăn và đồ mặc, các phương tiện đi lại. Điều 4, Luật DSVH định nghĩa như sau: "Di sản văn hóa vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, bao gồm di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh và di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia" [27, tr. 15-16].
- 8 Di sản văn hóa phi vật thể được Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật DSVH ghi rõ: Di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh thần gắn với cộng đồng hoặc cá nhân, vật thể và không gian văn hóa liên quan, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, thể hiện bản sắc của cộng đồng, không ngừng được tái tạo và được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức khác [123, tr. 1]. Mối quan hệ giữa DSVH vật thể và DSVH phi vật thể là mối quan hệ tương đối, việc phân chia ranh giới giữa DSVH vật thể và DSVH phi vật thể là việc làm không đơn giản vì sự phức tạp của nó. Chẳng hạn, ngôi đình là kiến trúc dân gian đặc sắc của người Việt, thuộc DSVH vật thể. Tuy nhiên, kiến thức, kỹ năng sáng tạo, nghệ thuật trang trí, chạm khắc... của ngôi đình lại nghiêng về văn hóa phi vật thể. Tương tự như vậy, các sản phẩm thủ công như đồ gốm, đồ thủ công mỹ nghệ... được coi là văn hóa vật thể, còn bí quyết, kỹ thuật tạo tác sản phẩm, kiểu dáng, nghệ thuật trang trí... trên sản phẩm lại thuộc về văn hóa phi vật thể. Rõ ràng là giữa DSVH vật thể và DSVH phi vật thể luôn có mối quan hệ gắn bó hữu cơ với nhau, đôi khi khó phân biệt rạch ròi. Việc phân chia văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể chỉ mang ý nghĩa tương đối. Sự phân biệt giữa DSVH vật thể và DSVH phi vật thể sẽ còn là chủ đề gây nhiều tranh luận, đặc biệt khi áp dụng vào công việc bảo tồn. Liệu chúng ta có thể bảo tồn văn hóa phi vật thể mà không tiếp cận văn hóa vật thể, hay ngược lại, bảo tồn DSVH vật thể mà không chú ý đến các giá trị phi vật thể xung quanh nó. Trên thực tế, sự phân biệt hai thể loại DSVH như trên chỉ có ý nghĩa quy ước, chúng có mối quan hệ gắn bó hữu cơ với nhau, khó phân biệt rạch ròi. Cả hai loại này sẽ mất đi nếu không được cộng đồng, cá nhân giữ gìn và phát huy. Trên cơ sở của những quan niệm, luận giải và phân tích ở trên về DSVH có thể
- 9 hiểu và khái quát: DSVH là tổng hợp những tài sản văn hóa truyền thống bao gồm cả văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể trong hệ thống giá trị của nó, được con người nhận biết, qua đó tiến hành giữ gìn và phát huy nhằm đáp ứng những nhu cầu của con người và đòi hỏi của cuộc sống hiện tại. 1.1.2. Về bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa Bảo tồn theo Từ điển tiếng Việt, do Hoàng Phê chủ biên có nghĩa là "giữ lại không để cho mất đi" còn "phát huy là làm cho cái hay, cái tốt tỏa tác dụng và tiếp tục nảy nở thêm" [119, tr. 39, 768]. Bảo tồn là bảo vệ và giữ gìn sự tồn tại của sự vật hiện tượng theo dạng thức vốn có của nó, không để bị thay đổi, biến hóa hay biến thái. Như vậy, trong nội hàm của thuật ngữ này, không có khái niệm "cải biến", "nâng cao" hoặc "phát triển". Bảo tồn mang nghĩa rộng hơn, là hoạt động giữ gìn một cách an toàn khỏi sự tổn hại, sự xuống cấp hoặc phá hoại, nói cách khác là bảo quản