intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án Tiến sĩ Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật: Chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân cấp huyện tại phiên tòa xét xử hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay

Chia sẻ: Lin Yanjun | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:210

58
lượt xem
15
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài luận án đề xuất các quan điểm, giải pháp bảo đảm chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân cấp huyện tại phiên tòa xét xử hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật: Chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân cấp huyện tại phiên tòa xét xử hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay

  1. HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH MAI THỊ NAM CHẤT LƯỢNG TRANH TỤNG CỦA KIỂM SÁT VIÊN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP HUYỆN TẠI PHIÊN TÒA XÉT XỬ HÌNH SỰ THEO YÊU CẦU CẢI CÁCH TƯ PHÁP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT HÀ NỘI - 2022
  2. HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH MAI THỊ NAM CHẤT LƯỢNG TRANH TỤNG CỦA KIỂM SÁT VIÊN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP HUYỆN TẠI PHIÊN TÒA XÉT XỬ HÌNH SỰ THEO YÊU CẦU CẢI CÁCH TƯ PHÁP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT Mã số: 9380106 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS, TS. TRỊNH ĐỨC THẢO 2. TS. LÊ HỮU THỂ HÀ NỘI - 2022
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu do tôi thực hiện. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, được trích dẫn theo đúng quy định về trình bày luận án. Tác giả Mai Thị Nam
  4. MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU 9 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án 9 1.2. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu, giả thuyết nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu 42 Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG TRANH TỤNG CỦA KIỂM SÁT VIÊN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP HUYỆN TẠI PHIÊN TÒA XÉT XỬ HÌNH SỰ THEO YÊU CẦU CẢI CÁCH TƯ PHÁP Ở VIỆT NAM 46 2.1. Khái niệm, đặc điểm và yêu cầu của cải cách tư pháp về chất lượng tranh tụng của kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân cấp huyện tại phiên tòa xét xử hình sự 46 2.2. Tiêu chí đánh giá và các yếu tố bảo đảm chất lượng tranh tụng của kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân cấp huyện tại phiên tòa xét xử hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam 68 2.3. Tranh tụng của kiểm sát viên (công tố viên) tại phiên tòa xét xử hình sự một số nước trên thế giới và giá trị tham khảo cho Việt Nam 79 Chương 3: THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TRANH TỤNG CỦA KIỂM SÁT VIÊN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP HUYỆN TẠI PHIÊN TÒA XÉT XỬ HÌNH SỰ THEO YÊU CẦU CẢI CÁCH TƯ PHÁP Ở VIỆT NAM 88 3.1. Khái quát tình hình đội ngũ kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân cấp huyện 88 3.2. Ưu điểm và nguyên nhân trong đánh giá chất lượng tranh tụng của kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân cấp huyện tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự 91 3.3. Hạn chế và nguyên nhân trong đánh giá chất lượng tranh tụng của kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân cấp huyện tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự 107 Chương 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM CHẤT LƯỢNG TRANH TỤNG CỦA KIỂM SÁT VIÊN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP HUYỆN TẠI PHIÊN TÒA XÉT XỬ HÌNH SỰ ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CẢI CÁCH TƯ PHÁP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 120 4.1. Quan điểm bảo đảm chất lượng tranh tụng của kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân cấp huyện tại phiên tòa xét xử hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay 120 4.2. Giải pháp bảo đảm chất lượng tranh tụng của kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân cấp huyện tại phiên tòa xét xử hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay 131 KẾT LUẬN 155 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 157 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 158 PHỤ LỤC 174
  5. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT CCTP : Cải cách tư pháp ĐCSVN : Đảng Cộng sản Việt Nam HĐXX : Hội đồng xét xử HTND : Hội thẩm nhân dân KSND : Kiểm sát nhân dân KSV : Kiểm sát viên QLNN : Quyền lực nhà nước TTHS : Tố tụng hình sự TAND : Tòa án nhân dân VKS : Viện Kiểm sát VKSND : Viện Kiểm sát nhân dân VKSNDTC : Viện Kiểm sát nhân dân tối cao XHCN : Xã hội chủ nghĩa XXHS : Xét xử hình sự XXST : Xét xử sơ thẩm
  6. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong công cuộc đổi mới đất nước, cải cách tư pháp (CCTP) được xác định là một nhiệm vụ trọng tâm nhằm xây dựng và từng bước hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Nhiệm vụ CCTP đã được Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) đề ra trong nhiều văn kiện; đặc biệt là Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”; Nghị quyết 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật ở Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020”; Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược CCTP đến năm 2020”; nhằm hướng tới mục tiêu “Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam XHCN; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao” [10]. Khẳng định những giá trị đúng đắn về CCTP, Bộ Chính trị đã ban hành Kết luận số 92-KL/TW ngày 12/3/2014 “về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW”; Kết luận số 01-KL/TW ngày 04/4/2016 “về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW”; Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của ĐCSVN xác định chủ trương “Nghiên cứu, ban hành Chiến lược hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045, trong đó có Chiến lược pháp luật và CCTP” [26]. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII khẳng định một trong sáu nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ Đại hội XIII có nội dung “CCTP, tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội” [26]. Thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ CCTP, nhiều vấn đề được đặt ra, trong đó “Nâng cao chất lượng công tố của Kiểm sát viên (KSV) tại phiên toà, bảo đảm tranh tụng dân chủ với Luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác...” [8]; “bảo đảm chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, lấy kết quả tranh tụng tại tòa làm căn cứ quan trọng để phán quyết bản án, coi đây là khâu đột phá để nâng cao chất lượng hoạt động tư pháp” [9]; “nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động và uy tín của Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân…” [26].
