intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu mối liên quan nồng độ dioxin với một số hormone trong máu ở người làm việc tại các sân bay quân sự Biên Hòa, Đà Nẵng và Phù Cát

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:189

12
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận án Tiến sĩ Y học "Nghiên cứu mối liên quan nồng độ dioxin với một số hormone trong máu ở người làm việc tại các sân bay quân sự Biên Hòa, Đà Nẵng và Phù Cát" trình bày xác định nồng độ dioxin và một số hormone nội tiết trong máu ở người làm việc tại các sân bay quân sự Biên Hòa, Đà Nẵng và Phù Cát; Phân tích mối liên quan nồng độ dioxin với một số hormone nội tiết trong máu của người làm việc tại các sân bay quân sự Biên Hòa, Đà Nẵng và Phù Cát.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu mối liên quan nồng độ dioxin với một số hormone trong máu ở người làm việc tại các sân bay quân sự Biên Hòa, Đà Nẵng và Phù Cát

  1. 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Từ năm 1961 đến năm 1972, Quân đội Hoa Kỳ đã tiến hành Chiến dịch  Ranch Hand, phun rải khoảng 80 triệu lít chất diệt cỏ, trong đó chủ yếu là  chất da cam, một hỗn hợp của 2­4D (2,4­dichlorophenoxyacetic acid) và  2,4,5­T (trichlorophenoxyacetic acid). Trong quá trình sản xuất chất độc hóa  học với thành phần là 2,4­D và 2,4,5­T sinh một sản phẩm phụ ngoài mong  muốn là dioxin. Các nhà khoa học trên Thế  giới đều có chung nhận xét:  Dioxin là chất độc nhất do con người tìm ra và tạo ra. Chính dioxin có trong   các chất diệt cỏ được lưu giữ tại các sân bay quân sự Biên Hòa, Đà Nẵng,   Phù Cát và sử dụng ở Miền Nam Việt Nam, đã để lại hậu quả nặng nề đối  với sức khỏe con người [1], [2], [3], [4]. Đã có rất nhiều nghiên cứu của các nhà khoa học Việt Nam, Hoa Kỳ,   Nhật Bản…về  tác hại của dioxin đối với con người. Những nghiên cứu  dịch tễ học đã được thực hiện trên những người phơi nhiễm dioxin và chỉ  ra những bệnh/tật liên quan đến dioxin. Tuy nhiên, cho đến nay, người ta  vẫn chưa tìm thấy mối liên quan chặt chẽ có tính đặc hiệu giữa dioxin và   bệnh/tật, giữa dioxin với những biến đổi về gen, miễn dịch, hormone… Dioxin và các chất giống dioxin (dioxin­like compounds, DLCs) được  xếp vào nhóm các hóa chất gây rối loạn nội tiết (EDCs). Hiệp Hội nội tiết   và Cơ quan bảo vệ môi trường Hoa Kỳ đưa ra định nghĩa EDC là “một hóa  chất/hỗn hợp các chất hóa học ngoại sinh, can thiệp vào bất kỳ  khâu nào  trong cơ  chế  hoạt động của các hormone”. EDCs được quan tâm và ngày  càng có nhiều nghiên cứu về  sự   ảnh hưởng của chúng đến hệ  thống nội   tiết (đặc biệt là các trục nội tiết: trục dưới đồi ­ tuyến yên ­ tuyến giáp;   trục dưới đồi ­ tuyến yên ­ tuyến sinh dục; trục dưới đồi ­ tuyến yên ­  
  2. 2 tuyến   thượng   thận).   Mục   tiêu   tác   động   không   chỉ   giới   hạn   ở   một  tuyến/trục nội tiết. Những nghiên cứu trên động vật đến các quần thể  người đều nhận định dioxin là chất gây rối loạn nội tiết điển hình, trong đó  trục nội tiết dưới đồi ­ tuyến yên ­ tuyến giáp và tuyến sinh dục là các mục  tiêu nổi bật [5], [6], [7], [8], [9]. Đã có một số nghiên cứu về biến đổi nồng độ hormone trong cơ thể  do các nhà khoa học Nhật Bản và cộng sự  thực hiện  ở  những người phụ  nữ và con của họ tại những vùng trước đây chịu ảnh hưởng của chất diệt  cỏ  có dioxin  ở  Miền Nam Việt Nam; so sánh với nhóm chứng  ở  các vùng  phía Bắc. Các nghiên cứu bước đầu cho thấy có một số  liên quan giữa   nồng độ  dioxin với nồng độ  các hormone tuyến thượng thận. Mối tương  quan này không tuyến tính mà thường có dạng hình chuông hoặc hình chữ  U, điều đó cho thấy tác động của dioxin gây ra những rối loạn/biến đổi  nồng độ các homrone trong cơ thể một cách phức tạp trong mạng lưới tác  động qua lại giữa các hormone và không đơn thuần theo một hướng duy  nhất là ức chế hay tăng cường [10], [11]. Những kết quả  nghiên cứu trên đã đặt ra các câu hỏi về  sự  liên quan  giữa dioxin với hormone của các trục nội tiết khác nhau; sự liên quan giữa  biến đổi hormone với các bệnh lý  ở  những người phơi nhiễm dioxin, đặc  biệt là các đối tượng vẫn đang tiếp tục có những nguy cơ  phơi nhiễm  dioxin. Vì   vậy,  nghiên  cứu  làm rõ   tác hại  của  dioxin  đối  với  biến  đổi  hormone có ý nghĩa quan trọng trong việc chẩn đoán bệnh/tật và điều trị  cho những người bị phơi nhiễm dioxin.