kết cấu một địa điểm ở hiện trạng và hãm sự xuống cấp của kết cấu đó. Như vậy, bảo tồn là tất cả những nỗ lực nhằm hiểu biết về lịch sử hình thành, ý nghĩa của DSVH nhằm bảo đảm sự an toàn, phát triển lâu dài cho DSVH và khi cần đến phải đảm bảo việc giới thiệu, trưng bày, khôi phục và tôn tạo lại để khai thác phục vụ cho hoạt động tiến bộ của xã hội. Phát huy, trước hết là sử dụng giá trị tinh thần của DSVH trong công tác tuyên truyền, giáo dục tư tưởng tình cảm; đồng thời, khái niệm "phát huy" cũng đã bao hàm cả các hoạt động khai thác, tuy nhiên, nếu sử dụng từ "khai thác" thay cho "phát huy" DSVH thì sẽ bị hiểu là quá thiên về tính hiệu quả kinh tế trong sử dụng. Có thể nói, phát huy chính là việc khai thác, sử dụng sản phẩm một cách có hiệu quả. Công việc này xuất phát từ nhu cầu thực tế, con người mong muốn sản phẩm của họ tạo ra phải được nhiều người cùng biết đến hoặc đem về những lợi ích kinh tế. Bảo tồn và phát huy DSVH luôn gắn kết chặt chẽ, biện chứng. Đó là hai lĩnh vực thống nhất, tương hỗ, chi phối, ảnh hưởng qua lại trong hoạt động giữ gìn tài sản văn hóa. Bảo tồn DSVH thành công thì mới phát huy
- 10 được các giá trị của di sản. Phát huy cũng là một cách bảo tồn di sản tốt nhất, lưu giữ những giá trị đó trong ý thức cộng đồng xã hội. Hoạt động bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa là hai việc khác nhau, tuy nhiên do có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ về nội dung nên hoạt động này đôi khi được gọi một cách ngắn gọn là hoạt động bảo tồn. Bảo tồn không thể tách rời đổi mới và phát triển; bảo tồn không có nghĩa là giữ nguyên hoặc khôi phục lại cả những gì không còn thích hợp nữa, những gì đã bị đào thải. Muốn thế cần có sự chắt lọc, lựa chọn kỹ càng để xem cái gì bảo tồn nguyên vẹn, cái gì cần phải điều chỉnh, sửa đổi cho phù hợp với sự phát triển của xã hội hiện nay. 1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN Từ xưa đến nay, Hà Nội được mệnh danh là "Nơi lắng hồn núi sông", "Nơi hội tụ và lan tỏa" các giá trị văn hóa của dân tộc. Điều đó mang lại sức hấp dẫn, cuốn hút cho các học giả, các nhà nghiên cứu trong nước và ngoài nước về Hà Nội. Nghiên cứu về văn hóa, bảo tồn và phát huy giá trị DSVH nói chung và của Hà Nội nói riêng đã có rất nhiều công trình nghiên cứu được công bố, dưới góc nhìn của khoa học lịch sử, lịch sử Đảng, văn hóa học, quản lý văn hóa, văn hóa dân gian, xã hội học, văn học, nghệ thuật, mỹ thuật… Liên quan trực tiếp đến luận án, có thể khái quát thành các nhóm cơ bản sau đây. 1.2.1. Các nghiên cứu chung về văn hóa, di sản văn hóa, bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc Cuốn sách Phát triển văn hóa, giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc kết hợp với tinh hoa nhân loại (1996), của Phạm Minh Hạc [68], đã đề cập đến một số khái niệm cơ bản về văn hóa, văn minh; vai trò của văn hóa, quá trình phát triển của văn hóa, văn minh, đồng thời nêu ra vấn đề văn minh và tác phong công nghiệp; vị trí vai trò của văn hóa truyền thống và bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam trong công cuộc giáo dục con người; đồng thời, phải biết tiếp biến tinh hoa văn hóa nhân loại.