  7. 2 Thể chế hóa đường lối, chủ trương lãnh đạo của Đảng; Nhà nước đã ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về các lĩnh vực hình sự, dân sự, tố tụng hình sự (TTHS) và tổ chức, hoạt động của cơ quan tư pháp, bổ trợ tư pháp. Trong đó, Hiến pháp năm 2013 [84] và Bộ luật TTHS năm 2015 chính thức ghi nhận vấn đề tranh tụng và nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm [86]. Với quy định này, không chỉ khẳng định tầm quan trọng của một nguyên tắc cơ bản trong hoạt động TTHS mà còn đặt ra những yêu cầu, đòi hỏi đối với KSV trong nhận thức và thực hiện nguyên tắc, bảo đảm hoàn thành tốt nhiệm vụ “thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp” [84]; góp phần “bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất” [84]. Trong TTHS, Kiểm sát viên có vai trò rất quan trọng, thể hiện ở tất cả các giai đoạn tố tụng, từ khi khởi tố vụ án hình sự đến giai đoạn thi hành bản án; trong đó, tại phiên tòa xét xử hình sự (XXHS), KSV đóng vai trò là người buộc tội. Quan điểm buộc tội của Viện Kiểm sát (VKS) được thể hiện bằng Bản cáo trạng và KSV là người trực tiếp bảo vệ cáo trạng tại phiên tòa. Để thực hiện nhiệm vụ này, KSV phải nắm chắc toàn bộ tiến trình điều tra vụ án, những tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án, đặc biệt là chuẩn bị và tiến hành các hoạt động tranh tụng có hiệu quả tại phiên tòa. Điều đó không chỉ giúp cho KSV hoàn thành các nhiệm vụ đặt ra trong quá trình tố tụng mà quan trọng hơn còn khẳng định KSV, Viện Kiểm sát nhân dân (VKSND) nói riêng, các cơ quan tư pháp nói chung thực sự là chỗ dựa, niềm tin của nhân dân trong việc bảo vệ công lý, pháp luật, pháp chế XHCN, bảo đảm quyền con người, đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm và vi phạm pháp luật khác. Như vậy, hoạt động tranh tụng diễn ra tại phiên tòa XXHS phản ánh yêu cầu bảo đảm tính công bằng, khách quan, công khai, dân chủ giữa người tham gia tố tụng với VKS, Kiểm sát viên; đồng thời là căn cứ quan trọng, không thể thiếu để xác định sự thật khách quan của vụ án, làm cơ sở để Hội đồng xét xử (HĐXX) tuyên bản án đúng người, đúng tội. Đặc biệt, tinh thần cốt lõi của CCTP là nhằm nâng cao chất lượng xét xử và bảo vệ công lý; vì thế, tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện đóng vai trò quyết định đối với chất lượng xét xử, bảo vệ công lý. Ở cấp xét
  8. 3 xử cấp huyện, phần lớn các vụ án hình sự được xét xử ở cấp này, nếu chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện được bảo đảm thì các vụ án xét xử thỏa đáng, rõ ràng, sẽ giảm kháng cáo, kháng nghị và giảm tải công việc cho VKSND và Tòa án nhân dân (TAND) cấp trên. Như vậy, có thể khẳng định, chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tốt hơn thì chất lượng xét xử và công lý được bảo đảm tốt hơn. Trong thời gian qua, nhìn chung đội ngũ Kiểm sát viên VKSND cấp huyện đã thể hiện tinh thần trách nhiệm trong thực hiện hoạt động tranh tụng tại phiên tòa, tích cực rèn luyện kỹ năng tranh tụng, khẳng định vị thế của KSV và cơ quan VKS; góp phần nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ vẫn còn nhiều hạn chế như: “nhận thức của các cán bộ tư pháp về chủ trương tăng cường tranh tụng chưa nhất quán… Các phiên tòa thực hiện chủ trương tranh tụng không nhiều, chưa đúng định hướng, hiệu quả chưa cao” [5]; “tranh tụng tại phiên tòa được coi là khâu đột phá của CCTP nhưng chưa được nghiên cứu xây dựng quy trình, cơ chế cụ thể;… việc tranh tụng còn hình thức, hiệu quả chưa cao” [5]; “hoạt động tranh tụng của KSV tại phiên tòa hình sự còn nhiều hạn chế, ảnh hưởng đến chất lượng phiên tòa và chất lượng công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử án hình sự” [130]. Điều này do nhiều nguyên nhân như đội ngũ KSV chưa có nhiều kinh nghiệm thực tiễn, chưa được chuẩn bị đầy đủ về kỹ năng tranh tụng; sự ảnh hưởng của thói quen và kinh nghiệm tham gia phiên tòa theo mô hình, quy định cũ; trình độ, năng lực của một bộ phận KSV chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn mới… Bên cạnh đó, mặc dù vấn đề tranh tụng đã được các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu có hệ thống, toàn diện hơn kể từ sau khi có các nghị quyết của Đảng về tranh tụng, nhưng nhiều nội dung liên quan đến tranh tụng còn có những ý kiến khác nhau hoặc chưa được làm rõ, đặc biệt là việc nghiên cứu về chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện theo yêu cầu CCTP là vấn đề còn có nhiều cách đánh giá, nhìn nhận khác nhau. Rõ ràng, trong khoa học pháp lý của Việt Nam còn thiếu nghiên cứu quy mô về chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện nói riêng và chất lượng tranh tụng tại phiên tòa hình sự nói chung.
