intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án Tiến sĩ Triết học: Nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn cho cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện là người dân tộc thiểu số ở tỉnh Hà Giang hiện nay

Chia sẻ: Vinh Le | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:222

76
lượt xem
10
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận án bao gồm 3 chương: năng lực tổ chức thực tiễn cho cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện người dân tộc thiểu số, một số vấn đề lý luận; năng lực tổ chức thực tiễn của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện người dân tộc thiểu số, thực trạng và những vấn đề đặt ra; một số quan điểm và giải pháp nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn cho cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện người dân tộc thiểu số ở tỉnh Hà Giang hiện nay.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ Triết học: Nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn cho cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện là người dân tộc thiểu số ở tỉnh Hà Giang hiện nay

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN NGUYỄN HOÀNG HƯNG NÂNG CAO NĂNG LỰC TỔ CHỨC THỰC TIỄN CHO  CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CẤP HUYỆN LÀ NGƯỜI  DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở TỈNH HÀ GIANG HIỆN NAY Chuyên ngành: Triết học Mã số: 9229001 LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC Người hướng dẫn khoa học: 1.  PGS.TS Hoàng  Đình Cúc                 2. PGS.TS  Hoàng Anh
  2.                                   HÀ NỘI ­ 2018
  3. LỜI  CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.   Các kết quả  nghiên cứu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc   xuất xứ  rõ ràng và chưa từng được ai công bố  trong bất kỳ  công   trình khoa học nào. Tác giả luận án Nguyễn Hoàng Hưng
  4.                                       LỜI CẢM ƠN Trong quá trình nghiên cứu luận án tiến sĩ với đề tài: “Nâng cao năng lực tổ  chức thực tiễn cho cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện là người dân tộc thiểu số ở  tỉnh Hà Giang hiện nay” tác giả luận án xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với hai  thầy cô  PGS. TS. Hoàng Đình Cúc và PGS.TS Hoàng Anh đã trực tiếp hướng  dẫn, truyền đạt kiến thức, kinh nghiệm cho tôi trong suốt quá trình thực hiện luận  án này. Tác giả  xin chân thành cảm  ơn Ban Giám đốc Học viện Báo chí và  Tuyên truyền, Khoa Triết học, cảm  ơn tập thể  các nhà khoa học tại Khoa   Triết học đã đóng góp những ý kiến quý báu để  tôi hoàn thiện luận án này,  cảm ơn Phòng Quan ly khoa h ̉ ́ ọc và Phòng Đào tạo sau Đại học đã giúp đỡ tôi  về thủ tục hành chính trong quá trình tôi học tập và bảo vệ luận án. Tôi xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, ngày   tháng   năm 2018 Tác giả Nguyễn Hoàng Hưng
  5. MUC LUC ̣ ̣  1. Lý do chọn đề tài                                                                                                                            ........................................................................................................................      1  2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu                                                                                               ..........................................................................................      3  2.1. Mục đích nghiên cứu                                                                                                                                  ..............................................................................................................................      3  4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu                                                                                 ............................................................................      4 Trên quan điểm duy vật biện chứng, duy vật lịch sử khi nghiên cứu vấn đề nâng   cao năng lực tổ chức thực tiễn, luận án đã tiếp cận  về lý luận năng lực và năng  lực tổ chức thực tiễn của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện nói chung và cán bộ  lãnh đạo, quản lý cấp huyện người DTTS tỉnh Hà Giang nói riêng. Năng lực tổ  chức thực tiễn của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện người DTTS là tổng hòa  các yếu tố hợp thành khả năng hoạt động theo chức trách, nhiệm vụ  của họ,…;  góp phần xây dựng đảng và chính quyền cấp huyện trong sạch, vững mạnh toàn    diện trong bối cảnh hiện nay.                                                                                   ...............................................................................       59 PHỤ LỤC
  6.                                             DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT LĐ, QL                             Lãnh đạo, quản lý         DTTS                             Dân tộc thiểu số CNXH                             Chủ nghĩa xã hội BCH                             Ban chấp hành BTV                             Ban Thường vụ TDLL                             Tư duy lý luận DVBC                             Duy vật biện chứng
  7. 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Vấn đề nâng cao năng lực tổ chức thức tiễn  cho cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp  huyện người DTTS trong những năm qua đã được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan   tâm, đã có nhiều chính sách, dự án đầu tư phát triển kinh tế ­ xã hội đối với miền   núi biên giới phía Bắc nói chung và tỉnh Hà Giang nói riêng.  Các chính sách, dự  án  đó đã từng bước đem lại những kết quả tích cực, làm chuyển biến nhiều mặt kinh  tế ­ xã hội tại địa phương. Bên cạnh những kết quả đã đạt được, tỉnh Hà Giang vẫn  còn là một tỉnh nghèo, chậm phát triển, chưa tương xứng với yêu cầu của thời kỳ  công nghiệp hoá, hiện đại hoá, giữa DTTS và đa số. Từ  đó đã ảnh hưởng tiêu cực  không chỉ đối với bản thân các dân tộc tỉnh Hà Giang mà còn tác động tới cục diện   của cả nước ­ nơi có vị trí chiến lược rất quan trọng trên các mặt kinh tế, chính trị,   xã hội, an ninh, quốc phòng. Do vậy tôi chọn đề  tài: "Nâng cao năng lực tổ chức   thực tiễn cho cán bộ  lãnh đạo, quản lý cấp huyện là người dân tộc thiểu số ở   tỉnh Hà Giang hiện nay” nghiên cứu trong luận án, xuất phát từ những lý do sau: Thứ nhất, công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và   lãnh đạo đã và đang đạt được những thành tựu quan trọng, tạo tiền đề  đưa đất  nước bước sang thời kỳ  mới đầy triển vọng. Thực tiễn hơn 30 năm đổi mới đã   chứng minh sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng   Việt Nam. Song bên cạnh đó, cũng cho thấy việc tổ  chức thực tiễn và thực hiện   đường lối, chủ  trương, chính sách của Đảng vẫn còn nhiều hạn chế  khiến cho   đường lối, nghị  quyết của  Đảng chậm  đi vào cuộc sống. Nghị  quyết  Đại hội   Đảng lần thứ  XII của Đảng đã chỉ  rõ:“Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chiến lược   cán bộ  thời kỳ  đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Thể  chế  hóa   các nguyên tắc về… quan hệ giữa đường lối chính trị và đường lối cán bộ.”[42, tr  205]. Nhận thức được tầm quan trọng của công tác cán bộ, nhất là cán bộ  DTTS,   những năm qua, Đảng, Nhà nước đã đề  ra nhiều chủ  trương, giải pháp để  tạo   nguồn, đào tạo, bồi dưỡng, bố  trí sử  dụng và thực hiện chính sách cán bộ  DTTS  phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ mỗi giai đoạn. Đó là những bước đi tích cực góp   phần mang lại hiệu quả thiết thực cho việc xây dựng đội ngũ cán bộ DTTS. Bên cạnh đó, đường lối, chủ  trương đúng đắn đến mấy cũng khó đi vào   cuộc sống và triển khai trong thực tiễn nếu thiếu một đội ngũ cán bộ  có phẩm   chất, năng lực, biết tổ  chức thực hiện đường lối, chủ  trương hiệu quả  và sáng  tạo. Vì vậy, nâng cao năng lực tổ  chức thực tiễn cho đội ngũ cán bộ  lãnh đạo,   quản lý có vai trò vô cùng quan trọng đối với tiến trình phát triển của đất nước nói  chung, tỉnh Hà Giang nói riêng. Trong điều kiện hiện nay, vấn đề nâng cao năng lực   tổ chức thực tiễn là một đòi hỏi khách quan đối với cán bộ lãnh đạo ở các cấp, trong 
  8. 2 đó có trách nhiệm của cấp huyện. Tuy nhiên, trong quá trình đổi mới và phát triển,  đội ngũ cán bộ  lãnh đạo, quản lý cấp huyện người DTTS  ở  tỉnh Hà Giang còn  nhiều hạn chế, bất cập. Thứ  hai, công tác cán bộ luôn được Đảng ta coi trọng, trong văn kiện các kỳ  Đại hội Đảng toàn quốc, Đảng ta luôn xác định đây là một nhiệm vụ quan trọng hàng  đầu. Xuất phát quan điểm tư  tưởng cán bộ  là nhân tố  quyết định sự  thành bại của   cách mạng, là gốc của mọi công việc. Công việc thành hay bại đều do cán bộ tốt hay   kém, đây là chân lý, là kim chỉ nam cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân   ta. Tuy nhiên,  chất lượng của đội ngũ cán bộ  lãnh đạo, quản lý cấp huyện nói  chung, cán bộ người DTTS nói riêng còn chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ của   thời kỳ  mới. Thực tế  chỉ  ra rằng, cho dù các huyện vùng cao biên giới đã được  Đảng và Nhà nước ưu tiên đầu tư phát triển kinh tế ­ xã hội, nhưng đội ngũ cán bộ  không đủ  khả  năng tổ  chức thực hiện dự  án, hiệu quả  chưa đạt được như  mong  muốn, thậm chí có nơi còn bị  biến dạng trong quá trình vận hành. Chính vì vậy,   việc xây dựng một đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện người DTTS, nhất   là nâng cao năng lực tổ  chức thực tiễn, có một ý nghĩa quan trọng trên cả  phương   diện lý luận và thực tiễn.  Thứ ba, Hà Giang là một  tỉnh  mà  người DTTS chiếm đa số, năng lực tổ chức   thực tiễn của cán bộ lãnh đạo, quản lý người địa phương có những hạn chế nhất định;  nhiều chỉ thị, nghị quyết, kết luận đã quán triệt nhưng khi triển khai thực hiện chưa đạt   mục tiêu, còn lúng túng, chậm trễ trong khâu triển khai, một số dự án cấp huyện, cấp  tỉnh thiếu tính khả thi dẫn đến kém hiệu quả, chưa vận dụng sáng tạo các chủ trương,   chính sách của Đảng vào quản lý xã hội, thiếu hướng  đi và giải pháp then chốt trong  phát triển kinh tế ­ xã hội; phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, yêu cầu của thời  kỳ đổi mới, chưa đảm bảo rút ngắn trình độ phát triển giữa miền xuôi và miền ngược,  giữa người DTTS và đa số.  Để chăm lo đời sống cho đồng bào, xây dựng biên giới vững mạnh, đủ khả năng  làm “phên dậu” vững chắc của tổ quốc, mở rộng quan hệ với nước láng giềng trong  tình hình mới…thì cần phải tổ chức tốt bộ máy tốt, có đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý  người DTTS vững mạnh, đủ phẩm chất và năng lực tương xứng, đáp ứng yêu cầu thực  tiễn đặt ra, đồng thời nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn cho họ có ý nghĩa then chốt,   bởi lẽ nghị quyết của Đảng có đi vào cuộc sống và trở thành hiện thực hay không, một   phần rất quan trọng tùy thuộc vào đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý DTTS cấp huyện.   Vai trò của họ to lớn trong việc tổ chức, vận động nhân dân thực hiện đường lối, chính  sách của Đảng, pháp luật Nhà nước, tăng cường đoàn kết giữa các dân tộc, huy động tối   đa mọi nguồn lực, phát huy khả năng phát triển kinh tế ­ xã hội, tổ chức cuộc sống của  đồng bào các dân tộc. 
  9. 3 Thứ  tư, công tác cán bộ  nói chung và từng khâu của công tác cán bộ  DTTS   còn nhiều hạn chế, bất cập, chưa đạt mục tiêu đề  ra và chưa đáp  ứng yêu cầu  nhiệm vụ trong tổ chức thực tiễn của tình hình mới, tình trạng mang tính phổ biến  là chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ dẫn tới yếu kém trong lãnh đạo, quản lý; tổ  chức và phối hợp hoạt động, chưa tận dụng và phát huy hết vai trò, trách nhiệm của  mình; hoạt động còn quan liêu, nặng về hình thức, bỡ ngỡ, lúng túng, thiếu chủ động;  năng lực điều hành, trình độ tổ chức thực tiễn nhìn chung còn chưa đáp ứng được yêu   cầu. Có lúc, có nơi còn buông lỏng sự lãnh đạo, vi phạm dân chủ, làm trái, hiểu sai  chính sách, pháp luật của Nhà nước, khiến cho đồng bào các dân tộc bức xúc…; thực   tế trên và giai đoạn phát triển mới đòi hỏi cần có những thay đổi rõ nét hơn và đặt ra   yêu cầu cấp bách về nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn cho cán bộ lãnh đạo, quản   lý cấp huyện người DTTS ở tỉnh Hà Giang.  Do vậy, việc nghiên cứu, đánh giá thực trạng, tổng kết một cách sâu sắc, từ đó   rút ra những vấn đề cần giải quyết, đưa ra một số quan điểm và giải pháp nhằm nâng  cao năng lực tổ chức thực tiễn cho cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện người DTTS  phù hợp với yêu cầu quá trình đổi mới  ở tỉnh Hà Giang góp phần trực tiếp thúc đẩy   phát triển kinh tế ­ xã hội, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, hiệu quả công tác xây  dựng đảng và quản lý nhà nước ở tỉnh Hà Giang hiện nay. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu  2.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và phân tích thực trạng năng lực tổ  chức thực tiễn của cán bộ  lãnh đạo, quản lý cấp huyện người DTTS  ở  tỉnh Hà   Giang, luận án đề xuất một số quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao năng lực tổ  chức thực tiễn cho cán bộ lãnh đạo, quản lý người DTTS ở tỉnh Hà Giang, góp phần  nâng cao hiệu quả hoạt động lãnh đạo, quản lý, phát triển kinh tế  ­ xã hội tỉnh Hà  Giang trong giai đoạn hiện nay. 2.1. Nhiệm vụ Tổng quan tình hình nghiên cứu và trình bày những vấn vấn đề  mà luận án   tiếp tục nghiên cứu. ­ Làm rõ một số  vấn đề  lý luận về  năng lực tổ  chức thực tiễn cho cán bộ  lãnh đạo, quản lý cấp huyện người DTTS. ­ Khảo sát, đánh giá thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân của những thành tựu, hạn  chế và những vấn đề  đặt ra đối với năng lực tổ chức thực tiễn của cán bộ lãnh đạo,  quản lý cấp huyện người DTTS ở tỉnh Hà Giang hiện nay. ­ Đề  xuất một số  quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao năng lực tổ  chức   thực tiễn cho cán bộ  lãnh đạo, quản lý cấp huyện người DTTS  ở  tỉnh Hà Giang  trong giai đoạn hiện nay. 
  10. 4 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án 3.1. Đối tượng nghiên cứu Luận án nghiên cứu năng lực tổ chức thực tiễn cho cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp  huyện là người DTTS ở tỉnh Hà Giang. 3.2. Phạm vi nghiên cứu ­ Nghiên cứu năng lực tổ  chức thực tiễn của đội ngũ cán bộ  lãnh đạo, quản   lý cấp huyện người DTTS  ở  tỉnh Hà Giang trong thời gian từ  năm 2005 đến 2016   (1).  ­ Phạm vi, địa bàn để khảo sát thực tế là các huyện của tỉnh Hà Giang (Thành   phố  Hà Giang, huyện Bắc Quang, Vị Xuyên, Quang Bình, Xín Mần, Hoàng Su Phì,  Bắc   Mê,   Quản   Bạ,   Yên   Minh,   Đồng   Văn,   Mèo   Vạc   và   các   ban,   ngành   tương   tương). 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu  4.1. Cơ sở lý luận Cơ sở lý luận của luận án là những quan điểm của chủ nghĩa Mác ­ Lênin, tư  tưởng Hồ  Chí Minh và những quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về  con   người, về chính sách dân tộc, về năng lực tổ chức thực tiễn của người cán bộ  nói   chung và cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện người DTTS nói riêng. Luận án cũng  kế thừa kết quả của các công trình đã nghiên cứu về vấn đề này. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Luận án sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử;   đồng thời sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phân tích và tổng hợp,  lịch sử và lôgíc, phương pháp chuyên gia, thống kê, khảo sát, điều tra xã hội học… 5. Những đóng góp mới về mặt khoa học  ­ Nghiên cứu lý luận và làm sáng tỏ thêm một số nội dung cơ bản  về năng lực  và năng lực tổ chức thực tiễn cho cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện người DTTS. ­  Trình bày những vấn đề đặt ra trong   quá trình năng lực tổ chức thực tiễn của  đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện người DTTS ở tỉnh Hà Giang hiện nay.    ­ Đề xuất một số quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao năng lực tổ chức thực   tiễn cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện người DTTS ở tỉnh Hà Giang hiện  nay. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án ­ Góp phần làm rõ hơn vấn đề  liên quan năng lực tổ  chức thực tiễn và vấn   đề liên quan đến nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo,  quản lý cấp huyện người DTTS. 1 Lý do chúng tôi chọn mốc thời gian năm 2005 đến 2016  vì:  (Tính theo thời điểm hai nhiệm kỳ Đại hội lần thứ  XIV đến Đại hội lần thứ XV của Đảng bộ tỉnh để căn cứ khảo sát đánh giá thực trạng).
  11. 5  ­ Đặc điểm việc nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn cho cán bộ lãnh đạo, quản  lý cấp huyện người DTTS và các nhân tố tác động đến năng lực tổ chức thực tiễn ở họ. ­ Luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho việc xây dựng, hoạch định chiến  lược, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện nói chung,   cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện người DTTS ở tỉnh Hà Giang nói riêng; làm tài   liệu phục vụ công tác nghiên cứu, giảng dạy tại các Trung tâm Bồi dưỡng chính trị  huyện, Trường Chính trị tỉnh, thành phố trong cả nước, đặc biệt là ở tỉnh Hà Giang. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, tổng quan tình hình nghiên cứu, kết luận, tài liệu tham  khảo, phụ lục, luận án gồm 3 chương 10 tiết.
  12. 6  TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU  CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN Vấn đề  nâng cao năng lực tổ  chức thực tiễn cho cán bộ  lãnh đạo, quản lý  luôn dành được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, trong đó coi công tác cán bộ là  nhiệm vụ quan trọng hàng đầu với mục tiêu phấn đấu để đội ngũ cán bộ lãnh đạo,  quản lý các cấp ngang tầm với nhiệm vụ cách mạng hiện nay, đồng thời nội dung  này cũng được nhiều nhà khoa học quan tâm, nghiên cứu dưới nhiều góc độ. Trong những năm gần đây, đã có nhiều công trình nghiên cứu về năng lực tổ  chức thực tiễn và đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực cho cán bộ lãnh đạo, quản   lý  nói chung, cán bộ  lãnh đạo, quản lý người DTTS nói riêng, các công trình khoa  học này đề cập trên các phương diện cơ sở lý luận, thực trạng và giải pháp đối với  nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn cho cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện người   DTTS. 1. Các công trình nghiên cứu về năng lực tổ  chức thực tiễn của  cán bộ  lãnh đạo, quản lý 1.1. Các công trình liên quan đến năng lực Trong cuốn:  Khái niệm lãnh đạo và quản lý   của X.V.Angesle và Thietart  [193] và cuốn: Lao động của người lãnh đạo, quản lý  của tác giả  V.G.A­ Pha­na­ xép [187]. Cuốn: Mấy vấn đề về tổ chức thực tiễn của Nguyễn Đức Bình [8]. Nội  dung phản ánh và phân tích một số mặt trọng yếu trong công tác tổ chức thực tiễn  như ra quyết định, xây dựng phong trào cách mạng của quần chúng, phong cách làm  việc Lênin­nít, tổng kết kinh nghiệm và sử dụng kinh nghiệm. Tâm lý học quản lý dành cho người lãnh đạo của tác giả Nguyễn Bá Dương  (chủ biên) [21], trình bày khá đầy đủ  và sâu sắc về ý nghĩa và tầm quan trọng của  tâm lý học quản lý, khẳng định đây là một nội dung cơ bản của năng lực lãnh đạo,  quản lý của người cán bộ lãnh đạo, quản lý hiện nay.  Phát huy tính tích cực đội ngũ cán bộ  trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp   hóa, hiện đại hóa đất nước của tác giả  Nguyễn Văn Tài [137]. Xác lập hệ  thống  các khái niệm cơ  bản, phân tích nội dung và những động lực cơ bản phát huy tính   tích cực xã hội của năng lực ở đội ngũ cán bộ nước ta hiện nay.  Bản lĩnh chính trị với năng lực của cán bộ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống   chính trị ở nước ta hiện nay của các tác giả: Hoàng Hải Bằng, Nguyễn Văn Huyên,  Nguyễn Ngọc Long, Trần Phúc Thăng, Trần Thành [7]. Các tác giả đã tập trung vào   những vấn đề như: Phân tích quan điểm mác­xít về mối quan hệ giữa xã hội và con 
  13. 7 người với tính cách là nguyên tắc phương pháp luận và vai trò nền tảng của việc  xem xét những điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan trong xây dựng con người   mới nói chung và con người Việt Nam nói riêng; về định hướng con đường và biện   pháp xây dựng con người mới; tư  tưởng Hồ  Chí Minh về  đạo đức người cán bộ  lãnh đạo, quản lý; phân tích tính tất yếu khách quan của việc tăng cường tu dưỡng,   rèn luyện đạo đức cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý trong giai đoạn cách mạng  mới. Đồng thời, cuốn  sách trên còn trình bày khái quát cơ sở lý luận của tư tưởng Hồ  Chí Minh về phát triển con người toàn diện, những vấn đề đặt ra trong thực tiễn phát  triển con người Việt Nam  thời kỳ mới; hệ thống hóa các khái niệm con người. Phân   tích bản chất và những đặc điểm tư duy biện chứng, vai trò của nó đối với cán bộ lãnh   đạo, quản lý kinh tế ở nước ta; thực trạng, yêu cầu và một số giải pháp cơ bản nhằm   nâng cao năng lực trình độ tư duy biện chứng của cán bộ lãnh đạo quản lý; làm rõ vai  trò mối quan hệ biện chứng giữa tư duy lý luận và năng lực tổ chức thực tiễn đối với   hoạt động lãnh đạo của cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp; phân tích nhân tố chủ quan  và vai trò của nó trong hoạt động của hệ thống chính trị cấp cơ sở. Các tạp chí đã đăng tải nội dung liên quan đến năng lực tổ  chức thực tiễn:  Bài viết “Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp, trước hết là người đứng đầu”,  [77] của Chu Văn Ky; bài viết “Nâng cao trình độ năng lực quản lý của cán bộ chủ  chốt hiện nay”[189] của Hồ Văn Vĩnh; bài viết: “Tiếp tục đổi mới và nâng cao chất  lượng đào tạo đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý đáp ứng yêu cầu cách mạng mới” [82]   của Vũ Nhật Khải ; bài viết “Nâng cao năng lực tổng kết thực tiễn của đội ngũ cán  bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp tỉnh” [121] của Trần Văn Phòng; bài viết  “Vị trí,  vai trò của cán bộ, công chức nhà nước trong sự nghiệp đổi mới”[98] của Nguyễn  Đức Mạnh. Những công trình khoa học trên đây đã nêu quan niệm năng lực của người  lãnh đạo, quản lý trên lập trường duy vật biện chứng, chỉ rõ năng lực tổ chức thực   tiễn bao gồm những yếu tố như: Năng lực tổ  chức, kết quả công việc của người  cán bộ, mức độ  hoàn thành nhiệm vụ…; năng lực còn thể  hiện trên phương diện  như: Tiết kiệm thời gian, hao phí ít sức lực, của cải, lực lượng vật chất và đem lại   kết quả cao, năng lực tổ chức, cá nhân cần phải có kinh nghiệm quản lý, điều hành   một công việc cụ thể. Năng lực của cán bộ  lãnh đạo, quản lý thể  hiện tri thức, trí   tuệ đã được lĩnh hội trong học tập, thực tiễn, có tư duy sáng tạo và khả  năng hoàn   thành tốt nhiệm vụ, hội tụ những phẩm chất thông minh, khả năng “nhìn xa, trông  rộng” dự báo và phân tích được tình hình, thực trạng sự vật, hiện tượng để hoạch  định cho mình các bước đi trong tương lai,   khả  năng phản  ứng nhanh nhạy “khôn 
  14. 8 ngoan” trước các diễn biến của tình hình, nhạy bén trong nắm bắt và khai thác cơ hội;  khả năng ứng phó linh hoạt, sáng tạo, dám đương đầu với những đòi hỏi cấp bách nảy  sinh trong lãnh đạo, quản lý; phát hiện kịp thời xử lý các tình huống tại cơ quan, đơn   vị, địa phương. C. Mác và Ph. Ăngghen rất coi trọng các giá trị thực tiễn, chính nhờ thực tiễn mà  con người mới trưởng thành, tư  tưởng cách mạng của con người phải gắn với thực   tiễn, không thể tách rời thực tiễn,  C. Mác đã viết: “ Muốn thực hiện tư tưởng thì cần   có những con người sử dụng lực lượng thực tiễn”[14] . Trong quá trình lãnh đạo cách mạng của của mình, V.I. Lê­nin thường xuyên   coi việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ là công việc quan trọng của Đảng, công tác cán   bộ  cần chú ý đến khâu đào tạo, bố  trí, bồi dưỡng và rèn luyện cán bộ  trong thực  tiễn. Người đã coi trọng tiêu chuẩn hàng đầu trong xây dựng đội ngũ cán bộ  cách  mạng là rất cần thiết như: Coi trọng năng lực chuyên môn, giác ngộ  chính trị, có  kinh nghiệm lãnh đạo, quản lý, gần gũi, gắn bó, chia sẻ với cấp dưới và công việc  của tập thể. Khi đề cập đến những yêu cầu quan trọng không thể thiếu của người  lãnh đạo, quản lý chính là năng lực chuyên môn, Lênin cho rằng:  “Không phải bẩm   sinh ra là con người đã có được nghệ  thuật quản lý rồi, mà phải trải qua kinh   nghiệm mới có được”  [185,tr 216]. Đề  cao đánh giá năng lực thực tế  của cán bộ  không được chủ  quan, cảm tính mà phải dựa vào thực tiễn lãnh đạo, quản lý của  họ. Đây chính là tư tưởng đúng đắn và khoa học về đạo tạo, bồi dưỡng, rèn luyện   đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý của V.I. Lênin áp dụng trong xây dựng Nhà nước  Xô­viết. Những quan điểm của V.I.Lênin đối với việc lựa chọn về  năng lực cán bộ  cách mạng rất cần chặt chẽ, phải có sự lựa chọn, kiểm tra cán bộ và xây dựng đội  ngũ cán bộ cho Nhà nước chuyên chính vô sản, đấu tranh chống tệ quan liêu, tham   nhũng trong cán bộ để làm trong sạch bộ máy Nhà nước là một tất yếu khách quan. Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” nội dung viết nhiều về cán bộ  cách  mạng, trong đó Hồ  Chí Minh nêu rõ các yêu cầu về  phẩm chất, năng lực của cán  bộ. Người căn dặn và nhấn mạnh trong nội dung của chữ Tài: Một là, phải có trình  độ  hiểu biết lý luận của chủ  nghĩa Mác­Lênin;  hai là,  nghiên cứu, học tập chủ  nghĩa Mác ­ Lênin là học tập cái tinh thần xử trí mọi công việc, phải cụ thể hóa chủ  nghĩa Mác ­ Lênin cho phù hợp với đặc điểm, hoàn cảnh từng nơi, từng lúc, không  được rập khuôn máy móc, giáo điều; ba là, sử  dụng nhân lực vào đúng việc, phù  hợp khả  năng và sở  trường, xuất phát từ  công việc, chức năng nhiệm vụ  mà đặt  người chứ không phải từ người mà đặt việc; bốn là, cần phải có trình độ văn hóa, 
  15. 9 trình độ khoa học kỹ thuật, trình độ quản lý và tổ chức. Đối với cán bộ cấp cơ sở, là đội ngũ cán bộ  triển khai, thực hiện đường lối,   chủ trương của Đảng đến tận nông thôn, miền núi là cán bộ sống ở địa phương đó,  gần gũi và gắn bó với nhân dân thì Hồ Chí Minh luôn  nêu cao vai trò quan trọng của   họ và nhắc nhở họ làm việc cho thật tốt, hiệu quả, phải xứng đáng với niềm tin yêu   của quần chúng nhân dân.  Về năng lực của cán bộ, Hồ Chí Minh luôn coi đó là điều kiện rất cần thiết   khi Đảng tuyển chọn và sử  dụng cán bộ. Theo Người:  “Năng lực của con người   không phải hoàn toàn do tự nhiên mà có mà một phần lớn do công tác, do tập luyện   mà có” [103, tr280]. Quá trình nhận thức, đánh giá cất nhắc cán bộ  theo tư  tưởng   Hồ Chí Minh là rất khách quan và biện chứng, Người nhấn mạnh việc đánh giá, cất   nhắc cán bộ  phải dựa trên tiêu chí dân chủ  hóa, vì chỉ  có dân chủ  trong đánh giá   đúng tài năng, phẩm chất đạo đức thì mới có thể phục vụ được lợi ích cho Đảng và   lợi ích của quần chúng nhân dân. Người cũng luôn nhắc nhở  Đảng phải động viên  khuyến khích những người có tài, có đức tham gia lãnh đạo chính quyền một cách   tốt nhất để  những người có đức và có tài phát huy hết khả  năng của mình, từ  đó  làm cho Đảng ta ngày càng thu hút được nhiều nhân tài tham gia lãnh đạo chính   quyền. Lựa chọn và sử dụng cán bộ, sử dụng người tài giỏi trong lãnh đạo, quản lý   luôn là tư tưởng chỉ đạo thiết thực đối với Đảng ta trong công tác tuyển chọn và sử  dụng cán bộ. Người coi trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ  trước hết là lý   luận chính trị, học tập nâng cao trình độ lý luận để tránh những thất bại có thể xẩy  ra, cán bộ, đảng viên phải học lý luận chính trị, văn hóa và trau dồi năng lực chuyên   môn, học phải gắn với hành và tránh bệnh lý luận suông, Người căn dặn:   “Cần   phải dạy bảo lý luận cho cán bộ. Chỉ thực hành mà không có lý luận cũng như  có   một mắt mắt sáng, một mắt mù”[103, tr510]. Như  vậy, thể  hiện qua sự  lãnh đạo  của Đảng về cán bộ,...Qua các kỳ Đại hội Đảng toàn quốc đã chứng minh tư tưởng  Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về cán bộ và công tác đào tạo, bồi dưỡng,   sử  dụng cán bộ  là đúng đắn, tư  tưởng đó thể  hiện  ở  các nội dung chính sau đây:  Một là, cán bộ là gốc của mọi công việc, muôn việc thành công hay thất bại đều do  cán bộ tốt hay kém; hai là, coi công tác cán bộ phải đứng vững trên lập trường của  giai cấp công nhân, lấy chủ  nghĩa Mác ­ Lênin và tư  tưởng Hồ  Chí Minh làm nền   tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động; thứ ba, tiêu chuẩn của người cán  bộ  phải dựa trên 2 mặt chính đó là Đức và Tài, hai tiêu chuẩn biện chứng với gắn   kết với nhau; bốn là, đánh giá cán bộ  phải toàn diện cả về lý luận chính trị, phẩm  chất đức, trình độ chuyên môn và năng lực thực tiễn.