- 11 Cục Bảo tồn Bảo tàng, Bảo tàng Hồ Chí Minh (1996), trong Kỷ yếu hội thảo khoa học thực tiễn kỷ niệm 50 năm ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh bảo tồn di sản văn hóa dân tộc (23/11/1945 - 23/11/1995 [174], bao gồm những tham luận, báo cáo của các tác giả như: Lưu Trần Tiêu, Đặng Văn Bài, Đỗ Văn Trụ… Các bài viết này đã phân tích, trình bày những thành tựu, hạn chế về công tác nghiên cứu, lưu giữ, phục dựng, trùng tu, tôn tạo và phát huy DSVH dân tộc trong nửa thế kỷ nhân dịp kỷ niệm 50 năm (23/11/1945 - 23/11/1995) ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh bảo tồn DSVH dân tộc. Cuốn sách Một số vấn đề về bảo tồn và phát triển di sản văn hóa dân tộc (1997), của Hoàng Vinh [201], đề cập đến những vấn đề lý luận về DSVH dân tộc; về vai trò, chức năng của DSVH đối với việc lựa chọn mô hình phát triển văn hóa dân tộc. Tác giả đưa ra khái niệm DSVH là tổng thể những tài sản văn hóa truyền thống trong hệ thống giá trị của nó, được chủ thể nhận biết và đưa vào sử dụng nhằm đáp ứng những nhu cầu của hiện tại. Đồng thời, giới thiệu một số bài học kinh nghiệm trong việc bảo tồn và phát huy DSVH tại Nhật Bản như: Luôn coi bảo tồn và khai thác tài sản văn hóa là một vấn đề quan trọng được quy định trong các văn bản pháp luật, chính sách. Việc bảo tồn các DSVH được nhấn mạnh trong nhận thức của mỗi người dân và vai trò, chức năng, nhiệm vụ của di sản trong quá trình phát triển bền vững của đất nước. Nguyễn Quang Điển và cộng sự (1999), trong cuốn Bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc [57], đã có những tìm tòi, luận giải về văn hóa, bản sắc văn hóa, bảo tồn và phát huy văn hóa, bản sắc văn hóa và di sản văn hóa dân tộc; vai trò của các loại hình giáo dục đối với việc bảo tồn và phát triển văn hóa dân tộc. Nguyễn Khoa Điềm và cộng sự (2001), trong cuốn Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc [56], xuất phát từ sự tiếp cận văn hóa, các yếu tố cấu thành nền văn hóa, những tiền đề lý luận và thực tiễn hoạt động văn hóa hơn nửa thế kỷ qua do Đảng lãnh đạo, đã phản ánh rõ những nét chính yếu về tính tiên tiến của nền văn hóa mà nhân dân ta đang
- 12 xây dựng, về bản sắc văn hóa dân tộc. Qua hoạt động thực tiễn và tham khảo kinh nghiệm xử lý vấn đề văn hóa ở một số nước trên thế giới, cuốn sách ghi nhận rõ nét về thực trạng văn hóa Việt Nam, đề xuất một số giải pháp và kiến nghị để xây dựng nền văn hóa Việt Nam đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. Từ đó, đưa ra những định hướng chiến lược cơ bản cho sự nghiệp xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Cuốn sách Một con đường tiếp cận di sản văn hóa (2005), của Lưu Trần Tiêu và Nguyễn Quốc Hùng [176], đã tập hợp các bài nghiên cứu, bài viết bàn về vấn đề bảo vệ, phát huy các giá trị di sản văn hóa Việt Nam; phổ biến các quan điểm chỉ đạo, hướng dẫn hoạt động thực tiễn của ngành và vấn đề xây dựng cơ sở lý luận cho ngành khoa học mới, xác lập cơ sở khoa học cho ngành bảo tàng học. Nguyễn Văn Huyên và cộng sự (2006), trong cuốn sách Văn hóa mục tiêu và động lực của sự phát triển xã hội [84], đưa ra nội dung văn hóa vừa là mục tiêu phấn đấu, vừa là động lực mạnh mẽ vươn lên của xã hội loài người trong việc thúc đẩy quá trình phát triển xã hội, để từ đó vận dụng nguyên tắc kết hợp giữa mục tiêu và động lực văn hóa vào quá trình xây dựng và phát triển Việt Nam hôm nay. Bộ Văn hóa Thông tin (2006), trong công trình