  9. 4 Trong giai đoạn cách mạng mới, những yêu cầu đặt ra đối với Kiểm sát viên VKSND cấp huyện ngày càng cao, đòi hỏi phải có sự nghiên cứu đầy đủ, toàn diện về vấn đề này, góp phần khắc phục hạn chế “CCTP chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu phát triển đất nước” [26]; theo định hướng của ĐCSVN “chú trọng lãnh đạo đổi mới nâng cao chất lượng…CCTP” [26]; xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, từng bước hiện đại; hiện thực hóa quyết tâm của Đảng, quan điểm của Nhà nước đối với nhiệm vụ CCTP; bảo đảm sự phù hợp của CCTP với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và yêu cầu, đòi hỏi hội nhập quốc tế trong giai đoạn mới. Xuất phát từ các lý do trên, nghiên cứu sinh lựa chọn thực hiện đề tài luận án tiến sĩ luật học “Chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân cấp huyện tại phiên tòa xét xử hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay”. 2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Đề tài luận án đề xuất các quan điểm, giải pháp bảo đảm chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXHS theo yêu cầu CCTP ở Việt Nam hiện nay. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Đề tài có các nhiệm vụ nghiên cứu sau: - Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án trên cơ sở khái quát tình hình nghiên cứu ở trong nước, nước ngoài và xác định những vấn đề lý luận và thực tiễn cần tiếp tục nghiên cứu trong đề tài luận án. - Phân tích cơ sở lý luận về chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXHS theo yêu cầu CCTP ở Việt Nam (bao gồm phân tích khái niệm và các vấn đề lý luận có liên quan khác), đồng thời, làm rõ vấn đề chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND (Viện Công tố) tại phiên tòa XXHS một số nước trên thế giới và giá trị tham khảo cho Việt Nam. - Nghiên cứu, khảo sát, làm rõ thực trạng chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXHS theo yêu cầu CCTP ở Việt Nam hiện nay; từ đó chỉ rõ những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của thực trạng này.
  10. 5 - Đề xuất các quan điểm, giải pháp bảo đảm chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXHS theo yêu cầu CCTP ở Việt Nam hiện nay. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXHS (dưới góc độ chuyên ngành Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật). 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi không gian: Trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam. - Phạm vi chủ thể: Đề tài luận án nghiên cứu chất lượng tranh tụng của chủ thể là Kiểm sát viên VKSND cấp huyện. - Phạm vi hoạt động tranh tụng: Tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXHS; trong đó, tập trung vào hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa xét xử sơ thẩm (XXST) hình sự, trên cơ sở quy định của pháp luật hiện hành và thực tiễn thực hiện tranh tụng tại phiên tòa XXHS của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện. - Phạm vi thời gian: Đề tài luận án nghiên cứu, khảo sát, đánh giá thực trạng chất lượng tranh tụng của chủ thể là Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXHS trong khoảng thời gian 2011 - 2021 (tập trung giai đoạn từ khi Bộ luật TTHS năm 2015 có hiệu lực). 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận Đề tài dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của ĐCSVN, Nhà nước Việt Nam về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, về CCTP, hoàn thiện tổ chức, hoạt động của bộ máy Nhà nước và hoàn thiện hệ thống pháp luật. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở lý luận nêu trên, luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể gồm: Phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, lô-gic, lịch sử, hệ
