intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án Tiến sĩ Tôn giáo học: Vai trò của tu sĩ Phật giáo Nam tông trong đời sống xã hội của người Khmer ở Tây Nam Bộ hiện nay

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:184

71
lượt xem
28
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài tiến hành nghiên cứu về vai trò của tu sĩ PGNT trong đời sống xã hội của người Khmer ở TNB hiện nay, chỉ ra những mặt tích cực và hạn chế, từ đó đề ra một số giải pháp phát huy vai trò của tu sĩ PGNT hơn. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ Tôn giáo học: Vai trò của tu sĩ Phật giáo Nam tông trong đời sống xã hội của người Khmer ở Tây Nam Bộ hiện nay

  1. HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH LÝ HÙNG VAI TRÒ CỦA TU SĨ PHẬT GIÁO NAM TÔNG TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI CỦA NGƯỜI KHMER Ở TÂY NAM BỘ HIỆN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH TÔN GIÁO HỌC HÀ NỘI - 2020
  2. HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH LÝ HÙNG VAI TRÒ CỦA TU SĨ PHẬT GIÁO NAM TÔNG TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI CỦA NGƯỜI KHMER Ở TÂY NAM BỘ HIỆN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH TÔN GIÁO HỌC Mã số: 9229009 (Cũ: 62220309) Người hướng dẫn khoa học: 1. TS NGUYỄN QUỐC TUẤN 2. PGS,TS ĐỖ LAN HIỀN HÀ NỘI - 2020
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định. Tác giả Lý Hùng
  4. MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chương 1: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VÀ CÁC VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 7 1.1. Những công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án 7 1.2. Một số lý thuyết nghiên cứu 22 1.3. Một số thuật ngữ được sử dụng trong luận án 32 Chương 2: KHÁI QUÁT PHẬT GIÁO NAM TÔNG KHMER VÙNG TÂY NAM BỘ 40 2.1. Khái quát về điều kiện địa lý, kinh tế, chính trị, xã hội vùng Tây Nam Bộ 40 2.2. Đặc điểm tôn giáo, tín ngưỡng vùng Tây Nam Bộ 46 2.3. Khái quát về Phật giáo Nam tông Khmer ở Tây Nam Bộ 69 Chương 3: VAI TRÒ CỦA TU SĨ PHẬT GIÁO NAM TÔNG TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI NGƯỜI KHMER TÂY NAM BỘ: THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA 87 3.1. Vai trò của tu sĩ Phật giáo Nam tông đối với đời sống xã hội người Khmer 88 3.2. Những vấn đề đặt ra 108 Chương 4: GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA TU SĨ PHẬT GIÁO NAM TÔNG ĐỐI VỚI CỘNG ĐỒNG NGƯỜI KHMER TÂY NAM BỘ TRONG THỜI GIAN TỚI 129 4.1. Một số giải pháp 129 4.2. Kiến nghị 140 KẾT LUẬN 144 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ 147 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 149 PHỤ LỤC 159
  5. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BTSGHPGVN : Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam GHPGVN : Giáo hội Phật giáo Việt Nam HĐKSSYN : Hội Đoàn kết sư sãi yêu nước PGNTK : Phật giáo Nam tông Khmer PGNT : Phật giáo Nam tông PGVN : Phật giáo Việt Nam TNB : Tây Nam Bộ UBND : Ủy ban nhân dân UBMTTQVN : Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
  6. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Tây Nam Bộ gồm 13 tỉnh, thành với diện tích tự nhiên gần 40.000 km2, có đường biên giới giáp Campuchia trên 340 km, có dân số khoảng 17,7 triệu người; trong đó, có khoảng 1,3 triệu người Khmer sinh sống tập trung ở thành phố Cần Thơ và các tỉnh Trà Vinh, Sóc Trăng, An Giang, Kiên Giang, Bạc Liêu, Cà Mau, Hậu Giang, Vĩnh Long. Đây là vùng có tiềm năng và lợi thế để phát triển kinh tế và là vùng có vị trí chiến lược quan trọng về chính trị, đối ngoại và an ninh quốc phòng. Đồng bào Khmer sống xen kẽ với đồng bào Kinh, Hoa trong các ấp, phum, sóc. Đa số người Khmer đều là tín đồ và cuộc sống của họ hết sức gắn bó với các ngôi chùa. Họ xem Phật giáo Nam tông (PGNT) là một tôn giáo chính thống trong đời sống tinh thần. Bộ máy tự quản truyền thống ở các phum, sóc người Khmer là những người có uy tín trong đồng bào dân tộc Khmer do dân làng bầu ra, ngoài ra còn có Ban Quản trị chùa và các vị tu sĩ Phật giáo Nam tông Khmer cũng nằm trong bộ máy tự quản của cộng đồng. Riêng đối với Phật giáo Nam tông Khmer (PGNTK) thì trong việc thực hành tôn giáo, tu sĩ là người “thay mặt Tam bảo” chăm lo phần tinh thần cho các tín đồ; trong hoạt động Phật sự, xã hội là người điều hành nền hành chính đạo; trong hoạt động truyền đạo thì họ là trụ cột để phát triển tín đồ. Hơn nữa, họ là người đại diện cho từng chùa, từng phum sóc nên thường xuyên có mối quan hệ với cấp uỷ Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội ở địa phương. Với vai trò quan trọng như vậy, tu sĩ PGNTK luôn có vai trò ảnh hưởng trực tiếp đối với đời sống xã hội trong cộng đồng người Khmer. Thực hiện Chỉ thị số 68-CT/TW của Ban Bí thư, Chỉ thị số 19-CT/TW ngày 10/01/2018, hầu hết các tỉnh, thành trong vùng ban hành nghị quyết