Một con đường tiếp cận di sản văn hóa [30], đã tập hợp nhiều bài nghiên cứu DSVH về lý luận và thực tiễn, trong đó tiêu biểu có các bài: "Bảo tồn, tôn tạo và xây dựng khu di tích lịch sử - văn hóa Đường Lâm"của Phan Huy Lê; "Khảo cổ học với công tác bảo vệ và phát huy di sản văn hóa" của Vũ Quốc Hiền; "Bảo tồn di tích, nhân tố quan trọng của phát triển bền vững" của Lê Thành Vinh; "Di tích lịch sử và văn hóa đồng bằng sông Hồng" của Đặng văn Bài, các bài viết có thể giúp người đọc nhận diện một số vấn đề lý luận về DSVH. Tác giả Vũ Ngọc Khánh (2007), trong cuốn sách Văn hóa lễ hội truyền thống các dân tộc Việt Nam, [90] đã trình bày, khắc họa giúp người đọc nắm bắt một cách có hệ thống, toàn diện những nghi thức, nghi lễ và nội dung của
- 13 các lễ hội, các hình thái tín ngưỡng dân gian của các dân tộc Việt Nam. Qua đó, có thể thấy rõ vai trò quan trọng của lễ hội đối với đời sống tinh thần của cộng đồng để từ đó biết trân trọng, kế thừa phát huy những cái hay, nét đẹp của chúng, góp phần xây dựng nền văn hóa các dân tộc Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Nguyễn Đình Thanh và cộng sự (2008), trong cuốn sách Di sản văn hóa bảo tồn và phát triển [138], đã tập hợp những bài nghiên cứu về mối quan hệ giữa DSVH và du lịch; giới thiệu một số kinh nghiệm bảo tồn và phát huy giá trị DSVH của một số quốc gia trên thế giới, cũng như các hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị DSVH ở Việt Nam. Tác giả Phạm Duy Đức và cộng sự (2009), trong cuốn sách Phát triển văn hóa Việt Nam giai đoạn 2011-2020 những vấn đề phương pháp luận [61], đã phân tích, đánh giá thực trạng văn hóa Việt Nam và thực trạng lãnh đạo, quản lý văn hóa của Đảng, Nhà nước; chỉ rõ mối quan hệ giữa văn hóa và các lĩnh vực phát triển kinh tế - xã hội, chính trị… Phạm Duy Đức và cộng sự (2010), trong cuốn sách Thành tựu trong xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam 25 năm đổi mới (1986- 2010) [62], là tập hợp các bài viết có chọn lọc của các chuyên gia nghiên cứu về văn hóa. Xuất phát từ sự tiếp cận văn hóa, những yếu tố cấu thành nền văn hóa, những tiền đề lý luận và thực tiễn hoạt động văn hóa do Đảng lãnh đạo, nội dung cuốn sách phản ánh thực trạng văn hóa Việt Nam qua 25 năm đổi mới, chỉ ra những thành tựu quan trọng, đồng thời vạch ra những mặt yếu kém, hạn chế, qua đó kiến nghị và đề xuất một số giải pháp cơ bản để phát triển văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong những năm tiếp theo hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Tác giả Phạm Thanh Hà (2011), trong cuốn Giữ gìn bản sắc dân tộc Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay [67], đã khẳng định, vấn đề bản sắc dân tộc và việc giữ gìn bản sắc dân tộc là mối quan tâm của nhiều quốc gia trong bối cảnh toàn cầu hóa. Vì một trong những thách thức mà toàn
- 14 cầu hóa đặt ra đối với sự phát triển của các nước là sự nhạt nhòa, mai một bản sắc dân tộc. Trước tình hình đó đòi hỏi mỗi quốc gia phải có những phương thức xử lý để không những đưa đất nước phát triển đi lên, hội nhập cùng thế giới và phát huy được sức mạnh vốn có của mình, đưa bản sắc dân tộc thành động lực nội sinh thúc đẩy dân tộc phát triển. Trong cuốn sách, tác giả khẳng định: "Dân tộc Việt Nam phải giữ gìn… bản sắc dân tộc một cách sáng tạo, linh hoạt; phải kết tinh lại và nâng lên tầm cao mới mọi đặc điểm tích cực của dân tộc và những đặc điểm tích cực mới của thế