  11. 6 thống, điều tra xã hội học… Các phương pháp được sử dụng phù hợp với mục đích và nội dung nghiên cứu. Trong đó, một số phương pháp chủ đạo được tác giả sử dụng trong các chương của luận án như sau: Phương pháp phân tích được sử dụng ở cả bốn chương, khi trình bày, luận giải về tình hình tổng quan (chương 1), cơ sở lý luận (chương 2), đánh giá thực trạng (chương 3), trình bày quan điểm và giải pháp (chương 4) về vấn đề chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXHS theo yêu cầu CCTP ở Việt Nam. Phương pháp tổng hợp được sử dụng khi đánh giá chung về những công trình nghiên cứu có liên quan, để khái quát hóa các vấn đề đã nêu trong các công trình nghiên cứu (chương 1); tổng hợp các quan điểm của Đảng về CCTP, chức năng, nhiệm vụ của VKS theo quy định của pháp luật (chương 2); tập hợp các hoạt động tranh tụng, kết quả, hạn chế trong chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXHS (chương 3). Phương pháp thống kê được sử dụng khi liệt kê các công trình nghiên cứu theo những trật tự lô-gic nhất định, theo nhóm vấn đề và trật tự thời gian (chương 1); khi xác định những nội dung đánh giá thực trạng đội ngũ Kiểm sát viên VKSND cấp huyện (chương 3). Phương pháp so sánh được sử dụng khi đối chiếu nội dung trong các công trình nghiên cứu có liên quan để tìm ra những điểm giống và khác nhau trong việc nhận định, đánh giá các vấn đề, từ đó chỉ ra những ưu điểm, hạn chế của các công trình nghiên cứu về các nội dung liên quan mật thiết tới đề tài (chương 1); khi lập luận về chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND (Viện Công tố) một số nước trên thế giới, để rút ra giá trị tham khảo cho Việt Nam (chương 2). Phương pháp lô-gic được sử dụng làm rõ các khái niệm thành phần để từ đó xây dựng các khái niệm tổng quan (chương 2); đánh giá chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXHS theo hệ thống các tiêu chí đã xác định (chương 3). Phương pháp hệ thống được sử dụng khi khẳng định vấn đề mà đề tài luận án nghiên cứu là một vấn đề trong tổng thể các nhiệm vụ CCTP, nhằm xác định các
  12. 7 yêu cầu của CCTP đối với chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXHS; các yếu tố bảo đảm chất lượng tranh tụng được đặt trong mối quan hệ với các điều kiện bảo đảm về tổ chức và hoạt động của các cơ quan trong bộ máy Nhà nước (chương 2). Phương pháp lịch sử được sử dụng khi đánh giá các vấn đề theo tiến trình lịch sử nhất định, gắn với những giai đoạn lịch sử và trình tự thời gian phù hợp. Phương pháp điều tra xã hội học được sử dụng khi thu thập thông tin, làm sáng tỏ các căn cứ đánh giá thực trạng, đề xuất quan điểm, giải pháp nâng cao chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXHS; thông qua việc phát phiếu khảo sát, xử lý số liệu thống kê; đối với các đối tượng khảo sát gồm cán bộ VKSND các cấp, luật sư trong tổ chức hành nghề luật sư, cán bộ TAND các cấp và Hội thẩm nhân dân (HTND) tham gia XXHS cấp huyện. Số phiếu phát ra để thực hiện phương pháp điều tra xã hội học 1.500 phiếu, làm cơ sở đưa ra những đánh giá khách quan, toàn diện về các vấn đề có liên quan. Các nội dung điều tra tập trung vào những vấn đề thuộc về tiêu chí đánh giá chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện; dự kiến các quan điểm bảo đảm và các giải pháp nâng cao chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa hình sự hiện nay. 5. Những điểm mới của đề tài luận án Luận án là một công trình có tính chất chuyên khảo nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện những vấn đề lý luận và thực tiễn về chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXHS theo yêu cầu CCTP ở Việt Nam. Vì vậy, kết quả nghiên cứu đề tài sẽ mang lại một số điểm mới, có giá trị khoa học như sau: - Kế thừa, tổng hợp, đánh giá về các công trình nghiên cứu khoa học có liên quan để xây dựng, bổ sung, hoàn thiện lý luận chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện trong XXHS. Trong đó, xây dựng khái niệm, phân tích đặc điểm, xác lập các tiêu chí đánh giá và các yếu tố đảm bảo chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXHS theo yêu cầu CCTP ở Việt Nam. - Chỉ ra được một số giá trị tham khảo cho việc bảo đảm chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXHS ở Việt Nam qua việc
  13. 8 nghiên cứu mô hình tranh tụng của KSV (Công tố viên) tại phiên tòa XXHS một số nước trên thế giới. - Xây dựng được các quan điểm, đề xuất hệ thống giải pháp bao gồm nhóm giải pháp chung và nhóm giải pháp cụ thể nhằm bảo đảm chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXHS theo yêu cầu của CCTP ở Việt Nam hiện nay. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án 6.1. Về mặt lý luận Luận án góp phần hoàn thiện cơ sở lý luận về chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXHS trên cơ sở bám sát các yêu cầu CCTP. 6.2. Về mặt thực tiễn - Luận án có giá trị tham khảo, giúp các cấp ủy Đảng trong tổ chức VKSND chỉ đạo nâng cao chất lượng hoạt động của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện, từ đó mở rộng tới việc nâng cao chất lượng hoạt động của KSV - chức danh quan trọng trong thực hiện quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. - Luận án là tài liệu tham khảo trong giảng dạy, học tập tại các trường đào tạo pháp luật, đào tạo KSV. 7. Kết cấu của luận án Luận án gồm mở đầu, 4 chương, 10 tiết, kết luận, danh mục các công trình nghiên cứu của tác giả đã được công bố có liên quan đến đề tài luận án, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
