BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC
TRỊNH THỊ HẠNH
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG
VÀ KẾT QUẢ XỬ TRÍ NGƯỜI BỆNH
TIỀN SẢN GIẬT TẠI KHOA PHỤ SẢN – BỆNH VIỆN
TRUNG ƯƠNG THÁI NGUYÊN
LUẬN VĂN BÁC SỸ NỘI TRÚ SẢN
THÁI NGUYÊN - 2020
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC
TRỊNH THỊ HẠNH
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG
VÀ KẾT QUẢ XỬ TRÍ NGƯỜI BỆNH
TIỀN SẢN GIẬT TẠI KHOA PHỤ SẢN – BỆNH VIỆN
TRUNG ƯƠNG THÁI NGUYÊN
Chuyên ngành: Sản phụ khoa
Mã số: NT 62.72.13.01
LUẬN VĂN BÁC SĨ NỘI TRÚ SẢN
Người hướng dẫn khoa học:
BSCKII. Hoàng Đức Vĩnh
THÁI NGUYÊN – 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, không trùng
với bất kỳ một nghiên cứu nào trước đó. Các số liệu nghiên cứu là hoàn toàn
trung thực và chưa từng được ai công bố trong các nghiên cứu trước.
Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Tác giả
Trịnh Thị Hạnh
LỜI CẢM ƠN
Trải qua những năm tháng học tập, làm việc và nghiên cứu tại Trường
Đại học Y Dược Thái Nguyên, tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn sâu sắc đến:
Ban Giám hiệu, Phòng Đào tạo Trường Đại học Y Dược Thái Nguyên.
Ban Giám đốc Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên.
Bộ môn Phụ Sản Trường Đại học Y Dược Thái Nguyên đã luôn tạo mọi
điều kiện, ủng hộ hỗ trợ tôi trong quá trình học tập và làm việc.
Đặc biệt, tôi xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc và kính trọng đến
Thầy hướng dẫn, BS CKII Hoàng Đức Vĩnh người thầy đã tận tình dạy dỗ, dìu
dắt giúp đỡ tôi trong những tháng ngày học tập và nghiên cứu để hoàn thành
luận án này.
Tôi xin cảm ơn tập thể các Bác sĩ và nhân viên Khoa Phụ Sản Bệnh Viện
Trung Ương Thái Nguyên đã ủng hộ tôi trong suốt quá trình học tập, làm việc
và nghiên cứu.
Con xin được bày tỏ lòng biết ơn Cha, Mẹ - những đấng sinh thành đã
nuôi dưỡng con nên người, là nguồn động lực và chỗ dựa tinh thần lớn nhất của
con.
Xin cảm ơn anh chị em, bạn bè, người thân đã động viên, giúp đỡ cho tôi
trong quá trình học tập và hoàn thành luận án này. Xin tri ân với những tình
cảm sâu sắc nhất.
Thái Nguyên, tháng 11 năm 2020
Trịnh Thị Hạnh
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
ACOG American College of Obstetricians and Gynecologists: Hiệp hội
sản phụ khoa Hoa kỳ
HATB Huyết áp trung bình
HATTh Huyết áp tâm thu
HATTr Huyết áp tâm trương
HELLP Hemolysis- Elevated Liver enzyme- Low plateletes: tan huyết,
tăng các men gan và giảm tiểu cầu
NICE National Institute for Health and Care Excellence: Viện Chăm
sóc sức khỏe quốc gia của Anh
SG Sản giật
THA Tăng huyết áp
TSG Tiền sản giật
TSG - SG Tiền sản giật – sản giật
WHO World Health Organization: Tổ chức Y tế thế giới
MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ .................................................................................................. 1
Chương 1. TỔNG QUAN ............................................................................... 3
1.1. Đặc điểm chung về bệnh tiền sản giật........................................................ 3
1.1.1. Định nghĩa ............................................................................................... 3
1.1.2. Cơ chế bệnh sinh ..................................................................................... 3
1.1.3. Các yếu tố nguy cơ .................................................................................. 3
1.1.4. Tình hình tiền sản giật ............................................................................. 4
1.2. Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng bệnh nhân tiền sản giật ........................ 5
1.2.1. Đặc điểm lâm sàng bệnh nhân tiền sản giật ............................................ 5
1.2.2. Đặc điểm cận lâm sàng bệnh nhân tiền sản giật ..................................... 7
1.2.3. Chẩn đoán tiền sản giật ......................................................................... 11
1.3. Biến chứng của tiền sản giật .................................................................... 13
1.3.1. Biến chứng tiền sản giật gây ra cho thai phụ ........................................ 13
1.3.2. Biến chứng tiền sản giật gây ra cho thai nhi ......................................... 14
1.4. Xử trí tiền sản giật .................................................................................... 15
1.4.1. Quản lý thai nghén cho những thai phụ bị TSG ................................... 15
1.4.2. Điều trị ................................................................................................... 15
1.5. Một số nghiên cứu về tiền sản giật .......................................................... 25
Chương 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ............. 28
2.1. Đối tượng nghiên cứu............................................................................... 28
2.1.1. Tiêu chuẩn lựa chọn .............................................................................. 28
2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ ................................................................................ 28
2.1.3. Tiêu chuẩn chẩn đoán tiền sản giật ....................................................... 28
2.2. Địa điểm nghiên cứu ................................................................................ 28
2.3. Thời gian nghiên cứu ............................................................................... 28
2.4. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................... 29
2.4.1. Thiết kế nghiên cứu ............................................................................... 29
2.4.2. Cỡ mẫu nghiên cứu ............................................................................... 29
2.4.3. Cách thu thập số liệu ............................................................................. 29
2.5. Biến số nghiên cứu ................................................................................... 30
2.5.1. Biến số về đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu ......................... 30
2.5.2. Biến số về đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng tiền sản giật ................ 31
2.5.3. Biến số về thái độ xử trí ........................................................................ 35
2.6. Xử lý số liệu ............................................................................................. 38
2.7. Đạo đức nghiên cứu ................................................................................. 38
Chương 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ........................................................ 39
3.1. Đặc điểm chung của bệnh nhân nghiên cứu ............................................ 39
3.2. Triệu chứng lâm sàng, cận lâm sàng của bệnh nhân nghiên cứu ............. 42
3.2.1. Triệu chứng lâm sàng của bệnh nhân nghiên cứu ................................. 42
3.2.2. Các triệu chứng cận lâm sàng của bệnh nhân nghiên cứu .................... 44
3.2.3. Phân loại tiền sản giật ........................................................................... 46
3.3. Kết quả xử trí người bệnh tiền sản giật tại khoa Phụ sản, Bệnh viện Trung
ương Thái Nguyên ........................................................................................... 47
3.3.1. Điều trị nội khoa .................................................................................... 47
3.3.2. Phương pháp chấm dứt thai kì .............................................................. 47
3.3.3. Chỉ định đình chỉ thai nghén trong tiền sản giật ................................... 48
3.3.4. Kết quả điều trị và biến chứng .............................................................. 48
Chương 4. BÀN LUẬN ................................................................................. 51
4.1. Đặc điểm chung của bệnh nhân nghiên cứu ............................................ 51
4.2. Bàn luận về triệu chứng lâm sàng, cận lâm sàng của bệnh nhân TSG .... 55
4.2.1. Triệu chứng lâm sàng của bệnh nhân nghiên cứu ................................. 55
4.2.2. Bàn luận về triệu chứng cận lâm sàng của bệnh nhân nghiên cứu ....... 59
4.2.3. Bàn luận về phân loại TSG ................................................................... 65
4.3. Kết quả xử trí người bệnh tiền sản giật tại khoa Phụ sản, Bệnh viện Trung
ương Thái Nguyên ........................................................................................... 66
4.3.1. Điều trị nội khoa .................................................................................... 66
4.3.2. Bàn luận về phương pháp chấm dứt thai kì .......................................... 67
4.3.3. Bàn luận về chỉ định đình chỉ thai nghén trong tiền sản giật ................ 70
4.3.4. Bàn luận về kết quả điều trị và biến chứng ........................................... 72
KẾT LUẬN .................................................................................................... 78
KHUYẾN NGHỊ ............................................................................................ 79
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................
BỆNH ÁN NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG TIỀN SẢN GIẬT TẠI BỆNH
VIỆN TRUNG ƯƠNG THÁI NGUYÊN NĂM 2018-2019 ...........................
DANH SÁCH BỆNH NHÂN ...........................................................................
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1. Phân loại mức độ tăng huyết áp theo khuyến cáo của Mỹ và Châu Âu .. 6
Bảng 1.2. Tiêu chuẩn chẩn đoán tiền sản giật ................................................. 11
Bảng 1.3. Phân loại TSG theo Hướng dẫn chuẩn quốc gia 2016 ................... 12
Bảng 2.1. Phân loại mức độ tăng huyết áp theo ESC - ESH .......................... 31
Bảng 2.2. Giá trị các xét nghiệm cận lâm sàng ............................................... 34
Bảng 2.3. Chỉ số Apgar ................................................................................... 36
Bảng 2.4. Tiêu chuẩn chẩn đoán tiền sản giật. ................................................ 37
Bảng 3.1. Đặc điểm độ tuổi của bệnh nhân nghiên cứu ................................. 39
Bảng 3.2. Đặc điểm nghề nghiệp của bệnh nhân nghiên cứu ......................... 39
Bảng 3.3. Phân bố bệnh nhân nghiên cứu theo dân tộc .................................. 40
Bảng 3.4. Phân bố bệnh nhân nghiên cứu theo đặc điểm quản lí thai ............ 41
Bảng 3.5. Phân bố bệnh nhân nghiên cứu theo tiền sử bệnh .......................... 42
Bảng 3.6. Đặc điểm triệu chứng THA của bệnh nhân nghiên cứu ................. 42
Bảng 3.7. Đặc điểm triệu chứng phù của bệnh nhân nghiên cứu ................... 43
Bảng 3.8. Các triệu chứng lâm sàng khác kèm theo của bệnh nhân nghiên cứu
......................................................................................................... 43
Bảng 3.9. Phân bố theo lượng protein niệu ..................................................... 44
Bảng 3.10. Đặc điểm acid uric, Protein, Ure và Creatinin huyết thanh .......... 44
Bảng 3.11. Đặc điểm xét nghiệm men gan ..................................................... 45
Bảng 3.12. Đặc điểm xét nghiệm tiểu cầu và Fibrinogen ............................... 45
Bảng 3.13. Phân bố tỷ lệ chỉ số ối và trọng lượng thai qua siêu âm ............... 46
Bảng 3.14. Phân loại tiền sản giật ................................................................... 46
Bảng 3.15. Tỷ lệ bệnh nhân điều trị nội khoa ................................................. 47
Bảng 3.16. Phương pháp chấm dứt thai kì ở bệnh nhân nghiên cứu .............. 47
Bảng 3.17. Chỉ định đình chỉ thai nghén trong tiền sản giật ........................... 48
Bảng 3.18. Thời gian từ lúc vào viện đến lúc sinh ......................................... 48
Bảng 3.19. Phân bố tuổi thai kết thúc thai nghén ........................................... 49
Bảng 3.20. Phân bố tình trạng con sau sinh .................................................... 49
Bảng 3.21. Phân bố tình trạng nước ối hồi cứu sau sinh ................................ 50
Bảng 3.22. Tỷ lệ biến chứng ........................................................................... 50
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 3.1. Phân bố bệnh nhân nghiên cứu theo nơi ở ................................. 40
Biểu đồ 3.2. Đặc điểm số lần sinh của bệnh nhân nghiên cứu ....................... 41
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Tiền sản giật là bệnh lý do thai nghén hoặc ảnh hưởng của một thai nghén
rất gần gây nên với sự xuất hiện tăng huyết áp với protein niệu, có hoặc không
kèm theo phù. Tiền sản giật thường xảy ra sau tuần lễ thứ 20 của thai kỳ và
chấm dứt sau 6 tuần sau đẻ [8]. Theo thống kê của Tổ chức Y tế Thế giới, tỷ lệ
tiền sản giật dao động trong khoảng từ 2 - 10% tổng số thai phụ [78]. Tỷ lệ này
thấp hơn ở các nước phát triển như Hoa Kỳ và Châu Âu: 2 - 5% [55], [79] và ở
các nước đang phát triển là từ 1,8 - 16,7% [71]. Tại Việt Nam, tỷ lệ tiền sản
giật chiếm khoảng 2,8 - 5,5% tổng số thai phụ. Theo Cao Ngọc Thành và cs
(2015) thì tỷ lệ tăng huyết áp trong tổng số thai phụ là 3,74%, tỷ lệ tiền sản giật
là 2,84% [11]. Tiền sản giật là mối nguy cơ lớn cho tất cả các thai phụ và có
thể xảy ra ở bất kỳ quốc gia nào.
Tiền sản giật có thể gây những biến chứng nặng cho mẹ như: sản giật,
xuất huyết nào, màng não, mù mắt, hoại tử ống thận, suy thận cấp, chảy máu
dưới bao gan, vỡ gan, rối loạn đông máu, hội chứng HELLP (Hemolysis -
Elevated Liver enzyme - Low plateletes: tan huyết, tăng các men gan và giảm
tiểu cầu) [10]. Đối với thai nhi, tiền sản giật có thể gây ra những hậu quả như:
thai chậm phát triển trong tử cung, đẻ non, thai chết lưu trong tử cung hoặc thai
chết ngay sau đẻ [10]. Nghiên cứu của Phạm Thị Mai Anh (2009) thấy trong số
thai phụ bị tiền sản giật, tỷ lệ đẻ non tháng là 82% [36]. Tử vong chu sinh tăng
trong các thai kỳ tiền sản giật – sản giật khoảng 3% chủ yếu liên quan đến sinh
non và khoảng 10% trẻ nhẹ cân [58].
Tiền sản giật được biểu hiện bởi 3 triệu chứng chính là tăng huyết áp,
phù và protein niệu; ngoài ra bệnh nhân có thể có các triệu chứng khác như
thiếu máu, mờ mắt, đau đầu, thiểu niệu… [42]. Nghiên cứu của Đỗ Xuân Vinh
(2019) cho kết quả: tỉ lệ tăng huyết áp chiếm 97,5%, phù chiếm 40,7% và
2
protein niệu ≥ 3g/l chiếm 69,1% trong tổng số thai phụ tiền sản giật [13]. Việc
xử trí bệnh nhân tiền sản giật phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: tuổi thai phát
hiện bệnh, mức độ nặng của bệnh, tình trạng cổ tử cung, điều kiện cơ sở vật
chất… Đến hiện tại, hình thức điều trị duy nhất cho tiền sản giật nặng là ổn
định tình trạng của mẹ và thai nhi rồi chấm dứt thai kỳ vào thời điểm tốt nhất
cho cả hai bên [52].
Cho đến nay, nguyên nhân và cơ chế bệnh sinh của tiền sản giật chưa rõ
ràng. Bệnh có biểu hiện các rối loạn bệnh lý ở nhiều cơ quan nhưng đặc điểm
lâm sàng, cận lâm sàng lại diễn biến khác nhau tùy từng trường hợp. Việc phát
hiện và xử trí sớm tiền sản giật sẽ giúp cải thiện tình trạng bệnh, giảm tỉ lệ biến
chứng cho mẹ và con [67], qua đó nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe sinh
sản tại bệnh viện. Câu hỏi đặt ra cho chúng tôi là: Đặc điểm lâm sàng, cận lâm
sàng của người bệnh tiền sản giật biểu hiện như thế nào? Kết quả xử trí người
bệnh tiền sản giật ra sao? Xuất phát từ những câu hỏi trên, chúng tôi tiến hành
thực hiện đề tài: “Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả xử trí người
bệnh tiền sản giật tại khoa Phụ sản - Bệnh viện Trung Ương Thái Nguyên”
nhằm mục tiêu:
1. Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của người bệnh được chẩn đoán
và điều trị tiền sản giật tại khoa Phụ sản, Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên.
2. Phân tích kết quả xử trí bệnh tiền sản giật tại khoa Phụ sản, Bệnh
viện Trung ương Thái Nguyên.
3
Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. Đặc điểm chung về bệnh tiền sản giật
1.1.1. Định nghĩa
Tiền sản giật (TSG) là một rối loạn của thai kỳ liên quan đến tăng huyết
áp (THA) mới khởi phát, thường xảy ra sau 20 tuần tuổi thai. Mặc dù thường
đi kèm với protein niệu mới khởi phát, THA và các dấu hiệu hoặc triệu chứng
khác của TSG có thể xuất hiện ở một số phụ nữ khi không có protein niệu [83],
nhưng TSG có thể biểu hiện với nhiều dấu hiệu và triệu chứng khác bao gồm:
đau đầu, đau thượng vị và phù tăng nhanh [83].
Trước năm 2013, sự hiện diện của protein niệu là một yếu tố cần thiết để
chẩn đoán TSG. Sau đó người ta nhận ra rằng một số bệnh nhân mắc bệnh tiến
triển trước khi có thể phát hiện thấy protein trong nước tiểu. Điều này đã được
loại bỏ trong báo cáo năm 2013 của ACOG (American College of Obstetricians
and Gynecologists) về THA ở thai kỳ [53].
1.1.2. Cơ chế bệnh sinh
Cho đến nay cơ chế bệnh sinh của TSG chưa rõ ràng, biểu hiện lâm
sàng toàn thân ở nhiều cơ quan. Thực chất đây là biểu hiện các rối loạn bệnh lý
ở tạng đích do thai nghén gây ra với 4 giả thuyết mà nhiều tác giả cho là nguyên
nhân gây ra TSG:
- Thuyết co thắt mạch máu.
- Thuyết về hệ Renin – Angiotensin – Aldosteron.
- Thuyết Prostacyclin và Thromboxan A2.
- Thuyết cơ chế tổn thương nội mạc mạch máu.
1.1.3. Các yếu tố nguy cơ
1.1.3.1. Tuổi của thai phụ
4
Tỷ lệ TSG tăng lên ở những thai phụ con so trẻ tuổi hoặc mang thai cách
lần trước lơn hơn 10 năm và tăng cao ở những người lớn tuổi. Trên 40 tuổi
mang thai thì nguy cơ TSG tăng hơn, bất kỳ đẻ lần thứ mấy [82].
1.1.3.2. Số lần đẻ
Người đẻ con so tỷ lệ mắc TSG cao hơn người đẻ con rạ [82].
