intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án Tiến sĩ Hồ Chí Minh học: Tư tưởng Hồ Chí Minh về kiểm soát quyền lực nhà nước và vận dụng trong tình hình hiện nay

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:220

31
lượt xem
13
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu của đề tài "Tư tưởng Hồ Chí Minh về kiểm soát quyền lực nhà nước và vận dụng trong tình hình hiện nay" nhằm đánh giá thực trạng kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam và phân tích những vấn đề đặt ra hiện nay từ góc nhìn tư tưởng Hồ Chí Minh; Làm rõ những yếu tố tác động và xác định các yêu cầu, đề xuất các nhóm giải pháp vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ Hồ Chí Minh học: Tư tưởng Hồ Chí Minh về kiểm soát quyền lực nhà nước và vận dụng trong tình hình hiện nay

  1. HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRỊNH QUỐC VIỆT TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC VÀ VẬN DỤNG TRONG TÌNH HÌNH HIỆN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÀNH: HỒ CHÍ MINH HỌC HÀ NỘI - 2022
  2. HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRỊNH QUỐC VIỆT TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC VÀ VẬN DỤNG TRONG TÌNH HÌNH HIỆN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÀNH: HỒ CHÍ MINH HỌC Mã số: 931 02 04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS. TS. LÝ VIỆT QUANG 2. TS. ĐẶNG VĂN THÁI HÀ NỘI - 2022
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định. Tác giả luận án Trịnh Quốc Việt
  4. MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 6 1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án 6 1.2. Khái quát tình hình nghiên cứu liên quan và một số vấn đề luận án cần tiếp tục nghiên cứu 27 Chương 2: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC - NỘI DUNG VÀ GIÁ TRỊ 31 2.1. Một số khái niệm cơ bản 31 2.2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về kiểm soát quyền lực nhà nước 40 2.3. Giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về kiểm soát quyền lực nhà nước 73 Chương 3: THỰC TRẠNG KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA TỪ GÓC NHÌN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH 83 3.1. Thực trạng kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam 83 3.2. Một số vấn đề đặt ra hiện nay trong kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam 116 Chương 4: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TRONG KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 124 4.1. Những yếu tố tác động đến vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về kiểm soát quyền lực nhà nước 124 4.2. Yêu cầu vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong kiểm soát quyền lực nhà nước 131 4.3. Giải pháp vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong kiểm soát quyền lực nhà nước 137 KẾT LUẬN 162 CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 165 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 167 PHỤ LỤC 179
  5. DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT BMNN : Bộ máy nhà nước CNXH : Chủ nghĩa xã hội KSQL : Kiểm soát quyền lực KSQLNN : Kiểm soát quyền lực nhà nước QLNN : Quyền lực nhà nước XHCN : Xã hội chủ nghĩa
  6. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Kiểm soát quyền lực nhà nước (KSQLNN) là một phạm trù cơ bản của khoa học chính trị do các chủ thể tiến hành nhằm phát hiện, ngăn chặn sự tha hóa quyền lực, bảo đảm cho quyền lực nhà nước (QLNN) được thực thi đúng mục tiêu, hiệu quả. Với hoạt động thực tiễn vô cùng phong phú và sinh động ở nhiều nền chính trị khác nhau trong hành trình cứu nước, giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh đã quan tâm đến việc KSQLNN, nhằm mục tiêu xây dựng “chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân” [57, tr. 12] sau khi nước nhà giành được độc lập. Quan điểm nhất quán của Hồ Chí Minh trong xây dựng Nhà nước kiểu mới ở Việt Nam là tất cả mọi QLNN thuộc về nhân dân theo tinh thần “nhân dân là ông chủ nắm chính quyền”. Trong 24 năm trên cương vị Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh đã cùng Đảng, Nhà nước ta lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, điều hành, tổ chức tốt việc KSQLNN đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng, đảm bảo cho QLNN thực sự là quyền lực của nhân dân. Hồ Chí Minh không có tác phẩm riêng về KSQLNN, nhưng các quan điểm của Người về KSQLNN được thể hiện rất sâu sắc, có tính hệ thống, toàn diện trên các phương diện KSQLNN ở Việt Nam. Tư tưởng về KSQLNN thể hiện sự sáng tạo, trí tuệ và tầm nhìn chiến lược của Hồ Chí Minh khi kết hợp nhiều phương thức khác nhau trong KSQLNN trên thế giới vào điều kiện ở Việt Nam, là tài sản tinh thần vô cùng quý giá của Đảng và dân tộc ta, là cơ sở giúp Đảng ta nghiên cứu, vận dụng trong KSQLNN qua các thời kỳ cách mạng, góp phần xây dựng, hoàn thiện cơ chế KSQLNN của bộ máy nhà nước (BMNN) pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam, cũng như phát huy vai trò nhân dân - chủ thể cao nhất của QLNN vào thực hiện thành công mục tiêu xây dựng xã hội “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” ở nước ta. Hiện nay, có nhiều công trình của các nhà khoa học, nhà nghiên cứu, học giả trong và ngoài nước nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về KSQLNN, cũng như việc vận dụng tư tưởng của Người trong KSQLNN ở Việt Nam từ các góc độ tiếp cận, phạm vi khác nhau, và đã đạt được những kết quả nhất định. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu dù rất phong phú song chưa luận giải một cách hệ thống, toàn diện các quan điểm của Hồ Chí Minh về KSQLNN.