giới" [67, tr. 69]. Cuốn sách Một số vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng, phát triển văn hóa Việt Nam (2011), của Nguyễn Thị Hương và cộng sự [86], đã giới thiệu kết quả nghiên cứu về lý luận và thực tiễn xây dựng, phát triển văn hóa Việt Nam trong quá trình đổi mới, hội nhập dưới sự lãnh đạo của Đảng trên quan điểm là xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển. Tác giả Nguyễn Danh Tiên (2012), trong cuốn sách Đảng lãnh đạo xây dựng và phát triển văn hóa trong thời kỳ đổi mới [171], đã khái quát quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng và phát triển văn hóa từ năm 1986 đến nay. Công trình phân tích vai trò, vị trí của văn hóa, Đảng ta đã từng bước đổi mới tư duy lý luận và đường lối văn hóa. Quá trình không ngừng bổ sung và phát triển đường lối văn hóa của Đảng từ Nghị quyết Đại hội VI đến Nghị quyết Đại hội XI, trong đó, Hội nghị Trung ương 5, khóa VIII là bước đột phá, đánh dấu bước phát triển mới trong tư duy lý luận của Đảng về văn hóa khi đề ra được một chiến lược văn hóa phù hợp với công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trên cơ sở đó, Đảng tập trung lãnh đạo xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc một cách toàn diện, trong đó chú trọng: xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống; xây dựng đời sống văn hóa cơ sở; gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc; phát triển văn học, nghệ thuật và hệ thống thông tin đại chúng. Quá trình lãnh đạo xây dựng và phát triển văn hóa của Đảng đã mang lại nhiều thành tựu cho sự phát triển bền
- 15 vững của đất nước, đồng thời, cũng thu nhận được một số kinh nghiệm quý báu. Điều đó đã, đang và sẽ tạo tiền đề cho sự nghiệp chấn hưng nền văn hóa dân tộc trong thế kỷ mới, trong đó sự lãnh đạo của Đảng là một nhân tố bảo đảm cho sự thành công của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Cuốn sách Bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa Việt Nam (2014), của tác giả Trương Quốc Bình [24], đã giới thiệu các bài nghiên cứu về bảo vệ và phát huy giá trị DSVH vật thể và phi vật thể của Việt Nam; những sắc thái văn hóa các địa phương trong phát triển và du lịch và những kỷ niệm về những con người và địa danh các vùng miền văn hóa; những nhìn nhận, đánh giá vị trí, vai trò của các bộ sưu tập hiện vật đối với quá trình hoạt động tổ chức trưng bày của các bảo tàng ở Việt Nam. Bùi Bạch Đằng (2014), với đề tài Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo phát huy bản sắc văn hóa dân tộc từ năm 1998 đến năm 2014, là luận án tiến sĩ [55], đã trình bày khái quát cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, bản sắc văn hóa dân tộc; đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về văn hóa, bản sắc văn hóa dân tộc; đồng thời, kế thừa làm rõ yêu cầu khách quan, chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng về phát huy bản sắc văn hóa dân tộc; trên cơ sở đó, đưa ra những đánh giá, nhận xét về hoạt động lãnh đạo phát huy bản sắc văn hóa dân tộc của Đảng, chỉ ra những hạn chế, bất cập, làm rõ nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế, bước đầu rút ra một số kinh nghiệm để nâng cao chất lượng xây dựng nền văn hóa và phát triển con người Việt Nam. Bên cạnh những cuốn sách nghiên cứu về văn hóa, bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa, còn có nhiều bài viết đăng ở các tạp chí khoa học cũng đề cập đến vấn đề này như: Tác giả Nguyễn Văn Huyên (1999), trong bài "Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và vấn đề giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc", in trên Tạp chí Triết học [83], đã khẳng định quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực chất tự bản thân