  16. 10 V.I. Lê­nin với vấn đề nâng cao bản lĩnh chính trị và trình độ trí tuệ của người   cộng sản [167] của tác giả Nguyễn Đức Thắng đề cập đến những vấn đề lý luận đồ  sộ, trong đó  vấn đề rèn luyện, nâng cao bản lĩnh chính trị , trình độ trí tuệ và năng lực   tổ chức thực tiễn của người cộng sản trong điều kiện Đảng cộng sản cầm quyền lãnh   đạo đất nước. Nhấn mạnh việc đẩy mạnh nghiên cứu   và vận dụng sáng tạo tư  tưởng, quan điểm của V.I. Lê­nin về  nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ  trí tuệ  và   năng lực  người cộng sản có ý nghĩa cần thiết về lý luận và thực tiễn đối với Đảng ta   trong quá trình xây dựng Đảng cầm quyền trong sạch, vững mạnh. Tư tưởng của V.I. Lê­nin về thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong xây   dựng Đảng [24] của tác giả  Nguyễn Đức Diện nhấn mạnh nguyên tắc tập dân chủ  trong mọi hoạt động của chính đảng cách mạng vô sản, sau này là Đảng Cộng sản   Nga. Phân tích, vận dụng quan điểm của V.I. Lê­nin, Đảng Cộng sản Việt Nam đã   thực hiện triệt để  nguyên tắc này thực sự  phát huy dân chủ, xây dựng Đảng vững  mạnh, đoàn kết thống nhất ý chí, hành động trong tổ chức thực tiễn của cán bộ lãnh   đạo, quản lý hiện nay. Ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về  tư  tưởng chính trị  [113] của Trần  Quang Nhiếp nhấn mạnh biện pháp tuyên truyền, giáo dục tư tưởng chính trị, nâng cao   nhận thức khách quan, công tâm trong công tác cán bộ, trách hiện tượng bè phái, chạy  chức, chạy quyền,…; chống mọi biểu hiện suy thoái, tham nhũng, làm hư hỏng cán bộ,  làm mất lòng tin đối với cán bộ, đảng viên và nhân dân. Đề xuất một số biện pháp tích  cực, hiệu quả nhằm đáp ứng sự kỳ vọng của toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân   hiện nay, thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Xây dựng đội ngũ cán bộ  kiểm tra đáp  ứng công tác xây dựng đảng hiện nay   [56] của tác giả  Nguyễn Quỳnh Giao đề cập đến nội dung công tác kiểm tra, nhất là   năng lực của cán bộ kiểm tra, giám sát, coi đây là một bộ phận trong công tác xây dựng   Đảng, chuyên trách về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng. Đội ngũ cán   bộ kiểm tra là lực lượng nòng cốt, là nhân tố quyết định việc thực hiện nhiệm vụ của  Ủy ban Kiểm tra các cấp trong đó có cấp huyện. Trách nhiệm người đứng đầu [190] của tác giả Lương Ngọc Vĩnh nhấn mạnh  đến vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu, đặt sự  kỳ  vọng của nhân dân, mong  muốn họ làm được nhiều việc có ích cho Đảng, cho đất nước và nhân dân, đóng góp  sức mình, trí tuệ vào nhiệm vụ làm trong sạch Đảng hiện nay. Nâng   cao   chất   lượng   đội   ngũ   đảng   viên   trong   giai   đoạn   cách   mạng   mới  [158]của tác giả Cao Văn Thông ­ Đỗ Xuân Tuất  nghiên cứu trên quan điểm của chủ  nghĩa Mác ­ Lê­nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng, chăm lo đội ngũ đảng viên;  gắn xây dựng, củng cố tổ chức đảng với xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng  
  17. 11 viên, nhất là đối với đảng viên giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý ở các cấp, các ngành, các   lĩnh vực. Để xây dựng đội ngũ đảng viên “đủ đức, đủ tài, đủ tâm, đủ tầm, đủ tín” có  cơ cấu và phân bố hợp lý, phù hợp, tương xứng, ngang tầm, đảm bảo năng lực lãnh   đạo và sức chiến đấu của Đảng trong giai đoạn hiện nay;   phải thường xuyên liên tục,  đồng bộ nhiều chủ trương, giải pháp ở các cấp, các loại hình tổ chức đảng và cần một  chiến lược phát triển xây dựng đội ngũ đảng viên nói chung, cán bộ lãnh đạo, quản lý   nói riêng. Các yếu tố tác động và yêu cầu mới trong công tác nghiên cứu lý luận ­ tổng kết   thực tiễn [67] của tác giả Vũ Văn Hiền khái quát những thành quả và kinh nghiệm bài   học thành công, chưa thành công trong quá trình đổi mới, đồng thời coi đây là tiền đề  để tổng kết thực tiễn khi triển khai các nhiệm vụ trong tương lai. Bản chất cách mạng của Đảng và mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân   dân  [124] của tác giả  Nguyễn Trọng Phúc chỉ  ra một trong những nguy cơ  đối với   Đảng Cộng sản cầm quyền, khắc phục tình trạng quan liêu, xa dân của không ít tổ  chức đảng, chính quyền và cán bộ, đảng viên. Đồng thời, mỗi cán bộ, đảng viên cần  tự giác phê bình và phê bình, quyết tâm ngăn chặn đẩy lùi tình trạng quan liêu, xa dân,   vô cảm với cuộc sống của họ.   