  7. 2 Thực tiễn những năm qua, trong KSQLNN ở Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả quan trọng về thể chế, cơ chế KSQL, góp phần làm chuyển biến nhận thức, hành động của các chủ thể thực thi QLNN. Tuy nhiên, KSQLNN vẫn là một vấn đề còn tồn tại nhiều hạn chế ở nước ta: xây dựng hệ thống pháp luật chưa đồng bộ, chưa cụ thể, còn nhiều kẽ hở; hiệu quả của phân công, phối hợp KSQLNN chưa cao; vấn đề thanh tra, kiểm tra, giám sát để kiểm soát hoạt động của các cơ quan trong BMNN chưa hiệu quả; cơ chế, thể chế để phân định vai trò, chức năng của các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp trong BMNN để KSQLNN có nội dung còn chưa rõ, chồng chéo; một số cán bộ, công chức, viên chức nhà nước, thậm chí có cả những người trực tiếp thực thi luật pháp, người có chức, có quyền, người đứng đầu trong các cơ quan của BMNN ở Trung ương, chính quyền địa phương còn những biểu hiện bị tha hóa quyền lực; phát huy vai trò của nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội, báo chí và phương tiện thông tin truyền thông trong giám sát QLNN còn mang tính hình thức, chưa hiệu quả. Những hạn chế này dẫn đến tình trạng lạm quyền, lộng quyền, sử dụng quyền lực công vào việc tư trong đời sống chính trị - xã hội ở Việt Nam. Đây là tiền đề làm cho các hiện tượng tiêu cực, tham nhũng, lãng phí của bộ máy công quyền thêm nhức nhối, phức tạp, gây tác động xấu đến lòng tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước và chế độ. Những hạn chế nêu trên có nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân từ việc KSQLNN còn hình thức và chưa hiệu quả. Điều này, chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Trong tình hình mới, Đảng ta tiếp tục nhất quán xác định đường lối xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, và hội nhập sâu rộng vào đời sống quốc tế để phát triển kinh tế “nhanh và bền vững”, do đó, chúng ta đối diện với rất nhiều khó khăn, thách thức. Điều này, đòi hỏi Đảng, Nhà nước ta phải tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, mà tạo dựng hành lang pháp lý, cải cách hành chính, nâng cao chất lượng, hiệu quả thực thi pháp luật, đổi mới cơ chế KSQLNN là những vấn đề rất cơ bản, quan trọng. Theo đó, việc nghiên cứu, làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về KSQLNN và vận dụng các quan điểm đó của Người vào đổi mới, hoàn thiện cơ chế KSQLNN hiện nay ở Việt Nam, là một trong những nội dung có ý nghĩa thiết thực cả về lý luận và thực tiễn.
  8. 3 Từ những lý do trên cho thấy, việc nghiên cứu, luận giải, làm sáng tỏ tư tưởng Hồ Chí Minh về KSQLNN và vận dụng vào tình hình hiện nay ở nước ta, là một trong những vấn đề mang tính cấp thiết, nhằm đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Điều này, đã tác động và thôi thúc nghiên cứu sinh quyết định lựa chọn vấn đề: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về kiểm soát quyền lực nhà nước và vận dụng trong tình hình hiện nay”, làm đề tài luận án tiến sĩ ngành Hồ Chí Minh học, với mong muốn góp phần làm sáng rõ hơn nội dung và giá trị hệ thống quan điểm của Người về KSQLNN; đồng thời đánh giá thực trạng, và đề xuất các giải pháp định hướng trong vận dụng tư tưởng của Người vào đổi mới, hoàn thiện cơ chế KSQLNN ở nước ta hiện nay. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Phân tích, luận giải toàn diện nội dung, giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về KSQLNN và sự vận dụng tư tưởng của Người trong tình hình hiện nay ở nước ta. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nêu trên, luận án tập trung giải quyết những nhiệm vụ sau đây: - Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài. - Luận giải các khái niệm: quyền lực, QLNN, KSQLNN, tư tưởng Hồ Chí Minh về KSQLNN; - Phân tích nội dung, giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về KSQLNN; - Đánh giá thực trạng KSQLNN ở Việt Nam và phân tích những vấn đề đặt ra hiện nay từ góc nhìn tư tưởng Hồ Chí Minh; - Làm rõ những yếu tố tác động và xác định các yêu cầu, đề xuất các nhóm giải pháp vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong KSQLNN ở Việt Nam hiện nay. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Tư tưởng Hồ Chí Minh về kiểm soát QLNN và sự vận dụng tư tưởng của Người vào KSQLNN ở Việt Nam. 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Về nội dung: Tư tưởng Hồ Chí Minh về KSQLNN, giá trị tư tưởng này của Người và vận dụng ở Việt Nam trong tình hình hiện nay.
