intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án Tiến sĩ Triết học: Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho giảng viên các trường chính trị tỉnh khu vực đồng bằng sông Cửu Long trong giai đoạn hiện nay

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:177

27
lượt xem
16
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận án Tiến sĩ Triết học "Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho giảng viên các trường chính trị tỉnh khu vực đồng bằng sông Cửu Long trong giai đoạn hiện nay" trình bày một số vấn đề chung về năng lực TDLL của giảng viên TCT tỉnh của Việt Nam hiện nay, khái quát thực trạng năng lực TDLL của đội ngũ giảng viên các TCT tỉnh khu vực ĐBSCL hiện nay, luận án đề xuất một số yêu cầu, phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao năng lực TDLL cho đội ngũ giảng viên các TCT tỉnh khu vực ĐBSCL trong thời gian tới.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ Triết học: Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho giảng viên các trường chính trị tỉnh khu vực đồng bằng sông Cửu Long trong giai đoạn hiện nay

  1. 1 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VÕ MINH HIẾU NÂNG CAO NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN CHO GIẢNG VIÊN CÁC TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH KHU VỰC ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY Ngành: CNDVBC&CNDV LS Mã số: 922 90 02 LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Lương Khắc Hiếu HÀ NỘI – 2023
  2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các trích dẫn và số liệu được sử dụng trong luận án là trung thực và có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng. Những kết luận rút ra trong luận án là kết quả tìm tòi, nghiên cứu nghiêm túc của bản thân tác giả và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào. Tác giả luận án Võ Minh Hiếu
  3. LỜI CẢM ƠN Trong quá trình học tập và thực hiện luận án tiến sĩ, tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của Lãnh đạo Học viện Khoa học xã hội - Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, quý thầy, cô giáo Khoa Triết học và cán bộ, nhân viên của Học viện đã giúp tôi hoàn thành chương trình khóa học. Tôi xin trân trọng cảm ơn sâu sắc đến người hướng dẫn khoa học PGS.TS. Lương Khắc Hiếu đã tận tình hướng dẫn cho tôi hoàn thành luận án của mình. Tôi xin chân thành cảm ơn đơn vị công tác, bạn bè và gia đình đã giúp đỡ tôi trong suốt thời gian nghiên cứu và tạo điều kiện tốt cho tôi thời gian học tập và hoàn thành luận án tiến sĩ. Hà Nội, tháng năm 2023 Tác giả luận án Võ Minh Hiếu
  4. DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN STT TỪ VIẾT TẮT NGHĨA 1. BCDV Biện chứng duy vật 2. CNH Công nghiệp hóa 3. CNXH Chủ nghĩa Xã hội 4. ĐBSCL Đồng bằng sông Cửu Long 5. ĐT, BD Đào tạo, bồi dưỡng 6. HĐH Hiện đại hóa 7. HSSV Học sinh, sinh viên 8. NLTD Năng lực tư duy 9. KT – XH Kinh tế - xã hội 10. KHCN Khoa học công nghệ 11. TDLL Tư duy lý luận 12. TCT Trường chính trị 13. XHCN Xã hội chủ nghĩa
  5. MỤC LỤC MỞ ĐẦU............................................................................................................ 1 Chương 1: TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ........................................................................... 7 1.1. Những công trình nghiên cứu có liên quan đến các vấn đề lý luận về năng lực tư duy lý luận của giảng viên trường chính trị tỉnh ................................................ 7 1.2. Những công trình nghiên cứu về thực trạng tư duy lý luận và thực trạng năng lực tư duy lý luận của đội ngũ giảng viên lý luận chính trị ở các tỉnh vùng Đồng bằng sông Cửu Long ................................................................................. 22 1.3. Những công trình nghiên cứu liên quan đến yêu cầu, phương hướng và giải pháp nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ giảng viên các trường chính trị tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long ..................................................... 27 1.4. Những vấn đề đã được nghiên cứu và những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu . 32 Chương 2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN CỦA GIẢNG VIÊN CÁC TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY .............................................................................................. 36 2.1. Tư duy lý luận và năng lực tư duy lý luận .................................................. 36 2.2. Năng lực tư duy lý luận với hoạt động giảng dạy lý luận chính trị của giảng viên ở các trường chính trị tỉnh của Việt Nam hiện nay ....................... 61 Chương 3: THỰC TRẠNG NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN CỦA ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN CÁC TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG HIỆN NAY.............................................................. 73 3.1. Tổng quan về các trường chính trị tỉnh, thành phố vùng đồng bằng sông Cửu Long và hoạt động nâng cao năng lực tư duy lý luận cho giảng viên ............ 77 3.2. Những điểm mạnh và hạn chế trong năng lực tư duy lý luận của đội ngũ giảng viên các trường chính trị tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long thời gian qua 80