Luôn đề  cao lợi ích chính đáng của nhân dân và có  những giải pháp căn bản, thực hiện quyết liệt và thiết thực. Để  tiếp tục thực hiện chiến lược cán bộ  trong thời kỳ  mới   [30] của tác giả  Phạm Văn Định nhấn mạnh đến những nội dung tiếp tục thực hiện chiến lược cán bộ  trong thời kỳ mới bao gồm:  Hoàn thiện các quy chế, quy định, quy trình trong công tác  cán bộ; về mở rộng dân chủ trong công tác cán bộ; về tăng cường trách nhiệm của tập  thể lãnh đạo, nhất là người đứng đầu trong công tác cán bộ và tiếp tục chỉnh đốn tổ  chức bộ máy làm công tác cán bộ trong thời gian tới. 1.2. Các công trình liên quan đến năng lực thực tiễn Khái niệm thực tiễn trong lí luận nhận thức một số vấn đề  cần quan tâm của  các tác giả: Lê Văn Mười, Nguyễn Ngọc Hà, các tác giả chỉ ra rằng thực tiễn là hoạt   động vật chất của con người, là sự tác động qua lại giữa chủ thể hoạt động với các   đối tượng vật chất. Công trình khoa học này đã có cách nhìn rõ hơn về năng lực thực  tiễn, vai trò của tổ chức thực tiễn với tư cách mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn  của chân lý. Khi thực tiễn được hiểu với nghĩa là hoạt động vật chất, thì thực tiễn là   hoạt động có tư duy, có văn hóa, mục đích, tính xã hội và có thể cải tạo được thế giới,   trình độ tư duy con người càng cao thì càng có khả năng hiện thực được những hoạt   động vật chất phức tạp. Hoạt động thực tiễn là quá trình hiện thực hóa tư  tưởng,  không thể nhìn thấy tư tưởng, nhưng cũng có thể suy xét sự việc theo phương châm,  nguyên tắc “nói đi đôi với làm” để nhận thấy kết quả của sự hiện thực hóa tư tưởng, 
  18. 12 của hoạt động thực tiễn, đồng thời còn phụ thuộc vào năng lực chủ quan của chủ thể  hoạt động và điều kiện khách quan của hoạt động.   Phương pháp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ về lý luận chính trị theo quan điểm   Hồ Chí Minh [166] của tác giả Mạnh Quang Thắng đã giới thiệu khái quát cuộc đời và  sự nghiệp của Hồ Chí Minh như một minh chứng thuyết phục về năng lực tổ chức thực   tiễn, làm rõ những cống hiến nổi bật của Người về tư duy lý luận gắn liền với cương  lĩnh, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam và cách mạng Việt Nam đã mang lại độc   lập, tự do cho dân tộc Việt Nam, từ đó cho thấy năng lực thực tiễn đấu tranh cách mạng   được huy động vào hoạt động chỉ đạo, lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam. Năng   lực tổ  chức thực tiễn của Người thể hiện  ở việc nhìn nhận, đánh giá trên cơ  sở  xây  dựng được lý luận cách mạng ở các nước thuộc địa, đồng thời thể hiện trực tiếp bằng   việc chuyển hóa lý luận cách mạng vào thực tiễn lãnh đạo cách mạng. Trong quá trình  xây dựng nội dung, phương pháp tổ chức, sử dụng lực lượng xây dựng phong trào cách  mạng Việt Nam của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tạo ra những bước ngoặt căn bản nâng   cao chất lượng, hiệu quả ngày càng cao về đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân và  toàn thể dân tộc; là sự sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với Đảng lãnh đạo cách   mạng Việt Nam trong điều kiện, hoàn cảnh lịch sử, xã hội nhất định.   Vận dụng quan điểm hoạt động vào nghiên cứu năng lực tổ chức thực tiễn của   cán bộ chủ chốt cấp xã của tác giả Nguyễn Thị Tuyết  Mai ­ chủ biên [94] đã phản  ánh khá sinh động, rõ nét về đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã cần sự phù hợp với yêu   cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Cuốn: Phương pháp dân chủ  Hồ  Chí Minh của tác giả  Phạm Văn Bính ­ chủ  biên [9] nêu nội dung nghiên cứu về  phương pháp dân chủ  của Hồ  Chí Minh và áp   dụng trong điều kiện hiện nay, nhằm xác định và làm rõ những vấn đề cơ  bản trong  phương pháp dân chủ  Hồ  Chí Minh như:  Khái niệm, cơ  sở  hình thành và hệ  thống  phương pháp dân chủ nói chung, năng lực tổ chức thực tiễn nói riêng. Trên cơ  sở đó,  đề xuất hướng áp dụng phương pháp dân chủ Hồ Chí Minh trong hoàn thiện phương   pháp lãnh đạo dân chủ của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay. Cuốn : Công tác quy hoạch cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản lý   ở các tỉnh miền núi phía Bắc giai đoạn hiện nay của tác giả Thân Minh Quế [127] đã  nêu bản chất  vấn đề quy hoạch cán bộ, nhờ sự quan tâm của Đảng và Nhà nước về  nội dung này, công tác quy hoạch cán bộ đã có nhiều chuyển biến tích cực, góp phần   từng bước đổi mới, nâng cao chất lượng công tác cán bộ nói chung. Tuy nhiên, đứng   trước bối cảnh thế  giới và trong nước có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường, yêu   cầu ngày càng cao của công cuộc đổi mới đất nước thì công tác quy hoạch cán bộ vẫn  là một khâu yếu, thiếu tầm chiến lược, chất lượng và hiệu quả   hạn chế. Có nhiều 
  19. 13 cấp ủy, tổ chức đảng và cán bộ lãnh đạo, quản lý chưa chủ động xây dựng chiến lược  quy hoạch cán bộ, chưa chuẩn bị tích cực, chu đáo đối với người kế nhiệm, tạo ra  sự  hụt hẫng trong công tác quy hoạch cán bộ. Đổi mới tổ chức bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả yêu cầu từ   thực tiễn[119] của tác giả Xuân Phong phân tích ý nghĩa trong đổi mới phương thức   lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị những năm qua. Tổ chức bộ máy các  cơ  quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ  quốc và các tổ  chức chính trị  ­ xã hội tiếp   tục được sắp xếp, kiện toàn theo yêu cầu nhiệm vụ mới. Chức năng, nhiệm vụ và   mối quan hệ  của các tổ  chức trong hệ  thống chính trị  được phân định và sự  điều  chỉnh từng bước phù hợp hơn. Đồng thời, tác giả  cũng chỉ  ra những hạn chế  như:   Việc đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận tổ quốc