  9. 4 - Về thời gian: Tư tưởng và thực tiễn chỉ đạo về KSQLNN trong sự nghiệp cách mạng của Hồ Chí Minh, nhất là giai đoạn 1945 - 1969, đó là giai đoạn mà Người hiện thực hóa tư tưởng của mình trên cương vị đứng đầu Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; thực trạng KSQLNN ở nước ta từ năm 2011 đến nay. - Về không gian: Nghiên cứu bối cảnh mới tác động đến vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về KSQLNN ở Việt Nam trong tình hình hiện nay. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận Luận án được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về KSQLNN phù hợp với đối tượng nghiên cứu. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tác giả vận dụng các phương pháp chung, các phương pháp liên ngành và chuyên ngành sau: - Phương pháp logic sử dụng trong chương 2, chương 3, chương 4 của luận án là để nghiên cứu, xem xét và trình bày quá trình phát triển các quan điểm Hồ Chí Minh về KSQLNN theo một trình tự liên tục, dưới dạng tổng quát có tính hệ thống, nhằm chỉ ra tính khoa học, cách mạng các quan điểm của Hồ Chí Minh. Quá trình phát triển liên tục này, phải được đặt trong mối liên hệ với các yếu tố khác nhau như nhận thức của người dân, của cán bộ, công chức, viên chức trong BMNN và chính quyền địa phương về KSQLNN. - Phương pháp lịch sử được sử dụng trong chương 2, chương 3 của luận án với mục đích chính là dùng để nghiên cứu các sự kiện, thời điểm, kết quả trong xem xét và trình bày các quan điểm Hồ Chí Minh về KSQLNN. Sử dụng phương pháp lịch sử còn nhằm để lý giải, khái quát, đánh giá và rút ra những kết luận từ quá trình hiện thực hóa tư tưởng Hồ Chí Minh về KSQLNN gắn với không gian, thời gian cụ thể. - Các phương pháp khác được sử dụng trong đề tài là: phương pháp phân tích, tổng hợp (phương pháp này là sự hỗ trợ cần thiết làm nổi bật tính thống nhất giữa lịch sử và lôgic) được sử dụng ở chương 1, chương 3, để tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án, tổng hợp số liệu liên quan đến đánh giá thực trạng KSQLNN ở Việt Nam từ góc nhìn tư tưởng Hồ Chí Minh; phương pháp so
  10. 5 sánh, thống kê, văn bản học được sử dụng ở chương 2, chương 3, phụ lục luận án. Các phương pháp này giúp đề tài bao quát được toàn vẹn và đầy đủ nội dung và giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về kiểm soát QLNN, cũng như thực trạng KSQLNN ở Việt Nam từ 2011-2020; so sánh được diễn biến, kết quả diễn ra trong cùng một thời gian ở các không gian gắn với các chủ thể khác nhau. 5. Đóng góp mới của luận án - Trên cơ sở nghiên cứu khái niệm KSQLNN, luận án đưa ra khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh về KSQLNN; luận giải có tính hệ thống nội dung và giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về KSQLNN. - Đánh giá thành tựu, hạn chế và nguyên nhân vấn đề KSQLNN ở Việt Nam hiện nay từ góc nhìn tư tưởng Hồ Chí Minh. - Từ cơ sở lý luận, thực tiễn, luận án đề xuất những giải pháp chủ yếu góp phần nâng cao nhận thức và vận dụng hiệu quả tư tưởng Hồ Chí Minh trong KSQLNN ở Việt Nam hiện nay. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài 6.1. Về lý luận - Góp phần bổ sung, phát triển lý luận khoa học chuyên ngành Hồ Chí Minh học, trực tiếp là tư tưởng về KSQLNN. - Tiếp tục khẳng định giá trị và sức sống của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong tình hình mới. 6.2. Về thực tiễn - Với những kết quả đạt được, luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong việc nghiên cứu, giảng dạy tư tưởng Hồ Chí Minh. - Nội dung luận án cung cấp luận cứ khoa học cho đổi mới tư duy lý luận về KSQLNN, nhất là hoàn thiện cơ chế KSQLNN của Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta hiện nay. 7. Kết cấu của luận án Luận án được kết cầu gồm: mở đầu; nội dung 4 chương (10 tiết); kết luận, danh mục các công trình được công bố liên quan luận án; danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
  11. 6 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1.1. Nghiên cứu về kiểm soát quyền lực nhà nước Từ khi nhà nước ra đời đến nay, việc KSQLNN đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà tư tưởng, nhà khoa học, nhà nghiên cứu, song KSQLNN là vấn đề hết sức phức tạp, được nghiên cứu dưới nhiều cách tiếp cận khác nhau, trong đó có những công trình tiêu biểu sau: Alexander Hamilton, James Madision và John Jay trong Luận về Hiến pháp Hoa Kỳ cho rằng khó khăn lớn nhất là làm thế nào để chính phủ tự mình kiểm soát lấy mình, theo các ông việc phân quyền nhằm kiểm soát lẫn nhau, và qua đó giữ gìn sự cân bằng là giải pháp bền vững [48]. J.Madision đề cập đến phân quyền và cân bằng quyền lực trong KSQL. Theo đó, các ông nêu ra vấn đề phải có thể chế để KSQL nhằm tránh cho chính phủ có thể lạm quyền dẫn đến vi phạm quyền của công dân. Việc KSQL được thực hiện bằng pháp luật, mà trước tiên là phải ban hành Hiến pháp để hạn chế quyền lực của Chính phủ. Quyền lực nhà nước và quyền công dân của Đinh Văn Mậu [80]. Tác giả cho rằng QLNN là quyền lực của nhân dân, nhưng nhân dân không thể thực hiện được hết quyền lực của mình một cách riêng biệt, mà quyền lực đó được thực hiện trên cơ sở ủy quyền cho nhà nước. Do vậy, khi nhà nước sử dụng quyền lực sẽ nảy sinh xu hướng lạm quyền và lộng quyền, nên tất yếu phải KSQLNN. Tuy nhiên, tác giả chưa đi sâu nghiên cứu chi tiết về nội dung, phương thức để KSQLNN. Giám sát và cơ chế giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước ở nước ta hiện nay của Đào Trí Úc và Võ Khánh Vinh [140]. Trong sách, các tác giả đã phân tích cơ sở lý luận, thực tiễn và khẳng định giám sát QLNN là tất yếu khách quan; đồng thời, công trình chỉ ra sự khác biệt giữa giám sát bên trong với giám sát bên ngoài đối với QLNN. Bàn về tinh thần pháp luật của Montesquieu [98] và Bàn về khế ước xã hội của Jean Jacques Rousseau [116], là hai tác phẩm nổi tiếng đặt nền móng xây dựng xã hội công dân và nhà nước pháp quyền. Trước hết, hai tác phẩm khẳng định quyền tự do, bình đẳng là quyền tự nhiên, vĩnh cửu của con người. Đồng thời, hai ông nêu lên những quan điểm để kiến tạo nền dân chủ xã hội dựa trên quyền tự do của công dân.