1.1.3.3. Các yếu tố di truyền
Theo hướng dẫn của NICE 2019, TSG có khuynh hướng gia đình, Những
người có người trong gia đình có tiền sử TSG, có nguy cơ cao hơn mắc TSG
so với những người khác [82].
1.1.3.4. Sắc tộc
Nghiên cứu của Onah về yếu tố nguy cơ của TSG đã xác định được tỷ lệ
TSG ở những người da đen cao hơn người da trắng ở cùng độ tuổi [69].
1.1.3.5. Chế độ dinh dưỡng
Người béo phì có nguy cơ mắc TSG cáo hơn người bình thường [82].
1.1.3.7. Hút thuốc lá và hoạt động thể lực
Hút thuốc lá không làm tăng nguy cơ TSG [61]. Hoạt động thể lực không
làm tăng tỷ lệ TSG, tuy nhiên nằm nghỉ là một phương pháp thành công trong
điều trị TSG [42], [82].
1.1.3.8. Tiền sử bệnh tật
Tiền sử nội khoa: các bệnh đái tháo đường, béo phì, THA, bệnh thận, suy
tuyến giáp làm tăng nguy cơ phát sinh bệnh và làm nặng bệnh TSG.
Tiền sử sản khoa: tiền sử SG và TSG, thai chết lưu, rau bong non... cũng
là yếu tố làm tăng tỷ lệ phát sinh bệnh và làm nặng thêm bệnh [76].
1.1.3.9. Số lượng thai, thai bất thường
Chửa đa thai: tỷ lệ bị TSG ở những người đa thai cao hơn những người
chửa một thai [82].
1.1.4. Tình hình tiền sản giật
5
Theo thống kê của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), tỷ lệ TSG thay đổi
khoảng từ 2 – 10% trong tổng số thai phụ [78]. Tỷ lệ này thấp hơn ở các nước
phát triển như Hoa Kỳ và Châu Âu, khoảng từ 2 – 5% [55], [79]. Tỷ lệ TSG ở
các nước đang phát triển dao động từ 1,8 – 16,7% [71], bệnh có xu hướng tăng
về tỷ lệ cũng như biến chứng tại một số nước Châu Phi [75].
Tại Việt Nam, loạt nghiên cứu từ năm 2012 đến 2016 tại Huế cho thấy
tỷ lệ TSG khoảng 2,8 – 5,5%[44], [50]. Một số nghiên cứu tại các trung tâm
khác trong nước công bố tỷ lệ TSG trong khoảng từ 3,1 – 4,1% [5], [46]. Nghiên
cứu năm 2016 của tác giả Cao Ngọc Thành và cs tại khu vực miền Trung Việt
Nam cho thấy tỷ lệ tăng huyết áp trong tổng số thai phụ là 3,74%, trong đó tỷ
lệ TSG chiếm 2,84% tổng số thai phụ [11].
1.2. Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng bệnh nhân tiền sản giật
1.2.1. Đặc điểm lâm sàng bệnh nhân tiền sản giật
1.2.1.1. Tăng huyết áp
THA là dấu hiệu quan trọng nhất, đến sớm nhất, gặp nhiều nhất có giá trị
tiên lượng cho cả mẹ và con [53]. Việc chẩn đoán xác định triệu chứng THA
trong TSG khi có huyết áp tâm thu (HATT) ≥ 140 mmHg và/hoặc huyết áp tâm
trương (HATTr) ≥ 90 mmHg [19].
6
Bảng 1.1. Phân loại mức độ tăng huyết áp theo khuyến cáo của Mỹ và
Châu Âu [51], [66]
JNC VII 2003 ESC – ESH 2013
Phân loại HATTh HATTr Phân loại HATTh HATTr
HA HA (mmHg) (mmHg) (mmHg) (mmHg)
Bình Bình <120 và <80 120-129 và 80-84 thường thường
Bình
Tiền THA 120 - 139 và/hoặc 80 - 90 thường 130 - 139 và/hoặc 85 - 89
cao
THA độ 1 140 - 159 và/hoặc 90 - 99 THA độ 1 140 - 159 và/hoặc 90 - 99
160 - 179 và/hoặc 100 - THA độ 2 ≥ 160 và/hoặc ≥ 100 THA độ 2 109
THA độ 3 ≥ 180 và/hoặc ≥110
1.2.1.2. Phù: Đặc điểm của phù:
+ Phù toàn thân, không giảm khi nghỉ ngơi.
+ Phù trắng, mềm, có dấu ấn lõm.
+ Tăng cân nhanh, quá 0,5kg/tuần.
Có thể phù nhiều, phù toàn thân, các chi to lên, ngón tay tròn trĩnh, mặt
nặng, mí mắt húp lại, âm hộ sưng to. Bụng căng lên, nổi hằn dây thắt lưng hay
sau khi nghe tim thai còn hằn dấu vết của ống nghe. Có khi phù cả phủ tạng,
phù phúc mạc nên có nước trong ổ bụng, màng phổi, não. Võng mạc có thể bị
phù nên bệnh nhân bị nhức đầu, mờ mắt. Trong một số trường hợp, phù có thể
nhẹ, kín đáo, chỉ khi ấn lên mắt cá chân mới phát hiện được hoặc buổi sáng hơi
nặng mặt [20].
Triệu chứng phù có thể xuất hiện trên những thai phụ bình thường. Sự giữ
nước sinh lý ở người có thai bình thường và phù do bệnh lý TSG không thể
7
phân biệt được bằng lâm sàng, do đó, dấu hiệu phù không phải là triệu chứng
để chẩn đoán TSG, nhưng nó là dấu hiệu gợi ý quan trọng để dự đoán khả năng
phát sinh những rối loạn THA thai sản. Những thai phụ có phù mắc TSG cao
hơn những thai phụ không có phù [48].
Trong các triệu chứng cơ năng của thai phụ, tỷ lệ triệu chứng phù chiếm
cao. Nghiên cứu của Trương Thị Linh Giang (2017) thấy tỉ lệ thai phụ có triệu
chứng phù là 43,8% [49]. Theo Đỗ Xuân Vinh (2019) tỷ lệ triệu chứng phù là
40,7% trong tổng số sản phụ bị TSG [13].
1.2.1.3. Các triệu chứng lâm sàng khác
Ngoài 2 dấu hiệu lâm sàng thường có trong bệnh lý TSG như THA, phù
còn có thể gặp các triệu chứng sau:
₋ Tình trạng thiếu máu: mệt mỏi, da xanh, niêm mạc nhạt (huyết tán).
₋ Phổi: đôi khi có hội chứng ba giảm do tràn dịch ở màng phổi.
₋ Tim: đôi khi có tiếng thổi cơ năng do thiếu máu, tiếng tim mờ ứ nước ở
màng tim, đôi khi bệnh nhân có kèm theo khó thở nhẹ.
₋ Bụng: có thể có nước cổ trướng tự do, do tràn dịch màng bụng.
₋ Mắt: bệnh nhân đôi khi có cảm thấy mờ mắt do phù võng mạc [9].
Ngoài ra có thể có các dấu hiệu sau:
- Tăng phản xạ.
- Đau đầu tăng, chóng mặt.
- Nhìn mờ, hoa mắt.
- Thiểu niệu (dưới 400ml/24 giờ).
- Đau vùng thượng vị.
- Phù phổi.
Khi xuất hiện các triệu chứng này thường báo hiệu một tình trạng nặng
của bệnh nhân, đó là các biến chứng TSG nặng, suy gan, suy thận... [42].
1.2.2. Đặc điểm cận lâm sàng bệnh nhân tiền sản giật
8
1.2.2.1. Protein niệu
Protein niệu thường là dấu hiệu sau cùng của bộ ba triệu chứng THA,
phù và protein niệu. Mức độ protein niệu có thể thay đổi nhiều trong 24 giờ, do
đó xét để nghiệm protein niệu chính xác nước tiểu phải được lấy mẫu trong 24
giờ [20]. Protein niệu dương tính khi lượng protein > 0,3g/l/24 giờ hoặc trên
0,5g/l/mẫu nước tiểu ngẫu nhiên [20].
Nghiên cứu cho thấy, trong số phụ nữ có protein niệu thai kỳ thì có 25,0%
bị TSG. Protein niệu và hạn chế tăng trưởng của thai nhi là những yếu tố độc
lập liên quan đến sự xuất hiện của TSG. Mức protein niệu cao ≥ 2g/24 giờ là
yếu tố dự báo chính cho bệnh tiến triển (p = 0,03) [59].
1.2.2.2. Protein và albumin huyết thanh
Phụ nữ bị TSG có dấu hiệu rối loạn chức năng nội mô nghiêm trọng ở
cầu thận, thay đổi biểu hiện của protein liên kết với tế bào podocyte, và thậm
chí có thể tổn thương và mất tế bào podocyte. Ngoài tình trạng protein niệu
đáng kể, phụ nữ bị TSG có thể bị suy giảm khả năng lọc cầu thận và, trong
trường hợp nặng, suy thận [64]. Chính bởi sự tổn thương cầu thận khiến cho
protein và albumin có thể đi qua màng lọc cầu thận một cách dễ dàng, làm cho
protein xuất hiện trong nước tiểu và protein, albumin huyết thanh giảm. Mức
độ giảm này càng nhiều thì càng biểu hiện một tình trạng nặng của TSG.
1.2.2.3. Ure huyết thanh
Urê được tạo thành ở gan. Gan là cơ quan tổng hợp urê từ NH3. Urê được
đào thải ra ngoài bằng đường tiểu. Bình thường nồng độ urê huyết từ 20 - 35
mg% và urê niệu từ 25 - 30 g/24giờ. Trong TSG, ure máu bình thường, chỉ tăng
khi đã có tổn thương thận từ trước hoặc TSG nặng [27].
1.2.2.4. Creatinin huyết thanh
Creatin được gan tổng hợp rồi theo dòng máu vận chuyển đến mô cơ, tại
đó creatin gắn với phosphat từ ATP để tạo thành creatin-phosphat. Chuyển hóa
9
creatin-phosphat sẽ tạo ra creatinin, chất này không được cơ sử dụng, vào máu
rồi đào thải ra ngoài theo đường tiểu. Creatinin là thành phần đạm trong máu
ổn định nhất, không phụ thuộc vào chế độ ăn hoặc những thay đổi sinh lý khác
mà chỉ phụ thuộc vào khả năng đào thải của thận nên hiện nay được sử dụng
nhiều để theo dõi chức năng thận, có ý nghĩa trong chẩn đoán suy thận hơn xét
nghiệm urê.
Chỉ định xét nghiệm creatinine trong các trường hợp suy giảm mức lọc
cầu thận, xét nghiệm tổng quát, phát hiện bất thường nước tiểu, suy thận cấp,
mạn, tiêu chảy, nôn ói, tăng huyết áp, phụ nữ có thai, nhiễm trùng huyết, sốc,
đa chấn thương, tầm soát bệnh thận, điều trị thuốc có ảnh hưởng đến thận. Giá
trị bình thường: creatinin huyết thanh 44 - 97 mmol/l [27].
1.2.2.5. Acid uric huyết thanh
Acid uric thoái hóa từ base purin, đào thải ra ngoài bằng đường tiểu. Bình
thường nồng độ acid uric huyết thanh 150 - 360 μmol/l [27]. Những thai sản
bình thường, nồng độ acid uric huyết thanh trong máu gần như bình thường.
Khi thai phụ bị TSG có hiện tượng co mạch máu thận vì vậy thể tích huyết
tương qua thận giảm dẫn đến sự thanh thải acid uric trong máu giảm và acid
uric huyết thanh tăng.
1.2.2.6. Tiểu cầu
Là thành phần hữu hình của máu có vai trò quan trọng trong quá trình
cầm máu và đông máu. Tiểu cầu có nguồn gốc từ tủy xương (những xương dẹt).
Bình thường trong máu có 150.000 – 300.000 tiểu cầu/mm3 máu [29]. Trong
bệnh lý TSG nặng, nhất là hội chứng HELLP có sự thay đổi phức tạp trong
bệnh lý đông máu, cụ thể là tăng đông máu nội mạch và đông máu khu trú ở
một vài cơ quan. Gây ra hiện tượng Số lượng tiểu cầu giảm xuống <100.000
mm3 máu [6].
1.2.2.7. Fibrinogen (sinh sợi huyết)
10
Fibrinogen: là một protein hòa tan được, có mặt trong huyết tương với
nồng độ từ 100 - 700mg/100ml. Hầu hết fibrinogen được thành lập ở gan, do
đó trong những trường hợp bị bệnh gan, sẽ giảm lượng fibrinogen trong máu
tuần hoàn, ngăn cản sự đông máu [29].
+ Nồng độ fibrinogen bình thường: 2 - 4g/l.
+ Nồng độ fibrinogen giảm: < 2g/l.
+ Nồng độ fibrinogen tăng: > 4g/l.
Fibrinogen là yếu tố đóng vai trò quan trọng trong đông cầm máu. Trong giai
đoạn cầm máu ban đầu, Fibrinogen cần thiết cho sự dính và ngưng tập tiểu cầu. Các
phản ứng trong dòng thác đông máu đều đi đến mục đích cuối cùng là chuyển
fibrinogen thành fibrin để tạo nút cầm máu bền vững. Tăng fibrinogen là một bằng
chứng tồn tại tình trạng viêm nhiễm, tổn thương mạch máu và chính những tổn
thương này làm tăng cường hoạt hoá tiểu cầu, tăng hoạt hoá đường đông máu nội
sinh và ngoại sinh. Các chỉ số nêu trên được gọi là các xét nghiệm đông máu vòng
đầu thường được dùng để thăm dò chức năng đông cầm máu, dựa trên thay đổi của
các chỉ số này để chỉ định các xét nghiệm thăm dò tiếp theo để xác định vấn đề liên
quan đến đông máu của người bệnh [33]. Theo Phan Thị Minh Ngọc, fibrinogen
giảm xuất hiện ở 12,5% thai phụ có TSG [37].
1.2.2.8. Enzym transaminase
Transaminase, là enzym giúp chuyển vận nhóm amin của những acid
amin sang những acid cetonic tạo nên sự chuyển hoá giữa protein và glucid. Có
2 loại được chú ý:
+ SGOT (Serin Glutamo-Oxalo Transaminase)
+ SGPT (Serin Glutamo-Pyruvic Transaminase)
Bình thường, SGOT ≤ 37 U/I-370C, SGPT ≤ 40 U/I-370C [7].
Trong bệnh lý TSG, nhất là TSG nặng hoặc hội chứng HELLP, hoạt động
emzym SGOT và SGPT tăng lên. Trong chẩn đoán TSG nặng có tiêu chuẩn suy
11
chức năng gan: men gan tăng gấp đôi bình thường. Đau hạ sườn phải hoặc
thượng vị kéo dài không đáp ứng với thuốc và không có chẩn đoán thay thế
hoặc cả hai [6].
1.2.3. Chẩn đoán tiền sản giật
Dựa vào ba triệu chứng chính là tăng huyết áp, phù và protein niệu.
Tiêu chuẩn chẩn đoán TSG theo Hội Sản Phụ Khoa Mỹ năm 2013 [53].
Bảng 1.2. Tiêu chuẩn chẩn đoán tiền sản giật
- HATT ≥ 140 mmHg và/hoặc HATTr ≥ 90 mmHg
đo 2 lần cách nhau 4 giờ, xuất hiện sau tuần 20 thai
kỳ mà trước đó bệnh nhân có huyết áp bình thường Huyết áp - Hoặc HATT ≥ 160 mmHg và hoặc HATTr ≥ 110
mmHg trong trường hợp này chỉ cần đo lại huyết áp
sau vài phút.
và
- Protein niệu ≥ 0,3 g ở mẫu nước tiểu 24 giờ hoặc
- Tỷ lệ protein niệu/creatinin niệu ≥ 0,3 đơn vị tính
Protein niệu bằng mg/dl.
- Protein niệu 1+ chỉ sử dụng ở những cơ sở không
có định lượng protein trong nước tiểu
Nếu không có protein niệu, TSG vẫn được chẩn đoán khi có THA xuất hiện
sau tuần 20 của thai kì với một trong số bất kỳ triệu chứng sau mới xuất
hiện:
- Tiểu cầu giảm < 100000/mm
- Suy thận: nồng độ creatinin huyết tương > 1,1 mg/dl hoặc tăng gấp
đôi ở những người không có bệnh thận trước đó
- Suy chức nang gan: Enzym gan tăng ≥ 2 lần so với bình thường
- Phù phổi cấp
12
Phân loại TSG: Theo hướng dẫn chuẩn quốc gia 2016 thì TSG và SG
được phân loại như sau:
Bảng 1.3. Phân loại TSG theo Hướng dẫn chuẩn quốc gia 2016 [42]
Triệu chứng Phân loại
HATTr 90mmHg hoặc cao hơn, trước 20 tuần tuổi thai.
- Hoặc huyết áp ≥140/90mmHg trước khi mang thai hoặc THA mạn tính
được chẩn đoán trước tuần lễ thứ 20 của thai kỳ. trước khi có
- Hoặc THA được chẩn đoán sau tuần lễ thứ 20 và kéo thai.
dài sau sinh trên 12 tuần.
- HATTr 90-110mmHg, đo 2 lần cách nhau 4 giờ, sau 20 THA thai kì
tuần tuổi thai. (Thai nghén gây
- Không có protein niệu. THA)
- HATTr 90-110mmHg, đo 2 lần cách nhau 4 giờ, sau 20
tuần tuổi thai. TSG nhẹ. - Protein niệu có thể tới ++.
- Không có triệu chứng khác
- HATTr 110mmHg trở lên hay HATT 160mmHg trở lên TSG nặng (chẩn
sau 20 tuần tuổi thai và protein niệu +++ hoặc hơn. đoán khi có
Ngoài ra có thể có các dấu hiệu sau: THA và ít nhất
- Tăng phản xạ. một trong các
- Đau đầu tăng, chóng mặt. dấu hiệu liệt kê
- Nhìn mờ, hoa mắt. ở cột bên).
- Thiểu niệu (dưới 400ml/24 giờ). - Nghi ngờ hội
- Đau vùng thượng vị. chứng HELLP
- Phù phổi. khi có tan máu
- Xét nghiệm hóa sinh: ure, SGOT, SGPT, acid uric, vi thể (biểu hiện
bilirubin là các chất tăng cao trong máu, trong khi tiểu bằng bilirubin
13
cầu và protid huyết thanh toàn phần lại giảm tăng), các enzym
của gan tăng
(SGOT và
SGPT ≥ 70 U/I)
và tiểu cầu
<100.000/mm3
máu.
