intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học: Phương tiện biểu hiện nghĩa tình thái ở hành động hỏi tiếng Anh và tiếng Việt

Chia sẻ: Lan Xi Chen | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:167

77
lượt xem
15
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận án này được thực hiện với mục đích là nghiên cứu các phương tiện biểu hiện nghĩa tình thái ở hành động hỏi tiếng Anh và tiếng Việt mà thực chất ở đây là nghiên cứu về các đặc trưng tình thái và phương tiện biểu hiện tình thái trong hành động hỏi trực tiếp và hành động hỏi gián tiếp tiếng Anh và tiếng Việt nhằm tìm hiểu những tương đồng và dị biệt của phương tiện biểu hiện loại nghĩa này về phương diện ngữ nghĩa- ngữ dụng ở cả hai ngôn ngữ. Đồng thời những kết quả sau khi nghiên cứu của luận án có thể được vận dụng trong thực tế giảng dạy và dịch thuật ngoại ngữ. Mời các bạn cùng tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học: Phương tiện biểu hiện nghĩa tình thái ở hành động hỏi tiếng Anh và tiếng Việt

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ----------------------- NGUYỄN THỊ VÂN ANH PHƯƠNG TIỆN BIỂU HIỆN NGHĨA TÌNH THÁI Ở HÀNH ĐỘNG HỎI TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC Hà Nội, năm 2019
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ----------------------- NGUYỄN THỊ VÂN ANH PHƯƠNG TIỆN BIỂU HIỆN NGHĨA TÌNH THÁI Ở HÀNH ĐỘNG HỎI TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC Chuyên ngành: Ngôn ngữ học so sánh đối chiếu Mã số: 9222024 Hà Nội, năm 2019
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ một công trình nào. Tác giả luận án Nguyễn Thị Vân Anh
  4. MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN MỞ ĐẦU ...........................................................................................................................1 1. Lý do chọn đề tài ...............................................................................................1 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................2 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu và phạm vi nguồn ngữ liệu.....................3 4. Phương pháp nghiên cứu ...............................................................................4 5. Những đóng góp của luận án .........................................................................5 6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn .............................................................................5 7. Bố cục của luận án ...........................................................................................6 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA LUẬN ÁN .......................................................................................................8 1.1.Tổng quan về tình hình nghiên cứu nghĩa tình thái và phương tiện biểu hiện tình thái trong tiếng Anh và tiếng Việt....................................... 8 1.2. Tổng quan về tình hình nghiên cứu hành động hỏi trong tiếng Anh và tiếng Việt ................................................................................................. 17 1.3. Cơ sở lí luận của luận án ..................................................................... 19 1.3.1. Lí thuyết hành động ngôn từ ............................................................... 19 1.3.2. Hành động ngôn từ trực tiếp và hành động ngôn từ gián tiếp ............ 30 1.3.3. Hành động hỏi ...............................................................................31 Chương 2: PHƯƠNG TIỆN BIỂU HIỆN NGHĨA TÌNH THÁI Ở HÀNH ĐỘNG HỎI TRỰC TIẾP TRONG TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT ..............46 2.1. Khái quát về hành động hỏi trực tiếp trong tiếng Anh và tiếng Việt ..... 46 2.1.1. Nhận diện hành động hỏi trực tiếp trong tiếng Anh ........................... 46 2.1.2. Nhận diện hành động hỏi trực tiếp trong tiếng Việt ........................... 51 2.2. Phương tiện biểu hiện nghĩa tình thái ở hành động hỏi trực tiếp tiếng Anh ............................................................................................ 56
  5. 2.2.1. Phương tiện biểu hiện tình thái hành động ngôn từ ở hành động hỏi trực tiếp tiếng Anh .............................................................................. 56 2.2.2. Phương tiện biểu hiện tình thái nhận thức và tình thái đạo nghĩa ở hành động hỏi trực tiếp tiếng Anh ..................................................................... 69 2.3. Phương tiện biểu hiện nghĩa tình thái ở hành động hỏi trực tiếp tiếng Việt ............................................................................................ 77 2.3.1. Phương tiện biểu hiện tình thái hành động ngôn từ ở hành động hỏi trực tiếp tiếng Việt .............................................................................. 77 2.3.2. Phương tiện biểu hiện tình thái nhận thức và tình thái đạo nghĩa ở hành động hỏi trực tiếp tiếng Việt ...................................................... 85 2.4. Sự tương đồng và khác biệt về phương tiện biểu hiện nghĩa tình thái ở hành động hỏi trực tiếp trong tiếng Anh và tiếng Việt ...... 92 2.4.1. Tương đồng ......................................................................................... 92 2.4.2. Khác biệt ............................................................................................. 93 Chương 3: PHƯƠNG TIỆN BIỂU HIỆN NGHĨA TÌNH THÁI Ở HÀNH ĐỘNG HỎI GIÁN TIẾP TRONG TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT .............. 97 3.1. Khái quát về hành động hỏi gián tiếp trong tiếng Anh và tiếng Việt........... 97 3.1.1. Nhận diện hành động hỏi gián tiếp trong tiếng Anh........................... 97 3.1.2. Nhận diện hành động hỏi gián tiếp trong tiếng Việt......................... 108 3.2. Phương tiện biểu hiện nghĩa tình thái ở hành động hỏi gián tiếp tiếng Anh và tiếng Việt ................................................................... 115 3.2.1. Phương tiện biểu hiện tình thái hành động ngôn từ ở hành động hỏi gián tiếp tiếng Anh ............................................................................ 115 3.2.2. Các phương tiện biểu hiện nghĩa tình thái nhận thức và tình thái đạo nghĩa ở hành động hỏi gián tiếp tiếng Anh ....................................... 124 3.3. Phương tiện biểu hiện nghĩa tình thái ở hành động hỏi gián tiếp tiếng Việt .......................................................................................... 130
  6. 3.3.1. Phương tiện biểu hiện nghĩa tình thái hành động ngôn từ ở hành động hỏi gián tiếp tiếng Việt...................................................................... 130 3.3.2. Phương tiện biểu hiện tình thái nhận thức và tình thái đạo nghĩa trong hành động hỏi gián tiếp tiếng Việt.................................................... 132 3.4. Sự tương đồng và khác biệt về phương tiện biểu hiện nghĩa tình thái ở hành động hỏi gián tiếp trong tiếng Anh và tiếng Việt .... 142 3.4.1. Tương đồng ....................................................................................... 142 3.4.2. Khác biệt ........................................................................................... 143 KẾT LUẬN. ............................................................................................... 147 TÀI LIỆU THAM KHẢO
  7. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Những sắc thái tình cảm, những cung bậc cảm xúc khác nhau của người nói và người nghe trong quá trình giao tiếp bằng ngôn ngữ chính là tình thái. Tình thái trong ngôn ngữ là một mảng kiến thức rất rộng và ở bất kì ngôn ngữ nào, tình thái cùng với cách thức diễn đạt tình thái đều rất phong phú, đa dạng. Trên thế giới và cả ở Việt Nam cũng đã có rất nhiều công trình khoa học nghiên cứu về tình thái và các phương tiện truyền tải tình thái đặc biệt là dưới góc nhìn của ngữ dụng học. Tình thái là một phạm trù liên hệ với việc diễn đạt sự bắt buộc sự cho phép, sự cấm đoán, sự cần thiết, tính khả hữu, khả năng. Không thể tạo ra ý nghĩa lời nói nếu trong lời nói ấy ta không tìm thấy một biểu hiện nào đó của tính tình thái. Tình thái không những là linh hồn của câu, của văn bản mà còn là của cả hoạt động giao tiếp. Giao tiếp sẽ đạt được hiệu quả tối ưu khi chúng ta biết vận dụng những phương tiện biểu hiện tình thái. Viêc vận dụng những phương tiện biểu hiện tình thái giúp người nói người nói tạo dựng phát ngôn cũng như để người nghe tiếp nhận và nắm bắt đúng ý định giao tiếp của người nói. Bởi vậy nghiên cứu về tình thái và phương tiện biểu hiện nghĩa tình thái là một đề tài thú vị, ngày càng được mở rộng chú trọng và phát triển giúp chúng ta hướng tới thành công trong giao tiếp, ứng xử. Trong quá trình giảng dạy, thụ đắc ngôn ngữ thực tế, theo quan sát của chúng tôi, người học thường hay mắc lỗi sử dụng ngôn ngữ nhất là khi muốn truyền tải sắc thái tình cảm, thái độ được bộc lộ qua cách đặt câu hỏi, cách trả lời nhằm thỏa mãn ý định của họ khi giao tiếp. Do đó việc nghiên cứu về tình thái và phương tiện biểu hiện tình thái trong hành động hỏi tiếng Anh và tiếng Việt ở một mức nào đó sẽ giúp người học sử dụng đúng, sử dụng linh hoạt phương tiện biểu hiện nghĩa tình thái trong hành động hỏi tiếng Anh và tiếng Việt nhằm nâng cao hiệu quả thực hành ngôn ngữ. 1
  8. Qua tìm hiểu chúng tôi thấy rằng đã có những đề tài trong và ngoài nước tập trung nghiên cứu về lĩnh vực tình thái và xoay quanh việc xác định nghĩa tình thái và phân loại nghĩa tình thái, các phương tiện biểu hiện nghĩa tình thái, phạm vi nghiên cứu quan hệ của nghĩa tình thái trong câu hỏi hay câu cầu khiến, ý nghĩa tình thái và phương tiện tình thái cú pháp học ở các ngôn ngữ, tuy nhiên trong phạm vi tư liệu chúng tôi có được cũng chưa có công trình nào trực tiếp quan tâm chuyên sâu nghiên cứu một cách có hệ thống về cách biểu đạt ý nghĩa tình thái của hành động hỏi trong tiếng Anh và tiếng Việt biểu hiện không chỉ bằng câu hỏi mà còn bằng các kiểu câu khác như câu mệnh lệnh, câu trần thuật ở bậc luận án tiến sĩ. Vì những lí do đã nêu ở trên, việc nghiên cứu các phương tiện biểu hiện nghĩa tình thái trong hành động ngôn từ hỏi của luận án này là cần thiết, giúp mang đến một cái nhìn bao quát hơn về vấn đề tình thái trong ngôn ngữ đáp ứng nhu cầu học thuật mà còn đáp ứng nhu cầu thực tiễn. Luận án ở chừng mực nào đó có thể đóng góp thêm cho việc biên soạn tài liệu tham khảo phục vụ cho học tập giảng dạy chuyên sâu, nâng cao hiểu biết cho những ai quan tâm đến lĩnh vực nghiên cứu của luận án. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Luận án này được thực hiện với mục đích là nghiên cứu các phương tiện biểu hiện nghĩa tình thái ở hành động hỏi tiếng Anh và tiếng Việt mà thực chất ở đây là nghiên cứu về các đặc trưng tình thái và phương tiện biểu hiện tình thái trong hành động hỏi trực tiếp và hành động hỏi gián tiếp tiếng Anh và tiếng Việt nhằm tìm hiểu những tương đồng và dị biệt của phương tiện biểu hiện loại nghĩa này về phương diện ngữ nghĩa- ngữ dụng ở cả hai ngôn ngữ. Đồng thời những kết quả sau khi nghiên cứu của luận án có thể được vận dụng trong thực tế giảng dạy và dịch thuật ngoại ngữ. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án tập trung vào việc tìm hiểu những vấn đề sau: 2
  9. 1. Lí thuyết hành động ngôn từ (speech act theory), hành động hỏi, tình thái hành động ngôn từ, tình thái nhận thức, tình thái đạo nghĩa và các phương tiện biểu hiện trong các ngôn ngữ. 2. Nhận diện hành động hỏi trực tiếp và hành động hỏi gián tiếp trong tiếng Anh và tiếng Việt. 3. Miêu tả những phương tiện biểu hiện nghĩa tình thái ở hành động hỏi trực tiếp và hành động hỏi gián tiếp trong tiếng Anh và tiếng Việt 4. Nhận xét về sự tương đồng và khác biệt về nghĩa tình thái và phương tiện biểu hiện tình thái hành động ngôn từ, tình thái nhận thức và tình thái đạo nghĩa ở hành động hỏi tiếng Anh và tiếng Việt. 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu và phạm vi nguồn ngữ liệu Đối tượng nghiên cứu của luận án là những phương tiện biểu hiện nghĩa tình thái ở hành động hỏi tiếng Anh và tiếng Việt, nghĩa là trong khuôn khổ của luận án này, chúng tôi tập trung khảo sát các phương tiện biểu hiện nghĩa tình thái ở hành động hỏi trực tiếp và hành động hỏi gián tiếp trong tiếng Anh và tiếng Việt. Nguồn ngữ liệu của luận án được tổng hợp từ trên tập hợp nguồn các câu hỏi song ngữ Anh -Việt, nguồn các câu trần thuật, các câu mệnh lệnh song ngữ Anh -Việt dùng để hỏi do một nhóm tác giả xử lí ngôn ngữ tự nhiên thuộc trường đại học Stanford (The Stanford Natural Language Processing Group) tiến hành ghi âm lại lời thoại trong các video TED talks (corpus song ngữ Anh-Việt: http://nlp.stanford.edu/project/nmt/), các tác phẩm văn học như “ Gone with the Wind” (Cuốn theo chiều gió) của Margaret Mitchell, “The Da Vinci Code” (Mật mã Da Vinci) của Dan Brown, tập truyện ngắn Nguyễn Hào Hải, truyện ngắn Chu Lai, truyện ngắn Ngô Tự Lập “ Tháng có 15 ngày”, tập truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, tuyển tập truyện ngắn Nam Cao, truyện Ngô Tất Tố , các tập truyện ngắn in trên các báo, tạp chí Quân đội Nhân dân từ các năm 2000 đến 2016. 3
  10. Hiện nay có nhiều loại tình thái được xác lập theo các tiêu chí khác nhau. Với phạm vi nghiên cứu của luận án này, chúng tôi tập trung vào tình thái và phương tiện biểu hiện nghĩa tình thái hành động ngôn từ, tình thái nhận thức (epistemic modality) và tình thái đạo nghĩa (deontic modality) ở hành động hỏi trực tiếp và gián tiếp tiếng Anh và tiếng Việt. Các phương tiện biểu hiện tình thái ở hỏi tu từ tiếng Anh và tiếng Việt nằm ngoài phạm vi nghiên cứu của luận án này. Hành động hỏi là một hành động mà người nói thực hiện thông qua ngôn ngữ nhằm thu thập thông tin mà mình muốn biết trong câu trả lời. Hành động hỏi có thể có nhiều phương tiện biểu đạt. Người nói có thể sử dụng câu hỏi (hay kiểu câu khác như câu trần thuật hoặc là câu mệnh lệnh) để thực hiện một hành động ngôn từ hỏi. Từ sự phân tích đã đề cập ở trên chúng tôi nêu ra hành động hỏi tiếng Anh và tiếng Việt như sau: (1) Hành động hỏi trực tiếp tiếng Anh và tiếng Việt là hành động hỏi thể hiện bằng câu nghi vấn; (2) Hành động hỏi gián tiếp tiếng Anh và tiếng Việt là hành động hỏi thể hiện bằng câu trần thuật và câu mệnh lệnh. 4. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu: Để nghiên cứu đề tài chúng tôi sử dụng phương pháp nghiên cứu chủ đạo là phương pháp miêu tả và phương pháp so sánh đối chiếu. Phương pháp miêu tả nhằm làm sáng tỏ các kiểu nghĩa tình thái và phương tiện biểu hiện nghĩa tình thái ở hành động hỏi trong tiếng Anh và tiếng Việt.Trong phương pháp miêu tả, chúng tôi đã vận dụng các thủ pháp như thủ pháp thống kê, phân loại và thủ pháp phân tích ngữ cảnh trên các ngữ liệu cụ thể mà chúng tôi thu thập được. Bên cạnh đó, chúng tôi vận dụng phương pháp so sánh đối chiếu nhằm tìm hiểu sự tương đồng và khác biệt giữa các bộ phận nghĩa tình thái, những phương tiện biểu thị chúng, hiệu quả của việc sử 4
  11. dụng những phương tiện ấy trong thực tế, qua đó mà hiểu rõ hơn về nghĩa tình thái, và phương tiện biểu hiện nghĩa tình thái ở hành động hỏi tiếng Anh và tiếng Việt giúp nâng cao hiệu quả trong giao tiếp bằng ngôn ngữ. 5. Những đóng góp của luận án Nghiên cứu tập trung vào phương tiện biểu hiện tình thái hành động ngôn từ, phương tiện biểu hiện tình thái nhận thức và tình thái đạo nghĩa ở hành động hỏi trực tiếp và gián tiếp tiếng Anh và tiếng Việt cụ thể với các đặc trưng về nội dung, ý nghĩa và các mối quan hệ tương ứng giữa hình thức và nội dung. Qua phân tích, nghiên cứu đã bước đầu nhận diện được hành động hỏi trực tiếp, gián tiếp tiếng Anh và tiếng Việt, đồng thời chỉ ra những nét tương đồng và khác biệt về phương tiện biểu hiện tình thái hành động ngôn từ, phương tiện biểu hiện tình thái nhận thức, phương tiện biểu hiện tình thái đạo nghĩa ở hành động hỏi trực tiếp và gián tiếp tiếng Anh và tiếng Việt. 6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn Về lí luận: Thông qua việc đối chiếu tình thái và phương tiện biểu hiện nghĩa tình thái ở hành động hỏi tiếng Anh và tiếng Việt, luận án chỉ ra biểu hiện của tình thái hành động ngôn từ , tình thái nhận thức, tình thái đạo nghĩa ở hành động hỏi hỏi trực tiếp, hành động hỏi gián tiếp tiếng Anh và tiếng Việt, đồng thời tìm ra sự tương đồng và khác biệt của phương tiện biểu hiện nghĩa tình thái ở hành động hỏi tiếng Anh và tiếng Việt. Về thực tiễn: Vấn đề tình thái từ xưa đến nay tuy không mới nhưng luôn là đề tài thú vị thu hút sự quan tâm của nhiều nhà ngôn ngữ học. Trên tinh thần kế thừa và phát huy các kết quả nghiên cứu của nhiều tác giả đi trước về vấn đề nghĩa tình thái và phương tiện biểu hiện nghĩa tình thái, ở khuôn khổ luận án này, chúng tôi tập trung tìm hiểu nhằm nêu bật nội dung tình thái hành động ngôn từ, tình thái nhận thức, tình thái đạo nghĩa cũng 5
  12. như cách thức truyền tải nghĩa tình thái này trong hành động hỏi trực tiếp và gián tiếp tiếng Anh và tiếng Việt. Không có nhiều công trình nghiên cứu về phương tiện biểu hiện nghĩa tình thái ở các kiểu ngôn trung trong hành động ngôn từ hỏi ở cả hai ngôn ngữ: tiếng Anh và tiếng Việt. Kết quả sau nghiên cứu của luận án giúp phục vụ cho công tác giảng dạy ngoại ngữ, hay một tài liệu tham khảo phục vụ cho những ai quan tâm đến lĩnh vực nghiên cứu của đề tài. 7. Bố cục của luận án Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, phần nội dung chính của luận án được chia thành ba chương: Chương 1: Tổng quan về tình hình nghiên cứu và cơ sở lí luận của luận án. Trong chương này, chúng tôi khái quát về tình hình nghiên cứu nghĩa tình thái và phương tiện biểu hiện nghĩa tình thái ở nước ngoài cũng như ở trong nước. Bên cạnh luận án đề cập tới một số khung lí thuyết làm nền tảng nghiên cứu cho các vấn đề thuộc các chương tiếp theo gồm: Lí thuyết hành động ngôn từ, nghĩa tình thái và phương tiện biểu hiện nghĩa tình thái trong ngôn ngữ. Chương 2: Phương tiện biểu hiện nghĩa tình thái ở hành động hỏi trực tiếp trong tiếng Anh và tiếng Việt. Trong chương này, chúng tôi chủ yếu đề cập về phương tiện biểu hiện tình thái hành động ngôn từ, tình thái nhận thức và tình thái đạo nghĩa ở hành động hỏi trực tiếp tiếng Anh và tiếng Việt. Qua phân tích và tổng hợp nghiên cứu, chúng tôi rút ra những điểm tương đồng và khác biệt về tình thái hành động ngôn từ, tình thái nhận thức, tình thái đạo nghĩa và phương tiện biểu hiện những loại tình thái này ở hành động hỏi trực tiếp tiếng Anh và tiếng Việt. 6
  13. Chương 3: Phương tiện biểu hiện nghĩa tình thái ở hành động hỏi gián tiếp trong tiếng Anh và tiếng Việt. Trong chương này, chúng tôi chủ yếu đề cập về phương tiện biểu hiện tình thái hành động ngôn từ, tình thái nhận thức và tình thái đạo nghĩa ở hành động hỏi gián tiếp tiếng Anh và tiếng Việt. Qua phân tích và tìm hiểu, chúng tôi rút ra nhận xét về những điểm tương đồng và khác biệt về nghĩa tình thái và phương tiện biểu hiện tình thái hành động ngôn từ, tình thái nhận thức và tình thái đạo nghĩa trong hành động hỏi gián tiếp Anh và tiếng Việt. 7
  14. Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA LUẬN ÁN 1.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu nghĩa tình thái và phương tiện biểu hiện tình thái trong tiếng Anh và tiếng Việt Trong ngành ngôn ngữ học thế giới hiện nay tồn tại nhiều cách hiểu về tình thái. Nhà nghiên cứu ngôn ngữ nước ngoài như Ch.Bally (1905), O. Jespersen (1949),V.Wright (1951), N. Rescher (1968), J. Lyons (1977-1995), J.R. Searle (1969), T. Givón (1993), F.Palmer (2001) đã có những đóng góp không nhỏ cho việc xây dựng khung lí luận chung về tình thái, phân loại tình thái. Ch.Bally là người đầu tiên phân biệt Modus (bộ phận tình thái) là một trong hai thành phần thiết yếu, quan trọng của cấu trúc nghĩa của phát ngôn gắn với bình diện tâm lí, thể hiện những nhân tố thuộc phạm vi cảm xúc, ý chí, thái độ, sự đánh giá của người nói đối với điều được nói ra, xét trong quan hệ với thực tế, với người đối thoại và với hoàn cảnh giao tiếp. Hầu hết các nhà nghiên cứu về tình thái ở nước ngoài như O. Jepersen (1949), V.Wright (1951), N.Reacher (1968), Quirk et al.(1972), T. Givón (1993), M.A. K Halliday (1994), J.Lyons (1995), F.Palmer ( 2001) đều bàn về hai loại tình thái chính đó là tình thái trong ngôn ngữ học và tình thái trong logic học. Nếu trong logic học chúng ta quan tâm đến tình thái khách quan với các thuộc tính của tình thái khách quan là chân trị của mệnh đề, là tính hiện thực, là tính tất yếu hay không tất yếu, là tính khả hữu thì trong ngôn ngữ học đối tượng quan tâm đặc biệt là tình thái chủ quan với thái độ của người nói. Theo quan niệm của T.Givón (1993) “Tình thái biểu thị thái độ của người nói đối với phát ngôn”. Thái độ mà ông đề cập đến ở đây là hai loại đánh giá của người nói về thông tin phát ngôn được chuyển tải qua nội dung mệnh đề. Một 8
  15. là những đánh giá nhận thức về tính hiện thực, khả năng, lòng tin và sự chắc chắn hay bằng chứng. Hai là những đánh giá giá trị về ước muốn, sự ưa thích, ý định, sự ràng buộc hay sự điều khiển. T.Givón chia tình thái nhận thức làm bốn tiểu loại gồm: (1) Tiền giả định ( presupposition), (2) Xác nhận hiện thực (realis assertion), (3) Xác nhận phi hiện thực (irrealis assertion), (4) Xác nhận phủ định (negative assertion). Tác giả J.L Austin (1962) trong công trình nghiên cứu “How to do things with words” cho rằng nói năng cũng là hành động, tương ứng với câu nói là những hành động nhằm tác động vào người nghe. Từ đây đã khởi xướng cho việc nghiên cứu tình thái của “hành động phát ngôn”. Tình thái của “hành động phát ngôn” phân biệt các phát ngôn theo mục đích, mục tiêu cụ thể trong giao tiếp, phân biệt các câu có giá trị ngôn trung khác nhau được đánh dấu. N.Rescher (1968) trong Topics in philosophical logic, ngoài việc đề cập đến loại tình thái nhận thức, tình thái đạo nghĩa, ông còn bàn về tình thái hiện thực (realis), tình thái biểu thời( temporal), tình thái vọng cảm (boulomaic), tình thái đánh giá(evaluative), tình thái nguyên nhân (causal), tình thái điều kiện ( conditional). J.Lyons (1977) (Semantics, Cambridge University Press) đã phân chia tình thái chủ quan thành hai loại: (1) tình thái nhận thức (epistemic modality) (2) tình thái đạo nghĩa (deontic modality). J.Lyons cho rằng: Tình thái nhận thức liên quan đến tính khá năng, tính cần thiết và mức độ cam kết của người nói đối với điều mà anh ta nói ra, tình thái đạo nghĩa lại liên quan đến tính hợp thức về đạo lý của hành động đo một 9
  16. người nào đó hay do chính người nói thực hiện. Tình thái nhận thức phải được thể hiện thông qua tính tất yếu hoặc khả năng về tính xác thực của mệnh đề, và có liên quan đến tri thức và niềm tin. Trong tình thái nhận thức, xét về góc độ chân thực thì có ba kiểu tình thái nhận thức: + Tình thái thực hữu (factive modality) là loại tình thái mà người nói cho rằng sự việc được nói đến là hiện thực hay tất yếu hiện thực. + Tình thái phản thực hữu (contra-factive modality) là loại tình thái người nói cho rằng sự việc được nói đến là phi hiện thực hoặc tất yếu phi hiện thực. + Tình thái không thực hữu (non-factive modality) là loại tình thái người nói cho rằng sự việc được nói đến có thể xảy ra ở một thế giới khả năng nào đó.( J.Lyons 1977, tr 823 ) Tình thái đạo nghĩa là loại tình thái có liên quan với chức năng xã hội của phép tắc hay là nghĩa vụ nghĩa là loại tình thái đạo nghĩa này thể hiện mức độ áp đặt của chủ thể giao tiếp về mặt đạo đức,về phong tục,về tập quán... với các tiểu loại sau: + Tình thái đạo nghĩa thể hiện sự bắt buộc/không bắt buộc, + Tình thái đạo nghĩa thể hiện sự được phép/không được phép + Tình thái đạo nghĩa thể hiện sự cấm đoán/không cấm đoán + Tình thái đạo nghĩa thể hiện sự miễn trừ/ không miễn trừ (J.Lyons 1977, tr 823) Đáng chú ý là J.R. Searle (1979) trong cuốn Expression and Meaning( Cambridge (Mass) lại phân tích tình thái theo hướng tiếp cận vấn đề về hành động ngôn từ. Lí thuyết hành động ngôn từ cho thấy mối quan hệ giữa người nói, người nghe và nội dung phát ngôn bao chứa rất nhiều nội dung tình thái.Theo cách tiếp cận này, vai trò của người nói và người nghe được nhấn mạnh. Dường như có sự tương hợp giữa khung tình thái với 5 nhóm hành động ngôn từ mà tác giả đã phân loại. 10
  17. Tương tự với nhận xét của T.Givón về tình thái, W.Frawley (1992), M.A. K Halliday (1994) cũng cho rằng các thuộc tính cơ bản của tình thái là tính “hiện thực” và “phi hiện thực” . Tình thái ảnh hưởng tới toàn bộ nội dung của một sự diễn đạt nào đó.Tình thái gợi lên không chỉ các mức độ nhận thức khách quan về hiện thực mà còn cả các thái độ và sự định hướng chủ quan đối với nội dung của sự biểu đạt. F.Palmer (2001) (Mood and modality, 2nd edition. Cambridge Textbooks in Linguistics New York: Cambridge University Press) cũng phân loại tình thái giống như cách phân loại của J.Lyons gồm hai loại trọng tâm là tình thái nhận thức (epistemic modality)và tình thái đạo nghĩa (deontic modality), ngoài ra, ông còn đề cập đến loại tình thái trạng huống (dynamic modality). Tình thái trạng huống là loại tình thái có tính tình huống. Tình thái trạng huống mang tính khách quan khi yếu tố tình huống là yếu tố bên ngoài, không liên quan đến ý chí hay mong muốn của người nói đối với việc thực hiện hành động (Palmer 2001, tr 76 – tr 96). Ở Việt Nam các nhà ngôn ngữ học như Hoàng Phê (1989), Cao Xuân Hạo (1991), Hồ Lê (1992), Lê Đông (1996), Nguyễn Đức Dân(1998), Diệp Quang Ban(2000), Hoàng Tuệ (2001), Phạm Hùng Việt(2003), Bùi Mạnh Hùng (2003), Nguyễn Văn Hiệp (2001, 2004, 2007, 2015)...trực tiếp quan tâm đến vấn đề tình thái với những nghiên cứu rất chi tiết và có nhiều kiến giải sâu sắc vấn đề tình thái trên nhiều phương diện khác nhau. Trong đó Cao Xuân Hạo (1999) đã phân biệt hai loại tình thái: Tình thái của hành động phát ngôn và tình thái của lời phát ngôn. Theo ông việc “phân biệt các lời nói về phương diện mục tiêu và tác dụng trong giao tế” thuộc tình thái của hành động phát ngôn, còn tình thái của lời phát ngôn là tình thái “có liên quan đến thái độ của người nói đối với điều mình nói ra hoặc quan hệ sở đề và sở thuyết của mệnh đề”. Sự phân biệt giữa các kiểu câu trần thuật, câu hỏi, câu 11
  18. mệnh lệnh theo tiêu chí ngữ pháp và sự phân biệt các hành động ngôn từ theo tiêu chí ngữ dụng thuộc lĩnh vực tình thái của hành động phát ngôn. Như vậy nội dung tình thái của lời phát ngôn bao gồm:  Những hiểu biết của chủ thể giao tiếp về chân trị của điều được nói ra trong các loại câu khẳng định, phủ nhận, ngờ vực, giới hạn của điều kiện chân trị.  Tính khả năng hay tính tất yếu của điều được nói ra ( có thể/ không thể; tất nhiên /không tất nhiên; tính khả năng/tất yếu)  Sự đánh giá của chủ thể giao tiếp với thông tin truyền đạt ( buồn, vui, nên có hay không nên có, đáng mừng hay đáng tiếc)  Sự chính xác, đơn giản, mức độ thành thật của thông tin mà người nói nói ra  Sự liên hệ giữa câu, phát ngôn với cảnh huống và các vấn đề khác thuộc những vấn đề logic hay siêu ngôn ngữ. (Cao Xuân Hạo 1991, tr 42- tr 50) Cao Xuân Hạo còn đề cập đến loại tình thái của câu và tình thái của cấu trúc vị ngữ hạt nhân. Nghiên cứu về thái độ của người nói về điều mà mình nói ra, cách đánh giá nhận định của người nói về tính hiện thực, tính không hiện thực, giới hạn của nó và tính xác thực, tính tất yếu , điều mong muốn của thông tin truyền tải chính là nghiên cứu về tình thái của câu. Nguyễn Văn Hiệp với bài viết “Một số phạm trù tình thái chủ yếu trong ngôn ngữ”-Tạp chí Ngôn ngữ số 8-2007 đã cho thấy nghiên cứu sâu về tình thái. Ông đã nêu ra những phạm trù tình thái chủ yếu trong ngôn ngữ dựa trên sự đối lập của các cặp nghĩa tình thái như sự đối lập giữa tình thái nhận thức (epistemic modality) và tình thái đạo nghĩa (deontic modality), sự đối lập giữa tình thái nhận thức (epistemic modality) và tình thái căn bản (root modality), đối lập giữa tình thái hướng tác thể (agent- oriented modality) và tình thái hướng người nói ( speaker- oriented modality), đối lập giữa tình thái của mục đích phát ngôn và tình thái của lời phát ngôn. Những đối lập về tình thái mà ông nêu ra cho thấy phạm vi rất rộng trong việc nghiên cứu về tình thái. 12
  19. Bàn về các phương tiện biểu hiện tình thái trong tiếng Anh Trong tiếng Anh, O. Jespersen (1949) , M.A.K Halliday (1994), Eggins (1994), Martin và các cộng sự (1997), đều cho rằng có nhiều cách thể hiện nghĩa tình thái khác nhau như thể hiện bằng: + Phương tiện như thức trần thuật- xác định sự chân thực của điều được nói ra ( indicative mood ); thức mệnh lệnh- xác định mong muốn của người nói về việc người nghe thực hiện hành động trong tương lai(imperative mood); thức giả định- giả định và mong muốn điều gì đó được đề cập đến trong nội dung mệnh đề sẽ xảy ra ở tương lai trong một điều kiện cụ thể nào đó ( subjunctive mood); như thì (tenses)- hiện tại ( present), quá khứ (past), tương lai ( future); thể (aspects)- hoàn thành (ferfect) hay tiếp diễn (continuous) của động từ làm vị ngữ + Phương tiện như động từ tình thái (modal verbs) như must để diễn đạt sự bắt/ ép buộc mạnh và sự suy luận chắc chắn/ tự tin; should diễn đạt điều răn đe, khuyên bảo, giả thuyết; ought to: nên, tốt hơn thì, đáng lẽ; can: có thể, có lẽ, có khả năng, có năng lực, cho phép; may: có thể, có lẽ, cho phép, giả thuyết; could: có thể, có năng lực, giả thuyết; would: phỏng đoán, đoán, giả thuyết; will: sẽ, ý chí, quyết tâm, lời hứa, dự đoán; need: cần, cần thiết, nhu cầu; shall: sẽ, sắp sửa, chuẩn bị, dự đoán ; tính từ tình thái (modal adjectives) như possible (có lẽ/ có thể), probable (có lẽ), necessary (cần thiết/ thiết yếu), likely (chắc/ có thể/ có lẽ đúng), certain (chắc), obvious (rõ ràng), true (đúng), evident (hiển nhiên/ rõ rệt); trạng từ tình thái ( modal adverds) như perhaps (có thể/ có lẽ); maybe (có thể/ có lẽ); probably (có lẽ); possibly (có thể); certainly (chắc chắn), obviously (rõ ràng)là những loại diễn đạt chính. Ngoài ra còn có các danh từ tình thái (modal nouns) như possibility (có thể/ có lẽ), probability (có thể/ có lẽ), chance (cơ hội), rumour (lời đồn) 13
  20. + Phương tiện như ngữ điệu (tone) - ngữ điệu lên (glide up) ngữ điệu xuống (glide down), ngữ điệu lên xuống (the dive); trọng âm (stress syllable). Bàn về các phương tiện biểu hiện tình thái trong tiếng Việt, Phan Mạnh Hùng (1985) trong bài viết “Các kiểu tổ hợp tiểu từ tình thái tiếng Việt và ranh giới từ” đã có những nhìn nhận sâu sắc hơn về tiểu từ tình thái tiếng Việt trong nghiên cứu từ loại, vị trí các tiểu từ trong hệ thống từ loại, khả năng các tiểu từ kết hợp với nhau... Hoàng Tuệ (1988) với hai bài viết: “Nhận xét về thời, thể và tình thái trong tiếng Việt” và “Về khái niệm tình thái” in trong “Hoàng Tuệ tuyển tập Ngôn ngữ học” (2001) cho ta thấy một cái nhìn khái quát về vấn đề tình thái trong tương quan đối chiếu với khái niệm thời, thể và tình thái trong ngôn ngữ Châu Âu và sự thể hiện ý nghĩa tình thái trong tiếng Việt. Bên cạnh phương tiện ngữ pháp, phương tiện từ vựng cũng được nghiên cứu một cách chuyên sâu. Ông cho rằng các phương tiện biểu thị tình thái gồm những loại chính là: (1) Những phương tiện ngữ pháp được gắn với vị ngữ, (2) Những phương tiện từ vựng được dùng không gắn với vị ngữ mà ở ngoài cấu trúc của vị ngữ, (3) Kiểu câu thường được coi là câu ghép nhưng thành phần chính ở kiểu câu này biểu thị tình thái còn thành phần phụ biểu thị nội dung cốt lõi của câu. Hồ Lê (1992), trong “Cú pháp tiếng Việt” đã bàn về phương tiện ngữ pháp diễn đạt ý nghĩa tình thái trong tiếng Việt .Việc đảo trật tự từ, thay đổi cấu trúc của câu có thể thể hiện ý định của người nói nhằm tập trung vào điểm nhấn nào đó trong phát ngôn. Nguyễn Thị Lương (1996) nghiên cứu về “Tiểu từ tình thái dứt câu dùng để hỏi với việc biểu thị các hành vi ngôn ngữ trong tiếng Việt” gồm mười tiểu từ tình thái: à, ư, hả, sao, phỏng, chắc, chăng, chứ, nhỉ nhé nhằm 14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
13=>1