  12. 7 Trong đó, hai tác giả đã phân tích, luận giải nhiều góc độ về QLNN, KSQLNN thông qua cơ chế kiềm chế, đối trọng giữa các cơ quan trong BMNN. Trong Khế ước xã hội Jean Jacques Rousseau viết: “chủ quyền tối cao là sự thực hiện ý chí chung nên không thể tự nó từ bỏ nó được. Cơ quan quyền lực tối cao là một con người tập thể, nên chỉ tự mình nó đại biểu được cho nó mà thôi. Quyền hành thì có thể chuyển trao được lắm, nhưng ý chí thì không” [116, tr. 79] và “Chủ quyền tối cao không thể từ bỏ thì cũng không thể phân chia được; bởi vì ý chí là chung hoặc không phải là chung; nó có thể là của toàn thể dân chúng hoặc là của một bộ phận” [116, tr. 81]. Từ cách lập luận đó, Rousseau nêu ra hai trường hợp là ý chí chung và ý chí cá nhân, cũng như sự khác biệt giữa chúng. Đồng thời, Rousseau còn phân tích thực tế chia tách quyền lực trong các đối tượng khác nhau: “Họ chia nó thành lực lượng và ý chí, thành quyền lực lập pháp và quyền lực hành pháp, thành quyền quan thuế, quyền tư pháp, quyền chiến tranh, thành cai trị đối nội và ứng phó đối ngoại;” [116, tr. 81]. Theo đó, Rousseau phản ánh cách thức kiểm soát quyền lực (KSQL) tùy tiện như một trò “ảo thuật chính trị” của những người cầm quyền. Đề cập về phân chia quyền lực Montesquie cho rằng cần phải loại bỏ cách tập trung quyền lực tuyệt đối để tránh tình trạng độc tài trong thực thi quyền lực. Do đó, Ông quan niệm quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp phải độc lập với nhau, kiểm soát lẫn nhau để bảo đảm quyền con người trong đời sống xã hội không bị vi phạm. Montesquie quan niệm việc các nhánh quyền lực mà nhập lại với nhau thì hậu quả sẽ không còn gì là dân chủ do sự độc đoán, chuyên quyền của chủ thể nắm giữ quyền lực. Ông nhấn mạnh: “Nếu một người hay một tổ chức của quan chức, hoặc của quý tộc, hoặc của dân chúng nắm luôn cả ba thứ quyền lực nói trên thì tất cả sẽ mất hết” [98, tr. 106]. Trong sách Bàn về tự do, John Stuart Mill nêu ra những quan điểm khẳng định quyền tự do của con người; khi nhân dân ủy quyền cho chính phủ, thì “Chính phủ được bầu ra và có trách nhiệm đã trở thành đối tượng quan sát và phê phán như thường” [81, tr. 22]. Các luận giải của tác giả chỉ ra việc KSQLNN bắt đầu từ sự tự do của mỗi cá nhân con người trong xã hội, hay nói cách khác, đó là mọi người dân trong xã hội đều có quyền giám sát, phê phán việc thực thi QLNN của Chính phủ.
  13. 8 Xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay, đề tài khoa học cấp Bộ năm 2008, do Lưu Văn Quảng là Chủ nhiệm đề tài [111]. Trong đề tài, nhóm nghiên cứu đã phân tích, luận giải khái niệm quyền lực, QLNN, tính tất yếu của việc KSQLNN, một số vấn đề liên quan đến KSQLNN; thực trạng và những vấn đề đặt ra trong KSQLNN ở Việt Nam. Trên cơ sở đó, Ban đề tài đề xuất phương hướng và giải pháp hoàn thiện cơ chế KSQLNN ở Việt Nam hiện nay. Đáng chú ý, các tác giả của đề tài đã đề xuất 8 giải pháp hoàn thiện cơ chế KSQLNN ở Việt Nam gồm: xây dựng thể chế KSQL trong bộ máy của Đảng; đổi mới nội dung và phương thức bầu cử; đổi mới nội dung và phương thức KSQL của các thiết chế nhà nước theo hướng pháp quyền; xây dựng cơ chế xác định trách nhiệm trong hoạt động của bộ máy Đảng và Nhà nước; nâng cao tính minh bạch trong hoạt động của các cơ quan nhà nước; đổi mới tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên nhằm nâng cao hiệu quả giám sát và phản biện xã hội; phát huy vai trò của các phương tiện truyền thông đại chúng trong KSQLNN; nâng cao chất lượng giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. Kiểm soát quyền lực nhà nước - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam hiện nay của tác giả Trịnh Thị Xuyến [151]. Cuốn sách trình bày có hệ thống lý luận về KSQLNN, thực tiễn KSQLNN một số nước trên thế giới; thực trạng KSQLNN ở Việt Nam hiện nay; phương hướng và giải pháp KSQLNN ở nước ta hiện nay. Đáng chú ý, tác giả đề cập có hệ thống lý luận về KSQLNN gồm: tính tất yếu của KSQLNN; khái niệm, nội dung, mục đích KSQLNN; các phương thức KSQLNN. Các tác giả Lê Văn Cảm, Nguyễn Cảnh Hợp khi luận giải về tổ chức và hoạt động của nhà nước đã chỉ ra hạn chế lớn trong việc tổ chức, thực hiện và KSQLNN ở Việt Nam, từ hạn chế đó dẫn đến nhiều hậu quả [17]. Những hạn chế và hậu quả của việc tổ chức, thực hiện và KSQLNN sẽ là những gợi mở cho việc tìm kiếm các giải pháp xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Pháp luật về kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay, đề tài khoa học cấp Bộ năm 2011, mã số B11-16 do Trần Kim Cúc là Chủ nhiệm đề tài [23]. Đề tài là một công trình khoa học được nghiên cứu công phu, trong đó các tác giả đã
  14. 9 lập luận có tính hệ thống về pháp luật trong KSQLNN trên thế giới và ở nước ta; đánh giá thực trạng và rút ra nguyên nhân; đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về KSQLNN ở Việt Nam. Một số vấn đề về phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Trần Ngọc Đường [44], đã trình bày có tính hệ thống cả về lý luận và thực tiễn mối liên hệ nhân dân với nhà nước; giữa Đảng với nhà nước; giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Từ các luận giải, tác giả đề xuất và kiến nghị các giải pháp hoàn thiện cơ chế phân công, phối hợp trong KSQLNN hiện nay. Tuy vậy, công trình chưa đi sâu nghiên cứu các cơ chế, phương thức, hình thức KSQLNN. Tổ chức và kiểm soát quyền lực nhà nước của Thái Vĩnh Thắng [124]. Tác giả phân tích và khẳng định giá trị các quan điểm của Jean Jacques Rousseau về KSQLNN bằng thuyết “tam quyền phân lập”. Từ đó, tác giả nghiên cứu, luận giải cách thức tổ chức QLNN ở Việt Nam và một số nước trên thế giới, song công trình chưa đề cập đến hoàn thiện cơ chế KSQLNN ở nước ta. Trong Luận án tiến sĩ Chính trị học Vấn đề tập trung và phân quyền trong tổ chức, thực thi quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay của Phạm Thế Lực [67]. Tác giả luận án đã phân tích những mâu thuẫn của vấn đề tập trung và phân chia quyền lực trong tổ chức, thực thi quyền lực ở Việt Nam bao gồm: QLNN và tính chất của QLNN; phương thức tổ chức và thực thi QLNN; mối quan hệ giữa tập trung và phân quyền trong tổ chức và thực thi quyền lực; vấn đề tập trung và phân quyền trong các mô hình tổ chức nhà nước điển hình trên thế giới; cơ sở cho vấn đề tập trung và phân quyền trong tổ chức và thực thi QLNN ở Việt Nam; thực tiễn tập trung và phân quyền trong tổ chức và thực thi QLNN ở Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở phân tích, luận giải các vấn đề trên, tác giả đề cập đến quan điểm, phương hướng và các giải pháp để giải quyết những mâu thuẫn trên, trong đó giải pháp mang tính bao trùm và chi phối việc phân chia QLNN là đảm bảo cơ chế pháp lý. “Bàn về vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước” của Phạm Thế Lực, in trong sách Chính trị học - Những vấn đề lý luận và thực tiễn [68]. Trong bài viết, tác giả