  14. 9 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU 1.1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1.1. Tình hình nghiên cứu ở trong nước và nước ngoài 1.1.1.1. Tình hình nghiên cứu ở trong nước - Các công trình nghiên cứu về tranh tụng, chất lượng tranh tụng trong tố tụng hình sự Tranh tụng - một trong những thành tựu pháp lý - đã trở thành đề tài nghiên cứu từ rất sớm của các nhà khoa học trên thế giới. Ở Việt Nam, nghiên cứu về tranh tụng và chất lượng tranh tụng trong TTHS nhận được sự quan tâm của nhiều nhà khoa học, thể hiện quan điểm trong các công trình khoa học như đề tài, sách, tài liệu, kỷ yếu hội thảo, luận án, luận văn, bài báo khoa học. Tiêu biểu là các công trình nghiên cứu sau: + Về đề tài khoa học các cấp: Đối với đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, đáng chú ý có hai đề tài: Đề tài “Vấn đề tranh tụng trong TTHS Việt Nam theo tinh thần CCTP” do Lê Hữu Thể làm chủ nhiệm, năm 2008 [101]. Với mục tiêu đưa ra các giải pháp góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động tranh tụng trong TTHS Việt Nam, tác giả đã làm rõ các vấn đề cơ bản về hệ thống tố tụng tranh tụng, hệ thống tố tụng thẩm vấn; thực trạng vấn đề tranh tụng trong TTHS Việt Nam; nhằm tạo sự thống nhất trong nhận thức và thực hiện tranh tụng theo tinh thần CCTP. Trong phần giải pháp, tác giả đã làm rõ những quan điểm của Đảng về CCTP; một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tranh tụng trong TTHS; một số kiến nghị hoàn thiện các quy định về tranh tụng trong Bộ luật TTHS. Đề tài “Xây dựng nguyên tắc tranh tụng trong Bộ luật TTHS mới theo Hiến pháp năm 2013” do Nguyễn Mai Bộ làm chủ nhiệm, năm 2015 [17]. Tác giả khẳng định giá trị to lớn của hoạt động tranh tụng trong việc giải quyết vụ án, bảo vệ sự công bằng và lợi ích của các chủ thể. Trong xã hội hiện đại, hệ thống tư pháp hình
  15. 10 sự của các nước dù được tổ chức theo mô hình tố tụng nào thì trong đó ít nhiều đều có yếu tố tranh tụng. Tác giả nhận định: Thực tiễn hoạt động TTHS ở nước ta cho thấy công cuộc CCTP đã triển khai nhiều năm nhưng chưa tạo được sự chuyển biến cần thiết. Chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa còn yếu kém và mang tính hình thức, kết quả xét xử chủ yếu vẫn trong tình trạng “án tại hồ sơ”, việc truy cứu oan người vô tội vẫn thường xuyên xảy ra… [17, tr.9]. Nhận định trên cho thấy việc nghiên cứu xây dựng nguyên tắc tranh tụng trong Bộ luật TTHS mới theo Hiến pháp năm 2013 là nhu cầu cấp thiết về lý luận và thực tiễn. Do đó, đề tài được nghiên cứu đã làm rõ nhiều vấn đề có giá trị tham khảo rất lớn như: Cơ sở lý luận về xây dựng nguyên tắc tranh tụng, cơ sở pháp lý và thực tiễn của nguyên tắc này trong Bộ luật TTHS sửa đổi, xây dựng các quy định của Bộ luật TTHS mới liên quan đến tranh tụng. Ở cấp độ đề tài nghiên cứu khoa học cơ sở, có các đề tài: Đề tài “Hoàn thiện pháp luật TTHS nhằm nâng cao hiệu quả xét xử theo tinh thần CCTP” do Hoàng Thị Minh Sơn làm chủ nhiệm, năm 2009 [93]. Trong Chuyên đề 5 “Nâng cao hiệu quả tranh tụng tại phiên toà XXST hình sự”; tác giả Đỗ Thị Phượng đã nêu quan điểm tranh tụng trong TTHS là một quá trình nhằm xác định sự thật khách quan của vụ án. Theo quan điểm này, tính khách quan thể hiện qua việc các chủ thể tham gia tố tụng có quyền đưa ra những tài liệu, căn cứ để làm rõ vấn đề và chứng minh nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình trước HĐXX theo các trình tự, thủ tục do pháp luật TTHS quy định. Tác giả cũng trình bày về khái niệm, đặc điểm của việc tranh tụng tại phiên tòa XXST hình sự; quy định của Bộ luật TTHS hiện hành về tranh tụng tại phiên toà sơ thẩm và thực tiễn áp dụng các quy định này; một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tranh tụng tại phiên toà XXST vụ án hình sự. Trong các giải pháp, tác giả phân tích về sự cần thiết phải sửa đổi, bổ sung các quy định của Bộ luật TTHS hiện hành về tranh tụng; một số yêu cầu đối với các chủ thể chính tham gia tranh tụng. Đề tài “Bảo đảm quyền con người trong TTHS Việt Nam hiện nay - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” do Lê Minh Thắng làm chủ nhiệm, năm 2010 [99]. Trong đề tài này, mặc dù tác giả không trực tiếp nghiên cứu về tranh tụng, nhưng