- Có cơn giật với 4 giai đoạn điển hình: xâm nhiễm, giật
cứng, giật giãn cách và hôn mê. Sản giật
- Kèm theo một số dấu hiệu TSG nặng.
- Protein-niệu mới xuất hiện ≥ 300mg/24 giờ trên thai phụ
đã có sẵn THA nhưng không có protein-niệu trước tuần lễ TSG trên người thứ 20 của thai kỳ. có THA mạn - Hoặc huyết áp và protein-niệu tăng đột ngột hay tiểu cầu tính < 100.000/mm3 máu trên một phụ nữ THA và có protein-
niệu trước tuần lễ thứ 20 của thai kỳ.
1.3. Biến chứng của tiền sản giật
1.3.1. Biến chứng tiền sản giật gây ra cho thai phụ
Theo tài liệu mới nhất năm 2015, ACOG đã thay thế thuật ngữ “Tiền sản
giật nặng” bằng thuật ngữ “Tiền sản giật với các đặc điểm nặng”. Đồng thời
ACOG cũng đã bỏ tiêu chuẩn protein niệu (5g/24 giờ), thiểu niệu và thai chậm
phát triển trong tử cung để chẩn đoán TSG nặng bởi vì các nghiên cứu đã chứng
minh không có sự liên quan có giá trị của các tiêu chuẩn này với kết cục thai
kỳ [70].
Biến chứng của TSG là hậu quả của rối loạn chức năng các cơ quan:
- Hệ thần kinh trung ương: phù não, xuất huyết não - màng não.
- Mắt: Phù võng mạc, mù mắt.
14
- Thận: Suy thận cấp.
- Gan: Chảy máu dưới bao gan, vỡ gan.
- Tim, phổi: suy tim cấp, phù phổi cấp (gặp trong TSG nặng hoặc SG).
- Huyết học: Rối loạn đông - chảy máu, giảm tiểu cầu, đông máu rải rác
trong lòng mạch [20].
Mặc dù TSG là một rối loạn dành riêng cho thai kỳ và sẽ tự giải quyết
khi sinh, nhưng phụ nữ bị TSG có nhiều nguy cơ mắc bệnh tim mạch sau
này. Kết quả của một tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp hỗ trợ các quan
sát trước đó rằng phụ nữ bị TSG có nhiều khả năng phát triển các di chứng lâu
dài hơn những phụ nữ không bị TSG, bao gồm THA mãn tính (OR = 3,13),
bệnh tim mạch (OR = 2,28), đột quỵ (OR = 1,76), tiểu đường (OR = 1,80) [70]
và bệnh thận giai đoạn cuối (RR = 4,70). Nguy cơ mắc bệnh thận giai đoạn cuối
dường như tăng dần theo Số lượng thai kỳ bị ảnh hưởng bởi TSG [74]. Hơn
nữa, phụ nữ bị TSG có nhiều khả năng bị microalbumin niệu 3 - 5 năm sau khi
sinh hơn phụ nữ có thai bình thường. Những phát hiện này có thể phản ánh
bệnh thận chưa được chẩn đoán, thường gặp ở bệnh nhân TSG [77], hoặc cách
khác, có thể gợi ý rằng TSG làm tổn thương chức năng thận. Lạc nội mạc cầu
thận, một tổn thương thận điển hình được quan sát thấy trong TSG và trước đây
được cho là sẽ tự khỏi sau khi sinh, có thể được phát hiện rất lâu sau khi mang
thai ở một số phụ nữ bị ảnh hưởng bởi TSG.
1.3.2. Biến chứng tiền sản giật gây ra cho thai nhi
- Thai chậm phát triển trong tử cung.
- Đẻ non (40,0%), do TSG nặng hoặc SG phải cho đẻ sớm.
- Tử vong chu sinh (10,0%): Tỷ lệ tử vong chu sinh tăng cao nếu đẻ non
hoặc biến chứng rau bong non. TSG nặng, SG có thể tiến triển thành hội chứng
HELLP. Hội chứng này có thể đe doạ tính mạng mẹ và con [20].
Trong khi mức độ sinh lý của tình trạng viêm ở mẹ đóng một vai trò nhất
15
định trong một thai kỳ không biến chứng, thì việc giảm tưới máu rau thai ở phụ
nữ bị TSG dẫn đến tăng sản xuất các cytokine tiền viêm bao gồm IL6 và TNF.
Những cytokine này có thể làm gián đoạn tín hiệu của rau thai và hoặc đi qua
tuần hoàn của thai nhi để thay đổi quỹ đạo phát triển thần kinh của thai nhi, có
thể làm tăng nguy cơ phát triển thần kinh dưới mức tối ưu ở trẻ của bà mẹ bị
TSG [65].
1.4. Xử trí tiền sản giật
1.4.1. Quản lý thai nghén cho những thai phụ bị TSG
Mỗi thai phụ cần được khám thai ít nhất 3 lần trong quá trình mang thai
của họ để phát hiện những trường hợp TSG và có thái độ xử trí sớm. Nguyên
nhân gây bệnh TSG chưa rõ nên điều trị dự phòng cho những bệnh nhân này
rất khó. Chủ yếu là phát hiện sớm và điều trị sớm.
Khi bệnh nhân đến bệnh viện, cán bộ y tế cần phải đề phòng và ngăn
chặn cơn SG, điều chỉnh huyết áp và khám xét một cách cẩn thận bà mẹ và thai.
Phải đặt ống sonde tiểu và bắt đầu truyền nhỏ giọt tĩnh mạch để duy trì đường
cho thuốc cũng như giữ cân bằng dịch liên tục.
Tất cả cán bộ y tế, liên quan với chăm sóc thai phụ, phải biết sử dụng
thuốc làm giảm huyết áp. Tuy nhiên cần phải nhấn mạnh rằng việc phát hiện
sớm và cách săn sóc hợp lý, chăm sóc toàn thân cũng rất quan trọng. Chưa có
thuốc đặc hiệu nào điều trị các rối loạn THA thai sản và không có thuốc nào đế
dự phòng và kiềm chế các cơn co giật được chứng tỏ là an toàn và đáng tin cậy
hoàn toàn [32].
1.4.2. Điều trị
* Mục tiêu điều trị:
- Đối với mẹ: Ngăn cản sự tiến triển của bệnh. Tránh các biến chứng có
thể xảy ra nhằm cải thiện tình trạng bệnh và giảm tỷ lệ tử vong mẹ.
- Đối với con: Đảm bảo sự phát triển bình thường của thai, hạn chế những
16
nguy cơ có thể xảy ra cho thai: Kém phát triển trong tử cung, suy dinh dưỡng,
thai chết lưu, giảm tỷ lệ mắc bệnh và tử vong chu sinh.
Khi điều trị, thầy thuốc cần phải nắm vững phương châm: bảo vệ bà mẹ
là chính, có chiếu cố đến con. Thuốc điều trị triệu chứng cho mẹ có thể tác động
đến thai nhi nên cần cân nhắc kỹ trước khi điều trị cho mẹ [32].
- Điều trị bao gồm: nghỉ ngơi, điều trị nội khoa, sản khoa và ngoại khoa.
* Tiền sản giật nhẹ
- Có thể điều trị ngoại trú hoặc nhập viện (không có điều kiện theo dõi).
- Nghỉ ngơi và nằm nghiêng trái.
- Có thể cho thuốc an thần, tuỳ theo tình trạng của người bệnh (uống
diazepam).
- Theo dõi hàng tuần, có dấu hiệu nặng lên thì phải đến viện và điều trị
tích cực.
- Nếu thai đã đủ tháng thì cho đẻ chủ động.
* Tiền sản giật nặng
- Phải nhập viện và điều trị tại tuyến tỉnh. Nếu người bệnh được phát
hiện tại các tuyến dưới thì phải chuyển tuyến ngay.
- Cần điều trị khẩn trương, tích cực để ngăn chặn tiến triển sang SG.
Chăm sóc: Chăm sóc cấp I:
+ Đặt người bệnh nằm trong phòng yên tĩnh và ấm. Khuyên người bệnh
nghỉ ngơi, nằm nghiêng sang trái thường xuyên.
+ Theo dõi mỗi giờ: Huyết áp, mạch, nhiệt độ, nhịp thở, nước tiểu và
phản xạ gân xương tại đầu gối hay khuỷu tay. Định lượng protein niệu,
hematocrit, tiểu cầu mỗi ngày. Đánh giá chức năng gan, thận, rối loạn đông
máu và tình trạng thai nhi bằng thử nghiệm không đả kích.
- Dinh dưỡng: Cho chế độ ăn bệnh lý: nhiều rau, quả tươi, ít mặn, nhiều
protid (chất đạm).
17
- Điều trị: Bao gồm điều trị nội khoa, sản khoa và ngoại khoa [32].
* Xử trí tại tuyến xã
- Ngáng miệng để không cắn phải lưỡi, ủ ấm.
- Diazepam 10 mg/ống, tiêm bắp hay tiêm tĩnh mạch chậm.
- Chuyển tuyến tỉnh, cố định người bệnh trong khi chuyển [32].
* Điều trị tại tuyến huyện và tuyến tỉnh
Chăm sóc:
- Đặt người bệnh nằm trong phòng yên tĩnh, ấm áp, tránh kích thích.
- Đặt cây ngáng miệng hay ngáng lưỡi để tránh cắn phải lưỡi khi lên cơn
co giật.
- Hút đờm rãi để tránh tắc đường hô hấp.
- Theo dõi mỗi giờ: huyết áp, mạch, nhiệt độ, nhịp thở, nước tiểu và phản
xạ gân xương.
- Định lượng protein niệu, hematocrit, đếm tiểu cầu, đánh giá chức năng
gan, thận, rối loạn đông máu và tình trạng thai nhi [32].
Điều trị:
Điều trị nội khoa:
- Dự phòng và cắt cơn co giật: sử dụng Magie sulfat là thuốc đầu tay.
Chúng tôi xin giới thiệu hai phác đồ sau đây:
+ Phác đồ xử trí SG của Zuspan
Liều tấn công: Tiêm ngay vào tĩnh mạch 4g dung dịch Magie sulfat 15%
(12,5ml đến 25ml) tiêm tĩnh mạch phải thật chậm trong 15 phút.
Liều duy trì: Sau khi tiêm tĩnh mạch 4g Magie sulfat 15%; sau 1 giờ,
tiêm tĩnh mạch 1-2g hoặc tiêm bắp 2g (12ml dung dịch Magie sulfat 15%) nếu
phản xạ gân xương (+), nhịp thở trên 16 lần/phút và nước tiểu trên 30ml/giờ
cho đến khi cắt được cơn giật.
+ Phác đồ của Prichart:
18
Liều tấn công: 10g tiêm bắp.
Liều duy trì: 5g tiêm bắp cách 4 giờ/lần.
+ Theo dõi: Mỗi giờ phải xem lại phản xạ gân xương, nhịp thở, nước tiểu
trước khi tiêm liều magie sulfat tiếp theo.
+ Khi tiêm thuốc Magie sulfat, cần có sẵn trong khay thuốc Calci
gluconat. 10%- 10ml là thuốc đối kháng với magie sulfat để tiêm tĩnh mạch
ngay khi người bệnh có dấu hiệu thở chậm hoặc ngừng thở trong hay sau khi
tiêm magie sulfat.
- Thuốc hạ áp: Chỉ sử dụng khi HATTr trên 110mmHg, tránh xuất huyết
não. Thuốc đầu tay được sử dụng là Hydralazin.
+ Liều sử dụng: 5-10mg tiêm tĩnh mạch chậm. Nếu đáp ứng không đủ
sau 10-20 phút (HATTr vẫn cao hơn 100mmHg), có thể lặp lại liều 5mg cho
đến khi huyết áp hạ hoặc có thể cho Hydralazin 12,5mg tiêm bắp cách 2 giờ
một lần. Tổng liều là 30mg/24 giờ.
+ Nếu không có Hydralazin, có thể sử dụng Labetalol 10mg tiêm tĩnh
mạch. Nếu đáp ứng không đủ sau 10 phút, tiêm tĩnh mạch Labetalol lần hai
20mg, đến 40-80mg để đạt được kết quả điều trị.
+ Cũng có thể thay bằng Nifedipin 5mg nhỏ dưới lưỡi.
+ Chú ý: chỉ sử dụng một trong 3 loại thuốc hạ áp trên; Theo dõi huyết
áp thật cẩn thận không để huyết áp dưới 140/90mmHg vì có thể có tương tác
giữa thuốc hạ áp với Magie sulfat [32].
- Thuốc an thần thường được sử dụng là Diazepam 10mg tiêm tĩnh mạch
chậm trong vòng 2 phút. Chỉ định chuyển tuyến, khi không có Magie sulfat và
khi đã dùng Magie sulfat nhưng không hiệu quả. Sử dụng Seduxen như sau:
Sau khi tiêm Magie sulfat (theo phác đồ của Zuspan hoặc của Prichart) tiêm
ngay 1 ống Seduxen vào tĩnh mạch (trường hợp nặng có thể tiêm 2 ống một
lúc). Sau đó cách 4 giờ tiêm nhắc lại 1 ống vào tĩnh mạch cho đến khi cắt được
19
cơn giật. Tổng liều có thể lên tới 6 ống trong 24 giờ.
- Thuốc lợi tiểu chỉ dùng Furosemid (Lasix) và/hoặc có nước tiểu dưới
30ml/giờ và/hoặc có triệu chứng doạ phù phổi cấp và chỉ sử dụng khi HATTr
trên 70mmHg (vì đây là ngưỡng thận để lọc nước tiểu). Có thể tiêm tĩnh mạch
Lasix 20mg x 1 ống lần đầu và lặp lại mỗi giờ sau, đến 4 lần nếu vẫn chưa hết
triệu chứng.
Cũng cần nhấn mạnh rằng người ta không sử dụng thuốc lợi tiểu để điều
trị phù trong bệnh lý TSG. Trong những trường hợp cần thiết sử dụng thuốc để
chóng phù, người ta sử dụng các dung dịch cao phân tử (Dextran, Gelafudin....)
và tốt nhất là truyền Albumin 20% cho thai phụ, có thể truyền 2 lần trong 1
tuần, tốt nhất là dựa vào lượng protid huyết thanh toàn phần mà bổ sung lượng
albumin cho thai phụ.
- Truyền dịch thật hạn chế mặc dù có thể có hiện tượng cô đặc máu, chỉ
sử dụng Glucose 5% truyền tĩnh mạch chậm để giữ một đường tĩnh mạch cho
thuốc [32].
- Thuốc trợ tim sử dụng khi có dấu hiệu doạ phù phổi cấp; dùng liều đầu
tiên Digoxin 0,5mg x 1 ống hoặc Cedilandid 0,8mg x 1 ống tiêm tĩnh mạch nếu
trước đó người bệnh chưa uống hay tiêm các loại thuốc trợ tim loại digitalic
này. Sau đó tuỳ tình trạng tim mà cho liều duy trì.
Điều trị sản khoa và ngoại khoa:
- Chấm dứt thai kỳ là điều trị triệt để nhất của TSG và SG. Bởi vì, một
khi thai nhi được lấy ra khỏi buồng tử cung, tuần hoàn rau thai ngừng hoạt
động, sức căng của tử cung giảm xuống đáng kể hoặc không còn nữa thì các
rối loạn về huyết động cũng sẽ dừng lại, tình trạng của người mẹ được cải thiện
nhất là các biến chứng mà TSG gây ra cho thai phụ dần dần biến mất, sức khoẻ
của người mẹ sẽ trở lại bình thường sau một thời gian cơ thể tự điều chỉnh kết
hợp với việc điều trị của người thầy thuốc [32].
20
- Chỉ định chấm dứt thai kỳ:
+ Khi điều trị TSG nặng hoặc SG đã ổn định (tốt nhất là sau 24 giờ).
+ Khi điều trị nội khoa không thể đạt được hiệu quả, huyết áp vẫn dao
động trong TSG nặng hoặc người bệnh vẫn lên cơn co giật mặc dù đã sử dụng
đầy đủ các loại thuốc chống co giật và thuốc hạ áp. Vấn đề là việc chấm dứt
thai kỳ sẽ được tiến hành sau bao lâu khi mà người ta đã điều trị tích cực cho
những thai phụ bị TSG, quan điểm cần chấm dứt thai kỳ cho những thai phụ bị
TSG sau khi đã điều trị 1 tuần nhưng không cải thiện được tình trạng của bệnh
nhân được nhiều nhà sản khoa ủng hộ. Việc rút ngắn thời gian xuống dưới 7
ngày thậm chí là chỉ sau khi bệnh nhân nhập viện 1 hoặc 2 ngày được áp dụng
cho những thai phụ bị TSG rất nặng hoặc lên cơn SG liên tiếp mà các can thiệp
thuốc men không đem lại kết quả mong muốn, thậm chí còn đe doạ tính mạng
của thai phụ (và tính mạng của thai nhi nếu thai nhi có thể sống thì cần lấy thai
ra ngay).
- Phương pháp chấm dứt thai kỳ:
+ Gây chuyển dạ đẻ cho sản phụ đẻ theo đường âm đạo: nếu chỉ số
Bishop là trên 5, có điều kiện thuận lợi thì có thể khởi phát chuyển dạ bằng
cách tách màng ối, truyền tĩnh mạch oxytocin và bấm ối khi tử cung có cơn co
tốt, cổ tử cung bắt đầu có thay đổi.
+ Gây chuyển dạ bằng phương pháp đặt túi nước: áp dụng cho những
trường hợp thai nhi rất kém phát triển (trong lượng của thai nhi chỉ vào khoảng
1 kg) và thai nhi có nguy cơ tử vong cao sau khi đình chỉ thai nghén. Về phương
pháp này, mặc dù Số lượng những thai phụ bị TSG được đình chỉ thai nghén
chưa nhiều, nhưng những trường hợp được đặt túi nước gây chuyển da đều có
kết quả tốt, không tai biến nào được ghi nhận, thai phụ tránh được vết mổ, thời
gian nằm viện cũng không lâu [32].
+ Gây chuyển dạ bằng sử dụng prostaglandin (với biệt dược là Cytotec):
21
cần chú ý là các prostaglandin không được sử dụng cho những thai phụ bị TSG.