  3. 3 Từ thực tế đó chúng tôi thực hiện đề tài:  “Nghiên cứu mối liên quan  nồng độ  dioxin với một số  hormone trong máu  ở  người làm việc tại  các sân bay quân sự Biên Hòa, Đà Nẵng và Phù Cát” với các mục tiêu: 1. Xác định nồng độ  dioxin và một số  hormone nội tiết trong máu  ở  người làm việc tại các sân bay quân sự Biên Hòa, Đà Nẵng và Phù Cát. 2. Phân tích mối liên quan nồng độ dioxin với một số hormone nội tiết   trong máu của người làm việc tại các sân bay quân sự  Biên Hòa, Đà Nẵng  và Phù Cát. CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1. TỔNG QUAN VỀ DIOXIN 1.1.1. Cấu trúc hóa học của dioxin Thuật ngữ  "dioxin" được sử  dụng và đề  cập đến 75 chất đồng loại   (congeners) của polychlorinated dibenzo­p­dioxin (PCDD) và 135 chất đồng  loại của polychlorinated dibenzo furan (PCDF).  Cấu trúc cơ  bản của PCDD  và PCDF là hai vòng benzene được nối với nhau bởi 2 cầu nối Oxy (đối với  PCDD) hoặc 1 cầu nối Oxy (đối với PCDF). Đây là hai nhóm este ba vòng,  phẳng, có thể có 8 nguyên tử Clo (Cl) gắn vào nguyên tử carbon ở vị trí từ 1 ­   4 và từ 6 ­ 9 (Hình 1.1). Chỉ những đồng loại chứa các nguyên tử Cl  ở đồng  thời các vị trí 2,3,7,8 mới có độc tính đáng kể. Nhóm PCDD có 7 đồng loại   và nhóm PCDF có 10 đồng loại có đặc điểm này [1], [12], [13], [14]. 
  4. 4 Hình 1.1. Cấu trúc chung của dioxin và các hợp chất tương tự dioxin     * Nguồn: Theo Marinkovi  N. và cs. (2010) [12], [14]. 1.1.2. Sự xâm nhập và tích lũy sinh học của dioxin    Hình 1.2. Con đường phơi nhiễm dioxin từ  môi trường vào cơ  thể   người * Nguồn: Theo Lê Kế Sơn và cs. (2014) [15]
  5. 5 Các nghiên cứu chỉ  ra rằng trên 90% lượng dioxin xâm nhập vào cơ  thể người là qua đường tiêu hóa (ăn uống). Sự xâm nhập qua đường hô hấp  và ngấm qua da chỉ chiếm tỷ lệ thấp (Hình 1.2). Các nguồn thực phẩm, đặc  biệt là nhóm thịt, cá, trứng và sữa đóng vai trò quan trọng trong việc hấp   thụ dioxin vào cơ thể người [2], [16], [17]. Dioxin có đặc tính không tan trong nước, tan trong mỡ, khả năng tích   tụ  lẫn tích lũy sinh học nên sự  hấp thụ  qua đường tiêu hóa phụ  thuộc rất  nhiều vào loại thực phẩm ô nhiễm. Tích lũy sinh học (bioaccumulation) là  tổng hợp của hai quá trình tích tụ sinh học (bioconcentration) và phóng đại  sinh học (biomagnification). Tích lũy sinh học đối với các hợp chất hóa học   bền vững, khó phân hủy và độc hại như dioxin là rất điển hình đối với cả  chuỗi thức ăn tự nhiên và chuỗi thức ăn chăn nuôi [18], [19], [20].  1.1.3. Nguồn gốc, sự tồn lưu và lan tỏa của dioxin Có hai loại khu vực nhiễm dioxin trong môi trường Miền Nam Việt   Nam. Thứ nhất là các khu vực bị phun rải trực tiếp ở Miền Nam Việt Nam,   phía dưới vĩ tuyến 17 (chiếm 15% diện tích toàn Miền Nam). Thứ  hai là   một số sân bay quân sự trước đây của Quân đội Hoa Kỳ, là những nơi tàng   trữ  hóa chất để  nạp lên máy bay đi phun rải, tẩy rửa sau phun rải. Điều   kiện khí hậu và địa lý ở Miền Nam Việt Nam có tác động đáng kể đến độ  tồn lưu, sự suy giảm nồng độ và sự di chuyển của dioxin trong môi trường.  Đến nay, hàm lượng dioxin trong đất, trầm tích, máu, sữa mẹ, mô mỡ  và  thực phẩm ở các vùng bị phun rải đã được nghiên cứu và đều ở mức chấp   nhận được, dưới các ngưỡng nồng độ cho phép. Tuy nhiên, ở các các điểm   từng là kho chứa, nạp, rửa mà tập trung là các khu vực bị  ô nhiễm nặng  trong sân bay Biên Hòa (SBBH), sân bay Đà Nẵng (SBĐN), sân bay Phù Cát  (SBPC), hàm lượng dioxin vẫn còn rất cao [21].