  6. Chương 4: YÊU CẦU, PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN CHO ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN CÁC TRƯỜNG CHỈNH TRỊ TỈNH VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG TRONG THỜI GIAN TỚI ................................................................................ 109 4.1. Những yêu cầu cơ bản của việc nâng cao năng lực tư duy lý luận cho giảng viên các trường chính trị tỉnh vùng đồng bằng song Cửu Long trong thời gian tới ........................................................................................................... 109 4.2. Một số phương hướng cơ bản nhằm nâng cao năng lực tư duy lý luận cho giảng viên ở các trường chính trị tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long trong thời gian tới ........................................................................................................... 118 4.3. Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ giảng viên các trường chính trị tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long trong thời gian tới ................................................................................................... 126 KẾT LUẬN .................................................................................................... 146 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 149 PHỤ LỤC ...................................................................................................... 160
  7. DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ Bảng 1: Mức độ quan trọng của các năng lực TDLL đối với giảng viên các TCT tỉnh ...................................................................................................... 82 Bảng 2: Năng lực TDLL của giảng viên các TCT tỉnh hiện nay .................... 89 Biểu đồ 1: Quan tâm của cấp ủy Đảng, chính quyền và TCT các tỉnh vùng ĐBSCL đến việc nâng cao năng lực TDLL cho giảng viên ............... 79
  8. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Thời đại chúng ta đang sống là thời đại mà vai trò của tư duy, trí tuệ đang không ngừng tăng lên trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trở thành nguồn lực vô tận trong sự phát triển. Mỗi quốc gia, dân tộc muốn có sự phát triển đột phá đi lên, muốn bước tới đài vinh quang sánh vai cùng các nước văn minh, tiến bộ không thể không bắt đầu bằng sự đổi mới, phát triển đột phá trong tư duy, tư duy lý luận. Tư duy lý luận (TDLL) – mà cơ sở nền tảng của nó là tư duy triết học, đối với nước ta hiện nay lại càng quan trọng, do phải đáp ứng những đòi hỏi cấp thiết của thực tiễn đổi mới đất nước một cách toàn diện, đồng bộ. Chính vì vậy mà trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam giai đoạn 2021 – 2030, Đảng ta đặc biệt quan tâm đến vấn đề khai thác, phát huy tiềm năng trí tuệ, khả năng đổi mới sáng tạo và năng lực tư duy của con người Việt Nam, coi đó là nguồn lực, động lực phát triển nhanh, bền vững đất nước. Quan điểm đầu tiên trong các quan điểm phát triển đất nước ta từ nay đến năm 2030 được Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng xác định là: Đổi mới tư duy và hành động, chủ động, tích cực tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư gắn với quá trình hội nhập quốc tế, nắm bắt kịp thời, tận dụng hiệu quả, cơ hội để phát triển kinh tế số, xã hội số. TDLL được hình thành và phát triển trên cơ sở của năng lực TDLL. Năng lực TDLL có vai trò rất quan trọng đối với các lĩnh vực hoạt động nói chung, đối với công tác giảng dạy lý luận chính trị nói riêng. Chính năng lực TDLL là yếu tố có ảnh hưởng lớn và trực tiếp đến chất lượng, hiệu quả của công tác nghiên cứu, giảng dạy lý luận chính trị, đến công tác chính trị, tư tưởng trong hệ thống nhà trường ở nước ta. Vì vậy, nâng cao năng lực, trình độ TDLL cho đội ngũ cán bộ lý luận, trong đó có đội ngũ giảng viên các trường chính trị (TCT) cấp tỉnh vùng đồng bằng song Cửu Long (ĐBSCL) hiện nay – những người trực tiếp góp phần vào quá trình đổi mới tư duy, nâng cao năng lực trí tuệ cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, nhất là ở các địa phương, cơ sở - có tầm quan trọng đặc biệt.
  9. 2 Bởi vì, trong tình hình hiện nay, mỗi cán bộ, đảng viên, ngoài cái gốc đạo đức ra, cần phải có một năng lực trí tuệ thực sự. Năng lực trí tuệ ấy bao gồm cả các tri thức chuyên môn nghiệp vụ và những tri thức lý luận khoa học. Thực tế cuộc sống chứng tỏ rằng, thiếu kiến thức chuyên môn cần thiết, người cán bộ sẽ không thể hoàn thành nhiệm vụ. Thiếu tri thức lý luận, nhất là lý luận chính trị - cơ sở lý luận trực tiếp cho việc hoạch định đường lối, quan điểm, định hướng phát triển đất nước, chúng ta sẽ bị tụt hậu so với khu vực và thế giới, theo đó nước ta khó có thể giữ vững định hướng XHCN trong quá trình đổi mới. Mặt khác, quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức cùng việc mở rộng hội nhập quốc tế của Việt Nam đang đòi hỏi những cán bộ biết chủ động tiếp cận và làm chủ tri thức, luôn sáng tạo trong nhận thức cũng như trong hành động. Để làm được điều đó, đội ngũ cán bộ từ cấp cơ sở phải được nâng cao năng lực tư duy mà trước hết là tư duy lý luận. Điều này phụ thuộc một phần không nhỏ vào việc đào tạo của các trường chính trị tỉnh. Hiện nay, yêu cầu năng cao năng lực TDLL cho đội ngũ giảng viên các TCT tỉnh khu vực ĐBSCL không chỉ quan trọng mà còn cấp thiết hơn bao giờ hết do năng lực và trình độ trí tuệ, năng lực tư duy cũng như TDLL của đội ngũ cán bộ này nhiều mặt chưa ngang tầm đòi hỏi của nhiệm vụ cách mạng. Chính thực trạng ấy đã, đang và có thể sẽ ảnh hưởng nhiều mặt đối với bản thân chủ thể, đối với người học tại các TCT tỉnh, cũng như ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình đổi mới tư duy, đến công cuộc đổi mới toàn diện, đồng bộ đất nước, đến quá trình phát triển nhanh và bền vững khu vực ĐBSCL – một vùng kinh tế trọng điểm, phát triển năng động ở phía Nam đất nước. Do đó, cần phải đi sâu nghiên cứu, đánh giá đúng những mặt mạnh, mặt yếu về năng lực TDLL của đội ngũ giảng viên các TCT tỉnh khu vực ĐBSCL hiện nay, để từ đó xác định phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao năng lực TDLL cho đội ngũ cán bộ này. Xuất phát từ đó, việc nghiên cứu đề tài “Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ giảng viên các trường chính trị tỉnh khu vực đồng bằng sông Cửu Long trong giai đoạn hiện nay” là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn, vừa cơ bản vừa
  10. 3 cấp bách, không chỉ đối với yêu cầu xây dụng đội ngũ cán bộ nghiên cứu và giảng dạy lý luận chính trị trong tình hình hiện nay, mà còn góp phần bảo đảm cho quá trình đổi mới tư duy của đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân ngày càng sâu sắc và triệt để hơn. 2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 2.1 Mục đích của luận án Trên cơ sở làm sáng tỏ một số vấn đề chung về năng lực TDLL của giảng viên TCT tỉnh của Việt Nam hiện nay, khái quát thực trạng năng lực TDLL của đội ngũ giảng viên các TCT tỉnh khu vực ĐBSCL hiện nay, luận án đề xuất một số yêu cầu, phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao năng lực TDLL cho đội ngũ giảng viên các TCT tỉnh khu vực ĐBSCL trong thời gian tới. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận án thực hiện các nhiệm vụ sau: - Phân tích làm sáng rõ những vấn đề chung về năng lực TDLL của giảng viên các TCT tỉnh của Việt Nam hiện nay. - Phân tích, đánh giá thực trạng và nguyên nhân của thực trạng năng lực TDLL của đội ngũ giảng viên các TCT tỉnh khu vực ĐBSCL hiện nay. - Đề xuất, luận giải cơ sở khoa học về yêu cầu, phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao năng lực TDLL cho đội ngũ giảng viên các TCT tỉnh khu vực ĐBSCL trong thời gian tới. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Luận án nghiên cứu về năng lực TDLL của giảng viên các TCT khu vực ĐBSCL. 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Theo quy định, đội ngũ giảng viên các TCT tỉnh vùng ĐBSCL gồm có giảng viên cơ hữu và giảng viên kiêm nhiệm, thỉnh giảng. Luận án chỉ tập trung nghiên cứu việc nâng cao năng lực TDLL cho đội ngũ giảng viên cơ hữu.
  11. 4 - Thực trạng năng lực TDLL của giảng viên các TCT tỉnh vùng ĐBSCL được nghiên cứu từ năm 2015 đến 2021 (Tập trung khảo sát trên địa 12 tỉnh của ĐBSCL). Các giải pháp đề xuất có ý nghĩa vận dụng đến năm 2030. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Luận án dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng (DVBC) và chủ nghĩa duy vật lịch sử (DVLS), nhất là những nguyên lý của lý luận nhận thức và logic học mác xít. Luận án cũng dựa trên tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, sử dụng kết quả các công trình nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước có liên quan đến đề tài luận án. Để tiến hành nghiên cứu, tác giả luận án đã sử dụng tổng hợp các phương pháp như: phương pháp thu thập thông tin, phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp kết hợp lịch sử và logic; phương pháp điều tra bằng bảng hỏi, phương pháp thống kê, so sánh. Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu, tác giả luận án còn sử dụng một số phương pháp như: thảo luận nhóm, lấy ý kiến chuyên gia, khái quát hóa, trừu tượng hóa. - Phương pháp thu thập thông tin: + Thu thập thông tin thứ cấp: là thu thập thông tin từ các loại sách, báo, tài liệu khoa học có liên quan đến đề tài, đã được công bố. Phương pháp này được sử dụng trong việc tổng quan tài liệu nghiên cứu; xây dựng khung lý thuyết về TDLL và năng lực TDLL của đội ngũ giảng viên các TCT tỉnh vùng ĐBSCL; khái quát về tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, tình hình, đặc điểm các TCT tỉnh vùng ĐBSCL có tác động, ảnh hưởng đến năng lực TDLL của các TCT tỉnh vùng ĐBSCL. + Thu thập thông tin sơ cấp: là phương pháp thu thập các số liệu, các thông tin chưa từng được công bố ở bất kỳ tài liệu nào, người thu thập thông tin có được thông qua tiếp xúc trực tiếp với đối tượng nghiên cứu bằng các phương pháp khác nhau như: điều tra qua bảng hỏi, phỏng vấn sâu… Trong phạm vi luận án này, thu thập số liệu sơ cấp được thực hiện thông qua phương pháp điều tra bằng bảng hỏi.
  12. 5 Về chọn mẫu điều tra: Tác giả tiến hành thu thập số liệu theo phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên đối với 230 đối tượng là giảng viên các TCT, cán bộ lãnh đạo, quản lý các TCT tỉnh, các ban, ngành trong tỉnh và học viên là những cán bộ, đảng viên đang học tập tại các TCT tỉnh khu vực ĐBSCL. Phiếu điều tra được chuẩn bị trước cho mục đích nghiên cứu. Các thông tin nghiên cứu định lượng được xử lý bằng phần mềm SPSS. Phần Phụ lục của luận án được tổ chức theo nguyên tắc lựa chọn những kết quả nghiên cứu đã được sử dụng trong luận án. - Phương pháp phân tích và tổng hợp: được sử dụng để phân tích các số liệu thu thập được từ điều tra bằng bảng hỏi, qua đó nhận biết thực trạng năng lực TDLL, phân tích các nhân tố tác động đến năng lực TDLL của đội ngũ giảng viên các TCT tỉnh vùng ĐBSCL. Phương pháp phân tích và tổng hợp còn được sử dụng để tổng hợp các số liệu, thông tin, tri thức có được từ hoạt động phân tích tài liệu, trao đổi với chuyên gia nhằm mục đích đưa ra những luận giải, nhận xét và đề xuất của tác giả luận án ở các chương nghiên cứu về thực trạng và xác định yêu cầu, đề xuất phương hướng, giải pháp nâng cao năng lực TDLL cho đội ngũ giảng viên các TCT vùng ĐBSCL. - Phương pháp lịch sử và logic: phương pháp logic được sử dụng để phát hiện ra tính quy luật của quá trình nâng cao năng lực TDLL cho đội ngũ giảng viên các TCT tỉnh vùng ĐBSCL. Phương pháp lịch sử được áp dụng khi nghiên cứu về tổng quan tình hình nghiên cứu cũng như nghiên cứu về quá trình hình thành, phát triển năng lực TDLL của đội ngũ giảng viên các TCT tỉnh vùng ĐBSCL trong thời gian nghiên cứu. 5. Đóng góp mới về khoa học của luận án - Góp phần làm sáng tỏ hơn khái niệm, cấu trúc năng lực TDLL, tiêu chí đánh giá năng lực TDLL của giảng viên các TCT, làm rõ những biểu hiện mang tính đặc thù trong năng lực TDLL của giảng viên các TCT tỉnh và những yếu tố ảnh hưởng đến năng lực TDLL của đội ngũ này. - Góp phần làm rõ thực trạng năng lực TDLL của đội ngũ giảng viên các TCT tỉnh khu vực ĐBSCL hiện nay.
  13. 6 - Đề xuất và luận giải cơ sở khoa học của các yêu cầu, phương hướng, giải pháp cơ bản nhằm nâng cao năng lực TDLL cho đội ngũ giảng viên các TCT tỉnh khu vực ĐBSCL trong thời gian tới. 6. Ý nghĩa lý luận thực tiễn của luận án - Ý nghĩa lý luận: Luận án góp phần làm rõ cơ sở lý luận về TDLL, cấu trúc năng lực TDLL, các yếu tố tác động đến năng lực TDLL, năng lực TDLL dưới góc độ Triết học. - Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy nâng cao tư duy lý luận cho đội ngũ giảng viên lý luận chính trị ở các TCT tỉnh vùng ĐBSCL nói riêng và các trường chính trị, cao đẳng, đại học cả nước nói chung. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án gồm 4 chương, 11 tiết.
  14. 7 Chương 1 TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1. Những công trình nghiên cứu có liên quan đến các vấn đề lý luận về năng lực tư duy lý luận của giảng viên trường chính trị tỉnh Tư duy, tư duy lý luận, năng lực tư duy lý luận là những vấn đề nhận được sự quan tâm sâu sắc của giới nghiên cứu các nước và nước ta trong thời gian qua. Nhiều cuốn sách, bài báo, tham luận tại các cuộc hội thảo, v.v.. đề cập đến vấn đề này ở những góc độ khác nhau. Các công trình được đề cập trong các công trình viết về lịch sử triết học, phép biện chứng, lôgíc học, lý luận nhận thức như: Tác giả Đ.P.Gorki trong công trình “Lôgíc học” cho rằng, chỉ có thể tư duy đúng đắn khi vận dụng những tư tưởng có nội dung chân thực và đã được chứng minh phù hợp với các quy luật của lôgíc học [20]. E.V. I.Lencôv trong công trình “Lôgíc học biện chứng” (Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2003) đã chỉ ra hệ thống các nguyên tắc của quá trình nhận thức, tầm quan trọng của nguyên tắc lịch sử trong mối tương quan với nguyên tắc lôgíc, sự đồng nhất giữa lôgíc học, phép biện chứng và lý luận nhận thức, mối quan hệ giữa cái cụ thể, cái lôgíc và cái lịch sử trong tư duy [34]. Trong các công trình như: “Nguyên lý lôgíc biện chứng” của M.M.Rôdentan, tác giả đã đi từ vai trò của lôgíc biện chứng và khẳng định rằng tư duy là công cụ mạnh mẽ để con người nhận thức và cải tạo thế giới; tác giả cũng chỉ ra những quy luật vận động của tư duy [96]. Tác giả Trần Sỹ Phán Trong bài: " Đổi mới tư duy lý luận - khâu đột phá trong sự nghiệp đổi mới của Đảng ta" [79]. Tác giả cho rằng TDLL là quá trình phản ánh hiện thực khách quan gián tiếp, mang tính trừu tượng và khái quát cao bằng các khái niệm, phạm trù, quy luật. Đây là hình thức cao nhất của tư duy. Quá trình tư duy là quá trình chủ thể nhận thức sử dụng ngôn ngữ và các công cụ khái niệm để nắm bắt các mối liên hệ bên trong, bản chất, từ đó tìm ra các quy luật vận động nội tại tiềm ẩn ở khách thể trong quá trình nhận thức.
  15. 8 Tác giả Lê Hữu Nghĩa, Phạm Duy Hải trong công trình “Tư duy khoa học trong giai đoạn cách mạng khoa học công nghệ “cho rằng, bất kỳ người nào sống trong xã hội, có một bộ óc phát triển bình thường, nắm được những yêu cầu nhất định về ngôn ngữ, lôgíc thì đều có thể trở thành một chủ thể của tư duy. Những ai có NLTD tốt thường sẽ trở thành những người thuộc tầng lớp trí thức xã hội. Những người chuyên lao động trí óc, làm việc chủ yếu bằng tư duy thường là những người có NLTD tốt. Trong điều kiện cách mạng khoa học và công nghệ, tư duy khoa học hiện đại phát triển mạnh mẽ. Các ông cho rằng, sự phát triển ấy sẽ dẫn đến các lý thuyết khoa học mới, tổng quát hơn. Tư duy khoa học hiện đại sẽ chuyển hóa về chất thành tư duy khoa học của một nền văn minh mới, cao hơn trong thế kỷ XXI. Nhờ đó, loài người sẽ giải quyết được các vấn đề toàn cầu [78]. Tác giả Vũ Văn Viên trong bài “Rèn luyện năng lực tư duy khoa học cho học sinh, sinh viên”[135] đã phân tích và làm sáng tỏ nét đặc thù và sự cần thiết phải phát triển tư duy khoa học cho học sinh, sinh viên ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Tác đã đã chỉ ra những hạn chế của tư duy khoa học ở học sinh, sinh viên và đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao NLTD khoa học cho học sinh, sinh viên hiện nay. Tác giả cho rằng, cần tăng cường rèn luyện tư duy chính xác cho học sinh, sinh viên thông qua dạy lôgíc hình thức hay là trang bị các nguyên tắc, phương pháp luận biện chứng duy vật cho các em. Tác giả Nguyễn Mạnh Cương phân tích trong bài viết “Về bản chất tư duy” bàn về nguồn gốc, bản chất, đặc điểm, lịch sử hình thành và phát triển của tư duy biện chứng duy vật. Tác giả khẳng định rằng, tư duy biện chứng mácxít là hình thức tư duy phát triển cao nhất trong lịch sử; tư duy biện chứng phụ thuộc vào hệ thống tri thức và hoạt động thực tiễn của mỗi chủ thể, thiếu vốn tri thức chủ thể nhận thức sẽ không có tư duy sáng tạo. Tác giả cũng chỉ ra mối quan hệ giữa tư duy chính xác và tư duy biện chứng duy vật trong quá trình nhận thức [9]. Bên cạnh đó, có các công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề đổi mới tư duy ở nước ta hiện nay. Các nhà nghiên cứu đã đặt ra và giải quyết vấn đề tình trạng lạc hậu của TDLL ở nước ta trước thời kỳ đổi mới, chỉ ra nguyên nhân dẫn đến tình trạng lạc hậu của TDLL và cách thức khắc phục tình trạng đó như:
  16. 9 Theo đồng chí Nguyễn Văn Linh, Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng thời kỳ đổi mới đã nhấn mạnh trong tác phẩm “Đổi mới để tiến lên”cho rằng : "Nói đổi mới tư duy, điều căn bản là phải đổi mới tư duy lý luận" [47, tr.95]. Bởi, tư duy lý luận là tư duy ở cấp độ cao, dựa trên các công cụ là khái niệm, phạm trù, phán đoán, suy luận, hướng tới phân tích, tổng hợp, khái quát để tìm ra bản chất, quy luật của hiện thực khách quan, từ đó định hướng, hướng dẫn hoạt động thực tiễn của con người và sáng tạo tri thức mới. Tác giả Nguyễn Ngọc Long, “Năng lực tư duy lý luận trong quá trình đổi mới tư duy” [50]. Tác giả đã phân tích bản chất và những yếu tố cấu thành năng lực TDLL; sự cần thiết phải phát triển năng lực TDLL trong thời kỳ đổi mới đất nước. Từ đó, tác giả khẳng định rằng, quá trình đổi mới tư duy phải gắn chặt với việc đổi mới và nâng cao năng lực TDLL; phải khắc phục được những sai lầm trong TDLL của chúng ta. Tác giả Trần Thành (chủ biên) trong cuốn “Tư duy lý luận với hoạt động của người cán bộ lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn” cho rằng: Tư duy lý luận (được hiểu theo là cái "phủ định biện chứng" của tư duy kinh nghiệm) là tư duy dựa trên tri thức lý luận và phương pháp nhận thức khoa học [114]. Về năng lực tư duy, trước hết các tác giả xuất phát từ khái niệm “năng lực” nói chung. Theo (1977), năng lực là khả năng, là điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó, hoặc năng lực là tổng hợp những phẩm chất tâm - sinh lý của con người khiến cho nó thích hợp với một hình thức nghề nghiệp nhất định đã hình thành trong lịch sử [80]. Cách xác định trên, tuy còn nhiều vấn đề cần trao đổi, song theo chúng tôi, phần nào đã lột tả được thực chất khái niệm năng lực. Các tác giả nhất trí với quan niệm của Hồ Chí Minh rằng, “Năng lực của con người không phải hoàn toàn do tự nhiên mà có, mà một phần lớn do công tác, do tập luyện mà có” [61, tr. 280]. Cũng như bất kỳ một loại năng lực nào khác, năng lực TDLL cũng được hình thành và phát triển nhờ các yếu tố bẩm sinh và rèn luyện qua học tập, hoạt động thực tiễn. Tuy nhiên, để làm rõ năng lực TDLL là gì, chúng ta cần tìm hiểu vấn đề một cách cụ thể hơn.
  17. 10 Tác giả Nguyễn Thị Bạch Vân với bài báo khoa học "Nâng cao trình độ tư duy lý luận cho sinh viên thông qua giảng dạy triết học"[134] cho rằng: Tư duy lý luận được hình thành trên cơ sở của tư duy kinh nghiệm; đó là sự phản ánh được các mối liên hệ trong tính tất yếu của nó, trong những quan hệ toàn diện của nó, trong sự vận động mâu thuẫn của nó. Tư duy lý luận có thể phân thành nhiều loại khác nhau. Mỗi môn khoa học là một hệ thống tri thức lý luận (khác với tri thức kinh nghiệm) về bản chất bởi tư duy lý luận dựa trên cơ sở tri thức kinh nghiệm thực tiễn điển hình cùng với sự tham gia nghiên cứu của các nhà khoa học, các nhà lý luận. Từ điển triết học do M.M.Rôdentan chủ biên viết rằng, “hoạt động tâm lý đặc biệt của con người tức là năng lực tư duy” [97, tr. 874]. Cách xác định như vậy tuy còn rất chung, song nó giúp cho việc tiếp tục cụ thể hoá, chi tiết hơn. Tác giả Hồ Bá Thâm trong bài viết “Bàn về năng lực tư duy” cho rằng, “năng lực tư duy là khả năng biến tri thức thành phương pháp và sử dụng thành thạo chúng để tiếp tục nhận thức, tìm ra bản chất, quy luật, xu hướng tất yếu của sự vật và vận dụng đúng đắn các quy luật đó trong cuộc sống” [118, tr.7-10]. Từ quan niệm chung như vậy, tác giả nhận định cụ thể hơn: “Năng lực tư duy là tổng hợp những khả năng ghi nhớ, tái hiện, liên tưởng, trừu tượng hóa, khái quát hóa và xử lý tri thức trong quá trình phản ánh, tái tạo, phát triển và vận dụng chúng vào những tình huống thực tiễn nhất định” [118, tr.7 – 10]. Có thể nói, cách định nghĩa như trên là quá hẹp, bởi năng lực tư duy nếu chỉ là khả năng biến trí thức thành phương pháp thì chưa nói lên đầy đủ chức năng của hoạt động tư duy. Tác giả Hồ Bá Thâm, cũng đã phân tích và cho rằng, có 3 yếu tố cơ bản cấu thành năng lực tư duy là: Một là, năng lực tái hiện và ghi nhớ những hình ảnh do cảm tính đem lại. Hai là, năng lực liên tưởng để tìm bản chất của vấn đề đi từ chưa biết đến biết, vạch ra cái mới. Ba là, năng lực trừu tượng hóa, khái quát hóa, phân tích, tổng hợp và tưởng tượng. Từ đó, tác giả cũng đưa ra ra định nghĩa về năng lực tư duy và phân tích những yếu tố cơ bản ảnh hưởng tới năng lực tư duy như: trình độ, yếu tố bẩm sinh, phương thức và môi trường của tồn tại
  18. 11 xã hội, hoạt động giáo dục và đào tạo tự giác, hoạt động thực tiễn. Bên cạnh đó, tác giả cũng cho rằng năng lực tư duy không phụ thuộc vào yếu tố bẩm sinh. Để phát triển năng lực tư duy cần khai thác và phát huy hiệu quả vai trò của các yếu tố ảnh hưởng tới nó, cần thấy được tầm quan trọng của từng yếu tố để có cơ chế khai thác phù hợp mới phát huy được tác dụng [118]. Tác giả Tô Duy Hợp trong bài viết “Phương pháp tư duy - vấn đề kế thừa và đổi mới” đã chỉ ra mối quan hệ và sự khác biệt giữa các khái niệm phương pháp, phương pháp tư duy, phương pháp nhận thức, phương pháp hành động, phân biệt các khái niệm phương pháp TDLL, phương pháp tư duy khoa học và phương pháp tư duy biện chứng. Tác giả cho rằng, thực chất, phương hướng và phương thức đổi mới phương pháp tư duy ở nước ta là đi từ phương pháp tư duy cổ điển đến phương pháp tư duy phi cổ điển và phương pháp tư duy mácxít. Sự đổi mới là tất yếu khách quan, tuân theo sự vận động chung của nhân loại [26]. Tác giả Nguyễn Bá Dương trong bài “Về đặc trưng của tư duy biện chứng duy vật” đã phân tích 5 đặc trưng cơ bản của tư duy biện chứng duy vật đó là: tư duy biện chứng là loại hình tư duy phát triển cao nhất so với các hình thức tư duy trong lịch sử; tư duy biện chứng có tính khách quan, nó là tư duy khoa học, cách mạng, có tính phê phán và chiến đấu cao, luôn tạo ra sản phẩm kép; phản ánh hiện thực đang vận động, biến đổi, phản ánh đúng sự vận động, phát triển và những mâu thuẫn vốn có của thế giới khách quan. Tác giả cho rằng, tư duy biện chứng có vai trò quan trọng trong nhận thức và cải tạo thế giới. Tác giả cũng chỉ rõ, chỉ có tư duy biện chứng duy vật mới đem lại “chìa khóa vàng” giúp con người mở cửa tiến lên phía trước. Con người muốn nhận thức và cải tạo hiện thực hiệu quả thì con người dứt khoát phải có tư duy biện chứng duy vật. Nó là “la bàn” dẫn đường chỉ lối giúp người ta không bao giờ lạc hướng, bước nhầm đường [13]. Tác giả Trần Đình Thỏa trong bài “Một số vấn đề tư duy biện chứng mácxít” đã tiếp cận lịch sử hình thành, phát triển của tư duy biện chứng, so sánh tư duy biện chứng với các hình thức tư duy khác như tư duy biện chứng cổ đại tự phát, tư duy siêu hình, tư duy biện chứng duy tâm. Tác giả chỉ ra sự khác biệt
  19. 12 của tư duy biện chứng duy vật với các hình thức tư duy khác ở các đặc trưng cơ bản như: tính khách quan, tính toàn diện, tính lịch sử, sự thống nhất giữa lịch sử và lôgíc, quá trình đi từ trừu tượng đến cụ thể. Theo tác giả, để tiến hành đổi mới tư duy hiệu quả, chúng ta phải loại bỏ tư duy kinh nghiệm, siêu hình, duy tâm, xây dựng TDLL khoa học - tư duy biện chứng mácxít. Bởi vì, tư duy biện chứng mácxít trang bị cho chủ thể nhận thức một phương pháp tư duy khoa học trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, góp phần tích cực vào việc giải quyết những nhiệm vụ đất nước đang đặt ra [122]. Tác giả Nguyễn Quang Thông trong bài “Những đặc trưng cơ bản của phương pháp tư duy khoa học” đã phân tích mối quan hệ giữa phương pháp tư duy biện