Bởi vì sự chuyển hoá của các prostaglandin trong TSG có xu hướng thiên lệch
về thromboxan A2, một chất gây co mạch THA, tăng độ ngưng kết tiểu cầu,
tăng trương lực cơ bản của cơ tử cung. Vậy trong trường hợp nào người ta sử
dụng cytotec để đình chỉ thai nghén cho những thai phụ bị TSG. Đây là một
vấn đề cần bàn luận trong thực hành lâm sàng. Những trường hợp tuổi thai còn
nhỏ, thay vì thủ thuật gắp thai có rất nhiều nguy hiểm và đòi hỏi người làm thủ
thuật phải có nhiều kinh nghiệm mới làm được, mặt khác, nếu tiến hành phẫu
thuật mổ lấy thai cho những trường hợp này thì chẳng những thai phụ chịu một
cuộc mổ mà ở những lần có thai sau, họ cũng thường bị mổ lại khi có chuyển
dạ. Đó là chưa kể ở những lần có thai sau, nguy cơ mắc TSG ở những thai phụ
đã có tiền sử TSG cao gấp 7 lần so với những thai phụ không bị TSG ở những
lần có thai trước. Vậy có sử dụng cytotec không. Người ta cho rằng đối với
những trường hợp TSG gây biến chứng cho thai phụ như thai chết lưu hoặc tuổi
thai quá nhỏ (thai khoảng từ 21 đến 26 tuần) nguy cơ bị chết lưu, sau khi khống
chế huyết áp ở mức 140/90mmHg có thể sử dung cytotec bằng cách đặt vào túi
cùng sau âm đạo của thai phụ 50mg cytotec trong mỗi 4 giờ và theo dõi sát sao
chuyển dạ cho đến khi thai được đẩy ra ngoài tử cung. Cần tuân theo một cách
nghiêm túc các chống chỉ định của cytotec (seo mổ cũ ở tử cung, dị ứng với
cytotec, ngôi thai bất thường, rau tiền đạo, dị dạng ở tử cung...) và chỉ được tiến
hành ở những nơi có điều kiện theo dõi sát sao, có đội ngũ thầy thuốc có kinh
nghiệm và tại cơ sở có khả năng phẫu thuật. Tóm lại là phải hết sức thận trọng
khi sử dụng cytotec gây chuyển dạ cho những thai phụ bị TSG; nếu các điều
trên đây chưa thật hoàn toàn thoả đáng thì không được sử dụng cytotec để gây
chuyển dạ cho những thai phụ bị TSG [32].
+ Mổ lấy thai:
Những chỉ định mổ lấy thai trong TSG:
22
Cần nắm vững những chỉ định mổ lấy thai cho những thai phụ bị TSG
để có chỉ định hợp lý và chính xác.
Những trường hợp TSG nặng có biến chứng cho thai phụ và thai nhi như:
suy thận, suy gan, suy tim nặng, đe doạ phù phổi cấp, những trường hợp điều
trị không có kết quả (sau 7 ngày thậm chí sau 2 hoặc 3 ngày). Ngày nay, nhiều
tác giả cho rằng ngay cả trong những trường hợp TSG nặng, sau khi điều trị
sao cho bệnh nhân không còn nguy cơ lên cơn SG nữa thì những tác giả này
cũng chủ trương đình chỉ thai nghén và họ khuyến cáo là nên mổ lấy thai, nhất
là thai nhi có thể sống được sau khi thai phụ được mổ lấy thai.
Những trường hợp SG nặng, cơn SG liên tục, đã sử dụng mọi biện pháp
để cắt cơn nhưng không có kết quả. Đối với những thai phụ như vậy cần có chỉ
định mổ lấy thai để cứu mẹ (tất nhiên là cuộc mổ phải được tiến hành ngoài
cơn giật) [32].
Những trường hợp TSG có lượng acid uric tăng cao từ 400μmol/l trở lên
nhưng phải kết hợp với mức THA ít nhất là độ 1 trở lên sau khi đã điều trị trong
thời gian đã trình bày trên đây. Cần tránh việc chỉ sử dụng lượng acid uric tăng
trên 400μmol/l đơn thuần mà không kết hợp với THA từ độ 1 trở lên để đưa ra
chỉ định mổ lấy thai. Nếu làm như vậy là không hợp lý, nếu như không muốn
nói là không có chỉ định đơn độc như vậy. Bởi vì, sự tăng acid uric là do các
tiểu động mạch đến của các tiểu cầu thận bị co thắt và hẹp lại, lượng huyết
tương đến các tiểu cầu thận bị giảm đi rất nhiều, sự bài tiết acid uric qua thận
vì thế mà giảm xuống, đồng thời chức năng gan trong TSG nặng cũng thuyên
giảm; vì vậy lượng acid uric đã tăng lên, đó là hậu quả tất yếu của THA trong
TSG, Từ những hiểu biết trên đây, không có lý do gì mà không xem xét lượng
acid uric tăng cao phải kết hợp với THA để đưa ra chỉ định mổ lấy thai cho
những bệnh nhân bị TSG. Nếu chỉ có tăng acid uric đơn thuần mà không có
THA thì cần phải xét nghiệm lại acid uric xem có sai không hoặc thai phụ có
23
ăn quá nhiều thức ăn có thể làm tăng acid uric tạm thời hoặc chính họ mắc bệnh
“Gut” kèm theo và huyết áp không tăng. Khi cổ tử cung và ngôi thai không
thuận lợi cho việc gây chuyến dạ đẻ đường âm đạo thì mổ lấy thai là phương
pháp đình chỉ thai nghén an toàn nhất không những cho thai phụ mà còn cho cả
thai nhi. Khi mổ lấy thai, phẫu thuật viên có thể xử trí các tình huống có thể
xảy ra trong cuộc mổ chẳng hạn như đờ tử cung gây chảy máu do huyết áp cao,
phẫu thuật viên có thể thắt động mạch tử cung hoặc xử trí các tình huống khác
nhằm đảm bảo tính mạng cho sản phụ hơn là các phương pháp đình chỉ thai
nghén khác. Mặt khác, việc hồi sức cấp cứu cho thai phụ cũng thuận lợi hơn
nhiều so với các phương pháp đình chỉ thai nghén khác, nhất là vô cảm bằng
gây mê nội khí quản [32].
Những chỉ định mổ lấy thai có nguyên nhân từ phía thai nhi:
+ Những trường hợp thai nhi có thể sống được sau khi lấy thai ra khỏi tử
cung của người mẹ. Những chỉ định này thường liên quan tới tình trạng của thai
nhi không được khoẻ mà các xét nghiệm thăm dò như monitoring sản khoa phát
hiện các DIP biến đổi, DIP II, nhịp tim thai phẳng... doppler động mạch rốn,
siêu âm phát hiện ra thai kém khát triển trong tử cung trong những trường hợp
này, cần có chỉ định đình chỉ thai nghén để cứu thai nhi, cách tốt nhất được lựa
chọn là mổ lấy thai.
Như thế, những chỉ định mổ lấy thai có thể do nguyên nhân từ phía mẹ
hoặc có nguyên nhân từ phía thai nhi. Việc đưa ra chỉ định mổ lấy thai cần dựa
trên việc xem xét những diễn biến của bệnh TSG ở thời điểm cần can thiệp. Tất
nhiên là trong thực hành lâm sàng, có thể xuất hiện những yếu tố khác nữa từ
thai phụ hoặc từ phía thai nhi, chẳng hạn như TSG thể nhẹ bình thường sẽ theo
dõi và cho sản phụ đẻ đường âm đạo bằng forceps, nhưng nếu chuyển dạ kéo
dài, sản phụ mệt cần cân nhắc để đưa ra chỉ định mổ lấy thai trong những trường
hợp này là hợp lý [32].
24
Hiện chưa chứng minh được mổ đẻ cải thiện kết quả sơ sinh và chúng có
thể liên quan đến kết quả mẹ kém hơn. Các nghiên cứu cho thấy đẻ đường âm
đạo có thể tốt hơn về lâu dài đối với trẻ sinh non và có thể mang lại lợi ích cho
mẹ, với tỷ lệ biến chứng thấp hơn và thời gian nằm viện ngắn hơn [56]. Hơn
nữa, tỷ lệ bại não của trẻ sơ sinh vẫn giữ nguyên [56].
Xem xét các nghiên cứu gần đây về đánh giá phương thức sinh ở phụ nữ
bị TSG, một nghiên cứu quan sát đánh giá kết cục của bà mẹ bao gồm 500
người tham gia bị TSG nặng, và xác định nguy cơ biến chứng sau sinh và bệnh
tật nặng ở mẹ [57]. Chuyển dạ tự nhiên ở 22,0% và được gây ra ở 28,2%, trong
khi 49,8% được sinh mổ tự chọn, 95 trường hợp (67,4%) trong số những người
tham gia được kích thích chuyển dạ sinh con bằng đường âm đạo. Tổng tỷ lệ
mổ lấy thai là 68,2%, nguy cơ mắc bệnh nặng ở mẹ cao hơn đáng kể ở những
phụ nữ sinh mổ (54,0% so với 32,7%), bất kể có chuyển dạ hay không. Các yếu
tố vẫn liên quan đến bệnh tật nặng của mẹ sau khi phân tích đa biến là chẩn
đoán tan máu, tăng men gan và hội chứng Số lượng tiểu cầu thấp (HELLP) sau
khi sinh (nguy cơ cao hơn gần bốn lần) và sinh mổ (nguy cơ cao hơn gần hai
lần). Các tác giả kết luận rằng sinh mổ thường được thực hiện ở những phụ nữ
bị TSG nặng và có liên quan đến tỷ lệ mắc bệnh nặng ở mẹ sau sinh.
Một nghiên cứu thuần tập hồi cứu đã được công bố vào tháng 8 năm
2017 bao gồm 5506 phụ nữ bị TSG ở tuổi thai 34 tuần và không sinh mổ trước
đó [62]. Trong số này, 5104 (92,7%) phụ nữ được khởi phát chuyển dạ. Tỷ lệ
sinh ngả âm đạo là 67,6%, với tỷ lệ sinh mổ thấp hơn nghiên cứu trước. Khởi
phát chuyển dạ so với mổ lấy thai theo kế hoạch không liên quan đến tăng nguy
cơ kết cục chính (nhập viện chăm sóc đặc biệt, thuyên tắc mạch, truyền máu và
cắt tử cung), nhưng có liên quan đến tăng nguy cơ mẹ nhập viện chăm sóc đặc
biệt và liên quan đến giảm nguy cơ sơ sinh tổng hợp (ngạt, pH dây động mạch
dưới 7,0, bệnh não thiếu oxy - thiếu máu cục bộ và điểm Apgar dưới 5 phút),
25
nhập viện chăm sóc đặc biệt sơ sinh, thở nhanh thoáng qua ở trẻ sơ sinh và hội
chứng suy hô hấp. Các tác giả kết luận rằng nghiên cứu của họ ủng hộ ACOG
về THA trong thai kỳ khuyến nghị không cần sinh mổ [53].
1.5. Một số nghiên cứu về tiền sản giật
Trần Thị Thu Hương và cs (2012) nghiên cứu về xử trí sản khoa và biến
chứng của thai phụ SG tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương thấy: SG xảy ra trước
chuyển dạ xử trí sản khoa chủ yếu là mổ lấy thai chủ động chiếm 96,6%. Có
85,7% trong số bệnh nhân SG trong chuyển dạ. Tỷ lệ mổ lấy thai trong SG tăng
từ 88,9% ở năm 2008 lên 100% ở năm 2010, sự khác biệt không có ý nghĩa
thống kê (p > 0,05). Thời gian can thiệp sản khoa trước 24 giờ chiếm 76,2%,
can thiệp sau 24 giờ chiếm 23,8%. Số bệnh nhân SG bị biến chứng khá cao
56,8%. Biến chứng suy thận chiếm tỷ lệ cao 25,9%, cao nhất là biến chứng suy
gan 32,1%. Biến chứng liệt nửa người có 1/81 bệnh nhân chiếm tỷ lệ 1,2% [22].
Nghiên cứu của Hoàng Xuân Sơn (2013) trên 67 thai phụ TSG điều trị
tại khoa sản Bệnh viện Đa khoa Bắc Kạn cho kết quả: TSG chiếm 1,88% so
với số sản phụ đẻ, nhóm tuổi 25 - 29 có tỷ lệ TSG cao nhất chiếm 40,35%. Biến
chứng cho mẹ: rối loạn đông máu chiếm tỷ lệ 4,5%. Chảy máu sau đẻ, sau mổ
chiếm tỷ lệ 12,0%, SG 7,5%, viêm thận mãn là 7,5%, cao huyết áp mãn 6,0%.
Biến chứng cho con: thai suy dinh dưỡng, nhẹ cân 6,0%, đẻ non chiếm tỷ lệ
11,9%, tử vong sơ sinh chiếm tỷ lệ 6,0%; thai bị chết lưu 3,8. Kết quả điều trị:
tỷ lệ điều trị khỏi bệnh là 94,0%, phẫu thuật mổ lấy thai chiếm tỷ lệ cao với
73,0%, còn lại là đẻ thường chiếm tỷ lệ 27,0%, có 6,0% trường hợp TSG nặng
đã được điều trị tích cực nhưng không kết quả đã chuyển tuyến trên 3,0%, còn
3,0% tử vong (do rối loạn đông máu và SG nặng) [39].
Nghiên cứu của Đặng Thị Minh Nguyệt và cs (2013) trên 244 trường
hợp mổ lấy thai ở các sản phụ bị TSG nặng tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương
cho kết quả: Chỉ định mổ lấy thai chiếm tỷ lệ cao nhất là TSG nặng 85,2%. Mổ
26
lấy thai của nhóm sản phụ chưa có dấu hiệu chuyển dạ chiếm tỷ lệ rất cao 84%.
Can thiệp trong cuộc mổ chiếm tỷ lệ nhiều nhất là dùng bổ sung các thuốc tăng
co phối hợp chiếm 56,8%, thắt động mạch tử cung chiếm 32,4%. Các biến
chứng gây ra cho mẹ là suy gan và rối loạn đông máu 20,5%, suy thận 9,0%,
hội chứng HELLP 6,98%, rau bong non 5,7%, chảy máu 4,9%, phù phổi cấp
và SG là 2 biến chứng chiếm tỷ lệ thấp 2,5% và 3,7%. Đối với con, biến chứng
đẻ non chiếm tỷ lệ cao nhất 81,7%, thai chậm phát triển chiếm 52,1%, chết
ngay sau đẻ 11,9% [35].
Theo Hà Thị Tiểu Di (2014) nghiên cứu về các đặc điểm lâm sàng, cận
lâm sàng và kết quả điều trị TSG nặng - SG thấy: Bệnh gặp nhiều nhất độ tuổi
25 - 34 tuổi (49,3%) và con so (50,7%). Tăng huyết áp và phù gặp hầu hết bệnh
nhân. Protein niệu >3g/l chiếm tỉ lệ cao 67,2%. Sau điều trị xét nghiệm protein
niệu, acid uric, tiểu cầu, ion Mg++ có cải thiện có ý nghĩa thống kê. Các biến
chứng mẹ gặp 13,43%; biến chứng con gặp nhiều nhất là đẻ non (59,7%). Đình
chỉ thai chủ yếu là mổ đẻ (88,1%). Chỉ số Apgar sau 5 phút > 7 chiếm tỷ lệ cao
nhất 56,9%. Thời gian điều trị kéo dài tuổi thai trung bình 11 ± 3 ngày [12].
Đặng Thị Thúy Phương và cs (2016) nghiên cứu về yếu tố nguy cơ trên
thai phụ TSG cho kết quả: Một số yếu tố làm tăng nguy cơ TSG: BMI trước
sinh 18,5 - 24,9 kg/m2 có OR = 7,2; 95%CI: 2,7 – 19,8, BMI trước sinh ≥ 25
kg/m2 có OR = 22,9; 95%CI: 6,8 – 77,9. Tuổi mẹ ≥ 35 có OR = 3,1; 95%CI:
1,2 – 7,7. Có tiền căn bị TSG có OR = 7,3; 95%CI: 1,4 – 36,7. Có tiền căn sảy
thai có OR = 4,5, 95%CI: 3,1 – 9,6. Tăng cân > 10 kg trong thai kỳ có OR =
2,4, 95%CI: 1,4 – 3,9. Yếu tố có ảnh hưởng làm giảm nguy cơ TSG: khám thai
> 4 lần trong thai kỳ có OR = 0,45, 95%CI: 0,2 – 0,8; lao động chân tay có OR
= 0,4, 95%CI: 0,2 – 0,9 [38].
Theo Lê Lam Hương (2016) nghiên cứu về protein niệu và một số chỉ số
sinh hóa ở thai phụ TSG thấy: tỉ lệ protein niệu >3g/l chiếm 49,4% và phù nhiều
27
chiếm tỷ lệ 80,9%. Tăng SGOT chiếm tỷ lệ 29,2% và tăng SGPT chiếm 25,8%.
Urê và creatinin tăng chiếm 31,7% và 34,8%. Acid uric tăng 34,9%. Có mối
liên quan giữa phù với protein niệu OR=4,1; (95%CI = 1,2 - 13,6). Tăng SGOT
chiếm tỷ lệ 40,9% ở nhóm protein niệu >3g/l và 17,8% và ở nhóm protein niệu
<3g/l; OR=3,2 (95%CI = 1,2 - 8,4). Tăng SGPT chiếm tỷ lệ 47,7% ở nhóm
protein niệu >3g/l và 13,3% và ở nhóm protein niệu <3g/l; OR=5,9 (95%CI =
2,0 - 16,8). Ure tăng chiếm 47,7% nhóm protein niệu >3g/l và 15,6% khi protein
niệu <3g/l; OR = 4,9 (95%CI =1,8 - 13,1). Tăng creatinin chiếm tỷ lệ 52,3% ở
nhóm protein niệu >3g/l là 17,8% và ở nhóm protein niệu <3g/l; OR = 5,0.
Tăng acid uric chiếm 47,7% ở nhóm protein niệu >3g/l và 20,0% và ở nhóm
Protein niệu <3g/l; có mối liên quan giữa tăng acid uric máu với protein niệu
với OR = 3,6 (95%CI = 1,4 - 9,3) [21].