  6. 6 Từ  số  liệu của Bộ  Quốc phòng (BQP) Hoa Kỳ  cung cấp, điều tra và  nghiên cứu của Ủy ban 10/80 (Việt Nam), Công ty tư vấn Hatfield (Canada)   đã đưa đến kết luận SBBH, SBĐN, SBPC (các cơ sở chính của Chiến dịch   Ranch Hand) là các điểm nóng trọng điểm về ô nhiễm dioxin [ 2], [21], [22],  [23], [24]. Tất cả các nghiên cứu về dioxin ở Miền Nam Việt Nam ở các vùng bị  phun rải cũng như ở các điểm nóng đều khẳng định nguồn gốc của dioxin  là kết quả  của cuộc chiến tranh hóa học để  lại, quân đội Mỹ  đã sử  dụng   một khối lượng rất lớn các chất diệt cỏ  chứa dioxin, chủ  yếu là chất da   cam.   Kết   luận   này   được   minh   chứng   bằng   tỷ   số   nồng   độ   2,3,7,8­ TCDD/TEQ (T%) rất cao ở hầu hết các đối tượng nghiên cứu [2], [21]. Do đặc tính lý hóa của dioxin là tan trong dầu nên các loại thực phẩm   có nguồn gốc động vật sẽ  có hàm lượng dioxin cao hơn và là nguồn phơi   nhiễm quan trọng hơn so với thực phẩm có nguồn gốc thực vật [20], [25].   Nghiên cứu mẫu thịt xung quanh SBBH, chợ và hồ  Biên Hùng (2010) thấy  hàm lượng 2,3,7,8­TetraCDD trong thịt vịt 276 ­ 331 pg/g trọng lượng  ướt,   trong cá lóc là 66 pg/g, trong thịt gà là 0,35 ­ 48 pg/g, trong thịt lợn là 0,6 ­  1,1 pg/g và trong thịt bò là 0,11 ­ 0,21 pg/g [26].  Khi dioxin được hấp thụ  vào trong cơ  thể  người, hệ  tuần hoàn giúp  cho việc phân bố  dioxin tới các cơ  quan, dioxin chỉ  tồn tại trong máu với   khoảng thời gian ngắn, sau đó tích tụ tại các mô mỡ và gan [27]. Lượng tồn  lưu trong cơ  thể  có thể  tính từ  mức PCDDs/PCDFs trong máu. Nồng độ  của 2,3,7,8­TCDD trong lipid huyết thanh bằng với nồng độ  2,3,7,8­TCDD  trong lipid của cơ thể [28]. Trong cơ thể, các chất dibenzo­p­dioxin chlo hóa (CDD) được tìm thấy  ở  tất cả  các mô nhưng tập trung nhiều nhất  ở  gan và mô mỡ. Mô mỡ  và  
  7. 7 gan có khả  năng tích lũy CDD trong nhiều năm trước khi đào thải chúng   khỏi cơ  thể. 2,3,7,8­TCDD và các dioxin chứa nhiều clo (chẳng hạn như  OCDD) đã được phát hiện có trong mô mỡ với nồng độ cao hơn so với các  CDD khác [17]. Kojima H. và cs. đã đo độc tố  cùng loại PCDDs/PCDFs   trong các mô khác nhau  ở những trường hợp khám nghiệm tử  thi cho thấy  gan và các mô mỡ có nồng độ dioxin cao nhất [29].  1.1.4. Cơ chế tác động của dioxin * Thụ thể Aryl hydrocarbon (AhR) Thụ thể Ah của dioxin được hoạt hóa bởi các phối tử (ligand). Phối tử  điển hình của AhR là 2,3,7,8­TetraCDD. AhR là một thành viên của họ  protein thuộc nhân tố  điều hòa phiên mã (transcription factor), có cấu trúc  basic helix­loop­helix/Per­Arnt­Sim2. AhR có các vùng cấu trúc đảm nhiệm  các chức năng: liên kết với phối tử, liên kết với DNA của gen đích, liên kết  các protein thành phần và chức năng hoạt hóa phiên mã [30], [31], [32]. Từ khi được phát hiện vào những năm 1980, AhR là một chủ đề được  rất nhiều nhà khoa học độc chất học tập trung vào nghiên cứu tìm hiểu cơ  chế phân tử của độc tính gây ra bởi phối tử điển hình của AhR [31].  * Cơ chế tác động của dioxin thông qua AhR Trong điều kiện không có phối tử, AhR trong tế bào chất, liên kết với  các   protein   thành   phần   như:   AIP   (aryl   hydrocarbon   receptor   interacting   protein), p23 và 2 phân tử HSP90 (90­kDa heat shock protein).  Khi dioxin khuếch tán qua màng tế bào vào liên kết với AhR, phức hệ  AhR được hoạt hóa, thay đổi cấu hình và vận chuyển vào trong nhân tế  bào. Trong nhân, AhR được giải phóng khỏi phức hợp các protein thành  