  7. 2 chuyên đề về công tác dân tộc, chương trình hành động, kế hoạch thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác đối với dân tộc Khmer. Qua đó, nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên, tạo được sự nhất trí, ủng hộ của quần chúng nhân dân trong việc thực hiện các chính sách dân tộc, nâng cao đời sống cho đồng bào góp phần tích cực vào việc xây dựng khối đại đoàn kết giữa đồng bào theo các tôn giáo khác nhau và giữa đồng bào có và không có tôn giáo, phát huy được nguồn lực của đồng bào có tôn giáo trong phát triển kinh tế - xã hội; đảm bảo an ninh chính trị ở địa phương, cũng như trong công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế của đất nước. Đặc biệt là trong công tác vận động quần chúng nói chung và công tác vận động tu sĩ PGNTK nói riêng được các cấp ủy Đảng quan tâm, chỉ đạo và tạo điều kiện cho các vị phối hợp với các ngành chức năng ở địa phương tham gia vận động quần chúng là Phật tử tích cực lao động sản xuất, thực hiện tốt nghĩa vụ công dân, đồng hành cùng dân tộc; có ý thức phòng ngừa và đấu tranh với những hoạt động lợi dụng dân tộc, tôn giáo gây mất ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương. Tuy nhiên xã hội ngày càng biến động và yêu cầu cần xây dựng một xã hội tốt đẹp, trong đó sự đóng góp của cộng đồng Khmer ở Tây Nam bộ (TNB) là hết sức quan trọng. Trong xã hội biến động thì xã hội người Khmer cũng biến động hết sức gay gắt và khắc nghiệt. Đã một bộ phận người Khmer bỏ tôn giáo của mình, bỏ tôn giáo truyền thống, bỏ phong tục tập quán để đi theo tôn giáo khác. Ngoài ra còn bỏ phum, sóc để đi nơi khác hoặc đi nước ngoài định cư dẫn đến bản sắc Khmer không còn thuần túy. Bên cạnh đó một số ít tu sĩ PGNTK chưa nhận thức đầy đủ về hiến pháp và pháp luật Việt Nam, có thái độ thiếu hợp tác với chính quyền đi ngược lại với những gì tốt đẹp của tôn giáo và lợi ích dân tộc. Nhận thức
  8. 3 về vai trò của tu sĩ PGNTK của một bộ phận cán bộ trong hệ thống chính trị chưa đầy đủ và thống nhất; còn xem nhẹ công tác vận động họ trong quá trình tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị ở địa phương. Một số cấp ủy Đảng, chính quyền còn lúng túng trong việc chỉ đạo giải quyết những vấn đề có liên quan đến PGNTK; chưa thực sự quan tâm tháo gỡ những khó khăn vướng mắc thuộc về cơ chế, chính sách liên quan đến PGNTK, trong đó, có công tác xây dựng lực lượng cốt cán trong PGNTK chưa được quan tâm đúng mức và phát huy hiệu quả chưa cao. Mặc khác, vai trò của tu sĩ PGNT hiện nay trong điều kiện phát triển của đồng sống xã hội đối với người Khmer vẫn còn nhiều vấn đề cần phải bàn luận liên quan đến vấn đề thực hiện tốt Nghị định số 82/2010/NĐ-CP ngày 15/7/2010 của Chính phủ, về việc tổ chức thực hiện giảng dạy ngôn ngữ Khmer, Pali, giáo lý tại các điểm chùa của một số tỉnh, thành chưa được quan tâm đúng mức; việc giữ gìn và bảo tồn các giá trị văn hóa dân tộc chưa được phát huy một mạnh mẽ. Đặc biệt là vấn đề một số ít tu sĩ trẻ tham gia các hội, nhóm đi ngược lại lợi ích quốc gia dân tộc; một số chùa còn có biểu hiện mâu thuẫn giữa Trụ trì chùa với Ban Quản trị; gây mất đoàn kết, chia rẽ trong nội bộ cộng đồng người Khmer, ảnh hưởng đến tình hình an ninh, chính trị, trật tự xã hội. Với những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài “Vai trò của tu sĩ Phật giáo Nam tông trong đời sống xã hội của người Khmer ở Tây Nam Bộ hiện nay” để làm luận án tiến sĩ Chuyên ngành Tôn giáo học. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu về vai trò của tu sĩ PGNT trong đời sống xã hội của người Khmer ở TNB hiện nay, chỉ ra những mặt tích cực và hạn chế, từ đó đề ra một số giải pháp phát huy vai trò của tu sĩ PGNT hơn.