Nghiên cứu của Đỗ Xuân Vinh (2019) về sản phụ TSG tại Bệnh viện Phụ
sản Hà Nội cho kết quả: triệu chứng phù gặp ở 40,7% số sản phụ TSG, có
97,5% sản phụ có THA, Protein niệu ≥ 3g/l chiểm 69,1%. Các triệu chứng lâm
sàng gặp phải là triệu chứng thần kinh 40,7%, dấu hiệu thị giác 17,3%. Có
93,8% sản phụ có suy thai khi theo dõi bằng monitoring có chỉ định mổ lấy
thai; 95,1% trên siêu âm có chỉ số não rốn > 1. Nhóm TSG nặng hầu như có sự
thay dổi về xét nghiệm: Tăng ure huyết thanh, tăng Số lượng tiểu cầu, tăng men
gan [13].
28
Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Hồ sơ bệnh án của người bệnh được chẩn đoán xác định tiền sản giật
được theo dõi và điều trị tại khoa Phụ sản, Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên
từ 01/2017 - 06/2019.
2.1.1. Tiêu chuẩn lựa chọn
- Hồ sơ bệnh án của người bệnh được chẩn đoán xác định là TSG.
- Thai phụ đơn thai, có tuổi thai ≥ 36 tuần (tính theo theo siêu âm 3 tháng
đầu hoặc ngày đầu tiên của kì kinh cuối cùng nếu bệnh nhân không nhớ dự kiến
sinh theo siêu âm).
- Được theo dõi và điều trị tại Khoa Phụ sản Bệnh viện Trung ương Thái
Nguyên.
- Hồ sơ bệnh án đầy đủ thông tin nghiên cứu.
2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ
- Những hồ sơ không được ghi chép rõ ràng, không đầy đủ thông tin về
mẹ và tình trạng sơ sinh sau đẻ.
- Những hồ sơ không đủ xét nghiệm theo yêu cầu lựa chọn.
- Bệnh nhân chuyển tuyến lên tuyến trên.
2.1.3. Tiêu chuẩn chẩn đoán tiền sản giật
Dựa vào ba triệu chứng chính là tăng huyết áp, phù và protein niệu.
Tiêu chuẩn chẩn đoán TSG theo Hội Sản Phụ Khoa Mỹ năm 2013 [53].
2.2. Địa điểm nghiên cứu
Khoa Phụ sản, Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên.
2.3. Thời gian nghiên cứu
Thời gian nghiên cứu từ tháng 06/2019 - 11/2020.
29
2.4. Phương pháp nghiên cứu
2.4.1. Thiết kế nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu mô tả, thiết kế cắt ngang, hồi cứu.
2.4.2. Cỡ mẫu nghiên cứu
Xác định cỡ mẫu cho nghiên cứu theo công thức
1-α/2
p.q
n = Z2 (εp)²
Trong đó:
n: Cỡ mẫu nghiên cứu.
Z: Giới hạn tin cậy tương ứng với α = 0,05 → hệ số tin cậy: Z1-α/2 = 1,96
(là giá trị thường được phổ biến trong các nghiên cứu).
p = 0,438 là tỷ lệ triệu chứng phù trong bệnh lý TSG theo nghiên cứu
của Trương Thị Linh Giang 2017 tai Bệnh viện Trung Ương Huế [49].
q = 1 - p = 1 - 0,438 = 0,562
ε chọn bằng 0,2
Thay số vào công thức ta có:
n = 1,962 x 0,438 x (1- 0,438) / (0,2 x 0,438)2 = 123,2; làm tròn 124.
Thực tế, thu được 125 hồ sơ bệnh án thỏa mãn tiêu chuẩn nghiên cứu.
2.4.3. Cách thu thập số liệu
Hồi cứu số liệu dựa trên thu thập các số liệu có sẵn tại hồ sơ bệnh án
người bệnh TSG điều trị tại khoa Phụ sản được lưu tại phòng Kế hoạch tổng
hợp, Bệnh viện Trung Ương Thái Nguyên trong thời gian từ 01/2017 - 06/2019
thỏa mãn tiêu chuẩn nghiên cứu.
- Xây dựng bệnh án nghiên cứu theo mục tiêu và biến số nghiên cứu.
- Thu thập thông tin cần nghiên cứu từ hồ sơ bệnh án gốc vào bệnh án
nghiên cứu (phụ lục).
- Người thu thập số liệu: người thực hiện nghiên cứu.
30
2.5. Biến số nghiên cứu
2.5.1. Biến số về đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu
- Tuổi: tính theo năm dương lịch, được chia thành 6 nhóm tuổi:
+ ≤ 20
+ 21-25
+ 26-30
+ 31 - 35
+ 36-40
+ ≥ 41
- Nghề nghiệp: chia làm 5 nhóm:
+ Học sinh, sinh viên
+ Cán bộ
+ Công nhân
+ Nông dân
+ Nghề khác (lao động tự do, kinh doanh, dịch vụ…)
- Nơi ở: xác định theo hộ khẩu thường trú của người bệnh, sau đó phân
ra khu vực thành thị (gồm các xã, phường thuộc thành phố) hay nông thôn.
- Dân tộc: chia là dân tộc kinh hay các dân tộc thiểu số khác.
+ Kinh
+ Khác (Tày, Nùng, Mông, Dao...)
- Tình trạng quản lý thai:
+ Không khám thai định kỳ.
+ Có khám thai định kỳ.
- Tiền sử sinh đẻ gồm số lần sinh, đây là lần sinh thứ mấy:
+Sinh lần 1
+Sinh lần 2
+ Sinh lần 3
31
+ Sinh nhiều hơn 3 lần
- Tiền sử bệnh tật các bệnh mắc từ trước: không mắc bệnh hay bị TSG
lần mang thai trước hay có bệnh mạn tính, bệnh khác hiện tại.
+ Không có bệnh
+ TSG lần mang thai trước
+ Có bệnh mãn tính, bệnh khác
2.5.2. Biến số về đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng tiền sản giật
* Biến số về đặc điểm lâm sàng
- Tăng huyết áp: xác định theo theo ESC – ESH 2013 [66]
Bảng 2.1. Phân loại mức độ tăng huyết áp theo ESC - ESH
Phân loại Trị số HATT và HATTr
Bình thường 120 - 129 và 80 - 84
Bình thường cao 130 - 139 và/hoặc 85 - 89
THA độ 1 140 - 159 và/hoặc 90 - 99
THA độ 2 160 - 179 và/hoặc 100 - 109
THA độ 3 ≥ 180 và/hoặc ≥ 110
Chẩn đoán THA dựa vào trị số huyết áp đo được sau khi đo huyết áp
đúng quy trình. Quy trình đo huyết áp của Bộ Y tế [41]:
+ Nghỉ ngơi trong phòng yên tĩnh ít nhất 5 – 10 phút trước đo huyết áp.
+ Không dùng chất kích thích (cà phê, hút thuốc, rượu bia) trước đó 2 giờ.
+ Tư thế đo chuẩn: người được đo huyết áp ngồi ghế tựa, cánh tay duỗi
thẳng trên bàn, nếp khuỷu ngang mức với tim. Ngoài ra, có thể đo ở các tư thế
nằm, đứng. Đối với người cao tuổi hoặc có bệnh đái tháo đường, nên đo thêm
huyết áp tư thế đứng nhằm xác định có hạ huyết áp tư thế hay không.
+ Sử dụng huyết áp kế thủy ngân, huyết áp kế đồng hồ hoặc huyết áp kế
điện tử (loại đo ở cánh tay). Các thiết bị đo cần được kiểm chuẩn định kỳ. Bề
dài bao đo (nằm trong băng quấn) tối thiểu bằng 80% chu vi cánh tay, bề rộng
32
tối thiểu bằng 40% chu vi cánh tay. Quấn băng quấn đủ chặt, bờ dưới của bao
đo ở trên nếp lằn khuỷu 2cm. Đặt máy ở vị trí để đảm bảo máy hoặc mốc 0 của
thang đo ngang mức với tim.
+ Nếu không dùng thiết bị đo tự động, trước khi đo phải xác định vị trí
động mạnh cánh tay để đặt ống nghe. Bơm hơi thêm 30mmHg sau khi không
còn thấy mạch đập. Xả hơi với tốc độ 2 - 3mmHg/nhịp đập. Huyết áp tâm thu
(HATTh) tương ứng với lúc xuất hiện tiếng đập đầu tiên (pha I của Korotkoff)
và huyết áp tâm trương (HATTr) tương ứng với khi mất hẳn tiếng đập (pha V
của Korotkoff).
+ Không nói chuyện khi đang đo huyết áp.
+ Lần đo đầu tiên, cần đo huyết áp ở cả hai cánh tay, tay nào có chỉ số
huyết áp cao hơn sẽ dùng để theo dõi huyết áp về sau.
+ Nên đo huyết áp ít nhất hai lần, mỗi lần cách nhau ít nhất 1 - 2 phút.
Nếu số đo huyết áp giữa 2 lần đo chênh nhau trên 10mmHg, cần đo lại một vài
lần sau khi đã nghỉ trên 5 phút. Giá trị huyết áp ghi nhận là trung bình của hai
lần đo cuối cùng.
Việc chẩn đoán xác định triệu chứng THA trong TSG dựa vào những
tiêu chuẩn sau đây: HATTh ≥ 140mmHg và/hoặc HATTr ≥ 90mmHg.
Những trường hợp có HATTh tăng hơn 30mmHg hoặc HATTr tăng hơn
15mmHg so với trị số huyết áp khi chưa có thai cần được quan tâm đặc biệt, vì
có thể xuất hiện TSG - SG.
Chú ý: Đo huyết áp 2 lần cách nhau 4 giờ.
Huyết áp trung bình (HATB): Đánh giá cả hai số đo HATTh và HATTr
cùng lúc theo công thức sau: HATB = (HATTh + HATTr) / 3
Nếu HATB tăng 20 mmHg so với trước khi có thai là THA.
Chú ý: Đo và ghi nhân số đo huyết áp ở cả hai tay, rồi lấy số đo ở tay có
huyết áp cao hơn để đánh giá và theo dõi. Kết luận THA khi số đo lần sau cao
33
hơn lần trước. Điều kiện lúc chẩn đoán: hai lần đo huyết áp cách nhau 6 giờ
đều tăng gọi là THA thực sự. Khi chuyển dạ đẻ, chỉ cần cách 2 giờ đủ để đánh
giá là THA [41].
- Phù: phù trắng, mềm, có dấu hiệu ấn lõm, phù toàn thân và không giảm
khi nghỉ ngơi; bao gồm:
+ Không phù
+ Phù nhẹ (phù 2 chân)
+ Phù nặng (phù toàn thân, tràn dịch các màng)
- Triệu chứng lâm sàng khác có thể gặp:
+ Đau đầu: do tổn thương hệ thần kinh trung ương
Có Không
+ Mờ mắt, nhìn mờ: Do tổn thương võng mạc
Có Không
+ Đau thượng vị: do tổn thương gan
Có Không
+ Buồn nôn, nôn: do phù não, xuất huyết não
Có Không
+ Thiểu niệu, vô niệu: do suy thận (Thiểu niệu là khi lượng nước tiểu <
500ml/24 giờ, vô niệu được xác định khi Số lượng nước tiểu < 200ml/24 giờ)
Có Không
+ Khó thở: do phù phổi, suy tim.
Có
34
Không
+ Triệu chứng khác kèm theo như mệt mỏi...
Có Không
* Biến số về đặc điểm cận lâm sàng
- Protein niệu: chia làm 3 mức:
+ < 300 mg/dl
+ từ 300 – 999 mg/dl
+ ≥ 1000 mg/dl
- Các xét nghiệm men gan:
- SGOT
+ ≤ 37 U/I
+ 37 – 69 U/I
+ ≥ 70 U/I
- SGPT
+ ≤ 40 U/I
+ 40 – 69 U/I
+ ≥ 70 U/I
Bảng 2.2. Giá trị các xét nghiệm cận lâm sàng [1]
Xét nghiệm Creatinin huyết thanh Acid Uric huyết thanh Ure huyết thanh Số luợng tiểu cầu Protid huyết thanh toàn phần Fibrinnogen Mức bình thường < 115 mol/l < 420 mol/l < 8,3 mmol/l ≥ 150.000 /mm3 ≥ 65 g/l 2 - 4g Mức nguy cơ ≥ 115 mol/l ≥ 420 mol/l ≥ 8,3 mmol/l < 150.000 /mm3 < 65 g/l < 2 g/l hoặc> 4 g/l
- Chỉ số ối: dựa vào siêu âm
+ Bình thường: CSO ≥ 50mm
35
+ Ít ối: CSO < 50mm
+ Đa ối: là khi đo được trên siêu âm chỉ số nước ối một khoang sâu nhất
lớn hơn 80mm
- Trọng lượng thai nhi: Siêu âm dự kiến cân nặng trước đẻ (tính bằng
gam): dựa vào đo dường kính lưỡng, chu vi bụng và đo chiều dài xương đùi
của thai nhi. Siêu âm xác định trọng lượng thai nhi, chia 3 mức:
+ < 2500 gram
+ Từ 2500 – 3200 gram
+ > 3200 gram.
2.5.3. Biến số về thái độ xử trí
- Có điều trị nội khoa bằng những loại thuốc gì: Magie Sunfat hay hạ áp
đơn thuần hay kết hợp.
- Phương pháp chấm dứt thai kì: mổ lấy thai hay đẻ đường âm đạo.
- Chỉ định mổ lấy thai dựa vào:
+ Thai chậm phát triển
+ Điều trị nội khoa không kết quả: không kiểm soát được huyết áp.
+ Rau bong non.
+ Sản giật
+ Thai suy.
+ Do nguyên nhân khác: thiểu ối, mổ lấy thai cũ, bệnh lí khác, thai to...
- Thời gian điều trị đến lúc sinh: ngắn nhất, dài nhất, trung bình.
- Về trong lượng trẻ sơ sinh ngay sau sinh:
+ < 2500 gram
+ từ 2500 – 3200 gram
+ > 3200 gram.
- Chỉ số apgar: apgar ở phút thứ nhất - phút thứ 5:
+ ≤ 7 điểm: ngạt
36
+ > 7 điểm: bình thường
Bảng 2.3. Chỉ số Apgar
Điểm 0 1 2 Apgar
Không khóc Khóc yếu Khóc to
Không đập, rời rạc < 100 nhịp/phút > 100 nhịp/phút
Hô hấp Nhịp tim Màu sắc da Trương lực cơ Phản xạ Tái nhợt Nhẽo Không đáp ứng Tím Giảm nhẹ Đáp ứng kém Hồng hào Bình thường Đáp ứng tốt
- Nước ối hồi cứu sau sinh: Trong hay xanh bẩn
- Các biến chứng gặp phải ở mẹ: Có SG, tử vong hay các biến chứng
khác như đờ tử cung, rau bong non…, cụ thể:
+ Phù phổi cấp: bệnh nhân có dấu hiệu của dọa phù phổi như khó thở và
được điều trị cấp cứu phù phổi cấp.
+ Rau bong non: thấy khối máu tụ sau rau trên siêu âm hoặc sau khi lấy
rau ra khỏi tử cung.
+ Suy thận: khi Creatinin huyết thanh > 106 µmol/l có hoặc không kèm
theo vô niệu (lượng nước tiểu ≤ 300ml/24h).
+ Chảy máu: theo tổ chức y tế thế giới lượng máu mất sau đẻ > 500ml
gọi là chảy máu sau đẻ.
+ Hội chứng HELLP: tan máu, tăng enzym gan ≥ 70UI/l, tiểu cầu < 150.000
+ Suy gan: khi lượng GOT và GPT huyết thanh ≥ 70UI/l
+ Tử vong.
- Các biến chứng gặp phải ở thai:
+ Đẻ non: thai < 37 tuần theo đánh giá của tổ chức y tế Thế giới.
+ Thai chậm phát triển trong tử cung: Dựa cân nặng và tuổi thai lúc sinh
đối chiếu với biểu đồ phát triển cân nặng thai tương ứng với tuổi thai. Thai có
cân nặng nằm dưới đường bách phân thứ 10 tương ứng với tuổi thai.
37
+ Thai chết trong tử cung: không thấy tim thai hay qua siêu âm không
thấy hoạt động của tim thai.
+ Thai chết ngay sau sinh.
+ Thai non tháng (< 37 tuần).
+ Thai nhi nhẹ cân (< 2500g).
* Chẩn đoán tiền sản giật
Bảng 2.4. Tiêu chuẩn chẩn đoán tiền sản giật [53].
- HATT ≥ 140 mmHg và/hoặc HATTr ≥ 90 mmHg
đo 2 lần cách nhau 4 giờ, xuất hiện sau tuần 20 thai
kỳ mà trước đó bệnh nhân có huyết áp bình thường Huyết áp - Hoặc HATT ≥ 160 mmHg và hoặc HATTr ≥ 110
mmHg trong trường hợp này chỉ cần đo lại huyết áp
sau vài phút.
và
- Protein niệu ≥ 0,3 g ở mẫu nước tiểu 24 giờ hoặc
- Tỷ lệ protein niệu/creatinin niệu ≥ 0,3 đơn vị tính
Protein niệu bằng mg/dl.
- Protein niệu 1+ chỉ sử dụng ở những cơ sở không
có định lượng protein trong nước tiểu
Nếu không có protein niệu, TSG vẫn được chẩn đoán khi có THA xuất hiện
sau tuần 20 của thai kì với một trong số bất kỳ triệu chứng sau mới xuất
hiện:
- Tiểu cầu giảm < 100000/mm
- Suy thận: nồng độ creatinin huyết tương > 1,1 mg/dl hoặc tăng gấp
đôi ở những người không có bệnh thận trước đó
- Suy chức nang gan: Enzym gan tăng ≥ 2 lần so với bình thường
- Phù phổi cấp
38
2.6. Xử lý số liệu
- Các số liệu được nhập liệu bằng phần mềm Epidata 3.1 và phân tích
bằng phần mềm SPSS 22.0 theo các thuật toán thống kê Y học.
- Thống kê mô tả được trình bày dưới dạng bảng, tỷ lệ %, biểu đồ, giá trị
trung bình ± độ lệch chuẩn.
2.7. Đạo đức nghiên cứu
- Mọi thông tin thu thập được đều được mã hóa, đảm bảo bí mật, chỉ
phục vụ cho mục đích nghiên cứu.
- Nghiên cứu này chỉ nhằm mục đích duy nhất là bảo vệ và nâng cao sức
khỏe cho người bệnh, không nhằm mục đích nào khác.
- Nghiên cứu này được sự đồng ý và phê duyệt của Hội đồng đạo đức -
Trường Đại học Y Dược Thái Nguyên và Hội đồng Y đức - Bệnh viện Trung
Ương Thái Nguyên cho phép thực hiện.