  15. 10 đã bàn đến tính tất yếu của vấn đề KSQLNN ở Việt Nam hiện nay. Đồng thời, tác giả đã phân tích thực trạng vấn đề KSQLNN ở Việt Nam hiện nay. Ttừ các lập luận và trên cơ sở đánh giá của Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, tác giả rút ra nhận định: “việc kiểm soát quyền lực nhà nước ở nước ta hiện nay đã đạt được những kết quả nhất định và ngày càng hướng mạnh đến các giá trị cơ bản của nhà nước pháp quyền” [68, tr. 132]. Tác giả còn khẳng định phân công, phân nhiệm trong BMNN có nhiều đổi mới và có hiệu lực trên thực tế, trình độ chuyên môn và ý thức trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước có nhiều chuyển biến. Về mặt thể chế trong KSQLNN, tác giả cho rằng vai trò giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp và Thanh tra Chính phủ được phát huy. Đáng chú ý, tác giả nêu rõ về thể chế KSQLNN thông qua vai trò nhân dân và phương tiện truyền thông được xác lập và thực hiện trong thực tiễn: “Cùng với quá trình dân chủ hóa và hoàn thiện các thể chế pháp lý, quyền tự do, dân chủ của người dân được khẳng định trên nhiều lĩnh vực, các hình thức giám sát xã hội như giám sát của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, giám sát của các phương tiện truyền thông và của người dân được tích cực phát huy” [68, tr. 132]. Tuy vậy, tác giả cũng đề cập đến một số hạn chế của vấn đề KSQLNN ở nước ta hiện nay gồm: cơ chế KSQL được xây dựng và thực thi còn rất hình thức và kém hiệu quả; thực hiện chức năng ngăn ngừa trong KSQLNN không đem lại hiệu quả như mong muốn, thậm chí là phản tác dụng; hoạt động KSQL ở nước ta chưa đáp ứng được những đòi hỏi của nhà nước pháp quyền, chưa đáp ứng được yêu cầu về quyền làm chủ của nhân dân. Từ đó, tác giả đưa ra khuyến cáo: “đã đến lúc chúng ta cần dành một sự quan tâm đặc biệt cho việc hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước” [68, tr. 137]. “Kiểm soát quyền lực nhà nước trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam - một số vấn đề cơ bản” của Lê Thị Anh Đào [31]. Trong bài viết, tác giả đã bàn đến những vấn đề lý luận, thực tiễn cơ bản về vai trò báo chí trong KSQLNN, từ đó, tác giả bài viết nêu ra ba giải pháp để nâng cao hiệu quả KSQLNN thông qua vai trò của báo chí hiện nay. Xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực trong bộ máy nhà nước ở Việt Nam hiện nay, đề tài khoa học cấp Bộ năm 2012-2013, mã số B12-09 do Lâm Quốc Tuấn là
  16. 11 Chủ nhiệm đề tài [137]. Trong đề tài, bằng cách luận giải xác đáng và thuyết phục, nhóm nghiên cứu đã phân tích, dẫn giải khái niệm, cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng cơ chế KSQLNN và đề xuất các giải pháp hoàn thiện cơ chế KSQLNN trong bộ máy nhà nước ở Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, Ban đề tài kiến nghị tám nội dung: “1. Hoàn thiện cơ chế quản lý và phân định phạm vi hoạt động của các thiết chế giám sát, thanh tra, kiểm tra một cách khoa học, phù hợp với yêu cầu nội dung quản lý”; 2. Đổi mới giám sát của Quốc hội đối với hoạt động của Chính phủ và hệ thống hành pháp nhà nước; 3. Hoàn thiện mô hình thực hiện quyền giám sát của Quốc hội đối với hoạt động tư pháp; “4. Tăng cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân”; 5. Viện kiểm sát nhân dân thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm soát hoạt động tư pháp; 6. Đổi mới tổ chức và hoạt động điều tra, góp phần hoàn thiện cơ chế kiểm soát thực hiện QLNN; 7. Đổi mới nhận thức và xác định rõ phạm vi hoạt động của Kiểm toán nhà nước; 8. Đổi mới hoạt động tiền điều tra của Cảnh sát kinh tế, An ninh kinh tế thuộc lực lượng công an nhằm tránh chồng chéo, trùng lặp với hoạt động thanh tra kinh tế của các tổ chức thanh tra. Đây là các kiến nghị rất toàn diện góp phần nâng cao hiệu quả xây dựng cơ chế KSQLNN ở Việt Nam hiện nay. Phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp ở Việt Nam của Cao Anh Đô [41]. Trong sách, tác giả đề cập đến một nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, đó là nguyên tắc QLNN là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tác giả phân tích các hạn chế trong việc thực hiện nguyên tắc trên trong điều kiện đặc thù của Việt Nam, có Đảng chính trị cầm quyền là Đảng Cộng sản Việt Nam. Tuy nhiên, tác giả chưa đưa ra cơ chế cụ thể, khả thi về phân công và phối hợp giữa các cơ quan thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Đổi mới, hoàn thiện bộ máy nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở Việt Nam hiện nay, của Lê Minh Thông [126]. Tác giả đánh giá khái quát về thực trạng quan hệ KSQLNN giữa Quốc hội và Chính phủ. Từ đó, tác giả nêu lên các nội dung cần hoàn thiện pháp luật về quan hệ KSQLNN