  9. 4 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện mục tiêu tổng quát luận án có nhiệm vụ nghiên cứu các nội dung cụ thể như sau: - Đặc điểm tình hình vùng TNB và PGNTK. - Vai trò của tu sĩ PGNT trong đời sống xã hội của người Khmer ở TNB. - Thực trạng và vấn đề đặt ra đối với tu sĩ PGNT trong đời sống xã hội của người Khmer ở TNB. - Đề ra các giải pháp để tiếp tục phát huy vai trò và nâng cao hiệu quả hoạt động của tu sĩ PGNT trong đời sống xã hội người Khmer ở TNB. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là: “Vai trò của tu sĩ Phật giáo Nam tông trong đời sống xã hội của người Khmer ở Tây Nam Bộ hiện nay”. 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Thời gian: từ năm 1991 đến nay (từ khi có Chỉ thị 68/CT-TW ngày 18/4/1991 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VI) về công tác ở vùng đồng bào dân tộc Khơ - me) - Không gian: Một số tỉnh, thành vùng TNB. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận Luận án được dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo, dân tộc; chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với dân tộc, tôn giáo. Ngoài ra, luận án còn sử dụng một số lý thuyết khác để vận dụng phân tích các vấn đề tương ứng trong luận án như: Lý thuyết cấu trúc - chức năng của tôn giáo; lý thuyết vùng văn hóa; lý thuyết thực thể tôn giáo…
  10. 5 4.2. Phương pháp nghiên cứu Thực hiện luận án này, chúng tôi vận dụng các phương pháp luận nghiên cứu tôn giáo học mác xít, lý thuyết cấu trúc, chức năng của tôn giáo, lý thuyết thực thể tôn giáo, lý thuyết vùng văn hóa, lý thuyết hành động xã hội...Đồng thời, luận án còn sử dụng các phương pháp cụ thể như phương pháp lịch sử - logic, phương pháp phân tích và tổng hợp, thống kê, so sánh, quan sát, điền dã, phỏng vấn, khảo sát, tham gia...phương pháp nghiên cứu chuyên ngành và liên ngành như: phương pháp tôn giáo học, sử học, xã hội học tôn giáo. 4.3. Cách tiếp cận Cách tiếp cận dân tộc học và tôn giáo học: Dùng lý thuyết thực thể tôn giáo (niềm tin, thực hành, cộng đồng) để xem xét mối tương tác giữa tu sĩ PGNT trong cộng đồng người Khmer. Cách tiếp cận sử học: Được áp dụng nghiên cứu về lịch sử quá trình hình thành cộng đồng người Khmer và PGNTK ở TNB. Cách tiếp cận triết học: Được áp dụng nghiên cứu về vai trò của tôn giáo như một thành tố của thuộc kiến trúc thượng tầng tác động đến các thành tố khác của kiến trúc thượng tầng và hạ tầng cơ sở như: Kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. 5. Đóng góp mới của luận án Luận án nghiên cứu một cách hệ thống “Vai trò của tu sĩ PGNT trong đời sống xã hội người Khmer ở Tây Nam Bộ hiện nay”. Qua đó, đề xuất những giải pháp nhằm phát huy những giá trị tích cực về vai trò của tu sĩ PGNT trong đời sống xã hội người Khmer ở TNB hiện nay; hạn chế những mặt tiêu cực còn tồn tại trong đời sống xã hội. Đồng thời, khuyến nghị Đảng và Nhà nước về việc thực hiện chính sách tôn giáo, dân tộc nói chung; chính sách đối với PGNTK và dân tộc Khmer nói riêng.