39
Chương 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Đặc điểm chung của bệnh nhân nghiên cứu
Bảng 3.1. Đặc điểm độ tuổi của bệnh nhân nghiên cứu
Nhóm tuổi Số lượng %
≤ 20 13 10,4
21 - 25 30 24,0
26 - 30 29 23,2
31 - 35 26 20,8
36 - 40 21 16,8
≥ 41 6 4,8
Tổng 125 100,0
Trung bình 29,43 ± 6,6
Nhận xét:
Tỷ lệ bệnh nhân nghiên cứu ≤ 20 tuổi là 10,4%, ≥ 41 tuổi là thấp nhất
4,8%, tỉ lệ bệnh nhân từ 21 - 25 tuổi là chiếm 24,0%, từ 26 - 30 chiếm 23,2%.
Độ tuổi trung bình của bệnh nhân nghiên cứu là 29,43 ± 6,6 tuổi.
Bảng 3.2. Đặc điểm nghề nghiệp của bệnh nhân nghiên cứu
Nghề nghiệp
Học sinh, sinh viên Cán bộ Công nhân Nông dân Nghề khác (tự do, nội trợ, kinh doanh...)
Tổng Số lượng 2 34 28 28 33 125 % 1,6 27,2 22,4 22,4 26,4 100,0
Nhận xét:
Tỷ lệ bệnh nhân có nghề nghiệp cán bộ chiếm cao nhất 27,2%. Nghề
khác như tự do, nội trợ, kinh doanh chiếm 26,4%. Có 2 trường hợp là học sinh,
sinh viên chiếm 1,6%.
40
36,8%
63,2%
Thành thị
Nông thôn
Biểu đồ 3.1. Phân bố bệnh nhân nghiên cứu theo nơi ở
Nhận xét:
Bệnh nhân nghiên cứu ở thành thị là 46 trường hợp, chiếm 36,8%; ở nông
thôn có 79 trường hợp, chiếm 63,2%.
Bảng 3.3. Phân bố bệnh nhân nghiên cứu theo dân tộc
Dân tộc Số lượng %
Kinh 70 56,0
Khác (Tày, Nùng, Mông, Dao...) 55 44,0
Tổng 125 100,0
Nhận xét:
Đa phần bệnh nhân nghiên cứu thuộc dân tộc Kinh, chiếm 56,0%; phần
còn lại 44,0% là các dân tộc thiểu số khác.
41
Bảng 3.4. Phân bố bệnh nhân nghiên cứu theo đặc điểm quản lí thai
Quản lí thai sản Số lượng %
121 96,8 Có khám thai
4 3,2 Không khám thai
125 100,0 Tổng
Nhận xét:
Trong số các bệnh nhân nghiên cứu có 121 người có khám thai định kì,
chiếm 96,8%; chỉ có 4 trường hợp không khám thai, chiếm 3,2%.
60
50
56.8
40
30
20
31.2
11.2
10
0
0.8
Sinh lần 1
Sinh lần 2
Sinh lần 3
Sinh > 3 lần
Biểu đồ 3.2. Đặc điểm số lần sinh của bệnh nhân nghiên cứu
Nhận xét:
Chủ yếu bệnh nhân nghiên cứu là đẻ con so có 71 trường hợp, chiếm
56,8%; có 39 trường hợp đẻ lần thứ 2, chiếm 31,2%; và chỉ có 1 trường hợp đẻ
con lần thứ 4, chiếm 0,8%.
42
Bảng 3.5. Phân bố bệnh nhân nghiên cứu theo tiền sử bệnh
Tiền sử bệnh Số lượng %
Không có bệnh 85,6 107
TSG lần mang thai trước 2,4 3
Có bệnh mãn tính, bệnh khác 12,0 15
Tổng 100,0 125
Nhận xét:
Trong số bệnh nhân nghiên cứu đa phần là không mắc bệnh gì kèm theo
(86,6%); tỉ lệ mắc các bệnh mạn tính và bệnh khác kèm theo chiếm 12,0% và
có 3 trường hợp bị TSG ở lần mang thai trước chiếm 2,4%.
3.2. Triệu chứng lâm sàng, cận lâm sàng của bệnh nhân nghiên cứu
3.2.1. Triệu chứng lâm sàng của bệnh nhân nghiên cứu
3.2.1.1. Tăng huyết áp
Bảng 3.6. Đặc điểm triệu chứng THA của bệnh nhân nghiên cứu
Triệu chứng THA Số lượng %
34,4 43 THA độ 1
43,2 54 THA độ 2
22,4 28 THA độ 3
100,0 125 Tổng
Nhận xét:
Toàn bộ (100,0%) bệnh nhân nghiên cứu đều có THA, trong đó THA độ
1 là 34,4%, THA độ 2 là 43,2% và THA độ 3 là 22,4%.
43
3.2.1.2. Phù
Bảng 3.7. Đặc điểm triệu chứng phù của bệnh nhân nghiên cứu
Triệu chứng phù Số lượng %
13 10,4 Không phù
84 67,2 Phù nhẹ
28 22,4 Phù nặng
125 100,0 Tổng
Nhận xét:
Tỉ lệ bệnh nhân có triệu chứng phù chiếm 89,6%. Trong đó, chủ yếu vẫn
là phù nhẹ có 84 trường hợp chiếm 67,2%; và có 28 trường hợp biểu hiện phù
to toàn thân, chiếm 22,4%; chỉ có 13 trường hợp bệnh nhân không có phù,
chiếm 10,4%.
3.2.1.3. Phân bố các triệu chứng lâm sàng khác của bệnh nhân nghiên cứu
Bảng 3.8. Các triệu chứng lâm sàng khác kèm theo của bệnh nhân nghiên cứu
Triệu chứng lâm sàng Số lượng %
117 93,6 Không
1 0,8 Rối loạn thị giác
4 3,2 Đau đầu
1 0,8 Khó thở
5 4,0 Triệu chứng khác (mệt mỏi, buồn nôn…)
Nhận xét:
Tỉ lệ bệnh nhân có triệu chứng kèm theo là đau đầu chiếm 3,2%, rối loạn
thị giác và khó thở đều chiếm 0,8%, tỉ lệ các triệu chứng khác (mệt mỏi, buồn
nôn…) chiếm 4,0%.
44
3.2.2. Các triệu chứng cận lâm sàng của bệnh nhân nghiên cứu
3.2.2.1 Protein niệu
Bảng 3.9. Phân bố theo lượng protein niệu
Protein niệu Số lượng %
< 300mg/dl 11 8,8
300 - 999mg/dl 110 88,0
≥ 1000mg/dl 4 3,2
Tổng 125 100,0
Nhận xét:
Đa phần bệnh nhân nghiên cứu có protein trong nước tiểu với lượng vừa
300 - 999mg/dl với 110 trường hợp, chiếm 88,0%; chỉ có 4 trường hợp có lượng
protein trong nước tiểu ≥ 1000mg/dl, chiếm 3,2%.
3.2.2.2.Acid Uric, Protein và Albumin, Ure và Creatinin huyết thanh
Bảng 3.10. Đặc điểm acid uric, Protein, Ure và Creatinin huyết thanh
Xét nghiệm Số lượng %
58 47,4 < 420µmol/l Acid uric huyết thanh
(n=125) 67 53,6 ≥ 420µmol/l
45 36,0 < 65g/l Protein TP huyết thanh
(n=125) 80 64,0 ≥ 65g/l
123 98,4 < 8,3mmol/l Ure huyết thanh
(n=125) 2 1,6 ≥ 8,3mmol/l
124 99,2 < 115µmol/l Creatinin huyết thanh
(n=125) 1 0,8 ≥ 115µmol/l
Nhận xét:
- Acid uric: < 420µmol/l chiếm 47,4%, ≥ 420µmol/l chiếm 53,6%.
- Protein huyết thanh: < 65g/l chiếm 36,0%, ≥ 65g/l chiếm 64,0%.
- Ure huyết thanh: < 8,3mmol/l chiếm 98,4%, ≥ 8,3mmol/l chiếm 1,6%.
45
- Creatinin huyết thanh: < 115µmol/l chiếm 99,2%, ≥ 115µmol/l chiếm
0,8%.
3.2.2.3. Đặc điểm men gan
Bảng 3.11. Đặc điểm xét nghiệm men gan
Xét nghiệm
SGOT (n=125)
SGPT (n=125) < 37U/I 37 – 69U/I ≥ 70U/I < 41U/I 41 – 69U/I ≥ 70U/I Số lượng 80 43 2 82 37 6 % 64,0 34,4 1,6 65,6 29,6 4,8
Nhận xét:
- SGOT của bệnh nhân nghiên cứu ở mức bình thường < 37U/I là 64,0%;
từ 37 - 69U/I là 34,4%, tỉ lệ bệnh nhân có SGOT ≥ 70U/I là 1,6%.
- SGPT của bệnh nhân nghiên cứu ở mức bình thường < 41U/I là 65,6%;
từ 41 - 69U/I là 29,6%, tỉ lệ bệnh nhân có SPOT ≥ 70U/I là 4,8%.
3.2.2.4. Phân bố tiểu cầu và Fibrinogen
Bảng 3.12. Đặc điểm xét nghiệm tiểu cầu và Fibrinogen
Xét nghiệm Số lượng %
Tiểu cầu (n=125)
Fibrinogen (n=125) < 150.000/mm³ ≥ 150.000/mm³ < 2g/l 2 - 4g/l > 4g/l 9 116 2 26 97 7,2 92,8 1,6 20,8 77,6
Nhận xét:
- Tiểu cầu: có 7,2% số bệnh nhân có Số lượng tiểu cầu < 150.000/mm³.
- Fibrinogen: Tỉ lệ giảm Fibrinogen < 2g/l là 1,6%, tỉ lệ tăng Fibrinogen
> 4g/l là 77,6%.
3.2.2.5. Siêu âm
46
Bảng 3.13. Phân bố tỷ lệ chỉ số ối và trọng lượng thai qua siêu âm
Siêu âm Số lượng %
Ít 22 17,6 Chỉ số ối Bình thường 100 80,0 (n=125) Đa ối 3 2,4
< 2500g 11 8,8 Trọng lượng thai 2500 - 3200g 73 58,4 (n=125) >3200g 41 32,8
Nhận xét:
- Có 22 trường hợp ối ít hơn bình thường, chiếm 17,6%; tỉ lệ bệnh nhân
siêu âm có đa ối chiếm 2,4%.
- Về trọng lượng, có 11 trường hợp cân nặng < 2500g, chiếm 8,8%; số
trẻ có trọng lượng > 3200g chiếm 32,8%.
3.2.3. Phân loại tiền sản giật
Bảng 3.14. Phân loại tiền sản giật
Phân loại tiền sản giật Số lượng %
69 55,2 Tiền sản giật nhẹ
56 44,8 Tiền sản giật nặng
125 100,0 Tổng
Nhận xét:
Tỷ lệ bệnh nhân TSG nhẹ là 55,2% và TSG nặng là 44,8%.
47
3.3. Kết quả xử trí người bệnh tiền sản giật tại khoa Phụ sản, Bệnh viện
Trung ương Thái Nguyên
3.3.1. Điều trị nội khoa
Bảng 3.15. Tỷ lệ bệnh nhân điều trị nội khoa
Điều tri nội khoa Số lượng %
Không dùng thuốc 1 0,8
Magie sunfat 2 1,6
Hạ áp 77 61,6
Kết hợp 45 36,0
Tổng 125 100,0
Nhận xét:
Phần lớn (61,6%) bệnh nhân nghiên cứu được dùng thuốc hạ áp đơn
thuần; tỉ lệ dùng kết hợp thuốc hạ áp với các loại thuốc khác chiếm 36,0%. Có
1 trường hợp bệnh nhân không phải dùng thuốc gì, chiếm 0,8%.
3.3.2. Phương pháp chấm dứt thai kì
Bảng 3.16. Phương pháp chấm dứt thai kì ở bệnh nhân nghiên cứu
Phương pháp chấm dứt thai kì Số lượng %
7 5,6 Đẻ đường âm đạo
118 94,4 Mổ lấy thai
125 100,0 Tổng
Nhận xét:
Trong số 125 bệnh nhân nghiên cứu, có 94,4% là mổ lấy thai; có 7 trường
hợp đẻ đường âm đạo, chiếm 5,6%.
48
3.3.3. Chỉ định đình chỉ thai nghén trong tiền sản giật
Bảng 3.17. Chỉ định đình chỉ thai nghén trong tiền sản giật
Lý do
Số lượng 15 53 1 1 1 % 12,0 42,4 0,8 0,8 0,8
47 37,6
Thai chậm phát triển Không kiểm soát được huyết áp Rau bong non Sản giật Thai suy Các nguyên nhân khác (sẹo mổ lấy thai cũ, yêu cầu của bệnh nhân, thiểu ối…) Đẻ đường âm đạo do chuyển dạ
Tổng 7 125 5,6 100,0
Nhận xét:
Chỉ định đình chỉ thai nghén là không kiểm soát được huyết áp 42,4%;
chỉ định đình chỉ do sẹo mổ lấy thai cũ, yêu cầu của bệnh nhân, thiểu ối…
chiếm 37,6%; đình chỉ do thai chậm phát triển trong buồng tử cung chiếm
12,0%. Có 3 trường hợp đình chỉ do sản giật, rau bong non và thai suy.
3.3.4. Kết quả điều trị và biến chứng
3.3.4.1. Thời gian từ lúc vào viện đến lúc sinh
Bảng 3.18. Thời gian từ lúc vào viện đến lúc sinh
Phân loại TSG nhẹ TSG nặng Chung
Số lượng 69 56 125
Thời gian vv đến lúc sinh 15,67 ± 52,17 10,67 ± 26,44 13,43 ± 42,53
(giờ)
p > 0,05
Nhận xét:
- Thời gian vào viện trung bình 13,4 giờ, thời gian vào viện đến lúc sinh
trung bình ở sản phụ TSG nhẹ là 15,67 giờ, TSG nặng là 10,67 giờ.
49
3.3.4.2. Tuổi thai lúc kết thúc thai nghén
Bảng 3.19. Phân bố tuổi thai kết thúc thai nghén
TSG nhẹ TSG nặng Chung Phân loại TSG
Tuổi thai SỐ SỐ SỐ % % % lúc đình chỉ (tuần) LƯỢNG LƯỢNG LƯỢNG
14,5 13 10 23,2 18,4 23 ≤ 37
73,9 43 51 76,8 75,2 94 38 - 40
11,6 0 8 0,0 6,4 8 ≥ 41
100,0 56 69 100,0 125 100,0 Tổng
< 0,05 p
Nhận xét:
Tỉ lệ bệnh nhân nghiên cứu được đình chỉ thai ở tuổi thai 38 – 40 tuần
chiếm 75,2%; ≤ 37 tuần chiếm 18,4% và ≥ 41 tuần là 6,4%.
3.3.4.3. Tình trạng con sau sinh
Bảng 3.20. Phân bố tình trạng con sau sinh
Tình trạng con sau sinh Số lượng %
< 7điểm 3 2,4 Apgar ≥ 7 điểm 122 97,6
< 2500g 16 12,8
2500 – 3200g 74 59,2 Trọng lượng
≥ 3200g 35 28,0
Nhận xét:
Sau sinh, tỉ lệ trẻ có Apgar ngay sau đẻ ≥ 7 điểm chiếm 97,6%; có 3
trường hợp apgar < 7 điểm, chiếm 2,4%.
Sau sinh, tỉ lệ trẻ có trọng lượng < 2500g là 12,8%; ≥ 3200g là 28,0%.
50
3.3.4.4. Tình trạng nước ối hồi cứu
Bảng 3.21. Phân bố tình trạng nước ối hồi cứu sau sinh
Nước ối Số lượng %
Trong 117 93,6
Xanh bẩn 8 6,4
Tổng 125 100,0
Nhận xét:
Về tình trạng nước ối sau đẻ, tỉ lệ nước ối trong chiếm 93,6%; nước ối
xanh bẩn là 6,4%.
3.3.4.5. Biến chứng
Bảng 3.22. Tỷ lệ biến chứng
Biến chứng Số lượng %
Không 115 92,0
Sản giật 2 1,6
Đẻ non 1 0,8
Khác (đờ tử cung, rau bong non, cắt tử 7 5,6 cung...)
Tổng 125 100,0
Nhận xét:
Tỉ lệ bệnh nhân nghiên cứu không có biến chứng gì chiếm 92,0%. Có 2
trường hợp bị TSG có biến chứng SG, chiếm 1,6%; 7 trường hợp bị các biến
chứng khác như đờ tử cung, rau bong non, cắt tử cung... chiếm 5,6%. Không
có trường hợp nào tử vong mẹ hoặc con.
51
Chương 4
BÀN LUẬN
TSG là bệnh lý do thai nghén, thường xảy ra sau tuần lễ thứ 20 của thai
kỳ và chấm dứt sau đẻ 6 tuần. Bệnh xảy ra ở tất cả các quốc gia trên thế giới, ở
cả những nước phát triển và đang phát triển và có có thể gây ra nhiều biến
chứng, hậu quả nặng nề cho mẹ và con. Bất chấp những nỗ lực khoa học để
nâng cao kiến thức về các khía cạnh bệnh lý và lâm sàng của TSG, tỷ lệ mắc
bệnh vẫn không giảm; và TSG vẫn là nguyên nhân chính gây tử vong mẹ. Do
đó, nghiên cứu tìm hiểu cụ thể những đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng giúp
cho chẩn đoán sớm, xử trí kịp thời để tránh những biến chứng nặng nề cho cả
mẹ và con là cực kỳ cần thiết. Nghiên cứu của chúng tôi đã đi sâu phân tích
trên 125 bệnh nhân TSG, cung cấp các bằng chứng y văn về vấn đề này.
4.1. Đặc điểm chung của bệnh nhân nghiên cứu
Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ bệnh nhân nghiên cứu ≤ 20 tuổi là
10,4%, ≥ 41 tuổi là thấp nhất 4,8%, tỉ lệ bệnh nhân từ 21 - 25 tuổi là chiếm
24,0%, từ 26 - 30 chiếm 23,2%. Độ tuổi trung bình của bệnh nhân nghiên cứu
là 29,43 ± 6,6 tuổi. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn đôi chút với kết
quả nghiên cứu của Trương Thị Linh Giang (2017) là 30,5 ± 6,4 [49] và cũng
thấp hơn nghiên cứu của Hà Thị Tiểu Di với tuổi trung bình là 32,0 ± 7,5 [12].