  16. 11 trong nhiều nội dung của đề tài có đề cập đến vấn đề tranh tụng như: Tác giả nêu rõ một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng oan, sai là “xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa còn nhiều thiếu sót, phiến diện, không đầy đủ dẫn đến việc ra bản án trái pháp luật” [99]; khi đề xuất hoàn thiện pháp luật, nguyên tắc tranh tụng được đưa lên vị trí đầu tiên “Sự tồn tại của nguyên tắc tranh tụng là sự phản ánh khách quan trong hoạt động TTHS và cần thiết phải được bổ sung vào hệ thống các nguyên tắc của TTHS” [99]. Đề tài “Hoàn thiện các quy định của Bộ luật TTHS năm 2003 liên quan đến tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm - Cơ sở lý luận và thực tiễn” do Nguyễn Đức Mai làm chủ nhiệm, năm 2011 [62]. Tác giả đã làm rõ cơ sở lý luận của tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm hình sự với các nội dung khái niệm, bản chất, chức năng của các chủ thể trong tranh tụng; thực trạng quy định của Bộ luật TTHS về tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm; định hướng hoàn thiện các quy định của Bộ luật TTHS liên quan đến hoạt động tranh tụng. Tác giả thừa nhận việc quy định tranh tụng là một nguyên tắc và đưa ra một số đề xuất sửa đổi có liên quan. + Về sách, tài liệu: Trong cuốn sách “CCTP ở Việt Nam trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền” của tác giả Lê Cảm và Nguyễn Ngọc Chí [18], có một số bài viết về vấn đề tranh tụng trong TTHS như: Bài viết“Tố tụng tranh tụng và vấn đề CCTP ở Việt Nam trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền” của tác giả Nguyễn Ngọc Chí [20]. Trong bài viết này, tác giả đã đề cập đến đặc điểm của tố tụng tranh tụng, có sự phân tích những ưu điểm và hạn chế của loại hình tố tụng này; phân tích một số nội dung có thể tiếp thu phù hợp với TTHS nước ta để cải cách nền tư pháp ở Việt Nam đạt hiệu quả. Bài viết “Bảo đảm quyền con người trong TTHS - yêu cầu của pháp luật quốc tế và của CCTP ở Việt Nam” của tác giả Đào Trí Úc [118]. Với nhận định: Một trong những định hướng chủ đạo của CCTP ở Việt Nam hiện nay là hoàn thiện các quy định pháp luật TTHS nhằm bảo đảm một cách hợp pháp, vững chắc, đầy đủ các quyền con người theo chuẩn mực quốc tế. Một trong những bảo đảm cụ thể, trực tiếp cho các quyền con người trong hoạt động tư pháp nói chung, TTHS nói riêng là bảo đảm tranh tụng và nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp. Từ đó, tác giả khẳng định: “để
  17. 12 đáp ứng yêu cầu CCTP và tính pháp quyền của nền tư pháp, TTHS Việt Nam cần lấy các nguyên tắc tranh tụng, nguyên tắc suy đoán vô tội làm hai nguyên tắc trụ cột” [118, tr.176]. Trong cuốn sách “Những nội dung mới trong Bộ luật TTHS năm 2015” do Nguyễn Hòa Bình chủ biên, có bài viết “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử và việc cụ thể hóa trong Bộ luật TTHS năm 2015” của Trần Công Phàn [70, tr.86-102], trong đó tác giả đã nêu rõ tranh tụng là thành tựu của nền văn minh nhân loại, không chỉ thể hiện bản chất nhân đạo mà còn phản ánh xu hướng phát triển dân chủ và tiến bộ của TTHS; tranh tụng được thừa nhận trên phạm vi toàn cầu. Ở Việt Nam, Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận tranh tụng là một nguyên tắc và nguyên tắc này cũng đã được cụ thể hóa trong Bộ luật TTHS năm 2015. Cuốn sách “Sổ tay luật sư. Tập 2 Kỹ năng hành nghề luật sư trong TTHS, hành chính, dân sự” của Liên đoàn luật sư Việt Nam và Jica pháp luật 2020, năm 2017 [58], có nội dung “Nguyên tắc suy đoán vô tội, nguyên tắc tranh tụng trong xét xử” đã phân tích các quy định của pháp luật về vấn đề tranh tụng; việc cụ thể hóa nguyên tắc tranh tụng trong xét xử theo quy định của khoản 5 Điều 103 Hiến pháp năm 2013; nhấn mạnh “bản án, quyết định của Tòa án phải căn cứ vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa”. Đặc biệt, tài liệu nêu rõ ý nghĩa của hoạt động tranh tụng trong TTHS đối với việc đổi mới, hoàn thiện mô hình TTHS Việt Nam cũng như yêu cầu của công cuộc CCTP. + Về kỷ yếu hội thảo: Trong Kỷ yếu hội thảo “Hiến pháp 2013 và vấn đề đổi mới TTHS ở Việt Nam”, do Viện chính sách công và pháp luật - Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam, Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang, Học viện Khu vực IV - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh tổ chức tại An Giang ngày 30/5/2014, có hai bài viết về vấn đề tranh tụng. Bài viết thứ nhất là “Tranh tụng tại phiên tòa theo Hiến pháp năm 2013” của Trần Thị Hương [45, tr.290-295] đã bàn về các mô hình tố tụng trên thế giới, khẳng định ưu điểm của mô hình tố tụng tranh tụng, thừa nhận “nhiều nước trên thế giới hiện nay đang xây dựng mô hình tố tụng đan xen, phát huy những ưu điểm của cả mô hình tố tụng tranh tụng và tố tụng thẩm vấn trong quá trình giải quyết vụ án”
  18. 13 [45, tr.291] và khẳng định: “… tranh tụng tại phiên toà xét xử, coi đây là khâu đột phá trong CCTP nhằm bảo đảm bảo cho phán quyết của Toà án khách quan, chính xác đúng với sự thật của vụ án hình sự, vừa không bỏ lọt tội phạm, vừa không để xảy ra các trường hợp oan sai” [45, tr.292]. Tác giả khẳng định ý nghĩa của việc quy định nguyên tắc tranh tụng trong Hiến pháp năm 2013; yêu cầu triển khai thi hành đối với các cơ quan Nhà nước. Trong đó, khi tham gia phiên tòa xét xử vụ án hình sự, KSV đồng thời thực hiện hai chức năng: Thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử nên có những yêu cầu, đòi hỏi riêng trong thực hiện nguyên tắc này. Bài viết thứ hai là “Bảo đảm nguyên tắc tranh tụng: Nguyên tắc hiến định quan trọng trong việc đổi mới Bộ luật TTHS Việt Nam” của La Hồng [39, tr.296- 299] đã nêu rõ “Tranh tụng được hiểu theo ba nghĩa, là: Quá trình tranh tụng, nguyên tắc tranh tụng và mô hình tranh tụng” [39, tr.297]; đồng thời đi sâu trình bày về nguyên tắc tranh tụng theo quy định tại khoản 5 Điều 103 Hiến pháp năm 2013, kiến nghị các giải pháp bảo đảm nguyên tắc tranh tụng. Đáng chú ý, tác giả cũng thừa nhận, ở giai đoạn xét xử, phiên tòa là giai đoạn trung tâm thể hiện đầy đủ nhất bản chất quá trình tố tụng nói chung và xét xử nói riêng. Tranh tụng thể hiện rõ nét trong diễn biến phiên tòa. Tuy vậy, thực tiễn cho thấy có nhiều hạn chế trong hoạt động tranh tụng ảnh hưởng đến chất lượng tranh tụng, như “vị công tố viên đích thực đại diện cho Nhà nước buộc tội bị cáo tại phiên tòa thì lại thụ động trong việc thực hiện nghĩa vụ chứng minh của mình, im lặng và không tranh tụng, bởi lẽ, công việc này đã có Tòa “giúp sức” [39, tr.298-299]. + Về các luận án (chuyên ngành Luật): Luận án “Nguyên tắc tranh tụng trong TTHS Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” của Nguyễn Văn Hiển, năm 2010 [37] đã trình bày những nội dung của vấn đề nguyên tắc tranh tụng trong TTHS Việt Nam trong ba chương: Những vấn đề chung của nguyên tắc tranh tụng trong TTHS (chương 1); sự thể hiện của nguyên tắc tranh tụng trong pháp luật TTHS Việt Nam và thực tiễn tranh tụng trong TTHS Việt Nam (chương 2); phương hướng xây dựng và áp dụng nguyên tắc tranh tụng trong pháp luật TTHS Việt Nam (chương 3). Tác giả đã có sự trình bày khá chi tiết về các vấn đề có liên quan, đặc biệt là đưa ra quan điểm khẳng định tranh tụng trong TTHS không phải là một thủ tục, một giai đoạn và đồng nhất với tranh luận
  19. 14 tại phiên tòa; không phải là một quá trình trong TTHS, mô hình TTHS, mà là một nguyên tắc của TTHS: “những tư tưởng chỉ đạo và định hướng cho hoạt động TTHS, tồn tại khách quan và chi phối toàn bộ quá trình tố tụng…” [37]. Tác giả cũng làm rõ ý nghĩa, vị trí, mối quan hệ của nguyên tắc tranh tụng với một số nguyên tắc khác của TTHS cũng như sự thể hiện nguyên tắc này trong mô hình tố tụng tranh tụng và tố tụng xét hỏi; đánh giá thực trạng tranh tụng trong TTHS Việt Nam theo từng giai đoạn lịch sử; phân tích yêu cầu và đề xuất thể chế hóa nguyên tắc này trong pháp luật TTHS Việt Nam và các biện pháp bảo đảm. Luận án “Cơ sở lý luận và thực tiễn của nguyên tắc tranh tụng trong TTHS Việt Nam hiện nay” của Nguyễn Thu Hiền, năm 2011 [35]. Tác giả đã trình bày nhiều nội dung