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận án Tiến sĩ Lịch sử: Quá trình xây dựng tổ chức và hoạt động của Xứ ủy Nam Bộ và Trung ương Cục Miền Nam từ năm 1945 đến năm 1954
177 p | 328 | 72
-
Luận án Tiến sĩ Triết học: Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh lãnh đạo phát triển quan hệ hữu nghị hợp tác với tỉnh Bôlykhămxay và Khămmuộn (CHDCND Lào) từ năm 1991 đến năm 2010
170 p | 158 | 20
-
Luận án Tiến sĩ Lịch sử: Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở các tỉnh Bắc Trung Bộ
189 p | 100 | 19
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Lịch sử: Quá trình xây dựng tổ chức và hoạt động của Xứ ủy Nam Bộ và Trung ương Cục Miền Nam từ năm 1945 đến năm 1954
27 p | 152 | 18
-
Luận án Tiến sĩ: Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số từ năm 1991 đến năm 2010
183 p | 91 | 14
-
Luận án Tiến sĩ: Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lãnh đạo phát triển kinh tế nông nghiệp từ năm 2001 đến năm 2015
194 p | 38 | 13
-
Luận án Tiến sĩ Quản lý giáo dục: Phát triển đội ngũ giảng viên ngành Điện công nghiệp ở các trường cao đẳng trực thuộc Bộ Công Thương các tỉnh miền Bắc theo tiếp cận năng lực
299 p | 19 | 9
-
Luận án Tiến sĩ Sinh học: Nghiên cứu thành phần, phân bố của các loài ve sầu (Hemiptera: Cicadidae) ở vùng Đông Bắc và một số điểm phụ cận, Việt Nam
166 p | 46 | 7
-
Luận án Tiến sĩ Lịch sử: Đảng bộ tỉnh Lào Cai lãnh đạo đào tạo nguồn nhân lực từ năm 2001 đến năm 2010
0 p | 71 | 7
-
Quy trình bảo vệ luận án tiến sĩ 2010
24 p | 150 | 7
-
Luận án Tiến sĩ Lịch sử: Đảng bộ Quân chủng Phòng không - Không quân lãnh đạo công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng từ năm 2005 đến năm 2015
242 p | 24 | 6
-
Luận án Tiến sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu diễn biến hình thái vùng ven biển Nam Trung Bộ trong điều kiện nước biển dâng do biến đổi khí hậu
191 p | 17 | 6
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ: Đảng bộ Quân đội lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ chính trị từ năm 2001 đến năm 2010
26 p | 71 | 6
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phản ứng của nhà đầu tư với thông báo đăng ký giao dịch cổ phiếu của người nội bộ, người liên quan và cổ đông lớn nước ngoài nghiên cứu trên thị trường chứng khoán Việt Nam
32 p | 183 | 6
-
Luận án Tiến sĩ Kỹ thuật cơ khí: Nghiên cứu giảm phát thải độc hại của động cơ diesel đang lưu hành bằng phương pháp luân hồi khí thải kết hợp bổ sung khí hydro
150 p | 20 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu diễn biến hình thái ven biển Nam Trung Bộ trong điều kiện nước biển dâng do biến đổi khí hậu
27 p | 13 | 4
-
Luận án Tiến sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu diễn biến hình thái ven biển Nam Trung Bộ trong điều kiện nước biển dâng do biến đổi khí hậu
191 p | 8 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Triết học: Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh lãnh đạo phát triển quan hệ hữu nghị hợp tác với tỉnh Bôlykhămxay và Khămmuộn (CHDCND Lào) từ năm 1991 đến năm 2010
12 p | 113 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn