BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI
NGUYỄN VĂN TUYÊN
XƢNG HÔ TRONG VĂN BẢN
HÀNH CHÍNH TIẾNG VIỆT
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC
HÀ NỘI - 2020
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI
NGUYỄN VĂN TUYÊN
XƢNG HÔ TRONG VĂN BẢN
HÀNH CHÍNH TIẾNG VIỆT
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 9.22.90.20
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS.TS. Bùi Minh Toán
HÀ NỘI - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các vấn đề
được trình bày trong luận án là trung thực, chưa từng được công bố trong bất cứ
công trình nào khác.
Tác giả luận án
Nguyễn Văn Tuyên
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ................................................................................................. 1
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...................................................................... 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ..................................................................... 3
4. Phương pháp và thủ pháp nghiên cứu ................................................................ 3
5. Đóng góp mới của luận án ................................................................................. 4
6. Kết cấu của luận án ............................................................................................ 4
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ
LÍ LUẬN ............................................................................................................... 6
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu.................................................................. 6
1.1.1. Tình hình nghiên cứu về từ ngữ xưng hô .............................................. 6
1.1.2. Tình hình nghiên cứu về văn bản hành chính tiếng Việt ....................... 9
1.2. Cơ sở lí luận ................................................................................................. 11
1.2.1. Xưng hô trong giao tiếp ngôn ngữ ....................................................... 11
1.2.2. Khái quát về văn bản hành chính tiếng Việt ........................................ 26
1.3. Tiểu kết chƣơng 1 ........................................................................................ 38
Chƣơng 2: XƢNG TRONG VĂN BẢN HÀNH CHÍNH TIẾNG VIỆT ........ 40
2.1. Khái niệm xƣng trong văn bản hành chính .............................................. 40
2.2. Các biểu thức ngôn ngữ để xƣng trong văn bản hành chính .................. 41
2.2.1. Đại từ nhân xưng ................................................................................. 42
2.2.2. Danh từ chỉ chức vụ ............................................................................. 43
2.2.3. Tên riêng .............................................................................................. 44
2.2.4. Biểu thức định danh cơ quan, đơn vị, tổ chức ..................................... 44
2.2.5. Biểu thức phối hợp từ chỉ chức vụ với tên riêng ................................. 46
2.2.6. Biểu thức phối hợp tên riêng với từ chỉ chức vụ và tên cơ quan, đơn vị,
tổ chức .................................................................................................................. 48
2.2.7. Biểu thức phối hợp học hàm, học vị kết hợp với tên riêng, chức vụ và
tên cơ quan, đơn vị, tổ chức ................................................................................. 49
2.2.8. Biểu thức phối hợp từ chỉ chức vụ với tên cơ quan, đơn vị, tổ chức ... 49
2.3.Vị trí của biểu thức ngôn ngữ để xƣng trong văn bản hành chính ......... 56
2.3.1. Vị trí đầu văn bản ................................................................................. 56
2.3.2. Vị trí kết thúc văn bản.......................................................................... 58
2.3.3. Vị trí giữa văn bản ............................................................................... 60
2.4. Xƣng trong mối quan hệ với vị thế giao tiếp ............................................. 61
2.4.1. Vị thế ngang bằng ................................................................................ 61
2.4.2. Vị thế của vai trên đối với vai dưới ..................................................... 68
2.4.3. Vị thế của vai dưới đối với vai trên ..................................................... 77
2.5. Tiểu kết chƣơng 2 ........................................................................................ 82
Chƣơng 3: HÔ TRONG VĂN BẢN HÀNH CHÍNH TIẾNG VIỆT VÀ MỘT
SỐ VẤN ĐỀ TRONG QUAN HỆ GIỮA XƢNG VÀ HÔ Ở VBHC TIẾNG
VIỆT .................................................................................................................... 85
3.1. Hô trong văn bản hành chính tiếng Việt ................................................... 85
3.1.1. Khái niệm hô trong văn bản hành chính .............................................. 85
3.1.2. Các biểu thức ngôn ngữ để hô trong văn bản hành chính ................... 88
3.1.3. Vị trí của biểu thức ngôn ngữ để hô trong văn bản hành chính ........ 109
3.1.4. Hô trong mối quan hệ với vị thế giao tiếp ......................................... 112
3.2. Một số vấn đề trong quan hệ giữa xƣng và hô ở văn bản hành chính
tiếng Việt ........................................................................................................... 134
3.2.1. Tương thích giữa xƣng và hô trong văn bản hành chính tiếng Việt ........... 134
3.2.2. Lịch sự trong xưng hô ở văn bản hành chính tiếng Việt ................... 137
3.3. Tiểu kết chƣơng 3 ...................................................................................... 144
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 146
CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN
LUẬN ÁN .......................................................................................................... 151
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 152
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Biểu thức hô BTH
Biểu thức ngôn ngữ BTNN
Biểu thức xưng BTX
Hội đồng nhân dân HĐND
Từ xưng hô TXH
Ủy ban nhân dân UBND
Văn bản cá biệt VBCB
Văn bản hành chính VBHC
Văn bản hành chính thông thường VBHCTT
Văn bản quy phạm pháp luật VBQPPL
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1. Thống kê các loại VBHC tiếng Việt dƣới góc độ xƣng hô........................ 37
Bảng 2.1. Thống kê các loại VBHC tiếng Việt có cả BTX và BTH đƣợc khảo sát ... 41
Bảng 2.2. Thống kê các BTNN để xƣng trong VBHC tiếng Việt............................... 52
Bảng 2.3. Thống kê các BTNN để xƣng trong 1375 lƣợt xƣng ở 543 VBHC tiếng
Việt các loại đƣợc khảo sát...................................................................... 52
Bảng 2.4. So sánh sự giống và khác nhau trong dùng các BTNN để xƣng ở các loại
VBHC tiếng Việt ...................................................................................... 56
Bảng 2.5. Thống kê các BTNN để xƣng với vị thế ngang bằng của cá nhân trong
giao tiếp bằng VBHC tiếng Việt .............................................................. 64
Bảng 2.6. Thống kê các BTNN để xƣng với vị thế ngang bằng của cơ quan, đơn vị,
tổ chức trong giao tiếp bằng VBHC tiếng Việt ........................................ 67
Bảng 2.7. Thống kê các BTNN để xƣng với vai dƣới của cá nhân trong giao tiếp
bằng VBHC tiếng Việt ............................................................................. 73
Bảng 2.8. Thống kê các BTNN để xƣng với vai dƣới của cơ quan, đơn vị, tổ chức
trong giao tiếp bằng VBHC tiếng Việt ..................................................... 76
Bảng 2.9. Thống kê các BTNN để xƣng với vai trên của cá nhân trong giao tiếp
bằng VBHC tiếng Việt ............................................................................. 79
Bảng 2.10. Thống kê các BTNN để xƣng với vai trên của cơ quan, đơn vị, tổ chức
trong giao tiếp bằng VBHC tiếng Việt ..................................................... 81
Bảng 3.1. Thống kê các BTNN để hô trong VBHC tiếng Việt ................................ 103
Bảng 3.2. Thống kê các BTNN để hô trong 1347 lƣợt hô ở 543 VBHC tiếng Việt các
loại đƣợc khảo sát .................................................................................. 104
Bảng 3.3. So sánh sự giống và khác nhau trong dùng các BTNN để hô ở các loại
VBHC tiếng Việt .................................................................................... 108
Bảng 3.4. Thống kê các BTNN để hô vị thế ngang bằng của cá nhân trong giao tiếp
bằng VBHC tiếng Việt ........................................................................... 115
Trang
Bảng 3.5. Thống kê các BTNN để hô vị thế ngang bằng của cơ quan, đơn vị, tổ chức
trong giao tiếp bằng VBHC tiếng Việt ................................................... 118
Bảng 3 6 Thống kê các BTNN để hô vai dƣới của cá nhân trong giao tiếp bằng
VBHC tiếng Việt .................................................................................... 124
Bảng 3 7 Thống kê các BTNN để hô vai dƣới của cơ quan, đơn vị, tổ chức trong
giao tiếp bằng VBHC tiếng Việt ............................................................ 127
Bảng 3.8. Thống kê các BTNN để hô vai trên của cá nhân trong giao tiếp bằng
VBHC tiếng Việt .................................................................................... 131
Bảng 3.9. Thống kê các BTNN để hô vai trên của cơ quan, đơn vị, tổ chức trong
giao tiếp bằng VBHC tiếng Việt ............................................................ 133
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong khoảng vài thập niên gần đây, cùng với sự phát triển của ngôn ngữ
học thế giới, Việt ngữ học cũng đã chú trọng nghiên cứu ngôn ngữ theo chức
năng giao tiếp. Có thể nói, chỉ khi trả ngôn ngữ về với thực tiễn mới thấy hết
được những đặc trưng và sự sống động như nó vốn có. Và chính qua hoạt động
giao tiếp, gắn với ngữ cảnh cụ thể, ngôn ngữ lại càng độc đáo hơn.
1.1. Xưng hô là vấn đề quan trọng bậc nhất trong giao tiếp. Chỉ khi các
nhân vật giao tiếp định vị được khung giao tiếp thì cuộc giao tiếp mới được bắt
đầu. Xưng hô giúp con người định vị khung giao tiếp đó. Xưng hô trong tiếng
Việt không chỉ là nhân tố quan trọng để hình thành diễn ngôn, quyết định đến
việc lựa chọn ngôn ngữ mà còn biểu thị văn hóa dân tộc. Trên thế giới, vấn đề
xưng hô đã được nhiều nhà ngôn ngữ học quan tâm nghiên cứu và có những kết
quả giá trị cho lĩnh vực của chuyên ngành. Nếu chức năng cơ bản của lời nói thể
hiện đặc trưng xã hội của người nói thì xưng hô thể hiện mối quan hệ liên cá
nhân, vị thế xã hội, văn hóa của người phát ngôn. Muốn có một cuộc giao tiếp
diễn ra thành công, người tham gia giao tiếp không thể không quan tâm đến mối
quan hệ giữa bản thân với các thành viên tham gia giao tiếp. Xưng hô liên quan
trực tiếp đến nhân vật giao tiếp và hoàn cảnh giao tiếp. Đặc điểm giao tiếp của
người Việt đều chịu sự chi phối của những quan niệm văn hóa truyền thống về lễ
giáo, về tính tôn ti, trật tự... Do đó, việc nghiên cứu xưng hô nói chung và xưng
hô trong V HC nói riêng s góp phần đóng góp cho sự phát triển của ngành
nghiên cứu ngôn ngữ học xã hội.
1.2. Trong hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ, văn bản hành chính (từ đây
viết tắt là VBHC) là loại văn bản được dùng phổ biến trong đời sống xã hội. Đây
là loại văn bản đóng vai trò quan trọng và ảnh hưởng rất lớn đến đời sống xã hội.
So với các văn bản thuộc các phong cách chức năng khác, V HC là loại văn bản
có những đặc trưng rất khác biệt về chức năng cũng như hành chức. Một trong
những điểm khác biệt với văn bản thuộc các phong cách ngôn ngữ khác là trong
2
VBHC không thể không có hoạt động xưng hô và biểu thức xưng hô, nhất là
xƣng. Vì có những đặc thù riêng về chức năng và tổ chức văn bản, nên VBHC
chịu sự chế định của pháp luật và được trình bày theo một quy phạm riêng biệt,
nghiêm ngặt. Khi nhắc đến V HC, người ta thường nghĩ ngay đến sự khuôn mẫu,
sự chuẩn mực và nghĩ rằng ở loại văn bản này không có vấn đề gì để bàn luận và
nghiên cứu. Tuy nhiên, trên thực tế, loại hình văn bản này đã được không ít nhà
khoa học xem xét, nghiên cứu ở nhiều góc độ và nhiều phương diện khác nhau.
Nhưng cho đến nay, vẫn chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách chuyên
sâu và hệ thống về vấn đề xưng hô trong V HC tiếng Việt.
Với những lí do trên, chúng tôi lựa chọn vấn đề Xƣng hô trong văn bản
hành chính tiếng Việt làm đề tài nghiên cứu trong luận án của mình. Việc
nghiên cứu vấn đề xưng hô trong V HC không chỉ giúp chúng ta hiểu hơn mà
còn góp phần hướng đến chuẩn hóa loại hình văn bản đặc thù này. Lựa chọn đề
tài này, chúng tôi mong muốn góp phần làm sáng tỏ lí thuyết giao tiếp, nhất là lí
thuyết về xưng hô, đồng thời góp phần vào việc hoàn thiện, chuẩn hóa quy trình
soạn thảo VBHC tiếng Việt.
2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là vấn đề xưng hô trong V HC tiếng Việt.
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Để áp dụng những cơ sở lí luận vào việc nghiên cứu xưng hô trong V HC,
luận án tiến hành khảo sát 543 VBHC của các cơ quan Nhà nước, của tổ chức
kinh tế và của công dân (đơn từ) từ năm 2009 đến hết năm 2019. Nguồn để
chúng tôi thu thập những văn bản này là qua sưu tầm trong các cơ quan, ban
ngành của Nhà nước và qua trang thuvienphapluat.vn.
Các thể loại VBHC được khảo sát bao gồm: VBQPPL (nghị quyết, nghị
định, thông tư, quyết định); VBCB: nghị quyết (cá biệt), quyết định (cá biệt), chỉ
thị (cá biệt); VBHCTT: chỉ thị, quy chế, quy định, thông báo, hướng dẫn, kế
hoạch, báo cáo, tờ trình, công văn, công điện, bản cam kết, bản đề nghị, bản
3
tường trình, văn bản hợp đồng, giấy ủy quyền, giấy nghỉ phép, giấy đi đường,
giấy biên nhận, phiếu gửi, phiếu chuyển, thư công,... Tất cả những V HC được
khảo sát trong luận án đều có cả BTX và BTH.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận án là nghiên cứu một cách toàn diện và hệ thống về
xưng hô trong V HC tiếng Việt để làm sáng tỏ một phần xưng hô của VBHC và
giao tiếp trong lĩnh vực hành chính. Từ đó góp phần xây dựng khuôn mẫu của
V HC để chuẩn hóa VBHC tiếng Việt.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thực hiện luận án này, chúng tôi hướng tới những nhiệm vụ nghiên cứu cụ
thể như sau:
- Tìm hiểu và hệ thống hóa những vấn đề lí luận cần thiết về xưng hô trong
giao tiếp ngôn ngữ: khái niệm xưng hô, phương tiện dùng để xưng hô, chức năng
của xưng hô, các nhân tố chi phối đến xưng hô trong giao tiếp.
- Tìm hiểu và hệ thống hóa những vấn đề lí luận cơ bản về VBHC: khái
niệm, chức năng, đặc điểm của VBHC và phân loại VBHC tiếng Việt.
- Khảo sát và phân loại các BTNN và cách thức xưng, hô trong V HC
tiếng Việt.
- Phân tích, miêu tả các biểu thức xưng hô, cách xưng hô trong VBHC tiếng Việt.
- Phân tích và đánh giá về tính tương thích, lịch sự trong xưng hô của
VBHC tiếng Việt.
4. Phƣơng pháp và thủ pháp nghiên cứu
Thực hiện luận án này, chúng tôi sử dụng một số phương pháp và thủ pháp
nghiên cứu chính như sau:
4.1. Phƣơng pháp miêu tả để phác họa tương đối đầy đủ bức tranh về
những đặc điểm trong xưng hô của VBHC tiếng Việt.
4.2. Phƣơng pháp phân tích diễn ngôn để lí giải việc sử dụng từ ngữ
xưng-hô và biểu thức xưng-hô trong VBHC; nghiên cứu những phương thức thể
4
hiện lịch sự trong xưng hô ở VBHC tiếng Việt. Trong luận án, việc xem xét từ
ngữ xưng hô luôn đặt trong mối quan hệ với các nhân tố của ngữ cảnh: vị thế của
các nhân vật xưng và hô, ngữ cảnh thể hiện qua thể loại của VBHC tiếng Việt.
4.3. Thủ pháp so sánh để tìm ra những điểm giống và khác nhau giữa xưng
hô trong VBHC tiếng Việt với xưng hô trong hoạt động giao tiếp hằng ngày và
xưng hô giữa các loại VBHC với nhau.
4.4. Thủ pháp mô hình hóa nhằm mô hình hóa những BTNN để xưng và
hô trong VBHC tiếng Việt.
4.5. Thủ pháp khảo sát, thống kê ngôn ngữ học để thống kê các BTNN
dùng để xưng và hô, tần số xuất hiện của các biểu thức này trong các loại VBHC
khác nhau.
5. Đóng góp mới của luận án
Dự kiến những đóng góp mới của luận án:
5.1. Đóng góp về lí luận
- Đề tài góp phần làm sâu sắc và phong phú lí thuyết giao tiếp ngôn ngữ,
những đặc điểm của phong cách ngôn ngữ hành chính nói chung.
- Nghiên cứu đề tài để làm sáng tỏ lí thuyết về xưng hô trong giao tiếp:
BTNN để xưng hô, cách thức xưng hô, tính quy phạm về lịch sự trong xưng hô.
5.2. Đóng góp về thực tiễn
- Những kết quả nghiên cứu của luận án có thể làm tài liệu tham khảo phục
vụ cho việc nghiên cứu tiếng Việt và dạy học tiếng Việt, nhất là ở phong cách
ngôn ngữ hành chính.
- Với những kết quả cụ thể mà luận án đạt được s góp phần chuẩn hóa về
mặt ngôn từ trong việc soạn thảo, ban hành VBHC tiếng Việt.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án
có kết cấu gồm 3 chương:
5
Chƣơng 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lí luận
Trong chương này, chúng tôi trình bày hai nội dung lớn:
Thứ nhất, điểm lại những công trình đã được nghiên cứu liên quan đến đề
tài, cụ thể là những nghiên cứu về từ ngữ xưng hô, về VBHC và về xưng hô
trong VBHC tiếng Việt.
Thứ hai, chúng tôi tập trung trình bày các vấn đề lí luận về xưng hô trong
giao tiếp như: khái niệm xưng hô, chức năng của xưng hô, các nhân tố chi phối
việc xưng hô, các phương tiện xưng hô trong giao tiếp, lịch sự trong giao tiếp
ngôn ngữ. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng tìm hiểu những vấn đề lí luận về VBHC
như: khái niệm, đặc điểm, chức năng của VBHC, các loại VBHC tiếng Việt.
Chƣơng 2: Xƣng trong văn bản hành chính tiếng Việt
Trong chương này, chúng tôi tập trung vào các vấn đề cụ thể như: khái
niệm xƣng trong VBHC, các BTNN để xưng trong V HC, vị trí của BTNN
dùng để xưng trong V HC, xƣng trong mối quan hệ với vị thế giao tiếp trong
VBHC. Những nghiên cứu ở chương này s được minh họa qua việc xử lí ngữ
liệu với các con số định lượng cụ thể.
Chƣơng 3: Hô trong văn bản hành chính tiếng Việt và một số vấn đề
trong quan hệ giữa xƣng và hô trong văn bản hành chính
Trong chương này, luận án tập trung vào việc xác định khái niệm hô
trong VBHC, các BTNN để hô trong VBHC, vị trí của các BTNN dùng để hô
trong VBHC, hô trong quan hệ với vị thế giao tiếp trong VBHC. So với xƣng
thì BTH trong VBHC có tần suất thấp hơn, nên ở chương này, luận án phối
hợp để trình bày thêm một số vấn đề trong quan hệ giữa xƣng và hô trong
V HC như: tương thích và lịch sự trong xưng hô của VBHC. Chương 3 của
luận án cũng được minh họa bằng các số liệu thống kê cụ thể qua việc khảo
sát và phân tích ngữ liệu.
6
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Tình hình nghiên cứu về từ ngữ xƣng hô
1.1.1.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Theo tìm hiểu của chúng tôi, khi nghiên cứu về từ ngữ xưng hô các nhà
nghiên cứu về ngôn ngữ trên thế giới đã theo các hướng nghiên cứu sau:
Trước hết là nghiên cứu theo hướng ngôn ngữ - văn hóa và ngôn ngữ- nhân
chủng học, với những nhà nghiên cứu tiêu biểu như: W.Von Humboldt (“Về sự
khác biệt của thiết chế ngôn ngữ loài người” [128]), Friedrich Engels (“Nguồn
gốc của gia đình, sở hữu tư nhân và nhà nước” [dẫn theo 67]).
Trong công trình nghiên cứu về các mối quan hệ trong gia đình, thân tộc và
ngoài xã hội các tác giả đã bước đầu đề cập đến các đại từ nhân xưng và những từ
ngữ được dùng để xưng hô trong các mối quan hệ thân tộc như: Grandmother,
grandfather, uncle, father, mother, sister, brother... Đáng chú ý, các tác giả đã cho
rằng các từ thân tộc không mang tính chất về quan hệ sinh học, đặc biệt là huyết
thống, mà đây là những từ mang tính xã hội. Do đó, mỗi cá nhân không được xếp
vào các phạm trù thân thích nào đó theo quan hệ huyết thống của chúng. Vì chúng
là các thành viên trong những nhóm xã hội nhất định, được quy định bởi hôn nhân.
Tuy nhiên, có thể thấy, những nghiên cứu trên cũng chỉ mới là bước đầu.
Kế tiếp là phải kể đến các quan điểm của các nhà nghiên cứu về ngôn ngữ
học cấu trúc như: M. .Emeneau (1951), L.C Thompson (1965)... M.B.Emeneau,
trong công trình nổi tiếng Studies in Vietnamese Grammar [dẫn theo 68, tr. 9],
đã quan tâm nhiều về đại từ trong tiếng Việt, đặc biệt là tập trung bàn về đại từ
xưng hô và nhóm TXH lâm thời có nguồn gốc danh từ. Qua đó, ông đã nhận ra
sự hạn chế của các đại từ nhân xưng đích thực và vai trò quan trọng của các
TXH lâm thời mà ông cho là “Đại từ cương vị”.
L.C Thompson cũng đã có những nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Việt
như: A Vietnamese Grammar và A Vietnamese Reference Grammar [dẫn theo
7
68. tr. 9]. Trong các công trình nghiên cứu của mình, tác giả đã đề cập đến các
đại từ nhân xưng trong tiếng Việt như: ta, tôi, họ, hắn... cùng các danh từ thân
tộc. Đối với danh từ thân tộc, ông nhận thấy giữa danh từ chung và danh từ
riêng có hai mặt đối lập là thay đổi và không thay đổi, đồng nhất và không
đồng nhất. Đặc biệt, L.C Thompson nhận thấy rằng: “Số lượng các đại từ xưng
hô thực thụ là quá ít và đại từ tôi, ta với thái độ xưng hô thể hiện sự kính trọng
hay thái độ bề trên, ở ngôi thứ nhất không có đại từ tương ứng với nó ở ngôi
thứ hai (chỉ người nghe) và ngôi thứ ba (chỉ người được nói đến), do đó phải
thay bằng các từ thuộc từ loại hoặc các danh từ” [dẫn theo 68, tr. 9].
Có thể nhận thấy, với khuynh hướng cấu trúc, các tác giả M.B.Emeneau và
L.C.Thompson đã chỉ ra được các “chất liệu”, các “phương tiện vật chất” cơ bản
được dùng để thực hiện hành vi xưng hô trong tiếng Việt, đó là các “đại từ nhân
xưng” (personal pronouns), đồng thời đã phân chia đại từ nhân xưng thành hai
nhóm: đại từ xưng hô chuyên dụng và đại từ xưng hô lâm thời để nghiên cứu.
Gần với đề tài luận án là hướng nghiên cứu theo quan điểm ngôn ngữ học
chức năng của tác giả Lương Văn Hy (1990) với công trình nghiên cứu về Thực
dụng diễn từ và ý nghĩa ngữ học - hệ thống quy chiếu về ngƣời trong tiếng Việt
[123] đã đề xuất hướng nghiên cứu từ xưng hô - cái mà ông gọi là “hệ thống quy
chiếu về người” một cách đồng bộ trên ba bình diện ngữ pháp, ngữ nghĩa và ngữ
dụng. Đồng thời ông cũng cho rằng, hệ thống quy chiếu ngôi tiếng Việt bao gồm
ba tiểu loại ngữ pháp: đại từ nhân xưng, danh từ chung (danh từ thân tộc và danh
từ cương vị) và danh từ riêng đối lập nhau trên hai phương diện là thay đổi/
không thay đổi, đồng nhất/không đồng nhất,... Tuy tác giả đã đi sâu vào phân
tích và chỉ ra chức năng thay thế của danh từ chung và đại từ nhân xưng, nhưng
quan điểm của ông còn cứng nhắc khi xem xét về vấn đề từ loại và miêu tả các
TXH thân tộc còn sơ lược. Nhưng sự đóng góp của ông trong việc nghiên cứu
TXH tiếng Việt và hướng tiếp cận mới khi nghiên cứu về TXH là đáng ghi nhận.
Trên cơ sở quan điểm của các nhà nghiên cứu ngôn ngữ nêu trên, khi
nghiên cứu về xưng hô trong V HC tiếng Việt chúng tôi đã tham khảo về cách
8
phân chia và sử dụng về đại từ nhân xưng, danh từ thân tộc và các danh từ khác
làm phương tiện xưng hô của các nhà nghiên cứu nước ngoài để áp dụng những
vấn đề thực tiễn vào cơ sở lí luận của luận án.
1.1.1.2. Tình hình nghiên cứu ở trong nƣớc
Ở Việt Nam, từ ngữ xưng hô trong tiếng Việt đã được các nhà Việt ngữ học
quan tâm nghiên cứu. Các công trình ngữ pháp tiếng Việt nghiên cứu về đại từ
thường phân xuất thành lớp đại từ xưng hô. Lớp từ này trong tiếng Việt tuy
không biến đổi hình thái, nhưng qua cách dùng trong giao tiếp thường được phân
biệt theo ba ngôi và theo số : ngôi 1 (số ít) và ngôi 1 (số nhiều), ngôi 2 (số ít) và
ngôi 2 (số nhiều), ngôi 3 (số ít) và ngôi 3 (số nhiều). Ngoài các đại từ xưng hô,
tiếng Việt còn dùng danh từ thân tộc, tên riêng, từ chỉ nghề nghiệp, chức vụ...để
xưng hô. Các tác giả Nguyễn Văn Chiến trong Lớp TXH tiếng Việt trong lí
thuyết và thực tế đối với các ngôn ngữ khác loại hình [16] hay Nguyễn Phú
Phong trong Đại từ nhân xƣng tiếng Việt [69] trong các nghiên cứu của mình đã
dành cho lớp TXH tiếng Việt một vị trí thích đáng.
Một số công trình nghiên cứu về đặc điểm xưng hô trong ngôn ngữ của
một dân tộc, hoặc so sánh đối chiếu xưng hô trong hai ngôn ngữ với nhau. Các
luận án tiến sĩ của Phạm Ngọc Thưởng: Các cách xƣng hô trong tiếng Nùng bảo
vệ năm 1998 tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội [91]; Phạm Ngọc Hàm: Đặc
điểm và cách sử dụng của lớp từ ngữ xƣng hô tiếng Hán trong sự so sánh với
tiếng Việt bảo vệ năm 2004 tại Viện Ngôn ngữ học [36]; Lã Thị Thanh Mai: Đặc
điểm xƣng hô của ngƣời Hàn và ngƣời Việt bảo vệ năm 2014 tại Học viện Khoa
học xã hội, thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam [61]; bài viết Mấy
nhận xét về TXH tiếng Việt và tiếng Hàn Quốc của Nguyễn Minh Thuyết và Kim
Young Soo trong sách Tƣơng đồng văn hóa Việt Nam - Hàn Quốc, Nxb Hà Nội,
1996 [89]; bài Một số đặc điểm văn hóa Nhật - Việt qua việc khảo sát hệ thống
TXH của Hoàng Anh Thi trên Tạp chí Ngôn ngữ, số 1/1995 [86]... thuộc loại
này. Những công trình này chỉ ra sự đồng nhất và khác biệt về hệ thống TXH và
đặc điểm trong cách xưng hô của các dân tộc. Những đặc điểm đó gắn liền với
các đặc điểm văn hóa dân tộc.
9
Có những công trình nghiên cứu về xưng hô và TXH trong nội bộ tiếng
Việt, nhưng quan tâm đến sự khác biệt trong xưng hô giữa các phương ngữ: luận
án tiến sĩ của Lê Thanh Kim: TXH và cách xƣng hô trong các phƣơng ngữ tiếng
Việt, bảo vệ năm 2002 tại Viện Ngôn ngữ học [56 . Công trình này cho thấy các
phương ngữ của tiếng Việt có những khác biệt về hệ thống TXH và cách xưng
hô khi giao tiếp trong gia đình, trong quan hệ vợ chồng, anh em, trong dòng họ
thân tộc và rộng ra trong xã hội.
Nhiều công trình dành cho TXH và cách xưng hô của người Việt trong các
phạm vi và lĩnh vực giao tiếp khác nhau. Sự liên thông và sự khác biệt giữa xưng
hô trong gia đình và xưng hô ngoài xã hội của người Việt đã được luận án tiến sĩ
của Bùi Minh Yến: Từ xƣng hô trong gia đình đến xƣng hô ngoài xã hội của
ngƣời Việt bảo vệ năm 2001 tại Viện Ngôn ngữ học [112] chú ý đến. Có những
lĩnh vực hẹp hơn trong giao tiếp ngôn ngữ của người Việt đã được chú ý đến về
mặt TXH như bài viết TXH có nguồn gốc danh từ thân tộc trong cộng đồng công
giáo Việt của Trương Thị Diễm [20] hoặc Xƣng và gọi trong hoạt động hành
chính ở một xã thuộc đồng bằng Bắc Bộ; tôn ti và bình đẳng [53].
Dưới góc độ của Ngôn ngữ học xã hội, tác giả Nguyễn Văn Khang đã phân
xuất 13 cách xưng hô trong giao tiếp ngôn ngữ, đồng thời chỉ ra rằng có nhiều
nhân tố tác động đến sự lựa chọn từ ngữ xưng hô, trong đó có bối cảnh cụ thể, có
nhân tố quyền lực và thân hữu [54, tr. 361-371 . Tuy nhiên, đây mới là những
nhận định về xưng hô trong giao tiếp ngôn ngữ nói chung, cần được vận dụng cụ
thể vào từng lĩnh vực giao tiếp, trong đó có giao tiếp bằng VBHC.
Những ý kiến và quan niệm về xưng hô trong giao tiếp mà các công trình
nêu trên đã trình bày là những cơ sở và gợi ý cho chúng tôi trong quá trình
triển khai đề tài.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu về văn bản hành chính tiếng Việt
1.1.2.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Theo tìm hiểu của chúng tôi, ở trên thế giới chưa có công trình nào nghiên
cứu về VBHC tiếng Việt và xưng hô trong V HC tiếng Việt.
10
1.1.2.2. Tình hình nghiên cứu ở trong nƣớc
Ở Việt Nam, theo khảo sát của chúng tôi, những nghiên cứu về VBHC có
thể tập hợp thành ba loại:
Thứ nhất là những công trình bàn về Quy cách và kĩ thuật soạn thảo VBHC.
Những công trình này xuất phát từ những đặc điểm về chức năng, về kết cấu, về
đặc điểm ngôn ngữ của V HC để đề xuất quy cách và kĩ thuật soạn thảo văn
bản, có tác dụng hướng dẫn như một cẩm nang cho người soạn thảo. Đó là các
công trình như Kĩ thuật và ngôn ngữ soạn thảo văn bản quản lí nhà nƣớc của
Bùi Khắc Việt [106]; Soạn thảo và xử lí văn bản quản lí Nhà nƣớc của Nguyễn
Văn Thâm [84]; Giáo trình Kĩ thuật xây dựng và ban hành văn bản của Học viện
Hành chính Quốc gia [41]...Những công trình này hướng đến kĩ thuật xây dựng
VBHC ở nhiều phương diện khác nhau, trong đó việc sử dụng từ ngữ xưng hô
chỉ chiếm tỉ lệ rất thấp.
Thứ hai là những công trình về Phong cách học tiếng Việt, trong đó dành
một hai chương trình bày về phong cách ngôn ngữ hành chính trong hệ thống các
phong cách chức năng ngôn ngữ. Tiêu biểu là Phong cách học tiếng Việt của
Đinh Trọng Lạc (chủ biên) [57]; Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt
của Cù Đình Tú [102]... Ở những công trình này nhiều phương diện khác nhau
trong V HC được nghiên cứu như: khái niệm, chức năng và những đặc trưng cơ
bản của V HC, đặc điểm về kết cấu, về các phương tiện từ ngữ, câu và
đoạn,...Tuy nhiên, TXH và cách xưng hô chưa được quan tâm thích đáng hoặc
không được đề cập đến.
Thứ ba là những công trình dành riêng cho nghiên cứu những vấn đề cụ
thể, chuyên sâu của VBHC. Trong đó có luận văn thạc sĩ của Đỗ Thị Thanh
Nga: Câu trong VBHC bảo vệ năm 2003 tại Đại học Sư phạm Hà Nội [62]; các
luận án tiến sĩ của Vũ Ngọc Hoa: Hành động ngôn từ cầu khiến trong VBHC
bảo vệ năm 2012 tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội [39 , của Nguyễn Thị
Hà: Khảo sát chức năng ngôn ngữ văn bản quản lí nhà nƣớc qua phƣơng pháp
phân tích diễn ngôn bảo vệ năm 2010 tại Đại học Quốc gia Hà Nội [35]... Tuy
11
thế, cho đến nay vẫn chưa có công trình nào dành riêng cho việc nghiên cứu
chuyên sâu về vấn đề xưng hô trong V HC tiếng Việt.
Có thể nhận thấy, số lượng các công trình nghiên cứu hay giảng dạy về
VBHC không phải là ít, nhưng tựu trung các công trình này tập trung vào khảo
sát một số phương diện là: chức năng, các loại văn bản, đặc trưng văn bản và đặc
điểm ngôn ngữ trong VBHC (về từ ngữ, câu văn, đoạn văn, cấu trúc văn bản...).
Vấn đề xưng hô trong V HC chưa được quan tâm đến, chưa có công trình nào
dành riêng cho từ ngữ xưng hô, cách thức xưng hô và những vấn đề liên quan
đến xưng hô trong V HC tiếng Việt.
Những vấn đề khái quát và những đặc điểm của VBHC về mặt ngôn ngữ
mà các công trình trên đã đúc rút là cơ sở cho chúng tôi đi vào tìm hiểu về xưng
hô trong VBHC tiếng Việt.
1.2. Cơ sở lí luận
1.2.1. Xƣng hô trong giao tiếp ngôn ngữ
1.2.1.1. Khái niệm xƣng hô
Trong giao tiếp, xưng hô là một phần không thể thiếu. Nó là phương
thức con người dùng từ ngữ tự thể hiện mình (xưng) và gọi người khác (hô)
khi đang nói chuyện với nhau. Theo định nghĩa của Từ điển tiếng Việt: Xưng
hô là: “Tự xưng mình và gọi người khác là gì đó khi nói với nhau để biểu thị
tính chất của mối quan hệ với nhau” [105, tr. 1163].
Trong công trình [7], Đỗ Hữu Châu quan niệm: “Phạm trù xưng hô hay phạm
trù ngôi bao gồm những phương tiện chiếu vật nhờ đó người nói tự quy chiếu, tức
tự đưa mình vào diễn ngôn (tự xưng) và đưa người giao tiếp với mình (đối xưng)
vào diễn ngôn” [7, tr. 73]. Và như vậy, phạm trù ngôi thuộc vai giao tiếp ở ngay
trong cuộc giao tiếp đang được diễn ra với vai người nói là điểm gốc. Cũng theo tác
giả, việc xác định và phân loại các ngôi trong giao tiếp là một vấn đề vẫn chưa
thống nhất trong giới nghiên cứu. Nhưng đa số các nhà nghiên cứu cho rằng, chỉ có
ngôi thứ nhất và ngôi thứ hai mới thực sự là các ngôi xưng hô.
Một số nhà nghiên cứu Hàn Quốc như Park Jeong Un, Lee Seon Ung, Lee
Mu Yong, Han Kap Su nhìn nhận: “xưng hô là hình thái ngôn ngữ gọi trực tiếp”
12
hoặc “xưng hô là lời gọi (người nào đó)” hay “xưng hô phản ánh mối quan hệ
của người nói và người nghe” [dẫn theo 61, tr. 14].
Theo tác giả Nguyễn Văn Khang: “Xƣng hô hay xƣng gọi là thuật ngữ dùng
để chỉ sự tự gọi tên mình (xưng) và tự gọi tên người khác (hô)” [54, tr. 361].
Nguyễn Văn Chiến trong TXH trong tiếng Việt: “Xưng hô là một hành vi
được thực hiện trong giao tiếp” [15, tr. 64].
Tác giả Phạm Ngọc Thưởng trong luận án tiến sĩ Các cách xƣng hô trong
tiếng Nùng quan niệm: “Xưng hô là hành động ngôn ngữ của các nhân vật hội thoại
- người nói và người nghe. Nhân vật hội thoại sử dụng các đơn vị ngôn ngữ một
cách thường xuyên, liên tục để đưa mình vào trong lời nói (hành động xưng - ngôi
1) và đưa người đối thoại vào trong lời nói (hành động hô - ngôi 2)” [92, tr. 15].
Hầu hết các tác giả cùng thống nhất cho rằng xưng hô là một hành vi giao
tiếp, trong đó có các nhân vật hội thoại đồng thời phản ánh mối quan hệ liên
nhân giữa những người đối thoại với nhau.
Tựu trung lại, chúng tôi quan niệm: Xƣng là hành động mà người nói
dùng một BTNN để đưa mình vào trong lời nói, để người nghe biết rằng mình
đang nói và mình chịu trách nhiệm về lời nói của mình. Đó là hành động tự
quy chiếu của người nói (ngôi 1). Hô là hành động người nói dùng một BTNN
để đưa người nghe vào trong cuộc hội thoại, là tập hợp những cách thức mà
người nói dùng để chỉ người đối thoại với mình (ngôi 2). Còn xưng hô là hành
động ngôn ngữ mà người nói tự xưng mình và gọi người khác là gì đó khi họ
đang giao tiếp với nhau để biểu thị tính chất của mối quan hệ. Cần phải phân
biệt giữa xưng hô và hô gọi. Hô gọi cũng là một hành động ngôn ngữ nhưng
chức năng chính của nó là để thu hút sự chú ý của người đối diện, hoặc phát
tín hiệu cho người đối diện biết rằng người hô gọi muốn giao tiếp với anh ta.
Hô gọi thường diễn ra ít lần trong cuộc giao tiếp. Hô gọi là hành động chỉ
thuộc về người nói. Còn xưng hô là hành động diễn ra thường xuyên, liên tục
trong các diễn ngôn, trong những lượt lời của người nói – người nghe.
13
1.2.1 2 Phƣơng tiện dùng để xƣng hô trong giao tiếp
Quan hệ vai giao tiếp là cốt lõi của việc xưng hô. Nếu như việc xưng hô chỉ
đơn giản là để thể hiện vai người nói và vai người nghe thì hệ thống TXH chỉ
cần có bốn từ để biểu hiện 4 yếu tố:
Ngôi thứ nhất Ngôi thứ hai
Số ít Số nhiều Số ít Số nhiều
Nếu hệ thống các TXH chỉ dùng để chiếu vật các vai giao tiếp thì hệ
thống các TXH rất đơn giản và tiện dụng. Tuy nhiên, trong giao tiếp, còn có
quan hệ liên cá nhân, trong ngữ cảnh còn có ngữ vực (register) và phép lịch
sự (politeness). Những nhân tố trên đòi hỏi phải được thể hiện trong nói năng
mà trước hết là được thể hiện trong xưng hô. Và do đó, ngoài việc thể hiện vai
giao tiếp, các TXH còn phải thể hiện được vị thế giao tiếp, vị thế xã hội, thể
hiện các mức độ thân cận khác nhau, đảm bảo sự lịch sự của người nói đối với
người nghe và phải phù hợp với ngữ vực của cuộc giao tiếp.
Theo tác giả Đỗ Hữu Châu: “Trước hết, để xưng hô, tất cả các ngôn ngữ
đều có hệ thống các đại từ xưng hô. Đại từ xưng hô trong tiếng Việt (ngôi thứ
nhất và ngôi thứ hai) là: tôi, tớ, tao, mình, mày, bay, chúng tôi, chúng mày,
chúng ta, chúng mình, bọn mình” [7, tr. 76]
Cũng theo tác giả Đỗ Hữu Châu: “Tùy theo ngữ cảnh mà tiếng Việt còn
dùng các phương tiện sau để xưng hô:
- Tên riêng
- Các danh từ thân tộc
- Các từ chỉ chức nghiệp, học hàm, học vị như: bác sĩ, giáo sư, chủ tịch,
giám đốc, thủ tướng, thầy v.v… cụ bá, ông lí, ông cựu, ông bát…
- Những từ chuyên dùng để xưng hô như: ngài, trẫm, lão, thần, khanh, ngu đệ,
hiền đệ, ngu huynh, hiền huynh, bỉ nhân, tại hạ, các hạ, túc hạ, tiên sinh v.v…
- Một số tổ hợp dân dã nay đã cũ như: anh cò, anh hĩm, chị đỏ…” [7, tr. 76 -77].
14
Theo quan niệm của tác giả Đỗ Hữu Châu, các phương tiện ngôn ngữ
dùng để xưng hô trong giao tiếp rất phong phú và đa dạng. Tùy theo ngữ cảnh
khác nhau mà người việt có cách xưng hô khác nhau.
Theo tác giả Nguyễn Văn Khang [54], các TXH và cách xưng hô trong
ngôn ngữ của mỗi dân tộc là khác nhau. Bởi l , TXH không chỉ biểu thị vai
người nói và vai người nghe một cách đơn thuần mà còn phản ánh đặc điểm tư
duy, văn hóa, phong tục, truyền thống riêng của dân tộc đó. Tác giả cũng đưa ra
13 kiểu xưng hô thường gặp trong giao tiếp như sau:
A. Xƣng hô bằng họ và tên, gồm:
- (1) Xƣng hô bằng tên;
- (2) Xƣng hô bằng họ;
- (3) Xƣng hô bằng họ + tên;
- (4) Xƣng hô bằng tên đệm + tên;
- (5) Xƣng hô bằng họ + tên đệm + tên.
B. Xƣng hô bằng tất cả các từ dùng để xƣng hô, gồm:
- (6) Các đại từ nhân xƣng;
- (7) Các từ thân tộc dùng làm TXH;
- (8) Các từ khác đƣợc dùng làm TXH.
C. Xƣng hô bằng các chức danh, gồm:
- (9) Gọi bằng một trong các chức danh;
- (10) Gọi bằng nhiều hoặc tất cả các chức danh.
D. Xƣng hô bằng tên của ngƣời thân thuộc nhƣ tên của chồng, vợ, con
(cách gọi thay vai):
- (11) Gọi bằng tên của ngƣời thân thuộc (chồng, vợ, con).
E. Xƣng hô bằng sự kết hợp (1) (2) (3) (4), gồm:
- (12) Gọi bằng các kết hợp khác nhau (ví dụ: chức danh + tên, chức danh
+ họ tên, từ xƣng hô + họ + tên/tên).
15
F. Xƣng hô bằng sự khuyết vắng TXH, gồm:
- (13) Không xuất hiện các TXH trong giao tiếp (khuyết vắng TXH) [54, tr. 362].
Trong quan niệm của tác giả Nguyễn Văn Khang, cách xưng hô (9), (12)
thường dùng trong giao tiếp hành chính, (10) được dùng trong giao tiếp hành
chính đặc biệt trọng thể. V HC thường mang tính quy phạm, ngôn từ sử dụng
cũng phải trong sáng, trang trọng.
Theo tác giả Trần Kim Phượng: “Các TXH trong tiếng Việt gồm 2 nhóm cơ
bản: 1. Đại từ nhân xưng chính danh và 2. Đại từ nhân xưng lâm thời. Ở cả hai
hệ thống này, các đại từ nhân xưng khi được sử dụng trong những hoàn cảnh
nhất định đều có thể bộc lộ thái độ, tình cảm của người nói đối với người nghe
hoặc đối tượng được nói tới” [73, tr. 689].
Từ quan niệm của các tác giả về phương tiện dùng để xưng hô trong giao
tiếp, chúng tôi cho rằng trong giao tiếp dùng các phương tiện sau để xưng hô:
- Đại từ xưng hô
- Danh từ chỉ người dùng để xưng hô
- Danh từ chỉ chức nghiệp dùng để xưng hô
- Họ và tên riêng của người dùng để xưng hô
Đối với VBHC, phương tiện dùng để xưng hô tuy không phong phú đa
dạng như trong giao tiếp hằng ngày nhưng luôn đảm bảo tính chính xác, chuẩn
mực, trang trọng và lịch sự.
1.2.1.3. Chức năng của xƣng hô trong giao tiếp
Các chức năng của xưng hô trong giao tiếp được thể hiện ở ba phương diện:
chức năng định vị, chức năng chiếu vật và chức năng thể hiện quan hệ liên nhân.
Dưới đây chúng tôi có một số phân tích rõ hơn về ba chức năng này.
a. Chức năng định vị
Trong công trình Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng, Đỗ Hữu Châu khẳng định:
“Trong ngôn ngữ, tất cả các câu nói, bằng cách này hay cách khác đều phải có
yếu tố đóng vai trò định vị” [6, tr. 130].
16
Khái niệm định vị được J. Lyons phát biểu như sau: “Định vị được hiểu là
sự xác định và sự đẳng nhất người, quá trình, sự kiện mà người ta nói đến và quy
chúng với một ngữ cảnh không – thời gian nào đó được tạo nên và được duy trì
bởi hành động phát ngôn và bởi sự tham gia của một người nói duy nhất và ít ra
là với một người nghe ” [ 127, tr. 260].
Từ định nghĩa của J. Lyons, chúng ta nhận thấy, sự định vị trong lời nói
phải được thực hiện bởi các nhân vật hội thoại – người nói và người nghe.
Chức năng định vị của các TXH nằm trong chức năng chiếu vật, “có nghĩa là
chiếu vật thông qua việc xác định vị trí của vật được nói tới, phân biệt nó với các
vật khác theo quan hệ không gian, thời gian và các quan hệ khác”.[7, tr. 73].
Chức năng định vị của xưng hô có tác dụng tự bộc lộ vị thế của các nhân
vật giao tiếp. Đó là vị thế trên hay dưới, hoặc ngang bằng giữa các nhân vật giao
tiếp. Đồng thời biểu thị mối quan hệ tương quan giữa người nói với người nghe.
Để sử dụng TXH đúng, bản thân người giao tiếp cần định vị vị thế, quan hệ của
mình với đối tượng giao tiếp. Việc định vị bản thân trong quá trình giao tiếp thể
hiện ở cách sử dụng TXH. Trước một khách thể có vị thế cao hơn mình, chủ thể
giao tiếp thường dùng TXH khác với người ở vị thế thấp hơn hay ngang bằng với
mình; trước một khách thể có vị thế cao hơn mình, chủ thể giao tiếp thường hướng
tới sử dụng những TXH chuẩn mực, lịch sự và trang trọng. Như thế, trong một diễn
biến giao tiếp, hình thức ngôn ngữ biểu thị vị thế của người giao tiếp là TXH. Tất
nhiên, vị thế đó cũng chỉ là một trong những tham chiếu nhất định chứ trong nhiều
trường hợp nó chưa phải là tất cả những phương diện tạo nên vị thế cho những nhân
vật tham gia cuộc giao tiếp.
b. Chức năng chiếu vật
Ý nghĩa biểu vật và ý nghĩa biểu niệm là hai khái niệm của ngữ nghĩa học.
Trong công trình [6 , Đỗ Hữu Châu đã thực hiện sự phân biệt giữa nghĩa biểu
vật, nghĩa chiếu vật. Ông viết: “Ý nghĩa biểu vật (trong hệ thống) s được
chuyển hóa thành ý nghĩa chiếu vật (trong lời nói)” [6, tr. 149].
17
Theo G.Green: “Thuật ngữ chiếu vật (reference) được dùng để chỉ phương
tiện nhờ đó người nói phát ra một BTNN, với biểu thức này người nói nghĩ rằng
nó s giúp cho người nghe suy ra một cách đúng đắn thực thể nào, đặc tính nào,
quan hệ nào, sự kiện nào anh ta định nói đến” [dẫn theo 7, tr. 61].
Nguyễn Thiện Giáp định nghĩa: “Thuật ngữ chiếu vật (reference) được các nhà
ngôn ngữ học dùng để chỉ mối quan hệ giữa các yếu tố ngôn ngữ với các sự vật, tính
chất, hành động mà chúng thay thế. Chiếu vật là dấu hiệu đầu tiên thể hiện quan hệ
giữa hoàn cảnh giao tiếp với diễn ngôn” và cho rằng chiếu vật là một hành động
trong đó người nói hoặc người nghe, người đọc nhận diện cái gì đó.” [32, tr. 26]
Qua các ý kiến trên, ta có thể rút ra khái niệm về chiếu vật như sau: Chiếu
vật là hành vi mà ngƣời nói dùng một phƣơng tiện nào đó để giúp ngƣời nghe
nhận biết một sự vật, hiện tƣợng mà mình định nói đến.
Chức năng chiếu vật: là chức năng quy chiếu vào các nhân vật giao tiếp
(người nói tự quy chiếu về mình và quy chiếu đến người tham gia giao tiếp). Dựa
vào chức năng chiếu vật của TXH, các nhân vật hội thoại có thể lựa chọn một TXH
bất kì để tự quy chiếu và quy chiếu nhân vật đang đối thoại cùng mình.
Như vậy, chiếu vật là dấu hiệu đầu tiên thể hiện quan hệ giữa ngữ cảnh
với diễn ngôn. Chiếu vật giúp đưa sự vật, hiện tượng mà mình định nói tới
trong thực tế khách quan ngoài diễn ngôn để phản ánh chúng, để biểu đạt
chúng… Rõ ràng, trong hoạt động giao tiếp, người nghe s không hiểu đúng
được nội dung của phát ngôn nếu không xác định được các từ ngữ trong phát
ngôn quy chiếu vào sự vật nào trong hiện thực.
Muốn chiếu vật thành công chúng ta cần phải có những điều kiện sau đây:
Thứ nhất là phải tồn tại sự vật, hiện tượng, hành động, tính cách…được
quy chiếu. Không có sự tồn tại của sự vật, hiện tượng, hành động, tính chất,…
được quy chiếu thì không thể có hành vi chiếu vật.
Thứ hai là cả người nói và người nghe đều phải có niềm tin chiếu vật. Khi
chiếu vật, người nói phải tin rằng người nghe có khả năng nhận biết được sự
18
vật mà anh ta định nói tới qua biểu thức chiếu vật mà anh ta dùng. Chiếu vật có
thành công hay không, phải phụ thuộc rất nhiều vào ngữ cảnh và khả năng sử
dụng ngôn ngữ của người nói lẫn người nghe.
Sự chiếu vật trong xưng hô là hướng tới người nói và người nghe. Đây là
sự quy chiếu mang tính cụ thể và dễ dàng nhận biết. Khi bắt đầu một tiến trình
giao tiếp, chủ thể giao tiếp phải thiết lập được quan hệ với đối tượng giao tiếp.
TXH xuất hiện ngay trong phát ngôn của chủ thể, nó có giá trị lập ngôn và lập
quan hệ giao tiếp. Sự chiếu vật trong xưng hô là thích hợp s mở ra một quan
hệ tương ứng hoặc ngược lại.
c. Chức năng thể hiện quan hệ liên nhân
Theo tác giả Đỗ Hữu Châu: “Quan hệ liên cá nhân là quan hệ so sánh xét
trong tương quan xã hội, hiểu biết, tình cảm giữa các nhân vật giao tiếp với nhau”
[7, tr. 17]. Cũng theo tác giả: “Quan hệ liên cá nhân giữa các nhân vật giao tiếp có
thể xét theo hai trục, trục tung là trục vị thế xã hội còn gọi là trục quyền uy
(power), trục hoành là trục của quan hệ khoảng cách (distance), còn gọi là trục
thân cận (solidality)” [7, tr. 17]. Như vậy, trục tung do chức quyền, tuổi tác, nghề
nghiệp… mà có. Trục này cho thấy những người giao tiếp có vị thế cao - thấp
hay bình đẳng với nhau. Và khi trục này đã được xác định đúng thì bất biến
trong quá trình giao tiếp. Trục hoành có hai cực thân tình và xa lạ ở các mức độ
khác nhau. Trục này có thể thay đổi trong quá trình giao tiếp.
Giữa hai trục quyền uy và thân cận có sự tương ứng. Khoảng cách địa vị xã
hội càng lớn thì con người càng khó gần gũi nhau. Tuy nhiên, không phải bao
giờ chúng cũng đi đôi với nhau bởi có những người địa vị xã hội cách xa nhau
nhưng vẫn có thể thân mật, gần gũi với nhau được.
Quan hệ liên cá nhân chi phối đến tiến trình giao tiếp, cả nội dung và hình
thức của diễn ngôn. Trong tiếng Việt, xưng hô chịu áp lực rất mạnh từ quan hệ
liên cá nhân. Như vậy cũng có nghĩa là xưng hô biểu thị rõ nhất quan hệ liên cá
nhân. Qua xưng hô, người ta có thể biết mối quan hệ giữa các nhân vật giao tiếp
19
(gần gũi hay cách biệt, ngang bằng vị thế hay chênh lệch, thân mật hay xa lạ,…),
cũng tức là thay đổi xưng hô chính là thay đổi quan hệ liên cá nhân.
Ví dụ (1)
“Chị Dậu xám mặt, vội vàng đặt con bé xuống đất, chạy đến đỡ tay hắn:
- Cháu van ông, nhà cháu vừa mới tỉnh đƣợc một lúc, ông tha cho.
- Tha này! Tha này!
Vừa nói, hắn vừa bịch luôn vào ngực chị Dậu mấy bịch rồi lại sấn đến để
trói anh Dậu.
Hình nhƣ tức quá không thể chịu đƣợc, chị liều mạng cự lại:
- Chồng tôi đau ốm, ông không đƣợc hành hạ!
Cai lệ tát vào mặt chị một cái đánh bốp, rồi hắn cứ nhảy vào cạnh anh
Dậu. Chị Dậu nghiến hai hàm răng:
- Mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem.”
(Tắt đèn - Ngô Tất Tố)
Trong đoạn trích trên, nhân vật chị Dậu đã thay đổi TXH, từ đó làm thay
đổi cả quan hệ liên cá nhân. Ban đầu chị dùng cặp xưng hô cháu - ông thể hiện
vị thế thấp - cao. Lần thứ hai, chị đổi cách xưng hô bằng cặp tôi - ông thể hiện vị
thế ngang bằng. Cuối cùng, khi đã “tức nước vỡ bờ” thì chị dùng cặp xưng hô bà
- mày thể hiện vị thế cao - thấp. Có thể nói đây là “cú lội ngược dòng” của
“người đàn bà lực điền” đầy bản lĩnh để bảo vệ chồng mình khỏi sự hành hạ của
cường quyền khi anh chồng đang trong cơn nguy kịch.
Như vậy, có thể thấy TXH không chỉ là phương tiện để người nói đưa mình
và người nghe vào cuộc giao tiếp mà còn là “công cụ để người nói mình tự câu
thúc (bó buộc) mình và câu thúc người trong khuôn khổ một kiểu quan hệ liên cá
nhân nhất định” [7, tr. 75].
Trong VBHC, xưng hô chủ yếu thực hiện hai chức năng đầu, còn chức
năng thứ ba hạn chế hơn. Ba chức năng trên không tách bạch độc lập mà tích
20
hợp với nhau. Việc tách ra từng chức năng là để tiện lợi cho nghiên cứu mà thôi.
1.2.1.4. Các nhân tố chi phối đến xƣng hô trong giao tiếp
Như đã nói ở trên, xưng hô không đơn giản chỉ là việc đưa mình và người
đối thoại vào cuộc giao tiếp mà quan trọng là xưng hô phải thể hiện được quan
hệ liên cá nhân. Chính vì phải thể hiện được quan hệ liên cá nhân giữa các nhân
vật giao tiếp nên mới có nhiều TXH và việc dùng TXH mới trở nên phức tạp.
Để hoạt động giao tiếp diễn ra thì phải có những nhân tố nhất định, cụ thể
là nhân tố ngôn ngữ như: kí hiệu, thông điệp và nhân tố nằm ngoài ngôn ngữ
như: người phát, người nhận, thời gian, không gian,...Những nhân tố này tác
động trực tiếp đến việc sử dụng TXH. Sau đây chúng tôi s đi vào phân tích từng
nhân tố chi phối đến sự xưng hô trong giao tiếp.
1). Hoàn cảnh giao tiếp, hiểu theo nghĩa rộng là toàn bộ bối cảnh tự nhiên,
xã hội của một cộng đồng; theo nghĩa hẹp là nơi chốn, không gian, thời gian,...của
cuộc giao tiếp. Có hai loại hoàn cảnh giao tiếp: theo tính nghi thức và phi nghi
thức. “Hoàn cảnh giao tiếp có tính nghi thức được tiết chế bởi những nghi lễ, phép
tắc do tập thể, cộng đồng hay xã hội đặt ra. Những nghi lễ, phép tắc ấy điều tiết lời
nói của người tham gia giao tiếp phải được chọn lọc, gọt giũa, khuôn theo đúng
chuẩn mực. Chẳng hạn như giao tiếp trong hội họp, bất kì một cuộc họp nào dù ở
phạm vi rộng hay hẹp, ngoài xã hội hay trong gia đình đều phải tuân theo những lễ
nghi, phép tắc nhất định. Hoàn cảnh giao tiếp không có tính nghi thức không bị
phụ thuộc vào những nghi lễ, khuôn phép và nói chung người tham gia giao tiếp
có thể thoải mái, tự do dùng lời theo ý nghĩ, tình cảm, thói quen, sở thích cá nhân.
Chẳng hạn như giao tiếp trong cuộc sống sinh hoạt đời thường, chuyện trò giữa
những người trong gia đình, hàng xóm, bạn bè”. [12, tr. 17].
2). Nhân vật giao tiếp là những người tham gia vào cuộc giao tiếp, gồm
người phát ngôn và người tiếp nhận phát ngôn. Các đặc điểm của người tham gia
giao tiếp như giới tính, tuổi tác, trình độ học vấn, đặc điểm tâm lí, tín ngưỡng,...
s chi phối đến ngôn ngữ mà họ sử dụng, cách xưng hô mà họ dùng,...
21
3). Đề tài và mục đích giao tiếp, đây là vấn đề được đề cập đến trong cuộc
nói chuyện, nó s thuộc về một lĩnh vực nào đó của cuộc sống và mục đích của
cuộc giao tiếp ví dụ như trao đổi thông tin, tăng cường mối quan hệ, đấu tranh,...
“Chẳng hạn, bàn về một vấn đề thuộc lĩnh vực khoa học thì ngôn ngữ sử dụng
phải mang tính khách quan, logic thiên về lí trí; khác với khi bàn về một vấn đề
thuộc lĩnh vực văn hóa nghệ thuật, ngôn ngữ sử dụng phải giàu hình ảnh, truyền
cảm và mang tính thẩm mĩ” [12, tr. 18].
4). Cách thức giao tiếp là giao tiếp trực tiếp hay giao tiếp gián tiếp liên
quan đến việc sử dụng ngôn ngữ nói hay ngôn ngữ viết và cách thức lựa chọn
TXH cho phù hợp.
Tuy nhiên, với VBHC - một loại văn bản mang những nét đặc thù - thì việc
xưng hô lại không hoàn toàn phụ thuộc vào tất cả những nhân tố trên hoặc nếu
có phụ thuộc vào nhân tố nào đó thì lại phụ thuộc ở những mức độ khác nhau.
Từ những nhân tố trên, chúng tôi s soi chiếu vào VBHC để phân tích rõ hơn sự
ảnh hưởng hay không của chúng tới xưng hô trong VBHC. Và nếu có ảnh hưởng
thì s ảnh hưởng ở mức độ như thế nào. (Vấn đề này, chúng tôi cũng s phân tích
cụ thể qua những ngữ liệu ở chương 3 của luận án).
1.2.1.5. Lịch sự trong giao tiếp ngôn ngữ
a. Các quan điểm về lịch sự của phƣơng Tây
Nguyên tắc lịch sự là một nhân tố quan trọng tác động tới hoạt động và cả
cấu trúc ngôn ngữ. Vì nguyên tắc lịch sự có ảnh hưởng rất mạnh tới hiện thực
phát ngôn trong giao tiếp cho nên nó được nhiều nhà dụng học phương Tây quan
tâm nghiên cứu ở các góc độ khác nhau.
B.Fraser (1990) nhìn nhận phép lịch sự dưới góc độ của sự hợp tác hội
thoại, xem lịch sự như là một nhân tố quan trọng quy định việc lựa chọn các yếu
tố ngôn ngữ dùng trong giao tiếp. Để có thể giữ thể diện, tránh làm phương hại
đến thể diện của người khác, các bên tham gia giao tiếp cần dùng các công cụ
ngôn ngữ thích hợp, các biện pháp tu từ cần thiết, chẳng hạn như biết rào đón
22
(hedge), nói vòng để làm giảm mức độ gay gắt, biết dùng những tiểu từ tình thái
(modal particles) làm nhẹ bớt những từ không lịch sự, tránh đưa cái tôi của mình
lên cao, tránh tự đề cao mình. Đó là “phương sách làm dịu” mức độ phương hại
thể diện theo cách gọi của Fraser. Cụ thể là:
“- Dùng hệ thống đại từ, các TXH thích hợp tránh nói trống không.
- Dùng các từ tình thái để giảm nhẹ mức độ áp đặt.
- Dùng hành động ngôn từ gián tiếp thay cho hành động ngôn từ trực tiếp.
Chẳng hạn, dùng lối hỏi thay cho lối cầu khiến thẳng thừng, thay vì nói “Tôi nhờ
anh việc này”, nên nói: “Tôi có thể nhờ anh việc này được không” hay “Tôi nhờ
anh một việc nho nhỏ nhé”.
- Dùng phương pháp nói bóng gió, xa xôi” [120; tr. 221]
Dưới góc độ ngôn ngữ học xã hội, R.Lakoff cho rằng lịch sự là “giảm
thiểu xung đột trong giao tiếp…có hai nguyên lí tổ chức ngôn ngữ: nguyên lí
diễn đạt rõ ràng và nguyên lí lịch sự” [dẫn theo 54, tr. 405]. Vì vậy, cần thực
hiện những quy tắc sau: không áp đặt (trong lễ nghi, ngoại giao); để ngỏ sự
lựa chọn (trong giao tiếp thông thường); làm cho ngƣời đối thoại cảm thấy
thoải mái (trong trò chuyện thân mật).
Theo G.Leech, phép lịch sự được xây dựng trên hai khái niệm tổn thất
(cost) và lợi ích (benefit) gây ra cho người nói và người nghe. Cho nên mục
tiêu của nó, như một nguyên tắc, là tối thiểu hóa những lối nói bất lịch sự
(lịch sự tiêu cực), và tối đa hóa những lối nói lịch sự (lịch sự tích cực) [dẫn
theo 54, tr. 408]. Từ đó tác giả đề ra những phương châm giao tiếp trong giao
tiếp lịch sự: khéo léo, hào hiệp, tán đồng, khiêm tốn, thiện cảm. Chẳng hạn,
hãy giảm đi những lời chê bai người khác và tăng lên những lời khen ngợi
người đối thoại (phương châm tán đồng), vì có vậy mới giữ được hòa khí.
Hãy giảm đi lợi ích của mình và sẵn sàng tăng thêm phần tổn thất cho mình
(phương châm hào hiệp), có vậy mới giữ được tình thân thiện v.v…
23
Theo P. Brown và S.C. Levinson, phép lịch sự trong giao tiếp liên quan đến
thể diện (face) của người nói và người nghe. Thực ra, khái niệm “thể diện” được
hai tác giả mượn của Erving Goffman – người đầu tiên đề cập đến nó và xem xét
nó trong mối quan hệ với hoạt động giao tiếp và ứng xử ngôn ngữ. Khi đưa vào
để xây dựng nên lí thuyết lịch sự của mình, Brown và Levinson định nghĩa lại
thể diện như sau: “Thể diện là cái hình ảnh ta trước công chúng của một con
người” (A person’s self – image) [116, tr. 129].
Brown và Levinson coi thể diện như là sự thống nhất của hai loại mong
muốn: Thể diện âm tính (negative face) và thể diện dương tính (positive face) –
(còn gọi là thể diện tiêu cực và thể diện tích cực).
Thể diện âm tính được Brown và Levinson xác định là “mong muốn
được người khác tôn trọng sự riêng tư cá nhân, quyền tự chủ, tức là quyền tự
do hành động và từ chối” [dẫn theo 47, tr. 135]. Thể diện âm tính tương
đương với cái mà Goffman gọi là “lãnh địa của cái tôi” bao gồm cả lãnh địa
cơ thể, không gian, thời gian cá nhân và những tài sản vật chất, tinh thần của
cá nhân mà không bị ai đụng tới. Theo cách hiểu này thì tất cả những cái
khuyết tật cũng như sự giàu sang phú quý hay nghèo hèn hễ ai đụng chạm vào
đều làm ta khó chịu nếu không được phép của ta.
Thể diện dƣơng tính được Brown và Levinson định nghĩa là “mong
muốn hình ảnh cái tôi của mình được người khác xác nhận, bênh vực, ủng hộ”
[dẫn theo 47, tr. 137]. Thể diện âm tính và thể diện dương tính là hai mặt
không tách biệt nhau, luôn bổ sung cho nhau, chúng phát huy tác dụng theo
lối “cộng sinh” với nhau, nghĩa là một sự vi phạm thể diện âm tính cũng đồng
thời làm mất thể diện dương tính.
Điểm chung của những quan niệm trên về lịch sự là coi lịch sự chính là những
chiến lược sử dụng ngôn ngữ để tránh né sự đụng độ và bất hòa trong giao tiếp.
b. Các quan điểm lịch sự của phƣơng Đông
Mặc dù cơ động và có tính giải thích cao, các lí thuyết lịch sự của Lakoff,
Leech, Brown và Levinson vẫn bị phê phán và phản bác từ phía các nhà nghiên
24
cứu về lịch sự theo quan điểm của phương Đông. Sự phê phán tập trung chủ yếu
vào các tuyên bố của Brown và Levinson về tính phổ niệm của lịch sự là quan
niệm coi lịch sự thuần túy chỉ là chiến lược giao tiếp cá nhân. Theo một số tác
giả như Matsmuto (1988), Gu (1990), khái niệm thể diện và lịch sự của Brown
và Levinson nhấn mạnh đến mong muốn đạt được tính tự chủ và riêng tư, bắt
nguồn từ sự đánh giá cao chủ nghĩa cá nhân trong văn hóa phương Tây, không
phản ánh đúng quan niệm về thể diện và lịch sự trong các xã hội phương Đông.
Xét về mặt văn hóa, người phương Tây và người phương Đông có cách
nhìn nhận khác nhau về phạm trù cái “tôi” với tư cách là một thực thể xã hội. Nếu
văn hóa phương Tây luôn thừa nhận cái “tôi”, đề cao ý thức cá nhân thì văn hóa
phương Đông lại quan tâm đến việc giữ gìn tính cộng đồng, tương quan vị thế và
bổn phận. Chẳng hạn văn hóa ứng xử của Nhật Bản, theo Matsumoto (1988),
hướng đến tập thể hơn là cá nhân do đó thể diện âm tính không đóng vai trò quan
trọng trong ứng xử lịch sự. Quan niệm lịch sự của người Nhật có quan hệ chặt ch
với mặt xã hội của thể diện, biểu hiện ở sự thừa nhận vị thế xã hội của người đối
thoại và sự tôn trọng trật tự thứ bậc đã được quy định. Do vậy, trong giao tiếp,
người Nhật không có ý niệm về sự độc lập hoàn toàn của mình, như một cá thể có
quyền và sự tự do cá nhân, mà như một thành viên của nhóm, một phần tử của
cộng đồng, có quan hệ với các thành viên khác trong nhóm, trong cộng đồng đó.
Cái tôi như vậy, theo quan niệm của họ, là cái tôi trọng quan hệ.
Cũng với cách nhìn tương tự về lịch sự, Gu (1990) cho rằng khái niệm lịch sự
trong tiếng Trung Quốc hiện đại bắt nguồn từ khái niệm “Lễ” của Nho giáo. Khái
niệm này được hiểu là sự tuân theo các quy tắc ứng xử của xã hội, “thuộc về cấp độ
xã hội, có sự áp đặt chuẩn mực lên mọi cá nhân” [dẫn theo 47, tr. 145]. Và như thế,
bất cứ việc gì đi chệch khỏi những chuẩn mực ấy s bị xã hội lên án, chỉ trích.
Trong tiếng Trung, khái niệm lịch sự hiện đại nghĩa là “khiêm với mình và
tôn kính với người”. Điều này được phản ánh rất rõ ràng trong cách thức xưng
hô, nói năng của người Trung Quốc. Họ tự xưng mình là “bỉ nhân” (người ở
25
vùng xa không biết lễ nghi) hay “ngu huynh”, “tại hạ”, họ gọi vợ mình là
“chuyết kinh” (người nhà quê vụng về), gọi con mình là “khuyển tử” (chó con),
gọi văn mình viết là “chuyết tác” (tác phẩm thô vụng), họ gọi ý kiến suy nghĩ
của mình là “ngu ý, thiển ý”... Đến cả hoàng đế Trung Quốc cũng tự xưng mình
là “quả nhân” (người cô độc) hoặc “cô gia” (người không được ai hỏi han)...
Trong khi đó, họ lại tôn vinh người đối thoại bằng cách gọi: “tiên sinh”, “đại
ca”, “hiền muội”..., gọi ý kiến người đối thoại là: “cao ý”, “tôn ý”...
Như vậy, ứng xử lịch sự theo quan điểm của người Nhật, người Trung
Quốc không phải là hệ quả của tính toán cá nhân mà là áp lực chuẩn mực xã hội
lên hành vi cá nhân, người ta gọi đó là lịch sự chuẩn mực.
Lịch sự chuẩn mực là hành động ứng xử ngôn ngữ phù hợp với chuẩn
mực giao tiếp xã hội nhằm mục đích tôn trọng các giá trị xã hội (địa vị, quyền
lực, thứ bậc, tuổi tác, uy tín...) của người đối thoại và cũng chính là của người
nói. Do đó, trong giao tiếp lời nói, cá nhân nào vi phạm quy tắc lịch sự chuẩn
mực thường bị đánh giá tiêu cực về tư cách đạo đức, nhân cách... và điều này
đồng nghĩa với thái độ vô lễ, hỗn láo.
Trong giao tiếp, lịch sự chuẩn mực thường được gắn với các nghi thức lời
nói như: chào hỏi, mời mọc, cảm ơn, xin lỗi, chúc tụng... trong từng ngôn ngữ.
Đối với một số nền văn hóa phương Đông như Trung Quốc, Nhật Bản, Việt
Nam..., nghi thức lời nói thường đi kèm với các phương tiện giao tiếp phi ngôn
ngữ khác như: cúi chào, chắp tay, quỳ gối... mới được nhìn nhận là chuẩn mực.
Như vậy, tính áp đặt của chuẩn mực xã hội lên hành vi cá nhân đã chi phối quan
niệm lịch sự của người phương Đông, đó là quan niệm lịch sự chuẩn mực.
Chúng tôi chia sẻ quan điểm với một số nhà dụng học Việt ngữ khi cho
rằng lịch sự trong tiếng Việt thuộc hai bình diện: lịch sự chiến lược và lịch sự
chuẩn mực (lịch sự quy ước). Nguyễn Thiện Giáp cho rằng: “Trước hết, người ta
có thể coi lịch sự như một chuẩn mực xã hội. Các nhà văn hóa thuộc nhiều dân
tộc khác nhau đã quan niệm lịch sự là hành động xã hội có lễ độ hay là phép xã
giao trong phạm vi văn hóa” [ dẫn theo 39, tr. 170].
26
Vũ Thị Thanh Hương khẳng định khái niệm lịch sự trong tiếng Việt có liên
quan ít nhất với bốn khái niệm cơ bản là lễ phép, đúng mực, tế nhị và khéo léo. Lễ
phép và đúng mực là những ứng xử ngôn ngữ phù hợp với chuẩn mực giao tiếp xã
hội thể hiện sự tôn trọng về thứ bậc, địa vị, tuổi tác,... của người đối thoại, được coi
là thuộc phạm trù lịch sự lễ độ (hay chuẩn mực). Khéo léo và tế nhị là những ứng xử
ngôn ngữ giảm bớt mức áp đặt, né tránh sự xúc phạm, làm tăng sự hài lòng của
người đối thoại, nhằm mục đích nâng cao hiệu quả giao tiếp, được coi là thuộc phạm
trù lịch sự xã giao (hay chiến lược). Tác giả kết luận: “Khái niệm lịch sự trong tiếng
Việt bao hàm cả hai bình diện lịch sự: lịch sự chiến lược theo kiểu phương Tây và
lịch sự chuẩn mực theo kiểu Trung Quốc” [dẫn theo 39, tr. 170-171].
Qua quan niệm của cả tác giả phương Tây và phương Đông về phép lịch sự
trong giao tiếp, chúng tôi nhận thấy được tầm quan trọng trong nghiên cứu về
phép lịch sự. Để thấy lịch sự được hiện thực hóa như thế nào trong những tương
tác cụ thể, chúng tôi s vận dụng lí thuyết ngữ dụng học để nghiên cứu lịch sự ở
hành động xưng hô trong VBHC với mong muốn tìm hiểu lịch sự được thể hiện
như thế nào trong một lĩnh vực, phạm vi cụ thể: lĩnh vực hành chính (chương 3).
1.2.2. Khái quát về văn bản hành chính tiếng Việt
1.2.2.1. Khái niệm văn bản hành chính
VBHC được sử dụng phổ biến trong các cơ quan, đơn vị, tổ chức trong xã
hội. Có nhiều quan niệm khác nhau về VBHC. Phần lớn các tác giả đều thống
nhất về lĩnh vực sử dụng của VBHC là dùng trong hoạt động tổ chức, quản lí và
điều hành xã hội nhưng nhìn từ phương diện chủ thể ban hành văn bản thì có sự
khác nhau giữa các quan niệm.
Thứ nhất là quan điểm cho rằng chủ thể ban hành VBHC là các cơ quan
của Đảng, Nhà nước và các tổ chức, cơ quan khác. Tiêu biểu cho quan điểm này
là tác giả Vương Đình Quyền: “VBHC là công cụ được dùng để truyền đạt chủ
trương, chính sách luật pháp và các thông tin cần thiết khác của Đảng, Nhà nước
và các cơ quan, tổ chức khác...” [77, tr. 207].
27
Không nêu trực tiếp chủ thể ban hành VBHC là các cơ quan của Đảng,
Nhà nước và các tổ chức, cơ quan khác như tác giả Vương Đình Quyền nhưng
các tác giả Định Trọng Lạc, Nguyễn Thái Hòa quan niệm: “VBHC được tạo
ra bởi “khuôn” phong cách hành chính công vụ trong đó thể hiện vai của
người tham gia vào giao tiếp trong lĩnh vực hành chính - công vụ tức những
người tham gia vào guồng máy tổ chức, quản lí, điều hành tất cả các mặt của
đời sống xã hội” [57, tr. 66-67].
Thứ hai là quan điểm cho rằng: chủ thể ban hành VBHC là các cơ quan
Nhà nước, các tổ chức đoàn thể xã hội, nhân dân. Các tác giả Bùi Minh Toán, Lê
A, Đỗ Việt Hùng định nghĩa: “VBHC là loại văn bản dùng trong các hoạt động
tổ chức, quản lí, điều hành xã hội và thực hiện sự giao tiếp giữa các cơ quan Nhà
nước với nhân dân và ngược lại; giữa các cơ quan Nhà nước với nhau; giữa các
tổ chức đoàn thể xã hội với nhau và với quần chúng” [94, tr. 31].
Thứ ba là quan điểm cho rằng chủ thể VBHC là các cơ quan hành pháp
(các cơ quan thực thi pháp luật). Tiêu biểu cho quan niệm này là tác giả Đoàn
Trọng Truyến khi định nghĩa: “VBHC là hình thức thể hiện của quyết định
hành chính nhằm cụ thể hoá Hiến pháp, luật, pháp lệnh và văn bản của cơ quan
Nhà nước cấp trên hoặc áp dụng pháp luật cho các chủ thể xác định trong các
trường hợp nhất định. Nói cách khác, VBHC là các quyết định hành chính được
ban hành thành văn theo đúng trình tự, thủ tục do pháp luật quy định, mang
tính quyền lực Nhà nước” [98, tr. 216].
Tổng hợp các quan niệm về VBHC, tác giả Vũ Thị Sao Chi cho rằng: “VBHC
là loại văn bản được sử dụng trong hoạt động quản lí, tổ chức và điều hành xã hội
để truyền đạt thông tin quản lí như các quy định, quyết định, mệnh lệnh, ý kiến trao
đổi, giao dịch, cam kết, thỏa thuận về công việc...; thực hiện sự giao tiếp giữa các
cơ quan tổ chức, công dân với đối tác có liên quan trên cơ sở pháp lí” [12, tr. 27].
Từ những quan điểm trên, chúng tôi nhận thấy VBHC được hiểu theo
nghĩa rộng là loại văn bản dùng trong các hoạt động tổ chức, quản lí và điều
28
hành xã hội; thực hiện sự giao tiếp giữa các cơ quan của Nhà nƣớc, các tổ
chức chính trị, xã hội, kinh tế và các tổ chức, cơ quan khác với nhau, với công
dân và ngƣợc lại, giữa các công dân với nhau trên cơ sở pháp lí. Hiểu theo
nghĩa rộng này, VBHC bao gồm: VBQPPL, VBCB và VBHCTT. Chủ thể ban
hành VBHC là các cơ quan Nhà nước, các tổ chức chính trị, tổ chức xã hội, tổ
chức kinh tế, các tổ chức cơ quan khác và cả của công dân nói chung.
1.2.2.2. Chức năng của văn bản hành chính tiếng Việt
VBHC gắn liền với hoạt động của Nhà nước, đó vừa là phương tiện vừa là
sản phẩm của quá trình quản lí. Chính vì vậy, chức năng của VBHC về cơ bản là
chức năng thông tin, chức năng quản lí, chức năng pháp lí.
a. Chức năng thông tin
Thông tin là chức năng có tính tiêu biểu trong hoạt động giao tiếp bằng lời
và bằng văn bản. Vì thế một trong những chức năng được nhắc đến đầu tiên là
chức năng thông tin. Thông qua những VBHC mà các cơ quan, ban ngành, cá
nhân có thể nắm bắt những thông tin cần thiết và thực hiện.
Theo Vũ Thị Sao Chi, các thông tin trong VBHC thường là:
“- Thông tin về chủ trương của Đảng và Nhà nước liên quan đến mục tiêu
và phương hướng hoạt động lâu dài của cơ quan;
- Thông tin về nhiệm vụ, mục tiêu hoạt động cụ thể của từng cơ quan, tổ chức;
- Thông tin về phương thức hoạt động, quan hệ công tác giữa các đơn vị
hay cơ quan với nhau;
- Thông tin về tình hình đối tượng bị quản lí, về sự biến động của cơ quan,
về chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của cơ quan, tổ chức;
- Thông tin về các kết quả đạt được trong quản lí ” [12, tr. 30].
Vương Đình Quyền cũng cho rằng: “Các cơ quan đã sử dụng văn bản để
ghi chép và truyền đạt các loại thông tin sau đây:
- Thông tin về quy phạm pháp luật, nhằm điều tiết các mối quan hệ xã hội;
- Thông tin về tổ chức, nhân sự, chủ trương, chính sách, chương trình, kế
hoạch, biện pháp công tác;
29
- Thông tin phản ánh tình hình lên cấp trên;
- Thông tin mang tính chất thông báo, đề nghị, kiến nghị;
- Thông tin trao đổi công việc giữa các cơ quan với nhau, giữa các cơ quan
với cán bộ, viên chức hoặc với quần chúng nhân dân...” [77, tr. 54-55].
VBHC là phương tiện để lưu trữ, trao đổi, truyền đạt thông tin thuộc nhiều
lĩnh vực khác nhau trong đời sống xã hội. Chức năng này không chỉ có ý nghĩa
xã hội mà còn mang tính chính trị cao bởi vì các VBHC về cơ bản là triển khai
các chủ trương, đường lối của Đảng.
b. Chức năng quản lí
Chức năng này đã được nhiều học giả thừa nhận, có thể kể đến Vương Đình
Quyền [77], V.K. Bhatia [115], J.Holmes [121], Y. Maley [125],...Chức năng quản
lí có tính chuyên biệt trong VBHC và được biểu hiện ở hai khía cạnh sau đây:
Thứ nhất, VBHC là phương tiện truyền đạt của các quyết định quản lí. Ví
dụ: quyết định ban hành việc thực hiện phòng cháy chữa cháy, quyết định triển
khai việc bảo tồn khu di tích lịch sử,... “Việc truyền đạt các quyết định quản lí là
chức năng quan trọng của VBHC. Nếu văn bản được xây dựng, ban hành và chu
chuyển một cách khoa học thì nó có khả năng truyền đạt các quyết định quản lí
một cách nhanh chóng, chính xác và có độ tin cậy cao” [12, tr. 31].
Thứ hai, VBHC là phương tiện tổ chức, điều hành công vụ. Chức năng này
thể hiện trong nhiều mặt của đời sống xã hội. Đó là việc chỉ đạo hướng dẫn triển
khai hoạt động đến việc đề đạt ý kiến, điều động nhân sự, bổ nhiệm chức
vụ,...Tất cả những nội dung này đều được thực hiện qua văn bản và là kim chỉ
nam để thực hiện đúng chủ trương, chính sách của Đảng.
c. Chức năng pháp lí
Nhìn chung, văn bản quản lí nhà nước là phương tiện biểu hiện, lưu trữ và
truyền đạt các quy phạm Nhà nước. Còn VBHC thông thường (có thể do cá nhân
soạn thảo) cần dựa trên cơ sở pháp lí mới có hiệu lực. Chức năng pháp lí cũng là
chức năng chuyên biệt của VBHC. VBHC là phương tiện để tuyên truyền và
30
thực hiện các quy phạm pháp luật và là cơ sở để đưa ra các quyết định hay triển
khai các công việc theo chức năng, quyền hạn đã định. Mọi công tác quản lí phải
dựa trên cơ sở pháp luật đã thành văn. Ví dụ: những quyết định, chỉ thị đều có căn
cứ pháp lí nhất định, ngay cả những hợp đồng mua bán, chuyển nhượng cũng đều
dựa trên những cơ sở pháp luật, chịu sự chi phối và ràng buộc bởi pháp luật.
1.2.2.3. Đặc điểm của văn bản hành chính tiếng Việt
Gắn liền với chức năng của VBHC là những đặc điểm riêng trong diễn đạt
và giao tiếp. Bởi vì đây là loại văn bản vừa có thông tin nhưng lại chịu sự chế
định chặt ch của pháp luật. Những đặc điểm của VBHC là tính minh xác về
nhân tố giao tiếp, tính khuôn mẫu trong tổ chức văn bản, tính quy thức trong
giao tiếp, tính quan phương, tính hiệu lực.
a. Tính minh xác
Tính minh xác về các nhân tố giao tiếp như nhân vật giao tiếp, thời gian,
địa điểm, tình huống, nội dung, mục đích giao tiếp.... Trong VBHC, những yếu
tố giao tiếp luôn cụ thể, tường minh. Ví dụ: tên họ của chủ thể văn bản, đối
tượng tiếp nhận văn bản, thời gian, địa điểm hình thành văn bản,...Đây là một
đặc điểm mang tính khu biệt của VBHC.
b. Tính khuôn m u
Do VBHC có tính pháp lí nên nó thường được định hình theo một chuẩn
nhất định và có một hình thức trình bày ổn định. Phạm Tất Thắng nhận xét: “Các
VBHC thường sử dụng đến các khuôn ngôn ngữ, gọi là khuôn ngôn ngữ hành
chính. Đó là những phương tiện ngôn ngữ được dựng sẵn và sử dụng nguyên
khối để tham gia vào việc tạo lập văn bản. Như vậy, về mặt hình thức, các khuôn
ngôn ngữ hành chính có cấu trúc chặt ch như là những đơn vị có sẵn. Tùy thuộc
vào những nội dung thông báo khác nhau của VBHC mà người ta lựa chọn
những khuôn ngôn ngữ này hay khác để xây dựng văn bản.” [53, tr. 17]. Tính
khuôn mẫu trong VBHC thể hiện ở tính thống nhất kỉ cương của loại văn bản
pháp lí, thể hiện tính chân thực và hiệu lực pháp lí của VBHC và giúp cho việc
31
soạn thảo được nhanh chóng, dễ dàng, tránh thiếu sót. Tính khuôn mẫu thường
thể hiện ở mặt hình thức của VBHC. Ví dụ: thể hiện nghi thức giao tiếp có các
khuôn mẫu như: xin trân trọng cảm ơn; để thể hiện đối tượng tiếp nhận văn bản
có các khuôn như: kính gửi, đồng kính gửi,...
c. Tính quy thức
Do đặc thù của riêng mình, VBHC cũng có các chức năng giao tiếp nhất định
nhưng là loại giao tiếp phải tuân theo Hiến pháp và pháp luật nên không mang dấu ấn
cá nhân hay màu sắc chủ quan. Biểu hiện cụ thể của tính quy thức nằm ở chỗ ngôn
ngữ hành chính là tiếng nói của quyền lực Nhà nước, của cơ quan, đơn vị, tổ chức,
tập thể mà không phải là tiếng nói chủ quan của cá nhân. Ngôn ngữ trong VBHC nói
chung mang màu sắc trung tính không có sắc thái biểu cảm. Đặc điểm này cho thấy
VBHC thường có tính quy thức cao và hoàn toàn mang tính khách quan.
d. Tính quan phƣơng
VBHC thường dùng trong giao tiếp nơi cơ quan, tổ chức chính trị xã hội
cho nên nó có tính lịch sự cao. Đặc tính này của VBHC được thể hiện ở việc
ngôn ngữ trong VBHC thường là ngôn từ được gọt giũa, không có từ khẩu ngữ
hay cách nói thô tục; ngôn từ trong VBHC cũng tuân theo các nghi thức hành
chính. Sự xưng hô phải đúng thứ bậc hành chính và phải dùng những kính ngữ.
Ví dụ: quý cơ quan, kính đề nghị, kính đơn,
e. Tính hiệu lực
Tính hiệu lực thể hiện ở chỗ VBHC nhằm cung cấp một cơ sở pháp lí hay
hướng dẫn thực hiện một vấn đề, hoặc đơn từ, đề nghị...cho nên VBHC có tính
áp đặt cho một cá nhân, tập thể thực hiện một chủ trương, chính sách nào đó. Có
khi là cấp trên xem xét một nguyện vọng cho cấp dưới.
1.2.2.4. Phân loại văn bản hành chính tiếng Việt
Các nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiều tiêu chí để phân loại VBHC như: phân
loại theo chủ thể ban hành văn bản, phân loại theo hướng chu chuyển của văn
bản, phân loại theo nội dung, theo hiệu lực pháp lí, theo mục đích ban hành của
32
văn bản, theo thời gian ban hành văn bản, theo địa danh ban hành văn bản, theo
tên loại văn bản,… Để có một cái nhìn khái quát về VBHC, chúng tôi lựa chọn
phân loại VBHC theo hai tiêu chí là chủ thể ban hành văn bản và hiệu lực pháp
lí, tính chất nội dung và tên loại. Đây cũng là cách mà Vũ Thị Sao Chi [12, tr.
27-29] đã đề cập đến. Cách phân loại này không chỉ cho thấy được về lĩnh vực
hoạt động của văn bản, phạm vi áp dụng của văn bản, hiệu lực của văn bản mà
còn cho thấy được tầm quan trọng của văn bản đối với đời sống xã hội.
a. Phân loại theo chủ thể ban hành văn bản
Theo chủ thể ban hành văn bản, VBHC bao gồm:
- Văn bản của Đảng
- Văn bản của các cơ quan Nhà nước
- Văn bản của các đoàn thể, hiệp hội, tổ chức trong xã hội
- Văn bản của cá nhân hay nhóm xã hội
b. Phân loại theo hiệu lực pháp lí, tính chất nội dung và tên loại văn bản
Theo hiệu lực pháp lí, tính chất nội dung và tên loại, VBHC gồm có:
- Văn bản quy phạm pháp luật
“VBQPPL là văn bản có chứa quy phạm pháp luật, được ban hành theo
đúng thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục quy định trong Luật này”. (Điều 2
Luật Ban hành VBQPPL ngày 22 tháng 6 năm 2015). VBQPPL bao gồm:
(1) Hiến pháp.
(2) Bộ luật, luật (sau đây gọi chung là luật), nghị quyết của Quốc hội.
(3) Pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội; nghị quyết liên
tịch giữa Ủy ban thường vụ Quốc hội với Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam.
(4) Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước.
(5) Nghị định của Chính phủ; nghị quyết liên tịch giữa Chính phủ với Đoàn
Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
(6) Quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
33
(7) Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
(8) Thông tư của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; thông tư của Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ
quan ngang bộ; thông tư liên tịch giữa Chánh án Tòa án nhân dân tối cao với Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; thông tư liên tịch giữa Bộ trưởng, Thủ
trưởng cơ quan ngang bộ với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân tối cao; quyết định của Tổng Kiểm toán nhà nước.
(9) Nghị quyết của HĐND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây
gọi chung là cấp tỉnh).
(10) Quyết định của UBND cấp tỉnh.
(11) VBQPPL của chính quyền địa phương ở đơn vị hành chính – kinh tế
đặc biệt.
(12) Nghị quyết của HĐND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành
phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp huyện).
(13) Quyết định của UBND cấp huyện.
(14) Nghị quyết của HĐND, xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã).
(15) Quyết định của UBND cấp xã.
- Văn bản cá biệt
VBCB là văn bản do chủ thể có thẩm quyền ban hành theo thủ tục, hình
thức pháp luật quy định nhằm cụ thể hoá quy phạm pháp luật thành những mệnh
lệnh pháp luật áp dụng cho từng trường hợp cụ thể. VBCB bao gồm: Chỉ thị (cá
biệt), quyết định (cá biệt), nghị quyết (cá biệt).
- Văn bản hành chính thông thƣờng
VBHCTT là văn bản không mang tính quy phạm pháp luật, được dùng để
hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện pháp luật; phản ánh, thông báo tình hình, trao
đổi công việc và xử lí các vấn đề khác trong hoạt động quản lí. VBHCTT bao
gồm: công văn, thông cáo, thông báo, chương trình, kế hoạch công tác, đề án,
phương án, báo cáo, tờ trình, biên bản, công điện, giấy chứng nhận, giấy ủy
34
nhiệm, giấy giới thiệu, giấy nghỉ phép, giấy đi đường, giấy mời, phiếu gửi, đề
nghị, hợp đồng...
1.2.2.5. Văn bản hành chính tiếng Việt dƣới góc độ xƣng hô
Trong luận án này, để phục vụ cho mục đích khảo sát về vấn đề xưng hô
trong VBHC, luận án nhìn nhận VBHC dưới góc độ xưng hô. Theo đó, các
VBHC được phân biệt thành các loại sau:
a. Văn bản hành chính chỉ có biểu thức xƣng, mà không có biểu thức hô
Đây là các VBHC được tạo lập và lưu hành làm căn cứ pháp lí, hay làm
phương tiện cho các hoạt động xã hội của con người, trong đó có hoạt động giao
tiếp. Bản thân các văn bản này, trong nội dung của chúng không biểu hiện hoạt
động giao tiếp giữa các nhân vật giao tiếp, giữa người phát và người nhận văn
bản. Chúng chỉ tồn tại và lưu hành để mọi người căn cứ vào đó mà tiến hành các
hoạt động xã hội theo pháp luật hay những quy định chung của các cơ quan nhà
nước hoặc đoàn thể chính trị xã hội. Cho nên trong văn bản không có hoạt động
giao tiếp. Nhưng là VBHC, các VBHC loại này vẫn cần có tính pháp lí, vẫn cần thể
hiện người chịu trách nhiệm tạo lập và ban hành văn bản, vẫn cần thể hiện quyền uy
về pháp lí. Chính vì vậy, ở đầu hoặc cuối văn bản, người chịu trách nhiệm về văn
bản vẫn xưng rõ chức vụ, kí tên và/hoặc đóng dấu vào văn bản. Những văn bản đó
hướng tới người tiếp nhận là mọi người trong xã hội, hoặc chỉ dùng làm căn cứ
pháp lí nên không hướng tới người tiếp nhận cụ thể nào, và do đó không có BTH.
Chẳng hạn một tấm thẻ học sinh là một VBHC có chữ kí của hiệu trưởng và con
dấu của cơ quan trường học, dùng làm căn cứ pháp lí cho các hoạt động của học
sinh trong nhà trường và ngoài xã hội. Nó chỉ có các nội dung về họ tên, ngày tháng
năm sinh, nơi sinh, lớp trường của học sinh, nhưng không có hoạt động giao tiếp
nào, kể cả hoạt động giao tiếp giữa thầy hiệu trưởng và em học sinh có tên trong
thẻ, cho nên cũng không có hành động hô và BTH.
Thuộc về các VBHC không có BTH là các VBHC như: Hiến pháp, luật, lệnh,
thông cáo, chương trình, đề án, biên bản, điều lệ, nội quy, giấy chứng nhận, các loại
35
thẻ, chứng minh thư, căn cước công dân, các loại văn bằng, chứng chỉ,… Chúng
vẫn cần có người kí tên và ghi rõ chức vụ để đảm bảo quyền uy, tính pháp lí của
văn bản (với tư cách là BTX), nhưng không có BTH.
Ví dụ (2)
Hiến pháp này đã đƣợc Quốc hội nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam khóa XIII, kì họp thứ 6 thông qua ngày 28 tháng 11 năm 2013.
CHỦ TỊCH QUỐC HỘI
(Đã kí)
(Trích Hiến pháp nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013)
Nguyễn Sinh Hùng
Trong ví dụ (2) chỉ có BTX (thể hiện ở họ tên, chữ kí của người có trách
nhiệm cuối văn bản) mà không có BTH.
b. Văn bản hành chính có cả biểu thức xƣng và biểu thức hô
Các VBHC này được tạo lập và lưu hành vừa để làm căn cứ pháp lí, hay
phương tiện có tính pháp lí cho các hoạt động xã hội (như loại VBHC thứ nhất),
vừa có nội dung biểu hiện hoạt động giao tiếp giữa người phát và người nhận
văn bản, cho nên có đủ từ ngữ xưng hô (tuy rằng cả các từ ngữ để xưng, và cả
các từ ngữ để hô đều do người phát lựa chọn và sử dụng). Chẳng hạn một bản
quyết định thành lập hội đồng chấm thi do Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo
ban hành vừa thể hiện sự giao tiếp giữa Giám đốc với các cán bộ thừa hành
nhiệm vụ chấm thi và cả các cán bộ quản lí giáo dục khác, trong đó không thể
không có hành động xưng hô và từ ngữ xưng hô giữa Giám đốc và các cán bộ
thừa hành quyết định, lại vừa là căn cứ pháp lí để thực thi nhiệm vụ chấm thi.
Thuộc về loại VBHC có cả BTX và BTH là các loại văn bản: VBQPPL (nghị
quyết, nghị định, thông tư, quyết định); VBCB: nghị quyết (cá biệt), quyết định (cá
biệt), chỉ thị (cá biệt); VBHCTT: chỉ thị, quy chế, quy định, thông báo, hướng dẫn, kế
hoạch, báo cáo, tờ trình, công văn, công điện, bản cam kết, bản đề nghị, bản tường
trình, giấy ủy quyền, giấy nghỉ phép, giấy đi đường, giấy biên nhận, phiếu gửi, phiếu
chuyển, thư công,...
36
Trong loại VBHC có cả biểu thức xưng và biểu thức hô, căn cứ vào tính
chất xưng hô lại có thể phân biệt thành hai tiểu loại:
- VBHC mà vai xưng và vai hô tách bạch và được thể hiện bằng những từ
ngữ riêng biệt, khác nhau. Biểu thức xưng-hô khác biệt và tách bạch nhau theo
đúng chức vụ của từng nhân vật giao tiếp. Phần lớn các VBHC có đủ biểu thức
xưng-hô đều thuộc tiểu loại này.
Ví dụ (3)
Kính gửi: Bộ Nội vụ
(…)
(Trích Công văn số: 9445/VPCP-PL, ngày 06/9/2017 của Văn phòng Chính phủ về việc Văn bản tham
gia ý kiến của Chính phủ đối với dự án luật Hành chính công)
Văn phòng Chính phủ thông báo đến Bộ Nội vụ biết, thực hiện. /.
Trong ví dụ (3) trên, chủ thể phát ngôn đã dùng BTX Văn phòng Chính
phủ và BTH Bộ Nội vụ.
- VBHC mà hai vai xưng và hô gộp lại, mỗi nhân vật giao tiếp đều xuất
hiện trong văn bản với tư cách cả vai hô và vai xưng. Cho nên từ ngữ xưng hô
phải dùng chung và gộp lại bằng đại từ chỉ gộp “chúng tôi”, khi cần mới được
tách ra bằng các kí hiệu quy ước có tính bình đẳng tuy khác biệt là “bên A”, “bên
”, và cuối văn bản cả hai bên đều cần kí tên và ghi rõ chức vụ trong cơ quan, tổ
chức hay tập thể. Thuộc tiểu loại VBHC này chính là các dạng Hợp đồng của các
cơ quan, tổ chức hay cá nhân trên cơ sở pháp lí và căn cứ vào pháp luật Nhà
nước hay các quy định chung trong phạm vi, lĩnh vực nhất định.
Ví dụ (4)
HỢP ĐỒNG THUÊ KHOÁN CHUYÊN MÔN
Căn cứ: .............................................................................................................
Chúng tôi gồm:
Bên A. Bên giao:Văn phòng Đề án Biên soạn Bách khoa toàn thƣ Việt Nam
Bên B. Bên nhận:ông H.V.V
37
Hai bên đã thỏa thuận những nội dung sau …………………………
Hợp đồng này làm thành 2 bản có giái trị pháp lí ngang nhau , bên A giữ 1
bản, bên B giữ 1 bản
(Trích Hợp đồng thuê khoán chuyên môn của Văn phòng Đề án Biên soạn Bách khoa toàn
thƣ Việt Nam, ngày 19/6/2017)
Đại diện bên A (kí tên) Bên B (kí tên)
VBHC tiếng Việt dưới góc độ xưng hô được tổng hợp trong bảng sau:
Bảng 1.1. Thống kê các loại VBHC tiếng Việt dƣới góc độ xƣng hô
VBHC có cả BTX và BTH VBHC chỉ có BTX VBHC mà vai xƣng VBHC mà hai vai mà không có BTH và vai hô tách bạch xƣng và hô gộp lại
-VBQPPL: Nghị quyết, nghị định,
quyết định, thông tƣ - VBQPPL: Hiến pháp, - VBCB: nghị quyết (cá biệt), luật, lệnh,… quyết định (cá biệt), chỉ thị (cá - VBHCTT: Thông cáo, biệt) chƣơng trình, đề án, - VBHCTT: chỉ thị, quy chế, quy biên bản, điều lệ, nội định, thông báo, hƣớng d n, kế Hợp đồng quy, giấy chứng nhận, hoạch, báo cáo, tờ trình, công các loại thẻ, chứng văn, công điện, bản cam kết, bản minh thƣ, căn cƣớc đề nghị, bản tƣờng trình, giấy ủy công dân, các loại văn quyền, giấy nghỉ phép, giấy đi bằng, chứng chỉ… đƣờng, giấy biên nhận, phiếu gửi,
phiếu chuyển, thƣ công,
Trong luận án này, chúng tôi dựa vào cách phân loại VBHC theo hiệu lực
pháp lí, tính chất nội dung và tên loại văn bản để khảo sát. Theo cách phân loại này,
V HC được phân thành 3 loại: VBQPPL, VBCB và VBHCTT.
38
1.3. Tiểu kết chƣơng 1
1.3.1. Chương 1 của luận án, chúng tôi tập trung trình bày hai vấn đề lớn
sau đây:
1.3.1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu, chúng tôi đã điểm lại tình hình
nghiên cứu đề tài, phân tích và chỉ ra những lĩnh vực có liên quan đến hướng
nghiên cứu của luận án.
1.3.1.2. Cơ sở lí luận, chúng tôi đã hệ thống hóa một số nội dung chủ yếu
như sau:
1.3.1.2.1. Lí thuyết về xưng hô trong giao tiếp ngôn ngữ, chúng tôi đã đi sâu
vào tìm hiểu: khái niệm xưng hô, các phương tiện dùng để xưng hô trong giao
tiếp, các chức năng của xưng hô trong giao tiếp, các nhân tố chi phối đến xưng
hô trong giao tiếp, lịch sự trong giao tiếp.
1.3.1.2.2. Lí thuyết về VBHC cũng được chúng tôi trình bày tập trung vào
những vấn đề cơ bản như: khái niệm về VBHC, chức năng của VBHC, đặc điểm
của VBHC và phân loại VBHC. Đặc biệt, trong phần này, chúng tôi đề cập đến
VBHC dưới góc độ xưng hô.
1.3.2. Qua những nghiên cứu, phân tích ở chương 1, luận án rút ra một số kết
luận như sau:
1.3.2.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu, chúng tôi khẳng định đề tài nghiên
cứu của luận án không trùng với bất kì nghiên cứu nào trước đó.
1.3.2.2. Lí thuyết về xưng hô trong giao tiếp ngôn ngữ, chúng tôi quan niệm:
“Xưng hô là hành động ngôn ngữ mà người nói tự xưng mình và gọi người khác
là gì đó khi họ đang giao tiếp với nhau để biểu thị tính chất của mối quan hệ”.
Phương tiện dùng để xưng hô trong giao tiếp bao gồm: đại từ xưng hô, tên riêng,
các danh từ thân tộc, các từ chỉ chức nghiệp. Chức năng của xưng hô trong giao
tiếp là chức năng định vị, chức năng chiếu vật, chức năng thể hiện quan hệ liên
nhân. Các nhân tố chi phối đến xưng hô trong giao tiếp bao gồm: hoàn cảnh giao
39
tiếp, nhân vật giao tiếp, đề tài và mục đích giao tiếp, cách thức giao tiếp. Lịch sự
trong giao tiếp ngôn ngữ là lịch sự chiến lược, lịch sự chuẩn mực.
1.3.2.3. Lí thuyết về VBHC, chúng tôi quan niệm: “V HC được hiểu theo
nghĩa rộng là loại văn bản dùng trong các hoạt động tổ chức, quản lí và điều
hành xã hội; thực hiện sự giao tiếp giữa các cơ quan của Nhà nước, các tổ
chức chính trị, xã hội, kinh tế và các tổ chức, cơ quan khác với nhau, với công
dân và ngược lại, giữa các công dân với nhau trên cơ sở pháp lí”. Chức năng
của VBHC bao gồm: chức năng thông tin, chức năng quản lí, chức năng pháp
lí. Đặc điểm của VBHC là tính minh xác, tính khuôn mẫu, tính quy thức, tính
quan phương, tính hiệu lực. VBHC được phân thành 3 loại: VBQPPL, VBCB,
VBHCTT. Đặc biệt, trong phần này, chúng tôi tìm hiểu V HC dưới góc độ
xưng hô. Theo đó, V HC được chia làm hai loại: loại 1 là VBHC chỉ có BTX
mà không có BTH; loại 2 là VBHC có cả BTX và BTH. Và từ cách nhìn nhận
này, chúng tôi tập trung khảo sát, nghiên cứu các VBHC có sự xuất hiện của
cả BTX và BTH.
40
Chƣơng 2
XƢNG TRONG VĂN BẢN HÀNH CHÍNH TIẾNG VIỆT
2.1. Khái niệm xƣng trong văn bản hành chính
VBHC có những đặc thù riêng trong cách xưng. Bởi vì đây là loại văn bản
chịu sự chế định của pháp luật nên cách xưng phải đảm bảo tính khách quan và
không mang màu sắc thân tộc. Những từ dùng để xƣng trong VBHC có một
phạm vi hẹp trong ngoại diên rộng lớn của lớp từ dùng để xƣng trong văn hóa
người Việt. Thực tế giao tiếp cho thấy, từ ngữ dùng để xƣng trong tiếng Việt
nhiều hơn rất nhiều so với số lượng từ ngữ dùng để xƣng của nhiều ngôn ngữ
khác trên thế giới. Số lượng từ ngữ dùng để xƣng trong tiếng Việt gồm cả những
từ xƣng chuẩn mực và những từ được đại từ hóa dùng để xƣng. Số lượng các từ
đó rất nhiều, khó có thể thống kê thành một con số xác định, bởi trong khi giao
tiếp người Việt luôn có xu hướng tạo ra những từ ngữ mới để xưng. Ngoại trừ từ
tôi được xem là cách xưng trung hòa về thái độ biểu cảm thì các từ xƣng khác
đều có màu sắc biểu cảm và sắc thái văn hóa. Qua cách xưng, chúng ta hoàn toàn
có thể nhận ra thái độ, tình cảm, thậm chí mục đích giao tiếp của các nhân vật
tham gia giao tiếp. Bởi vì trong mỗi phát ngôn, các từ ngữ dùng để xƣng phản
ánh trình độ nhận thức, sắc thái tình cảm của người phát ngôn. Vì thế, việc sử
dụng các từ xƣng trong tiếng Việt phụ thuộc vào nhiều yếu tố như nhân vật giao
tiếp, mục đích giao tiếp, nội dung giao tiếp, tình huống giao tiếp... Như thế, rõ
ràng chúng ta cần có một cái nhìn rộng về xƣng trong giao tiếp của người Việt để
đi vào một phạm vi hẹp hơn là xƣng trong VBHC tiếng Việt.
“Xƣng” trong VBHC đƣợc hiểu là cách mà chủ thể ban hành ra văn bản,
ngƣời/đơn vị ban hành ra VBHC dùng BTNN để thể hiện chính bản thân mình và
do đó tự chịu trách nhiệm pháp lí về văn bản. Do đó, điểm khác biệt lớn nhất
giữa xưng trong VBHC với xưng trong các loại văn bản khác là vai xưng là vai
của người chịu trách nhiệm về văn bản, kí tên dưới văn bản (chứ không phải là
người viết, người biên soạn văn bản như thư kí, trợ lí, văn thư). Xƣng trong VBHC
nhấn mạnh về tính đúng mực, tính tường minh và tính pháp lí.
41
2.2. Các biểu thức ngôn ngữ để xƣng trong văn bản hành chính
Để đi sâu tìm hiểu vấn đề xƣng trong VBHC, chúng tôi thống kê 543 VBHC
tiếng Việt các loại có cả BTX và BTH để khảo sát, nghiên cứu.
Bảng 2.1. Thống kê các loại VBHC tiếng Việt có cả BTX và BTH đƣợc khảo sát
STT Loại văn bản hành chính Tỉ lệ %
Văn bản quy phạm pháp luật
Công văn Công điện Thông báo
Chỉ thị
I 1 Nghị định 2 Thông tư 3 Nghị quyết 4 Quyết định II Văn bản cá biệt 1 Nghị quyết (cá biệt) 2 Quyết định (cá biệt) Chỉ thị (cá biệt) 3 III Văn bản hành chính thông thƣờng 1 2 3 4 Quy định 5 6 Quy chế Báo cáo 7 Tờ trình 8 9 Thư công 10 Hướng dẫn 11 Kế hoạch 12 Bản cam kết, bản đề nghị, bản tường trình Số lƣợng Văn bản 98 25 24 24 25 76 25 25 26 369 26 26 24 25 25 24 25 25 23 24 23 24 18.04 4.60 4.42 4.42 4.60 13.99 4.60 4.60 4.79 67.97 4.79 4.79 4.42 4.60 4.60 4.42 4.60 4.60 4.24 4.42 4.24 4.42
4.79 13 26
4.42 14 24
4.60 15 25 Giấy ủy quyền, giấy giới thiệu, giấy nghỉ phép, giấy đi đường, giấy biên nhận, giấy mời Phiếu gửi, phiếu chuyển Đơn xin nghỉ học, đơn xin nghỉ phép, đơn xin bảo vệ luận án,...
Tổng 543 100%
42
Nhìn vào bảng thống kê trên, chúng ta thấy số lượng các loại V HC được khảo
sát có sự khác nhau. VBHCTT được khảo sát nhiều nhất (369 văn bản), tiếp đến là
VBQPPL (98 văn bản) và V C (76 văn bản). Trong mỗi loại VBHC, số lượng từng
tiểu loại tương đối đồng đều. Ở đây, chúng tôi căn cứ vào số lượng văn bản trong mỗi
loại V HC để thống kê. Lựa chọn như vậy s đảm bảo được tính chính xác, khách
quan trong việc khảo sát, thống kê các BTNN để xưng hô trong V HC tiếng Việt.
Qua thống kê, khảo sát, nghiên cứu 543 VBHC các loại, chúng tôi nhận thấy
trong giao tiếp bằng VBHC, chủ thể phát ngôn đã sử dụng các BTNN sau để xưng:
2.2.1. Đại từ nhân xƣng
Đại từ nhân xưng trong tiếng Việt rất phong phú. Tuy nhiên, đối với VBHC
- một loại văn bản công vụ - việc sử dụng đại từ nhân xưng cũng nằm trong quy
phạm nhất định mà không thể tùy tiện. Dùng đại từ nhân xưng để xưng chỉ được
sử dụng trong những VBHCTT do một cá nhân tạo lập để giao tiếp với một cá
nhân hay một tập thể khác. Các đại từ nhân xưng này thể hiện tính trung hòa,
lịch sự và chỉ dùng các đại từ nhân xưng: tôi (số ít), chúng tôi (số nhiều) để
xưng. Ngoài ra, trong trường học để thể hiện vai trên/dưới, tình cảm thầy/trò có
thể sử dụng thêm các danh từ chỉ quan hệ thân tộc làm đại từ nhân xưng: em (số
ít), chúng em (số nhiều) để giao tiếp trong VBHCTT.
Ví dụ (5)
“Hôm nay, tôi viết đơn này xin đƣợc trình bày một việc nhƣ sau: Do gia đình tôi
(Trích Đơn xin nghỉ phép của một cá nhân)
có việc bận cho nên tôi xin đƣợc nghỉ phép từ ngày 10/9/2015 đến ngày 25/9/2015”.
Ví dụ (6)
“Hôm nay em viết đơn này kính mong quý thầy (cô) cho phép em đƣợc nghỉ
(Trích Đơn xin nghỉ học của một học sinh)
học từ ngày 5/11/2018 đến ngày 7/11/2018 Lí do: chăm sóc mẹ nằm viện”.
Ví dụ (7) “Kính gửi: Tòa án nhân dân huyện X
Chúng tôi là tập thể nông dân làng Y, chúng tôi xin đƣợc trình bày một
(Trích Đơn kiến nghị của một tập thể)
việc nhƣ sau: ”
43
Ví dụ (8)
“Chúng em xin hứa, sau khi trận bóng kết thúc, lớp chúng ta sẽ trở về nề
(Trích Đơn xin đổi lịch của học sinh)
nếp, kỉ cƣơng, quy củ.”
Ví dụ (5), (6), (7), (8) là những VBHCTT. Trong ví dụ (5), (6) đại từ nhân
xưng tôi, em được dùng để xưng khi tôi, em chính là chủ thể phát ngôn và tạo lập
ra văn bản. Trong ví dụ (7), (8) đại từ nhân xưng chúng tôi, chúng em (số nhiều)
được dùng để xưng khi chủ thể phát ngôn của văn bản là một tập thể.
Hiện tượng dùng đại từ nhân xưng tôi, chúng tôi và danh từ thân tộc em,
chúng em làm đại từ xưng chỉ xuất hiện trong loại VBHCTT. Đối với VBQPPL và
VBCB hoàn toàn không xuất hiện. Hiện tượng này cho thấy xưng chịu sự chế định
không chỉ của thể loại văn bản mà còn của cả đặc trưng văn bản.
2.2.2. Danh từ chỉ chức vụ
Xƣng trong VBHC không dùng danh từ chỉ quan hệ thân tộc, nghề nghiệp.
Nhưng danh từ chỉ chức vụ lại được dùng để xưng trong V HC. Dùng chức vụ
để xưng chỉ được sử dụng trong VBHCTT có tính pháp lí do cá nhân có thẩm
quyền ban hành. Để đảm bảo tính hiệu lực thì chức vụ cần phải được thể hiện rõ
ràng, chính danh trong mỗi văn bản (danh chính, ngôn thuận). Tuy nhiên, không
phải chức vụ nào cũng có thể dùng để xưng mà chỉ có những chức vụ cao nhất
trong một cơ quan, đơn vị, tổ chức mới có thể dùng để xưng. ởi người giữ chức
vụ đó s giao tiếp với tư cách là đại diện cho một tổ chức, một cơ quan hành
chính Nhà nước có thẩm quyền. Và những văn bản dùng chức vụ để xưng
thường là những VBHC chuyên biệt, có hiệu lực rõ ràng. Cách xưng này thể
hiện vị thế, quyền lực của chủ thể phát ngôn.
Ví dụ (9)
“…Tổng Giám đốc chỉ thị các Phòng ban chức năng và các tổ chức, cá
(Trích Chỉ thị số: 95/CT-CT-KTKH ngày 17/4/2012 của Tổng Giám đốc Công ti Cổ phần Đầu tƣ
phát triển đô thị và Khu Công nghiệp Sông Đà về việc rà soát kiểm tra việc triển khai đầu tƣ và huy
động vốn nhằm mục đích phát triển Dự án Khu đô thị mới Nam An Khánh, Hoài Đức, Hà Nội)
nhân liên quan thực hiện các công việc sau: ”
44
Ví dụ (9) là một VBHCTT (Chỉ thị), chủ thể phát ngôn dùng chức vụ Tổng
Giám đốc để xưng.
Nhìn chung, dùng chức vụ để xưng trong V HC nhằm thể hiện tính pháp
lí, tính quyền lực và vị thế của chủ thể phát ngôn. Xưng bằng chức vụ thường
xuất hiện trong những VBHCTT do người đứng đầu cơ quan, đơn vị, tổ chức
tạo lập, ban hành để giao tiếp với các cá nhân hay tập thể khác nhằm trao đổi
công việc mang tính tập thể. Xưng bằng chức vụ không xuất hiện trong
VBQPPL và VBCB.
2.2.3. Tên riêng
Trong giao tiếp bằng VBHC, chủ thể phát ngôn xƣng bằng tên riêng (đầy đủ
họ và tên) chỉ xuất hiện trong một số VBHCTT do cá nhân tạo lập để giao tiếp với
cá nhân hay tập thể khác nhằm để trao đổi công việc mang tính cá nhân. Xưng
bằng tên riêng không xuất hiện trong VBQPPL và V C . Cách xưng này có
những đặc thù riêng. Thứ nhất, danh xưng gồm đầy đủ họ và tên. Thứ hai, danh
xưng xuất hiện ở vị trí kết thúc văn bản (dưới phần kí tên) để đảm bảo tính chính
danh của người tạo lập và chịu trách nhiệm về văn bản.
Ví dụ (10)
“ Vì vậy tôi làm đơn này rất mong đƣợc sự chấp thuận của các cấp lãnh đạo.
Ngƣời làm đơn (Đã kí)
Tôi xin chân thành cảm ơn” Nguyễn Thị Hải Hà (Trích Đơn xin nghỉ phép của một cá nhân)
Ví dụ (10) là một VBHCTT (Đơn xin nghỉ phép), chủ thể phát ngôn
dùng tên riêng (đầy đủ họ và tên): Nguyễn Thị Hải Hà để xưng.
Nhìn chung, dùng tên riêng (đầy đủ họ và tên) để xưng chỉ xuất hiện trong
VBHCTT do cá nhân tạo lập, ban hành để giao tiếp với cá nhân hay tập thể khác.
Đây là điểm khác biệt so với các loại văn bản khác.
2.2.4. Biểu thức định danh cơ quan, đơn vị, tổ chức
Trong giao tiếp bằng VBHC hiện nay, dùng biểu thức định danh cơ quan,
đơn vị, tổ chức để xưng được sử dụng rất phổ biến. Theo khảo sát tư liệu, chúng
tôi nhận thấy cách xưng này xuất hiện trong tất cả các loại VBHC có tính pháp lí
45
do các cơ quan, đơn vị, tổ chức có thẩm quyền ban hành như: V QPPL, VBCB
và một số tiểu loại trong VBHCTT có tính pháp lí khác như: chỉ thị, quy chế,
thông báo, công văn,…. Văn bản do cơ quan nào đó ban hành s do cơ quan đó
xưng danh và do người đứng đầu cơ quan đó kí. Cách xưng này thể hiện tính tập
thể, tính quy thức, tính khuôn mẫu và tính pháp lí cao.
Ví dụ (11)
(Trích Quyết định số 36/2018/QĐ-UBND, ngày 21/12/2018 của UBND tỉnh Bình Dƣơng về
việc bãi bỏ một số văn bản pháp luật của UBND, Chủ tịch UBND tỉnh Bình Dƣơng)
UBND TỈNH BÌNH DƢƠNG … QUYẾT ĐỊNH …
Ví dụ (11) là một VBQPPL (Quyết định của UBND tỉnh), chủ thể phát
ngôn dùng biểu thức định danh cơ quan dạng đầy đủ để xưng: UBND tỉnh Bình
Dƣơng. Do tính chất và tầm quan trọng của VBQPPL nên xưng phải đầy đủ, cụ
thể, rõ ràng, không có dấu hiệu của việc rút gọn biểu thức xưng. Đây là điểm
khác biệt so với VBCB và VBHCTT.
Ví dụ (12)
CHỈ THỊ (...)
“...UBND thành phố yêu cầu Thủ trƣởng các sở, ban, ngành, đoàn thể thành
(Trích Chỉ thị số: 01/CT-UBND, ngày 23/01/2019 của UBND Thành phố Hồ Chí Minh về việc
phát động phong trào thi đua thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2019)
phố, Tổng công ti, các cơ quan,...tổ chức thực hiện nghiêm chỉ thị này ”
Ví dụ (12) là một VBCB (Chỉ thị cá biệt), chủ thể phát ngôn dùng biểu thức
định danh cơ quan dạng rút gọn để xưng: UBND thành phố (rút gọn từ tên đầy
đủ: UBND Thành phố Hồ Chí Minh). Xưng bằng biểu thức định danh cơ quan,
đơn vị, tổ chức trong VBCB có đặc điểm là có thể dùng biểu thức xưng dạng rút
gọn. Đây là điểm khác biệt so với xưng trong VBQPPL.
Ví dụ (13) “…Bộ Giáo dục và Đào tạo thông báo tuyển sinh đi học đại học tại Liên
(Trích Thông báo số 98:/TB-BGDĐT ngày 08/3/2010 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về Tuyển sinh viên
đi học Đại học tại Liên bang Nga năm 2010)
bang Nga diện học bổng Hiệp định và Xử lí nợ nhƣ sau:…”
46
Ví dụ (14)
“… Sở Giáo dục và Đào tạo yêu cầu các phòng Giáo dục và Đào tạo tiếp
tục hƣớng d n, kiểm tra các trƣờng mầm non, tiểu học, trung học cơ sở trực
(Trích Công văn số: 1020/SGDĐT-KHT ngày 08/9/2015 của Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh
Nam Định về việc chấn chỉnh lạm thu năm học 2015-2016)
thuộc; các đơn vị trực thuộc Sở tự kiểm tra việc thu đầu năm của đơn vị mình…”
Ví dụ (13), (14) là những VBHCTT (Thông báo, Công văn). Trong ví dụ
(13), chủ thể phát ngôn dùng biểu thức định danh cơ quan dạng đầy đủ để xưng:
Bộ Giáo dục và Đào tạo. Trong ví dụ (14), chủ thể phát ngôn dùng biểu thức
định danh cơ quan dạng rút gọn để xưng: Sở Giáo dục và Đào tạo (rút gọn từ tên
đầy đủ: Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Nam Định).
Như vậy, xưng bằng biểu thức định danh cơ quan, đơn vị, tổ chức là một
hình thức giao tiếp của VBHC. Cách xưng này thể hiện tính tập thể, tính pháp lí,
tính hiệu lực cao. Tùy từng loại VBHC khác nhau, việc sử dụng BTX có thể đầy
đủ hay rút gọn. Xưng bằng biểu thức định danh cơ quan, đơn vị, tổ chức là một
nét đặc trưng riêng của VBHC tiếng Việt.
2.2.5. Biểu thức phối hợp từ chỉ chức vụ với tên riêng
Trong giao tiếp bằng VBHC, chủ thể phát ngôn hay chủ thể chịu trách
nhiệm về văn bản dùng chức vụ kết hợp với tên riêng (đầy đủ họ và tên) để xưng
chỉ xuất hiện trong những V HC có tính pháp lí do các cơ quan, đơn vị, tổ chức
hoặc cá nhân có thẩm quyền ban hành như: V QPPL, VBCB và một số
VBHCTT. Trong VBHC có tính pháp lí bao giờ cũng có chủ thể phát ngôn, chủ
thể chịu trách nhiệm về văn bản. Chủ thể phát ngôn có thể là cá nhân hay cơ quan,
đơn vị, tổ chức. Nhưng chủ thể chịu trách nhiệm về văn bản phải là cá nhân có
thẩm quyền cụ thể xưng danh và kí tên dưới văn bản. Cá nhân ở đây có thể chính
là chủ thể phát ngôn hay là người có thẩm quyền thay chủ thể phát ngôn chịu trách
nhiệm về văn bản. Khi xưng phải xưng rõ ràng, chính xác chức vụ và tên riêng
(đầy đủ họ và tên) của mình. Vị trí xưng ở chỗ kết thúc văn bản (phần kí tên).
Cách xưng này thể hiện tính pháp lí, tính minh bạch và vị thế, quyền lực của chủ
thể phát ngôn hay chủ thể chịu trách nhiệm về văn bản. Nó giúp cho khách thể
47
tiếp nhận và thực thi văn bản biết được đầy đủ, chính xác về chủ thể phát ngôn
hay người chịu trách nhiệm về văn bản. Mô hình của BTX như sau:
Chức vụ + chữ kí + tên riêng (đầy đủ họ và tên)
Ví dụ (15)
“Bộ trƣởng Bộ Nội vụ ban hành Thông tƣ bãi bỏ một số VBQPPL do Bộ
trƣởng Bộ Nội vụ ban hành”
BỘ TRƢỞNG
(Đã kí)
(Trích Thông tƣ số:12/2018/TT-BNV, ngày 09/10/2018 của Bộ Nội vụ về việc bãi bỏ một số
VBQPPL)
Lê Vĩnh Tân
Ví dụ (15) là một VBQPPL (Thông tư của Bộ Nội vụ), chủ thể phát ngôn
dùng biểu thức kết hợp chức vụ với tên riêng (đầy đủ họ và tên) để xưng: Bộ
trƣởng Lê Vĩnh Tân.
Ví dụ (16)
CHỦ TỊCH UBND TỈNH LÂM ĐỒNG
(…)
QUYẾT ĐỊNH
(…)
CHỦ TỊCH (Đã kí)
(Trích Quyết định số 619/QĐ-UBND, ngày 20/3/2019 của UBND tỉnh Lâm Đồng về việc khen
thƣởng)
Đoàn Văn Việt
Ví dụ (16) là một VBCB (Quyết định cá biệt), chủ thể phát ngôn dùng biểu thức
kết hợp chức vụ với tên riêng (đầy đủ họ và tên) để xưng: Chủ tịch Đoàn Văn Việt.
Ví dụ (17)
CHỦ TỊCH (Đã kí)
(Trích Giấy mời Số: 3222/ GM-UBND, ngày 14/11/2016 của UBND thành phố Bến Tre về
việc dự Hội thi “Hòa giải viên giỏi” năm 2016)
“…UBND thành phố Bến Tre trân trọng kính mời:…” Nguyễn Văn Thƣơng
48
Ví dụ (17) là một VBHCTT (Giấy mời), chủ thể phát ngôn dùng biểu thức kết
hợp chức vụ với tên riêng (đầy đủ họ và tên) để xưng: Chủ tịch Nguyễn Văn Thƣơng.
Như vậy, xưng bằng biểu thức kết hợp chức vụ với tên riêng (đầy đủ họ và
tên) là một cách xưng bắt buộc phải có trong các loại VBHC có tính pháp lí do cơ
quan, đơn vị, tổ chức hay cá nhân có thẩm quyền ban hành. Vị trí xưng ở chỗ kết
thúc văn bản. Cách xưng này làm tăng tính hiệu lực, tính pháp lí của văn bản.
2.2.6. Biểu thức phối hợp tên riêng với từ chỉ chức vụ và tên cơ quan,
đơn vị, tổ chức
Trong giao tiếp bằng VBHC, chủ thể xưng ngoài việc dùng chức vụ kết hợp
với tên riêng để xưng còn sử dụng tên riêng kết hợp với chức vụ và tên cơ quan,
đơn vị, tổ chức để xưng. Qua khảo sát tư liệu, chúng tôi nhận thấy cách xưng này
không được sử dụng trong những VBHC có tính pháp lí cao (VBQPPL, VBCB).
Nó chỉ được sử dụng trong một số VBHCTT như: công văn, thư từ. Những văn
bản này do cá nhân tạo lập nhằm để giao tiếp với cá nhân hay tập thể khác. Cá
nhân ở đây thường là người đứng đầu một cơ quan, đơn vị, tổ chức và đại diện cho
cơ quan, đơn vị, tổ chức để giao tiếp. Cách xưng này thể hiện tính minh bạch, địa
vị và quyền lực của chủ thể phát ngôn. Chủ thể phát ngôn s chịu trách nhiệm
chính về nội dung và tính pháp lí của văn bản. Vị trí xưng ở chỗ kết thúc văn bản
Tên riêng (đầy đủ họ và tên) + chức vụ + tên cơ quan, đơn vị, tổ chức (dạng đầy đủ)
(dưới phần kí tên). Mô hình của BTX như sau:
Ví dụ (18)
Kính gửi: Ông Nguyễn Đức Thắng
(…)
Chúc ông và gia đình luôn mạnh khỏe và thành đạt!
Kính thƣ!
Trần Anh Tuấn
(Trích Thƣ của Bộ trƣởng Bộ Công thƣơng gửi ông Nguyễn Đức Thắng, ngày 25/8/2018)
BỘ TRƢỞNG BỘ CÔNG THƢƠNG
49
Ví dụ (18) là một VBHCTT (Thư công), chủ thể phát ngôn đã dùng biểu
thức phối hợp tên riêng (đầy đủ họ và tên) với chức vụ và tên cơ quan để xưng:
Trần Anh Tuấn, Bộ trƣởng Bộ Công thƣơng.
2.2.7. Biểu thức phối hợp học hàm, học vị kết hợp với tên riêng, chức vụ
và tên cơ quan, đơn vị, tổ chức
Trong giao tiếp bằng VBHC, việc dùng biểu thức phối hợp học hàm, học vị
kết hợp với tên riêng (đầy đủ họ và tên), chức vụ và tên cơ quan, đơn vị, tổ chức
để xưng chỉ xuất hiện trong một số VBHCTT do cá nhân đứng đầu cơ quan, đơn
vị, tổ chức thay mặt cho tập thể tạo lập để giao tiếp với cá nhân hay tập thể khác
như: Thư công. Cách xưng này không xuất hiện trong V QPPL và V C . Đây là
cách xưng thể hiện đầy đủ, chi tiết thông tin về chủ thể xưng đồng thời khẳng định
tính pháp lí, vị thế, quyền lực của chủ thể xưng. Vị trí xưng ở chỗ kết thúc văn bản
Học hàm, học vị + tên riêng +chức vụ +tên cơ quan, đơn vị, tổ chức (dạng đầy đủ).
Ví dụ (19)
( dưới phần kí tên). Mô hình của BTX như sau:
“Kính gửi:............................................
Nhân dịp ngày Nhà giáo Việt Nam 20-11-2012, thay mặt Ban Cán sự Đảng
và lãnh đạo Bộ Giáo dục và Đào tạo, tôi trân trọng gửi đến các đồng chí ”
Đã kí GS.TS. Phạm Vũ Luận
(Trích Thƣ của Bộ trƣởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, ngày 17/11/2012)
Bộ trƣởng Bộ Giáo dục và Đào tạo
Ví dụ (19) là một VBHCTT (Thư công), chủ thể phát ngôn dùng biểu thức
kết hợp học hàm (Giáo sƣ), học vị (Tiến sĩ) với tên riêng (Phạm Vũ Luận), chức
vụ (Bộ trƣởng) và tên cơ quan (Bộ Giáo dục và Đào tạo) để xưng: GS.TS Phạm
Vũ Luận, Bộ trƣởng Bộ Giáo dục và Đào tạo.
2.2.8. Biểu thức phối hợp từ chỉ chức vụ với tên cơ quan, đơn vị, tổ chức
Ngoài việc dùng biểu thức kết hợp tên riêng với chức vụ và tên cơ quan,
đơn vị, tổ chức để xưng, trong giao tiếp bằng VBHC, chủ thể phát ngôn còn
50
dùng biểu thức phối hợp chức vụ với tên cơ quan, đơn vị, tổ chức để xưng. Đây
là cách xưng rất tiêu biểu trong VBHC hiện nay. Theo khảo sát tư liệu của chúng
tôi, cách xưng này được sử dụng nhiều trong các loại VBHC có tính pháp lí cao
do các cơ quan, đơn vị, tổ chức hoặc cá nhân có thẩm quyền ban hành như:
VBQPPL, VBCB và một số VBHCTT khác như: công điện, công văn, chỉ thị,
thông báo,... Xưng bằng chức vụ kết hợp với tên cơ quan, đơn vị, tổ chức thể
hiện địa vị quyền lực và vị thế của chủ thể phát ngôn. Chủ thể xưng thường là
người đứng đầu cơ quan, đơn vị, tổ chức thay mặt cho cơ quan, đơn vị, tổ chức
để giao tiếp với cá nhân hay tập thể khác. Điều này càng làm tăng thêm tính hiệu
Chức vụ + tên cơ quan, đơn vị, tổ chức (dạng đầy đủ hoặc rút gọn)
lực, hiệu quả trong giao tiếp. Mô hình của BTX như sau:
Ví dụ (20)
“Bộ trƣởng Bộ Tài chính ban hành Thông tƣ quy định quản lí tài chính
thực hiện Đề án “Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia
(Trích Thông tƣ số: 45/2019/TT-BTC, ngày 19/7/2019 của Bộ Tài chính về quy định quản lí tài
chính thực hiện Đề án “Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025”)
đến năm 2025”
Ví dụ (20) là một VBQPPL (Thông tư của Bộ Tài chính), chủ thể xưng đã
dùng biểu thức phối hợp chức vụ (Bộ trƣởng) với tên cơ quan dạng đầy đủ (Bộ
Tài chính) để xưng: Bộ trƣởng Bộ Tài chính.
Ví dụ (21)
CHÁNH VĂN PHÒNG UBND TỈNH QUẢNG TRỊ
...
QUYẾT ĐỊNH
(Trích Quyết định số: 603/QĐ-VP ngày 04/12/2017 của Chánh văn phòng UBND tỉnh
Quảng Trị về việc Nâng bậc lƣơng thƣờng xuyên đối với cán bộ, công chức)
(...)
Ví dụ (21) là một VBCB (Quyết định cá biệt), chủ thể phát ngôn dùng chức
vụ (Chánh văn phòng) kết hợp với tên cơ quan dạng đầy đủ (UBND tỉnh Quảng
Trị) để xưng: Chánh văn phòng UBND tỉnh Quảng Trị .
51
Ví dụ (22)
“…Để làm cơ sở xây dựng Dự án Luật lực lƣợng dự bị động viên, đáp ứng
yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong
thời kì mới; đồng thời hoàn thiện hệ thống pháp luật về lĩnh vực quốc phòng,
(Trích Chỉ thị số: 19/CT-Tg, ngày 01/6/2016 của Thủ tƣớng Chính phủ về việc tổng kết 20
năm thực hiện pháp lệnh về lực lƣợng dự bị động viên (1996-2016)
Thủ tƣớng Chính phủ Chỉ thị:…”
Ví dụ (23)
“…Chủ tịch UBND tỉnh yêu cầu Giám đốc các Sở, Thủ trƣởng các cơ
quan, đơn vị, Chủ tịch UBND các huyện, thành phố nghiêm túc triển khai thực
(Trích Chỉ thị số: 04/CT-UBND, ngày 18/3/2019 của UBND tỉnh Hòa Bình về việc tăng
cƣờng công tác phòng, chống tham nhũng trên địa bàn tỉnh Hòa Bình)
hiện Chỉ thị này./.”
Ví dụ (22), (23) là những VBHCTT. Trong ví dụ (22), chủ thể phát ngôn
dùng biểu thức phối hợp chức vụ (Thủ tƣớng) với tên cơ quan dạng đầy đủ
(Chính phủ) để xưng: Thủ tƣớng Chính phủ. Ở ví dụ (23), chủ thể phát ngôn
dùng biểu thức phối hợp chức vụ (Chủ tịch) với tên cơ quan dạng rút gọn
(UBND tỉnh), rút gọn từ tên đầy đủ (UBND tỉnh Hòa Bình) để xưng: Chủ tịch
UBND tỉnh.
Nhìn chung, dùng biểu thức phối hợp chức vụ với tên cơ quan, đơn vị, tổ
chức để xƣng xuất hiện ở hầu hết các loại VBHC có tính pháp lí do các cơ quan,
đơn vị, tổ chức và cá nhân có thẩm quyền ban hành. Tuy nhiên, tùy từng loại
VBHC khác nhau, với mức độ, tính chất khác nhau, chủ thể xưng có thể dùng
biểu thức đầy đủ hay rút gọn để xưng.
Các BTNN để xƣng trong VBHC tiếng Việt được chúng tôi thống kê trong
bảng sau:
52
1 Đại từ nhân xưng
2 Danh từ chỉ chức vụ
Tên riêng
3
Các BTNN để
4
Tên cơ quan, đơn vị, tổ chức
5
Chức vụ + tên riêng (đầy đủ họ và tên)
xƣng trong VBHC tiếng
6
Tên riêng (đầy đủ họ và tên) + chức vụ + tên cơ quan, đơn vị, tổ
Việt.
chức (dạng đầy đủ)
7 Học hàm + học vị + tên riêng + chức vụ + tên cơ quan, đơn vị, tổ
chức (dạng đầy đủ)
8
Chức vụ + tên cơ quan, đơn vị, tổ chức (dạng đầy đủ hoặc rút gọn)
Tóm lại, trong VBHC tiếng Việt dùng 8 loại BTNN để xưng như đã trình bày ở
Bảng 2.2. Thống kê các BTNN để xƣng trong VBHC tiếng Việt
trên. Trong 8 loại BTNN có tới 4 loại chứa yếu tố chỉ chức vụ trong mối quan hệ với
các yếu tố khác như: học hàm, học vị, tên riêng; tên cơ quan, đơn vị, tổ chức. Yếu tố
chức vụ chịu trách nhiệm thể hiện vị thế xã hội, quyền lực giao tiếp của cá nhân đối
với xã hội. Chức vụ của cá nhân càng lớn, hiệu lực văn bản càng mạnh.
Cũng qua khảo sát, nghiên cứu 543 VBHC tiếng Việt ở các loại văn bản
khác nhau như trong bảng thống kê 2.1, chúng tôi thống kê được các BTNN để
xưng trong từng loại VBHC như sau:
Bảng 2.3. Thống kê các BTNN để xƣng trong 1375 lƣợt xƣng ở 543 VBHC
tiếng Việt các loại đƣợc khảo sát
Ví dụ STT Tỉ lệ % Các BTNN xƣng trong từng loại VBHC Tần số xuất hiện
Văn bản quy phạm pháp 247/1375 17.96 I luật
Dùng chức vụ kết hợp với 98/1375 7.13 Bộ trƣởng Lê Vĩnh Tân 1 tên riêng (đầy đủ họ và tên)
2 Dùng tên cơ quan dạng đầy đủ 91/1375 6.62 UBND tỉnh Bình Dƣơng
Dùng chức vụ kết hợp với 3 58/1375 4.21 Bộ trƣởng Bộ Nội vụ tên cơ quan dạng đầy đủ
53
II Văn bản cá biệt 192/1375 13.96
văn phòng 76/1375 3.85 1 Dùng chức vụ kết hợp với tên riêng (đầy đủ họ và tên) Chánh Nguyễn Văn Bốn
65/1375 3.56 2 UBND Thành phố Hồ Chí Minh Dùng tên cơ quan, đơn vị, tổ chức dạng đầy đủ hoặc rút gọn
51/1375 3.27 3 Chánh văn phòng UBND tỉnh Quảng Trị Dùng chức vụ kết hợp với tên cơ quan, đơn vị, tổ chức dạng đầy đủ hoặc rút gọn
III 936/1375 68.08 Văn bản hành chính thông thƣờng
văn phòng 285/1375 20.73 1 Dùng chức vụ kết hợp với tên riêng (đầy đủ họ và tên) Chánh Nguyễn Hữu Linh
245/1375 17.82 2
Dùng tên cơ quan, đơn vị, tổ chức dạng đầy đủ hoặc rút gọn Bộ Giáo dục và Đào tạo, Sở Giáo dục và Đào tạo,...
179/1375 13.01 3
Dùng chức vụ kết hợp với tên cơ quan, đơn vị, tổ chức dạng đầy đủ hoặc rút gọn Chủ tịch UBND tỉnh Nghệ An, Chủ tịch UBND tỉnh,...
tôi, 98/1375 7.13 4 Dùng đại từ nhân xưng (Số ít và số nhiều) Tôi, em, chúng chúng em.
84/1375 6.11 Bùi Hƣớng Tâm 5 Dùng tên riêng (đầy đủ họ và tên)
6 Dùng chức vụ 22/1375 1.6 Tổng Giám đốc, Giám đốc
13/1375 0.95 7
GS.TS Phùng Xuân Nhạ - Bộ trƣởng Bộ Giáo dục và Đào tạo. Dùng học hàm, học vị kết hợp với tên riêng, chức vụ và tên cơ quan, đơn vị, tổ chức.
10/1375 0.73 8 Trần Anh Tuấn - Bộ trƣởng Bộ Công thƣơng Dùng tên riêng kết hợp với chức vụ và tên cơ quan, đơn vị, tổ chức
54
Nhìn vào bảng thống kê trên, chúng tôi nhận thấy ở mỗi loại V HC đều sử
dụng những BTNN để xưng rất cụ thể.
Thứ nhất là đối với VBQPPL- một loại VBHC có tính pháp lí rất cao.
Thẩm quyền ban hành được quy định rất cụ thể, chặt ch và chỉ có những cơ
quan hoặc cá nhân có thẩm quyền (được quy định cụ thể trong Điều 4 Luật Ban
hành VBQPPL ngày 22 tháng 6 năm 2015) mới được ban hành. Nếu chủ thể ban
hành văn bản là cơ quan thì chỉ dùng biểu thức định danh cơ quan để xưng. Đây
là cách xưng thể hiện tính pháp lí, vị thế quyền lực của chủ thể xưng. Nếu chủ
thể ban hành văn bản là cá nhân thì dùng chức vụ kết hợp với tên riêng để xưng
và dùng chức vụ kết hợp với tên cơ quan dạng đầy đủ để xưng. Đây cũng là
những cách xưng thể hiện tính minh xác, pháp lí, vị thế, quyền lực của chủ thể
xưng. Xưng trong V QPPL có 3 cách xưng như thống kê trong bảng 2.3. Do
tính chất và tầm quan trọng của VBQPPL nên việc xưng phải đầy đủ, cụ thể, rõ
ràng, chính xác và không có dấu hiệu của việc rút gọn BTX.
Thứ hai là đối với VBCB – một loại VBHC có tính pháp lí cao. Thẩm
quyền ban hành rộng hơn so với VBQPPL và chỉ có những cơ quan hoặc cá nhân
có thẩm quyền mới được ban hành. Văn bản này khác VBQPPL ở chỗ chỉ áp
dụng cho một đối tượng nhất định, áp dụng một lần, hiệu lực ngắn, tác động
trong phạm vi hẹp còn VBQPPL áp dụng cho nhiều đối tượng hay một nhóm đối
tượng, thường áp dụng nhiều lần, hiệu lực dài, tác động trong phạm vi rộng. Nếu
chủ thể ban hành văn bản là cơ quan, đơn vị, tổ chức thì dùng biểu thức định
danh cơ quan, đơn vị, tổ chức dạng đầy đủ hoặc rút gọn để xưng. Cách xưng này
thể hiện tính pháp lí, vị thế, quyền lực của chủ thể xưng. Nếu chủ thể ban hành
văn bản là cá nhân thì dùng chức vụ kết hợp với tên riêng và dùng chức vụ kết
hợp với tên cơ quan, đơn vị, tổ chức dạng đầy đủ hoặc rút gọn để xưng. Đây là
cách xưng nhằm thể hiện tính minh xác, tính pháp lí, vị thế, quyền lực của chủ
thể xưng. Xưng trong V C có 3 cách xưng như thống kê trong bảng 2.3. Trong
VBCB có thể xưng bằng cách rút gọn BTX.
55
Thứ ba là đối với VBHCTT – một loại văn bản được sử dụng rất nhiều
trong giao tiếp hành chính. Văn bản này khác với các loại văn bản trên là thẩm
quyền ban hành rộng, tính pháp lí thấp hơn so với V QPPL và V C , đối
tượng thi hành luôn cụ thể, xác định (có đầy đủ họ và tên, chức nghiệp, nơi ở
hoặc nơi làm việc nếu là cá nhân; tên gọi, địa chỉ nếu là cơ quan, đơn vị, tổ
chức). Nếu chủ thể ban hành văn bản là cơ quan, đơn vị, tổ chức thì dùng biểu
thức định danh cơ quan, đơn vị, tổ chức dạng đầy đủ hoặc rút gọn để xưng.
Cách xưng này thể hiện tính pháp lí, vị thế, thẩm quyền của chủ thể xưng. Nếu
chủ thể ban hành văn bản là cá nhân thì: dùng chức vụ kết hợp với tên cơ quan,
đơn vị, tổ chức dạng đầy đủ hoặc rút gọn để xưng; dùng chức vụ kết hợp với
tên riêng để xưng; dùng chức vụ để xưng; dùng tên riêng để xưng; dùng học
hàm, học vị kết hợp với tên riêng, chức vụ và tên cơ quan, đơn vị, tổ chức để
xưng; dùng tên riêng kết hợp với chức vụ và tên cơ quan, đơn vị, tổ chức để
xưng; dùng đại từ nhân xưng để xưng. Đây là những cách xưng thể hiện tính
minh xác của chủ thể xưng. Tùy từng kiểu loại văn bản khác nhau mà dùng
BTNN xưng khác nhau. Xưng trong VBHCTT phong phú và đa dạng hơn
nhiều so với xưng trong V QPPL và V C . Theo thống kê trong bảng 2.3,
xưng trong VBHCTT có 8 cách xưng còn xưng trong V QPPL và V C chỉ
có 3 cách xưng.
Nhìn chung, trong mỗi loại VBHC khác nhau, việc dùng các BTNN để
xưng cũng có sự giống và khác nhau. Bảng so sánh dưới đây s cho chúng ta
thấy rõ điều này.
56
Bảng 2.4. So sánh sự giống và khác nhau trong dùng các BTNN để xƣng ở
các loại VBHC tiếng Việt
Giống nhau Khác nhau
-Dùng tên cơ quan dạng đầy đủ (không có Tên loại VBHC Văn bản quy
-Dùng chức vụ kết yếu tố rút gọn). phạm pháp
hợp với tên riêng luật
(đầy đủ họ và tên) để - Có trường hợp dùng tên cơ quan dạng Văn bản cá
xưng. rút gọn để xưng. biệt
-Dùng chức vụ kết - Dùng đại từ nhân xưng để xưng. Văn bản
hợp với tên cơ quan, - Dùng chức vụ để xưng. hành chính
đơn vị, tổ chức để - Dùng tên riêng để xưng. thông thƣờng
xưng. - Dùng học hàm, học vị kết hợp với tên
- Dùng tên cơ quan, riêng, chức vụ, tên cơ quan, đơn vị, tổ
đơn vị, tổ chức để chức để xưng.
xưng. - Dùng tên riêng kết hợp với chức vụ và
tên cơ quan, đơn vị, tổ chức để xưng.
Tóm lại, các BTNN để xưng trong VBHC luôn thể hiện tính chặt ch , cụ thể,
chính xác, tường minh và thể hiện tính chuẩn mực cao.
2.3.Vị trí của biểu thức ngôn ngữ để xƣng trong văn bản hành chính
Một V HC được chia làm 3 phần: phần đầu văn bản (quốc hiệu, tên cơ
quan ban hành văn bản, biểu thức ghi thời gian, địa điểm, tên văn bản, trích yếu
nội dung văn bản,..), phần nội dung văn bản (phần giữa văn bản), phần kết thúc
văn bản (quyền hạn, chức vụ của người kí; chữ kí, họ và tên của người kí). Về vị
trí, các BTNN để xưng trong V HC có mặt ở cả 3 vị trí: đầu văn bản, kết thúc
văn bản và giữa văn bản.
2.3.1. Vị trí đầu văn bản
BTNN để xưng trong V HC thường xuất hiện ngay ở phần đầu văn bản
sau quốc hiệu và các biểu thức ghi thời gian, địa điểm, tên văn bản. Xưng ở đầu
văn bản bắt buộc phải có trong các VBQPPL, VBCB và một số tiểu loại của
57
VBHCTT khác. Đây là những văn bản có tính pháp lí cao do các cơ quan, cá
nhân có thẩm quyền ban hành. Xưng ở đầu văn bản nếu là cá nhân phải là người
đứng đầu cơ quan và cần đảm bảo tính chính danh. Chủ thể phát ngôn cần thể
hiện đúng, đủ (không thừa, không thiếu) chức vụ của mình trong hệ thống cơ
quan Nhà nước. Chính danh vừa tạo nên cơ sở cho tính pháp lí của văn bản, vừa
tạo lập quan hệ giao tiếp thích hợp với người nhận văn bản. Nếu chủ thể xưng là
cơ quan thì phải xưng đầy đủ tên cơ quan (không thừa, không thiếu). Xưng đầy
đủ tên cơ quan thể hiện tính chính xác, tường minh, pháp lí, khách quan. Vị trí
xưng ở đầu văn bản mang tính khuôn mẫu theo quy định của một số loại văn bản
như: nghị quyết, quyết định, nghị định, thông tư,...
Ví dụ (24)
NGHỊ QUYẾT
(...)
CHÍNH PHỦ Căn cứ: ..........................................................................................................
giải pháp cấp bách trong phòng, chống bệnh Dịch tả lợn Châu Phi theo tinh thần chỉ đạo của Ban
Bí thƣ Trung ƣơng Đảng tại Chỉ thị số 34-CT/TW ngày 20 tháng 5 năm 2019)
QUYẾT NGHỊ … (Trích Nghị quyết Số: 42/NQ-CP, ngày 18/6/2019 của Chính phủ về việc triển khai một số
Ví dụ (25)
QUYẾT ĐỊNH (...)
CHỦ TỊCH UBND TỈNH HÀ NAM
Căn cứ: ..........................................................................................................
(Trích Quyết định số: 722/QĐ-UBND, ngày 30/5/2016 của UBND tỉnh Hà Nam về việc công
bố thủ tục hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
tỉnh Hà Nam)
QUYẾT ĐỊNH: (…)
Trong ví dụ (24), chủ thể phát ngôn là cơ quan dùng TX Chính phủ có vị
trí đầu văn bản. Trong ví dụ (25), chủ thể phát ngôn là cá nhân dùng BTX Chủ
tịch UBND tỉnh Hà Nam có vị trí ở đầu văn bản.
58
2.3.2. Vị trí kết thúc văn bản
Xưng ở vị trí kết thúc văn bản là kiểu xưng đặc trưng của V HC. Đây là
cách xưng chỉ có ở VBHC và bắt buộc phải có trong bất cứ VBHC nào. Kiểu
xưng này được thể hiện ở chỗ cuối mỗi VBHC luôn có chữ kí, tên họ đầy đủ của
một cá nhân kèm theo là vai trò hoặc chức vụ của cá nhân đó. Chữ kí trong
V HC không đơn thuần chỉ biểu thị chủ thể xưng là ai hoặc đại diện cho cơ
quan, tổ chức nào mà quan trọng hơn là nó biểu thị tính pháp lí và người chịu
trách nhiệm về văn bản. Người kí văn bản phải có đủ thẩm quyền và chịu trách
nhiệm về nội dung văn bản mà mình kí. Nếu không có đủ thẩm quyền hoặc
không được thủ trưởng giao cho kí thì không được phép kí, văn bản do người
không đủ thẩm quyền kí thì không có giá trị, hơn nữa người kí còn có thể vi
phạm pháp luật. Cơ quan nhận văn bản do người không đủ thẩm quyền kí có
quyền không thực hiện văn bản và trả lại cơ quan gửi. Xưng ở vị trí kết thúc văn
bản có thể chia thành các trường hợp sau:
a. Cá nhân kí tên với tƣ cách riêng
Trường hợp này xuất hiện trong những văn bản có tính cá thể như đơn từ
của cá nhân. Khi đó chủ thể xưng s kí ở chỗ kết thúc văn bản với tư cách người
viết (người tạo lập văn bản) đồng thời cũng là người chịu trách nhiệm và khẳng
định tính xác thực của văn bản.
Ví dụ (26)
“Kính gửi: Cô Bùi Phƣơng Hồng- Giáo viên chủ nhiệm lớp 12A6
Em tên là: Nguyễn Ánh Hồng- học sinh lớp 12A6
Nay em viết đơn này xin phép cô cho em đƣợc nghỉ học ngày 12/7/2015
Lí do xin nghỉ: em cùng mẹ đi khám bệnh.
Em xin chân thành cảm ơn cô!”
Ngƣời viết đơn
(Đã kí)
(Trích Đơn xin phép nghỉ học của một học sinh)
Nguyễn Ánh Hồng
59
Trong ví dụ (26), chủ thể xưng xuyên suốt văn bản thống nhất với nhau vì
chỉ có một cá nhân duy nhất. Ở ví dụ (26), chủ thể xưng là học sinh Nguyễn Ánh
Hồng và ở chỗ kết thúc văn bản chính học sinh đó s kí tên.
b. Cá nhân kí tên đại diện cho tập thể
Trường hợp xưng này thường xuất hiện trong những văn bản pháp quy, do
một cơ quan, đơn vị, tổ chức nào đó ban hành. Do đó, dù kí tên với cương vị nào
thì người kí tên đang nhân danh một tập thể. Lúc này, dù chữ kí là của cá nhân
song về nguyên tắc nó không có danh nghĩa là của cá nhân mà chữ kí đó mang ý
nghĩa chịu trách nhiệm và khẳng định tính xác thực của văn bản chứ không phải
khẳng định cá nhân. Điều này không có nghĩa là V HC không được do một
người soạn thảo ra, mà phải hiểu là những quy luật của VBHC không cho phép
sự thay đổi về hình thức của văn bản theo cá tính của người tạo lập. Vì một đặc
trưng quan trọng của phong cách hành chính là tính khách quan vốn gắn với
chuẩn mực pháp luật lại đặc biệt nhấn mạnh tính chất xác thực - khẳng định, tính
chất chỉ thị - mệnh lệnh cần phải tuân theo. Điều này là dấu hiệu chung của tất cả
các V HC như: lập pháp, hành chính, quản trị, tòa án, viện kiểm sát, công an…
Việc cá nhân kí tên đại diện cho một tập thể, cơ quan, tổ chức có thể xuất
hiện trong những trường hợp sau:
- Thủ trưởng cơ quan kí văn bản về những vấn đề quan trọng, những vấn đề
chủ yếu của cơ quan, những văn bản gửi lên cấp trên, giấy giới thiệu cho những
người giữ chức vụ quan trọng hoặc đi giải quyết những vấn đề quan trọng.
Ví dụ (27)
NGHỊ QUYẾT (…)
CHỦ TỊCH
(Đã kí)
(Trích Nghị quyết số 32/2018/NQ-HĐND, ngày 07/12/2018 của HĐND tỉnh Bình Định)
Nguyễn Thanh Tùng
Trong các cơ quan lãnh đạo tập thể như: U ND, HĐND… người đúng đầu
kí vẫn phải đề “TM” sau đó đề “CHỦ TỊCH” .
60
Ví dụ (28)
QUYẾT ĐỊNH (…)
TM. ỦY BAN NHÂN DÂN
CHỦ TỊCH
(Đã kí)
(Trích Quyết định số 46/2018/QĐ-UBND, ngày 19/12/2018 của UBND tỉnh Hƣng Yên)
Nguyễn Văn Phóng
- Cấp phó kí thay cho Thủ trưởng cơ quan khi thủ trưởng cơ quan đi vắng
hoặc kí những văn bản về mặt công tác mình phụ trách. Khi kí thay, người kí
phải ghi rõ chức vụ, họ tên. Cấp phó kí thay cấp trưởng phải ghi “KT”. Trong
trường hợp thừa quyền Thủ trưởng phải ghi “Q” trước chức vụ kí. Người kí thừa
ủy quyền kí phải đề “TUQ”, việc thừa ủy quyền phải được quy định bằng văn
bản, người được ủy quyền không được ủy quyền lại cho người khác kí.
Ví dụ (29)
THỦ TƢỚNG CHÍNH PHỦ … QUYẾT ĐỊNH
(…)
KT. THỦ TƢỚNG
PHÓ THỦ TƢỚNG
(Đã kí)
(Trích Quyết định số 1775/QĐ-TTg, ngày 19/12/2018 của Thủ tƣớng Chính phủ)
Vũ Đức Đam
2.3.3. Vị trí giữa văn bản
Vị trí của BTNN để xưng trong V HC không có sự cố định mà rất linh
hoạt. Ngoài những vị trí đầu, kết thúc văn bản, BTX (đầy đủ hay rút gọn) còn
được sử dụng ở giữa văn bản (nằm trong nội dung văn bản). BTX ở giữa văn bản
có thể được lặp lại nhiều lần.
Ví dụ (30)
Kính gửi: Bộ Y tế
“Văn phòng Chính phủ nhận đƣợc văn bản số …
61
Văn phòng Chính phủ chuyển Bộ Y tế văn bản nêu trên để trả lời Hội Cựu
(Trích Phiếu chuyển Số: 163/PC-VPCP, ngày 28/01/2019 của Văn phòng Chính phủ)
thanh niên xung phong Việt Nam theo quy định./.”
Trong ví dụ (30), BTX Văn phòng Chính phủ có vị trí ở giữa văn bản và
lặp lại nhiều lần.
Ví dụ (31)
CHỈ THỊ
Về việc chấn chỉnh, tăng cƣờng kỉ luật, kỉ cƣơng trong việc chấp hành pháp
luật về ngân sách Nhà nƣớc
(…)
Để khắc phục những hạn chế, yếu kém nêu trên, Thủ tƣớng Chính phủ yêu
(Trích Chỉ thị Số: 31/CT-TTg, ngày 08/11/2018 của Thủ tƣớng Chính phủ về việc chấn
chỉnh, tăng cƣờng kỉ luật, kỉ cƣơng trong việc chấp hành pháp luật về ngân sách Nhà nƣớc).
cầu các Bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ…
Trong ví dụ (31), BTX Thủ tƣớng Chính phủ có vị trí ở giữa văn bản.
Tóm lại, BTNN dùng để xưng trong V HC xuất hiện ở ba vị trí: đầu, giữa
và kết thúc văn bản. Sự xuất hiện đều đặn BTX ở cả 3 vị trí của VBHC cho thấy
chính ý nghĩa vai giao tiếp đã chi phối hoạt động của BTX. Sự hiện diện của các
BTX câu thúc chủ thể những điều nên nói gì, nói như thế nào.
2.4. Xƣng trong mối quan hệ với vị thế giao tiếp
2.4.1. Vị thế ngang bằng
Vị thế ngang bằng trong giao tiếp ở VBHC là vị thế giữa chủ thể phát ngôn và
khách thể tiếp nhận văn bản phải ngang nhau. Nếu chủ thể phát ngôn và khách thể
tiếp nhận văn bản là cá nhân thì giữa hai cá nhân phải có địa vị và chức vụ ngang
nhau theo quy định trong hệ thống các cơ quan, đơn vị, tổ chức của bộ máy quản lí
Nhà nước. Còn nếu chủ thể phát ngôn và khách thể tiếp nhận văn bản là cơ quan,
đơn vị, tổ chức thì phải là những cơ quan, đơn vị, tổ chức cùng cấp hoặc ngang cấp
theo quy định trong hệ thống các cơ quan quản lí trong bộ máy Nhà nước.
62
Đặc điểm chung của xƣng trong VBHC là tính quy thức, chuẩn mực, khách
quan và tuân theo vị thế trong giao tiếp. Mỗi một cá nhân hay cơ quan, đơn vị, tổ
chức đều chịu trách nhiệm về phát ngôn của mình trước pháp luật. Chủ thể xưng
trong văn bản (thường kí tên dưới văn bản) là chủ thể chịu trách nhiệm về văn bản.
Cách xưng trong VBHC phụ thuộc vào vị thế giao tiếp giữa chủ thể phát ngôn và
khách thể tiếp nhận, thực thi văn bản. Nếu bên phát và bên nhận văn bản có vị thế
ngang bằng, theo khảo sát tư liệu, chúng tôi nhận thấy có những cách xưng như sau:
a. Nếu bên phát văn bản, chủ thể phát ngôn là cá nhân: khi xưng, để thể
hiện sự ngang bằng, lịch sự, trung hòa về sắc thái biểu cảm, chủ thể phát ngôn
thường dùng:
+ Thứ nhất là dùng đại từ nhân xưng tôi để xưng. Đại từ nhân xưng tôi chỉ
được sử dụng để xưng trong một số VBHCTT (không sử dụng trong VBQPPL,
VBCB) do cá nhân tạo lập để giao tiếp với cá nhân khác có vị thế ngang bằng.
Xưng bằng đại từ nhân xưng tôi thể hiện tính trung hòa về sắc thái biểu cảm.
Cặp từ xưng hô thường dùng là: tôi – ông, tôi – bà, tôi – đồng chí.
Ví dụ (32)
“ Kính gửi: ông Nguyễn Văn Việt – Công chức phụ trách Tƣ pháp và hộ
tịch xã Thạnh Xuân, huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang.
Tôi tên là Lê Thành Nguyên – Công chức phụ trách Tƣ pháp và hộ tịch xã
Tân Phú Thạnh, huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang.
Để tạo điều kiện thuận lợi cho bà Lê Thị Chói cƣ ngụ tại ấp Xáng Cạp xã
Thạnh Xuân chuyển hộ khẩu về ấp Tân An xã Tân Phú Thạnh. Tôi xin kiến nghị
với ông một số việc nhƣ sau: )
Ngƣời làm đơn
(Đã kí)
(Trích Đơn kiến nghị của một cá nhân)
Lê Thành Nguyên
Ví dụ (32) là một VBHCTT (Đơn kiến nghị), chủ thể phát ngôn và khách
thể tiếp nhận văn bản đều là những công chức có vị thế ngang bằng. Chủ thể
phát ngôn đã dùng đại từ nhân xưng tôi để xưng.
63
+ Thứ hai là dùng tên riêng để xưng. Đây là cách xưng chỉ được sử dụng trong
một số VBHCTT do cá nhân tạo lập để giao tiếp với cá nhân khác ở vị thế ngang
bằng. Cách xưng này thể hiện tính chính danh của người tạo lập và chịu trách nhiệm
về văn bản. Cũng trong ví dụ (32), chủ thể phát ngôn và khách thể tiếp nhận văn
bản là những cá nhân có vị thế ngang bằng. Để chịu trách nhiệm về nội dung trong
văn bản, chủ thể phát ngôn đã dùng tên riêng (đầy đủ họ và tên) để xưng: Lê Thành
Nguyên. Vị trí xưng ở chỗ kết thúc văn bản (dưới phần kí tên).
+ Thứ ba là dùng chức vụ kết hợp với tên riêng (đầy đủ họ và tên) để xưng.
Đây là cách xưng được sử dụng trong những VBHC do cá nhân đúng đầu cơ
quan, đơn vị, tổ chức có thẩm quyền ban hành để giao tiếp tiếp với các cá nhân
khác ở vị thế ngang bằng. Để đảm bảo tính pháp lí, tính trách nhiệm, tính hiệu
lực của văn bản, chủ thể phát ngôn và ban hành văn bản phải xưng rõ chức vụ và
tên riêng (đầy đủ họ và tên). BTX này bắt buộc phải có trong tất cả các VBHC
có tính pháp lí. Vị trí xưng ở chỗ kết thúc văn bản (phần kí tên).
Ví dụ (33)
Căn cứ: .............................................................................................................
Bộ trƣởng Bộ Nội vụ ban hành Thông tƣ quy định chức danh, mã số
ngạch, chức trách, nhiệm vụ và tiêu chuẩn nghiệp vụ chuyên môn các ngạch
công chức chuyên ngành văn thƣ
Điều 10. Trách nhiệm thi hành
Các Bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan ngang Bộ có liên quan chịu trách
nhiệm thi hành quy định tại Thông tƣ này /
BỘ TRƢỞNG
(Đã kí)
(Trích Thông tƣ số: 14/2014/TT-BNV ngày 31/10/2014 của Bộ Nội vụ về Quy định
chức danh, mã số ngạch và tiêu chuẩn nghiệp vụ chuyên môn các ngạch công chức chuyên
ngành văn thƣ )
Nguyễn Thái Bình
Trong ví dụ (33), chủ thể phát ngôn và khách thể tiếp nhận văn bản có vị thế
ngang bằng. Để đảm bảo tính pháp lí, chủ thể phát ngôn dùng chức vụ (Bộ trƣởng)
kết hợp với tên riêng (Nguyễn Thái Bình) để xưng: Bộ trƣởng Nguyễn Thái Bình.
64
+ Thứ tư là dùng chức vụ kết hợp với tên cơ quan, đơn vị, tổ chức để
xưng. Đây là cách xưng xuất hiện rất nhiều trong các VBHC có tính pháp lí do
người đứng đầu cơ quan, đơn vị, tổ chức có thẩm quyền ban hành và xưng
danh. Chủ thể phát ngôn thay mặt cho cơ quan, đơn vị, tổ chức để giao tiếp với
khách thể tiếp nhận văn bản có vị thế ngang bằng. Để đảm bảo tính pháp lí,
tính minh bạch, khi giao tiếp với khách thể tiếp nhận văn bản, chủ thể phát
ngôn dùng chức vụ kết hợp với tên cơ quan, đơn vị, tổ chức để xưng. Cách
xưng này ngoài việc thể hiện tính pháp lí, tính minh bạch còn thể hiện địa vị
quyền lực của chủ thể phát ngôn, giúp cho khách thể tiếp nhận văn bản xác
định nhanh chóng, chính xác thẩm quyền của chủ thể phát ngôn. Cũng trong ví
dụ (33), chủ thể phát ngôn và khách thể tiếp nhận văn bản có vị thế ngang
bằng. Chủ thể phát ngôn đã dùng chức vụ (Bộ trƣởng) kết hợp với tên cơ quan
(Bộ Nội vụ) để xưng: Bộ trƣởng Bộ Nội vụ.
Chúng tôi tiến hành khảo sát 543 VBHC, trong đó có 135 lượt xưng cho thấy
giữa chủ thể phát ngôn và khách thể tiếp nhận văn bản có vị thế ngang bằng. Các
BTNN dùng để xưng được chúng tôi thống kê cụ thể như sau:
Bảng 2.5. Thống kê các BTNN để xƣng với vị thế ngang bằng của cá nhân
trong giao tiếp bằng VBHC tiếng Việt
Các BTNN để xƣng STT Ví dụ Tỉ lệ % Tần số xuất hiện
Dùng chức vụ kết hợp với Bộ trƣởng Bộ Tài nguyên
1 tên cơ quan, đơn vị, tổ chức 60/135 44.44 và Môi trƣờng, Bộ trƣởng
dạng đầy đủ hoặc rút gọn Bộ Quốc phòng,....
Dùng chức vụ kết hợp với Bộ trƣởng Nguyễn Thái 2 54/135 40.00 tên riêng Bình
3 Đại từ nhân xưng (số ít) 14/135 10.37 Tôi
4 Dùng tên riêng 7/135 5.19 Phạm Thành Tuấn
65
Nhìn vào bảng thống kê trên, chúng tôi nhận thấy để xưng với vị thế ngang
bằng của cá nhân trong giao tiếp bằng VBHC, chủ thể phát ngôn dùng biểu thức
phối hợp chức vụ với tên cơ quan, đơn vị, tổ chức dạng đầy đủ hoặc rút gọn để
xưng chiếm tỉ lệ cao nhất (44.44 %) vì đây là cách xưng được sử dụng trong tất
cả các loại VBHC có tính pháo lí (VBQPPL, VBCB, VBHCTT) do cá nhân có
thẩm quyền ban hành và chịu trách nhiệm về văn bản. Mặt khác, để câu thúc
khách thể tiếp nhận văn bản, cách xưng này còn được lặp lại nhiều lần trong một
VBHC. Chính vì thế đây là cách xưng chiếm tỉ lệ cao nhất. Dùng chức vụ kết
hợp với tên riêng để xưng chiếm chỉ lệ cao thứ hai (40.00 %) vì đây là cách xưng
bắt buộc phải có trong các VBHC có tính pháp lí. Vị trí xưng nằm ở chỗ kết thúc
văn bản. Chủ thể xưng phải xưng đầy đủ chức vụ, họ, tên riêng của mình và chịu
trách nhiệm về nội dung, tính pháp lí của văn bản. Dùng đại từ nhân xưng để
xưng chiếm tỉ lệ thấp (10.37 %) bởi cách xưng này chỉ xuất hiện trong một số
VBHCTT (không xuất hiện trong VBQPPL và VBCB) do một cá nhân tạo lập để
giao tiếp với một cá nhân khác có vị thế ngang bằng. Cũng để câu thúc khách thể
tiếp nhận văn bản, xưng bằng đại từ nhân xưng có thể được lặp lại nhiều lần
trong một V HC. Dùng tên riêng để xưng chiếm tỉ lệ thấp nhất (5.19 %) là vì
đây là cách xưng chỉ xuất hiện trong một số VBHCTT (không xuất hiện trong
VBQPPL và VBCB) do cá nhân tạo lập để giao tiếp với cá nhân khác ở vị thế
ngang hàng. Cách xưng này không được lặp lại nhiều lần trong một V HC như
xưng bằng đại từ nhân xưng mà chỉ xuất hiện ở chỗ kết thúc văn bản. Chủ thể
xưng phải xưng đầy đủ họ, tên riêng của mình và chịu trách nhiệm về nội dung
của văn bản.
b. Nếu bên phát văn bản, chủ thể phát ngôn là cơ quan, đơn vị, tổ chức:
để đảm bảo tính quy thức, lịch sự, chuẩn mực, pháp lí, khi giao tiếp với khách
thể tiếp nhận và thực thi văn bản ở vị thế ngang bằng, chủ thể phát ngôn dùng:
+ Thứ nhất là dùng biểu thức định danh cơ quan, đơn vị, tổ chức ở dạng
đầy đủ để xưng. Đây là cách xưng được sử dụng nhiều trong VBHC. Cách
xưng này mang tính tập thể, chứ không chỉ một cá nhân nào. Chủ thể phát ngôn
66
nhân danh cả cơ quan, đơn vị, tổ chức để giao tiếp, đồng thời cũng hướng đến
khách thể tiếp nhận là cả cơ quan, đơn vị, tổ chức, chứ không riêng cá nhân
nào. Điều đó nâng cao hiệu lực của nội dung giao tiếp. Mặt khác, việc xưng
bằng tên cơ quan, đơn vị, tổ chức còn thể hiện tính pháp lí cao.
Ví dụ (34)
Kính gửi:
- Bộ Thông tin và Truyền thông;
- Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam.
(Trích Công văn số: 12573/BTC-TCHQ ngày 20/9/2011 của Bộ Tài chính về việc vận chuyển
tiền tệ qua đƣờng bƣu chính.)
“… Bộ Tài chính có ý kiến trao đổi với quý cơ quan nhƣ sau:…”
Trong ví dụ (34), chủ thể phát ngôn và khách thể tiếp nhận văn bản là
những cơ quan cùng cấp. Chủ thể phát ngôn dùng tên cơ quan dạng đầy đủ Bộ
Tài chính để xưng.
+ Thứ hai là dùng biểu thức định danh cơ quan, đơn vị, tổ chức dạng rút
gọn để xưng. Đây là cách xưng được sử dụng nhiều trong giao tiếp bằng
VBHC. Để câu thúc khách thể tiếp nhận và thực thi văn bản, chủ thể xưng có
thể xưng nhiều lần trong văn bản. Dùng biểu thức định danh cơ quan, đơn vị, tổ
chức dạng rút gọn để xưng thường xuất hiện sau khi tên đầy đủ đã được xưng
trước đó. Cách xưng này vẫn đảm bảo được tính minh bạch, pháp lí.
Ví dụ (35)
Kính gửi: Sở Nội vụ
(…)
(Trích Tờ trình số: 507/TTr-SYT ngày 27/3/2014 của Sở Y tế tỉnh Kon Tum về việc xin chủ
trƣơng thành lập Ban soạn thảo và Tổ thƣ kí Ban soạn thảo Kế hoạch thực hiện Đề án “Bảo đảm
tài chính cho các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS của tỉnh Kon Tum giai đoạn 2014-2020”)
Sở Y tế trình Sở Nội vụ xem xét, tham mƣu UBND tỉnh./.
Trong ví dụ (35), chủ thể phát ngôn và khách thể tiếp nhận văn bản có vị
thế ngang bằng. Chủ thể phát ngôn dùng tên cơ quan dạng rút gọn Sở Y tế (rút
gọn từ tên đầy đủ: Sở Y tế tỉnh Kon Tum) để xưng.
67
Chúng tôi tiến hành khảo sát 543 VBHC, trong đó có 81 lượt xưng cho thấy
giữa chủ thể phát ngôn và khách thể tiếp nhận văn bản là cơ quan, đơn vị, tổ
chức có vị thế ngang bằng. Các BTNN dùng để xưng được chúng tôi thống kê cụ
thể như sau:
Bảng 2.6. Thống kê các BTNN để xƣng với vị thế ngang bằng của cơ quan,
đơn vị, tổ chức trong giao tiếp bằng VBHC tiếng Việt
Tần số Tỉ lệ Các BTNN để xƣng STT Ví dụ xuất hiện %
48/81 59.26 1
33/41 40.74 2 Bộ Tài chính, UBND tỉnh Nghệ An UBND tỉnh, Sở Nội Vụ Dùng tên cơ quan, đơn vị, tổ chức dạng đầy đủ Dùng tên cơ quan, đơn vị, tổ chức dạng rút gọn
Nhìn vào bảng thống kê trên, chúng tôi nhận thấy để xưng với vị thế ngang
bằng của cơ quan, đơn vị, tổ chức trong giao tiếp bằng VBHC, chủ thể xưng dùng
tên đầy đủ để xưng chiếm tỉ lệ cao (59.26 %) bởi đây là cách xưng được sử dụng
trong tất cả các loại VBHC có tính pháp lí (VBQPPL, VBCB, VBHCTT) do các cơ
quan, đơn vị, tổ chức có thẩm quyền ban hành. Mặt khác, dùng tên đầy đủ để xưng
đảm bảo tính lịch sự, minh xác, pháp lí, khách quan. Dùng biểu thức định danh cơ
quan, đơn vị, tổ chức dạng rút gọn để xưng chiếm tỉ lệ thấp hơn (40.74 %) vì đây là
cách xưng chỉ được sử dụng trong VBCB và VBHCTT có tính pháp lí do các cơ
quan, đơn vị, tổ chức có thẩm quyền ban hành (không dùng trong VBQPPL).
Nói chung, xưng ở vị thế ngang bằng trong VBHC là xưng theo quy thức,
đó là kiểu xưng lịch sự, có tính chuẩn mực, khách quan, trung hòa, hành chính
và tuân thủ theo những quy định của pháp luật.
Nếu so sánh với xƣng trong hoạt động giao tiếp hằng ngày và nơi công
sở, chúng tôi nhận thấy có điểm tương đồng và khác biệt. Tương đồng ở chỗ,
trong VBHC, trong giao tiếp hằng ngày và nơi công sở ở vị thế ngang bằng,
chủ thể phát ngôn thường dùng các từ xƣng mang tính chất lịch sự, trung hòa
về sắc thái biểu cảm như từ tôi, những cặp từ xưng hô thường dùng là: tôi -
68
ông, tôi - bà, tôi - đồng chí. Khác biệt ở chỗ, trong giao tiếp hằng ngày và nơi
công sở, ở vị thế ngang bằng, người phát ngôn thường dùng các từ xƣng mang
tính biểu cảm, thân mật, như: tớ, tao, mình, tên, đằng này, đây, những cặp từ
xưng hô thường dùng là: tớ - cậu, tao – mày, mình - bạn, tên - tên, đằng này -
đằng ấy, đây - đấy...thì trong VBHC không có hiện tượng này mà cách xưng
hô phải thể hiện tính trung hòa, lịch sự và chỉ dùng những cặp từ xưng hô: tôi
- ông, tôi - bà, tôi - đồng chí. Đó là những điểm tương đồng và khác biệt cơ
bản giữa xƣng ở vị thế ngang bằng trong VBHC với xƣng ở vị thế ngang bằng
trong hoạt động giao tiếp hằng ngày và nơi công sở.
2.4.2. Vị thế của vai trên đối với vai dƣới
Trong giao tiếp, quan hệ vị thế phụ thuộc vào các yếu tố mang tính xã hội
như địa vị xã hội, giới tính, tuổi tác,...Các yếu tố này tạo nên những mối quan hệ
cá nhân và chi phối đến việc lựa chọn cách xưng hô của nhân vật giao tiếp. Đối
với VBHC, vị thế giao tiếp bộc lộ một cách hạn chế. Ví dụ: có hai người A và B,
xét về mặt địa vị xã hội A là Giám đốc, B là nhân viên nhưng xét về tuổi tác B
lớn tuổi và A nhỏ tuổi, xét về quan hệ gia đình thì B là bậc chú còn A là vai
cháu. Nhưng khi cần trình bày một vấn đề bằng văn bản, ví dụ như: Đơn xin nghỉ
phép thì B vẫn phải viết là Kính gửi Giám đốc công ti và xưng tôi hoặc trong
giao tiếp hành chính thì B gọi A bằng chức vụ cộng với họ tên và xưng bằng tôi
còn A gọi B là anh cộng với tên và xưng bằng tôi. Trong VBHC những mối
quan hệ liên cá nhân, những quan hệ tôn ti trong gia tộc không được bộc lộ, chỉ
còn lại mối quan hệ giữa sếp với nhân viên theo đúng quy định hành chính.
Xưng ở vị thế vai trên đối với vai dưới trong V HC là cách xưng của chủ thể
phát ngôn (vai trên) với khách thể tiếp nhận và thực thi văn bản (vai dưới).
Xưng thể hiện vị thế của vai trên đối với vai dưới trong VBHC là cách
xưng theo quy thức, có tính lịch sự, tính pháp lí. Theo khảo sát tư liệu, chúng tôi
nhận thấy, cách xưng này được thể hiện như sau:
a. Nếu bên phát văn bản, chủ thể phát ngôn là cá nhân: khi xưng, để thể hiện
tính lịch sự, địa vị quyền lực và vị thế, chủ thể phát ngôn (vai trên) thường dùng:
+ Thứ nhất là đại từ nhân xưng tôi để xưng. Nếu như ở vị thế ngang bằng,
69
chủ thể phát ngôn xưng tôi để thể hiện tính trung hòa với khách thể tiếp nhận văn
bản thì vai trên xưng tôi với vai dưới thể hiện tính lịch sự, sự gần gũi, khách
quan với khách thể tiếp nhận.
Ví dụ (36)
“…Nhân ngày khai giảng năm học mới và ngày toàn dân đƣa trẻ đến
trƣờng, tôi thân ái gửi tới các thế hệ nhà giáo, cán bộ, công nhân viên chức
ngành giáo dục, các bậc phụ huynh và các em học sinh, sinh viên trong cả
(Trích Thƣ của Chủ tịch nƣớc Nguyễn Minh Triết gửi ngành Giáo dục nhân dịp khai giảng
năm học mới 2010-2011)
nƣớc lời chúc mừng tốt đẹp nhất…”
Trong ví dụ (36), chủ thể phát ngôn là Chủ tịch nước (vai trên) đã dùng
đại từ nhân xưng tôi để xưng với khách thể tiếp nhận là các thế hệ nhà giáo,
cán bộ, công nhân viên chức ngành giáo dục, các bậc phụ huynh và các em
học sinh, sinh viên (vai dưới).
+ Thứ hai là dùng chức vụ để xưng. Đây là cách xưng thể hiện tính pháp lí,
địa vị quyền lực và vị thế của chủ thể phát ngôn. Cách xưng này được sử dụng
trong những VBHC có tính pháp lí do cá nhân đứng đầu cơ quan, đơn vị tổ chức
ban hành để giao tiếp với các cá nhân khác ở vị thế thấp hơn nhằm chỉ đạo công
việc cho từng cá nhân cụ thể.
Ví dụ (37)
“…Chấp hành nghị quyết của Hội đồng quản trị số 09/NQ - DN -
HĐQT,Giám đốc chỉ thị các trƣởng các đơn vị, bộ phận trong công ti tiến hành
sơ kết việc thực hiện Chƣơng trình “Nâng cao chất lƣợng và quảng bá sản
(Trích Chỉ thị số 12/CT-DN ngày 16/7/2013 của Giám đốc Công ti Cổ phần Mía Đƣờng Cần
Thơ về việc sơ kết việc thực hiện Chƣơng trình “Nâng cao chất lƣợng và quảng bá sản phẩm”)
phẩm” theo các nội dung sau đây:…”
Trong ví dụ (37), chủ thể phát ngôn là Giám đốc có vị thế cao hơn khách
thể tiếp nhận là các trƣởng các đơn vị, bộ phận trong công ti. Chủ thể phát
ngôn dùng chức vụ Giám đốc để xưng.
+ Thứ ba là dùng chức vụ kết hợp với tên cơ quan, đơn vị, tổ chức để xưng.
Đây là cách xưng được sử dụng rất nhiều trong VBHC có tính pháp lí do người
70
đứng đầu cơ quan, đơn vị, tổ chức có thẩm quyền ban hành để giao tiếp với cá
nhân có vị thế thấp hơn mình nhằm chỉ đạo công việc cho từng cá nhân cụ thể.
Cách xưng này thể hiện địa vị quyền lực và vị thế của chủ thể phát ngôn. Mặt
khác, nó còn thể hiện tính pháp lí, giúp cho khách thể tiếp nhận văn bản xác định
chính xác, nhanh chóng thẩm quyền của chủ thể phát ngôn.
Ví dụ (38)
“…Để tiếp tục tăng cƣờng bảo vệ các tuyến cáp viễn thông ngầm trên biển;
nhằm bảo đảm an toàn, an ninh cơ sở hạ tầng viễn thông quốc gia, Thủ tƣớng
Chính phủ yêu cầu:
1. Bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ
(Trích Chỉ thị số: 30/2009/CT-TTg, ngày 13/12/2009 của Thủ tƣớng Chính phủ về việc tăng
cƣờng bảo vệ các tuyến cáp viễn thông ngầm trên biển và bảo đảm an toàn viễn thông quốc tế.)
tịch UBND các cấp chỉ đạo và có biện pháp cụ thể triệt để nghiêm cấm… ”
Trong ví dụ (38), chủ thể phát ngôn là Thủ tƣớng Chính phủ (vai trên) đã
dùng chức vụ (Thủ tƣớng) kết hợp với tên cơ quan (Chính phủ) để xưng với
khách thể tiếp nhận văn bản là Bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan ngang Bộ, cơ
quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch UBND các cấp (vai dưới).
+ Thứ tư là dùng tên riêng (đầy đủ họ và tên) để xưng. Đây là cách xưng
chỉ xuất hiện trong một số VBHCTT có tính chất đặc thù do cá nhân đứng đầu
cơ quan, đơn vị, tổ chức tạo lập để giao tiếp với các cá nhân khác có vị thế thấp
hơn. Cách xưng này nhằm thể hiện tính minh bạch của chủ thể phát ngôn. Vị trí
xưng ở chỗ kết thúc văn bản (dưới phần kí tên)
Ví dụ (39)
Kính gửi: Cán bộ, chiến sĩ Bộ đội Biên phòng tỉnh Quảng Trị, Bộ Tƣ
lệnh Bộ đội biên phòng
…
Thân ái,
(Trích Thƣ biểu dƣơng của Thủ tƣớng Chính phủ gửi Cán bộ, chiến sĩ Bộ đội Biên phòng
tỉnh Quảng Trị, Bộ Tƣ lệnh Bộ đội Biên phòng, ngày 03/10/2018)
(Đã kí) Nguyễn Xuân Phúc
71
Ví dụ (39), chủ thể phát ngôn là Thủ tướng Chính phủ (vai trên) đã dùng
tên riêng Nguyễn Xuân Phúc để xưng với các khách thể tiếp nhận văn bản (vai
dưới) là Cán bộ, chiến sĩ Bộ đội Biên phòng tỉnh Quảng Trị .
+ Thứ năm là dùng chức vụ kết hợp tên riêng (đầy đủ họ và tên) để xưng.
Đây là cách xưng bắt buộc phải có trong VBHC có tính pháp lí do các cơ quan,
đơn vị, tổ chức hoặc cá nhân (thường là người đứng đầu cơ quan, đơn vị, tổ
chức) có thẩm quyền ban hành. Để đảm bảo tính pháp lí và người chịu trách
nhiệm về văn bản, chủ thể phát ngôn hay người chịu trách nhiệm về văn bản phải
xưng rõ chức vụ kết hợp với tên riêng (đầy đủ họ và tên). Vị trí xưng ở chỗ kết
thúc văn bản (phần kí tên).
Ví dụ (40)
CỤC TRƢỞNG CỤC QUẢN LÍ DƢỢC
Căn cứ………………………
QUYẾT ĐỊNH
(… )
Điều 7. Giám đốc Sở Y tế các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng, giám đốc
nhà sản xuất và công ti thuốc chịu trách nhiệm thi hành quyết định này./.
CỤC TRƢỞNG
(Đã kí)
(Trích Quyết định Số: 220/QĐ-QLD ngày 16/4/2019 của Cục Quản lí Dƣợc về việc Ban
hành danh mục 24 thuốc nƣớc ngoài đƣợc cấp sổ đăng kí lƣu hành tại Việt Nam – đợt 102 bổ sung)
Vũ Tuấn Cƣờng
Trong ví dụ (40), chủ thể phát ngôn (vai trên) đã dùng chức vụ (Cục trƣởng)
kết hợp với tên riêng (Vũ Tuấn Cƣờng) để xưng: Cục trƣởng Vũ Tuấn Cƣờng.
+ Thứ sáu là dùng học hàm, học vị kết hợp với tên riêng (đầy đủ họ, tên),
chức vụ và tên cơ quan, đơn vị, tổ chức để xưng. Đây là cách xưng chỉ xuất hiện
trong một số VBHCTT do người đứng đầu cơ quan, đơn vị, tổ chức tạo lập, ban
hành để giao tiếp với các cá nhân khác. Cách xưng này thể hiện vị thế, quyền
72
lực, tính minh bạch, tính pháp lí của chủ thể phát ngôn. Vị trí xưng ở chỗ kết
thúc văn bản (dưới phần kí tên)
Ví dụ (41)
Kính gửi: Các đồng chí Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo các Tỉnh,
Thành phố
…
(Đã kí)
(Trích Thƣ của Bộ trƣởng Bộ Giáo dục và Đào tạo)
GS.TS. Phạm Vũ Luận Bộ trƣởng Bộ Giáo dục và Đào tạo
Trong ví dụ (41), chủ thể phát ngôn (vai trên) đã dùng học hàm (Giáo sƣ), học
vị (Tiến sĩ) kết hợp với tên riêng (Phạm Vũ Luận), chức vụ (Bộ trƣởng) và tên cơ
quan (Bộ Giáo dục và Đào tạo): GS. TS. Phạm Vũ Luận, Bộ trƣởng Bộ Giáo dục
và Đào tạo để xưng với các khách thể tiếp nhận văn bản (vai dưới) là Các đồng chí
Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo các Tỉnh, Thành phố.
+ Thứ bảy là dùng tên riêng kết hợp với chức vụ và tên cơ quan, đơn vị, tổ chức
để xưng. Đây là cách xưng chỉ xuất hiện trong một số VBHCTT do cá nhân đứng đầu
cơ quan, đơn vị, tổ chức tạo lập để giao tiếp với các cá nhân khác. Cách xưng này thể
hiện tính minh bạch, tính pháp lí, tính quyền uy của chủ thể phát ngôn. Nó giúp cho
khách thể tiếp nhận văn bản biết chính xác tên, địa vị quyền lực của chủ thể xưng.
Ví dụ (42)
Thân ái gửi các thầy giáo, cô giáo, cán bộ, công chức, viên chức tại các
trƣờng đại học thuộc Bộ Lao động-Thƣơng binh và Xã hội, các cơ sở giáo dục
nghề nghiệp trên toàn quốc
…
(Đã kí) Đào Ngọc Dung
(Trích Thƣ chúc mừng của Bộ trƣởng Bộ Lao động – Thƣơng binh và Xã hội nhân ngày Nhà
giáo Việt Nam 20/11/2017)
Bộ trƣởng Bộ Lao động -Thƣơng binh và Xã hội
73
Trong ví dụ (42), chủ thể xưng (vai trên) đã dùng tên riêng (Đào Ngọc
Dung) kết hợp với chức vụ (Bộ trƣởng) và tên cơ quan (Bộ Lao động – Thƣơng
binh và Xã hội): Đào Ngọc Dung, Bộ trƣởng Bộ Lao động – Thƣơng binh và
Xã hội để xưng với khách thể tiếp nhận văn bản (vai dưới) là các thầy giáo, cô
giáo, cán bộ, công chức, viên chức…
Trong 543 VBHC được khảo sát có 386 lượt xưng mà chủ thể xưng là cá
nhân có vị thế cao hơn khách thể tiếp nhận và thực thi văn bản. Các BTNN dùng
để xưng được chúng tôi thống kê cụ thể như sau:
Bảng 2.7. Thống kê các BTNN để xƣng với vai dƣới của cá nhân trong giao
tiếp bằng VBHC tiếng Việt
Tần số Tỉ lệ Các BTNN để xƣng STT Ví dụ xuất hiện %
tƣớng Chính phủ, 1 192/386 49.74 Thủ Chủ tịch UBND tỉnh,...
Dùng chức vụ kết hợp với tên cơ quan, đơn vị, tổ chức dạng đầy đủ hoặc rút gọn
trƣởng Vũ Tuấn 2 137/386 35.50 Dùng chức vụ kết hợp với tên riêng. Cục Cƣờng
3 Dùng chức vụ 24/386 6.21 Thủ tƣớng, Bộ trƣởng, Hiệu trƣởng, Giám đốc,...
4 19/386 4.92 Tôi Dùng đại từ nhân xưng (số ít)
5 6/386 1.55
Dùng tên riêng kết hợp với chức vụ và tên cơ quan. Đào Ngọc Dung, Bộ trƣởng Bộ Lao động – Thƣơng binh và Xã hội
6 5/386 1.30
Dùng học hàm, học vị kết hợp với tên riêng, chức vụ và tên cơ quan. GS.TS. Phạm Vũ Luận, Bộ trƣởng Bộ Giáo dục và Đào tạo.
7 Dùng tên riêng 3/386 0.78 Nguyễn Xuân Phúc
74
Nhìn vào bảng thống kê trên, chúng tôi nhận thấy để xưng với vai
dưới của cá nhân trong giao tiếp bằng VBHC, chủ thể xưng thường dùng
biểu thức phối hợp chức vụ với tên cơ quan, đơn vị, tổ chức dạng đầy đủ
hoặc rút gọn để xưng chiếm tỉ lệ cao nhất (49.74 %) bởi đây là cách xưng
được dùng trong tất cả các loại VBHC có tính pháp lí (VBQPPL, VBCB,
VBHCTT) do cá nhân đứng đầu cơ quan có thẩm quyền ban hành. Để câu
thúc khách thể tiếp nhận và thực thi văn bản, cách xưng này có thể được
lặp lại nhiều lần trong văn bản. Dùng biểu thức phối hợp chức vụ với tên
riêng (đầy đủ họ và tên) để xưng chiếm tỉ lệ cao thứ hai (35.50 %) vì đây là
cách xưng bắt buộc phải có trong tất cả các loại VBHC có tính pháp lí
(VBQPPL, VBCB, VBHCTT). Cách xưng này chỉ xuất hiện ở chỗ kết thúc
văn bản. Chủ thể xưng chịu trách nhiệm về nội dung và tính pháp lí của văn
bản. Dùng chức vụ kết hợp với tên riêng để xưng không được lặp lại nhiều
lần trong văn bản như dùng chức vụ kết hợp với tên cơ quan, đơn vị, tổ
chức để xưng. Dùng chức vụ để xưng chiếm tỉ lệ thấp (6.21 %) bởi đây là
cách xưng chỉ xuất hiện trong một số VBHCTT có tính pháp lí do người
đứng đầu các cơ quan, đơn vị, tổ chức có thẩm quyền ban hành như: Thông
báo, chỉ thị (không xuất hiện trong VBQPPL, VBCB) và chỉ có chức vụ
cao nhất mới được dùng để xưng. Dùng đại từ nhân xưng để xưng chiếm tỉ
lệ thấp hơn (4.92 %) bởi đây là cách xưng chỉ xuất hiện trong một số
VBHCTT do cá nhân tạo lập để giao tiếp với các cá nhân khác có vị thế
thấp hơn mình. Để câu thúc khách thể tiếp nhận và thực thi văn bản, xưng
bằng đại từ nhân xưng có thể được lặp lại nhiều lần trong văn bản. Dùng
tên riêng kết hợp với chức vụ và tên cơ quan, đơn vị, tổ chức để xưng
chiếm tỉ lệ (1.55 %); dùng học hàm, học vị kết hợp với tên riêng, chức vụ
và tên cơ quan để xưng chiếm tỉ lệ (1.30 %); dùng tên riêng để xưng chiếm
tỉ lệ (0.78 %). Đây là những cách xưng chiếm tỉ lệ thấp nhất bởi những
cách xưng này chỉ xuất hiện ở một số tiểu loại trong VBHCTT.
75
b. Nếu bên phát văn bản, chủ thể phát ngôn là cơ quan, đơn vị, tổ chức:
+ Thứ nhất là dùng biểu thức định danh cơ quan, đơn vị, tổ chức dạng đầy
đủ để xưng. Đây là cách xưng được sử dụng phổ biến trong VBHC có tính pháp
lí cao hiện nay. Cách xưng này mang đến một sắc thái về quyền uy của tập thể,
chứ không chỉ một cá nhân nào. Mặt khác nó còn thể hiện tính pháp lí và vị thế
quyền lực của chủ thể phát ngôn.
Ví dụ (43)
Kính gửi: UBND Thành phố Hồ Chí Minh
(…)
Văn phòng Chính phủ thông báo để UBND Thành phố Hồ Chí Minh
(Trích Công văn số: 7364/VPCP-TTĐT ngày 03/9/2016 về việc kiểm tra, xử lí thông tin báo nêu.)
biết, thực hiện./.
Trong ví dụ (43), chủ thể phát ngôn là Văn phòng Chính phủ ở vị thế cao hơn
khách thể tiếp nhận văn bản là UBND Thành phố Hồ Chí Minh. Chủ thể phát
ngôn dùng tên cơ quan dạng đầy đủ Văn phòng Chính phủ để xưng.
+ Thứ hai là dùng biểu thức định danh cơ quan, đơn vị, tổ chức dạng rút
gọn để xưng. Cách xưng này cũng được sử dụng nhiều trong giao tiếp bằng
VBHC hiện nay. Để câu thúc khách thể tiếp nhận và thực thi văn bản, chủ thể
xưng có thể xưng nhiều lần trong văn bản. Xưng bằng tên rút gọn thường xuất
hiện sau khi đã xưng bằng tên đầy đủ trước đó.
Ví dụ (44)
“…UBND tỉnh yêu cầu các sở, ban, ngành; UBND các huyện, thành phố
Đà Lạt, Bảo Lộc và các cơ quan, đơn vị, các doanh nghiệp hoạt động trên địa
(Trích Chỉ thị số:02/CT-UBND ngày 29/01/2015 của UBND tỉnh Lâm Đồng về việc tổ chức
Tết Nguyên đán Ất Mùi -2015.)
bàn tỉnh Lâm Đồng tổ chức thực hiện những nội dung sau:…”
Trong ví dụ (44), chủ thể phát ngôn là UBND tỉnh Lâm Đồng ở vị thế cao
hơn khách thể tiếp nhận văn bản là các sở, ban, ngành; UBND các huyện,
thành phố Đà Lạt, Bảo Lộc và các cơ quan, đơn vị, các doanh nghiệp hoạt
76
động trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng. Chủ thể phát ngôn dùng tên cơ quan dạng rút
gọn UBND tỉnh (rút gọn từ tên đầy đủ UBND tỉnh Lâm Đồng) để xưng.
Trong 543 VBHC được khảo sát có 142 lượt xưng mà chủ thể phát ngôn là
cơ quan, đơn vị, tổ chức có vị thế cao hơn khách thể tiếp nhận văn bản. Các
BTNN dùng để xưng được chúng tôi thống kê cụ thể như sau:
Bảng 2.8. Thống kê các BTNN để xƣng với vai dƣới của cơ quan, đơn vị, tổ
chức trong giao tiếp bằng VBHC tiếng Việt
Các BTNN để xƣng STT Ví dụ Tỉ lệ % Tần số xuất hiện
1 Dùng tên của cơ quan, đơn Văn phòng Chính phủ 83/142 58.45 vị, tổ chức dạng đầy đủ
Nhìn vào bảng thống kê trên, chúng tôi nhận thấy để xưng với vai dưới của
2 Dùng tên của cơ quan, đơn UBND tỉnh 59/142 41.55 vị, tổ chức dạng rút gọn
cơ quan, đơn vị, tổ chức, chủ thể xưng dùng: biểu thức định danh cơ quan, đơn
vị, tổ chức dạng đầy đủ để xưng chiếm tỉ lệ cao (58.45 %) vì đây là cách xưng
được sử dụng trong tất cả các loại VBHC tiếng Việt có tính pháp lí do các cơ
quan, đơn vị, tổ chức có thẩm quyền ban hành (VBQPPL, VBCB, VBHCTT).
Dùng biểu thức định danh cơ quan, đơn vị, tổ chức dạng rút gọn để xưng chiếm
tỉ lệ thấp hơn (41.55 %) bởi đây là cách xưng chỉ được sử dụng trong VBCB và
VBHCTT có tính pháp lí (không được dùng trong VBQPPL).
Nhìn chung, xưng trong VBHC ở vị thế của vai trên đối với vai dưới là
những cách xưng mang tính lịch sự, quy thức, chuẩn mực, hành chính tuân thủ
theo thứ bậc trên dưới và đúng pháp luật.
Nếu so sánh với xƣng trong hoạt động giao tiếp hằng ngày và nơi công sở,
chúng tôi nhận thấy có sự tương đồng và khác biệt. Tương đồng ở chỗ, trong giao
tiếp hằng ngày và nơi công sở, nếu không phải là quan hệ thân tộc thì người vai trên
(thường căn cứ vào tuổi tác và vị thế trong xã hội) cũng xưng với người vai dưới là
77
tôi, cặp từ xưng hô thường dùng: tôi - anh, tôi - chị, tôi – em, tôi - cô, tôi - bạn, tôi -
chú, tôi - bác...Khác biệt ở chỗ, trong giao tiếp hằng ngày và nơi công sở, nếu người
vai trên có quan hệ thân tộc với người vai dưới thì thường dùng từ chỉ mối quan hệ
thân tộc để xưng (xưng theo vai vế: cụ, ông, bà, chú, bác, cô, dì, anh, chị...). Trong
VBHC, không dùng từ chỉ mối quan hệ thân tộc để xưng. Mặt khác, trong VBHC
thường dùng chức vụ để xưng nhưng trong giao tiếp hằng ngày và nơi công sở ít
dùng chức vụ để xưng (chỉ dùng trong một vài tình huống giao tiếp đặc thù lặp lại).
Ví như: A là thủ trưởng, B là nhân viên. B hỏi A: Thủ trƣởng đang làm gì đấy ?. A
trả lời: Thủ trƣởng đang xem báo cáo. Trong trường hợp này, vai trên lặp lại chức
vụ của vai dưới gọi để xưng với vai dưới.
2.4.3. Vị thế của vai dƣới đối với vai trên
Cũng giống như xưng ở vị thế của vai trên đối với vai dưới, xưng ở vị thế
của vai dưới đối với vai trên trong VBHC là cách xưng theo quy thức, có tính
pháp lí, lịch sự chuẩn mực.Theo khảo sát tư liệu, chúng tôi nhận thấy cách xưng
này được thể hiện như sau:
a. Nếu bên phát văn bản, chủ thể phát ngôn là cá nhân:
+ Thứ nhất là dùng đại từ nhân xưng tôi, em để xưng. “Từ tôi trong tiếng
Việt vốn là danh từ chỉ người có địa vị thấp trong xã hội (tôi tớ, tôi đòi) được
ngữ pháp hóa thành đại từ tôi chỉ ngôi 1 số ít với sắc thái khiêm nhường” [70, tr.
7]. Bùi Minh Yến cho rằng: “Xuất phát từ một danh từ chỉ người có địa vị thấp
trong xã hội, danh xưng này có l thoạt đầu để tỏ ý khiêm cung, nhưng dần dà nó
trở thành một sự khẳng định kín đáo. Tôi với bạn bè thân hữu hay kẻ dưới người
trên đều hàm một vị thế khách quan, độc lập. Chính vì thế, nó được dùng nhất
loạt làm từ xưng trong ngôn ngữ xưng hô quy thức” [113, tr. 196]. Ngoài cách
xưng phổ biến là tôi, ở một số phạm vi nhất định, trong VBHC, có thể có cách
xưng khác phù hợp với phạm vi đó. Ví dụ trong nhà trường phổ thông, học sinh
có thể xưng là em với thầy, cô giáo. Những cách xưng này phổ biến trong phạm
vi các đơn từ của cá nhân gửi cho cá nhân hoặc tổ chức có quyền lực cao hơn.
Những ví dụ sau s minh chứng cho cách xưng này:
78
Ví dụ (45)
Kính gửi: Viện trƣởng Viện X
Tôi tên là Nguyễn Phƣơng Hoa
Chức vụ: Nghiên cứu viên
Tôi viết đơn này xin đƣợc trình bày về nguyện vọng chuyển đổi phòng công
(Trích Đơn đề nghị của một cá nhân)
tác để phù hợp với chuyên môn. Cụ thể nhƣ sau:…
Trong ví dụ (45), chủ thể phát ngôn (vai dưới) dùng đại từ nhân xưng tôi để xưng.
Ví dụ (46):
Kính gửi: cô Vũ Thị Lƣợng- Giáo viên chủ nhiệm lớp 11A 6
Em tên là: Nguyễn Vũ Hùng - học sinh lớp 11A6
Nay em viết đơn này xin phép cô cho em đƣợc nghỉ học ngày 11/5/2017
Lí do: Ngoại em bị bệnh, dì em bận công tác nhờ em ở nhà chăm sóc
ngoại một ngày.
Ngƣời làm đơn
Em xin chân thành cảm ơn cô!
(Đã kí)
(Trích Đơn xin phép nghỉ học của một học sinh)
Nguyễn Vũ Hùng
Trong ví dụ (46), chủ thể phát ngôn (vai dưới) xưng là em và hô khách thể
tiếp nhận văn bản (vai trên) là cô.
+ Thứ hai là dùng tên riêng (đầy đủ họ và tên) để xưng. Cách xưng
này chỉ xuất hiện trong những VBHCTT do cá nhân tạo lập để giao tiếp với
một cá nhân hay tập thể khác có vị thế cao hơn mình nhằm để trao đổi công
việc mang tính cá nhân. Vị trí xưng ở chỗ kết thúc văn bản (dưới phần kí
tên). Đây là cách xưng thể hiện tính minh bạch của chủ thể phát ngôn cũng
như người chịu trách nhiệm về nội dung văn bản. Chẳng hạn như trong ví
dụ (46), chủ thể phát ngôn dùng tên riêng (đầy đủ họ và tên): Nguyễn Vũ
Hùng để xưng.
79
Trong 543 V HC được khảo sát có 49 lượt xưng mà chủ thể phát ngôn là
cá nhân có vị thế thấp hơn khách thể tiếp nhận văn bản. Các BTNN dùng để
xưng được chúng tôi thống kê cụ thể như sau:
Bảng 2.9. Thống kê các BTNN để xƣng với vai trên của cá nhân trong giao
tiếp bằng VBHC tiếng Việt
Các BTNN để xƣng Ví dụ Tỉ lệ % STT Tần số xuất hiện
1 Dùng đại từ nhân xưng 28/49 57.14 Tôi, em (số ít)
2 Dùng tên để xưng 21/49 42.86 Nguyễn Vũ Hùng
Nhìn vào bảng thống kê trên, chúng tôi nhận thấy để xưng với vị thế vai
trên của cá nhân trong giao tiếp bằng VBHC, chủ thể xưng dùng đại từ nhân
xưng (tôi, em) để xưng chiếm tỉ lệ cao (57.14 %) vì đây là cách xưng được sử
dụng trong các VBHC do cá nhân tạo lập để giao tiếp với cá nhân khác có vị thế
cao hơn mình. Để câu thúc khách thể tiếp nhận và thực thi văn bản, cách xưng
này còn được lặp lại nhiều lần trong văn bản. Dùng tên riêng để xưng chiếm tỉ lệ
thấp hơn (42.86 %) là bởi đây là cách xưng bắt buộc phải có trong các VBHC do
cá nhân tạo lập để giao tiếp với cá nhân khác có vị thế cao hơn mình. Cách xưng
này chỉ xuất hiện ở chỗ kết thúc văn bản và không được lặp lại nhiều lần trong
văn bản. Do đó dùng tên riêng để xưng chiến tỉ lệ thấp hơn so với dùng đại từ
nhân xưng để xưng.
b. Nếu bên phát văn bản, chủ thể phát ngôn là cơ quan, đơn vị, tổ chức:
+ Thứ nhất là dùng biểu thức định danh cơ quan, đơn vị, tổ chức dạng đầy
đủ để xưng. Cách xưng này chỉ xuất hiện trong các VBHC có tính pháp lí do cơ
quan, đơn vị, tổ chức tạo lập để giao tiếp với các cơ quan, đơn vị, tổ chức khác
có vị thế cao hơn. Đây là cách xưng rất phổ biến trong VBHC. Cách xưng này
thể hiện tính tập thể, tính lịch sự, tính pháp lí của chủ thể xưng.
80
Ví dụ (47)
Kính gửi: Sở Tài chính tỉnh Hậu Giang
Xét Tờ trình…
Nay, UBND huyện Châu Thành A trình đề nghị Sở Tài chính tỉnh Hậu
(Trích Tờ trình số: 91/TTr-UBND ngày 17/3/2016 của UBND huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu
Giang về việc xin kinh phí để thanh toán nợ các dự án quy hoạch trên địa bàn huyện Châu Thành A.)
Giang tham mƣu trình UBND tỉnh xin phân bổ kinh phí để thanh toán nợ…
Trong ví dụ (47), chủ thể phát ngôn (vai dưới) dùng tên cơ quan dạng đầy
đủ UBND huyện Châu Thành A để xưng với khách thể tiếp nhận văn bản là Sở
Tài chính tỉnh Hậu Giang (vai trên)
+ Thứ hai là dùng biểu thức định danh cơ quan, đơn vị, tổ chức dạng rút
gọn để xưng. Đây là cách xưng được sử dụng nhiều trong giao tiếp bằng VBHC.
Cách xưng này chỉ xuất hiện trong các VBHC có tính pháp lí do cơ quan, đơn vị,
tổ chức tạo lập để giao tiếp với các cơ quan, đơn vị, tổ chức khác có vị thế cao
hơn. Việc dùng tên cơ quan dạng rút gọn để xưng chỉ xuất hiện sau khi tên đầy
đủ đã được xưng trước đó. Cách xưng này vẫn đảm bảo tính chính xác, pháp lí.
Ví dụ (48)
Kính gửi: UBND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
(…)
Nay Sở Giáo dục và Đào tạo kính trình UBND tỉnh xem xét phê duyệt kế
hoạch Triển khai nhiệm vụ Đề án Ngoại ngữ Quốc gia 2020 năm 2014 trên địa
(Trích Tờ trình số: 431/TTr-SGDĐT ngày 17/4/2014 của Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Bà
Rịa - Vũng Tàu về việc xin phê duyệt kế hoạch Triển khai nhiệm vụ Đề án Ngoại ngữ Quốc gia
2020 năm 2014 trên địa bàn tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.)
bàn tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Trong ví dụ (48), chủ thể phát ngôn (vai dưới) dùng tên cơ quan dạng rút
gọn Sở Giáo dục và Đào tạo (rút gọn từ tên đầy đủ Sở Giáo dục và Đào tạo
tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu) để xưng với khách thể tiếp nhận văn bản là UBND
tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (vai trên).
81
Trong 543 VBHC được khảo sát có 138 lượt xưng cho thấy chủ thể phát
ngôn có vị thế thấp hơn khách thể tiếp nhận văn bản. Các BTNN để xưng được
chúng tôi thống kê như sau:
Bảng 2.10. Thống kê các BTNN để xƣng với vai trên của cơ quan, đơn vị, tổ
chức trong giao tiếp bằng VBHC tiếng Việt
Tần số Tỉ lệ Các BTNN để xƣng STT Ví dụ xuất hiện %
Dùng tên của cơ quan, đơn Bộ Tƣ pháp, Trƣờng Đại 1 93/138 67.39 vị, tổ chức dạng đầy đủ học Sƣ phạm Hà Nội.
Nhìn vào bảng thống kê trên, chúng tôi nhận thấy để xưng với vai trên của
Dùng tên của cơ quan, đơn 2 45/138 32.61 UBND huyện vị, tổ chức dạng rút gọn
cơ quan, đơn vị, tổ chức trong giao tiếp bằng VBHC, chủ thể xưng dùng tên đầy
đủ để xưng chiếm tỉ lệ cao (67.39 %) bởi đây là cách xưng bắt buộc phải có
trong giao tiếp bằng VBHC giữa cơ quan cấp dưới với cơ quan cấp trên. Cách
xưng này đảm bảo tính tập thể, chính xác, quy thức, chuẩn mực, pháp lí của chủ
thể xưng. Để câu thúc khách thể tiếp nhận văn bản, cách xưng này có thể được
lặp lại nhiều lần trong văn bản. Xưng danh đầy đủ là thể hiện tính lịch sự trong
giao tiếp. Dùng biểu thức định danh cơ quan, đơn vị, tổ chức dạng rút gọn để
xưng chiếm tỉ lệ thấp hơn (32.61 %) vì đây là cách xưng chỉ xuất hiện sau khi
chủ thể xưng đã xưng danh đầy đủ trước đó. Cách xưng này không được lặp lại
nhiều lần trong văn bản và thường chỉ xuất hiện ở lần xưng cuối cùng của chủ
thể xưng trong văn bản. Kết quả trên cũng cho thấy xưng ở vị thế của vai dưới
đối với vai trên trong VBHC rất coi trọng tính quy thức, tính pháp lí.
Nếu so sánh với xưng trong hoạt động giao tiếp hằng ngày và nơi công sở,
chúng tôi nhận thấy có sự tương đồng và khác biệt. Tương đồng ở chỗ, trong
giao tiếp hằng ngày và nơi công sở nếu không phải là quan hệ thân tộc thì
người vai dưới (ít tuổi hoặc địa vị xã hội thấp hơn) cũng thường xưng em với
82
người vai trên (nhiều tuổi hoặc địa vị xã hội cao hơn) và những cặp từ xưng hô
thường dùng: em - thầy, em - cô, em - anh, em - chị, em - sếp, em - thủ trƣởng...
Khác biệt ở chỗ, trong giao tiếp hằng ngày và nơi công sở nếu người vai dưới
có mối quan hệ thân tộc với người vai trên thì có thể dùng từ chỉ mối quan hệ
thân tộc để xưng, nên ngoài từ em dùng để xưng, người vai dưới còn dùng từ
con, cháu để xưng và những cặp từ xưng hô thường dùng: con - chú, con - bác,
con - ông, con - cụ, con - dì, con - thầy, con - cô, con - cậu, con - mợ, con -
thím, con - dƣợng, cháu - chú, cháu - bác, cháu - ông, cháu - bà, cháu - cụ,
cháu - cô, cháu - dì, cháu - thím, cháu - mợ, cháu - cậu, cháu - dƣợng...Trong
VBHC, ở vị thế vai dưới đối với vai trên không dùng từ thân tộc để xưng.
Có thể nói, do tính pháp lí, tính quan phương chi phối nên vị thế vai dưới
đối với vai trên trong xƣng ở VBHC chỉ có tính chất như là sự tuân theo các
cấp bậc cao - thấp, trên - dưới được quy định trong hệ thống hành chính Việt
Nam. Nếu xƣng trong đời sống xã hội, vị thế này s thể hiện tính liên nhân và
ảnh hưởng đến nội dung giao tiếp, nhân vật giao tiếp thì trong VBHC, vị thế
này chỉ thể hiện việc tuân theo các chế định xã hội đã được quy định trong
pháp luật. Các văn bản cần phải gửi đến đúng nơi và xưng hô phải mực thước.
Cũng bởi có nét đặc trưng riêng, cho nên khi nghiên cứu về vấn đề xưng hô
trong VBHC, đặc biệt là xƣng thì luận án hướng tới việc làm bộc lộ những nét
khu biệt so với cách xƣng trong giao tiếp xã hội thông thường. Xƣng trong
VBHC s có phạm vi hẹp hơn so với xƣng trong đời sống xã hội.
2.5. Tiểu kết chƣơng 2
2.5.1. Chương 2 của luận án đã tập trung vào việc tìm hiểu vấn đề xƣng
trong VBHC. Cụ thể, chúng tôi đã tập trung làm rõ các điểm sau:
2.5.1.1. Khái niệm xƣng trong V HC được hiểu là cách mà chủ thể ban
hành ra văn bản, người/đơn vị ban hành ra VBHC dùng BTNN để thể hiện chính
bản thân mình và do đó tự chịu trách nhiệm pháp lí về văn bản.
2.5.1.2. Các BTNN để xƣng trong VBHC. Qua khảo sát, VBHC sử dụng
83
các BTNN để xưng như: dùng đại từ nhân xưng; dùng tên riêng để xưng; dùng
chức vụ để xưng; dùng chức vụ kết hợp với tên riêng để xưng; dùng tên riêng kết
hợp với chức vụ và tên cơ quan, đơn vị, tổ chức để xưng; dùng chức vụ kết hợp
với tên cơ quan, đơn vị, tổ chức để xưng; xưng bằng tên cơ quan, đơn vị, tổ
chức; dùng học hàm, học vị kết hợp với tên riêng, chức vụ và tên cơ quan, đơn
vị, tổ chức để xưng. Kết quả nghiên cứu cho thấy, những từ dùng để xưng trong
VBHC không phong phú, đa dạng như trong giao tiếp đời sống xã hội, nhưng
luôn luôn tường minh và xác định.
2.5.1.3. Vị trí của BTX trong VBHC khá linh hoạt, có thể ở đầu, ở giữa và
nhất là ở chỗ kết thúc văn bản (phần kí tên). Vị trí này phụ thuộc nhiều vào từng
loại VBHC. Mỗi loại VBHC, với những nội dung chuyên biệt s có cách xưng
riêng mà thể hiện ở vị trí của BTX trong văn bản.
2.5.1.4. Xƣng trong mối quan hệ với vị thế giao tiếp được xét ở các
phương diện như: vị thế ngang bằng, vị thế của vai dưới đối với vai trên, vị thế
của vai trên đối với vai dưới. Xưng trong VBHC tuân thủ đúng vị thế và mang
tính xác định ngôi thứ ổn định.
2.5.2. Qua những phân tích ở chương 2, luận án rút ra một số đặc điểm của
cách xưng trong VBHC như sau:
2.5.2.1. Xƣng trong VBHC đảm bảo tính minh bạch rõ ràng, thể hiện ở việc
tường minh về cơ quan ban hành, có cá nhân kí xác định tính hiệu lực của văn
bản. Tính minh bạch là một nét đặc trưng khác biệt của VBHC so với bất kì loại
văn bản nào khác.
2.5.2.2. Xƣng trong VBHC đảm bảo tính pháp lí, tính hiệu lực thi hành.
Điều này được thể hiện rất rõ ở vị thế ban hành của cơ quan và người kí văn bản.
Có nghĩa, nếu là cơ quan lập pháp tối cao ban hành Luật thì mọi công dân phải
có trách nhiệm thi hành, nếu là chỉ thị do cơ quan thuộc một phạm vi hành chính
nhất định ban hành thì những cá nhân hoặc cơ quan, đơn vị, tổ chức được đích
danh nhắc đến trong chỉ thị phải thực thi...
84
2.5.2.3. Từ dùng để xưng trong VBHC không có biến thể. Nếu trong giao
tiếp đời sống xã hội, biến thể của xƣng rất đa dạng thì trong VBHC, xƣng phải
theo đúng vai được quy định trong pháp luật và chỉ có một cách xưng mà
không thể dùng những từ thay thế tuy có thể ở dạng rút gọn. Từ xưng phải chỉ
đích danh chủ thể xưng theo đúng ngôn ngữ toàn dân và trung hòa về sắc thái
biểu cảm.
2.5.2.4. BTNN dùng để xưng trong VBHC khá đa dạng. Trong đó, xưng
bằng biểu thức phối hợp chức vụ với tên riêng được dùng phổ biến nhất chiếm tỉ
lệ (30.88 %); tiếp đến là xưng bằng biểu thức định danh cơ quan, đơn vị, tổ chức
chiếm tỉ lệ (28.00 %) và xưng bằng biểu thức phối hợp danh từ chỉ chức vụ với
tên cơ quan, đơn vị, tổ chức chiếm tỉ lệ (20.49 %). Các cách xưng này không
những thể hiện được tính tường minh trong xƣng mà còn thể hiện được vị thế,
quyền uy, tính pháp lí của chủ thể xưng.
85
Chƣơng 3
HÔ TRONG VĂN BẢN HÀNH CHÍNH TIẾNG VIỆT VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ
TRONG QUAN HỆ GIỮA XƢNG VÀ HÔ Ở VBHC TIẾNG VIỆT
3.1. Hô trong văn bản hành chính tiếng Việt
3.1.1. Khái niệm “hô” trong văn bản hành chính
Nếu xƣng là tự gọi mình là gì đó khi nói với người khác, biểu thị tính chất
mối quan hệ giữa mình với người ấy thì hô là “gọi người nói chuyện với mình là
gì đó, biểu thị tính chất mối quan hệ giữa mình với người ấy” [64, tr. 73]. Đối
với giao tiếp thông thường, các phương tiện dùng để hô khá đa dạng, phức tạp.
Nói về điều này, nhà nghiên cứu Đinh Trọng Lạc đã có những phân tích rất cụ
thể về các cách hô gọi trong giao tiếp đời thường như sau:
“ Một là, tình huống thân mật là tình huống giao tiếp của những người quen
thân trong gia đình, bạn bè v.v…Tiếng Việt có những cách biểu đạt như sau:
- Dùng tên riêng để tự xưng và gọi người khác.
- Không dùng tên riêng và đại từ nhân xưng. Đây là lối nói phổ biến trong
gia đình, bạn bè thân quen, người trên nói với người dưới, còn người dưới cũng
có thể dùng cách nói trống nhưng phải kèm thêm từ ngữ chỉ sự kính trọng.
- Dùng các TXH chỉ thứ bậc gia đình: Ông - cháu, cha - con, anh – em
v v…Trong quan hệ vợ chồng, dùng các cặp từ: Anh – em, bố nó - mẹ nó v v…
- Dùng các cặp từ: Mày - tao, cậu - tớ, ta - ấy, mình – ta v v…
Hai là, tình huống xã giao là tình huống giữa hai người đối thoại chưa quen
biết, hoặc mới làm quen. Thông thường có những cách biểu đạt: Dùng các TXH
trong gia đình thể hiện thứ bậc vai vế chẳng hạn: cháu – ông (bà), con - bố (bác,
chú), em - anh (chị) v v… hoặc là: tôi – ông (bà), chú, bác.. ” [57, tr. 133 – 174].
Tác giả Đinh Trọng Lạc chú ý: “Không được dùng lối nói trống không trong tình
huống xã giao, người nói s bị coi là vô lễ, khiếm nhã và cũng không dùng các từ
thân mật như ta, mình s bị coi là sàm sỡ… Trong tình huống này, có lối “đài” và
lối “khiêm” [57, tr. 174 .
86
Ngoài ra, tác giả Đinh Trọng Lạc đã đề cập đến màu sắc biểu cảm cực kì
phong phú của hệ thống đại từ nhân xưng và lớp TXH của tiếng Việt. Nó đòi hỏi
người dùng phải xác định các yếu tố: Tình huống đối thoại, cương vị và thái độ,
trong đó đường ranh giới phân chia bậc trên (tuổi tác), cương vị, giới tính (nam,
nữ) và bậc dưới rất rõ ràng. Sự chuyển đổi thái độ và cương vị là do tình huống
đặt ra. Vì thế, trong giao tiếp lựa chọn được TXH để thể hiện tính chất khách
quan là điều không phải dễ dàng.
Từ những nghiên cứu về hô trong giao tiếp nói chung và trong văn bản nói
riêng, chúng tôi đưa ra quan niệm về hô trong VBHC: “Hô trong VBHC được
hiểu là cách mà chủ thể ban hành ra văn bản, người/đơn vị ban hành ra VBHC
dùng BTNN để thể hiện đối tượng đang giao tiếp với mình - đối tượng tiếp nhận
và thực thi văn bản”.
Trong phạm vi rộng lớn của giao tiếp xã hội, hô trong VBHC có một khu
vực riêng của mình, không quá nhiều nhưng có nét đặc trưng riêng biệt. Hô trong
VBHC cần tuân thủ các yêu cầu của chuẩn mực giao tiếp như lịch sự, đúng mực,
đúng vai giao tiếp, đúng hoàn cảnh và tuân theo những ước định, chế định của xã
hội và có tính khuôn mẫu trong văn hóa người Việt. Sở dĩ có những đặc điểm
như vậy là do sự chi phối của đặc trưng riêng về thể loại của VBHC. Chúng tôi
tiến hành khảo sát 543 VBHC và nhận thấy trong VBHC thường có những cách
hô thể hiện tính trung hòa cao, tính khách quan và tính pháp lí. Như vậy, hô
trong VBHC được hiểu là hệ thống những cách gọi tên mà chủ thể VBHC sử
dụng để chỉ đối tượng tiếp nhận văn bản. Đối tượng được hô có thể là cơ quan,
đơn vị hành chính, đối tượng cụ thể hoặc những cá nhân, tổ chức.
Khác với hô trong giao tiếp thông thường, hô trong VBHC không phải là
kiểu hô mặt đối mặt (hô trong hội thoại) có những lượt lời luân phiên. Hô trong
VBHC được hiểu là dùng từ ngữ để hướng tới đối tượng cần tiếp nhận văn bản,
cần lĩnh hội nội dung giao tiếp. Đối tượng này thường được nhắc đến ngay trong
phần nội dung văn bản.
87
Ví dụ (49)
“…Để khắc phục những tồn tại nêu trên, nhằm tăng cƣờng công tác quản lí
nhà nƣớc, bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đƣờng thủy nội địa, hạn chế và
giảm đến mức thấp nhất vi phạm và tai nạn giao thông đƣờng thủy, Chủ tịch
UBND thành phố chỉ thị:
(Trích Chỉ thị số:01/CT-UBND ngày 08/ 01/ 2010 của UBND thành phố Đà Nẵng về tăng cƣờng
công tác quản lí Nhà nƣớc, bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đƣờng thủy nội địa trên địa bàn thành
phố Đà Nẵng)
1. Sở Giao thông vận tải: (…)
Ví dụ (50)
UBND TỈNH ĐỒNG THÁP
Căn cứ ............................................................................................................
QUYẾT ĐỊNH
(…)
Điều 3.Chánh Văn phòng UBND tỉnh; Chủ tịch UBND các huyện, thị
xã, thành phố và Thủ trƣởng các cơ quan, tổ chức có liên quan chịu trách
(Trích Quyết định số: 691/QĐ-UBND.HC ngày 21/7/2015 của UBND tỉnh Đồng Tháp về
ban hành quy chế phối hợp thực hiện các thủ tục hành chính liên quan đến xây dựng công trình tôn
giáo trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp)
nhiệm thi hành Quyết định này./.
Xét 2 ví dụ trên, trong ví dụ (49), chủ thể xưng là người đứng đầu cơ quan: Chủ
tịch UBND thành phố và khách thể hô là tên cơ quan: Sở Giao thông vận tải. Như
vậy, đối tượng tiếp nhận văn bản được hô trực tiếp ngay trong nội dung văn bản. Ví
dụ (50), chủ thể xưng là cơ quan: UBND tỉnh Đồng Tháp và khách thể hô được nhắc
đến lại nằm trong Điều 3 của quyết định: Chánh Văn phòng UBND tỉnh; Chủ tịch
UBND các huyện, thị xã, thành phố và Thủ trƣởng các cơ quan, tổ chức. Theo đó,
khách thể hô được đặt riêng thành một điều lệ trong nội dung văn bản. Nó khác với vị
trí hô ở ví dụ (49) là khách thể hô cũng nằm trong nội dung của văn bản nhưng không
phải ở riêng một mục. Sự khác biệt này do đặc điểm của loại văn bản quy định, văn
bản ở ví dụ (49) là Chỉ thị và văn bản ở ví dụ (50) là Quyết định.
88
Như vậy, hô trong VBHC có đặc thù riêng, luận án s tiến hành khảo sát về
các BTNN dùng để hô trong VBHC ở phần tiếp theo.
3.1.2. Các biểu thức ngôn ngữ để hô trong văn bản hành chính
Các phương tiện ngôn ngữ dùng để hô trong tiếng Việt rất đa dạng và mang
màu sắc biểu cảm. Người nói cần sử dụng các từ hô sao cho phù hợp với hoàn
cảnh giao tiếp, mục đích giao tiếp, nội dung giao tiếp, đối tượng tham dự giao
tiếp và các mối quan hệ liên cá nhân. Như thế, hô là một hình thức gọi người đối
thoại với mình và câu thúc họ vào câu chuyện. Bởi vì: “Trong hoạt động giao
tiếp bằng ngôn ngữ, có sự tham gia của những nhân tố sau: Người nói, người
nghe, đối tượng được đề cập hay phản ánh, ngôn ngữ, đường kênh giao tiếp và
văn bản... Những hiểu biết về các nhân tố và tình huống của hoạt động giao tiếp
là rất cần thiết đối với cả người nói lẫn người nghe” [57, tr. 34]. Hiện nay, vấn
đề hô trong VBHC tiếng Việt chưa được quy định một cách cụ thể, rõ ràng.
Qua khảo sát, nghiên cứu 543 VBHC tiếng Việt ở từng loại văn bản khác nhau
như trong bảng thống kê 2.1, chúng tôi nhận thấy trong giao tiếp bằng VBHC, chủ
thể phát ngôn dùng các BTNN sau để hô khách thể tiếp nhận và thực thi văn bản.
3.1.2.1. Từ hô gọi chung
Trong giao tiếp bằng VBHC, ngôi thứ nhất là ngôi xƣng - chủ thể ban hành
văn bản, ngôi thứ hai là ngôi hô - khách thể tiếp nhận văn bản. Từ hô gọi chung
dùng để hô trong VBHC xuất phát từ danh từ thân tộc và chỉ chiếm một số lượng ít
trong hệ thống danh từ thân tộc của tiếng Việt. Chỉ có những từ có tính trang trọng,
lịch sự, trung hòa là: ông/bà, anh/chị hoặc đồng chí được dùng để hô. Những từ này
chỉ dùng để hô ở VBHCTT và một số VBCB. Trong VBQPPL không dùng từ hô
gọi chung để hô.
Ví dụ (51)
“ UBND tỉnh Cao Bằng trả lời để ông biết và đề nghị ông nghiêm túc
(Trích Công văn số:1171/UBND-TD ngày 07/5/2014 của UBND tỉnh Cao Bằng về việc trả lời đơn
khiếu nại của ông Nguyễn Ích Nồng.)
thực hiện”
89
Ví dụ (52)
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI
(...)
(Trích Giấy mời số: 49/GM ngày 18/3/2014 của Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội)
Trân trọng kính mời: Bà đến nhận hồ sơ và các giấy tờ có liên quan.
Ví dụ (53)
“ Phòng An ninh chính trị nội bộ thông báo các đồng chí nắm để
(Trích Công văn số: 153/ANCTNB ngày 14 /9/2016 của Phòng An ninh chính trị nội bộ
Công an tỉnh Hậu Giang về việc cử cán bộ, chiến sĩ tham gia bảo vệ kì thi tốt nghiệp liên thông
Đại học hệ vừa làm vừa học.)
phối hợp / ”
Ví dụ ( 54)
Kính gửi: Các Anh/Chị ủy viên Ủy ban Trung ƣơng Hội Doanh nhân trẻ
Việt Nam;
...
Ý kiến đóng góp của các Anh, Chị xin gửi về Văn phòng Hội Doanh nhân
(Trích Công văn số: 33/UBTƢ-DNT, ngày 26/3/2019 của Hội doanh nhân trẻ Việt Nam về
việc đề nghị góp ý Văn kiện Đại hội VIII Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam)
trẻ Việt Nam...
Ví dụ (51), (52), (53), (54) là những VBHCTT. Trong ví dụ (51), từ ông
được dùng để hô khách thể tiếp nhận công văn trả lời đơn khiếu nại; ví dụ (52)
từ bà được dùng để hô khách thể tiếp nhận thư mời; ví dụ (53) từ đồng chí được
dùng để hô khách thể tiếp nhận công văn; ví dụ (54) từ anh/chị được dùng để hô
khách thể tiếp nhận công văn. Trong VBHC không dùng đại từ nhân xưng chính
danh ngôi thứ 2 (cả số ít và số nhiều) để hô, mà chủ yếu dùng các đại từ xưng hô
lâm thời được chuyển từ các danh từ khác sang. Bởi các đại từ nhân xưng chính
danh ngôi thứ 2 trong tiếng Việt (mày, bay, mi, chúng mày, chúng bay) có màu
sắc biểu thái thân mật, suồng sã không phù hợp với màu sắc trang trọng, lịch sự
của VBHC tiếng Việt.
90
Nếu so sánh với xƣng trong VBHC, chúng tôi nhận thấy có sự khác biệt. Ở
phần xƣng không dùng các từ ông/bà, anh/chị hoặc đồng chí để xưng. Đối với hô
những từ như: ông/ bà, anh/chị vẫn xuất hiện nhưng sự hiện diện của những từ
này không phải chỉ mối quan thân tộc mà chỉ giới tính, sự tôn kính của chủ thể
phát ngôn dành cho khách thể tiếp nhận văn bản.
Ví dụ (55)
(Trích Giấy triệu tập số: 04/GTT-TA, ngày 11/8 /2011 của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh về
việc triệu tập ngƣời khởi kiện)
“…Chúng tôi yêu cầu ông có mặt đúng giờ theo quy định”
Trong ví dụ (55), chủ thể phát ngôn xưng là Chúng tôi và hô khách thể tiếp
nhận văn bản là ông. Từ ông không phải là cách hô thể hiện mối quan hệ thân
tộc mà là cách hô thể hiện giới tính, sự tôn kính của chủ thể xưng dành cho
khách thể hô.
Nhìn chung, từ hô gọi chung dùng để hô trong VBHC nhằm để hướng đến
một hoặc nhiều khách thể tiếp nhận văn bản. Để đảm bảo tính minh xác, chủ thể
xưng phải kèm theo họ tên đầy đủ của khách thể hô. Điều này không chỉ giúp
nhận diện chính xác khách thể tiếp nhận văn bản mà còn thể hiện sự tôn trọng
của chủ thể xưng với khách thể hô. Trong những lần xuất hiện sau, khi thông tin
đã rõ ràng, chủ thể xưng dùng từ hô gọi chung để đảm bảo ngắn gọn, súc tích.
3.1.2.2. Danh từ chỉ chức vụ, chức danh, nghề nghiệp
Cũng như trên đã trình bày, con người trong VBHC là con người của xã hội,
con người của công việc. Các yếu tố cá nhân gần như bị “xóa nhòa”. Điều này ảnh
hưởng lớn đến việc xưng và hô trong VBHC. Cũng như xƣng, loại danh từ được
dùng để hô là các danh từ chỉ chức vụ. Chức vụ là danh từ vừa thể hiện đối tượng
được hô đồng thời thể hiện rất rõ vị thế, quyền uy và tính trang trọng, lịch sự . Hô
trong VBHC chịu sự chế định của pháp lí. Không thể có hô tùy tiện mà luôn được
quy định chặt ch về cấp bậc, về cơ quan, đơn vị nhận văn bản, về đối tượng có
thẩm quyền tiếp nhận văn bản. Theo khảo sát tư liệu, chúng tôi nhận thấy dùng
chức vụ để hô xuất hiện trong VBHCTT và VBQPPL.
91
Ví dụ (56)
“ Trƣớc hết, tôi xin gửi tới Bộ trƣởng lời chúc sức khỏe và lời chào trân trọng.
...
Vậy kính mong Bộ trƣởng quan tâm và cho biết ý kiến
(Trích Công văn số 05/ĐBQH ngày 20/6/2012 của Ủy viên Phan Văn Quý, Ủy Ban pháp
luật, Quốc hội khóa XIII)
Xin trân trọng cảm ơn Bộ trƣởng”
Ví dụ (56) là một VBHCTT (Công văn), chủ thể phát ngôn xưng là tôi đã
dùng danh từ chỉ chức vụ Bộ trƣởng để hô khách thể tiếp nhận văn bản.
Ví dụ (57)
“Bộ trƣởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Thông tƣ…
Điều 4. Chánh Văn phòng, Cục trƣởng Cục Nhà giáo và Cán bộ quản lí
giáo dục, Thủ trƣởng các đơn vị có liên quan thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo,
Giám đốc các sở giáo dục và đào tạo và thủ trƣởng các cơ quan, đơn vị có liên
(Trích Thông tƣ số: 27/2018/TT-BGDĐT, ngày 25/10/2018 của Bộ Giáo dục và Đào tạo)
quan chịu trách nhiệm thi hành Thông tƣ này ”
Ví dụ (57) là một VBQPPL (Thông tư của Bộ Giáo dục và Đào tạo), chủ
thể phát ngôn là Bộ trƣởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã dùng chức vụ Chánh
Văn phòng để hô khách thể tiếp nhận và thực thi văn bản. Vị trí của biểu thức hô
nằm trong một điều khoản cụ thể của văn bản.
Ngoài các danh từ chỉ chức vụ, danh từ chỉ chức danh, nghề nghiệp cũng
được sử dụng để hô. Theo khảo sát tư liệu, chúng tôi nhận thấy cách hô bằng chức
danh, nghề nghiệp chỉ xuất hiện trong một số VBHCTT. Khách thể tiếp nhận văn
bản là một đối tượng hay một nhóm đối tượng cụ thể. Dùng chức danh, nghề
nghiệp của khách thể tiếp nhận văn bản để hô thể hiện tính trang trọng, lịch sự.
Ví dụ (58)
“..Thay mặt Chính phủ nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tôi thân
(Trích Thƣ chúc mừng Giáo sƣ Ngô Bảo Châu của Thủ tƣớng Chính phủ ngày 19/ 8/ 2010.)
ái gửi đến Giáo sƣ cùng gia đình những lời chúc mừng nồng nhiệt nhất…”
92
Ví dụ (58) là một VBHCTT (Thư công), chủ thể phát ngôn dùng chức danh
Giáo sƣ để hô khách thể tiếp nhận văn bản.
Ví dụ (59)
“…Nhân dịp khai giảng năm học mới 2015-2016, tôi thân ái gửi tới các
thế hệ nhà giáo, cán bộ công chức, viên chức ngành Giáo dục và các em học
(Trích Thƣ của Chủ tịch nƣớc Trƣơng Tấn Sang gửi ngành Giáo dục nhân dịp khai giảng
năm học mới 2015-2016.)
sinh, sinh viên trong cả nƣớc lời chúc mừng tốt đẹp nhất…”
Ví dụ (59) là một V HCTT (Thư công), đối tượng giao tiếp gồm nhiều
người với những chức danh, nghề nghiệp khác nhau, chủ thể phát ngôn đã dùng
những danh từ chung chỉ người, chức danh, nghề nghiệp: các thầy giáo, cô giáo,
cán bộ, công chức, viên chức ngành Giáo dục, các bậc phụ huynh và các em
học sinh, sinh viên để hô.
3.1.2.3. Biểu thức định danh cơ quan, đơn vị, tổ chức
Theo khảo sát tư liệu của chúng tôi, hô bằng biểu thức định danh cơ quan, đơn
vị, tổ chức xuất hiện trong tất cả các loại VBHC có tính pháp lí (VBQPPL, VBCB,
VBHCTT). Đây cũng là một đặc điểm điển hình giống như xƣng trong VBHC. Lí
do là bởi VBHC luôn tường minh về nguồn gốc sản sinh văn bản cũng như đối
tượng tiếp nhận văn bản. VBHC luôn liên quan tới pháp luật nên cần phải thể hiện
rõ vị thế xã hội mang tính quyền lực của nơi ban hành cũng như nơi tiếp nhận văn
bản. Sở dĩ có điều này là vì đây là cách hô đảm bảo tính chính xác, rõ ràng, pháp lí
và minh bạch. Khách thể tiếp nhận và thực thi văn bản ở đây không phải là một cá
nhân mà là một tập thể. Việc dùng biểu thức định danh cơ quan, đơn vị, tổ chức để
hô càng làm tăng thêm tính trách nhiệm trong thực thi văn bản. Tùy từng loại
VBHC khác nhau, biểu thức hô bằng tên cơ quan, đơn vị, tổ chức có thể đầy đủ, rút
gọn hoặc nói khái quát.
Ví dụ (60)
Kính gửi: Sở Nội vụ tỉnh Cà Mau
93
“…Sau khi xem xét đề nghị của Sở Nội vụ tỉnh Cà Mau, Bộ Nội vụ có ý
kiến nhƣ sau: ( )
(Trích Công văn số: 2410/BNV-CQĐP, ngày 22/8/2009 của Bộ Nội vụ về việc trả lời đề nghị
của Sở Nội vụ tỉnh Cà Mau.)
Bộ Nội vụ thông báo để Sở Nội vụ tỉnh Cà Mau đƣợc rõ.
Ví dụ (60) là một VBHCTT (Công văn), chủ thể phát ngôn đã dùng tên cơ
quan ở dạng đầy đủ Sở Nội vụ tỉnh Cà Mau để hô khách thể tiếp nhận văn bản.
Ví dụ (61)
“…Sau khi dự thảo, lấy ý kiến bằng văn bản các cơ quan liên quan, Sở Tài
chính trình UBND tỉnh dự thảo Quyết định ban hành Quy định về công tác quản lí
(Trích Tờ trình số: 246/TTr-STC ngày 16/7/2014 của Sở Tài chính tỉnh Bình Thuận về việc Đề nghị
ban hành Quyết định của UBND tỉnh về công tác quản lí giá trên địa bàn tỉnh Bình Thuận.)
giá trên địa bàn tỉnh Bình Thuận (có gửi kèm theo) với nội dung nhƣ sau:…”
Ví dụ (61) là một VBHCTT (Tờ trình), chủ thể phát ngôn đã dùng tên cơ
quan ở dạng rút gọn UBND tỉnh (rút gọn từ tên đầy đủ UBND tỉnh Bình
Thuận) để hô khách thể tiếp nhận văn bản.
Ví dụ (62)
“…Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội thông báo đến các ngành,
các địa phƣơng tình hình tai nạn lao động năm 2014 và một số giải pháp
chủ yếu nhằm chủ động ngăn ngừa sự cố và tai nạn lao động trong năm
(Trích Thông báo số: 653/TB-LĐTBXH ngày 27/02/2015 của Bộ Lao động - Thƣơng binh và
Xã hội về Tình hình tai nạn lao động năm 2014)
2015 nhƣ sau: ”
Ví dụ (62) là một VBHCTT (Thông báo), khách thể tiếp nhận văn bản gồm
nhiều cơ quan, đơn vị, tổ chức, chủ thể phát ngôn dùng dạng nói khái quát các
ngành, các địa phƣơng để hô.
Ví dụ (63)
“Chính phủ ban hành Nghị định quy định về phƣơng pháp tính, mức thu
tiền cấp quyền khai thác khoáng sản.
...
94
Điều 17. Trách nhiệm thi hành
1. Bộ Tài nguyên và Môi trƣờng chịu trách nhiệm chủ trì, phối hợp các bộ,
(Trích Nghị định số: 67/2019/NĐ-CP, ngày 31/7/2019 của Chính phủ về Quy định về
phƣơng pháp tính, mức thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản.)
ngành liên quan tổ chức thi hành Nghị định này ”
Ví dụ (63) là một VBQPPL (Nghị định của Chính phủ), chủ thể phát ngôn
xưng là Chính phủ đã dùng biểu thức định danh cơ quan dạng đầy đủ để hô
khách thể tiếp nhận và thực thi văn bản là Bộ Tài nguyên và Môi trƣờng. Vị trí
của biểu thức hô nằm trong một điều khoản cụ thể của văn bản.
Ví dụ (64)
“UBND thành phố yêu cầu Sở Giáo dục và Đào tạo … triển khai thực hiện
(Trích Chỉ thị số: 08/CT-UBND ngày 21/8/2019 của UBND Thành phố Hồ Chí Minh về thực
hiện nhiệm vụ giáo dục và đào tạo năm học 2019-2020 tại Thành phố Hồ Chí Minh)
nghiêm túc Chỉ thị này”
Ví dụ (64) là một VBCB (Chỉ thị cá biệt), chủ thể phát ngôn xưng là
UBND thành phố đã dùng biểu thức định danh cơ quan dạng rút gọn: Sở Giáo
dục và Đào tạo (rút gọn từ tên đầy đủ: Sở Giáo dục và Đào tạo Thành phố Hồ
Chí Minh) để hô khách thể tiếp nhận và thực thi văn bản.
Như vậy, trong giao tiếp bằng VBHC, hô bằng biểu thức định danh cơ
quan, đơn vị, tổ chức được sử dụng rất phổ biến. Cách hô này thể hiện tính tập
thể, khách quan, pháp lí của khách thể tiếp nhận văn bản.
3.1.2.4. Biểu thức phối hợp từ hô gọi chung với tên riêng
Ngoài việc dùng biểu thức định danh cơ quan, đơn vị, tổ chức để hô, trong
giao tiếp bằng VBHC còn dùng từ hô gọi chung ông/ bà, anh/ chị và đồng chí
kết hợp với tên riêng (đầy đủ họ và tên) để hô. Theo khảo sát tư liệu, chúng tôi
nhận thấy cách hô này chỉ xuất hiện trong VBHCTT và VBCB. Bởi vì trong
VBHCTT và V C đối tượng tiếp nhận và thực thi văn bản luôn cụ thể, xác
định. Trong VBQPPL không dùng biểu thức này để hô. Dùng từ hô gọi chung
kết hợp với tên riêng để hô nhằm đảm bảo tính chính xác, sự tôn trọng của chủ
95
thể phát ngôn đối với khách thể tiếp nhận và thực thi văn bản. Mô hình của BTH
như sau:
Từ hô gọi chung + tên riêng (đầy đủ họ và tên)
Ví dụ (65)
Kính gửi: Ông Đặng Hồng Hải
UBND huyện Châu Thành A đã nhận đƣợc đơn khiếu nại của ông Đặng
Hồng Hải
Cƣ ngụ: ấp Thị Tứ, thị trấn Một Ngàn, huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang
(...)
Vậy, UBND huyện Châu Thành A thông báo để ông Đặng Hồng Hải
(Trích Thông báo số: 30/TB-UBND, ngày 09/3/2018 của UBND huyện Châu Thành A về
việc thụ lí giải quyết khiếu nại lần đầu)
đƣợc biết./.
Ví dụ (65) là một VBHCTT (Thông báo), chủ thể phát ngôn xưng là UBND
huyện Châu Thành A đã dùng từ hô gọi chung (ông) kết hợp với tên riêng
(Đặng Hồng Hải) để hô khách thể tiếp nhận văn bản: ông Đặng Hồng Hải. Vị
trí hô thường nằm ở phần đầu văn bản (sau phần Kính gửi:...) và phần cuối của
nội dung văn bản.
Ví dụ (66)
TRƢỞNG PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN
(...)
QUYẾT ĐỊNH
...
Điều 3. Các bộ phận liên quan của Phòng Giáo dục và Đào tạo, Hiệu
trƣởng Trƣờng trung học cơ sở Cát Tài và ông Nguyễn Minh Đề chịu trách
(Trích Quyết định số: 867/QĐ-PGDĐT, ngày 17/12/2015 của Phòng Giáo dục và Đào tạo
Phủ Cát về việc thi hành kỉ luật viên chức)
nhiệm thi hành Quyết định này./.
96
Ví dụ (66) là một VBCB (Quyết định cá biệt), chủ thể phát ngôn đã dùng từ
hô gọi chung (ông) kết hợp với tên riêng (Nguyễn Minh Đề) để hô khách thể tiếp
nhận và thực thi văn bản: ông Nguyễn Minh Đề. Cách hô này nằm trong một
điều khoản cụ thể của văn bản.
Nhìn chung, dùng biểu thức phối hợp từ hô gọi chung với tên riêng (đầy đủ
họ và tên) để hô trong VBHC nhằm đảm bảo tính cụ thể, chính xác khách thể
tiếp nhận và thực thi văn bản. Cách hô này nhằm đề cao vai trò, trách nhiệm của
cá nhân trong việc thực thi văn bản.
3.1.2.5. Biểu thức phối hợp từ hô gọi chung với tên riêng, chức vụ và tên cơ
quan, đơn vị, tổ chức
Trong giao tiếp bằng VBHC, để thể hiện tính cụ thể, chính xác, sự tôn trọng vị
thế, quyền lực của khách thể tiếp nhận và thực thi văn bản, chủ thể phát ngôn còn
dùng từ hô gọi chung kết hợp với tên riêng, chức vụ và tên cơ quan, đơn vị tổ chức để
hô. Đây là cách hô nhằm đề cao vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan,
đơn vị, tổ chức trong việc thực thi văn bản. Theo khảo sát tư liệu, chúng tôi nhận thấy
cách hô này chỉ xuất hiện trong VBHCTT và VBCB. Trong VBQPPL không dùng
Từ hô gọi chung + tên riêng + chức vụ + tên cơ quan, đơn vị, tổ chức.
cách hô này. Mô hình của BTH như sau:
Ví dụ (67)
Kính gửi: Đồng chí Nguyễn Tấn Bình, Giám đốc Sở Y tế Thành phố Hồ
Chí Minh
“…Để đảm bảo việc thực hành an toàn tiêm chủng và tránh gây bức xúc
cho ngƣời dân. Cục Y tế dự phòng kính đề nghị Đồng chí Giám đốc Sở Y tế chỉ
(Trích Công văn số: 1650/DP-VX ngày 16/02/2015 của Cục Y tế dự phòng thuộc Bộ Y tế về
việc làm rõ thông tin về vắc xin 5 trong 1)
đạo các đơn vị liên quan triển khai một số công việc nhƣ sau:…”
Ví dụ (67) là một VBHCTT (Công văn), chủ thể xưng là Cục Y tế dự
phòng đã dùng từ hô gọi chung (đồng chí) kết hợp với tên riêng (Nguyễn Tấn
Bình), chức vụ (Giám đốc), tên cơ quan (Sở Y tế Thành phố Hồ Chí Minh) để hô
97
khách thể tiếp nhận văn bản: Đồng chí Nguyễn Tấn Bình, Giám đốc Sở Y tế
Thành phố Hồ Chí Minh.
Ví dụ (68)
HĐND HUYỆN YÊN CHÂU KHÓA XX, KÌ HỌP THỨ 8
(...)
QUYẾT NGHỊ:
Điều 1. Chấp nhận cho thôi làm nhiệm vụ đại biểu HĐND huyện khóa XX,
nhiệm kì 2016-2021 đối với ông Vì Văn Nga, Phó Trƣởng Công an huyện Yên
(Trích Nghị quyết số: 24/NQ-HĐND, ngày 26/7/2019 của HĐND huyện Yên Châu về việc
chấp nhận cho thôi làm nhiệm vụ đại biểu HĐND huyện khóa XX, nhiệm kì 2016-2021)
Châu, do chuyển công tác.
Ví dụ (68) là một VBCB (Nghị quyết cá biệt), chủ thể phát ngôn dùng từ hô
gọi chung (ông) kết hợp với tên riêng (Vì Văn Nga), chức vụ (Trƣởng Công an),
tên cơ quan (huyện Yên Châu) để hô khách thể tiếp nhận và thực thi văn bản.
Cách hô này nằm trong một điều khoản cụ thể của văn bản.
3.1.2.6. Biểu thức phối hợp từ hô gọi chung với chức vụ
Trong giao tiếp bằng VBHC, để hạn chế sự lặp lại cách hô trong một văn
bản mà vẫn đảm bảo được tính lịch sự, tính chính xác, sự tôn trọng đối với khách
thể tiếp nhận và thực thi văn bản, chủ thể phát ngôn thường dùng từ hô gọi
chung kết hợp với từ chỉ chức vụ để hô. Theo tư liệu chúng tôi khảo sát, đây là
cách hô chỉ xuất hiện ở VBHCTT. Trong VBQPPL và VBCB không sử dụng
cách hô này. Mô hình của BTH như sau:
Từ hô gọi chung + chức vụ
Ví dụ (69)
“ Văn phòng Chính phủ xin thông báo đến đồng chí Bộ trƣởng biết,
(Trích Công văn Số: 4513/VPCP-KNTN ngày 03/7/2009 của Văn phòng Chính phủ về việc
giải quyết khiếu tố của ông Nguyễn Trọng Phúc tỉnh Quảng Ninh)
thực hiện / ”
Ví dụ (69) là một VBHCTT (Công văn), chủ thể phát ngôn xưng là Văn
phòng Chính phủ đã dùng từ hô gọi chung (đồng chí) kết hợp với chức vụ (Bộ
trƣởng) để hô khách thể tiếp nhận văn bản: Đồng chí Bộ trƣởng.
98
3.1.2.7. Biểu thức phối hợp từ hô gọi chung với chức vụ và tên cơ quan,
đơn vị, tổ chức
Trong giao tiếp bằng VBHC, khi khách thể tiếp nhận và thực thi văn bản là
người đứng đầu cơ quan, đơn vị, tổ chức, chủ thể phát ngôn thường dùng biểu
thức phối hợp từ hô gọi chung với chức vụ và tên cơ quan, đơn vị, tổ chức của
khách thể tiếp nhận văn bản để hô. Đây là cách hô thể hiện tính lịch sự, sự tôn
trọng địa vị, quyền lực của chủ thể phát ngôn dành cho khách thể tiếp nhận và
thực thi văn bản đồng thời cũng đề cao vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu
cơ quan, đơn vị, tổ chức trong việc thực thi văn bản. Theo tư liệu chúng tôi khảo
sát, cách hô này chỉ xuất hiện trong VBHCTT, VBCB và không xuất hiện ở
VBQPPL. Mô hình của BTH như sau:
Từ hô gọi chung + chức vụ + tên cơ quan, đơn vị, tổ chức
Ví dụ (70)
“Kính gửi : Ông (bà) Hiệu trƣởng các trƣờng Mầm non, Tiểu học, Trung
(Trích Công văn số: 273/GDĐT-NGLL, ngày 7/10/2015 của Phòng Giáo dục và Đào huyện
Lí Nhân về việc triển khai thực hiện hồ sơ theo dõi sức khỏe học sinh năm học 2015-2016)
học cơ sở trong huyện...”
Ví dụ (70) là một VBHCTT (Công văn), chủ thể phát ngôn đã dùng từ hô
gọi chung (ông/bà) kết hợp với chức vụ (Hiệu trƣởng) và tên cơ quan (các
trƣờng Mầm non, Tiểu học, Trung học cơ sở trong huyện) để hô các khách thể
tiếp nhận và thực thi văn bản.
Ví dụ (71)
UBND HUYỆN GIA LÂM (...) QUYẾT ĐỊNH ... Điều 3. Ông (bà): Chánh Văn phòng HĐND, UBND, ...chịu trách nhiệm thi
(Trích Quyết định số: 8643/QĐ-UBND, ngày 05/7/2017 của UBND huyện Gia Lâm về việc
giải quyết đơn khiếu nại của ông Nguyễn Văn Chinh và ông Nguyễn Văn Chiến trú tại thôn 7, xã
Ninh Hiệp)
hành quyết định này./.
99
Ví dụ (71) là một VBCB (Quyết định cá biệt), chủ thể phát ngôn đã dùng từ
hô gọi chung (ông/bà) kết hợp với chức vụ (Chánh Văn phòng) và cơ quan
(HĐND, UBND) để hô khách thể tiếp nhận và thực thi văn bản.
3.1.2.8. Biểu thức phối hợp từ chỉ chức vụ với tên riêng.
Theo khảo sát tư liệu của chúng tôi, trong giao tiếp bằng VBHC, dùng biểu
thức phối hợp chúc vụ với tên riêng để hô chỉ xuất hiện trong những VBHCTT
mà khách thể tiếp nhận văn bản là một cá nhân có chức vụ cụ thể. Đây là cách hô
nhằm đề cao địa vị, quyền lực của khách thể tiếp nhận văn bản. Trong VBQPPL
và VBCB không sử dụng cách hô này. Vị trí hô thường xuất hiện ở đầu văn bản
(sau phần Kính gửi:.....). Mô hình của BTH như sau:
Chức vụ + tên riêng (đầy đủ họ và tên)
Ví dụ (72)
Kính gửi: Thủ tƣớng Nguyễn Xuân Phúc
Tôi tên Phạm Văn Tứ, sinh năm 1950, tại Gò Công, tỉnh Tiền Giang.
(...)
(Trích Đơn kiến nghị của một cá nhân)
Hiện là Chủ tịch Hội đồng Quản trị Công ti Thuận Phong...
Ví dụ (72) là một VBHCTT (Đơn kiến nghị), chủ thể xưng là một cá nhân
cụ thể đã dùng danh từ chỉ chức vụ (Thủ tƣớng) kết hợp với tên riêng (Nguyễn
Xuân Phúc) để hô khách thể tiếp nhận văn bản: Thủ tƣớng Nguyễn Xuân Phúc.
3.1.2.9. Biểu thức phối hợp từ chỉ chức vụ với tên cơ quan, đơn vị, tổ chức
Ngoài việc dùng danh từ chỉ chức vụ, nghề nghiệp, học hàm, học vị để hô,
trong giao tiếp bằng VBHC còn dùng danh từ chỉ chức vụ kết hợp với tên cơ
quan, đơn vị, tổ chức để hô. Theo khảo sát tư liệu, chúng tôi nhận thấy đây là
cách hô xuất hiện trong tất cả các loại VBHC. Cách hô này thể hiện sự tôn trọng
địa vị, quyền lực và tính pháp lí của khách thể tiếp nhận và thực thi văn bản. Mô
hình của BTH như sau:
Chức vụ + tên cơ quan, đơn vị, tổ chức
100
Ví dụ (73)
NGHỊ QUYẾT
(…)
Điều 3. Bộ trƣởng Bộ Thông tin và Truyền thông, Thủ trƣởng các cơ
(Trích Nghị quyết Số: 18/NQ-CP, ngày 13/3/2019 của Chính phủ về việc thông qua đề nghị
xây dựng Nghị định về quản lí, kết nối và chia sẻ dữ liệu số)
Ví dụ (73) là một VBQPPL (Nghị quyết của Chính phủ), chủ thể phát ngôn
quan có liên quan chịu trách nhiệm thi hành Nghị quyết này./.