  17. 12 giữa Quốc hội và Chính phủ: đẩy mạnh nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn về kiểm soát quyền lực để đổi mới tư duy về mối quan hệ kiểm soát quyền lực giữa Quốc hội và Chính phủ; tiếp tục cải cách BMNN, tạo sự cân bằng hơn, hợp lý hơn trong mối quan hệ kiểm soát quyền lực giữa Quốc hội và Chính phủ; tăng cường dân chủ, bảo đảm tính công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình của Quốc hội và Chính phủ trong thực hiện quyền lập pháp, hành pháp; tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội và Chính phủ trong hoạt động KSQL. Hoạt động giám sát của Quốc hội Việt Nam trong cơ chế giám sát quyền lực nhà nước của Trương Thị Hồng Hà [50]. Tác giả đã khái quát và nêu ra quan niệm về quyền lực, QLNN, hoạt động giám sát của Quốc hội Việt Nam trong cơ chế giám sát QLNN; đánh giá thực trạng, các yếu tố tác động, và đưa ra các giải pháp nâng cao hoạt động giám sát của Quốc hội Việt Nam trong cơ chế giám sát QLNN hiện nay. Trong luận án Cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam [05], Nguyễn Quang Anh phân tích, luận giải cơ sở lý luận của cơ chế pháp lý KSQLNN; khái quát lịch sử hình thành, phát triển và đánh giá thực trạng của cơ chế pháp lý KSQLNN ở Việt Nam. Trên cơ sở đó, tác giả nêu ra những quan điểm mang tính định hướng cho việc hoàn thiện của cơ chế pháp lý KSQLNN, cũng như rút ra một số giải pháp hoàn thiện cơ chế pháp lý nhân dân KSQLNN ở Việt Nam. Điều đáng ghi nhận là tác giả đã đề xuất hệ thống giải pháp hoàn thiện cơ chế pháp lý KSQLNN ở Việt Nam bao gồm 3 nhóm giải pháp sau: giải pháp hoàn thiện thể chế của cơ chế pháp lý nhân dân KSQLNN; giải pháp hoàn thiện các thiết chế của cơ chế pháp lý nhân dân KSQLNN; hoàn thiện các yếu tố bảo đảm của cơ chế pháp lý nhân dân KSQLNN. Trịnh Đức Thảo quan niệm cơ chế KSQLNN là một chỉnh thể gồm các thể chế pháp lý, các thiết chế liên quan đến việc KSQLNN có mối liên hệ chặt chẽ, thống nhất, tác động qua lại, nhằm bảo đảm QLNN vận hành theo đúng quy định của Hiến pháp và pháp luật [125]. Từ đó, tác giả cho rằng để cơ chế này hoạt động hiệu quả, ngoài yêu cầu đối với mỗi yếu tố của cơ chế, cần phải có những điều kiện đảm bảo về chính trị - tư tưởng; điều kiện về pháp lý; điều kiện về kinh tế - xã hội - văn hóa. Trên cơ sở phân tích thực trạng cơ chế và điều kiện bảo đảm thực hiện cơ chế
  18. 13 KSQLNN, tác giả đề xuất một số kiến nghị góp phần hoàn thiện cơ chế KSQLNN ở Việt Nam hiện nay. Cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, do Nguyễn Minh Đoan (Chủ biên) [40]. Tập thể tác giả đã bàn đến những vấn đề lý luận và thực tiễn về QLNN và cơ chế pháp lý KSQLNN; xây dựng nhà nước pháp quyền với việc tổ chức thực hiện và KSQL lập pháp, hành pháp, tư pháp ở Việt Nam; các cơ quan nhà nước trong cơ chế pháp lý KSQLNN ở Việt Nam; nhân dân, Đảng Cộng sản Việt Nam, các tổ chức xã hội khác trong cơ chế pháp lý KSQLNN ở Việt Nam. Trên cơ sở đó, các tác giả đề xuất quan điểm và giải pháp hoàn thiện cơ chế pháp lý KSQLNN trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam hiện nay. Nguyễn Thị Hoài An lập luận và đưa ra khái niệm về QLNN, KSQLNN, cơ chế pháp lý về KSQLNN; đồng thời tác giả phân tích, luận giải nội dung, đánh giá thực trạng, chỉ ra phương hướng và đề xuất một số giải pháp cơ bản hoàn thiện cơ chế pháp lý KSQLNN đối với việc thực hiện quyền hành pháp ở Việt Nam [01]. Bài viết “Tăng cường kiểm soát quyền lực trong tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị bảo đảm thực hiện tốt quyền lực của nhân dân” của Nguyễn Thị Kim Ngân [99]. Với cương vị là Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, tác giả bài viết đã nêu lên tính cấp thiết, và một số giải pháp cơ bản để tăng cường KSQL trong tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị nhằm bảo đảm thực hiện tốt quyền lực của nhân dân. Bàn về “Kiểm soát quyền lực trong thực hiện cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”: Lý luận và thực tiễn”, Nguyễn Minh Tuấn luận giải việc KSQLNN trong từng tổ chức của hệ thống chính trị, giữa các chủ thể của hệ thống chính trị [136]. Kết luận bài viết, tác giả nhấn mạnh việc phát huy vai trò nhân dân trong KSQLNN: “một mặt, cần phát huy dân chủ của nhân dân, để nhân dân có điều kiện thực hành dân chủ, hiện thực hóa quyền và lợi ích của mình; mặt khác, cần có những biện pháp chống việc lợi dụng dân chủ để chống phá Đảng, chống phá chế độ, tiếp tay cho các thế lực thù địch” [136].
  19. 14 Ngô Đình Phiếm và Nguyễn Minh Sơn bàn đến sự cần thiết phải KSQLNN, thực trạng KSQLNN và gợi mở một số giải pháp nâng cao hiệu quả KSQLNN trong chùm bài viết “Nhốt quyền lực trong “lồng cơ chế”” [103]. Trong đó, các tác giả đã phân tích tác hại và sự tha hóa của quyền lực, từ đó, nêu ra một số giải pháp về KSQL bằng cách nhốt quyền lực trong lồng cơ chế theo định hướng chỉ đạo đẩy mạnh việc KSQLNN của Tổng Bí thư, nguyên Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng. Vũ Thị Hồng Trang luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn về KSQLNN thông qua hoạt động chất vấn của đại biểu quốc hội; đánh giá thực trạng, luận giải quan điểm và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu lực KSQLNN thông qua hoạt động chất vấn của đại biểu quốc hội ở Việt Nam hiện nay [130]. Đề cập về hệ thống giải pháp nâng cao hiệu lực KSQLNN thông qua hoạt động chất vấn của đại biểu quốc hội ở Việt Nam hiện nay, tác giả đề xuất 4 nhóm giải pháp: nâng cao năng lực chất vấn cho đại biểu Quốc hội; hoàn thiện hệ thống pháp luật về chất vấn của đại biểu Quốc hội; nâng cao chất lượng công tác tham mưu, hỗ trợ cho hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội; đổi mới công tác cung cấp thông tin cho đại biểu Quốc hội để phục vụ cho hoạt động chất vấn; kết hợp chặt chẽ giám sát của Quốc hội với kiểm tra, giám sát của tổ chức đảng, giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận tổ quốc và giám sát của nhân dân trong hoạt động giám sát, chất vấn của Quốc hội. Các tổ chức chính trị - xã hội trong việc kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay của Nguyễn Tuấn Anh [06], đã phân tích một số vấn đề lý luận về KSQLNN, về KSQLNN của các tổ chức chính trị - xã hội trên thế giới, và giá trị tham chiếu ở Việt Nam; luận giải địa vị chính trị - pháp lý, các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả KSQLNN của các tổ chức chính trị - xã hội ở Việt Nam, nội dung, phương thức KSQLNN của các tổ chức chính trị - xã hội ở nước ta. Trên cơ sở phân tích, luận giải các vấn đề trên, tác giả đề cập đến quan điểm và các giải pháp nâng cao hiệu quả KSQLNN của các tổ chức chính trị - xã hội ở Việt Nam. Ngoài ra, một số tác giả khác cũng bàn đến quan niệm, nội dung và các giải pháp trong KSQLNN ở Việt Nam gồm: Vấn đề giám sát thực hiện quyền lực nhà nước ở nước ta hiện nay của Lưu Hồng Thanh [119]; “Về kiểm soát quyền lực hành pháp trong hệ thống quyền lực nhà nước Việt Nam hiện nay” của Vũ Thư [128];
  20. 15 “Tổ chức quyền lực nhà nước trong Hiến pháp năm 1946 giá trị mang tính thời đại” của Phạm Hồng Thái [121]; “Tha hóa quyền lực và kiểm soát quyền lực nhà nước ở nước ta hiện nay” của Trần Thành [122]; “Tìm hiểu tư duy về phân chia kiểm soát quyền lực nhà nước Việt Nam qua các bản hiến pháp” của Hà Quang Ngọc [100]; “Nội dung Hiến pháp năm 2013 và Văn kiện Đại hội XII về kiểm soát quyền lực nhà nước” của Nguyễn Văn Mạnh [79]; “Kiểm soát quyền lực nhà nước theo Hiến pháp Việt Nam” của Vũ Văn Phúc, Hà Hữu Đức [104]; Các cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước trên thế giới và ở Việt Nam của Đặng Minh Tuấn [133]; “Kiểm soát quyền lực, chống “chạy chức, chạy quyền” - vấn đề cấp bách hiện nay” của Công Minh, Nguyên Minh, Tấn Tuân và Quang Phương [97]; “Quá trình nhận thức và phát triển lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam về kiểm soát quyền lực nhà nước thời kỳ đổi mới” của Hồ Xuân Quang và Nguyễn Tuấn Anh [110]; “Nhốt quyền lực vào lồng cơ chế” của An Nhi - Anh Minh [101]... Các kết quả đạt được trong các công trình trên, một mặt được tác giả luận án tiếp thu, kế thừa, mặt khác những vấn đề chưa được đề cập, hoặc bàn đến chưa sâu là những gợi mở cho học viên tiếp tục nghiên cứu. 1.1.2. Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về kiểm soát quyền lực nhà nước Trong sự nghiệp cách mạng của mình, Hồ Chí Minh đã để lại di sản vô cùng quý báu là hệ thống các quan điểm về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Trong đó, tư tưởng của Người về nhà nước và pháp luật nói chung, và tư tưởng về KSQLNN nói riêng phản ánh tính khoa học, cách mạng và đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Chính vì vậy, việc tìm hiểu, nghiên cứu tư tưởng của Người về KSQLNN đã được các nhà khoa học, nhà nghiên cứu, học giả, các nhà hoạt động chính trị trong, ngoài nước quan tâm với nhiều cách tiếp cận khác nhau. Có thể kể ra những công trình tiêu biểu có liên quan đến tư tưởng Hồ Chí Minh về KSQLNN như sau: Chương trình nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước về Chủ tịch Hồ Chí Minh, mang mã số KX.02, do Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là cơ quan chủ trì với hệ thống gồm 13 đề tài. Trong đó, đề tài mang mã số KX.02.13: Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước kiểu mới - Nhà nước của dân, do
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2