chứng với phương pháp tư duy của các khoa học cụ thể, mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng trong nhận thức và cải tạo thực tiễn, các đặc trưng cơ bản của phương pháp tư duy biện chứng duy vật. Theo tác giả, sai lầm trong tư duy về xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH) là do chưa nắm vững bản chất, đặc điểm của tư duy biện chứng duy vật; để khắc phục được những sai lầm trên chúng ta phải nhận thức và phát huy vai trò của tư duy biện chứng duy vật [103]. Các tác giả Bùi Thanh Quất, Bùi Trí Tuệ, Nguyễn Ngọc Hà trong bài “Đối tượng, phương pháp nghiên cứu và đặc điểm của lôgíc biện chứng” đã phân tích đối tượng, phương pháp nghiên cứu và đặc điểm của lôgíc học biện chứng. Các tác giả cho rằng, tư duy biện chứng và lôgíc biện chứng có mối quan hệ mật thiết với nhau, tư duy biện chứng vừa là đối tượng nghiên cứu, vừa là công cụ nghiên cứu của lôgíc biện chứng, ngược lại, lôgíc biện chứng có vai trò quan trọng trong việc rèn luyện, phát triển tư duy biện chứng. Nghiên cứu lôgíc biện chứng có ý nghĩa quan trọng đối với các nhà khoa học tự nhiên trong việc khái quát các tri thức chuyên ngành, khắc phục tính biện chứng tự phát của tư duy [91]. Tổng quan các công trình nghiên cứu của nước ngoài về tư duy, TDLL và năng lực tư duy, chúng ta có thể rút ra những kết quả nghiên cứu cơ bản sau đây. Thứ nhất, các tác giả nước ngoài khẳng định, tư duy có thể định hướng hoặc là vào việc hiểu biết hoàn cảnh hiện thực, hoặc vào việc đạt tới kết quả thực tiễn. Kiểu tư duy thứ nhất thể hiện dưới các hình thức khác nhau: định hướng trong tình
  20. 13 huống dựa trên cơ sở tri thức hàng ngày, tư duy thần thoại, tư duy triết học, tư duy khoa học (lý luận và kinh nghiệm). Kiểu tư duy thứ hai tồn tại dưới hình thức giải quyết những nhiệm vụ trong quá trình hoạt động thực tiễn (làm sáng tỏ hệ thống phương tiện đảm bảo đạt tới mục đích đặt ra). Suốt một thời gian dài trong lịch sử triết học, chính kiểu tư duy thứ nhất (đặc biệt là TDLL) được xem là cái biểu thị bản chất của tư duy và đồng thời là giá trị tối cao của con người. Nhưng TDLL thậm chí cũng chủ yếu được hiểu là suy lý (trước hết là bằng diễn dịch, sau là bằng quy nạp). Do vậy, các lý thuyết về tư duy là hạn hẹp trong việc nắm bắt những biểu hiện của tư duy hiện thực. Hiện nay, có các quan điểm cho rằng, tư duy thiết kế đang loại trừ tư duy nghiên cứu nói chung và TDLL nói riêng. Trên thực tế, kiểu tư duy thứ hai tất yếu đòi hỏi kiểu tư duy thứ nhất: không thể thiết kế hoạt động thiếu hiểu biết về tình huống hiện thực và thiếu việc làm sáng tỏ khả năng nhận được kết quả mong muốn nhờ những phương tiện nào đó [142]. Dựa trên quan niệm về những phương diện nội dung cơ bản của tư duy, chúng ta có thể khái quát các quan điểm cơ bản về tư duy như sau. Nếu xét từ góc độ quan hệ giữa tư duy và kinh nghiệm để đánh giá nội dung của tư duy, cần phải khu biệt giữa chủ nghĩa duy nghiệm và chủ nghĩa duy lý. Theo chủ nghĩa duy nghiệm, tư duy trước hết có quan hệ với việc so sánh, phân tích và tổng hợp tất cả những gì được đem lại trong kinh nghiệm (cảm giác, tri giác). Tư duy cũng có thể thể hiện ở việc kết hợp những biểu tượng như những dấu vết của những tri giác quá khứ. Xét từ góc độ này, các khái niệm xuất hiện dựa trên cơ sở tách biệt những dấu hiệu chung của đối tượng đơn nhất được đem lại trong kinh nghiệm (trừu tượng hóa) và ghi nhận chúng nhờ ngôn ngữ. Những khái quát kinh nghiệm xuất hiện dựa trên cơ sở quy nạp. Suy lý bằng diễn dịch trong lôgíc học và toán học được xem hoặc là cái sinh ra từ kinh nghiệm, hoặc là giải nghĩa một số đặc điểm của ngôn ngữ. Như vậy, với cách hiểu như vậy, nội dung của tư duy hoàn toàn do những cái trực tiếp được đem lại trong kinh nghiệm quyết định [133]. Chủ nghĩa duy lý đem kinh nghiệm và tư duy đối lập với nhau. Theo quan điểm này, kinh nghiệm hoặc là không đem lại hiểu biết về hiện thực (Plato), hoặc
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1