có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng như khái niệm tranh tụng, nguyên tắc tranh tụng trong TTHS; những ưu điểm vượt trội của tố tụng tranh tụng; các yêu cầu của nguyên tắc tranh tụng trong TTHS; các nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Toà án; các giải pháp xây dựng nguyên tắc tranh tụng. Trong đó, tác giả khẳng định nguyên tắc tranh tụng là sự định hướng cho các chủ thể trong mọi hoạt động, hành vi tố tụng theo luật định; tranh tụng cần được tranh cãi bình đẳng bằng lý lẽ dựa trên những chứng cứ, quy định pháp luật nhằm thực hiện chức năng buộc tội hoặc chức năng bào chữa; đồng thời là cơ sở để Tòa án độc lập với chức năng tài phán ra phán quyết áp dụng pháp luật có hiệu lực thi hành kết thúc quá trình giải quyết vụ án hình sự. Tố tụng tranh tụng có ưu điểm vượt trội, là cơ chế để phát huy tinh thần dân chủ trong hoạt động tố tụng. Tác giả khẳng định các tiền đề tư tưởng pháp lý về nguyên tắc tranh tụng chính là các nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án. Nguyên tắc tranh tụng trong TTHS cần phải đáp ứng các yêu cầu: Bảo đảm đạt được nội dung của nguyên tắc tranh tụng; phải xuất phát từ mục tiêu CCTP, gắn với xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN vì con người; phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam, bảo đảm được tính tối cao của luật nói chung và của TTHS nói riêng. Tác giả cũng nêu lên các giải pháp xây dựng nguyên tắc tranh tụng trên cả khía cạnh thực tiễn và pháp lý. Luận án “Mô hình TTHS Việt Nam và vấn đề áp dụng tố tụng tranh tụng” của Nguyễn Thị Thủy, năm 2014 [104]. Luận án có mục đích nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống về mặt lý luận, đánh giá chính xác, khách quan mô hình TTHS
  20. 15 Việt Nam thể hiện trong pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật TTHS nước ta; trên cơ sở đó, đề xuất việc tiếp thu những hạt nhân hợp lý của mô hình TTHS tranh tụng trong quá trình hoàn thiện mô hình TTHS Việt Nam, đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Thực hiện mục đích đó, luận án đã làm rõ nhiều vấn đề, trong đó có việc khẳng định những yêu cầu của CCTP đặt ra đối với việc hoàn thiện mô hình TTHS nước ta; những tiền đề và thách thức đối với việc áp dụng các yếu tố của tố tụng tranh tụng ở Việt Nam. Từ đó, tác giả kiến nghị về phương hướng, giải pháp tiếp thu những hạt nhân hợp lý của mô hình TTHS tranh tụng, đề xuất các điều kiện để bảo đảm thể chế và áp dụng tố tụng tranh tụng trong mô hình TTHS nước ta. Luận án “Bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong phiên tòa XXST vụ án hình sự theo yêu cầu CCTP ở Việt Nam” của Hoàng Văn Thành, năm 2015 [96]. Trong luận án, tác giả nêu rõ tầm quan trọng của CCTP ở Việt Nam. Yêu cầu đối với một hệ thống tư pháp đáp ứng quyền lợi của nhân dân được tác giả nhấn mạnh, phù hợp với CCTP. Điều đó đòi hỏi phải có sự nghiên cứu thấu đáo, toàn diện về tranh tụng trong TTHS. Luận án đã đi sâu phân tích cơ sở lý luận, thực trạng, quan điểm và giải pháp bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong phiên tòa XXST vụ án hình sự theo yêu cầu CCTP ở Việt Nam. Nhiều nội dung có ý nghĩa tham khảo đối với các công trình nghiên cứu có liên quan, trong đó có đề tài luận án của nghiên cứu sinh như khái niệm, đặc điểm, nội dung, vai trò, ý nghĩa bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong phiên tòa XXST vụ án hình sự theo yêu cầu CCTP ở Việt Nam; các giải pháp bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong phiên tòa XXST vụ án hình sự theo yêu cầu CCTP ở Việt Nam. Luận án “Thủ tục xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm trong TTHS Việt Nam” của Nguyễn Ngọc Kiện, năm 2016 [51]. Tác giả đã phân tích và xây dựng khái niệm thủ tục xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa hình sự sơ thẩm; làm rõ mục đích, ý nghĩa của hoạt động xét hỏi và tranh luận; phân tích, chứng minh cơ sở xác định thủ tục xét hỏi, tranh luận và làm rõ mối quan hệ của nó; cũng như mối quan hệ giữa các chủ thể tham gia xét hỏi, tranh luận. Tác giả cũng làm rõ thực trạng luật thực định Việt Nam về thủ tục xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa hình sự sơ thẩm; trong đó so sánh, đánh giá những điểm mới cùng vấn đề theo Bộ luật TTHS năm
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
17=>2