đã dùng chức vụ (Bộ trƣởng) kết hợp với tên cơ quan dạng đầy đủ (Bộ Thông tin
và Truyền thông) và dùng chức vụ (Thủ trƣởng) kết hợp với tên cơ quan dạng
nói khái quát (các cơ quan) để hô khách thể tiếp nhận và thực thi văn bản.
Ví dụ (74)
Kính gửi: - Giám đốc Sở Y tế;
- Giám đốc Sở Nội vụ.
Báo Điện tử Dân trí có bài viết “Cần Thơ: Bác sĩ Chuyên khoa cấp II làm
“văn thƣ”, Chủ tịch UBND thành phố có ý kiến chỉ đạo nhƣ sau: ( )
Nhận đƣợc công văn này, Giám đốc Sở Y tế, Giám đốc Sở Nội vụ tổ chức
(Trích Công văn số: 4997/UBND-VX ngày 02/10/2009 của UBND thành phố Cần Thơ về việc
làm rõ trả lời Báo Điện tử Dân trí với bài viết “Cần Thơ: Bác sĩ Chuyên khoa II đi làm văn thƣ.)
thực hiện.
Ví dụ (74) là một VBHCTT (Công văn), chủ thể phát ngôn dùng chức vụ
(Giám đốc) kết hợp với tên cơ quan dạng rút gọn (Sở Y tế, Sở Nội vụ) rút gọn từ
tên đầy đủ (Sở Y tế thành phố Cần Thơ, Sở Nội vụ thành phố Cần Thơ) để hô
khách thể tiếp nhận và thực thi văn bản.
Ví dụ (75)
VIỆN TRƢỞNG VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
…
QUYẾT ĐỊNH:
…
101
Điều 3. Trƣởng Phòng Tổ chức Hành chính, Trƣởng phòng Kế hoạch-Tài
(Trích Quyết định số: 159/QĐ-ĐHM ngày 14/4/2015 của Viện Đại học Mở Hà Nội về việc đổi
tên các Bộ môn và bổ nhiệm cán bộ phụ trách các Bộ môn thuộc Khoa Công nghệ Thông tin)
chính,…chịu trách nhiệm thi hành quyết định này./.
Ví dụ (75) là một VBCB (Quyết định cá biệt), chủ thể phát ngôn đã dùng
chức vụ (Trƣởng phòng) kết hợp với tên đơn vị (Phòng Tổ chức Hành chính,
Phòng Kế hoạch – Tài chính) để hô các khác thể tiếp nhận và thực thi văn bản.
Như vậy, trong giao tiếp bằng VBHC, dùng biểu thức phối hợp chức vụ với
tên cơ quan, đơn vị, tổ chức để hô khách thể tiếp nhận và thực thi văn bản vừa
đảm bảo tính lịch sự, tính pháp lí vừa đề cao vai trò, trách nhiệm của người đứng
đầu các cơ quan, đơn vị, tổ chức trong việc tiếp nhận và thực thi văn bản.
3.1.2.10. Biểu thức phối hợp từ chỉ chức vụ với tên cơ quan, đơn vị, tổ chức và
tên riêng
Trong giao tiếp bằng VBHC, để đảm bảo tính chính xác, lịch sự, sự tôn trọng
của chủ thể phát ngôn dành cho khách thể tiếp nhận văn bản, chủ thể phát ngôn
thường dùng từ chỉ chức vụ kết với tên cơ quan, đơn vị, tổ chức và tên riêng để hô.
Đây là cách hô chỉ xuất hiện trongVBHCTT mà khách thể tiếp nhận văn bản là một
cá nhân cụ thể có thẩm quyền thực thi văn bản. Mô hình của BTH như sau:
Chức vụ + tên quan, đơn vị, tổ chức + tên riêng (đầy đủ họ và tên)
Ví dụ (76)
Kính gửi: Phó Thủ tƣớng Chính phủ Vƣơng Đình Huệ
(…)
Nhằm tạo điều kiện cho tỉnh Đồng Tháp thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại
hội Đảng bộ Tỉnh lần thứ X, góp phần vào sự phát triển kinh tế-xã hội chung của
cả nƣớc, UBND tỉnh Đồng Tháp kiến nghị Phó Thủ tƣớng Chính Phủ Vƣơng
(Trích Công văn số: 13/UBND-TH, ngày 09/5/2017 của UBND tỉnh Đồng Tháp về việc xin
chủ trƣơng tổ chức Hội nghị xúc tiến đầu tƣ)
Đình Huệ đồng ý cho tổ chức và chủ trì Hội nghị trên./.
102
Ví dụ (76) là một VBHCTT (Công văn), chủ thể phát ngôn dùng chức vụ (Phó
Thủ tƣớng) kết hợp với tên cơ quan (Chính phủ) và tên riêng (Vƣơng Đình Huệ):
Phó Thủ tƣớng Chính Phủ Vƣơng Đình Huệ để hô khách thể tiếp nhận văn bản.
3.1.2.11. Biểu thức phối hợp học hàm, học vị, danh hiệu cao quý với tên riêng.
Theo khảo sát tư liệu của chúng tôi, trong giao tiếp bằng VBHC, việc dùng
biểu thức phối hợp học hàm, học vị, danh hiệu cao quý với tên riêng của khách
thể tiếp nhận văn bản để hô chỉ xuất hiện trong VBHCTT. Đây là cách hô thể
hiện tính chính xác, cụ thể, sự kính trọng và đề cao của chủ thể phát ngôn dành
cho khách thể tiếp nhận văn bản đã đạt được học hàm, học vị, hay danh hiệu cao
quý cụ thể. Mô hình của BTH như sau:
Học hàm, học vị, danh hiệu cao quý + tên riêng (đầy đủ họ và tên)
Ví dụ (77)
Kính gửi: Giáo sƣ Ngô Bảo Châu
(Trích trong Thƣ chúc mừng Giáo sƣ Ngô Bảo Châu của Thủ tƣớng Chính phủ ngày
19/8/2010.)
…
Ví dụ (77) là một VBHCTT (Thư công), chủ thể phát ngôn đã dùng học
hàm (Giáo sƣ) kết hợp với tên riêng (Ngô Bảo Châu): Giáo sƣ Ngô Bảo Châu
để hô khách thể tiếp nhận văn bản. Đây là cách hô thể hiện sự tôn trọng rất lớn
đối với khách thể hô. Dùng học hàm (Giáo sƣ) để hô là chủ thể hô đang nhấn
mạnh và đề cao chức danh và thành tựu trong học thuật của khách thể hô. So
sánh nếu hô ông Ngô Bảo Châu với Giáo sƣ Ngô Bảo Châu thì cách hô bằng
học hàm mang tính trang trọng, lịch sự hơn nhiều.
3.1.2.12. Biểu thức phối hợp học hàm, học vị, danh hiệu cao quý với tên
riêng, chức vụ và tên cơ quan, đơn vị, tổ chức.
Trong giao tiếp bằng VBHC, khi khách thể tiếp nhận văn bản là một cá nhân
cụ thể và có học hàm, học vị, chức vụ thì chủ thể phát ngôn thường dùng học hàm,
học vị, kết hợp với tên riêng, chức vụ và tên cơ quan, đơn vị, tổ chức để hô khách
thể tiếp nhận văn bản. Đây là cách hô chỉ xuất hiện trong VBHCTT. Cách hô này
103
thể hiện tính chính xác, sự tôn kính của chủ thể phát ngôn dành cho khách thể tiếp
nhận văn bản. Mô hình của BTH như sau:
Học hàm, học vị,.. + tên riêng (đầy đủ họ và tên) + tên cơ quan, đơn vị, tổ chức.
Ví dụ (78)
ĐƠN KIẾN NGHỊ
Kính gửi: PGS. TS. Nguyễn Tiết Khánh, Hiệu trƣởng Trƣờng Đại học Trà Vinh
Tôi tên là: Thái Thanh Lâm, hiện là phó Giám đốc Trung tâm liên kết đào tạo của
trƣờng. Nay tôi làm đơn này xin đƣợc kiến nghị đến Hiệu trƣởng một số vấn đề sau:
(Trích Đơn kiến nghị của một cá nhân)
Ví dụ (78) là một VBHCTT (Đơn kiến nghị), chủ thể phát ngôn đã dùng học
hàm, học vị (PGS.TS) kết hợp với tên riêng (Nguyễn Tiết Khánh), chức vụ (Hiệu
trƣởng), tên cơ quan (Trƣờng Đại học Trà Vinh) để hô khách thể tiếp nhận văn bản:
(...)
PGS. TS. Nguyễn Tiết Khánh, Hiệu trƣởng Trƣờng Đại học Trà Vinh.
Các BTNN để hô trong VBHC tiếng Việt được chúng tôi thống kê trong bảng sau:
Bảng 3.1. Thống kê các BTNN để hô trong VBHC tiếng Việt
Các BTNN để hô trong VBHC tiếng Việt
Từ hô gọi chung Danh từ chỉ chức vụ, chức danh, nghề nghiệp Biểu thức định danh cơ quan, đơn vị, tổ chức Từ hô gọi chung + tên riêng (đầy đủ họ và tên) Từ hô gọi chung + tên riêng + chức vụ + tên cơ quan, đơn vị, tổ chức Từ hô gọi chung + chức vụ Từ hô gọi chung + chức vụ + tên cơ quan, đơn vị, tổ chức Chức vụ + tên riêng (đầy đủ họ và tên) Chức vụ + tên cơ quan, đơn vị, tổ chức
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 Chức vụ + tên cơ quan, đơn vị, tổ chức + tên riêng (đầy đủ họ và tên) 11 Học hàm, học vị, danh hiệu cao quý + tên riêng (đầy đủ họ và tên) 12 Học hàm, học vị,..+ tên riêng (đầy đủ họ và tên) + tên cơ quan,
đơn vị, tổ chức
Tóm lại, VBHC vốn dĩ chịu sự chế định cao của pháp luật nên hô cũng có
nét đặc trưng riêng biệt. Luận án đã tiến hành khảo sát, nghiên cứu, thống kê
trong 543 V HC và được những kết quả thú vị. Thứ nhất, so với xƣng, hô trong
104
V HC phong phú và đa dạng hơn nhiều. Hô trong VBHC có 12 cách hô, còn
xưng trong V HC chỉ có 8 cách xưng. Thứ hai, hô trong VBHC rất khác so với
hô trong giao tiếp đời thường ở chỗ nó hoàn toàn không có màu sắc suồng sã,
thân mật. Thứ ba, hô trong VBHC có tính trung hòa cao, ngôn từ dùng để hô có
tính khách quan và tính lịch sự. Thứ tư, hô trong các loại VBHC không có sự
khác biệt nhiều như ở phần xƣng. Thứ năm, cũng giống như xƣng, cách hô bằng
tên cơ quan, đơn vị, tổ chức và hô bằng chức vụ kết hợp với tên cơ quan, đơn vị,
tổ chức cũng chiếm tỉ lệ cao. Đây là hai cách hô được dùng phổ biến nhất trong
VBHC hiện nay. Điều này cũng thể hiện đặc trưng của hô trong VBHC. Thứ sáu,
hô trong VBHC không dùng đại từ nhân xưng chính danh ngôi thứ 2 để hô vì các
từ này mang tính thân mật, suồng sã thâm chí thô tục, do đó không đảm bảo tính
trang trọng, lịch sự và trung hòa về sắc thái của VBHC tiếng Việt
Cũng qua khảo sát, nghiên cứu 543 VBHC tiếng Việt ở từng loại văn bản
khác nhau như trong bảng thống kê 2.1, chúng tôi thống kê được các BTNN để
hô trong từng loại V HC như sau:
Bảng 3.2. Thống kê các BTNN để hô trong 1347 lƣợt hô ở 543 VBHC tiếng Việt
các loại đƣợc khảo sát
STT
Ví dụ
Tần số xuất hiện
Tỉ lệ %
Các BTNN để hô trong từng loại VBHC Văn bản quy phạm pháp
297/1347
22.05
I
luật
Dùng tên của cơ quan, đơn
Bộ Nông nghiệp và Phát
1
vị, tổ chức (dạng đầy đủ,
147/1347 10.91
triển nông thôn, UBND
rút gọn hoặc nói khái quát)
tỉnh, các Bộ, các Sở,...
Dùng chức vụ kết hợp với
Bộ trƣởng Bộ Thông tin và
tên cơ cơ quan, đơn vị, tổ
Truyền thông, Giám đốc
2
115/1347
8.54
chức dạng đầy đủ, rút gọn
Sở Giáo dục và Đào tạo
hoặc nói khái quát.
các tỉnh,
Bộ
trƣởng, Chánh Văn
3 Dùng chức vụ
35/1347
2.60
phòng,
105
II Văn bản cá biệt
154/1347
11.43
Dùng từ hô gọi chung ông/bà
Ông Đồng Văn Thanh,
hoặc đồng chí kết hợp với tên
1
54/1347
4.01
Chánh Văn phòng Tỉnh ủy
riêng, chức vụ và tên cơ
Hậu Giang
quan, đơn vị, tổ chức
Dùng từ hô gọi chung
Ông (bà) Trƣởng Phòng
ông/bà hoặc đồng chí kết
2
37/1347
2.75
Đào tạo Trƣờng Đại học
hợp với chức vụ và tên cơ
Cửu Long
quan, đơn vị, tổ chức.
Dùng từ hô gọi chung kết
3
29/1347
2.15
Bà Đặng Thị Hồng
hợp với tên riêng.
Dùng chức vụ kết hợp với
tên cơ cơ quan, đơn vị, tổ
Chủ tịch UBND tỉnh Trà
4
21/1347
1.56
chức dạng đầy đủ, rút gọn
Vinh, Giám đốc Sở Nội vụ
hoặc nói khái quát.
Dùng tên của cơ quan, đơn
UBND
tỉnh Vĩnh Phúc,
5
vị, tổ chức (dạng đầy đủ,
13/1347
0.97
UBND huyện,...
rút gọn hoặc nói khái quát)
Văn bản hành chính
III
896/1347
66.52
thông thƣờng
Dùng tên của cơ quan, đơn
Sở Nội vụ tỉnh Cà Mau,
1
vị, tổ chức (dạng đầy đủ,
308/1347
22.87
Thanh tra Chính phủ, Các:
rút gọn hoặc nói khái quát)
bộ, sở, ban, ngành,
Dùng chức vụ kết hợp với
Giám đốc Sở Y tế, Giám
2
tên cơ quan, đơn vị, tổ
196/1347
14. 55
đốc Sở Nội vụ,…
chức
tƣớng, Bộ
3
88/1347
6.53
Dùng chức vụ, chức danh, nghề nghiệp
trƣởng, Thủ Chủ tịch, thầy giáo, cô giáo, cán bộ, công chức, viên chức, học sinh,
106
4 Dùng từ hô gọi chung
86/1347
6.38
61/1347
4.53
5
Ông/bà, anh/chị hoặc đồng chí Phó Thủ tƣớng Vũ Đức Đam,…
57/1347
4.23
ông Đinh Hùng Sơn
6
51/1347
3.79
7
Ông (bà) Chánh Văn phòng, đồng chí Bộ trƣởng, đồng chí Giám đốc,…
49/1347
3.64
8
Ông (bà) Vụ trƣởng Vụ Tổ chức Cán bộ, đồng chí Bộ trƣởng Bộ Tƣ pháp
43/1347
3.19
9
Đồng chí Nguyễn Tấn Bình, Giám đốc Sở Y tế Thành phố Hồ Chí Minh.
10
42/1347
3.12
Phó Thủ tƣớng Chính Phủ Vƣơng Đình Huệ.
Dùng chức vụ kết hợp với tên riêng Dùng từ hô gọi chung kết hợp với tên riêng. Dùng từ hô gọi chung ông/bà hoặc đồng chí kết hợp với chức vụ Dùng từ hô gọi chung ông/bà hoặc đồng chí kết hợp với chức vụ và tên cơ quan, đơn vị, tổ chức Dùng từ hô gọi chung ông/bà hoặc đồng chí kết hợp với tên riêng, chức vụ và tên cơ quan, đơn vị, tổ chức Dùng chức vụ kết hợp với tên cơ quan, đơn vị, tổ chức và tên riêng
16/1347
1.19
Giáo sƣ Ngô Bảo Châu, NGƢT Nguyễn Hữu Cầu, NSND Lê Khanh.
9/1347
0.67
PGS. TS. Nguyễn Tiết Khánh, trƣởng Hiệu Trƣờng Đại học Trà Vinh
11 Dùng học hàm, học vị khoa học, danh hiệu cao quý kết hợp với tên riêng. 12 Dùng học hàm, học vị hay danh hiệu cao quý kết hợp với tên riêng, chức vụ và tên cơ quan, đơn vị, tổ chức.
Nhìn vào bảng thống kê trên, chúng tôi nhận thấy ở mỗi loại V HC đều sử
dụng những BTNN để hô rất cụ thể:
Một là đối với VBQPPL, nếu khách thể tiếp nhận và thực thi văn bản là cơ
quan, đơn vị, tổ chức thì dùng biểu thức định danh cơ quan, đơn vị, tổ chức để
hô. Nếu khách thể tiếp nhận và thực thi văn bản là người đứng đầu cơ quan, đơn
vị, tổ chức thì dùng chức vụ kết hợp với tên cơ quan, đơn vị, tổ chức để hô hoặc
dùng chức vụ để hô. Đây là những cách hô đảm bảo tính chính xác, lịch sự, pháp
107
lí, đề cao vai trò, trách nhiệm của khách thể tiếp nhận và thực thi văn bản.
Hai là đối với VBCB, nếu khách thể tiếp nhận và thực thi văn bản là cơ
quan, đơn vị, tổ chức thì chỉ dùng biểu thức định danh cơ quan, đơn vị, tổ chức
để hô. Nếu khách thể tiếp nhận và thực thi văn bản là cá nhân thì dùng: từ hô gọi
chung kết hợp với tên riêng, chức vụ và tên cơ quan, đơn vị, tổ chức để hô; dùng
từ hô gọi chung kết hợp với chức vụ và tên cơ quan, đơn vị, tổ chức để hô; dùng
từ hô gọi chung kết hợp với tên riêng để hô; dùng chức vụ kết hợp với tên cơ
quan, đơn vị, tổ chức để hô. Đây là những cách hô nhằm thể hiện chính xác
khách thể tiếp nhận và thực thi văn bản. Hô trong V C phong phú hơn so với
hô trong VBQPPL. Cụ thể, trong VBQPPL chỉ có 3 cách hô còn trong VBCB có
tới 5 cách hô như thống kê trong bảng 3.2.
a là đối với VBHCTT – một loại văn bản được sử dụng rất nhiều trong
trong giao tiếp hành chính. Khách thể tiếp nhận và thực thi văn bản luôn cụ thể,
xác định (có đầy đủ họ và tên, chức nghiệp, nơi ở hoặc nơi làm việc nếu là cá
nhân; tên gọi, địa chỉ nếu là cơ quan, đơn vị, tổ chức). Nếu khách thể tiếp nhận
và thực thi văn bản là cơ quan, đơn vị, tổ chức thì dùng biểu thức định danh cơ
quan, đơn vị, tổ chức để hô. Đây là cách hô nhằm thể hiện tính minh bạch, pháp
lí của khách thể tiếp nhận và thực thi văn bản. Nếu khách thể tiếp nhận và thực
thi văn bản là cá nhân thì tùy vào vị trí, vai trò của cá nhân mà có cách hô cho
phù hợp. Nhìn chung, khách thể tiếp nhận và thực thi văn bản là cá nhân thì có
các cách hô sau: dùng chức vụ kết hợp với tên cơ quan, đơn vị, tổ chức để hô;
dùng chức vụ, chức danh, nghề nghiệp để hô; dùng từ hô gọi chung để hô; dùng
chức vụ kết hợp với tên riêng để hô; dùng từ hô gọi chung kết hợp với tên riêng
để hô; dùng từ hô gọi chung kết hợp với chức vụ để hô; dùng từ hô gọi chung kết
hợp với chức vụ và tên cơ quan, đơn vị, tổ chức để hô; dùng từ hô gọi chung kết
hợp với tên riêng, chức vụ và tên cơ quan, đơn vị, tổ chức để hô; dùng chức vụ
kết hợp với tên cơ quan, đơn vị, tổ chức và tên riêng để hô; dùng học hàm, học
vị, danh hiệu cao quý kết hợp với tên riêng để hô; dùng học hàm, học vị, danh
hiệu cao quý kết hợp với tên riêng, chức vụ và tên cơ quan, đơn vị, tổ chức để
hô. Đây là những cách hô thể hiện tính chính xác, lịch sự, sự tôn trọng của chủ
thể xưng dành cho khách thể tiếp nhận và thực thi văn bản.
108
Nhìn chung, ở mỗi loại VBHC khác nhau, việc dùng các BTNN để hô
cũng có sự giống và khác nhau. Bảng so sánh dưới đây s cho chúng ta thấy
rõ điều này.
Bảng 3.3. So sánh sự giống và khác nhau trong dùng các BTNN để hô ở các loại
VBHC tiếng Việt
Tên loại VBHC
Giống nhau
Khác nhau
Văn bản quy
- Dùng chức vụ kết
- Dùng chức vụ để hô - Không dùng từ hô gọi chung ông/bà hoặc
phạm pháp luật
hợp với tên cơ cơ
đồng chí kết hợp với tên riêng, chức vụ và
quan, đơn vị, tổ
tên cơ quan, đơn vị, tổ chức để hô.
chức dạng đầy đủ,
- Không dùng từ hô gọi chung ông/bà hoặc
rút gọn hoặc nói
đồng chí kết hợp với chức vụ và tên cơ quan,
khái quát để hô.
đơn vị, tổ chức để hô.
- Dùng tên của cơ
- Không dùng từ hô gọi chung kết hợp với
quan, đơn vị, tổ
tên riệng để hô.
chức dạng đầy đủ,
- Không dùng chức vụ để hô
Văn bản cá biệt
rút gọn hoặc nói
- Dùng từ hô gọi chung để hô.
Văn bản hành
khái quát để hô.
- Dùng từ hô gọi chung ông/bà hoặc đồng chí
chính
thông
kết hợp với chức vụ để hô.
thƣờng
- Dùng chức danh, nghề nghiệp để hô.
- Dùng chức vụ kết hợp với tên riêng để hô
- Dùng chức vụ kết hợp với tên cơ quan, đơn
vị, tổ chức và tên riêng để hô.
- Dùng học hàm, học vị, danh hiệu cao quý
kết hợp với tên riêng để hô.
- Dùng học hàm, học vị hay danh hiệu cao quý kết hợp với tên riêng, chức vụ và tên cơ quan, đơn vị, tổ chức để hô.
Tóm lại, các BTNN để hô trong VBHC bao giờ cũng thể hiện tính minh
xác, tính lịch sự và tính pháp lí cao.
109
3.1.3. Vị trí của biểu thức ngôn ngữ để hô trong văn bản hành chính
Như chúng tôi đã trình bày ở phần vị trí của BTNN để xưng trong
VBHC: Một V HC được chia làm 3 phần: phần đầu văn bản (quốc hiệu, tên cơ
quan ban hành văn bản, biểu thức ghi thời gian, địa điểm, tên văn bản, trích yếu
nội dung văn bản,..), phần nội dung văn bản (phần giữa văn bản), phần kết thúc
văn bản (quyền hạn, chức vụ của người kí; chữ kí, họ và tên của người kí).
Theo nghiên cứu của chúng tôi, các BTNN để hô trong VBHC chỉ có mặt ở 2
vị trí: đầu văn bản và giữa văn bản.
3.1.3.1. Vị trí đầu văn bản
Đối với loại VBHC mà cá nhân, hay tập thể tạo lập ra để đề đạt mong
muốn, nguyện vọng lên cá nhân hay tổ chức có thẩm quyền giải quyết như:
đơn từ, giấy mời, thông báo, tờ trình, công văn,… BTH thường được đặt ở
ngay phần đầu văn bản trong phần Kính gửi:..., sau quốc hiệu hoặc tên văn
bản. Ở những loại VBHC này, người viết trình bày tất cả các thông tin về
người nhận và người viết tức là hô và xưng một cách rõ ràng và chính xác
trước rồi mới trình bày nội dung của văn bản. Kiểu đặt vị trí của BTH này có
thể được dùng trong các văn bản thông dụng trong đời sống như: công văn,
thông báo, giấy triệu tập, thư mời, phiếu chuyển, các loại đơn từ.., và những
vấn đề được trình bày trong văn bản là những vấn đề của một cá nhân hay một
tập thể nhỏ nào đó. Với các loại văn bản này, chủ thể hô luôn luôn phải xác
định được rõ ràng và chính xác người nhận, nơi nhận văn bản để hô. Đối
tượng được hô trong văn bản chính là người có thẩm quyền giải quyết những
đề đạt, nguyện vọng, mong muốn… được trình bày sau đó.
Ví dụ (79)
ĐƠN XIN VIỆC
Kính gửi: Ông Triệu Văn Khoát
Chức vụ: Giám đốc
Công ty: Trách nhiệm hữu hạn Sao Mai
110
Tôi tên là Hàn Văn Long
(Trích Đơn xin việc của một cá nhân)
………………………………………..
Trong ví dụ (79), BTH Ông Triệu Văn Khoát được đặt ở đầu văn bản.
Khách thể tiếp nhận văn bản là người có thẩm quyền giải quyết mong muốn,
nguyện vọng mà chủ thể xưng trình bày.
Ví dụ (80)
Kính gửi: Cục Thuế tỉnh Tây Ninh
“Ngày 14/12/2018, Tổng cục Thuế đã có công văn số 5125/TCT-CS trả lời
Cục Thuế tỉnh Tây Ninh về chính sách thuế Giá trị gia tăng. Tuy nhiên do sơ
(Trích Công văn số: 334/TCT-CS ngày 29/01/2019 của Tổng cụcThuế về việc đính
chính văn bản)
suất trong khâu soạn thảo, Tổng cục Thuế đính chính lại nội dung nhƣ sau:…”
Trong ví dụ (80), BTH Cục Thuế tỉnh Tây Ninh được đặt ở phần đầu văn
bản. Khách thể tiếp nhận văn bản là cơ quan có thẩm quyền giải quyết mong
muốn, nguyện vọng mà chủ thể xưng trình bày.
Nhìn chung, BTNN dùng để hô trong V HC thường xuất hiện ở vị trí đầu
văn bản.
3.1.3.2. Vị trí giữa văn bản
Trong VBHC, BTH xuất hiện ở vị trí giữa văn bản (phần nội dung văn bản)
cũng rất phổ biến. Vị trí của BTH này thường đứng sau BTX và nằm ở đầu,
giữa, cuối nội dung văn bản. Cách hô này xuất hiện trong các văn bản như: chỉ
thị, thông tư, công điện, …
Ví dụ (81)
“ Để nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng đồng thời thực
hiện đồng bộ và có hiệu quả các giải pháp công tác phòng, chống tham nhũng
trên địa bàn tỉnh năm 2019 và những năm tiếp theo, Chủ tịch UBND tỉnh yêu
cầu Giám đốc các Sở, Thủ trƣởng các cơ quan, đơn vị, Chủ tịch UBND các
huyện, thành phố tập trung, chỉ đạo thực hiện tốt các nhiệm vụ sau:
(….)
111
Chủ tịch UBND tỉnh yêu cầu Giám đốc các Sở, Thủ trƣởng các cơ quan,
đơn vị, Chủ tịch UBND các huyện, thành phố nghiêm túc triển khai thực hiện
(Trích Chỉ thị số: 04/CT-UBND, ngày 18/3/2019 của UBND tỉnh Hòa Bình về việc tăng
cƣờng công tác phòng, chống tham nhũng trên địa bàn tỉnh Hòa Bình)
Chỉ thị này./.
Ở ví dụ (81), các BTH là Giám đốc các Sở, Thủ trƣởng các cơ quan, đơn
vị, Chủ tịch UBND các huyện, thành phố được đặt ở phần đầu và phần cuối nội
dung của văn bản sau chủ thể xưng.
Vị trí đặt BTH cũng có thể là trong các điều khoản của văn bản. Kiểu hô
này thường xuất hiện trong những văn bản pháp quy mang tính pháp lí cao và do
các cá nhân, hay cơ quan, đơn vị, tổ chức có thẩm quyền ban hành như: Quyết
định, nghị quyết, thông tư,...Ngay trong chính điều khoản của văn bản đã quy
định rõ ràng, chính xác đối tượng chịu trách nhiệm thực thi văn bản.
Ví dụ (82)
QUYẾT ĐỊNH
…
UBND TỈNH CÀ MAU
QUYẾT ĐỊNH
(…)
Điều 3. Chánh Văn phòng UBND tỉnh, Giám đốc Sở Nội vụ, Thủ trƣởng các
sở, ban, ngành, đoàn thể tỉnh; Chủ tịch UBND các huyện, thành phố Cà Mau;
Chủ tịch UBND các xã, phƣờng, thị trấn và các tổ chức, tập thể, cá nhân có
liên quan chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này./.
(Trích Quyết định số 32/2018/QĐ-UBND ngày 14/11/2018 của UBND tỉnh Cà Mau)
(…)
Trong ví dụ (82), các BTH được thể hiện rõ trong một điều khoản của văn
bản với tư cách những người “chịu trách nhiệm thi hành” văn bản.
Tóm lại, BTH xuất hiện đều khắp trong VBHC nhằm nhấn mạnh quan hệ
vai của khách thể tiếp nhận văn bản. Mặt khác tạo nên sự đối xứng giữa xưng và
112
hô. Trong cặp biểu thức xưng-hô đã lựa chọn, chủ thể buộc người tiếp thoại giao
tiếp với mình trong khung quan hệ liên cá nhân phù hợp với ý nghĩa của cặp biểu
thức xưng-hô đó.
Nếu so sánh vị trí của BTH với vị trí của BTX trong VBHC tiếng Việt,
chúng tôi nhận thấy có sự giống và khác nhau. Giống nhau là đều xuất hiện ở vị
trí đầu và giữa văn bản. Khác nhau là xưng có xuất hiện ở vị trí kết thúc văn bản
còn hô thì không xuất hiện ở vị trí này và hô có thể xuất hiện trong một điều
khoản cụ thể của văn bản còn xưng thì không.
3.1.4. Hô trong mối quan hệ với vị thế giao tiếp
3.1.4.1. Vị thế ngang bằng
Vị thế giao tiếp liên quan đến nhân vật giao tiếp là những người tham gia
vào một cuộc giao tiếp bằng ngôn ngữ, dùng ngôn ngữ để tạo ra các lượt lời. Vì
thế xuất hiện quan hệ vai giao tiếp và quan hệ liên cá nhân, trong đó vai phát ra
diễn ngôn tức là vai nói (viết) và vai tiếp nhận diễn ngôn, tức nghe (đọc). Đối
với giao tiếp mặt đối mặt vai nói và nghe có sự luân phiên. Lí thuyết xưng hô
cũng chỉ ra rằng quan hệ liên cá nhân giữa các nhân vật giao tiếp có thể xét theo
hai trục, trục tung là trục vị thế xã hội (trục quyền uy), trục hoành là trục của
quan hệ khoảng cách (trục thân cận). Xưng hô chịu áp lực rất mạnh của quan hệ
liên cá nhân. Giao tiếp trong VBHC có đặc thù ở chỗ đó không phải là một cuộc
hội thoại mặt đối mặt mà là cuộc đối thoại thông qua văn bản. Thông thường,
VBHC thường chứa đựng những thông tin cần thiết ví dụ như: chỉ thị của cấp
trên với cấp dưới hay đơn từ khiếu nại của cấp dưới gửi lên các cấp có thẩm
quyền nhằm trình bày một vấn đề nào đó.
Cũng giống như xƣng trong VBHC, hô trong V HC cũng phải xác định vị thế
trong giao tiếp để có cách hô cho phù hợp. Nếu chủ thể phát ngôn và khách thể tiếp
nhận văn bản có vị thế ngang bằng thì tùy vào khách thể tiếp nhận văn bản mà chủ
thể phát ngôn chọn BTNN để hô cho phù hợp. Chúng tôi tiến hành khảo sát 543
VBHC, trong đó có 104 lượt hô thể hiện giữa chủ thể phát ngôn và khách thể tiếp
113
nhận văn bản có vị thế ngang bằng. Các cách hô được thể hiện hiện như sau:
a. Nếu khách thể tiếp nhận văn bản là cá nhân: khi hô, để thể hiện tính lịch
sự, trung hòa, sự tôn trọng địa vị quyền lực của khách thể tiếp nhận, chủ thể phát
ngôn thường dùng:
+ Thứ nhất là từ hô gọi chung ông/bà hoặc đồng chí để hô khách thể tiếp
nhận văn bản. Mặc dù chủ thể phát ngôn và khách thể tiếp nhận văn bản ở vị
thế ngang bằng, nhưng chủ thể phát ngôn vẫn dùng ông/bà để hô khách thể tiếp
nhận văn bản và cặp từ xưng hô thường dùng là tôi – ông, tôi – bà. Cách hô
ông/bà ở đây không có nét nghĩa thân tộc, không có nét nghĩa tuổi tác, vị thế
mà chỉ có nét nghĩa giới tính và thể hiện thái độ trọng thị đối với khách thể tiếp
nhận văn bản. Ngoài cách hô phổ biến là ông/bà, ở vị thế ngang bằng trong
VBHC, chủ thể phát ngôn còn sử dụng từ đồng chí để hô khách thể tiếp nhận
văn bản. “Đồng chí là danh từ Hán Việt dùng để chỉ những người cùng chí
hướng về chính trị trong quan hệ với nhau” [105, tr. 342] và như thế đồng chí
thường dùng để hô trong một tổ chức chính trị như: đảng phái, đoàn thể...
Nhưng hiện nay, từ hô này đã vượt ra phạm vi sử dụng ban đầu để đi vào nhiều
bối cảnh giao tiếp khác nhau trong đó có VBHC. Cách hô bằng đồng chí thể
hiện tính lịch sự, ngang bằng trong giao tiếp.
Ví dụ (83)
Kính gửi: Ông Nguyễn Thanh Hải- Cán bộ Trung tâm liên kết đào tạo.
Tôi tên là: Phạm Thành Tuấn- Cán bộ Trung tâm Tin học.
Vào lúc 8 giờ, ngày 26 tháng 12 năm 2015, giữa ông và tôi đã có sự hiểu
lầm d n đến xô xát. Nay tôi xin đƣợc giải trình để ông Nguyễn Thanh Hải hiểu
(Trích Bản giải trình của một cá nhân)
rõ sự việc nhƣ sau: (...)
Trong ví dụ (83), chủ thể phát ngôn và khách thể tiếp nhận văn bản là
những cá nhân có vị thế ngang bằng. Chủ thể phát ngôn đã dùng từ hô gọi chung
ông để hô khách thể tiếp nhận văn bản.
114
+ Thứ hai là từ hô gọi chung ông/bà hoặc đồng chí kết hợp với tên riêng
(đầy đủ họ và tên) để hô. Đây là cách hô chỉ xuất hiện trong những VBHCTT do
một cá nhân tạo lập để giao tiếp với một cá nhân khác có vị thế ngang nhau. Để
đảm bảo tính chính xác, lịch sự trong giao tiếp, chủ thể phát ngôn dùng từ hô gọi
chung kết hợp với tên riêng (đầy đủ họ và tên) của khách thể tiếp nhận văn bản
để hô. Từ ông, bà thể hiện giới tính, sự kính trọng của chủ thể phát ngôn dành
cho khách thể tiếp nhận văn bản. Cũng trong ví dụ (83), chủ thể phát ngôn đã
dùng từ hô gọi chung (ông) kết hợp với tên riêng (Nguyễn Thanh Hải): ông
Nguyễn Thanh Hải để hô khách thể tiếp nhận văn bản.
+ Thứ ba là chức vụ kết hợp với tên cơ quan, đơn vị, tổ chức để hô. Đây là
cách hô xuất hiện nhiều trong tất cả các loại V HC có tính pháp lí do người
đứng đầu cơ quan, đơn vị, tổ chức có thẩm quyền ban hành để giao tiếp với
khách thể tiếp nhận văn bản cũng là người đứng đầu cơ quan, đơn vị, tổ chức
cùng cấp khác. Để đảm bảo tính pháp lí, tính chính xác, tính lịch sự, sự tôn trọng
vị thế, quyền lực của khách thể tiếp nhận văn bản, chủ thể phát ngôn dùng biểu
thức phối hợp chức vụ với tên cơ quan, đơn vị, tổ chức của khách thể tiếp nhận
văn bản để hô. Sử dụng cách hô này nhằm đề cao vai trò của người đứng đầu cơ
quan, đơn vị, tổ chức và nâng cao giá trị, hiệu quả trong giao tiếp bằng VBHC.
Ví dụ (84)
Căn cứ...............
Bộ trƣởng Bộ Quốc phòng ban hành Thông tƣ hƣớng d n thực hiện công
tác quốc phòng ở các bộ, ngành và các địa phƣơng năm 2013.
(…)
Điều 10. Trách nhiệm thi hành
Bộ trƣởng các bộ, Thủ trƣởng cơ quan ngang bộ,… có trách nhiệm thực
(Trích Thông tƣ số:130/2012/TT-BQP ngày 04/12/2012 của Bộ Quốc phòng về việc hƣớng
d n thực hiện công tác quốc phòng ở các bộ, ngành và các địa phƣơng năm 2013.)
hiện Thông tƣ này.”
115
Trong ví dụ (84), chủ thể phát ngôn và khách thể tiếp nhận văn bản ở vị thế
ngang bằng. Khách thể tiếp nhận văn bản là những cá nhân cụ thể. Chủ thể phát
ngôn đã dùng chức vụ kết hợp với tên cơ quan Bộ trƣởng các Bộ, Thủ trƣởng
cơ quan ngang bộ…để hô khách thể tiếp nhận văn bản.
Trong 543 VBHC được khảo sát, có 104 lượt hô thể hiện chủ thể phát ngôn
và khách thể tiếp nhận văn bản là cá nhân có vị thế ngang bằng. Các BTNN dùng
để hô được chúng tôi thống kê như sau:
Bảng 3.4. Thống kê các BTNN để hô vị thế ngang bằng của cá nhân trong
giao tiếp bằng VBHC tiếng Việt
Tần số Tỉ lệ Các BTNN để hô STT Ví dụ xuất hiện %
Dùng chức vụ kết hợp Bộ trƣởng Bộ Y tế, Thống với tên cơ quan, đơn 76 /104 73.08 đốc Ngân hàng Nhà nƣớc 1 vị, tổ chức dạng đầy Việt Nam,… đủ hoặc rút gọn
2 Dùng từ hô gọi chung 15/104 14.42 Ông, bà, đồng chí,...
Nhìn vào bảng thống kê trên, chúng tôi nhận thấy để hô với vị thế ngang
Ông Nguyễn Thanh Hải, bà Dùng từ hô gọi chung 13/104 12.50 Nguyễn Ngọc Minh, đồng 3 kết hợp với tên riêng chí Nguyễn Vũ Hùng.
bằng của cá nhân trong giao tiếp bằng VBHC, chủ thể xưng dùng chức vụ kết
hợp với tên cơ quan, đơn vị, tổ chức dạng đầy đủ hoặc rút gọn của khách thể
tiếp nhận và thực thi văn bản để hô chiếm tỉ lệ rất cao (73.08 %) bởi vì đây là
cách hô được sử dụng trong tất cả các loại VBHC có tính pháp lí (VBQPPL,
VBCB, VBHCTT). Để câu thúc khách thể tiếp nhận và thực thi văn bản, cách
hô này còn được lặp lại nhiều lần trong văn bản. Dùng từ hô gọi chung (ông,
bà, đồng chí) để hô chiếm tỉ lệ (14.42 %) và dùng từ hô gọi chung kết hợp với
tên riêng để hô chiếm tỉ lệ (12.50 %). Hai cách hô này chiếm tỉ lệ thấp là vì
116
đây là những cách hô chỉ được dùng trong một số VBCB và một số VBHCTT
(không dùng trong V QPPL) mà đối tượng tiếp nhận và thực thi văn bản là
những cá nhân cụ thể.
b. Nếu khách thể tiếp nhận văn bản là cơ quan, đơn vị, tổ chức: khi hô để
thể hiện tính pháp lí, chủ thể phát ngôn thường dùng:
+ Thứ nhất là dùng tên của cơ quan, đơn vị, tổ chức dạng đầy đủ để hô. Đây
là cách hô được sử dụng nhiều trong tất cả các loại V HC có tính pháp lí do các cơ
quan, đơn vị, tổ chức có thẩm quyền ban hành để giao tiếp với các cơ quan, đơn vị,
tổ chức ngang bằng khác. Chủ thể phát ngôn và khách thể tiếp nhận văn bản đều là
cơ quan, đơn vị, tổ chức. Điều này càng làm tăng thêm giá trị pháp lí và tính hiệu
lực của văn bản. Dùng biểu thức định danh cơ quan, đơn vị, tổ chức dạng đầy đủ để
hô trong trường hợp vị thế ngang bằng s đảm bảo được tính quy thức, chuẩn mực,
chính xác, bình đẳng giữa bên phát và bên nhận văn bản.
Ví dụ (85)
Kính gửi: Bộ Công thƣơng
“…Theo quy định tại Quy chế làm việc của Chính phủ Ban hành kèm theo
Nghị định số: 08/2012/NĐ-CP ngày 16 tháng 02 năm 2012, Văn phòng Chính
(Trích Phiếu chuyển số: 61/PC-VPCP ngày 18/ 01/ 2013 của Văn phòng Chính phủ.)
phủ kính chuyển Bộ Công thƣơng xem xét, trả lời theo quy định của pháp luật ”
Trong ví dụ (85), chủ thể phát ngôn và khách thể tiếp nhận văn bản là
những cơ quan ngang cấp. Chủ thể phát ngôn đã dùng tên cơ quan ở dạng đầy đủ
Bộ Công thƣơng để hô khách thể tiếp nhận văn bản.
+ Thứ hai là dùng tên cơ quan, đơn vị, tổ chức dạng rút gọn để hô. Đây là
cách hô được sử dụng nhiều trong giao tiếp bằng VBHC giữa các cơ quan, đơn
vị, tổ chức có vị thế ngang bằng. Dùng tên cơ quan, đơn vị, tổ chức dạng rút gọn
để hô thường xuất hiện sau khi tên đầy đủ đã được hô trước đó. Cách hô này
nhằm câu thúc khách thể tiếp nhận thực thi những yêu cầu đặt ra trong văn bản.
117
Ví dụ (86)
Kính gửi: Sở Tƣ Pháp tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu
“…Để có cơ sở tham mƣu trình UBND Tỉnh ban hành Quyết định, Sở Tài
chính kính đề nghị Sở Tƣ Pháp thẩm định dự thảo Quyết định quy định bổ sung
trình tự thủ tục ghi nợ, thanh toán nợ tiền sử dụng đất ở của hộ gia đình, cá
(Trích Công văn số: 89/STC-VP ngày 14/01/2014 của Sở Tài chính tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
về việc Đề nghị thẩm định dự thảo Quyết định quy định trình tự thủ tục ghi nợ, thanh toán nợ tiền
sử dụng đất ở của hộ gia đình, cá nhân trên địa bàn tỉnh Bà Rịa -Vũng Tàu.)
nhân trên địa bàn tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu ”
Trong ví dụ (86), chủ thể phát ngôn và khách thể tiếp nhận văn bản là
những cơ quan cùng cấp. Chủ thể phát ngôn dùng tên cơ quan ở dạng rút gọn Sở
Tƣ Pháp (rút gọn từ tên đầy đủ Sở Tƣ Pháp tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu) để hô
khách thể tiếp nhận văn bản.
+ Thứ ba là dùng tên cơ quan, đơn vị, tổ chức dạng nói khái quát để hô.
Đây là cách hô cũng được sử dụng trong giao tiếp bằng VBHC giữa các cơ
quan, đơn vị, tổ chức có vị thế ngang bằng. Khi khách thể tiếp nhận và thực
thi văn bản gồm nhiều cơ quan, đơn vị, tổ chức thì chủ thể phát ngôn dùng
dạng nói khái quát để hô. Tuy nhiên, cách hô này thường xuất hiện sau khi tên
đầy đủ hoặc rút gọn của các khách thể tiếp nhận văn bản đã được hô trước đó.
Dùng dạng nói khái quát để hô thường xuất hiện ở lần hô cuối cùng nhằm câu
thúc các khách thể tiếp nhận thực thi văn bản.
Ví dụ (87)
Kính gửi:
- Bộ Khoa học và Công nghệ;
- Bộ Tài chính.
(Trích Thông báo số: 7016/VPCP-CCHC ngày 03/12/2007 của Văn phòng Chính phủ về ý
kiến chỉ đạo của Thủ tƣớng Chính phủ.)
Văn phòng Chính phủ xin thông báo để các cơ quan biết và thực hiện./.
Trong ví dụ (87), chủ thể phát ngôn và khách thể tiếp nhận văn bản là
những cơ quan cùng cấp. Chủ thể phát ngôn đã dùng dạng khái quát các cơ quan
để hô các khách thể tiếp nhận văn bản.
118
Trong 543 VBHC được khảo sát, có 112 lượt hô thể hiện bên phát và bên
nhận văn bản là những cơ quan, đơn vị, tổ chức có vị thế ngang bằng. Các
BTNN dùng để hô được chúng tôi thống kê như sau:
Bảng 3.5. Thống kê các BTNN để hô vị thế ngang bằng của cơ quan, đơn vị,
tổ chức trong giao tiếp bằng VBHC tiếng Việt
Tần số Tỉ lệ Các BTNN để hô STT Ví dụ xuất hiện %
Dùng tên cơ quan, đơn Bộ Quốc phòng, Bộ Công 1 56/112 50.00 vị, tổ chức dạng đầy đủ an, UBND tỉnh Vĩnh Phúc,
Dùng tên cơ quan, đơn 2 41/112 36.61 Sở Y tế, Sở Công thƣơng vị, tổ chức dạng rút gọn
Nhìn vào bảng thống kê trên, chúng tôi nhận thấy để hô với vị thế ngang
Dùng tên cơ quan, đơn Các cơ quan, các bộ, cơ 3 vị, tổ chức dạng nói 15/112 13.39 quan ngang bộ,… khái quát
bằng của cơ quan, đơn vị, tổ chức trong giao tiếp bằng VBHC, chủ thể xưng
dùng tên đầy đủ của khách thể tiếp nhận và thực thi văn bản để hô chiếm tỉ lệ
cao nhất (50.00 %) bởi vì đây là cách hô được sử dụng trong tất cả các loại
V HC có tính pháp lí do các cơ quan, đơn vị, tổ chức có thẩm quyền ban
hành để giao tiếp với các cơ quan, đơn vị, tổ chức khác. Cách hô này đảm bảo
tính chính xác nhất khách thể tiếp nhận và thực thi văn bản. Dùng tên rút gọn
của khách thể tiếp nhận và thực thi văn để hô chiếm tỉ lệ cao thứ hai (36.61
%) vì cách hô này chỉ được sử dụng khi cách hô bằng tên đầy đủ đã được sử
dụng trước đó. Dùng tên cơ quan, đơn vị, tổ chức dạng khái quát để hô chiếm
tỉ lệ thấp nhất (13.39 %) bởi đây là cách hô chỉ xuất hiện trong trường hợp
khách thể tiếp nhận gồm nhiều cơ quan, đơn vị, tổ chức. Để tránh sự lặp lại
các cách hô, chủ thể phát ngôn dùng dạng nói khái quát để hô.
119
Nhìn chung, trong VBHC khi chủ thể phát ngôn và khách thể tiếp nhận văn
bản có vị thế ngang bằng, chủ thể phát ngôn thường dùng những biểu thức ngôn
ngữ có tính trung hòa, tính lịch sự, tính khách quan, tính pháp lí để hô khách thể
tiếp nhận văn bản. Điều này càng làm tăng thêm tính hiệu quả trong giao tiếp.
Nếu so sánh với hô trong hoạt động giao tiếp hằng ngày và nơi công sở,
chúng tôi nhận thấy có sự tương đồng và khác biệt. Tương đồng ở chỗ đều sử
dụng những từ để hô mang tính chất trung hòa, lịch sự như: ông, bà, đồng chí và
các cặp từ xưng hô thường dùng: tôi – ông, tôi – bà, tôi – đồng chí. Khác biệt ở
chỗ, ngoài những từ ông, bà, đồng chí ra, hô trong hoạt động giao tiếp hằng ngày
và nơi công sở còn sử dụng những từ thể hiện sự biểu cảm cá nhân, sự thân mật,
như các từ: mày, cậu, bạn, tên, đằng ấy,… Các cặp từ xưng hô thường dùng: tao
– mày, tớ – cậu, tôi – bạn, tên – tên, đây – đằng ấy,…Trong VBHC, những từ
mang tính chất biểu cảm cá nhân, thân mật,… không được dùng để hô.
3.1.4.2. Vị thế của vai trên đối với vai dƣới
Cũng giống như đối với xƣng, hô trong VBHC rất cần xác định rõ vai
trên/dưới để có cách hô cho phù hợp, đúng vai. Vị thế của vai trên đối với vai
dưới ở đây được hiểu là chủ thể xưng trong văn bản phát đi có vị thế cao hơn so
với khách thể tiếp nhận và thực thi văn bản đó. Đối với VBHC, cách hô của vai
trên đối với vai dưới cũng cần đảm bảo tính hành chính Nhà nước. Theo khảo sát
tư liệu, chúng tôi nhận thấy, cách hô này được thể hiện như sau:
a. Nếu khách thể tiếp nhận văn bản là cá nhân: khi hô, để thể hiện tính cụ
thể, chính xác, minh bạch, tôn trọng địa vị quyền lực của khách thể tiếp nhận văn
bản, các cách hô chủ yếu hiện nay là:
+ Thứ nhất là dùng từ hô gọi chung để hô. Tuy chủ thể phát ngôn là vai trên
nhưng khi hô khách thể tiếp nhận văn bản (vai dưới), chủ thể phát ngôn vẫn
thường dùng từ ông/bà, anh/chị để hô. Cách hô này không thể hiện vị thế, tuổi tác
mà thể hiện giới tính và sự tôn trọng của người vai trên đối với người vai dưới.
120
Ví dụ (88)
Kính gửi: Ông Ngô Văn Triển, trưởng thôn Ngọc Đỉnh, xã Hoằng Hà.
(...)
Chủ tịch UBND huyện trả lời để ông biết và mong ông tuyên truyền, vận
động các bậc phụ huynh học sinh trong thôn cùng thực hiện, góp phần đƣa
phong trào giáo dục của xã Hoằng Hà nói chung và thôn Ngọc Đỉnh nói riêng
(Trích Công văn số: 1282/UBND ngày 18/9/2013 của UBND huyện Hoằng Hóa về việc trả
lời đơn kiến nghị.)
ngày càng phát triển ”
Trong ví dụ (88), chủ thể phát ngôn là Chủ tịch UBND huyện Hoằng
Hà (vai trên) đã dùng từ hô gọi chung ông để hô khách thể tiếp nhận văn bản
(vai dưới).