  8. 8 phần và tương tác với một protein trong nhân gọi là nhân tố  dẫn truyền  nhân ARNT.  Hình 1.3. Hoạt động của thụ thể AhR và tương tác với dioxin trong tế   bào * Nguồn: Theo Hui W. và Dai Y. (2020) [32] Phức hệ AhR/ARNT liên kết với vị trí DNA đặc biệt trên gen đích, gọi  là yếu tố  đáp  ứng với các chất lạ  hay yếu tố  đáp  ứng dioxin (DRE) tạo   phức hệ AhR/ARNT/DRE điều hòa biểu hiện các gen đích [30], [31], [32]. 1.1.5. Xác định phơi nhiễm dioxin Không thể  coi tất cả  những người sống  ở  các khu vực từng bị  phun   rải chất diệt cỏ trong giai đoạn trước năm 1975 bị phơi nhiễm dioxin, cũng   không thể  đếm hết số  người đã bị  phơi nhiễm. Bộ  các vấn đề  cựu chiến  binh Hoa Kỳ coi tất cả các cựu binh Mỹ từng có mặt ở bất cứ địa điểm nào  tại Miền Nam Việt Nam trong giai đoạn từ  1961­1975 và sau đó phát triển   một trong các bệnh hoặc tình trạng y tế trong danh sách thì đều được coi là 
  9. 9 đã bị phơi nhiễm. Việc sinh sống tại các tỉnh bị  phun rải chất diệt cỏ  vào   thời điểm có hoạt động phun rải chưa phải là bằng chứng chắc chắn của  sự  phơi nhiễm với dioxin. Muốn có bằng chứng cần phải xác minh được  dioxin thực sự  đã làm ô nhiễm môi trường tại một địa điểm cụ  thể, và  nồng độ  dioxin trong môi trường  ở  đó phải đủ  cao để   ảnh hưởng tới sức  khỏe của người dân sinh sinh sống tại đó và xung quanh khu vực đó [2]. Một số các nghiên cứu định lượng các CDD trong lipid huyết thanh để  xác định mức độ phơi nhiễm của từng cá thể thì nồng độ 2,3,7,8­TCDD chỉ  được đo vài năm sau khi phơi nhiễm đã chấm dứt. Tuy nhiên, do tính chất  của CDD rất bền vững, có ái tính cao với lipid, rất khó phân hủy và có xu  hướng tích lũy sinh học; hơn nữa không thể  đo lường nồng độ  dioxin đã  từng tồn tại trong đất và thức ăn vào những thời điểm nhất định cách đây   mấy chục năm. Vì vậy, một phân tích đơn trên máu hay mô mỡ  là cách đo  sự  phơi nhiễm tích lũy trong quá khứ đối với CDD. Với giả thiết về động  học ưu tiên cho sự đào thải 2,3,7,8­TCDD và chu kỳ bán hủy khoảng từ 7­ 12 năm, có thể tính ra nồng độ 2,3,7,8­TCDD trong mẫu huyết thanh và mô  mỡ ở thời điểm ban đầu của phơi nhiễm từ nhiều năm trước đó (nếu biết  thời gian phơi nhiễm ban đầu). Tổng lượng dioxin tích lũy trong cơ  thể  cũng có thể  suy ra từ  lượng 2,3,7,8­TCDD huyết thanh. Thời gian bán hủy  7,1 năm được rút ra từ  một nghiên cứu trên 36 cựu chiến binh tham gia  chiến   dịch   Ranch   Hand   [17].   Nồng   độ   còn   lại   sẽ   giảm   dần   đến   mức   thấp/không, nhưng  ảnh hưởng của dioxin đối với cơ  thể  vẫn còn. Một   người từng bị phơi nhiễm với dioxin trong quá khứ nhưng xét nghiệm máu  ở thời điểm hiện tại có thể không chỉ  ra được. Y học thường dựa trên các   triệu chứng đặc hiệu về  lâm sàng và cận lâm sàng đặc biệt là các xét  nghiệm đặc hiệu. Tuy nhiên, phơi nhiễm dioxin rất khó có thể tìm thấy các  
  10. 10 triệu chứng đặc hiệu như  vậy. Một vài nhân tố  làm phức tạp thêm việc  nhận định các dữ kiện về tác dụng lên sức khỏe sau khi phơi nhiễm như sự  thiếu sót số  liệu về  phơi nhiễm, phơi nhiễm đồng thời với các hóa chất  khác, cỡ  mẫu chưa đủ  lớn… đã làm hạn chế  giá trị  thống kê của nghiên   cứu.  Nhiều   nghiên  cứu   tình  trạng  sức   khỏe  sau   khi   bị   phơi  nhiễm   với   2,3,7,8­TCDD và các hợp chất liên quan nhưng lại không định lượng được  nồng độ  phơi nhiễm và liều xâm nhập. Do đó các nhà nghiên cứu phải  chọn phương pháp nghiên cứu dịch tễ  học phù hợp để  so sánh tỷ  lệ  mắc   bệnh giữa các quần thể  người bị  phơi nhiễm với các quần thể  không bị  phơi nhiễm, từ đó tìm hiểu mối quan hệ ở cấp độ số đông [2], [17]. 1.1.6. Phương pháp định lượng dioxin Là một trong những chất ô nhiễm hữu cơ  bền nhất (đặc tính ưa lipid   và rất khó chuyển hóa) nên việc xác định được nồng độ dioxin là khá phức   tạp. Kỹ  thuật DR CALUX dùng tế  bào cảm biến sinh học để  định lượng  dioxin và PCB trong mẫu phân tích (dựa vào đặc tính của dioxin, PCB và  DLCs gắn đặc hiệu vào thụ thể Ah trên bề mặt tế bào; đã phát triển được  dòng tế  bào đặc trưng (H4II) phát hiện dioxin và PCB). Với kỹ  thuật DR   CALUX, kết quả xác định được là tổng đương lượng độc (TEQ) của tất cả  các đồng loại dioxin, PCB, không định lượng được nồng độ từng đồng loại  dioxin như kỹ thuật sắc ký khí ghép khối phổ (GCMS) [33], [34], [35]. Từ   năm   1980,   tiêu  chuẩn   vàng  xác   định   có  phơi  nhiễm   dioxin  hay  không phải sử dụng phương pháp GCMS; sắc ký kết hợp khối phổ với độ  phân   giải   cao   (HRGC­HRMS).   