  11. 6 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án 6.1. Ý nghĩa lý luận Luận án góp phần bổ sung cho lý thuyết tôn giáo học đương đại về vai trò của tu sĩ nói chung, PGNTK nói riêng. Luận án góp phần cung cấp cơ sở lý luận, thực tiễn, bổ sung, hoàn thiện thể chế, chính sách về dân tộc, tôn giáo nói chung, dân tộc Khmer và PGNTK nói riêng trong bối cảnh hội nhập quốc tế như hiện nay. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Kết quả luận án cung cấp những luận cứ khoa học để bổ sung và hoàn thiện chính sách đặc thù đối với PGNTK nói chung, tu sĩ PGNTK nói riêng. Kết quả nghiên cứu của luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các công trình nghiên cứu khoa học, giảng dạy và học tập chuyên ngành tôn giáo học và các lĩnh vực khác có liên quan. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và mục lục, nội dung chính của luận án được kết cấu gồm 4 chương, 10 tiết: Chương 1: Tổng quan nghiên cứu và các vấn đề liên quan đến đề tài Chương 2: Khái quát Phật giáo Nam tông Khmer vùng Tây Nam Bộ Chương 3: Vai trò của tu sĩ Phật giáo Nam tông trong đời sống xã hội người Khmer Tây Nam Bộ: thực trạng và một số vấn đề đặt ra Chương 4: Giải pháp và kiến nghị phát huy vai trò của tu sĩ Phật giáo Nam tông đối với cộng đồng người Khmer Tây Nam Bộ trong thời gian tới
  12. 7 Chương 1 TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VÀ CÁC VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 1.1.1. Nhóm công trình liên quan đến vấn đề dân tộc Khmer Trước năm 1975, vấn đề dân tộc Khmer Nam Bộ - Việt Nam được nhiều học giả người nước ngoài nghiên cứu, tuy nhiên các công trình của họ chủ yếu đề cập đến từng khía cạnh riêng biệt về lịch sử, mỹ thuật, kiến trúc chùa, nghi lễ tôn giáo, sinh hoạt dân gian, thơ ca dân gian. Thời điểm này, đáng chú ý là công trình“Người Việt gốc Miên” của Lê Hương [62] xuất bản (1969) tại Sài Gòn và bản ghi chép “Chân lạp phong thổ ký” của Châu Đạt Quan do Lê Hương dịch (1973), có thể xem là những công trình đầu tiên trình bày tổng quan khá đầy đủ về người Khmer Nam Bộ - Việt Nam, cụ thể là về nguồn gốc, dân số, sinh hoạt, xã hội, phong tục, tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo, văn hóa, giáo dục, kinh tế, địa danh, lịch sử, …. Bên cạnh đó, tác giả cũng có đề cập đến vấn đề Phật giáo trong cộng đồng người Khmer. Tuy nhiên tác giả chỉ nghiên cứu trong phạm vi ở tỉnh Vĩnh Bình (tỉnh Trà Vinh hiện nay) qua các mối quan hệ xã hội, phong tục tập quán, tín ngưỡng; đây là tư liệu quí để chúng tôi làm cơ sở nghiên cứu luận án. Sau năm 1975, các công trình nghiên cứu liên quan đến người Khmer Nam Bộ liên tục được chú trọng và đạt nhiều kết quả đáng quan tâm; trong đó phải kể đến nhà nghiên cứu Phan An, với các công trình tiêu biểu như: “Vài khía cạnh dân tộc học về người Khmer ở Việt Nam và Camphuchia” (1980); “Một số vấn đề kinh tế - xã hội của vùng nông thôn Khmer Đồng bằng sông Cửu Long - Vấn đề dân tộc ở Đồng bằng sông Cửu Long” (1984); “Dân tộc Khmer trong các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Nam)”(1984);
  13. 8 “Nghiên cứu người Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long” (1985) [1]… Qua các bài viết, tác giả đã khái quát đầy đủ các khía cạnh về đời sống xã hội của người Khmer ở Nam Bộ trong những thập niên 80 của thế kỷ XX; đây là cơ sở để chúng tôi so sánh sự chuyển biến trong đời sống xã hội của người Khmer trước và sau thời kỳ đổi mới. Năm 1981, công trình sách “Quá trình phát triển dân cư và dân tộc ở Đồng bằng sông Cửu Long từ Thế kỷ thứ XV đến thế kỷ thứ XIX” của tác giả Mạc Đường [45] đã khái quát được quá trình hình thành các tộc người Việt, Khmer, Hoa và Chăm; đồng thời, làm rõ đặc điểm của các cộng đồng tộc người này ở đồng bằng sông Cửu Long nhằm làm cơ sở nghiên cứu những đặc trưng riêng của từng tộc người ở vùng đất Nam Bộ. Công trình “Lịch sử khai phá vùng đất Nam Bộ” do Huỳnh Lứa [68] chủ biên đã được Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh xuất bản vào năm 1987; đến năm 2017, công trình này có chỉnh sửa, bổ sung và tái bản; công trình bằng tiếng Việt, dày 355 trang; các tác giả đã trình bày tiến trình nhân dân ta khai khẩn và mở mang vùng đất Nam Bộ từ nữa thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XX, trước hết là để phục vụ việc tìm hiểu sâu và kỷ hơn về hiện trạng, động thái, tiềm năng của vùng đồng bằng sông Cửu Long và miền Đông Nam Bộ. Công trình này đã giúp chúng ta nắm được quá trình hình thành và phát triển của các dân cư sinh sống ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Công trình “Vấn đề Dân tộc ở đồng bằng sông Cửu Long” [99] Nxb. Khoa học xã hội, 1991, Hà Nội do Viện Khoa học Xã hội tại thành phố Hồ Chí Minh thuộc Viện Khoa học xã hội Việt Nam chủ biên; công trình dày 324 trang, gồm 7 bài nghiên cứu bằng tiếng Việt do các tác giả: (1) Mạc Đường: Vấn đề dân cư và dân tộc ở đồng bằng sông Cửu Long, Người Hoa ở đồng bằng sông Cửu Long; (2) Đinh Văn Liên: Đặc điểm môi sinh và dân số ở vùng người Khmer đồng bằng sông Cửu Long, (3) Phan An: Một số vấn đề
  14. 9 kinh tế - xã hội của vùng nông thôn Khmer đồng bằng sông Cửu Long, (4) Phan Thị Yến Tuyết: Một số đặc điểm về văn hóa vật chất của người Khmer và người Chăm ở đồng bằng sông Cửu Long, Truyền thống đấu tranh cách mạng của người Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long; (5) Phan Văn Dốp và Nguyễn Việt Cường: Người Chăm ở đồng bằng sông Cửu Long. Công trình đã phát họa bức tranh tổng thể các dân tộc chủ yếu đang có mặt ở đồng bằng sông Cửu Long; đồng thời, đề cập đến khía cạnh của các vấn đề khoa học xã hội qua nhiều đợt điều tra nối tiếp nhau tại các vùng dân tộc Khmer từ cuối năm 1977 đến 1986 sẽ giúp ích cho chúng tôi nghiên cứu về tình hình trong vùng đồng bào dân tộc trước thời kỳ đổi mới; đồng thời ứng dụng cho việc vạch định chính sách và giải pháp phù hợp trong thời kỳ đổi mới. Nguyễn Khắc Cảnh (2000) “Các loại hình phum, sóc của người Khmer đồng bằng sông Cửu Long” [33], tác giả dựa trên những quan sát về các loại hình phum, sóc của người Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long đã đưa ra những nhận định về cấu trúc, tính chất, mối quan hệ xã hội của người Khmer Nam Bộ. Song song đó, với hai bài viết “Quá trình hình thành tộc người của người Khmer từ thế kỷ VI đến thế kỷ XIII” và “Sự hình thành cộng đồng người Khmer vùng ĐBSCL” trong “Văn hoá Nam Bộ trong không gian văn hoá Đông Nam Á” (2000), tác giả Nguyễn Khắc Cảnh đã làm rõ quá trình hình thành cộng đồng tộc người của người Khmer nhằm “đánh giá đúng những mối quan hệ mang tính tộc người, giữa bộ phận người Khmer ở Nam Bộ - Việt Nam và người Khmer ở Campuchia”. Với những nghiên cứu này giúp chúng tôi nhận diện mối quan hệ xã hội, các đặc trưng về văn hoá tộc người của người Khmer Nam Bộ. Đề tài khoa học: Truyền thống đấu tranh cách mạng của đồng bào Khmer Nam bộ dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam (1939-1975) [96], do cơ quan đặc trách công tác dân tộc ở Nam bộ thực hiện năm 2000-
  15. 10 2001 đã trình bày khá đầy đủ chi tiết các cuộc đấu tranh chống lại những bất công của đồng bào dân tộc Khmer; cũng như sự đoàn kết đấu tranh giữa các dân tộc công cư trong vùng nhằm chống lại giặc xâm lượt để bảo vệ quê hương, bảo vệ Tổ quốc từ khi có Đảng đến kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Năm 2002, tác giả Nguyễn Mạnh Cường viết về Vài nét về người Khmer Nam bộ [37] Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội. Công trình giới thiệu về người Khmer Nam bộ như một cộng đồng dân tộc trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam với nhiều cách tiếp cận: nhân học, dân tộc học, khảo cổ học, lịch sử, văn hóa và tôn giáo của người Khmer trong bối cảnh của Nam bộ. Thành công nhất của công trình là những tư liệu, ghi chép của tác giả về “văn hóa người Khmer Nam bộ”, tác giả giành nhiều trang viết về phong tục, tập quán, lễ hội, tâm lý lối sống đến các chùa, tranh tượng, nhạc cụ; ngoài ra, tác giả cũng phản ánh “vấn đề Phật giáo Khmer” mà giới nghiên cứu Phật giáo Việt Nam rất quan tâm. Song song đó, tác giả còn có công trình “Tôn giáo - Tín ngưỡng của các cư dân vùng đồng bằng sông Cửu Long”, Nxb. Phương Đông, 2004, Hà Nội; với 488 trang, 07 chương đã trình bày bức tranh tổng thể những nét cơ bản về các tộc người ở đồng bằng sông Cửu Long; cũng như về tôn giáo, tín ngưỡng của từng tộc người cụ thể. Tác giả Nguyễn Mạnh Cường và Nguyễn Minh Ngọc đã dành hai chương (II, III) để nói những vấn đề liên quan đến người Khmer, chương IV nói về người Chăm ở Châu Đốc, chương V, nói về người Hoa ở miền TNB và Chương V, nói về người Việt ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Nhìn chung, qua nội dung công trình các tác giả đánh giá được sự thay đổi và sự lớn mạnh không ngừng của vùng đồng bằng sông Cửu Long trong quá trình đổi mới và hội nhập của Việt Nam trên trường quốc tế. Người dân vùng đồng bằng sông Cửu Long đang hàng ngày, hàng giờ giàu mạnh hơn trước đây. Các dân tộc anh em cùng chung lưng đấu cật, đoàn kết với nhau
  16. 11 trong niềm tin vào đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước trên các mặt kinh tế, văn hóa- xã hội, chính trị, ngoại giao và an ninh quốc phòng nhằm chống lại các thế lực thù địch trên mọi mặt trận, nhất là mặt trận tư tưởng, tôn giáo, tín ngưỡng. Nội dung công trình đã góp phần tìm hiểu bản sắc văn hóa tộc người, tìm hiểu sâu hơn về quá trình tâm linh- hay đức tin- cái cốt lõi cho sự bảo tồn và phát triển văn hóa của các tộc người: Kinh, Khmer, Hoa, Chăm. Đây là tài liệu góp phần rất lớn cho các nhà quản lý nhà nước về công tác dân tộc, tôn giáo trong vùng TNB; hiểu hơn về đồng bào dân tộc và hiểu hơn về các tôn giáo tránh xảy ra các xung đột sắc tộc và xung đột tôn giáo như một số nước trong khu vực Đông Nam Á. Năm 2005, tác giả Đinh Lê Thư chủ biên sách “ Vấn đề giáo dục vùng đồng bào Khmer đồng bằng sông Cửu Long” [89], công trình dày 384, gồm 5 chương; trong đó chương 3 giới thiệu về “Giáo dục song ngữ và tình hình song ngữ Việt - Khmer ở đồng bằng song Cửu Long” và Chương 5 viết về “Vai trò nhà chùa trong hoạt động văn hóa - giáo dục ở vùng dân tộc Khmer Nam Bộ” tác giả giới thiệu các chức năng của chùa và tập trung đánh giá vai trò dạy học chữ Khmer và chữ Pali cho con em trong cộng đồng Khmer tại các điểm chùa Khmer ở Nam Bộ. Năm 2006, Ủy ban Dân tộc thực hiện dự án “Điều tra cơ bản tình hình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc Khmer Nam Bộ năm 2006” [97] do Cơ quan Thường trực khu vực đồng bằng sông Cửu Long thực hiện - Phạm Văn Thới (chủ nhiệm). Nội dung kỷ yếu bằng tiếng Việt, dày 221 trang; nội dung của dự án được triển khai thực hiện gồm 4 chuyên đề: (1) Tác dụng, hiệu quả của Chương trình 135; (2) Thực trạng và những vấn đề đặt ra đối với các xã thuộc Chương trình 135 giai đoạn II ở vùng dân tộc Khmer Nam Bộ; (3) Các giải pháp để phát huy hiệu quả giai đoạn I và thực hiện tốt giai đoạn II Chương trình 135 ở vùng dân tộc
  17. 12 Khmer Nam Bộ; (4) Đề xuất chính sách và giải pháp mạng tính bức phá cho các xã đặc biệt khó khăn vùng dân tộc Khmer Nam Bộ. Ngoài ra, trong kỷ yếu có nhiều bài báo cáo tham luận của các cơ quan làm công tác dân tộc ở Nam Bộ đã khái quát được tình hình phát kinh tế xã hội vùng đồng bào Khmer của từng địa phương tại thời điểm năm 2006; qua đó, đặt ra những vấn đề khó khăn, hạn chế trong việc thực hiện triển khai thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở Nam Bộ cần giải quyết; đồng thời, đưa ra những giải pháp và kiến nghị nhằm thực hiện tốt hơn chủ trương, chính sách đối với vùng đồng bào dân tộc Khmer. Năm 2007, Luận án Chuyên ngành Lịch sử “Quá trình thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo của Đảng và Nhà nước trong cộng đồng người Khmer tại đồng bằng sông Cửu Long 1992-2002”, Học viện Khoa học Xã hội vùng Nam Bộ, thành phố Hồ Chí Minh, bằng tiếng Việt, dày 216 trang. Tác giả Nguyễn Hoàng Sơn [86] đã khái quát được đặc điểm kinh tế - văn hóa - xã hội truyền thống của cộng đồng người Khmer đồng bằng sông Cửu Long; qua đó tác giả phân tích được tính chất đặc thù về thực trạng, đặc điểm, nguyên nhân dẫn đến nghèo đói của người Khmer đồng bằng sông Cửu Long; hệ thống hóa các kết quả đã đạt được, rút ra thành tựu, kinh nghiệm và những vấn đề đặt ra; đồng thời kiến nghị các giải pháp thực hiện nhằm góp phần xóa đói giảm nghèo trong vùng đồng bào dân tộc Khmer. Đặc biệt, năm 2009, tác giả Phan An có sách “Dân tộc Khmer Nam Bộ” [2] Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, công trình dày 188 trang của giúp chúng tôi hiểu thêm về lịch sử, thực trạng đời sống kinh tế xã hội, bản sắc văn hóa dân tộc của cộng đồng cư dân Khmer tại đồng bằng sông Cửu Long; bên cạnh đó, tài liệu còn giới thiệu về điều kiện địa lý, dân cư và đặc biệt là những sinh hoạt văn hóa giàu bản sắc của cư dân Khmer và các dân
  18. 13 tộc trong đại gia đình dân tộc đang sinh sống cộng cư. Đồng thời, tác giả cũng đưa ra những dự báo về sự phát triển đời sống chính trị, kinh tế, xã hội của đồng bào Khmer trong tương lai nhằm giúp cho các bộ, ban, ngành, các đơn vị làm công tác dân tộc từ địa phương đến trung ương có những ứng dụng để đưa ra các giải pháp phù hợp với đặc điểm, tình hình trong cộng đồng dân tộc Khmer vùng TNB. Năm 2012, trong sách “Văn hóa Khmer Nam bộ - Nét đẹp trong bản sắc văn hóa Việt Nam” của tác giả Phạm Thị Phương Hạnh [54], công trình dày 328 trang, tác giả đã khái quát được một số nét về người Khmer Nam Bộ; đồng thời giới thiệu được nét văn hóa đặc trưng của người Khmer Nam bộ gồm cả văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần; đồng thời, đưa ra một số giải pháp nhằm phát huy nét đẹp, những mặt tích cực, những tiềm năng, thế mạnh của dân tộc Khmer trong sự phát triển chung của cộng đồng các dân tộc Việt Nam trong thời kỳ phát triển mới của đất nước. Ngoài ra, các tác giả còn sư tầm những hình ảnh, tư liệu làm nổi bật hơn nét đặc sắc, những thành tự đã đạt được của đồng bào Khmer trong thời gian qua, nhất là về mặt văn hóa; từ đó khẳng định sự quan tâm, chăm sóc và tạo điều kiện của Đảng và Nhà nước đối với sự phát triển mọi mặt của đồng bào Khmer Nam Bộ. Năm 2015, Luận án chuyên ngành Nhân học “Quan hệ tộc người của người Khmer ở hai bên biên giới Việt Nam - Campuchia (khu vực Tây Nam Bộ)” Học viện Khoa học Xã hội, Hà Nội, công trình dày 145 trang [82]. Tác giả Nguyễn Thuận Quý đã phân tích mối quan hệ của người Khmer ở khu vực biên giới TNB qua các mối quan hệ trong lĩnh vực của đời sống xã hội. Đồng thời, phân tích ý thức và hành động của người Khmer đối với quốc gia - Tổ quốc Việt Nam. Tuy nhiên, với đặc trưng đa tộc người, đa tôn giáo thì vùng đất TNB vẫn còn nhiều nguy cơ mất ổn định do nhiều nguyên nhân khác nhau mang tính chủ quan và khách quan. Đồng thời, tác giả cũng đã đưa ra một số
  19. 14 kiến nghị đề xuất những giải pháp nhằm góp phần cho công tác quản lý nhà nước về công tác dân tộc được hiểu quả hơn. 1.1.2. Nhóm công trình liên quan đến Phật giáo Nam tông Khmer Đề tài khoa học cấp bộ (1999-2000), “Vai trò của chùa Khmer đối với đời sống văn hóa của đồng bào Khmer Nam Bộ“ của Ủy ban Dân tộc và Miền núi cơ quan đặc trách công tác dân tộc ở Nam Bộ do Sơn Phước Hoan (chủ nhiệm) [95]; công trình bằng tiếng Việt, tuy dày chỉ 64 trang nhưng nhóm tác giả đã trình bày khái quát được thực trạng về đời sống xã hội trong cộng đồng người Khmer đến năm 2000; khái quát đặc điểm về Phật giáo, trong đó phân tích khá sâu về vai trò của PGNT đối với đời sống tinh thần của cộng đồng Khmer Nam Bộ. Song song đó, nhóm tác giả tập trung phân tích vai trò của chùa đối với đời sống văn hóa của người Khmer; công trình có đề ra một số kiến nghị nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và tiếp tục phát huy vai trò của chùa đối với đời sống văn hóa của người Khmer Nam Bộ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Năm 2000, tác giả Trần Hồng Liên xuất bản tác phẩm Đạo Phật trong cộng đồng người Việt ở Nam bộ - Việt Nam (Từ thế kỷ XVII đến 1975), Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội [65]. Tác phẩm trình bày tìm hiểu tiến trình phát triển của lịch sử Phật giáo tại vùng đất mới, vai trò của đạo Phật trong đời sống văn hóa - xã hội của người Việt, làm rõ được tính địa phương và tính dân tộc của Phật giáo Nam bộ, những đóng góp của PGNT và Bắc tông trong Phật giáo Việt Nam. Bên cạnh đó có so sánh một số nét cơ bản của PGNT trong người Việt và người Khmer, mối quan hệ qua lại giữa văn hóa Phật giáo của ba dân tộc Kinh, Khmer, Hoa ở Nam bộ. Song song đó, tác giả còn đi sâu nghiên cứu đối với các hình thức thực hành tôn giáo của các tôn giáo này. Năm 2004, Kỷ yếu hội thảo “Xây dựng đời sống văn hoá vùng dân tộc Khmer Nam Bộ” [109] do Vụ Văn hoá dân tộc tổ chức tại Hà Nội, tập hợp
  20. 15 các bài viết xoay quanh thực trạng xây dựng đời sống văn hoá cho vùng dân tộc Khmer trong giai đoạn hiện nay và các giải pháp mới. Trong đó có một số bài viết liên quan đến đề tài là “Để hiểu sâu thêm về Pháp (Dharma), một trong “Tam pháp báo” của Phật giáo Theravada của người Khmer Nam Bộ” của Ngô Văn Doanh. “Đạo Phật Tiểu thừa Khmer Nam Bộ ở vùng nông thôn đồng bằng sông Cửu Long:Chức năng xã hội truyền thống và động thái xã hội” của Nguyễn Xuân Nghĩa, “Ảnh hưởng của Phật giáo Theravada trong tang ma người Khmer Nam Bộ” của Nguyễn Mạnh Cường. Đây là nguồn tư liệu quan trọng để chúng tôi nghiên cứu về vai trò của tu sĩ PGNTK trong đời sống xã hội. Tuy nhiên, hạn chế của các bài viết là thiếu tính thực tiễn trong khi nghiên cứu do các nhà nghiên cứu còn chưa có điều kiện xâm nhập thực tế ở các vùng có đông đồng bào dân tộc Khmer. Năm 2008, tác giả Nguyễn Mạnh Cường đã xuất bản công trình: Phật giáo Khmer Nam bộ (Những vấn đề nhìn lại), Nxb. Tôn giáo, Hà Nội [36]. Công trình bằng tiếng việt, dày 310 trang, đây là chuyên đề nghiên cứu sâu về đồng bào dân tộc Khmer, mô tả đời sống tinh thần của người Khmer Nam Bộ gắn liền với PGNT, những định hướng và những đề xuất các chủ trương, chính sách phù hợp với tâm tư, nguyện vọng với người Khmer. Trong công trình này, tác giả đã nêu lịch sử hình thành và phát triển vùng đồng bằng sông Cửu Long, quá trình hình thành người Khmer ở Nam bộ, sự hình thành người Khmer khu vực Đông Nam Á, người Khmer ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, mối quan hệ giữa người Môn với người Khmer. Công trình khoa học của Nguyễn Tiến Dũng (2014) "Phật giáo Nam tông với đời sống tinh thần của người Khmer Nam bộ trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay" [40]. Qua nghiên cứu cho thấy, tác giả đã phân tích và đánh giá khá toàn diện những mặt tồn tại của PGNT trong đời sống xã hội của người
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2