+ Thứ hai là dùng từ hô gọi chung ông/bà hoặc đồng chí kết hợp với tên
riêng để hô. ùi Minh ến cũng cho rằng: “Dưới dạng văn tự, lời nói chung hiện
nay là ông/bà + tên đầy đủ/tên” [113, tr. 154]. Cách gọi ông/bà thể hiện sự tôn
trọng của người phát ngôn dành cho người tiếp nhận văn bản.
Ví dụ (89)
Kính gửi: Ông Nguyễn Văn Tuyến, trƣởng ấp Tân An, thị trấn Cái Tắc,
huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang.
(...)
Vậy, Chủ tịch UBND tỉnh Hậu Giang thông báo để ông Nguyễn Văn
(Trích Thông báo số: 114/TB-UBND ngày 07/9/2016 của UBND tỉnh Hậu Giang về việc thụ
lí giải quyết khiếu nại lần hai.)
Tuyến đƣợc biết ”
Trong ví dụ (89), chủ thể phát ngôn xưng là Chủ tịch UBND tỉnh Hậu
Giang (vai trên) đã dùng từ hô gọi chung (ông) kết hợp với tên riêng
(Nguyễn Văn Tuyến): ông Nguyễn Văn Tuyến để hô khách thể tiếp nhận
văn bản (vai dưới).
121
+ Thứ ba là dùng từ hô gọi chung ông/bà hoặc đồng chí kết hợp với tên
riêng, chức vụ và tên cơ quan, đơn vị, tổ chức để hô.
Ví dụ (90)
“ Chủ tịch UBND tỉnh yêu cầu ông Hoàng Trọng Kim, Giám đốc Sở
Xây dựng tỉnh Nghệ An nghiêm túc tự kiểm điểm và tự nhận hình thức kỉ luật
(Trích Công văn số: 9846/UBND-TH ngày 26/12/2014 của UBND tỉnh Nghệ An về việc yêu
cầu tự kiểm điểm.)
(nếu có), gửi bản kiểm điểm cho ”
Trong ví dụ (90), chủ thể phát ngôn xưng là Chủ tịch UBND tỉnh (vai
trên) đã dùng từ hô gọi chung (ông) kết hợp với tên riêng (Hoàng Trọng Kim),
chức vụ (Giám đốc) và tên cơ quan (Sở Xây dựng tỉnh Nghệ An): ông Hoàng
Trọng Kim, Giám đốc Sở Xây dựng tỉnh Nghệ An để hô khách thể tiếp nhận
văn bản (vai dưới).
+ Thứ tư là dùng từ hô gọi chung ông/bà hoặc đồng chí kết hợp với chức
vụ để hô.
Ví dụ (91)
BỘ TRƢỞNG BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
Căn cứ ..............................................................................................................
QUYẾT ĐỊNH
(…)
Điều 3. Chủ tịch UBND Thành phố Hồ Chí Minh; các ông (bà): Chánh
Văn phòng, Vụ trƣởng Vụ Tổ chức cán bộ, Vụ trƣởng Vụ Kế hoạch - Tài
chính, Vụ trƣởng Vụ Giáo dục Đại học thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo, Thủ
trƣởng các đơn vị, tổ chức có liên quan và Hiệu trƣởng Trƣờng Cao đẳng
(Trích Quyết định số: 4832/QĐ-BGDĐT, ngày 24/10/2014 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về
việc đổi tên Trƣờng Cao đẳng Kinh tế - Kĩ thuật Phú Lâm thành Trƣờng Cao đẳng Kinh tế - Kĩ
thuật thành phố Hồ Chí Minh.)s
Kinh tế - Kĩ thuật Phú Lâm chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này./.
122
Trong ví dụ (91), chủ thể phát ngôn xưng là Bộ trƣởng Bộ Giáo dục và
Đào tạo (vai trên) đã dùng từ hô gọi chung (các ông/bà) kết hợp với chức vụ
(Chánh Văn phòng): các ông (bà) Chánh Văn phòng để hô khách thể tiếp nhận
văn bản (vai dưới).
+ Thứ năm là dùng từ hô gọi chung ông/bà hoặc đồng chí kết hợp với chức
vụ và tên cơ quan, đơn vị, tổ chức để hô. Cũng trong ví dụ (91), chủ thể phát
ngôn (vai trên) dùng từ hô gọi chung (các ông/bà) kết hợp với chức vụ (Vụ
trƣởng) và tên cơ quan, đơn vị, tổ chức ( Vụ Tổ chức cán bộ, Vụ Kế hoạch - Tài
chính, Vụ Giáo dục Đại học thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo): các ông (bà): Vụ
trƣởng Vụ Tổ chức cán bộ, Vụ trƣởng Vụ Kế hoạch - Tài chính, Vụ trƣởng
Vụ Giáo dục Đại học thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo,… để hô khách thể tiếp
nhận văn bản (vai dưới).
+ Thứ sáu là dùng từ chỉ chức vụ để hô. Tuy là vai trên, nhưng để tôn trọng
địa vị, quyền lực, gắn với trách nhiệm của khách thể tiếp nhận và thực thi văn
bản, chủ thể phát ngôn thường dùng chức vụ của khách thể tiếp nhận và thực thi
văn bản để hô.
Ví dụ (92)
“…Thủ tƣớng Chính phủ yêu cầu Bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan ngang
bộ, Thủ trƣởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch UBND các tỉnh,…tập
trung chỉ đạo thực hiện đồng bộ, hiệu quả các mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp
(Trích Chỉ thị số: 09/CT-TTg ngày 01/4/2019 của Thủ tƣớng Chính phủ về các giải pháp tập
trung tháo gỡ cho sản xuất kinh doanh, bảo đảm mục tiêu tăng trƣởng 6 tháng và cả năm 2019)
cụ thể sau:…”
Trong ví dụ (92), chủ thể phát ngôn (vai trên) xưng là Thủ tƣớng Chính
phủ đã dùng chức vụ Bộ trƣởng để hô khách thể tiếp nhận và thực thi văn bản
(vai dưới).
+ Thứ bảy là dùng chức vụ kết hợp với tên cơ quan, đơn vị, tổ chức để hô.
Cũng trong ví dụ (92), chủ thể phát ngôn (vai trên) xưng là Thủ tƣớng Chính
123
phủ đã dùng chức vụ (Thủ trƣởng, Chủ tịch) kết hợp với tên cơ quan (Cơ quan
ngang bộ, Cơ quan thuộc Chính phủ, UBND các tỉnh ): Thủ trƣởng cơ quan
ngang bộ, Thủ trƣởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch UBND các tỉnh để
hô khách thể tiếp nhận văn bản (vai dưới).
+Thứ tám là dùng học hàm, học vị khoa học, danh hiệu cao quý kết hợp với
tên riêng để hô. Chẳng hạn như trong ví dụ (77), chủ thể phát ngôn là Thủ tƣớng
Chính phủ (vai trên) đã dùng học hàm (Giáo sƣ) kết hợp với tên riêng (Ngô Bảo
Châu): Giáo sƣ Ngô Bảo Châu để hô khách thể tiếp nhận văn bản (vai dưới).
b. Nếu khách thể tiếp nhận văn bản gồm nhiều ngƣời cùng chung chức
danh, nghề nghiệp: dùng các từ chỉ chức danh, nghề nghiệp để hô.
Ví dụ (93):
HIỆU TRƢỞNG TRƢỜNG CAO ĐẲNG CỘNG ĐỒNG HẬU GIANG
Căn cứ .............................................................................................................
QUYẾT ĐỊNH
(....)
Điều 3. ...các cán bộ, giảng viên có tên tại điều 1 có trách nhiệm thực hiện
(Trích Quyết định số:22/QĐ-CĐCĐ ngày 14/3/2015 của Trƣờng Cao đẳng Cộng đồng Hậu Giang về
việc thành lập Ban tƣ vấn tuyển sinh năm 2015.)
Trong ví dụ (93), chủ thể phát ngôn xưng là Hiệu trƣởng Trƣờng Cao đẳng Cộng
quyết định này.
đồng Hậu Giang (vai trên) dùng từ chỉ chức danh, nghề nghiệp: cán bộ, giảng viên để hô
các khách thể tiếp nhận và thực thi văn bản (vai dưới).
Trong 543 VBHC được khảo sát, có 350 lượt hô được chủ thể phát ngôn dùng
để hô khách thể tiếp nhận văn bản ở vị thế thấp hơn mình. Các BTNN dùng để hô
được chúng tôi thống kê trong bảng sau:
124
Bảng 3.6. Thống kê các BTNN để hô vai dƣới của cá nhân trong giao tiếp
bằng VBHC tiếng Việt
Các BTNN để hô STT Ví dụ Tỉ lệ % Tần số xuất hiện
121/350 34.57 1
Bộ trƣởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giám đốc Sở Tƣ pháp,...
61/350 17.43 2
Ông (bà) Vụ trƣởng Vụ Tổ chức Cán bộ, đồng chí Bộ trƣởng Bộ Tƣ pháp
45/350 12.86 (bà) Chánh Văn chí Bộ 3
Dùng chức vụ kết hợp với tên cơ quan, đơn vị, tổ chức dạng đầy đủ, rút gọn hoặc nói khái quát. từ hô gọi chung Dùng ông/bà hoặc đồng chí kết hợp với chức vụ và tên cơ quan, đơn vị, tổ chức dạng đầy đủ hoặc rút gọn. từ hô gọi chung Dùng ông/bà hoặc đồng chí kết hợp với chức vụ. Ông phòng, đồng trƣởng,…
4 Dùng từ hô gọi chung 34/350 9.71
29/350 8.28 5 Dùng từ chỉ chức danh, nghề nghiệp. Ông/bà, Anh/ chị, đồng chí Cán bộ, công chức, viên chức, giảng viên, học sinh, sinh viên,...
26/350 7.43 6
Ông Hoàng Trọng Kim- Tỉnh ủy viên, Giám đốc Sở Xây dựng tỉnh Nghệ An.
21/350 6.00 ông Đinh Hùng Sơn 7
từ hô gọi chung Dùng ông/bà hoặc đồng chí kết hợp với tên riêng, chức vụ và tên cơ quan, đơn vị, tổ chức dạng đầy đủ hoặc rút gọn. từ hô gọi chung Dùng ông/bà hoặc đồng chí kết hợp với tên riêng.
8 Dùng chức vụ 7/350
6/350 1.71 9
Dùng học hàm, học vị, danh hiệu cao quý kết hợp với tên riêng. 2.00 Bộ trƣởng, Cục trƣởng,… Giáo sƣ Ngô Bảo Châu, NGƢT Nguyễn Hữu Cầu, NSND Lê Khanh.
125
Nhìn vào bảng thống kê trên, chúng tôi nhận thấy để hô với vai dưới của cá
nhân trong giao tiếp bằng VBHC, chủ thể phát ngôn dùng chức vụ kết hợp với
tên cơ quan, đơn vị, tổ chức dạng đầy đủ, rút gọn hoặc nói khái quát của khách
thể tiếp nhận văn bản để hô chiếm tỉ lệ cao nhất (34.57 %) là vì đây là cách hô
được sử dụng trong tất cả các loại VBHC có tính pháp lí (VBQPPL, VBCB,
VBHCTT). Cách hô này nhằm tôn vinh vị thế, quyền lực và đề cao trách nhiệm
của khách thể tiếp nhận và thực thi văn bản (vai dưới). Ngoài ra, chủ thể phát
ngôn còn dùng: từ hô gọi chung ông/bà hoặc đồng chí kết hợp với chức vụ và
tên cơ quan, đơn vị, tổ chức dạng đầy đủ hoặc rút gọn để hô chiếm tỉ lệ (17.43
%); từ hô gọi chung ông/bà hoặc đồng chí kết hợp với chức vụ để hô chiếm tỉ lệ
(12.86%); từ hô gọi chung ông/bà, anh/chị, đồng chí để hô chiếm tỉ lệ (9.71 %);
từ chỉ chức danh, nghề nghiệp để hô chiếm tỉ lệ (8.28 %); từ hô gọi chung
ông/bà hoặc đồng chí kết hợp với tên riêng, chức vụ và tên cơ quan, đơn vị, tổ
chức dạng đầy đủ hoặc rút gọn để hô chiếm tỉ lệ (7.43 %); từ hô gọi chung
ông/bà hoặc đồng chí kết hợp với tên riêng để hô chiếm tỉ lệ (6.00 %); chức vụ
để hô chiếm tỉ lệ (2.00 %); học hàm, học vị, danh hiệu cao quý kết hợp với tên
riêng để hô chiếm (1.71 %).
c. Nếu khách thể tiếp nhận văn bản là các cơ quan, đơn vị, tổ chức: khi hô,
để đảm báo tính chính xác, minh bạch, đúng vị thế, cách hô hiện nay là dùng:
+ Thứ nhất là dùng tên cơ quan, đơn vị, tổ chức dạng đầy đủ để hô. Đây là
cách hô xuất hiện rất nhiều trong giao tiếp bằng VBHC ở vị thế vai trên hô vai
dưới. Cách hô này thể hiện tính chính xác, pháp lí của khách thể tiếp nhận và
thực thi văn bản. Chủ thể phát ngôn là cơ quan, đơn vị, tổ chức dạng đầy đủ và
khách thể tiếp nhận cũng là tên cơ quan, đơn vị, tổ chức dạng đầy đủ càng làm
tăng thêm tính trách nhiệm, tính lịch sự, tính pháp lí đối với khách thể tiếp nhận
và thực thi văn bản.
Ví dụ (94):
Kính gửi: Cục Hải quan Thành phố Hồ Chí Minh
126
“ Sau khi Tổng cục báo cáo và lãnh đạo Bộ phê duyệt, Tổng cục Hải
quan có ý kiến nhƣ sau: (…)
Tổng cục Hải quan trả lời để Cục Hải quan Thành phố Hồ Chí Minh
(Trích Công văn số: 2429/TCHQ-GSQL ngày 06/5/2006 của Tổng cục Hải quan về việc xe
ôtô đã qua sử dụng dƣới 16 chỗ ngồi gửi kho ngoại quan.)
biết và thực hiện.
Trong ví dụ (95), chủ thể phát ngôn xưng là Tổng cục Hải quan (vai trên)
đã dùng tên cơ quan dạng đầy đủ Cục Hải quan Thành phố Hồ Chí Minh để hô
khách thể tiếp nhận văn bản (vai dưới).
+ Thứ hai là dùng tên cơ quan, đơn vị, tổ chức dạng rút gọn để hô. Đây
cũng là cách hô được sử dụng nhiều trong giao tiếp bằng VBHC ở vị thế vai trên
hô vai dưới. Dùng biểu thức định danh cơ quan, đơn vị, tổ chức dạng rút gọn để
hô chỉ xuất hiện sau khi tên đầy đủ đã được hô trước đó. Để câu thúc khách thể
tiếp nhận và thực thi văn bản, chủ thể phát ngôn thường hô lại nhiều lần trong
văn bản. Lần hô thứ hai trở đi thường dùng tên rút gọn để hô. Cách hô này nhằm
đảm bảo tính minh bạch, pháp lí của khách thể tiếp nhận và thực thi văn bản.
Ví dụ (95):
Kính gửi: Cục Thuế tỉnh Thái Nguyên
(Trích Công văn số: 1341/TCT-CS ngày 31/3/2016 của Tổng cục Thuế về việc hóa đơn).
“…Tổng cục Thuế có ý kiến để Cục Thuế được biết./.”
Trong ví dụ (95), chủ thể phát ngôn xưng là Tổng cục Thuế (vai trên) đã
dùng tên cơ quan ở dạng rút gọn Cục Thuế (rút gọn từ tên đầy đủ Cục Thuế tỉnh
Thái Nguyên) để hô khách thể tiếp nhận văn bản (vai dưới).
+ Thứ ba là dùng tên cơ quan, đơn vị, tổ chức dạng nói khái quát để hô. Đây là
cách hô cũng được sử dụng nhiều trong giao tiếp bằng VBHC ở vị thế vai trên hô vai
dưới. Cách hô này được sử sử dụng trong trường hợp khách thể tiếp nhận và thực thi
văn bản gồm nhiều cơ quan, đơn vị, tổ chức có cùng chức năng, nhiệm vụ hay cùng
cấp, chủ thể phát ngôn thường dùng dạng nói khái quát để hô. Cách hô này vẫn đảm
bảo được tính chính xác, pháp lí của các khách thể tiếp nhận và thực thi văn bản.
127
Ví dụ (96)
Kính gửi:
- Các bệnh viện, viện có giƣờng bệnh trực thuộc Bộ Y tế;
- Sở Y tế các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng;
- Y tế các bộ, ngành.
“ Để thực hiện mục tiêu giảm tỉ lệ mắc bệnh viêm gan B và ung thƣ gan
trong nhân dân, Bộ Y tế đề nghị các Bệnh viện trực thuộc Bộ Y tế, Sở Y tế các
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng, Y tế các Bộ, ngành tăng cƣờng việc chỉ
đạo, kiểm tra, giám sát, các đơn vị trực thuộc có phòng sinh thực hiện tốt các
(Trích Công văn số: 5864/BYT-KCB ngày 12/8/2015 của Bộ Y tế về việc tăng cƣờng tiêm vắc
xin viêm gan B cho trẻ sơ sinh.)
nội dung sau: (...)
Trong ví dụ (96), chủ thể phát ngôn (vai trên) dùng dạng nói khái quát các
Bệnh viện trực thuộc Bộ Y tế, Sở Y tế các tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ƣơng, Y tế các Bộ, ngành để hô các khách thể tiếp nhận văn bản (vai dưới).
Trong 543 VBHC được khảo sát, có 178 lượt hô được chủ thể phát ngôn là
các cơ quan, đơn vị, tổ chức dùng để hô khách thể tiếp nhận văn bản ở vị thế
thấp hơn mình. Các BTNN dùng để hô được chúng tôi thống kê trong bảng sau:
Bảng 3.7. Thống kê các BTNN để hô vai dƣới của cơ quan, đơn vị, tổ chức
trong giao tiếp bằng VBHC tiếng Việt
Các BTNN để hô STT Ví dụ Tần số xuất hiện Tỉ lệ %
UBND tỉnh Nam Định, Dùng tên của cơ quan, đơn 86/178 48.31 Cục Hải quan Thành phố 1 vị, tổ chức dạng đầy đủ Hồ Chí Minh
Dùng tên của cơ quan, đơn Cục Thuế, Cục Hải quan, 57/178 32.02 2 vị, tổ chức dạng rút gọn Sở Xây dựng,…
các Bệnh viện trực thuộc Dùng tên của cơ quan, đơn Bộ Y tế, Sở Y tế các tỉnh, 3 vị, tổ chức dạng nói khái 35/178 19.67 thành phố trực thuộc trung quát. ƣơng, Y tế các Bộ, ngành
128
Nhìn vào bảng thống kê trên, chúng tôi nhận thấy để hô vai dưới của cơ
quan, đơn vị, tổ chức trong giao tiếp bằng VBHC tiếng Việt, chủ thể phát ngôn
dùng: tên đầy đủ của khách thể tiếp nhận và thực thi văn bản để hô chiếm tỉ lệ cao
nhất (48.31 %) là vì đây là cách hô được sử dụng trong tất cả các loại VBHC có
tính pháp lí (VBQPPL, VBCB, VBHCTT) do các cơ quan, đơn vị, tổ chức có
thẩm quyền ban hành để giao tiếp với các cơ quan, đơn vị, tổ chức khác. Cách hô
này đảm bảo tính pháp lí, lịch sự, chính xác nhất khách thể tiếp nhận và thực thi
văn bản. Dùng tên rút gọn của khách thể tiếp nhận văn bản để hô chiếm tỉ lệ cao
thứ hai ((32.02 %) vì đây là cách hô thường chỉ xuất hiện sau khi tên đầy đủ đã
được hô trước đó. Dùng tên cơ quan, đơn vị, tổ chức dạng nói khái quát để hô
chiếm tỉ lệ thấp nhất (19.67 %) bởi vì cách hô này chỉ được sử dụng trong những
trường hợp khách thể tiếp nhận và thực thi văn bản gồm nhiều cơ quan, đơn vị, tổ
chức cùng cấp hoặc tương đương nhau, chủ thể phát ngôn có thể dùng dạng nói
khái quát để hô như: các Bộ, UBND các tỉnh, Sở Nội vụ các tỉnh,...
Nếu so sánh với hô trong hoạt động giao tiếp hằng ngày và nơi công sở,
chúng tôi nhận thấy có sự khác biệt. Trong VBHC, chủ thể phát ngôn (vai
trên) thường dùng từ: ông , bà, anh, chị, em để hô khách thể tiếp nhận văn bản
(vai dưới). Các từ ông, bà, anh, chị, em ở đây không có nét nghĩa thân tộc mà
có nét nghĩa chỉ giới tính, sự tôn trọng của vai trên dành cho vai dưới. Ngược
lại, trong giao tiếp hằng ngày và nơi công sở, từ ông, bà, anh, chị thường
được dùng trong trường hợp vai dưới hô vai trên và nếu người vai trên và
người vai dưới có mối quan hệ thân tộc với nhau thì người vai trên thường
dùng từ chỉ quan hệ thân tộc để hô.
3.1.4.3. Vị thế của vai dƣới đối với vai trên
Trong VBHC, nếu chủ thể phát ngôn có vị thế thấp hơn khách thể tiếp nhận
và thực thi văn bản thì cách hô của vai dưới đối với vai trên cũng phải tuân thủ
theo những quy định chặt ch và phải đảm bảo tính chuẩn mực, minh bạch và
đúng vị thế. Theo khảo sát tư liệu, chúng tôi nhận thấy cách hô này được thể
hiện như sau:
129
a. Nếu khách thể tiếp nhận văn bản là cá nhân: khi hô, để thể hiện sự tôn
kính đối với người (vai trên) tiếp nhận văn bản, chủ thể phát ngôn (vai dưới)
thường dùng các cách hô sau:
+ Thứ nhất là dùng từ hô gọi chung ông/bà để hô. Cách hô ông/bà trong
VBHC rõ ràng không có nét nghĩa thân tộc, không có nét nghĩa tuổi tác mà chỉ
có nét nghĩa giới tính và thể hiện thái độ trọng thị đối với người tiếp nhận. ởi vì
trong tâm thức của người Việt, người được gọi là ông/bà là người cao tuổi, đáng
kính. Nét nghĩa cao tuổi không tồn tại trong cách gọi ông/bà ở VBHC nhưng nét
nghĩa đáng kính vẫn được thể hiện.
Ví dụ (97)
ĐƠN KHIẾU NẠI
Kính gửi: - Ông Nguyễn Lữ Hùng – Chủ tịch UBND tỉnh Hậu Giang.
Tôi tên là: Nguyễn Văn Tuấn
Nghề nghiệp: nông dân
Hiện cƣ ngụ tại: Ấp Tân An, thị trấn Cái Tắc, huyện Châu Thành A, tỉnh
Hậu Giang. Nay tôi làm đơn này xin khiếu nại đến ông về Quyết định thu hồi đất
(Trích Đơn khiếu nại của một cá nhân)
của UBND huyện Châu Thành A nhƣ sau:(...)
Trong ví dụ (97), chủ thể phát ngôn (vai dưới) đã dùng từ hô gọi chung ông
để hô khách thể tiếp nhận văn bản (vai trên).
+ Thứ hai là dùng từ hô gọi chung ông/bà kết hợp với tên riêng, chức vụ và
tên cơ quan, đơn vị, tổ chức để hô. Trong ví dụ (97), chủ thể phát ngôn (vai dưới) đã
dùng từ hô gọi chung (ông) kết hợp với tên riêng (Nguyễn Lữ Hùng), chức vụ (Chủ
tịch) và tên cơ quan (UBND tỉnh Hậu Giang) để hô khách thể tiếp nhận văn bản
(vai trên): Ông Nguyễn Lữ Hùng - Chủ tịch UBND tỉnh Hậu Giang.
+ Thứ ba là dùng chức vụ để hô. Cách hô này thể hiện sự tôn trọng địa vị,
quyền lực của khách thể tiếp nhận văn bản. Chẳng hạn như trong ví dụ (78), chủ
thể phát ngôn (vai dưới) đã dùng chức vụ Hiệu trƣởng để hô khách thể tiếp nhận
văn bản (vai trên)
130
+ Thứ tư là dùng chức vụ kết hợp với tên riêng để hô. Chẳng hạn như trong
ví dụ (72), chủ thể phát ngôn (vai dưới) đã dùng chức vụ (Thủ tƣớng) kết hợp
với tên riêng (Nguyễn Xuân Phúc) để hô khách thể tiếp nhận văn bản (vai trên):
Thủ tƣớng Nguyễn Xuân Phúc.
+Thứ năm là dùng chức vụ kết hợp với tên cơ quan, đơn vị, tổ chức để hô. Đây
là cách hô nhằm tôn vinh địa vị, quyền lực và vị thế của khách thể tiếp nhận văn bản.
Ví dụ (98)
ĐƠN TỐ CÁO
Kính gửi:
- Bộ trƣởng Bộ Giao thông vận tải;
- Cục trƣởng Cục Hàng hải Việt Nam.
Tôi tên là Nguyễn Văn X hiện công tác tại, Hiệp hội Vận tải biển Thanh Hóa.
Nay, tôi làm đơn này tố giác hành vi vi phạm pháp luật của ông Nguyễn
(Trích Đơn tố cáo của một cá nhân)
Văn B nhƣ sau:
Trong ví dụ (98), chủ thể phát ngôn (vai dưới) đã dùng chức vụ kết hợp với
tên cơ quan Bộ trƣởng Bộ Giao thông vận tải, Cục trƣởng Cục Hàng hải Việt
Nam để hô khách thể tiếp nhận văn bản (vai trên).
+ Thứ sáu là dùng học hàm, học vị khoa học, danh hiệu cao quý (nếu có)
kết hợp với tên riêng, chức vụ và tên cơ quan, đơn vị, tổ chức để hô. Cũng
trong ví dụ (78), chủ thể phát ngôn (vai dưới) đã dùng học hàm (PGS), học vị
(TS) kết hợp với tên riêng (Nguyễn Tiết Khánh), chức vụ (Hiệu trƣởng) và tên
cơ quan (Trƣờng Đại học Trà Vinh): PGS.TS. Nguyễn Tiết Khánh - Hiệu
trƣởng Trƣờng Đại học Trà Vinh để hô khách thể tiếp nhận văn bản (vai trên).
Trong 543 VBHC được khảo sát, có 91 lượt hô được chủ thể phát ngôn
dùng để hô khách thể tiếp nhận văn bản ở vị thế cao hơn mình. Các BTNN dùng
để hô được chúng tôi thống kê trong bảng sau:
131
Bảng 3.8. Thống kê các BTNN để hô vai trên của cá nhân trong giao tiếp
bằng VBHC tiếng Việt
1
45/91
49.45
Chủ tịch UBND, Bộ trƣởng Bộ Tƣ pháp, Trƣởng phòng Giáo dục...
Dùng chức vụ kết hợp với tên cơ quan, đơn vị, tổ chức dạng đầy đủ hoặc rút gọn
2 Dùng từ hô gọi chung
13/91
14.29
Ông / bà, anh /chị...
tƣớng Nguyễn Xuân
3
10/91
10.99
Dùng chức vụ kết hợp với tên riêng
4
9/91
9.89
Dùng từ hô gọi chung kết hợp với tên riêng, chức vụ và tên cơ quan, đơn vị, tổ chức
Thủ Phúc Ông Đinh La Thăng - Bộ trƣởng Bộ Giao thông vận tải; Bà Nguyễn Thị Hồng - Giám đốc Sở Nội vụ tỉnh Hậu Giang…
5 Dùng chức vụ
7/91
7.69 Thủ tƣớng, Hiệu trƣởng,…
6
6/91
6.59
PGS.TS. Nguyễn Tiết Khánh – Hiệu trƣởng Trƣờng Đại học Trà Vinh.
Dùng học hàm, học vị, danh hiệu cao quý kết hợp với tên riêng, chức vụ và tên cơ quan, đơn vị, tổ chức Nhìn vào bảng thống kê trên, chúng tôi nhận thấy để hô vai trên của cá
Các BTNN để hô STT Ví dụ Tần số xuất hiện Tỉ lệ %
nhân trong giao tiếp bằng VBHC, chủ thể phát ngôn dùng: chức vụ kết hợp
với tên cơ quan, đơn vị, tổ chức dạng đầy đủ, rút gọn của khách thể tiếp nhận
văn bản để hô chiếm tỉ lệ cao nhất (49.45 %) bởi đây là cách hô đảm bảo tính
pháp lí, đề cao vị thế, quyền lực của cá nhân tiếp nhận và thực thi văn bản.
Ngoài ra, chủ thể phát ngôn còn dùng: từ hô gọi chung ông/bà, anh/chị để hô
chiếm tỉ lệ (14.29 %); chức vụ kết hợp với tên riêng để hô chiếm tỉ lệ (10.99
%); từ hô gọi chung kết hợp với tên riêng, chức vụ và tên cơ quan, đơn vị, tổ
chức để hô chiếm tỉ lệ (9.89 %); chức vụ để hô chiếm tỉ lệ (7.69 %); học hàm,
học vị, danh hiệu cao quý kết hợp với tên riêng, chức vụ và tên cơ quan, đơn
vị, tổ chức để hô chiếm tỉ lệ (6.59 %). Những cách hô này đảm bảo tính chính
xác khách thể tiếp nhận và thực thi văn bản.
132
b. Nếu khách thể tiếp nhận văn bản là cơ quan, đơn vị, tổ chức: để đảm bảo
tính pháp lí, tính chính xác, minh bạch, đúng vị thế, cách hô hiện nay là:
+ Thứ nhất là dùng tên cơ quan, đơn vị, tổ chức dạng đầy đủ để hô. Đây là
cách hô được sử dụng rất nhiều trong giao tiếp bằng VBHC ở vị thế vai dưới hô
vai trên. Cách hô này nhằm đảm bảo tính chính xác, pháp lí của khách thể tiếp
nhận và thực thi văn bản.
Ví dụ (99)
Kính gửi:
- UBND tỉnh Thái Bình;
- Công ti Điện lực Thái Bình.
………………………………………
Để đảm bảo lƣợng điện phục vụ tối thiểu cho sản xuất nông nghiệp và
sinh hoạt của nhân dân, UBND huyện Quỳnh Phụ đề nghị UBND tỉnh Thái
Bình, Công ti Điện lực Thái Bình phân bổ tăng thêm sản lƣợng điện cho
huyện Quỳnh Phụ.
(Trích Tờ trình số: 45/UBND – VP ngày 21/6/2016 của UBND huyện Quỳnh Phụ về việc đề nghị phân
bổ thêm sản lƣợng điện phục vụ sản xuất và sinh hoạt cho huyện Quỳnh Phụ)
Đề nghị UBND tỉnh, Công ti Điện lực Thái Bình xem xét, giải quyết ./.
Trong ví dụ (99), khách thể tiếp nhận văn bản (vai trên) là một cơ
quan Nhà nước. Chủ thể phát ngôn (vai dưới) đã dùng tên cơ quan ở dạng
đầy đủ UBND tỉnh Thái Bình để hô khách thể tiếp nhận và thực thi văn
bản (vai trên).
+ Thứ hai là dùng tên cơ quan, đơn vị, tổ chức dạng rút gọn để hô. Đây là
cách hô cũng được sử dụng nhiều trong giao tiếp bằng VBHC ở vị thế vai dưới
hô vai trên. Để câu thúc khách thể tiếp nhận văn bản, cách hô này được lặp lại
nhiều lần trong văn bản. Từ lần hô thứ hai trở đi có thể dùng biểu thức định danh
cơ quan, đơn vị, tổ chức dạng rút gọn để hô. Cũng trong ví dụ (99), chủ thể xưng
(vai dưới) đã dùng tên cơ quan dạng rút gọn UBND tỉnh (rút gọn từ tên đầy đủ
UBND tỉnh Thái Bình) để hô khách thể tiếp nhận văn bản (vai trên).
133
+ Thứ ba là dùng tên cơ quan, đơn vị, tổ chức dạng nói khái quát để hô. Khi
khách thể tiếp nhận văn bản gồm nhiều cơ quan, đơn vị, tổ chức, chủ thể xưng có
thể dùng dạng nói khái quát để hô. Cách hô này vẫn đảm bảo được tính chính
xác, pháp lí của khách thể tiếp nhận văn bản.
Ví dụ (100)
“ Tiếp theo Tờ trình số 3469/TTr-UBND ngày 29/11/2008, UBND tỉnh
Quảng Nam kính đề nghị Thủ tƣớng Chính phủ, các Bộ, ngành Trung ƣơng
quan tâm hỗ trợ cho tỉnh Quảng Nam 15 tỉ đồng để khắc phục hậu quả thiệt
(Trích Tờ trình số: 4444/TTr-UBND ngày 03/12/2008 của UBND tỉnh Quảng Nam về việc
hỗ trợ kinh phí khắc phục hậu quả mƣa lũ năm 2008.)
hại mƣa lũ”
Trong ví dụ (100), chủ thể phát ngôn (vai dưới) dùng dạng nói khái quát
các Bộ, ngành trung ƣơng để hô các khách thể tiếp nhận văn bản (vai trên).
Trong 543 VBHC được khảo sát, có 96 lượt hô được chủ thể phát ngôn
dùng để hô khách thể tiếp nhận văn bản là các cơ quan, đơn vị, tồ chức ở vị thế
cao hơn mình. Các TNN dùng để hô được chúng tôi thống kê trong bảng sau:
Bảng 3.9. Thống kê các BTNN để hô vai trên của cơ quan, đơn vị, tổ chức
trong giao tiếp bằng VBHC tiếng Việt
Tần số Tỉ lệ Các BTNN để hô STT Ví dụ xuất hiện %
Bộ Giáo dục và Đào Dùng tên của cơ quan, đơn vị, 47/96 48.96 1 tạo, Tổng cục Thuế... tổ chức dạng đầy đủ
Dùng tên của cơ quan, đơn vị, 34/96 35.41 Cục Thuế, 2 tổ chức dạng rút gọn
Dùng tên của cơ quan, đơn vị, Các Bộ, ngành trung 3 15/96 15.63 tổ chức dạng nói khái quát ƣơng
Nhìn vào bảng thống kê trên, chúng tôi nhận thấy để hô vai trên của cơ
quan, đơn vị, tổ chức trong giao tiếp bằng VBHC tiếng Việt, chủ thể phát ngôn
dùng: tên cơ quan, đơn vị, tổ chức dạng đầy đủ để hô chiếm tỉ lệ cao nhất (48.96
134
%) vì đây là cách hô đảm bảo tính chính xác, pháp lí nhất của khách thể tiếp
nhận và thực thi văn bản. Cách hô này được sử dụng nhiều trong tất cả các loại
VBHC tiếng Việt do các cơ quan, đơn vị, tổ chức ban hành để giao tiếp với các
cơ quan, đơn vị, tổ chức khác. Dùng tên cơ quan, đơn vị, tổ chức dạng rút gọn
để hô chiếm tỉ lệ cao thứ hai (35.41 %) bởi đây là cách hô chỉ xuất hiện sau khi
tên đầy đủ đã được hô trước đó. Cách hô này vẫn đảm bảo tính chính xác, pháp lí
của khách thể tiếp nhận và thực thi văn bản (vai trên). Dùng tên cơ quan, đơn vị,
tổ chức dạng nói khái quát để hô chiếm tỉ lệ thấp nhất (15.63 %) vì đây là cách
hô chỉ xuất hiện khi khách thể tiếp nhận và thực thi văn bản (vai trên) gồm nhiều
cơ quan, đơn vị, tổ chức, chủ thể xưng có thể dùng dạng nói khái quát để hô.
Nếu so sánh với hô trong hoạt động giao tiếp hằng ngày và nơi công sở,
chúng tôi nhận thấy có điểm tương đồng và khác biệt. Tương đồng ở chỗ, chủ
thể phát ngôn (vai dưới) đều dùng các từ: ông , bà, anh, chị để hô khách thể tiếp
nhận văn bản, lời nói (vai trên). Khác biệt ở chỗ, trong giao tiếp hằng ngày và
nơi công sở, chủ thể phát ngôn (vai dưới) thường dựa vào tuổi tác, vị thế xã hội
và mối quan hệ thân tộc để hô khách thể tiếp nhận lời nói (vai trên) cho phù hợp,
cho nên ngoài các từ: ông/bà, anh/chị còn nhiều từ khác để hô như: chú, bác, cô,
dì, cậu, mợ,...Nhìn chung, từ dùng để hô vai trên trong VBHC có phạm vi hẹp
hơn so với từ dùng để hô vai trên trong hoạt động giao tiếp hằng ngày và nơi
công sở.
Tóm lại, hô thể hiện vị thế của vai dưới đối với vai trên trong VBHC là
những cách hô thể hiện tính lịch sự, quy thức, chuẩn mực, khách quan và tuân
thủ theo thứ bậc.
3.2. Một số vấn đề trong quan hệ giữa xƣng và hô ở văn bản hành
chính tiếng Việt
3.2.1. Tƣơng thích giữa “xƣng” và “hô” trong văn bản hành chính tiếng Việt
Ở chương 2 và phần đầu chương 3 luận án đã phân tích lần lượt về từng vế
xưng và hô. Nhưng trong V HC hai vế này trong phần lớn trường hợp lại đồng
135
thời xuất hiện và có sự phối hợp với nhau. Vì thế đến đây cần xem xét sự phối
hợp, sự tương thích của xƣng và hô trong VBHC tiếng Việt.
Sự phối hợp giữa xƣng và hô nói chung trong giao tiếp tiếng Việt là rất
quan trọng. Trong giao tiếp, có rất nhiều nhân tố tác động đến sự lựa chọn từ ngữ
xưng hô. Và trong mối quan hệ giữa xƣng và hô cũng hình thành nên hai mối
quan hệ: mối quan hệ tương thích và mối quan hệ phi tương thích. Mối quan hệ
tương thích là mối quan hệ mà chủ thể xưng hô dùng các từ ngữ tương ứng nhau
giữa xƣng và hô. Ví dụ, người nói gọi người nghe là chú thì phải xưng tương ứng
là cháu. Còn quan hệ phi tương thích là giữa các từ xưng và hô không tương ứng
nhau, ví dụ hô bằng chú nhưng lại xưng em. Việc lựa chọn các từ ngữ xưng hô
tương thích hay phi tương thích đều nằm trong chiến lược giao tiếp của các nhân
vật giao tiếp nhằm đạt một mục đích nào đó. Trong giao tiếp hằng ngày, việc lựa
chọn các TXH tuy có phần thoải mái nhưng không thể quá tùy tiện. Còn trong
V HC, xưng hô chịu sự quy định khắt khe bởi những chuẩn mực thuộc cơ chế
hành chính.
Giao tiếp trong VBHC, như đã biết, phải tuân thủ theo những quy phạm
nghiêm ngặt, chịu áp lực chủ yếu từ quan hệ quyền uy (thay vì quan hệ thân hữu
như giao tiếp hằng ngày), cho nên hệ thống các từ ngữ xưng và hô cũng vì vậy
mà hạn chế. Trong VBHC, chủ thể xưng hô luôn phải lựa chọn các từ ngữ xưng
hô để dùng một cách chính xác chứ không thể qua loa đại khái. Bởi từ ngữ xưng
hô là một trong những phương tiện hữu hiệu thể hiện tính trang trọng, lịch sự của
VBHC. Chính vì vậy, mối quan hệ giữa xưng và hô trong V HC chủ yếu là mối
quan hệ tương thích. Trong V HC không có hiện tượng thay vai, mượn vai để
xưng hô. Giữa xưng và hô trong V HC luôn luôn có sự tương thích. Điều này
cũng thấy rõ ở kết quả khảo sát các phương tiện ngôn ngữ dùng để xưng và hô
trong VBHC tiếng Việt.
- Đó là sự tương ứng về vị thế giao tiếp theo quan hệ hành chính giữa chủ thể
thể tạo lập văn bản và khách thể tiếp nhận văn bản. Từ đó các TNN dùng để xưng
136
và hô trong một VBHC cần có sự tương ứng chặt ch theo những quy định khắt khe
của bộ máy tổ chức Nhà nước hoặc của hệ thống tổ chức chính trị - xã hội.
Chẳng hạn, ở ví dụ (74) nêu ở chương 3 trên đây, vai xưng là Chủ tịch
UBND thành phố Cần Thơ tương thích với các vai hô là Giám đốc Sở Y tế, Giám
đốc Sở Nội vụ. Đây là các chức vụ giữa cấp trên và cấp dưới thuộc cùng một hệ
thống tổ chức hành chính của bộ máy Nhà nước ở nước ta hiện nay. Ở ví dụ (34)
chương 2 nêu trên, vai xưng là Bộ Tài chính tương thích với các vai hô ngang
cấp là Bộ Thông tin và Truyền thông, Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam. Còn ở ví
dụ (37) chương 2 trên đây, vai xưng là Giám đốc công ti Cổ phần Mía Đƣờng
Cần Thơ tương thích với các vai hô ở cấp dưới quyền thuộc công ti là các trƣởng
đơn vị, bộ phận trong công ti. Đối với giao tiếp giữa các cá nhân thông qua
V HC thì xưng hô cũng cần có sự tương thích. Ở ví dụ (32) trong chương 2,
đích nhận văn bản được người viết biểu hiện (hô) là ông Trần Văn Việt – Công
chức phụ trách Tƣ pháp và hộ tịch xã Thạnh Xuân, huyện Châu Thành A, tỉnh
Hậu Giang thì việc tự xưng Tôi tên là Lê Thành Nguyên là tương thích.
- Đó còn là sự tương thích theo hệ thống dọc trong bộ máy hành chính hay
tổ chức. Theo đó các biểu thức xưng và hô, nhất là các biểu thức xưng hô theo
chức vụ, theo tên của cơ quan, đều nằm trong cùng hệ thống, cùng lĩnh vực nhất
định tuy có thể khác nhau về vị thế. Chẳng hạn, các biểu thức xưng và hô trong
cùng văn bản đều định danh các cơ quan của cùng một ngành, cùng một Bộ
trong tổ chức Nhà nước, hay định danh các Sở của cùng một tỉnh, các bộ phận
trong cùng ngành, hoặc cơ quan hành chính…
Có thể nói, sự tương thích giữa xưng và hô là đặc trưng cơ bản trong xưng
hô ở V HC. Và đây cũng là điều cần phải được tuân thủ nghiêm ngặt trong
VBHC. Các nhân vật giao tiếp trong V HC, dù trong đời sống hằng ngày họ có
quan hệ thân thiết ra sao, xưng hô với nhau theo cách nào thì trong VBHC họ
vẫn phải tuân thủ theo quy định. Vai xưng trong V HC của các nhân vật giao
tiếp không liên quan đến mối quan hệ của họ trong đời sống hằng ngày.
137
Có điểm chung giữa xưng và hô đó là phương tiện ngôn ngữ dùng để xưng
và hô trong VBHC chủ yếu là các danh từ/ngữ danh từ chỉ chức vụ hoặc tên cơ
quan/đơn vị/tổ chức. Điều này cũng thể hiện đặc trưng của cả xưng và hô trong
VBHC. Giao tiếp trong VBHC là giao tiếp công vụ (việc công) nên những yếu tố
cá nhân của nhân vật giao tiếp bị xóa bỏ. Nhân vật giao tiếp được xưng hô trong
mối quan hệ mật thiết với công việc đó là chức vụ trong công việc họ đang làm,
là cơ quan/tổ chức/đơn vị họ đang công tác. Và chính chức danh, cơ quan/đơn
vị/tổ chức của họ cho họ thẩm quyền, tư cách trong giao tiếp hành chính.
3.2.2. Lịch sự trong xƣng hô ở văn bản hành chính tiếng Việt
Lịch sự trong xưng hô ở VBHC vẫn là lịch sự trong giao tiếp ngôn ngữ nói
chung, nhưng có những sắc thái riêng biệt. Lịch sự trong xưng hô ở VBHC là
lịch sự chuẩn mực, hơn nữa có thể nói đó là lịch sự chuẩn mực tiêu biểu, điển
hình, ở mức độ cao nhất. Lịch sự chuẩn mực: “Là hành động ứng xử ngôn ngữ
phù hợp với chuẩn mực giao tiếp xã hội nhằm mục đích tôn trọng các giá trị xã
hội như địa vị, quyền lực, thứ bậc, giới tính, tuổi tác, nghề nghiệp, uy tín…” [54,
tr. 415]. Từ những điều đã nói ở trên, chúng tôi nhận thấy lịch sự chuẩn mực
trong xưng hô ở VBHC thể hiện qua một số phương diện sau :
3.2.2.1. Lịch sự trong xƣng hô ở văn bản hành chính đòi hỏi tính chính danh
Biểu biểu thức xưng hô trong V HC cần thể hiện đúng, đủ chức vụ (chức
trách, tư cách, vị thế …) của chủ thể xưng và khách thể hô. VBHC không cho
phép xưng hô sai chức vụ của nhân vật giao tiếp. Khi chủ thể xưng hay/và khách
thể hô đồng thời “kiêm nhiệm” một số chức vụ (có một số tư cách khác nhau) thì
khi xưng hô trong V HC cần lựa chọn biểu thức chức vụ phù hợp với chủ đề,
nội dung của văn bản, với lĩnh vực xã hội mà văn bản đề cập đến. Hay có thể
nói, trong trường hợp này, một người có thể đóng nhiều vai trong giao tiếp hành
chính. Mỗi vai giao tiếp ứng với một lĩnh vực hành chính nhất định. Do đó, trong
từng trường hợp cụ thể cần lựa chọn vai xưng hoặc hô sao cho phù hợp, chính
xác. Đảm bảo tính phù hợp và chính xác trong xưng và hô tức là đảm bảo lịch sự
138
trong xưng hô ở VBHC. Chẳng hạn: Một nhân vật vừa là hiệu trưởng nhà
trường, vừa là bí thư chi bộ Đảng thì trong một văn bản về tổ chức dạy học cần
dùng chức vụ Hiệu trƣởng để xưng hay hô, còn trái lại, ở một văn bản về sinh
hoạt Đảng, hay hoạt động chính trị lại cần xưng hoặc hô bằng biểu thức Bí thƣ
chi bộ. Minh bạch và chính danh trong xưng hô ở VBHC là thể hiện lịch sự, phù
hợp với chuẩn mực giao tiếp hành chính. Và ngược lại không minh bạch, chính
danh trong xưng hô là biểu hiện của sự thiếu lịch sự, không phù hợp với chuẩn
mực giao tiếp hành chính. Những sai sót dù là rất nhỏ trong xưng hô ở VBHC
cũng không thể chấp nhận được.
Ví dụ (101):
Kính gửi: Bà Hà Hồng Vân, Giám đốc Trƣờng Cao đẳng Cộng đồng
Hậu Giang
(....)
(Trích Công văn số 121/CT-QLPMGD, ngày 14/12/2016 của Công ti Quản lí phần mềm
Giáo dục về việc tổ chức Hội thảo Quản lí phần mềm Giáo dục năm 2016)
Rất mong sự có mặt của bà để Hội thảo thành công tốt đẹp!
Trong ví dụ (101), chủ thể phát ngôn đã dùng từ hô gọi chung (bà) kết hợp
với tên riêng (Hà Hồng Vân), chức vụ (Giám đốc) và tên cơ quan (Trƣờng Cao
đẳng Cộng đồng Hậu Giang) để hô khách thể tiếp nhận văn bản: Bà Hà Hồng
Vân, Giám đốc Trƣờng Cao đẳng Cộng đồng Hậu Giang. Người phát ngôn
dùng từ hô (bà) là sai. Từ bà ở đây là từ chỉ giới tính nữ và sự tôn kính của chủ
thể phát ngôn dành cho khách thể tiếp nhận văn bản. Nhưng khách thể tiếp nhận
văn bản ở đây lại là giới tính nam. Cách hô chức vụ (Giám đốc) của khách thể
tiếp nhận văn bản cũng không đúng. Trong hệ thống các Trường Cao đẳng Cộng
đồng ở Việt Nam không có chức vụ Giám đốc trƣờng mà chỉ có chức vụ Hiệu
trƣởng trƣờng. Dùng từ hô sai giới tính, sai chức vụ đối với khách thể tiếp nhận
văn bản là không đảm bảo tính trang trọng, lịch sự.
139
3.2.2.2. Lịch sự trong xƣng hô ở văn bản hành chính không theo phƣơng
châm “xƣng khiêm hô tôn”
Phương châm này là một trong những biểu hiện của văn hóa giao tiếp ngôn
ngữ ở người Việt Nam. Nhưng nó chỉ phù hợp với giao tiếp đời thường, phi quy
thức. Nghĩa là trong giao tiếp đời thường, phi quy thức, người Việt thường tự
khiêm nhường, nhún mình, hạ thấp cương vị của mình khi xưng, còn lại đề cao,
nâng bậc, tôn kính khi hô gọi người khác. Đó cũng là một chiến lược khi giao
tiếp, mong bày tỏ thái độ thân thiện, lễ phép, lịch sự khi giao tiếp, nhằm đạt được
hiệu quả giao tiếp cao. Hãy nghe lời hội thoại của một nhân vật giao tiếp được
nhà văn Nguyễn Công Hoan ghi lại trong truyện ngắn Tinh thần thể dục s thấy
rõ điều đó.
Ví dụ (102)
“Bác Phô gái dịu dàng đặt cành cau lên bàn, ngồi xổm ở xó cửa, gãi tai,
nói với ông lí
- Lạy thầy, nhà con thì chƣa cất cơn, mấy lại sợ thầy mắng chửi nên không
dám đến kêu. Lạy thầy, quyền phép trong tay thầy, thầy tha thứ cho nhà con,
đừng bắt nhà con đi xem đá bóng vội ”
Nhân vật mà nhà văn gọi là bác, tức không còn ít tuổi, vẫn tự xưng mình là
con (nghĩa là ngang hàng con, thuộc hàng con của nhân vật đối thoại – ông lí),
đồng thời hô gọi ông lí là thầy (dù ông lí không phải là một trong ba hạng thầy
được kính trọng trong xã hội trước đây: thầy giáo, thầy thuốc, thầy bói toán, xem
tướng số, địa lí). Quả là bác Phô gái đã nhún mình hết sức, và tôn cao ông lí
nhằm gây thiện cảm để cho “được việc”.