Ngưỡng   phát   hiện   của   GCMS   là   1  picrogram (0.000000000001 gram). Hiện nay GCMS là phương pháp duy  nhất để  đo nồng độ  từng đồng loại dioxin, được sử  dụng  ở  tất cả  các  
  11. 11 phòng xét nghiệm dioxin trên Thế  giới, kể  cả  các tổ  chức như  CDC Hoa  Kỳ, lực lượng Không quân Hoa Kỳ, WHO [36], [37].  Năm  1995 là năm  Việt Nam phân tích  được 17 đồng loại  độc của  dioxin/furans bằng phương pháp GCMS, là một bước tiến quan trọng trong   lĩnh vực nghiên cứu dioxin, tạo thế chủ động cho các nghiên cứu về dioxin   ở Việt Nam [2], [14], [21].  Các nghiên cứu trước đây định lượng dioxin trong máu người Việt  Nam thường dùng các mẫu gộp; chỉ một số ít nghiên cứu sử dụng các mẫu  riêng lẻ, vì kỹ thuật phân tích từng mẫu riêng lẻ  yêu cầu thể  tích máu lấy   đến 100 mL, khó thu thập. Với những tiến bộ trong kỹ thuật, hiện có thể  phân tích dioxin trong máu với lượng nhỏ tới 10 mL [39]. GCMS là một trong những phương pháp sắc ký hiện đại nhất hiện  nay với độ  nhạy và độ  đặc hiệu cao. Thiết bị  GCMS gồm 2 thành phần:   sắc ký khí (GC) và khối phổ  (MS). Sắc ký khí (GC) dùng để  chia tách các   hỗn hợp của hóa chất ra thành các phần riêng lẻ, mỗi phần có một giá trị  riêng biệt. Trong sắc ký khí (GC) chia tách xuất hiện khi mẫu bơm vào pha   động. Khối phổ  (MS) được dùng để  xác định một chất hóa học dựa trên  khối lượng của nó. Khi giải hấp các hợp chất riêng lẻ từ cột sắc ký, chúng  đi vào đầu dò có dòng điện ion hóa (mass spectrometry). Phương pháp này  có quá trình tách chiết đặc biệt cho từng loại mẫu, sau đó là quá trình làm  sạch chất cần phân tích và kỹ thuật phân tích sắc ký khí cột mao quản phân  giải cao. Mẫu cần phân tích sẽ được bổ sung thêm chất nội chuẩn và được  chiết theo quy trình chiết đặc trưng kiểu ma trận [40], [41], [42]. 2,3,7,8­TetraCDD là đồng loại độc nhất và được quy  ước hệ  số  độc  tương đương (TEF) là TEF = 1. Những đồng loại khác được gán giá trị hệ  số độc tùy theo mức độ độc của nó so với đồng loại 2,3,7,8­TCDD. Ví dụ, 
  12. 12 hệ số  độc của đồng loại 1,2,3,4,7,8­Hexachlorodibenzo­p­dioxin bằng 0,1 ­  nghĩa là mức độ độc của đồng loại này bằng 1/10 so với đồng loại 2,3,7,8­ TCDD. Hệ  số  độc quy đổi của 17 đồng loại dioxin được WHO cập nhật  gần đây nhất là năm 2005 (WHO­TEF 2005). Tổng độ  độc TEQ của toàn   bộ 17 đồng loại tính bằng tổng nồng độ nhân với hệ số độc của từng đồng  loại. Đây là một chỉ số  quan trọng để  đánh giá mức độ  phơi nhiễm dioxin   trong cơ thể [1], [36], [43].  1.1.7. Thực trạng ô nhiễm dioxin tại các khu vực của sân bay quân sự  Biên Hòa, Đà Nẵng và Phù Cát * Sân bay Biên Hòa SBBH thuộc địa phận tỉnh Đồng Nai, có tọa độ  105O58’30” vĩ Bắc và  106O49’10” kinh Đông, phía Tây cách sông Đồng Nai khoảng 700 m, cách  thành phố Hồ Chí Minh khoảng 30 km về phía Đông Bắc [1], [21]. Tình hình ô nhiễm chất da cam/dioxin  ở  SBBH còn khá phức tạp cả  về quy mô và mức độ ô nhiễm. Về cơ bản, SBBH có các khu vực ô nhiễm  nặng bao gồm: khu vực Z1  ở  phía Nam khu trung tâm (căn cứ  của chiến  dịch Ranch Hand); khu vực các ao hồ ở hạ lưu nơi tiếp nhận lan tỏa đất bị  ô nhiễm rửa trôi; khu vực Tây Nam nằm  ở phía Tây khu vực Z1 gần vành  đai căn cứ  (khu vực cất giữ chất diệt cỏ cho chiến dịch Pacer Ivy) và khu  vực Pacer Ivy ở phía Tây của SBBH (tập kết chất diệt cỏ trước khi đưa ra   đảo Johnston ở Thái Bình Dương) [2], [44]. Khu vực Z1 và vùng lân cận: Kết quả  của các đợt khảo sát do Bộ  Quốc phòng (BQP) thực hiện trong khuôn khổ  của Dự  án Z1 và Chương  trình 33 cho thấy nồng độ  dioxin trong đất và trầm tích của khu vực Z1 là   rất cao, với nồng độ  cao nhất là 410.000 ppt TEQ trong đất và 5470 ppt   (theo trọng lượng khô) trong trầm tích. Các đợt khảo sát tiếp theo vào năm 