Điều này được giải thích là do sự khác biệt về địa bàn nghiên cứu: 2 nghiên
cứu trước tiến hành ở các thành phố lớn, nơi có xu hướng kết hôn muộn, trong
khi Thái Nguyên là thành phố miền núi, xu hướng kết hôn muộn chưa phổ biến
trong cộng đồng. Tuy nhiên, kết quả về độ tuổi nghiên cứu của chúng tôi cũng
phù hợp với kết quả nghiên cứu của Nguyễn Thị Phương Thảo và cs (2017) với
tuổi trung bình ở bệnh nhân TSG nhẹ là 28,87 ± 6,73 [34] và cũngphù hợp với
nghiên cứu của Soltani Sareh và cs (2019) [73]. Đây là lứa tuổi sinh đẻ chung
của người phụ nữ.
52
Về nghề nghiệp: Tỷ lệ bệnh nhân có nghề nghiệp cán bộ chiếm cao nhất
27,2%. Nghề khác như tự do, nội trợ, kinh doanh chiếm 26,4%. Có 2 trường
hợp là học sinh, sinh viên chiếm 1,6%. Tỉ lệ bệnh nhân có nghề nghiệp là công
nhân và nông dân đều chiếm 22,4%. So sánh với nghiên cứu của Hoàng Xuân
Sơn (2013) thấy nghề nghiệp làm ruộng chiếm tỷ lệ cao trong tiền sản giật với
47,8%, sau đó là cán bộ với tỷ lệ 35,8%, lao động tự do là 14,9% và nghề khác
là 1,5%. Có sự khác biệt này theo chúng tôi là sự khác biệt do địa bàn và do
đặc điểm mẫu nghiên cứu.
Điều cần lưu ý trong nghiên cứu này là có 2 trường hợp bệnh nhân TSG
có nghề nghiệp là học sinh, sinh viên chiếm 1,6% và trường hợp bệnh nhân trẻ
nhất chỉ 17 tuổi có 1 người, trường hợp lớn tuổi nhất là 44 tuổi có 2 người. Kết
quả này cho thấy nhận thức của một bộ phận thanh niên/vị thành niên về quan
hệ tình dục và hôn nhân chưa tốt, dẫn tới tình trạng mang thai sớm. Đây là minh
chứng cho thấy cần có những can thiệp truyền thông giáo dục sức khỏe về vấn
đề chăm sóc sức khỏe sinh sản vị thành niên/thanh niên trong các trường học.
Báo cáo cho thấy tỷ lệ TSG tăng lên ở những thai phụ con so trẻ tuổi hoặc mang
thai cách lần trước lớn hơn 10 năm và tăng cao ở những người lớn tuổi. Trên 40
tuổi mang thai thì nguy cơ TSG tăng hơn, bất kỳ đẻ lần thứ mấy [82]. Với 2 trường
hợp mang thai ở tuổi 44 cho thấy xu hướng sinh con muộn có chiều hướng gia
tăng, phù hợp với sự phát triển của xã hội nói chung. Tuy nhiên, nguy cơ TSG sẽ
lớn, ảnh hưởng cả mẹ và con, qua đó ảnh hưởng chất lượng dân số. Vì thế, hoạt
động truyền thông về dự phòng tiền sản giật, quản lý thai nghén và đảm bảo độ
tuổi sinh đẻ phù hợp là cần thiết.
Về địa dư: Bệnh nhân nghiên cứu ở thành thị là 46 trường hợp, chiếm
36,8%; ở nông thôn có 79 trường hợp, chiếm 63,2%. Kết quả của chúng tôi
tương ứng với nghiên cứu của Hoàng Xuân Sơn (2013) với tỉ lệ bệnh nhân ở
nông thôn 62,7%, cao hơn ở thành thị 37,3%. Điều này có thể được giải thích
53
là do địa bàn Thái Nguyên và Bắc Kạn đều là các tỉnh khu vực miền núi Phía
Bắc, dân cư ở đây chủ yếu vẫn sống ở nông thôn, chỉ có phần nhỏ dân cư sống
tập trung ở thành thị.
Nghiên cứu cho thấy, chủng tộc là một yếu tố nguy cơ gây TSG. Theo
Onah và cs (2002) nghiên cứu về yếu tố nguy cơ của TSG đã xác định được tỷ
lệ TSG ở những người da đen cao hơn người da trắng ở cùng độ tuổi [69]. Mặc
dù chưa có nghiên cứu xác định rõ yếu tố nguy cơ gây TSG là dân tộc thiểu số
nhưng kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng thấy đa phần bệnh nhân nghiên
cứu thuộc dân tộc Kinh, chiếm 56,0%; phần còn lại 44,0% là các dân tộc thiểu
số khác. Đáng chú ý là trong 125 bệnh nhân nghiên cứu có tới 12 dân tộc khác
nhau gồm: Kinh, Tày, Nùng, Mông, Mường, Dao, Thái, Cao lan, Sán chí, Sán
dìu, Vân kiều, Xinh mún. Điều này hoàn toàn phù hợp với đặc điểm địa bàn
tỉnh Thái Nguyên là tỉnh miền núi với Số lượng người dân tộc thiểu số đa dạng.
Theo quy định của chương trình chăm sóc sức khỏe sinh sản, mỗi thai
phụ cần được khám thai ít nhất 3 lần trong quá trình mang thai của họ để phát
hiện các vấn đề bất thường, trong đó có TSG và đưa ra xử trí sớm. Nguyên
nhân gây bệnh TSG chưa rõ nên điều trị dự phòng cho những bệnh nhân này
rất khó. Chủ yếu là phát hiện sớm và điều trị sớm. Kết quả nghiên cứu của
chúng tôi cho thấy: trong số các bệnh nhân nghiên cứu có 121 người có khám
thai định kì, chiếm 96,8%; chỉ có 4 trường hợp không khám thai, chiếm 3,2%.
Điều này cho thấy việc nhận thức về quản lí thai nghén của nhân dân đã đang
được từng bước nâng cao, tuy việc khám thai chủ yếu vẫn là thực hiện tại các
phòng khám tư và trạm y tế địa phương nhưng nó cùng góp phần phát hiện sớm
các rối loạn trong thời kì thai nghén, đặc biệt là TSG. Với 4 trường hợp không
khám thai đó là những trường hợp bệnh nhân người dân tộc thiểu số vùng sâu
vùng xa, khoảng cách từ nhà đến cơ sở y tế lớn, điều kiện đi lại khó khăn.
Nghiên cứu của Đặng Thị Thúy Phương và cs (2016) thấy những thai phụ khám
54
thai > 4 lần làm giảm nguy cơ mắc bệnh TSG có ý nghĩa thống kê so với nhóm
khám thai ≤ 4 lần với OR = 0,45; 95%CI: 0,2 – 0,8. Nghiên cứu của tác giả
Đặng Thị Ngọc Hà (2010) ở tỉnh Đồng Tháp, cho rằng khám thai < 3 lần là yếu
tố làm tăng nguy cơ xuất hiện TSG nặng gấp 2,6 lần (95%CI: 1,45 - 4,78) so
với thai bình thường. Theo tác giả Bilano (2014), khảo sát cắt ngang trên
276.388 thai phụ, ghi nhận khám thai > 8 lần là yếu tố bảo vệ thai phụ giảm
nguy cơ mắc TSG 0,9 lần (95%CI: 0,83 – 0,98; p < 0,05) [58]. Như vậy, việc
tiếp tục đẩy mạnh tăng cường tuyên truyền khám thai định kỳ trong cộng đồng
là việc làm cần thiết nhằm phòng ngừa các biến chứng trong thai kỳ, trong đó
có phòng ngừa TSG.
Theo thuyết “Thiếu máu tử cung rau”, mạch máu nhau thai ở người sinh
con so chưa phát triển tốt bằng ở bà mẹ sinh con rạ nên người đẻ con so tỷ lệ
mắc TSG cao hơn người đẻ con rạ [82]. Việc sinh con so có nguy cơ mắc TSG
cao hơn con rạ đã được chứng minh bởi nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước
[43], [54]. Kết quả nghiên cứu ở Biểu đồ 3.2 thấy: chủ yếu bệnh nhân nghiên
cứu là đẻ con so có 71 trường hợp, chiếm 56,8%; có 39 trường hợp đẻ lần thứ
2, chiếm 31,2%; và chỉ có 1 trường hợp đẻ con lần thứ 4, chiếm 0,8%. Kết quả
của chúng tôi cũng phù hợp với nghiên cứu của Hà Thị Tiểu Di khi chứng minh
tỉ lệ phụ nữ TSG mang thai con so chiếm cao nhất. Theo Hà Thị Tiểu Di (2014)
thì số sản phụ mang thai con so chiếm tỷ lệ cao nhất 50,7%; tỉ lệ giảm dần ở
sản phụ mang thai lần 2 (31,3%), lần 3, 4 và thấp nhất ở người mang thai > 4
lần chỉ có 4 trường hợp (6%) [12].
Nghiên cứu cho thấy nếu phụ nữ mắc các bệnh bệnh đái tháo đường, béo
phì, THA, bệnh thận, suy tuyến giáp làm tăng nguy cơ phát sinh bệnh và làm
nặng bệnh TSG. Nếu bệnh nhân có tiền sử sản khoa: tiền sử SG và TSG, thai
chết lưu, rau bong non... cũng là yếu tố làm tăng tỷ lệ phát sinh bệnh và làm
nặng thêm bệnh [76]. Nghiên cứu của Trần Mạnh Linh (2020) cho thấy có đến
55
73,68% trường hợp con rạ có tiền sử mang thai TSG xuất hiện TSG lặp lại ở
lần mang thai tiếp theo. Tỷ lệ thai phụ mắc các bệnh lý như đáitháo đường,
bệnh Lupus ban đỏ hệ thống, bệnhlýthận mạntính, THA mạntính có các rối loạn
tăng huyết áp so với nhóm có thai kỳ không tăng huyết áp (14,14% so với
0,61%), p < 0,001 [28]. Kết quả Bảng 3.5 của chúng tôi cho thấy: có 15 trường
hợp mắc các bệnh mạn tính và bệnh khác kèm theo, chiếm 12,0% và có 3 trường
hợp bị TSG ở lần mang thai trước chiếm 2,4%. Như vậy rõ ràng rằng khi mắc
các bệnh có liên quan với huyết áp hay có tiền sử TSG sẽ có nguy cơ cao mắc
TSG. Với 18 trường hợp này đòi hỏi người thầy thuốc phải theo dõi sát và cân
nhắc kỹ phương pháp điều trị cho phù hợp bởi lẽ bệnh nhân có tiền sử các bệnh
nội khoa sẽ ảnh hưởng đến việc kiểm soát huyết áp và protein niệu trên bệnh
nhân.
4.2. Bàn luận về triệu chứng lâm sàng, cận lâm sàng của bệnh nhân TSG
4.2.1. Triệu chứng lâm sàng của bệnh nhân nghiên cứu
4.2.1.1. Tăng huyết áp
THA là dấu hiệu quan trọng nhất, đến sớm nhất, gặp nhiều nhất có giá trị
tiên lượng cho cả mẹ và con [53]. Việc chẩn đoán xác định triệu chứng THA
trong TSG khi có HATTh ≥ 140 mmHg và/hoặc HATTr ≥ 90 mmHg [19]. THA
được chia thành 3 độ theo ESC – ESH 2013 [66]. Kết quả nghiên cứu của chúng
tôi thấy: 100% bệnh nhân đều có THA; chủ yếu là THA độ 1 và độ 2, trong đó
độ 2 chiếm tỷ lệ cao nhất có 54 trường hợp chiếm 43,2%. Còn lại 28 trường
hợp là THA độ 3, chiếm 22,4%. Qua khai thác bệnh sử và thăm khám 125
trường hợp TSG cho thấy chỉ số huyết áp cao chính là dấu hiệu đầu tiên làm
cho bệnh nhân phải nhập viện. Điều này nói lên vai trò quan trọng của huyết áp
tăng, đây là một nguyên nhân chủ yếu gây ra các biến chứng nguy hiểm cho mẹ
và con. So sánh với nghiên cứu của Lê Lam Hương (2016), chính huyết áp tăng
đã gây nên các biến chứng trầm trọng cho mẹ và thai và THA là triệu chứng
56
thường gặp nhất trong chứng TSG - SG. Tỉ lệ thai phụ có HATTh > 160 mmHg
chiếm 29,2% và 70,8% thai phụ có HATTh nằm trong khoảng 140 - 160
mmHg; tỉ lệ thai phụ có HATTr > 110 mmHg chiếm 31,5%. Theo nghiên cứu
của Trương Thị Linh Giang (2017), THA có giá trị tiên lượng cho cả mẹ và
con, chính THA trong TSG - SG là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong cũng
như các biến chứng cho mẹ và con [49]. Do đó, kiểm soát tốt huyết áp cho thai
phụ TSG là một vấn đề cực kỳ quan trọng và cần thiết. Theo nghiên cứu của
Ngô Thị Kim Huê (2016): khi HATTr ≥ 95 mmHg hoặc hơn mà không có điều
trị gì thì sẽ gia tăng nguy cơ về bệnh tim mạch như: xuất huyết não, suy tim,
suy thận do THA. Nhiều thử nghiệm lâm sàng khuyến cáo rằng, HATTr ≥ 90
mmHg sẽ làm tăng biến chứng cho thai phụ và thai nhi; HATTr nên được kiểm
soát ở mức 85 mmHg thì tốt hơn so với 90 mmHg, đặc biệt là ở những thai phụ
có đái tháo đường thai kỳ. Khi việc điều trị hạ áp bắt đầu, mức HATTr dao
động từ 85 – 90 mmHg được xem là một tiêu chuẩn hạ áp tốt. Như vậy, THA
là dấu hiệu chỉ điểm tin cậy của bệnh lý TSG. Điều này đồng nghĩa với việc khi
người phụ nữ mang thai có THA thì việc nhập viện theo dõi và điều trị là cần
thiết nhằm tránh những biến chứng nặng nề có thể xảy ra như SG.
4.2.1.2. Phù
Phù là một triệu chứng thường gặp của TSG; phù trong TSG là phù toàn
thân, không giảm khi nghỉ ngơi; phù trắng, mềm, có dấu ấn lõm; tăng cân
nhanh, quá 0,5kg/tuần. Có thể phù nhiều, phù toàn thân, các chi to lên, ngón
tay tròn trĩnh, mặt nặng, mí mắt húp lại, âm hộ sưng to. Bụng căng lên, nổi hằn
dây thắt lưng hay sau khi nghe tim thai còn hằn dấu vết của ống nghe. Có khi
phù cả phủ tạng, phù phúc mạc nên có nước trong ổ bụng, màng phổi, não.
Võng mạc có thể bị phù nên bệnh nhân bị nhức đầu, mờ mắt. Trong một số
trường hợp, phù có thể nhẹ, kín đáo, chỉ khi ấn lên mắt cá chân mới phát hiện
được hoặc buổi sáng hơi nặng mặt [20]. Tuy nhiên, triệu chứng phù có thể xuất
57
hiện trên những thai phụ bình thường. Sự giữ nước sinh lý ở người có thai bình
thường và phù do bệnh lý TSG không thể phân biệt được bằng lâm sàng, do đó,
dấu hiệu phù không phải là triệu chứng để chẩn đoán TSG, nhưng nó là dấu
hiệu gợi ý quan trọng để dự đoán khả năng phát sinh những rối loạn THA thai
sản. Những thai phụ có phù mắc TSG cao hơn những thai phụ không có phù
[48]. Theo cổ điển, phù được mô tả là dấu hiệu sớm nhất của TSG đang tiến
triển. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi thấy: Phần lớn bệnh nhân vào viện với
chẩn đoán là TSG có triệu chứng phù kèm theo với 112 trường hợp, chiếm
89,6%. Trong đó chủ yếu vẫn là phù nhẹ có 84 trường hợp chiếm 67,2%; và có
28 trường hợp biểu hiện phù to toàn thân, chiếm 22,4%; chỉ có 13 trường hợp
bệnh nhân không có phù, chiếm 10,4%. Nghiên cứu của Hồ Thị Phương Thảo
tại Huế [18] phù chiếm tỉ lệ 97% trong đó phù toàn thân chiếm tỉ lệ 54,6%.
Trong các triệu chứng cơ năng của thai phụ, tỷ lệ triệu chứng phù chiếm cao.
Nghiên cứu của Trương Thị Linh Giang (2017) thấy tỉ lệ thai phụ có triệu chứng
phù là 43,8% [49]. Theo Đỗ Xuân Vinh (2019) tỷ lệ triệu chứng phù là 40,7%
trong tổng số sản phụ bị TSG [13]. Nghiên cứu củaHà Thị Tiểu Di (2014), phù
là dấu hiệu hay gặp ở thai phụ TSG nặng - SG (98,5%), trong đó phù toàn thân
chiếm tỉ lệ 44,8% [12]. Nghiên cứu của Hồ Thị Phương Thảo tại Huế thấy phù
chiếm tỉ lệ 97,0% trong đó phù toàn thân chiếm tỉ lệ 54,6% [18]. Theo Lê Lam
Hương (2016), phù nhiều chiếm tỷ lệ 80,9%; phù ở nhóm Protein niệu >3g/l
chiếm 90,9% vàở nhóm Protein niệu <3g/l là 71,1%.
4.2.1.3. Bàn luận về các triệu chứng lâm sàng khác của bệnh nhân TSG
Ngoài 2 dấu hiệu lâm sàng thường có trong bệnh lý TSG như THA, phù
thì thai phụ TSG còn có thể gặp các triệu chứng khác (thiếu máu: mệt mỏi, da
xanh, niêm mạc nhạt (huyết tán); Phổi: đôi khi có hội chứng ba giảm do tràn
dịch ở màng phổi; Tim: đôi khi có tiếng thổi cơ năng do thiếu máu, tiếng tim
mờ ứ nước ở màng tim, đôi khi bệnh nhân có kèm theo khó thở nhẹ; Bụng: có
58
thể có nước cổ trướng tự do, do tràn dịch màng bụng; Mắt: bệnh nhân đôi khi
có cảm thấy mờ mắt do phù võng mạc) [9]. Bên cạnh đó, thai phụ TSG còn có
thể có các dấu hiệu sau: tăng phản xạ, đau đầu tăng, chóng mặt, nhìn mờ, hoa
mắt, thiểu niệu (dưới 400ml/24 giờ), đau vùng thượng vị, phù phổi. Khi thai
phụ xuất hiện các dấu hiệu trên thường báo hiệu một tình trạng nặng của bệnh
nhân, đó là các biến chứng TSG nặng, suy gan, suy thận... [42]. Nghiên cứu
của chúng tôi thấy đa phần bệnh nhân nghiên cứu không có biểu hiện các triệu
chứng kèm theo có 117 trường hợp, chiếm 93,6%; Trong số các triệu chứng
lâm sàng khác hay gặp nhất là đau đầu, có 4 trường hợp, chiếm 3,2%; các triệu
chứng như rối loạn thị giác 0,8%; khó thở 0,8% va buồn nôn/mệt mỏi 4,0%.