Trong VBHC, các nhân vật giao tiếp đều phải tuân thủ xưng hô chính danh,
không được vì bất cứ lí do gì mà hạ thấp mình và /hay tôn cao đối tác. Như trên
đã nói, mối quan hệ ngoài đời thường của các nhân vật giao tiếp không ảnh
hưởng gì đến việc xưng hô của các nhân vật đó trong V HC. Các dẫn chứng ở
các phần trên đã cho thấy điều đó. Như trong văn bản phúc đáp đơn kiến nghị về
140
một vấn đề giáo dục tại địa phương, chủ thể xưng đã dùng đúng danh xưng Chủ
tịch UBND huyện để xưng và hô người nhận văn bản là ông Nguyễn Văn Triển,
trƣởng thôn Ngọc Đính, xã Hoằng Hà, cho dù chức trƣởng thôn ở vị thế thấp
hơn rất nhiều so với Chủ tịch huyện.
Ví dụ (103)
“Kính gửi: Nhà giáo nhân dân, Giảng viên chính, Thạc sĩ Phan Văn
Thạng- Cán bộ Giảng dạy môn Xã hội học đại cƣơng
Con tên là Phùng Tiểu Thúy là sinh viên lớp Sƣ phạm Ngữ văn K.44.
Nay con làm đơn này xin phép thầy cho con đƣợc nghỉ học môn thầy ngày
ngày 24/3/2018.
(Trích Đơn xin nghỉ học của một sinh viên)
Lí do xin nghỉ: con về quê có công việc gia đình”
Trong ví dụ (103), chủ thể phát ngôn xưng con và hô khách thể tiếp nhận
văn bản là Nhà giáo nhân dân, Giảng viên chính, Thạc sĩ Phan Văn Thạng.
Đây là cách “xưng khiêm hô tôn” không phù hợp với giao tiếp trong VBHC. Chủ
thể xưng là một sinh viên, trong trường hợp này phải xưng là em nhưng chủ thể
xưng hạ thấp cương vị của mình xuống là con là không phù hợp, không thể hiện
được tính lịch sự. Chủ thể phát ngôn hô khách thể tiếp nhận văn bản cũng không
chính xác. Khách thể tiếp nhận văn bản chỉ là Nhà giáo ƣu tú, nhưng chủ thể
phát ngôn lại hô nâng bậc khách thể tiếp nhận văn bản lên là Nhà giáo nhân dân.
Cách “xưng khiêm hô tôn” này không thể hiện được tính chính xác, lịch sự trong
giao tiếp bằng VBHC.
3.2.2.3. Lịch sự trong xƣng hô ở văn bản hành chính đòi hỏi tính nhất
quán, thống nhất.
Đây cũng là điểm khác với xưng hô trong giao tiếp đời thường, nơi mà phụ
thuộc vào từng tình huống giao tiếp, phụ thuộc vào sự thay đổi trong quan hệ
liên nhân, phụ thuộc vào diễn tiến của thái độ, tình cảm trong quan hệ liên nhân
giữa các nhân vật giao tiếp với nhau, từ xưng hô và cách xưng hô có thể thay đổi
141
theo hướng tốt lên hay xấu đi. Ở chương 1 trên đây đã dẫn đoạn hội thoại giữa
chị Dậu và tên cai lệ trong cảnh thu thuế ở nông thôn Việt Nam trước đây. Ở thời
điểm đầu của hội thoại này, chị Dậu đã theo phương châm “xưng khiêm hô tôn”
mà dùng cặp từ xưng hô là “cháu/ông”, đến khi thấy cai lệ vô cảm trước lời cầu
khẩn của mình, định sấn sổ đánh trói anh Dậu, chị đã thay đối cặp từ xưng hô là
“tôi/ ông” (thể hiện vị thế ngang bằng, trung tính), đặc biệt là đỉnh điểm của sự
căm tức, khi cai lệ đánh anh Dậu, chị đã dùng cặp từ xưng hô thể hiện sự tức
giận, khinh miệt là “bà/ mày”. Ba lần thay đổi cặp từ xưng hô trong một cuộc hội
thoại là ba lần thể hiện quan hệ liên nhân khác nhau. Trong đời sống hằng ngày,
việc thay đổi từ ngữ xưng hô trong một cuộc giao tiếp là rất bình thường, nhất là
trong cuộc giao tiếp giữa những người mới quen.
Trong cuộc giao tiếp này, các nhân vật giao tiếp chưa xây dựng được hình
ảnh tinh thần chính xác về đối tượng giao tiếp (tuổi tác, địa vị…) cho nên có thể
có sự nhầm lẫn trong xưng hô và được các nhân vật giao tiếp cải thiện, sửa đổi
trong suốt cuộc giao tiếp. Hoặc các nhân vật giao tiếp thay đổi từ ngữ xưng hô
để nhằm một dụng ý nào đó. Trong V HC, trái lại, không thể thay đổi biểu thức
xưng hô, và sự nhất quán trong việc dùng biểu thức xưng hô chính là thể hiện
lịch sự chuẩn mực. Bởi trong giao tiếp ở VBHC, các nhân vật giao tiếp đã xác
định được chính xác hình ảnh tinh thần về đối tượng giao tiếp của mình mà quan
trọng nhất là yếu tố địa vị. Cho nên vai giao tiếp giữa các nhân vật giao tiếp đã
được và phải được xác định chính xác trong suốt cuộc giao tiếp và khi vai giao
tiếp được xác định chính xác thì nó bất biến trong quá trình giao tiếp, sự bất biến
đó được thể hiện qua sự bất biến và thống nhất của từ ngữ xưng hô. Trong V HC
không thể tùy ý thay đổi biểu thức xưng hô, tuy có thể dùng dạng rút gọn, hay
dùng đại từ thay thế khi khách thể hô gọi đã rõ từ văn cảnh. Ở đầu văn bản dùng
BTH là Giám đốc Sở Khoa học và công nghệ thì trong suốt văn bản cần nhất quán
dùng biểu thức này, hoặc có thể rút gọn thành Giám đốc Sở, hay thay thế bằng đại
từ Ông. Ngay cả việc thay thế bằng từ hô gọi đồng chí như đôi khi gặp thấy ở một
142
số V HC thì cũng nên coi đó là một sự thay thế gượng ép, không đúng hệ thống,
nghĩa là cũng không tuân thủ chuẩn mực trong lịch sự xưng hô.
Ví dụ (104)
“Kính gửi: Giáo sƣ, tiến sĩ N.V.X
Theo quy chế đào tạo Sau đại học, Học viện Khoa học xã hội xin chuyển tới
đồng chí Tóm tắt luận án tiến sĩ của NCS Đỗ A V…
Đề nghị đồng chí cho nhận xét về bản tóm tắt luận án trên các vấn đề cơ
(Trích Thƣ mời nhận xét Tóm tắt luận án của Học viện Khoa học xã hội ngày 18/01/2019)
bản sau…”
Trong ví dụ (104), khách thể tiếp nhận và thực thi văn bản là một cá nhân
có học hàm, học vị rõ ràng. Lần hô đầu tiên, chủ thể phát ngôn đã dùng học hàm,
học vị kết hợp với tên riêng (đầy đủ họ và tên) của khách thể tiếp nhận và thực
thi văn bản để hô: Giáo sƣ, tiến sĩ N.V.X. Đây là cách hô thể hiện tính trạng
trọng, lịch sự. Lần thứ hai, chủ thể phát ngôn dùng từ hô gọi chung đồng chí
thay cho Giáo sƣ, tiến sĩ N.V.X để hô. Đây là cách hô không thể hiện được tính
lịch sự .Từ hô gọi chung đồng chí thường dùng để hô khách thể tiếp nhận có vị
thế ngang bằng với chủ thể phát ngôn. Ở trường hợp này dùng từ đồng chí để hô
là không phù hợp, thiếu tính lịch sự.
3.2.2.4. Lịch sự trong xƣng hô ở văn bản hành chính không cho phép dạng
xƣng hô trống không
Trong giao tiếp ngôn ngữ đời thường, đôi khi vì một lí do nào đó (chưa tìm
được TXH thích hợp, chưa muốn thể hiện quan hệ liên nhân, chưa xác định rõ
quan hệ liên nhân, không muốn tường minh hóa quan hệ liên nhân…), các nhân
vật giao tiếp có thể dùng cách nói trống không, hay dạng khuyết thiếu từ xưng
hô. Lúc đó dạng khuyết thiếu này lại tỏ ra ưu thế. Trong truyện Chí Phèo của
Nam Cao, có chi tiết sau đây: Chí Phèo được Thị Nở chăm sóc trong ngày ốm
đau và nấu cháo hành cho hắn ăn. Chí Phèo xúc động, cảm thấy vui sướng, thấy
đời vẫn vui và cảm thấy tương lai có phần tươi sáng.
143
Ví dụ (105)
“Hắn thấy tự nhiên nhẹ ngƣời. Hắn bảo thị :
- Giá cứ thế này mãi thì thích nhỉ?”
Câu nói của Chí là một câu trống không, không có và không cần có từ xưng
hô. Đó là một câu tình tứ mà không có TXH nhưng Thị Nở và cả người đọc
truyện vẫn hiểu Chí nói với ai và nói về ai.
Trong VBHC, biểu thức xưng hay hô không những không thể khuyết thiếu,
mà còn có thể được lặp lại nhiều lần (ở đầu, giữa, cuối...) trong văn bản để khẳng
định vị thế giao tiếp, khẳng định quyền uy, tạo nên hiệu lực pháp lí của văn bản.
Có thể thấy rõ điều đó qua những ngữ liệu đã dẫn ở các phần trên.
Như vậy, để đảm bảo tính lịch sự trong xưng hô ở V HC, người phát ngôn
và người tiếp nhận phải sử dụng từ ngữ xưng hô quy thức: xưng hô quy thức là
cách thức xưng hô có tính bắt buộc theo khuôn mẫu, khuôn hình có sẵn trong các
hội nghị, hội thảo… Xưng hô quy thức bắt buộc người nói phải tuân theo thứ
bậc, tước vị, chức vụ mà người nói và người nghe hiện có để tính toán, lựa chọn,
sử dụng từ ngữ xưng hô thích hợp. Trong những trường hợp này, người nói
thường sử dụng các từ để xưng và để hô mang tính chất trang trọng như: chủ tịch,
bộ trƣởng, thứ trƣởng, vụ trƣởng, giám đốc, giáo sƣ, tiến sĩ, ngài, vị, ông, bà… ếu
tố quyền (tức địa vị xã hội) và khoảng cách xã hội chi phối, quyết định cách thức
xưng hô trong giao tiếp quy thức. Các nhân tố như tuổi tác, quan hệ gia đình, dòng
tộc, giới tính, bạn bè… trở thành các nhân tố thứ yếu trong xưng hô quy thức.
Việc lựa chọn từ ngữ xưng hô trong V HC cần chính xác, chuẩn mực, bởi
xưng hô là một hành động nói chịu áp lực mạnh của những ước định và đã trở thành
chế định của cộng đồng xã hội. Xưng hô phù hợp với những quy tắc của chuẩn sử
dụng ngôn ngữ của xã hội thường được nhìn nhận, đánh giá là lịch sự, tạo nên hiệu
quả trong giao tiếp. Xưng hô không phù hợp, không đúng với ước định của cộng
đồng (kể cả cách nói trống không) trong lời nói hằng ngày chẳng những bị nhìn
nhận là bất lịch sự, mà còn có nguy cơ làm giảm sút tính hiệu quả trong giao tiếp.
144
3.3. Tiểu kết chƣơng 3
3.3.1. VBHC là loại văn bản đặc thù cho nên hô trong VBHC cũng có nhiều
đặc trưng riêng biệt. Trong chương 3 của luận án, chúng tôi đã tập trung xem
xét, phân tích những nét đặc trưng của hô và tương thích, lịch sự trong xưng hô
của VBHC với những nội dung cụ thể sau:
3.3.1.1. Khái niệm hô trong VBHC được hiểu là cách mà ngƣời tạo lập văn
bản gọi đối tƣợng giao tiếp của mình. Đối tượng này có thể là một cá nhân hay
một cơ quan, đơn vị, tổ chức. Hô trong VBHC có tính chuẩn mực, lịch sự cao.
3.3.1.2. Các BTNN để hô trong VBHC gồm có 12 biểu thức như thống kê
trong bảng 3.1. Từ ngữ dùng để hô trong VBHC không phong phú, đa dạng như
trong giao tiếp xã hội mà chịu sự chế định của đặc điểm loại hình VBHC và
pháp luật.
3.3.1.3. Vị trí của BTH trong VBHC khá linh hoạt: ở đầu, ở giữa văn bản
và đặc biệt trong một số văn bản, hô đặt trong một điều khoản riêng trong văn
bản. Đây là điểm khác biệt so với xƣng.
3.3.1.4. Hô trong mối quan hệ với vị thế giao tiếp được xét ở các phương
diện như vị thế ngang hàng, vị thế của vai dưới đối với vai trên, vị thế của vai
trên đối với vai dưới. Hô trong V HC đề cao tính chính xác, tính lịch sự, tính
chuẩn mực, tính quyền uy của khách thể tiếp nhận văn bản.
3.3.1.5. Tương thích giữa xƣng và hô trong VBHC là sự tương ứng về vị
thế giao tiếp theo quan hệ hành chính giữa chủ thể tạo lập văn bản và khách thể
tiếp nhận văn bản. Đó còn là sự tương thích theo hệ thống dọc trong bộ máy
hành chính hay tổ chức.
3.3.1.6. Lịch sự trong xưng hô của VBHC là lịch sự chuẩn mực.
3.3.2. Qua những phân tích ở chương 3, chúng tôi cũng rút ra một số đặc
điểm của hô và tương thích, lịch sự trong xưng hô của VBHC. Những đặc điểm
này được đặt trong mối tương quan với xƣng trong VBHC tiếng Việt:
3.3.2.1. Hô trong VBHC đảm bảo tính minh xác. Điều này thể hiện ở chỗ
145
những khách thể tiếp nhận và thực thi văn bản luôn cụ thể về vị thế, nơi làm việc
hay cư trú và đôi khi cả về tên riêng.
3.3.2.2. Hô trong VBHC cũng thể hiện tính pháp lí. Đó là đối tượng nhận
văn bản phải có quan hệ quyền lực được nhà nước thừa nhận. Vì VBHC là loại
văn bản đề cập, giải quyết công vụ (việc công) cho nên đối tượng nhận văn bản
phải là cá nhân hoặc cơ quan, đơn vị, tổ chức có thẩm quyền. Chính thẩm quyền,
quyền lực được trao khiến cá nhân hay cơ quan, đơn vị, tổ chức có tư cách giải
quyết công vụ. Đây là một nét đặc trưng của hô trong VBHC.
3.3.2.3. Từ dùng để hô trong VBHC không có biến thể, không dùng từ thay
thế. Bởi vì hô trong VBHC chịu sự chi phối của hai đặc điểm đã nêu trên là tính
minh xác và tính pháp lí .
3.3.2.4. BTNN dùng để hô trong V HC phong phú và đa dạng hơn nhiều
so với xƣng .Trong đó, chiếm tỉ lệ lớn nhất là dùng biểu thức định danh cơ quan,
đơn vị, tổ chức để hô và dùng biểu thức phối hợp danh từ chỉ chức vụ với tên cơ
quan, đơn vị, tổ chức để hô. Điểm này ở hô tương đồng giống xƣng. Hô trong
VBHC dùng nhiều danh từ thân tộc (ông/bà, anh/chị) còn xưng trong VBHC chỉ
dùng danh từ thân tộc em.
3.3.2.5. Giữa xƣng và hô trong VBHC luôn có mối quan hệ tương thích.
Mối quan hệ tương thích là mối quan hệ mà chủ thể xưng hô dùng các từ ngữ
tương thích nhau giữa xƣng và hô: xưng như thế nào thì hô cần tương thích,
không có hiện tượng mượn vai, thay vai như trong đời sống hằng ngày.
3.3.2.6. Lịch sự ở hành động xưng hô trong VBHC thể hiện sự tôn trọng
quyền và lợi ích hợp pháp của các đối tượng có liên quan; là sự thừa nhận, tuân
thủ các chuẩn mực luật pháp và các chuẩn mực xã hội khác. Khi xưng hay hô
phải đúng thẩm quyền của người phát ngôn, phải phù hợp với quyền lực địa vị
của người tiếp nhận, phải đảm bảo tính chính danh.
146
KẾT LUẬN
Có thể nói xưng hô là một trong những vấn đề quan trọng nhất của giao
tiếp bằng ngôn ngữ. Cuộc giao tiếp có đạt hiệu quả như mong muốn hay không
một phần lớn phụ thuộc vào việc xưng hô của các nhân vật giao tiếp. Nghiên
cứu về xưng hô trong văn bản tiếng Việt là một vấn đề không mới, tuy nhiên
nghiên cứu xưng hô trong VBHC lại là vấn đề từ trước đến nay chưa được
nghiên cứu một cách toàn diện và hệ thống. Đi sâu tìm hiểu và nghiên cứu đề
tài “Xƣng hô trong văn bản hành chính tiếng Việt”, chúng tôi rút ra một số
kết luận sau:
1. Từ việc nghiên cứu vấn đề xưng hô trong tiếng Việt của các nhà khoa
học, chúng tôi đưa ra quan niệm: “Xƣng trong VBHC được hiểu là cách mà chủ
thể ban hành ra văn bản, người/đơn vị ban hành ra VBHC dùng BTNN để thể
hiện chính bản thân mình và do đó tự chịu trách nhiệm pháp lí về văn bản”. Từ
quan niệm về xưng, chúng tôi rút ra quan niệm tương ứng về hô: “Hô trong
VBHC được hiểu là cách mà chủ thể sản sinh ra văn bản, người/đơn vị ban
hành ra VBHC dùng BTNN để thể hiện đối tượng đang giao tiếp với mình –
đối tượng tiếp nhận và thực thi văn bản”. Xưng hô trong VBHC không chỉ đơn
thuần là việc người nói dùng từ ngữ thích hợp để đưa mình và người giao tiếp
vào cuộc giao tiếp mà xưng hô trong VBHC đặc biệt nhấn mạnh đến sự “chịu
trách nhiệm” của các nhân vật giao tiếp đối với những vấn đề được đề cập
trong văn bản. Hay nói cách khác, điểm khác biệt lớn nhất giữa xưng hô trong
VBHC với xưng hô trong các loại văn bản khác là vai xưng là vai của người
chịu trách nhiệm về văn bản, kí tên dưới văn bản (không phải là người viết,
người biên soạn văn bản như thư kí, trợ lí, văn thư). Vai hô cũng là vai có “liên
đới” và cũng chịu trách nhiệm về văn bản trước pháp luật. Xƣng hô trong
VBHC nhấn mạnh về tính đúng mực, tính tường minh và tính pháp lí.
2. Các BTNN dùng để xưng hô trong trong VBHC cũng rất phong phú và
mang những nét khu biệt so với xưng hô trong đời sống hằng ngày. Đối với các
147
BTNN dùng để xưng, qua khảo sát ngữ liệu, chúng tôi thống kê được trong
VBHC sử dụng 8 BTNN dùng để xưng (xem chi tiết trong bảng 2.2). Trong đó,
dùng nhiều nhất là: dùng biểu thức phối hợp chức vụ với tên riêng (đầy đủ họ
và tên) để xưng; tiếp đến dùng biểu thức định danh cơ quan, đơn vị, tổ chức để
xưng; dùng biểu thức phối hợp chức vụ với tên cơ quan, đơn vị, tổ chức để
xưng. Các BTNN dùng để hô, chúng tôi cũng đã thống kê được trong VBHC sử
dụng 12 BTNN dùng để hô (xem chi tiết trong bảng 3.1). Trong đó, sử dụng
nhiều nhất là: dùng biểu thức định danh cơ quan, đơn vị, tổ chức dạng đầy đủ,
rút gọn hoặc nói khái quát để hô; kế đến là dùng biểu thức phối hợp chức vụ
với tên cơ quan, đơn vị, tổ chức để hô. Đây là những BTNN dùng để xưng hô
rất tiêu biểu trong VBHC. Nó thể hiện tính minh xác, tính pháp lí.
Qua số liệu khảo sát, thống kê cho thấy nhóm các từ ngữ dùng để xưng hô
xuất hiện với tỉ lệ cao trong VBHC là tên cơ quan, chức vụ, chức danh, nghề
nghiệp, từ hô gọi chung (ông/ bà, đồng chí), còn các yếu tố về cá nhân như họ
tên riêng thì xuất hiện với tỉ lệ thấp, và không xuất hiện một mình mà luôn có
các yếu tố trên đi kèm. Đây chính là điểm khu biệt giữa xưng hô trong VBHC
với xưng hô trong đời sống hằng ngày. Xưng hô trong VBHC nhấn mạnh về
tính đúng mực, tính tường minh và tính pháp lí. Cho nên, xưng hô trong VBHC
rất ít dùng các đại từ nhân xưng chính danh trong tiếng Việt mà chủ yếu dùng
đại từ nhân xưng lâm thời được chuyển loại từ các danh từ sang. Nhưng đặc
biệt, trong xưng không sử dụng các danh từ thân tộc (ông,bà, anh, chị...), chỉ có
một trường hợp từ em dùng để xưng trong giao tiếp giữa học sinh với các thầy
/cô giáo trong trường học. Còn trong hô lại đặc biệt không sử dụng các đại từ
nhân xưng chính danh ngôi thứ 2 (mày, chúng mày...) vì các từ này có sắc thái
thân mật, suồng sã thậm chí thô tục, không đảm bảo tính trang trọng, lịch sự
của VBHC tiếng Việt.
3. Vị trí, các biểu thức xưng hô trong VBHC có thể xuất hiện khá linh
hoạt trong VBHC. Điều này phụ thuộc rất lớn vào các kiểu loại VBHC cụ thể.
148
Đối với xưng, BTX có thể xuất hiện đầu văn bản. Vị trí xưng này thường xuất
hiện trong những văn bản có tính pháp lí cao mà các cơ quan, tổ chức hay cá
nhân có chức vụ trong bộ máy hành chính Nhà nước ban hành như: thông tư,
chỉ thị, nghị định, kế hoạch, công văn,... BTX cũng có thể xuất hiện ở giữa văn
bản. Kiểu này phổ biến nhất trong VBHC, thường xuất hiện trong những
VBQPPL do cá nhân hay cơ quan, đơn vị tổ chức ban hành như: Quyết định,
nghị quyết,…Đặc biệt, trong VBHC có kiểu xưng ở vị trí kết thúc văn bản
(dưới phần kí tên). Đây là kiểu xưng đặc trưng, chỉ có ở VBHC và bắt buộc
phải có trong bất cứ VBHC nào. Chủ thể xưng ở vị trí kết thúc văn bản là
người chịu trách nhiệm về nội dung cũng như tính pháp lí của văn bản. Đối với
hô, BTH có thể xuất hiện ở đầu văn bản, giữa văn bản và trong một điều khoản
cụ thể của văn bản. Vị trí đầu văn bản (thường nằm trong phần Kính gửi:…)
xuất hiện trong các VBHC thông dụng trong đời sống như: công văn, thông
báo, giấy triệu tập, thư mời, phiếu chuyển, các loại đơn từ…Vị trí giữa văn bản
(thường nằm trong nội dung văn bản) xuất hiện trong các văn bản như: chỉ thị,
thông tư, công điện, công văn, thông báo,.. Đặc biệt là hô nằm trong một điều
khoản cụ thể của văn bản. Vị trí này thường xuất hiện trong những VBHC có
tính pháp lí cao như: nghị quyết, nghị định, quyết định, thông tư,..
4. Cũng giống trong giao tiếp hằng ngày, xưng hô trong VBHC thể hiện
và quy định bởi vai giao tiếp. Tuy nhiên, nếu như trong đời sống hằng ngày,
xưng hô phụ thuộc chủ yếu vào các yếu tố như tuổi tác, họ hàng, huyết thống…
thì xưng hô trong VBHC phụ thuộc vào địa vị xã hội. Vị thế giao tiếp của các
nhân vật giao tiếp quy định đến cách xưng hô trong VBHC. Vị thế giao tiếp
giữa các nhân vật giao tiếp bao gồm quan hệ ngang vai giao tiếp và quan hệ
không ngang vai giao tiếp. Trong quan hệ không ngang vai bao gồm quan hệ
vai trên - vai dưới và quan hệ vai dưới - vai trên. Dù ngang, trên hay dưới vai
thì xưng hô đều phải đảm bảo tính trang trọng, lịch sự, tôn trọng đối với chính
chủ thể xưng và khách thể hô.
149
5. Tương thích trong xưng hô là một đặc trưng cơ bản và quan trọng ở
VBHC. Tương thích trong xưng hô là các vai giao tiếp giữa chủ thể (ngôi 1) và
khách thể hô (ngôi 2) phải tương ứng với nhau theo một quan hệ nào đó, ví
như: chú - cháu, anh - em, bà - cháu... Trong giao tiếp hằng ngày, người Việt
thường dùng hiện tượng mượn vai để xưng hô. Việc mượn vai này vừa biểu thị
được sự kính trọng, lễ phép với người nghe, đồng thời lại tạo sự thân mật gần
gũi. Việc mượn vai để xưng hô dẫn đến sự không tương thích giữa xưng và hô
trong giao tiếp. Tuy nhiên, trong VBHC, tuyệt đối không được mượn vai để
xưng hô. Giữa xưng và hô trong VBHC luôn có sự tương thích. Sự tương thích
này được thể hiện qua những điểm sau: (1) tương thích về vị thế giao tiếp theo
quan hệ hành chính giữa chủ thể tạo lập văn bản và khách thể tiếp nhận văn
bản; (2) đó còn là sự tương thích theo hệ thống dọc trong bộ máy hành chính
hay tổ chức, theo đó các biểu thức xưng và hô, nhất là các biểu thức xưng hô
theo chức vụ, theo tên của cơ quan, đều nằm trong cùng hệ thống, cùng lĩnh
vực nhất định tuy có thể khác nhau về vị thế.
6. Là loại văn bản dùng để thực thi các sự việc liên quan đến luật pháp
và quản lí hành chính Nhà nước, VBHC phải đảm bảo yêu cầu nghiêm ngặt về
tính lịch sự. Tính lịch sự trong VBHC cũng được thể hiên rất rõ qua xưng hô.
Nếu trong giao tiếp hằng ngày, các nhân vật có thể dùng từ ngữ xưng hô một
cách khá linh hoạt, khá thoải mái thì trong VBHC, việc xưng hô cần tuân thủ
nghiêm ngặt các yêu cầu để đảm bảo tính lịch sự. Vì thế phép lịch sự xưng hô
trong VBHC có những đặc điểm là sự thừa nhận, tuân thủ chuẩn mực luật
pháp và các chuẩn mực xã hội khác, nghĩa là cần đảm bảo lịch sự chuẩn mực.
Lịch sự chuẩn mực trong xưng hô ở VBHC có những biểu hiện chủ yếu là: (1)
xưng hô trong VBHC đòi hỏi tính chính danh; (2) xưng hô trong VBHC
không theo phương châm “xưng khiêm hô tôn”; (3) xưng hô trong VBHC
phải nhất quán, thống nhất; (4) xưng hô trong VBHC không cho phép dạng
xưng hô “trống không”.
150
7. Nghiên cứu xưng hô trong VBHC với nhiều thể loại văn bản khác nhau
chúng ta hiểu được những đặc trưng cơ bản của VBHC nói chung và xưng hô
trong VBHC nói riêng. Qua việc nghiên cứu trên, chúng tôi nhận thấy, đặc
trưng của văn bản, của phong cách chức năng văn bản quy định vấn đề xưng
hô trong văn bản đó. Với nhận thức như vậy, chúng tôi cho rằng, còn nhiều vấn
đề liên quan đến đề tài này cần được tiếp tục nghiên cứu, chẳng hạn như nghiên
cứu đối chiếu về xưng hô trong VBHC với xưng hô trong các loại văn bản
thuộc các phong cách chức năng khác. Điều này s càng làm nổi rõ hơn đặc
trưng của các văn bản thuộc các phong cách khác nhau nói chung và xưng hô
trong các văn bản đó nói riêng, từ đó tiến đến việc chuẩn hóa việc xưng hô
trong VBHC. Chúng tôi hi vọng s tiếp tục thực hiện được hướng nghiên cứu
trên trong tương lai.
151
CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Nguyễn Văn Tuyên (2013), “Về một cách xưng hô của người Việt trong
hoạt động giao tiếp”, Ngôn ngữ và văn học, Kỉ yếu hội thảo khoa học toàn
quốc, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội, tr.103-108.
2. Nguyễn Văn Tuyên (2017), “Biểu thức ngôn ngữ để xƣng trong văn bản
hành chính tiếng Việt”, Tạp chí Từ điển học và Bách khoa thƣ Việt Nam,
(3), tr.104 -109.
3. Nguyễn Văn Tuyên (2019), “Một số cách xưng trong văn bản hành chính
tiếng Việt”, Tạp chí Từ điển học và Bách khoa thƣ Việt Nam, (6), tr. 87-92.
4. Nguyễn Văn Tuyên (2019), “Biểu cảm và lịch sự trong xưng hô ở văn bản
hành chính tiếng Việt”, Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Sư phạm Hà
Nội, 64 (2), tr. 84-91.
5. Nguyễn Văn Tuyên (2019), “Vấn đề hô trong văn bản hành chính tiếng
Việt”, Tạp chí Nhân lực Khoa học xã hội, Học viện Khoa học xã hội,(6),
tr.73-80.
6. Nguyễn Văn Tuyên (2019), “ iểu thức ngôn ngữ để hô trong văn bản hành
chính tiếng Việt”, Tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống, 288 (8), tr.32-37.
152
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Tiếng Việt
1. Diệp Quang Ban (2005), Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
2. Diệp Quang Ban (2010), Từ điển thuật ngữ ngôn ngữ học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
3. Diệp Quang Ban (2012), Giao tiếp, diễn ngôn và cấu tạo văn bản, Nxb Giáo
dục Việt Nam.
4. Nguyễn Thị Thanh Bình & Bùi Minh Yến (chủ nhiệm) (2011), Vấn đề sử
dụng ngôn ngữ trong một số phạm vi giao tiếp ở Việt Nam, Đề tài nghiên cứu
khoa học cấp Bộ, Viện Ngôn ngữ học.
5. Đỗ Hữu Châu, Bùi Minh Toán (1993), Đại cƣơng ngôn ngữ học, tập 2, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
6. Đỗ Hữu Châu (1998), Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng, tái bản lần thứ hai, Nxb
Giáo, Hà Nội.
7. Đỗ Hữu Châu (2007), Đại cƣơng ngôn ngữ học, tập 2, Ngữ dụng học, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
8. Hoàng Thị Châu (1989), Tiếng Việt trên các miền đất nƣớc, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
9. Hoàng Thị Châu (1995), “Vài đề nghị về cách xưng hô trong xã giao”, Tạp chí
Ngôn ngữ và Đời sống, (2), tr.12-13.
10. Vũ Thị Sao Chi (2012), “Vấn đề sử dụng câu trong văn bản hành chính tiếng
Việt”, Tạp chí Ngôn ngữ, (10), tr. 66-80.
11. Vũ Thị Sao Chi (2012), “Mẫu hóa văn bản hành chính tiếng Việt”, Tạp chí
Khoa học xã hội Việt Nam, (11), tr. 74-83.
12. Vũ Thị Sao Chi (chủ nhiệm) (2012), Nghiên cứu, khảo sát ngôn ngữ hành
chính Việt Nam, phục vụ cho việc xây dựng luật Ngôn ngữ ở Việt Nam, Đề tài
nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Viện Ngôn ngữ học.
13. Vũ Thị Sao Chi, Phạm Thị Ninh (2013), “Những tính chất cơ bản của ngôn
ngữ hành chính”, Tạp chí Ngôn ngữ, (1), tr. 50-61.
153
14. Vũ Thị Sao Chi (2015), “Cách xưng hô bằng biểu thức miêu tả trong tiếng
Việt”, Tạp chí Ngôn ngữ, (8+9), tr. 99-109.
15. Nguyễn Văn Chiến (1993), “Từ xưng hô trong tiếng Việt”, Kỉ yếu Việt Nam
những vấn đề ngôn ngữ và văn hóa, Hội ngôn ngữ học Việt Nam, Trường
ĐHNN Hà Nội, tr.60-66.
16. Nguyễn Văn Chiến (1993), “Lớp từ xưng hô tiếng Việt trong lí thuyết và
thực tế đối với các ngôn ngữ khác loại hình”, Hội Ngôn ngữ học Việt Nam,
Trường ĐHNN Hà Nội, tr.44-45.
17. Mai Ngọc Chừ (chủ biên), Nguyễn Thị Ngân Hoa, Đỗ Việt Hùng, Bùi Minh
Toán (2007), Nhập môn ngôn ngữ học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
18. Nguyễn Đức Dân (1998), Ngữ dụng học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
19. Nguyễn Đức Dân, Đặng Thái Minh (1998), Nhập môn thống kê ngôn ngữ
học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
20. Trương Thị Diễm (2012), “Từ xưng hô có nguồn gốc danh từ thân tộc trong
cộng đồng công giáo Việt”, Tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống, (số 12), tr. 7-9.
21. Phan Xuân Dũng (2007), Hành vi ngôn ngữ điều khiển trong văn bản hành
chính, Luận văn Thạc sĩ khoa học Ngữ văn, Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
22. Lê Viết Dũng (2013), “Về hành động xưng hô của người Việt”, Tạp chí
Ngôn ngữ và Đời sống, (8), tr. 47-48; (10), tr. 60-64.
23. Vũ Tiến Dũng (2002), “Chiến lược lịch sự âm tính với lời xin lỗi trong giao
tiếp tiếng Việt” , Tạp chí Khoa học, (5), tr. 45-52.
24. Vũ Tiến Dũng (2003), Lịch sự trong tiếng Việt và giới tính (qua một số hành
động nói), Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
25. Vũ Cao Đàm (2008), Phƣơng pháp luận nghiên cứu khoa học, tái bản lần thứ
4, Nxb Khoa học và kĩ thuật, Hà Nội.
26. Hữu Đạt (2000), Văn hóa và ngôn ngữ giao tiếp của ngƣời Việt, Nxb Văn
hóa - Thông tin, Hà Nội.
154
27. Trần ạch Đằng (2015), “Từ xưng hô trong lĩnh vực giao tiếp hành chính
Nhà nước”, Tạp chí Ngôn ngữ Đời sống, (11), tr. 109-112.
28. Nguyễn Văn Độ (1995), “Việc nghiên cứu lịch sự trong giao tiếp”, Tạp chí
Ngôn ngữ, (1), tr. 53-58.
29. Nguyễn Văn Độ (1999), “Có phải các chiến lược của Brown and Levinson chỉ đơn
giản là sự tính toán có ý thức?”, Tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống, (11), tr.1-6.
30. Nguyễn Văn Độ (2008), “Lịch sự: Đi về đâu (Quo vadis)? (phần I)”, Tạp chí
Ngôn ngữ và Đời sống (1 + 2), tr. 4.
31. George (2003), Dụng học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
32. Nguyễn Thiện Giáp (2000), Dụng học Việt ngữ, Nxb Đại học Quốc gia Hà
Nội, Hà Nội.
33. Nguyễn Thiện Giáp (2009), Các phƣơng pháp nghiên cứu ngôn ngữ, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
34. Nguyễn Thiện Giáp (2013), “Mối quan hệ giao tiếp và cách xưng hô của
người Việt”, nguồn: http:ngonnguhoc.org.
35. Nguyễn Thị Hà (2010), Khảo sát chức năng ngôn ngữ văn bản quản lí nhà
nƣớc qua phƣơng pháp phân tích diễn ngôn, Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học,
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
36. Phạm Ngọc Hàm (2004), Đặc điểm và cách sử dụng của lớp từ ngữ xƣng hô
tiếng Hán trong sự so sánh với tiếng Việt, Luận án tiến sĩ, Viện ngôn ngữ
học, Hà Nội.
37. Lý Tùng Hiếu (2015), “Từ xưng hô tiếng Việt - tiếp cận từ góc nhìn dân tộc -
ngôn ngữ học”, Tạp chí Ngôn ngữ, (6), tr. 30-42.
38. Vũ Ngọc Hoa (2010), “Phân loại hành vi ngôn ngữ cầu khiến trong văn bản
hành chính”, Tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống, (7), tr. 9-12.
39. Vũ Ngọc Hoa (2012), Hành động ngôn từ cầu khiến trong văn bản hành
chính, Luận án tiến sĩ, ĐHSPHN, Hà Nội.
155
40. Lê Như Hoa (chủ biên) (2002), Văn hóa ứng xử các dân tộc Việt Nam, Nxb
Văn hóa -Thông tin, Hà Nội.
41. Học viện Hành chính Quốc gia (2006), Giáo trình Kĩ thuật xây dựng và ban
hành văn bản, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
42. Nguyễn Thượng Hùng (1991), “Nghi thức ngôn ngữ trong giao tiếp của tiếng
Việt và tiếng Anh”, Tạp chí Ngôn ngữ, (2), tr. 58-60.
43. Đỗ Việt Hùng (2011), Ngữ dụng học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
44. Đỗ Việt Hùng (2012), Ngữ nghĩa học - Từ bình diện hệ thống đến hoạt động,
Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
45. Vũ Thị Thanh Hương (1999), “Gián tiếp và lịch sự trong lời cầu khiến tiếng
Việt”, Tạp chí Ngôn ngữ, (1), tr. 34-43.
46. Vũ Thị Thanh Hương (1999), “Giới tính và lịch sự”, Tạp chí Ngôn ngữ, (8),
tr. 17-30.
47. Vũ Thị Thanh Hương (2000), “Lịch sự và phương thức biểu hiện tính lịch sự
trong lời cầu khiến tiếng Việt”, Ngôn từ, giới và nhóm xã hội: từ thực tiễn
tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 135-176.
48. Vũ Thị Thanh Hương (2002), “Khái niệm thể diện và ý nghĩa đối với việc
nghiên cứu ứng xử lịch sự”, Tạp chí Ngôn ngữ, (1), tr. 8-14.
49. Trần Thị Thu Hương (2008), Hành chính văn phòng, Nxb Tổng hợp Thành
phố Hồ Chí Minh.
50. Lê Văn In, Phạm Hưng (1998), Phƣơng pháp soạn thảo văn bản hành chính,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
51. Nguyễn Văn Khang (1999), Ngôn ngữ học xã hội-những vấn đề cơ bản, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
52. Nguyễn Văn Khang (chủ biên) (2001), Ứng xử ngôn ngữ trong giao tiếp gia
đình ngƣời Việt, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
53. Nguyễn Văn Khang (chủ biên) (2002), Tiếng Việt trong giao tiếp hành
chính, Nxb Văn hóa- Thông tin, Hà Nội.
156
54. Nguyễn Văn Khang (2012), Ngôn ngữ học xã hội, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
55. Nguyễn Văn Khang (2014), “Giao tiếp xưng hô tiếng Việt bằng từ thân tộc
và việc sử dụng chúng trong giao tiếp công quyền”, Tạp chí Ngôn ngữ và
Đời sống (10), tr. 38-47.
56. Lê Thanh Kim (2002), Từ xƣng hô và cách xƣng hô trong phƣơng ngữ tiếng
Việt, Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học, Viện Ngôn ngữ học, Hà Nội.
57. Đinh Trọng Lạc (chủ biên), Nguyễn Thái Hòa (1998), Phong cách học tiếng
Việt, tái bản lần thứ 3, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
58. Khuất Thị Lan (2015), Giao tiếp vợ chồng trong gia đình ngƣời Việt giai
đoạn 1930-1945 (qua tƣ liệu tác phẩm văn học), Luận án tiến sĩ Ngôn ngữ
học, Học viện Khoa học xã hội, Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam, Hà Nội.
59. Hồ Thị Lân (1989), Tìm hiểu vai trò của từ xƣng hô trong hoạt động giao
tiếp và các nhân tố tác động đến từ xƣng hô, Luận văn Thạc sĩ Ngữ Văn,
Đại học Sư phạm Hà Nội 1, Hà Nội.
60. Lã Thị Thanh Mai (2014), “Xưng hô bằng danh từ chỉ chức vụ, nghề nghiệp
trong tiếng Hàn” (có so sánh với tiếng Việt và các ngôn ngữ khác), Tạp chí
Ngôn ngữ và Đời sống, (3), tr. 37-42.
61. Lã Thị Thanh Mai (2014), Đặc điểm xƣng hô của ngƣời Hàn và ngƣời Việt,
Luận án tiến sĩ Ngôn ngữ học, Học viện Khoa học xã hội, Viện Hàn lâm
KHXH Việt Nam, Hà Nội.
62. Đỗ Thị Thanh Nga (2003), Câu trong văn bản hành chính, Luận văn Thạc sĩ,
Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
63. Vũ Thị Nga (2008), “Hành động rào đón và phép lịch sự trong hội thoại Việt
ngữ”, Tạp chí Ngôn ngữ, (4), tr. 44-52.
64. Đức Nguyễn (2000), “Về cách xưng hô của học sinh đối với thầy giáo”, Tạp
chí ngôn ngữ, (3), tr. 73.
65. Nguyễn Văn Nở (2000), “Cách xưng hô trong ca dao trữ tình ở Đồng bằng sông
Cửu Long”, Kỉ yếu Ngữ học trẻ, Nxb Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, tr.317.
157
66. Nguyễn Văn Nở (2012), Phong cách học tiếng Việt, Nxb Đại học Cần Thơ, Cần Thơ
67. Dương Thị Nụ (2002), “Tìm hiểu cấu trúc ngữ nghĩa cơ bản của từ thân tộc”,
Tạp chí Ngôn ngữ (3).
68. Võ Minh Phát (2016), Đặc điểm ngôn ngữ của từ xƣng hô trong Phật giáo
Việt Nam, Luận án tiến sĩ Ngôn ngữ học, Đại học Khoa học, Đại học Huế.
69. Nguyễn Phú Phong (1996), “Đại từ nhân xưng tiếng Việt”, Tạp chí Ngôn
ngữ, (1), tr. 6-19.
70. Nguyễn Phú Phong (2004), “Đi tìm cái tôi”, Tạp chí Ngôn ngữ, (8), tr.1-7.
71. Đào Nguyên Phúc (2004), “Một số chiến lược lịch sự trong hội thoại Việt ngữ có
sử dụng hành động ngôn ngữ xin phép”, Tạp chí Ngôn ngữ, (10), tr.49-57.
72. Mai Thị Kiều Phượng (2004), “Từ xưng hô và cách xưng hô trong câu hỏi
mua bán bằng tiếng Việt”, Tạp chí Ngôn ngữ, (6), tr. 15-25.
73. Trần Kim Phượng (2013), “Các từ xưng hô trong truyện ngắn Chí Phèo của
Nam Cao”, Ngôn ngữ và Văn học, Kỉ yếu Hội thảo Ngôn ngữ học toàn
quốc, tr. 689-690.
74. Nguyễn Quang (2002), Giao tiếp và giao tiếp giao văn hóa, Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
75. Nguyễn Quang (2002), “Chiến lược lịch sự dương tính trong giao tiếp”, Tạp
chí Ngôn ngữ, (11), tr. 48-55.
76. Võ Đại Quang (2004), “Lịch sự: Chiến lược giao tiếp hướng cá nhân hay
chuẩn mực xã hội?”, Tạp chí Ngôn ngữ, (11), tr. 30-38.
77. Vương Đình Quyền (2002), Văn bản quản lí Nhà nƣớc và công tác công văn
giấy tờ thời phong kiến Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
78. Vương Đình Quyền (2006), Lí luận và phƣơng pháp công tác văn thƣ, Nxb
Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
79. Stankêvich (1993), “Cần tìm hiểu thêm về cách xưng hô trong tiếng Việt”,
Việt Nam những vấn đề ngôn ngữ và văn hóa, Hội Ngôn ngữ học Việt
Nam, Trường ĐHNN Hà Nội, tr.66-69.
158
80. Tạ Thị Thanh Tâm (2005), “Vai giao tiếp và phép lịch sự trong tiếng
Việt”,Tạp chí Ngôn ngữ, (1), tr. 31-40.
81. Tạ Ngọc Tấn (1995), Tác phẩm báo chí, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
82. Lưu Kiến Thanh, Bùi Xuân Lự, Lê Đình Chức (2002), Hành chính văn
phòng trong cơ quan Nhà nƣớc, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
83. Phạm Tất Thắng (2002), “Về các khuôn ngôn ngữ hành chính”, Tiếng Việt
trong giao tiếp hành chính, Nxb Văn hóa- Thông tin, Hà Nội, tr.17-27.
84. Nguyễn Văn Thâm (1997), Soạn thảo và xử lí văn bản quản lí Nhà nƣớc,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
85. Trần Ngọc Thêm (1998), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
86. Hoàng Anh Thi (1995), “Một số đặc điểm văn hóa Nhật–Việt qua việc khảo
sát hệ thống từ xưng hô”, Tạp chí Ngôn ngữ, (1).
87. Hoàng Anh Thi (2007), “Đặc trưng lịch sự - đặc trưng văn hóa trong tiếng
Nhật”, Tạp chí Ngôn ngữ, (11), tr. 28-39.
88. Nguyễn Minh Thuyết (1988), “Vài nhận xét về đại từ và đại từ xưng hô-
tiếng Việt 1”, Tạp chí Ngôn ngữ, (3), tr. 29-31.
89. Nguyễn Minh Thuyết, Kim Young Soo (1996), “Mấy nhận xét về từ xưng
hô tiếng Việt và tiếng Hàn Quốc”, Tƣơng đồng văn hóa Việt Nam - Hàn
Quốc, Nxb Hà Nội, tr. 350-357.
90. Phạm Ngọc Thưởng (1993), Sự thể hiện vị thế xã hội và chi phối của vị thế
xã hội qua các từ xƣng hô trong hội thoại tiếng Tày-Nùng (Đối chiếu với
tiếng Việt), Luận án Thạc sĩ Ngữ văn, Đại học Sư phạm Hà Nội 1, Hà Nội.
91. Phạm Ngọc Thưởng (1994), “Về đại từ nhân xưng ngôi thứ ba”, Tạp chí
nghiên cứu Giáo dục, (10), tr. 26-27.
92. Phạm Ngọc Thưởng (1998), Các cách xƣng hô trong tiếng Nùng, Luận án
tiến sĩ Ngữ văn, Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
93. Phạm Văn Tình (1999), “Xưng hô chức danh”, Tạp chí Ngôn ngữ và Đời
sống, (11), tr. 2-4.
159
94. Bùi Minh Toán, Lê A, Đỗ Việt Hùng (2009), Tiếng Việt thực hành, tái bản
lần thứ 12, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
95. Bùi Minh Toán, Nguyễn Thị Lương (2010), Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Đại
học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
96. ùi Minh Toán (2012), Câu trong hoạt động giao tiếp tiếng Việt, Nxb Giáo
dục Việt Nam, Hà Nội.
97. Nguyễn Thế Truyền (2004), “Tìm hiểu tính chính xác của ngôn ngữ luật
pháp tiếng Việt”, Tạp chí Ngôn ngữ, (1), tr.36 - 43.
98. Đoàn Trọng Truyến (1997), Hành chính học đại cƣơng, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
99. Trường Đại học luật Hà Nội (2007), Giáo trình Kĩ thuật xây dựng văn bản
pháp luật, Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội.
100. Trường Đại học luật Hà Nội (2007), Giáo trình Lí luận nhà nƣớc và pháp
luật, Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội.
101. Nguyễn Văn Tu (1996), “Về cách xưng hô trong cơ quan nhà nước, đoàn
thể, trường học”, Tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống, (1), tr.11.
102. Cù Đình Tú (2001), Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
103. Hoàng Tuệ (1996), Ngôn ngữ và đời sống xã hội văn hóa, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
104. Viện Sử học (1991), Quốc triều hình luật, Nxb Pháp lí, Hà Nội.
105. Viện Ngôn ngữ học (2000), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng - Trung tâm
Từ điển học, Hà Nội - Đà Nẵng.
106. Bùi Khắc Việt (1998), Kĩ thuật và ngôn ngữ soạn thảo văn bản quản lí nhà
nƣớc, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
107. Trần Quốc Vượng (chủ biên) (1997), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
108. Nguyễn Như Ý (1990), “Vai xã hội và ứng xử ngôn ngữ trong giao tiếp”,
Tạp chí Ngôn ngữ, (3).
160
109. Bùi Minh Yến (1990), “Xưng hô giữa vợ và chồng trong gia đình người
Việt”, Tạp chí Ngôn ngữ, (3), tr. 30-38.
110. Bùi Minh Yến (1993), “Xưng hô giữa anh chị và em trong gia đình người
Việt”, Tạp chí Ngôn ngữ, (3), tr.10-19.
111. Bùi Minh Yến (1994), “Xưng hô giữa ông, bà và cháu trong gia đình người
Việt”, Tạp chí Ngôn ngữ, (2), tr. 31-40.
112. Bùi Minh Yến (2001), Từ xƣng hô trong gia đình đến xƣng hô ngoài xã hội của
ngƣời Việt, Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học, Viện Ngôn ngữ học, Hà Nội.
113. Bùi Minh Yến (2002), “Ngôn ngữ xưng hô trong tiếng Việt giao tiếp công
sở”, Tiếng Việt trong giao tiếp hành chính, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội,
tr.143-199.
114. Bùi Minh Yến (2015), “Thử đi tìm giải pháp cho vấn đề chuẩn hóa ngôn
ngữ xưng hô nơi công sở”, Tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống, (1), tr. 56-59.
II. Tiếng Anh
115. Bhatia, V.K. (1987), The language of the law, Language teaching.
116. Brown, P & Levinson, S.C. (1987). Politeness - Some Universals in
Language Usage.Cambridge University Press.
117. Bernas A. Mill. (2000). Complete Business letters. Oxford University Press.
118. Cottrill, L. (1991), Face, Politeness and Directness, University of
Canberra.
119. Emeneau M.B (1951), Studies in Vietnamese (Annamese) Grammar,
Cambridge University Press, London, England.
120. Fraser, B. (1990), Perspectives on Politeness. Journal of Pragmatics, 14, 219-236.
121. Holmes, J & Stubbe, M. (2003), Power and Politeness in the workplace,
Longman, London.
122. Jones, L. and Alexander, R. (1996). New International Business English.
Cambridge UniversityPress.
123. Lương Hy V. (1990). Discursive Practices and Linguistic Meanings ( The
Vietnamese System of Peron Reference), John Benjamins Publishing
Company, Amsterdam/ Philadelphia.
161
124. Maley, Y. (1994), The language of the law, Language and the law, Longman,
London.
125. Thompson L.C (1965), A Vietnamese Grammar, University of Washington
Press, Refernce Grammar, University of Hawa’I Press, Honolulu.
126. Searle, J. (1969), Speech acts. Cambridge University Press.
III. Tiếng Pháp
127. Lyons, J (1980), Sémantique linguistique, Larousse.
IV. Địa chỉ các trang web
128. http:/vi.wikipedia.org
129. http:/thuvienphapluat.vn.