  13. 13 2004 ­ 2005 cho thấy nồng độ  vẫn cao trong một vài mẫu trầm tích tại hồ  2, với nồng độ cao nhất trong mẫu trầm tích là 833 ppt TEQ. Trong chương  trình khảo sát vào tháng 1 năm 2008, hiện trạng ô nhiễm dioxin tại khu Z1  vẫn còn cao, với nồng độ  TEQ của mẫu cao nhất là 262.000 ppt. Kết quả  phân tích năm 2010 do Hatfeld và Văn phòng 33 (VP33) thực hiện cho hầu  hết các mẫu lấy tại khu vực Z1 đều có nồng độ TEQ thấp, mẫu cao nhất là  3.210 ppt. Điều này nỗ lực xử lý khu vực này của Việt Nam đã có hiệu quả.  Tuy nhiên, khu vực vành đai khu vực Z1 cần được quan tâm thêm, đặc biệt  là nghiên cứu tầng sâu. Nghiên cứu tại các ao hồ trong khu vực Z1 cho thấy  các hồ sau có hàm lượng dioxin trong đất và trầm tích vượt tiêu chuẩn cho   phép: hồ  1 (2.249 pg­TEQ/g), hồ  2 (833 pg­TEQ/g), hồ  Cổng 2 (508 pg­ TEQ). Các hồ  này nuôi trồng rau, cá, một số  người dân vẫn còn tiêu thụ  thực phẩm từ hồ này [21]. Cá rô phi thu được từ tất cả các hồ bên trong và  ngoài khu vực SBBH có nồng độ  dioxin trong mô mỡ  vượt quá các hướng   dẫn liên quan của Hoa Kỳ  và Quốc tế. Mức cao nhất ghi nhận được thấy  trong mỡ cá là 4.040 ppt TEQ [2].
  14. 14 Hình 1.4. Bản đồ vị trí sân bay Biên Hòa và những điểm đã biết  hay có khả năng ô nhiễm dioxin Đường viền màu đen: khu vực sân bay Biên Hòa. Đường viền màu đỏ:   đường biên với các khu vực lân cận. Đường viền màu vàng biểu thị  khu   vực đã biết hoặc có thể ô nhiễm dioxin. Hình màu đỏ có gạch chéo biểu thị   khu vực đã được xác định có ô nhiễm dioxin qua các nghiên cứu trước đó.    * Nguồn: Theo USAID (2016) [1]. Khu   vực   Nam   sân   bay:   Khu   vực   này   được   nghiên   cứu   bởi  VP33/Hatfeld năm 2008, 2010 và bởi BQP vào năm 2012 trong dự  án Z9.  Kết quả  nghiên cứu nhìn chung đưa ra nhận định khu vực này có mức ô   nhiễm trung bình, có những điểm ô nhiễm cao và rất cao. Trong đó, độ  sâu   ô nhiễm nằm trong khoảng 60 cm, và diện tích 1 ha [21]. Khu vực Pacer Ivy: Tính tới thời điểm năm 2013, tại khu vực này có 4   nghiên cứu được ghi nhận (năm 2008, 2010, 2011, 2012), tổng số  mẫu đất 
  15. 15 được lấy trong 4 nghiên cứu này là khoảng 200 mẫu. Phân tích các mẫu  trên cho thấy ô nhiễm dioxin tại khu vực này là trung bình và cao, có những  điểm ô nhiễm rất cao. Trầm tích các ao hồ trong khu vực này đã được phân  tích, và một số  hồ  vượt tiêu chuẩn dioxin cho phép. Theo nghiên cứu của  VP33/UNDP (2011), hướng lan tỏa từ  khu vực Pacer Ivy có thể  rộng hơn   dự kiến ban đầu [21].  Vành đai phía Bắc và Đông sân bay: Nồng độ  dioxin cao được phát  hiện tại một số  vị  trí tại vành đai phía bắc và đông của sân bay. Các khu   này biệt lập và nằm xa với các khu vực ô nhiễm đã biết như Z1, Pacer Ivy   [21].  * Sân bay Đà Nẵng SBĐN   nằm   trong   tọa   độ   16O  vĩ   Bắc   và   108O15’   kinh   Đông,   thuộc  phường Thạc Gián, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng. SBĐN là sân bay  quốc tế khu vực miền Trung và có vị trí quan trọng trong bảo đảm an ninh,   quốc phòng. SBĐN nằm trong nội thành nên mọi hoạt động trong sân bay  đều có  ảnh hưởng tới cộng đồng dân cư  xung quanh như: tiếng  ồn, khí   thải, nước thải và đặc biệt là khu tồn lưu chất da cam/dioxin trong sân bay  và từ đó lan tỏa ra xung quanh [21]. SBĐN là một trong những cứ  điểm then chốt của Chiến dịch Ranch   Hand, chỉ  xếp sau SBBH xét về  số  lượng các đợt phun rải và khối lượng   chất diệt cỏ được cất giữ và sử dụng [2], [21]. 