và các tổ  chức chính trị ­ xã hội còn chậm, tổ chức bộ máy của Hệ thống chính trị cồng kềnh,   nhiều tầng nấc, chức năng và nhiệm vụ   ở  một số  tổ  chức chồng chéo. Hiệu lực,  hiệu quả hoạt động của nhiều tổ chức trong hệ thống chính trị chưa đáp ứng được   yêu cầu nhiệm vụ,… Để tiếp tục thực hiện chiến lược cán bộ trong thời kỳ mới của tác giả Phạm  Văn Định và bài viết: Đổi mới tổ chức bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả   yêu cầu từ  thực tiễn  [30] nhấn mạnh: Mục tiêu xây dựng đội ngũ cán bộ  mà Nghị  quyết Trung ương 3 khóa VIII của Đảng sau gần 20 năm qua  đánh giá lại kết quả đã   đạt được và đề ra những việc cần tiếp tục thực hiện. Đồng thời , tổng kết 10 năm thực  hiện Chiến lược cán bộ, Hội nghị Trung ương 9 (khóa X) đã tán thành những nội dung  cơ bản về ưu điểm, hạn chế và nhiệm vụ cần tiến hành. Để tiếp tục thực hiện Chiến   lược cán bộ nhằm đạt được mục tiêu đề ra trong thời gian tới. Nâng cao chất lượng đào tạo lý luận chính trị ­ hành chính cho cán bộ dân tộc   thiểu số cơ sở  khu vực Tây Nguyên [22] của tác giả   Đỗ  Văn Dương khái quát thực  trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị ­ hành chính chưa gắn với công tác   quy hoạch và bố  trí sử  dụng cán bộ. Đề  xuất các nhóm giải pháp để  nâng cao chất  lượng đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ DTTS cơ sở vùng Tây Nguyên. Một số  kinh nghiệm công tác dân vận  ở vùng dân tộc thiểu số  qua thực hiện   Nghị quyết Đại hội XI của Đảng của tác giả Thào Xuân Sùng [135] nhấn mạnh trong  những năm qua, công tác dân vận ở vùng DTTS đã tạo được chuyển biến tích cực, góp  phần phát triển kinh tế ­ xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội,   từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tăng cường khối đại  đoàn kết dân tộc, củng cố niềm tin của quần chúng nhân dân  đối với Đảng, Nhà nước  và chế độ  xã hội chủ  nghĩa. Có nhiều phương pháp, cách làm hay trong chỉ  đạo cần 
  20. 14 tiếp tục phát huy, nhân rộng ở điều kiện hiện nay và tương lai. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong giai   đoạn hiện nay  [58] của tác giả  Nguyễn Văn Giang nêu rõ phương thức lãnh đạo của   Đảng trong giai đoạn hiện nay đối với công tác dân vận và từng bước được đổi mới, tuy   nhiên, vẫn còn tồn tại những hạn chế, yếu kém về năng lực tổ chức thực tiễn trong công   tác vận động quần chúng. Thực tiễn đòi hỏi Đảng tiếp tục tăng cường và đổi mới sự lãnh   đạo đối với công tác dân vận, củng cố vững chắc niềm tin của nhân dân, tăng cường mối  liên hệ giữa Đảng với dân cũng như khối đại đoàn kết toàn dân; tiếp tục phát huy sức  mạnh to lớn của toàn dân phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc hiện nay. Những nhiệm vụ trọng tâm của công tác dân vận trong nhiệm kỳ  đại hội XII   của Đảng [95] của tác giả Trương Thị Mai nhấn mạnh công tác dân vận là “cốt tử”  của Đảng, bởi đây là nhân tố quan trọng góp phần củng cố mối quan hệ máu thịt giữa   Đảng với nhân dân; những phẩm chất cao quý, tốt đẹp, cốt lõi thể hiện bản chất và  sức sống của Đảng. Từ đó liên hệ và đặt ra những nhiệm vụ với đội ngũ cán bộ lãnh  đạo, quản lý người DTTS làm công tác dân vận đạt hiệu quả. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức theo vị trí việc làm [2] của tác giả Đoàn  Duy Anh  đề cập những vấn đề cơ  bản để  thực hiện các mục tiêu trong chiến lược  cán bộ thời kỳ công nghiệp hóa ­ hiện đại hóa, Đảng và Nhà nước ta đã tập trung lãnh  đạo, chỉ đạo, phân bổ nguồn nhân lực, ngân sách cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cán  bộ, công chức theo vị trí việc làm để phát huy năng lực thực tiễn của họ. Khâu đột phá của quá trình phát huy dân chủ ở nước ta trong thời kỳ mới [122]  của tác giả Tòng Thị Phóng khái quát một số thành tựu quan trọng trong quá trình phát  huy dân chủ ở nước ta hiện nay. Đồng thời lưu ý đến việc xây dựng và thực hiện Quy  chế Dân chủ ở cơ sở hiệu quả, thực sự trở thành khâu đột phá trong quá trình dân chủ  hóa đời sống xã hội ở nước ta, các ngành, các cấp tập trung vào những nhiệm vụ trọng   tâm của Quy chế. Đây là hướng nghiên cứu của các tác giả  về  tổ  chức thực tiễn và vai trò của   nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn dưới góc độ triết học. Nghiên cứu về năng lực tư  duy của đội ngũ cán bộ cấp cơ sở, tác giả Hồ Bá Thâm khẳng định: “Năng lực tư duy   là khả năng biến tri thức thành phương pháp và sử dụng thành thạo chúng để tiếp tục   nhận thức, tìm ra bản chất, quy luật, xu hướng tất yếu của sự vật và vận dụng đúng   đắn các quy luật đó trong cuộc sống ”,  theo tác giả  năng lực là khả năng, điều kiện   chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó, năng lực là tổng  hợp những phẩm chất tâm sinh lý, tạo cơ sở và khả  năng hoàn thành một hoạt động  nào đó ở mức độ cao. Tác giả cũng đi đến kết luận:  Năng lực thực tiễn có mối quan  hệ đến năng lực tư duy, vì năng lực tư duy có vai trò quan trọng đối với người lãnh  
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
5=>2