  16. 16      Hình 1.5. Bản đồ vị trí sân bay Đà Nẵng và những điểm ô nhiễm   dioxin Đường viền xám: khu vực sân bay Đà Nẵng. Đường viền màu vàng nét đứt   biểu thị  biên giới quận. Đường viền màu đỏ  biểu thị  các khu vực điểm  
  17. 17 nóng ô nhiễm dioxin (Sen Lake – hồ  Sen; Drainage Ditch – mương thoát   nước; Eastern Wetland – đầm lầy phía đông; Eastern Hotspot – điểm nóng   phía đông; Fomer Storage Area – khu vực lưu trữ trước đây; Former Mixing   and Loading Area – khu vực trộn và tải nạp trước đây; Pacer Ivy Storage   Area – khu lưu trữ Pacer Ivy).  * Nguồn: Theo USAID (2016) [1]. Quân đội Hoa Kỳ từng sử dụng SBĐN và bãi tồn trữ chất độc hóa học   cho   chiến   dịch   Ranch   Hand   từ   tháng   5/1964   đến   7/1/1971.   Từ   ngày  17/4/1970 đến 31/3/1972, SBĐN còn phục vụ cho chiến dịch thu hồi (Pacer   Ivy) nhằm xóa hết dấu vết của chất độc hóa học/dioxin, đã thu hồi 8.200   thùng chất da cam và vỏ  thùng đưa về  Mỹ  (số  liệu do BQP Hoa Kỳ  cung   cấp). Sau kết luận của dự  án Z2 ­ BQP, SBĐN trở  thành “điểm nóng” ô   nhiễm chất độc hóa học/dioxin và đã được khảo sát, nghiên cứu sâu, tập  trung sự chú ý của Chính phủ Việt Nam và các Tổ chức Quốc tế [2], [19]. Do đặc thù của SBĐN được sử  dụng hỗn hợp cho mục đích quân sự  và dân sự  nên vấn đề  xử  lý ô nhiễm tại đây được hai Chính phủ  Mỹ  và   Việt Nam lựa chọn ưu tiên phối hợp thực hiện [44]. Khu vực nhiễm chất da cam/dioxin cao trong SBĐN trước khi tẩy độc   hoàn toàn là: khu kho chứa, khu rửa, khu nạp và một số khu vực khác. Nồng  độ  TEQ lớn nhất trong đất được ghi nhận vào năm 2006 là 365.000 ppt  trong các mẫu lấy tại khu trộn và nạp cũ, nồng độ này vượt giá trị giới hạn  cao nhất (1.000 ppt). Nồng độ dioxin và furan cho thấy ô nhiễm tại sân bay   là cực cao, đầu phía bắc của SBĐN là một điểm ô nhiễm dioxin điển hình.   Đầu phía nam SBĐN cho thấy ô nhiễm dioxin có giới hạn [21].  Khu vực trộn và tải nạp lên máy bay, khu vực lưu trữ  và kênh thoát   nước: Ô nhiễm dioxin tại các khu vực này cao nhất trong sân bay. Ô nhiễm 
  18. 18 sâu xuống tới 150 cm và nhiều nơi còn sâu hơn. Kênh thoát nước mang chất  ô nhiễm từ khu vực trộn, tải nạp và khu vực lưu trữ tới hồ Sen [21]. Các ao và hồ  tại sân bay: Theo hướng lan tỏa, dioxin tích tụ  trong hồ  Sen, trong bùn, động vật, thực vật thủy sinh: trong 3 hồ, hồ  Sen A b ị   ô   nhiễm dioxin nặng cần có biện pháp xử  lý. Hồ  B và hồ  C: trong các mẫu  bùn và cá nồng độ  dioxin không cao, dưới 100 ppt TEQ. Động thực vật  thủy sinh tại hồ  Sen A bị  nhiễm dioxin với nồng độ  cao, vượt các giá trị  tiêu chuẩn. Trên cá rô phi thu được từ  hồ  Sen tại SBĐN thấy nồng độ  dioxin trong mỡ cá lên tới 8.350 ppt TEQ,  ở cơ  cá (88,2 ppt TEQ),  ở trứng  cá (1.290 ppt TEQ) và gan cá (1.540 ppt TEQ). Do đó, tất cả hoạt động nuôi   trồng đánh bắt động vật thủy sinh tại đây đây đều bị nghiêm cấm [2], [21]. Khu vực ngoài sân bay theo hướng lan tỏa: Đất khu dân cư, bùn trong  các hồ  Xuân Hà, hồ  29­3, sông Hàn, sông Cẩm Lệ, sông Phú Lộc có nồng  độ  dioxin thấp, dưới mức cho phép. Khu vực đất ngập nước phía đông,  gần khu hồ Sen cũng có hàm lượng dioxin nằm trong khoảng hàng trăm ppt  nhưng hoạt động lấy mẫu còn hạn chế  trong khu vực này còn giới hạn   trong khu vực rộng. Một phần khu vực này không thể tiếp cận do khó khăn  liên quan tới địa hình [21]. Khu vực Pacer Ivy: Khu vực lưu trữ Pacer Ivy được điều tra trong một  vài nghiên cứu. Một vài mẫu có phát hiện ô nhiễm dioxin, với nồng độ cao  nhất là 20.600 pg­TEQ/g. Đất ở tầng sâu (>30 cm) có hàm lượng TEQ thấp   hơn. Khu vực đóng thùng Pacer Ivy không thấy hàm lượng dioxin nồng độ  cao [21]. Nghiên cứu của Hatfield Consultants về nồng độ  dioxin có trong một  số loại thực phẩm tại điểm nóng SBĐN cho thấy nồng độ dioxin trong một  số  thực phẩm rất cao: nồng độ  dioxin mẫu cá lấy  ở  hồ  Sen bên trong sân  
  19. 19 bay là 33,2 pg/g (đối với thịt cá) và 3.000 pg/g (đối với mỡ  cá), nồng độ  dioxin tối đa trong thực phẩm thông thường là dưới 0,1 pg/g [45], [46], [47]. * Sân bay Phù Cát SBPC thuộc địa phận tỉnh Bình Định, nằm trong tọa độ  13O57’48” vĩ  Bắc, 109O03’57” kinh Đông và có địa giới hành chính như sau: phía bắc giáp  xã Cáp Tân, phía Nam ­ xã Nhơn Thành, phía Đông giáp quốc lộ 1A và phía   Tây giáp xã An Nhơn cách Trung tâm thành phố  Quy Nhơn khoảng 28 km  về phía Tây Bắc [21]. Hình 1.6. Các khu vực có số liệu khảo sát định lượng dioxin tại sân bay   Phù Cát trong dự án Z3 giai đoạn 1999­2002 A, B, C Lake: Hồ A, B, C; Storage Area: Khu nạp; Buffer zone: Khu đệm;   Washing Area: Khu rửa. * Nguồn: VP 33, Bộ Tài nguyên và Môi trường (2013) [21]. Khu vực nhiễm độc và theo hướng lan tỏa trong sân bay Phù Cát được   chia thành các khu sau:
  20. 20 ­ Khu nhiễm độc cao: khu chứa chất độc hoá học và nạp chất độc lên   phương tiện phun rải. ­ Khu rửa phương tiện: sau nhiệm vụ phun rải chất phát quang. ­ Khu vực vùng đệm: nằm trên vùng đất từ  khu chứa, nạp, rửa đến   cửa cống qua đường liên khu bom chảy vào hồ A. ­ Hồ A, hồ B, hồ C. Qua phân tích kết quả cho thấy: khu chứa, nạp có nồng độ  dioxin cao   nhất, nồng độ  trung bình là 11.400 ppt TEQ (n = 12). Khu đệm và khu rửa  có nồng độ  dioxin thấp; khu đệm và khu rửa với nồng độ  trung bình trong  đất lần lượt là 269 và 18 ppt I­TEQ. Trong khuôn khổ dự án Z3 đã tiến hành  lấy một số  mẫu theo chiều sâu đến 150 cm. Kết quả  phân tích dioxin tại  khu vực Z3 cho thấy giá trị  T% (2,3,7,8­TCDD/I­TEQ) cao trên 90%. Điều  đó cho thấy dioxin trong khu nhiễm có nguồn gốc từ chất da cam. Các mẫu lấy tại các khu vực do BQP Mỹ  giới thiệu (khu vực góc  Đông Nam của sân bay ­ Khu Pacer Ivy) đều có nồng độ  dioxin thấp và tỷ  lệ 2,3,7,8­TetraCDD trên tổng TEQ nhỏ (dưới 50%); kết quả cho thấy khu   vực này có lẽ  không bị  sử  dụng nhiều chất da cam trong thời gian chiến  tranh. Tất cả đất nhiễm tại khu vực Z3, phía bắc, bể sa lắng đã được đưa  vào khu vực chôn lấp an toàn nằm  ở  đầu bắc của sân bay vào năm 2012.  Khu vực chôn lấp được cách ly với các khu vực có người trong và ngoài sân  bay. Rủi ro phơi nhiễm dioxin tại SBPC được giảm đáng kể [21].  Năm 2012, tổng số 7000m3 đất bị ô nhiễm đã được thu gom, cô lập và  chôn lấp. Tại khu vực chôn lấp có các bể  bê tông được xây dựng để  ngăn   ngừa chất ô nhiễm độc hại phát tán ra môi trường [21]. 
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2