Đây là các kết quả tiên lượng tốt cho thai phụ trong nghiên cứu của chúng tôi
do với tỉ lệ triệu chứng kèm theo thấp chứng tỏ thai phụ đã có ý thức đến viện
sớm khi các triệu chứng còn chưa trở lên nặng nề. So sánh với nghiên cứu của
Trương Thị Linh Giang (2017) thì tỷ lệ đau đầu chiếm 23,5% [49]. Nghiên cứu
của Nguyễn Thị Bích Vân cho thấy triệu chứng lâm sàng của TSG nặng tỷ lệ
cao nhất là đau đầu chiếm 55,4%; rối loạn thị giác có tỷ lệ 21,6%, đau vùng
thượng vị 12,2% [80]. Nghiên cứu của Phan Lê Nam (2016) cho thấy đau đầu
là triệu chứng thường gặp nhất trong TSG nặng chiếm 69,4% số bệnh nhân,
tiếp theo là nôn chiếm 40,3%, rối loạn thị giác 32,3% và đau vùng gan 30,6%.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi có sự khác biệt về các triệu chứng lâm sàng
kèm theo so với các nghiên cứu trước, lý giải sự khác biệt về tần suất của các
triệu chứng của chúng tôi với nghiên cứu trước theo chúng tôi là do khác nhau
về cỡ mẫu nghiên cứu và đặc điểm mẫu nghiên cứu. Điều cần lưu ý là trước khi
có sự thay đổi các giá trị cận lâm sàng thì chính các triệu chứng lâm sàng là
những dấu hiệu giúp nhận biết sớm những biến chứng để xử trí kịp thời. Từ đó
cho thấy vai trò quan trọng của triệu chứng lâm sàng trong điều trị TSG nặng -
SG. Thường khi bệnh có chiều hướng nặng lên đều có các triệu chứng báo hiệu
59
trước mà nếu không theo dõi chặt chẽ, xửtrí kịp thời thì đểlại hậu quả nặng nề
vì bệnh lý TSG nặng - SG có nhiều biến chứng nghiêm trọng và diễn tiến rất
nhanh có thểtửvong nhanh nếu xử trí không kịp thời.
4.2.2. Bàn luận về triệu chứng cận lâm sàng của bệnh nhân nghiên cứu
4.2.2.1 Protein niệu
Protein niệu thường là dấu hiệu sau cùng của bộ ba triệu chứng THA,
phù và protein niệu. Mức độ protein niệu có thể thay đổi nhiều trong 24 giờ, do
đó xét để nghiệm protein niệu chính xác nước tiểu phải được lấy mẫu trong 24
giờ [20]. Protein niệu dương tính khi lượng protein > 0,3g/l/24 giờ hoặc trên
0,5g/l/mẫu nước tiểu ngẫu nhiên [20]. Nghiên cứu cho thấy, trong số phụ nữ có
protein niệu thai kỳ thì có 25,0% bị TSG. Protein niệu và hạn chế tăng trưởng
của thai nhi là những yếu tố độc lập liên quan đến sự xuất hiện của TSG. Mức
protein niệu cao ≥ 2 g/24 giờ là yếu tố dự báo chính cho bệnh tiến triển (p =
0,03) [59]. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy: Đaphần bệnh nhân
nghiên cứu có protein trong nước tiểu với lượng vừa 300 - 999mg/dl với 110
trường hợp, chiếm 88,0%; chỉ có 4 trường hợp có lượng protein trong nước tiểu
≥ 1000mg/dl, chiếm 3,2%. Kết quả nghiên cứu này phù hợp với nghiên cứu
của Xin Dong và cs 2017 [60]; tuy nhiên theo nghiên cứu của Hà Thị Tiểu Di
(2014): xét nghiệm 67 thai phụ đều có protein niệu dương tính, trong đó hàm
lượng ≥ 3g/l chiếm tỉ lệ 67,2% [12]. Sở dĩ có sự khác biệt như vậy vì nghiên
cứu của Hà Thị Tiểu Di (2014) là nghiên cứu trên thai phụ TSG nặng - SG
trong khi nghiên cứu này được tiến hành trên nhóm TSG nói chung, trong đó
có TSG nhẹ. Theo y văn, protein niệu là triệu chứng xuất hiện sau cùng của 3
triệu chứng và là dấu hiệu đáng ngại nhất trong bệnh lý TSG. Do đó, tất cả phụ
nữ khi mang thai nên được xét nghiệm protein niệu ở giai đoạn sớm để phát
hiện bệnh thận từ trước và xét nghiệm ở nửa sau của thai kỳ để sàng lọc phát
hiện sớm bệnh lý TSG.
60
4.2.2.2. Bàn luận về acid Uric, Protein, Ure và Creatinin huyết thanh
Phụ nữ bị TSG có dấu hiệu rối loạn chức năng nội mô nghiêm trọng ở
cầu thận, thay đổi biểu hiện của protein liên kết với tế bào podocyte, và thậm
chí có thể tổn thương và mất tế bào podocyte. Ngoài tình trạng protein niệu
đáng kể, phụ nữ bị TSG có thể bị suy giảm khả năng lọc cầu thận và, trong
trường hợp nặng, suy thận [64]. Chính bởi sự tổn thương cầu thận khiến cho
protein và albumin có thể đi qua màng lọc cầu thận một cách dễ dàng, làm cho
protein xuất hiện trong nước tiểu và protein, albumin huyết thanh giảm. Mức
độ giảm này càng nhiều thì càng biểu hiện một tình trạng nặng của TSG. Nghiên
cứu này cho kết quả: có 80 thai phụ có protein huyết thanh ≥ 65g/l, chiếm
64,0%; có 45 trường hợp protein < 65g/l, chiếm 36,0%. Acid uric thoái hóa từ
base purin, đào thải ra ngoài bằng đường tiểu. Bình thường nồng độ acid uric
huyết thanh 150 - 360 μmol/l [27]. Những thai sản bình thường, nồng độ acid
uric huyết thanh trong máu gần như bình thường. Khi thai phụ bị TSG có hiện
tượng co mạch máu thận vì vậy thể tích huyết tương qua thận giảm dẫn đến sự
thanh thải acid uric trong máu giảm và acid uric huyết thanh tăng. Nghiên cứu
của chúng tôi cho kết quả về acid uric huyết thanh: dưới 420µmol/l có 58 trường
hợp chiếm 47,4%, trên 420µmol/l có 67 trường hợp chiếm 53,6%. So sánh với
nghiên cứu của Lê Lam Hương (2016), tỉ lệ tăng acid uric là 34,9%; theo Bạch
Ngõ thì có 90% bệnh nhân có tăng acid uric máu [4], theo Hồ ThịPhương Thảo
(2002) nhận thấynồng độacid uric trong máu tăng cao 316 ± 92,6µmol/L so với
bình thường với tỷ lệ là 72,3% [18]. Đã có nhiều nghiên cứu về acid uric như
một tác nhân tiên đoán biến chứng ở mẹ và con ở bệnh nhân tiền sản giật. Nồng
độ acid uric huyết thanh có mối liên quan đến biến chứng ở mẹ và biến chứng
ở trẻ. Việc xét nghiệm xác định acid uric huyết thanh và điều chỉnh trong quá
trình điều trị TSG là việc làm cần thiết giúp nâng cao chất lượng điều trị TSG.
Creatin được gan tổng hợp rồi theo dòng máu vận chuyển đến mô cơ, tại
61
đó creatin gắn với phosphat từ ATP để tạo thành creatin-phosphat. Chuyển hóa
creatin-phosphat sẽ tạo ra creatinin, chất này không được cơ sử dụng, vào máu
rồi đào thải ra ngoài theo đường tiểu. Creatinin là thành phần đạm trong máu
ổn định nhất, không phụ thuộc vào chế độ ăn hoặc những thay đổi sinh lý khác
mà chỉ phụ thuộc vào khả năng đào thải của thận nên hiện nay được sử dụng
nhiều để theo dõi chức năng thận, có ý nghĩa trong chẩn đoán suy thận hơn xét
nghiệm urê. Chỉ định xét nghiệm creatinine trong các trường hợp suy giảm mức
lọc cầu thận, xét nghiệm tổng quát, phát hiện bất thường nước tiểu, suy thận
cấp, mạn, tiêu chảy, nôn ói, tăng huyết áp, phụ nữ có thai, nhiễm trùng huyết,
sốc, đa chấn thương, tầm soát bệnh thận, điều trị thuốc có ảnh hưởng. Nghiên
cứu của chúng tôi thấy ure huyết thanh: Có 98,4% số bệnh nhân có ure huyết
thanh < 8,3mmol/l và 1,8% số bệnh nhân có ure huyết thanh > 8,3mmol/l.
Creatinin huyết thanh: Có 99,2% số bệnh nhân có creatinin huyết thanh <
115µmol/l và chỉ có 0,8% số bệnh nhân có creatinin huyết thanh ≥ 115µmol/l
Theo Lê Lam Hương (2016) ure và creatinin tăng chiếm 31,7% và
34,8%, tăng ure chiếm 47,7% ở nhóm Protein niệu >3g/l và 15,6% và ở nhóm
Protein niệu <3g/l; OR = 4,9 (95 % CI=1,8- 13,1). Tăng creatinin chiếm 52,3%
ở nhóm Protein niệu >3g/l chiếm 17,8% và ởnhóm Protein niệu <3g/l; OR =
5,0(95 % CI=1,9- 13,3) [21]. Bạch Ngõ nghiên cứu nhận thấy các chỉ số sinh
hoá máu đều thay đổi như sau ở bệnh nhân tiền sản giật - sản giật: 5% tăng ure,
2,7% tăng creatinin [31]. Theo tác giả Nguyễn Thanh Hà (2016) chỉ số ure màu
trung bình của các thai phụ là 5,4 mmol/l, creatinin là 85,7 mmol/l và không
cao hơn giá trị 106 mmol/l ở bệnh nhân SG nặng và 0,6 mmol/l ở bệnh nhân
TSG nhẹ. Khi ure, creatinine huyết thanh tăng (ure máu >6,6mmol/l, creatinin
huyết thanh >106 mmol/l), đó là biểu hiện của sự suy giảm chức năng thận [16].
Như chúng ta đã biết, trong bệnh lý TSG, huyết áp tăng làm cho mạch máu
thận, lượng máu qua thận giảm làm giảm khả năng lọc của cầu thận. Chính vì
62
vậy, urê huyết thanh và creatinin huyết thanh tăng cao tùy mức độ bệnh. Suy
thận là kết quả tất yếu của tiền sản giật nặng, làm tăng biến chứng cho mẹ và
thai nhi.
4.2.2.3. Bàn luận về men gan
Transaminase, là enzym giúp chuyển vận nhóm amin của những acid
amin sang những acid cetonic tạo nên sự chuyển hoá giữa protein và glucid. Có
2 loại được chú ý:
+ SGOT (Serin Glutamo-Oxalo Transaminase)
+ SGPT (Serin Glutamo-Pyruvic Transaminase)
Bình thường, SGOT ≤ 37 U/I-370C, SGPT ≤ 40 U/I-370C [7].
Trong bệnh lý TSG, nhất là TSG nặng hoặc hội chứng HELLP, hoạt động
emzym SGOT và SGPT tăng lên. Trong chẩn đoán TSG nặng có tiêu chuẩn suy
chức năng gan: men gan tăng gấp đôi bình thường. Đau hạ sườn phải hoặc
thượng vị kéo dài không đáp ứng với thuốc và không có chẩn đoán thay thế
hoặc cả hai [6].
Qua Bảng 3.12 thấy SGOT đa phần ở mức bình thường, chiếm 64,0%; ít
nhất là ≥ 70U/I, có 1,6%. SGPT cũng ở mức bình thường, chiếm 65,6%; ít nhất
là ≥ 70U/I, có 4,8%. Theo Lê Lam Hương (2016) tăng SGOT chiếm tỷ lệ 29,2%
và tăng SGPT chiếm 25,8%. TăngSGOT chiếm tỷlệ40,9%ởnhóm Protein niệu
>3g/l và17,8% và ở nhóm Protein niệu <3g/l OR=3,2(95 % CI=1,2- 8,4). Tăng
SGPT chiếm tỷlệ 47,7% ở nhóm Protein niệu >3g/l và 13,3% và ở nhóm Protein
niệu <3g/l; OR=5,9(95 % CI=2,0- 16,8) [21]. Nghiên cứu của Bạch Ngõ nhận
thấy 61% tăng SGOT và 28,1% tăng SGPT [31]. Theo tác giả Nguyễn Thanh
Hà (2016) SGOT 40,4, SGPT 29,9 ở bệnh nhân TSG nhẹ và SGOT 49,9, SGPT
38,4 ở bệnh nhân TSG nặng [16]. Mức độ tăng men gan thể hiện mức độ hủy
hoại tế bào gan, xét nghiệm định lượng men gan là một chỉ điểm quan trong
63
giúp tiên lượng những biến chứng cho thai phụ. Nếu men gan tăng quá cao có
thể dẫn đến suy gan.
Nồng độ của SGOT và SGPT càng tăng cao trong huyết thanh thì tổn
thương hoại tử tế bào gan càng nặng, điều này đồng nghĩa với bệnh TSG càng
nặng và có nhiều biến chứng. Không chỉ ảnh hưởng đến mẹ, khi men gan tăng
thì những thai phụ TSG có SGOT> 31 U/I có nguy cơ gây tình trạng sơ sinh
nhẹ cân cao gấp 2,02 lần, sơ sinh non tháng cao gấp 2,76 lần, sơ sinh chết ngay
sau đẻ cao gấp 13,58 lần, thai chết lưu trong buồng tử cung cao gấp 5.30 lần so
với những thai phụ có AST < 31 U/I [25].
4.2.2.4. Bàn luận về tiểu cầu và Fibrinogen
Là thành phần hữu hình của máu có vai trò quan trọng trong quá trình
cầm máu và đông máu. Tiểu cầu có nguồn gốc từ tủy xương (những xương dẹt).
Bình thường trong máu có 150.000 – 300.000 tiểu cầu/mm3 máu [29]. Trong
bệnh lý TSG nặng, nhất là hội chứng HELLP có sự thay đổi phức tạp trong
bệnh lý đông máu, cụ thể là tăng đông máu nội mạch và đông máu khu trú ở
một vài cơ quan. Gây ra hiện tượng Số lượng tiểu cầu giảm xuống <100.000
mm3 máu [6].
Fibrinogen: là một protein hòa tan được, có mặt trong huyết tương với
nồng độ từ 100 - 700mg/100ml. Hầu hết fibrinogen được thành lập ở gan, do
đó trong những trường hợp bị bệnh gan, sẽ giảm lượng fibrinogen trong máu
tuần hoàn, ngăn cản sự đông máu [29].
+ Nồng độ fibrinogen bình thường: 2 - 4g/l.
+ Nồng độ fibrinogen giảm: < 2g/l.
+ Nồng độ fibrinogen tăng: > 4g/l.
Fibrinogen là yếu tố đóng vai trò quan trọng trong đông cầm máu. Trong
giai đoạn cầm máu ban đầu, Fibrinogen cần thiết cho sự dính và ngưng tập tiểu
cầu. Các phản ứng trong dòng thác đông máu đều đi đến mục đích cuối cùng là
64
chuyển fibrinogen thành fibrin để tạo nút cầm máu bền vững. Tăng fibrinogen
là một bằng chứng tồn tại tình trạng viêm nhiễm, tổn thương mạch máu và
chính những tổn thương này làm tăng cường hoạt hoá tiểu cầu, tăng hoạt hoá
đường đông máu nội sinh và ngoại sinh. Các chỉ số nêu trên được gọi là các xét
nghiệm đông máu vòng đầu thường được dùng để thăm dò chức năng đông cầm
máu, dựa trên thay đổi của các chỉ số này để chỉ định các xét nghiệm thăm dò
tiếp theo để xác định vấn đề liên quan đến đông máu của người bệnh [33]. Theo
Phan Thị Minh Ngọc, fibrinogen giảm xuất hiện ở 12,5% thai phụ có TSG [37].
Chúng tôi nhận thấy fibrinogen: có 26 trường hợp (chiếm 20,8%) nằm
trong giới hạn bình thường, tức là nằm trong khoảng [2 - 4], còn lại 79,2% là
có Fibrinogen < 2g/l hoặc > 4g/l. Nhưng đa số vẫn là cao hơn 4 g/l chiếm
77,6%.Về tiểu cầu: có 92,8% số bệnh nhân có Số lượng tiểu cầu ≥ 150.000/mm³
và 7,2% số bệnh nhân có Số lượng tiểu cầu < 150.000/mm³.
Theo Nguyễn Thanh Hà (2016) giá trị tiểu cầu trung bình là 195,8 ± 61,1
G/l, không giảm so với mức trung bình của thai phụ bình thường, so sánh giữa
hai nhóm TSG nhẹ và TSG nặng cho thấy mức trung bình lần lượt là 192,8 ±
75,1 G/l và 191,0 ± 82,3 G/l, sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê với p
> 0,05 [16]. Đã có bằng chứng về vai trò của tiểu cầu trong việc tạo cục máu
đông. Trong bệnh lý TSG, vai trò của tiểu cầu càng quan trọng trong việc chống
lại nguy cơ chảy máu. Tiểu cầu giảm là dấu hiệu quan trọng trong hội chứng
HELLP. Khi tiểu cầu giảm là yếu tố nguy cơ cao của bệnh được sử dụng để
tiên lượng. Theo Ngô Văn Tài, Số lượng tiểu cầu < 100 G/l trong hội chứng
TSG làm tăng nguy cơ biến chứng chảy máu và rau bọng non cho sản phụ [40].
4.2.2.5. Bàn luận về kết quả siêu âm
Theo kết quả siêu âm, chỉ có 22 trường hợp ối ít hơn bình thường, chiếm
17,6%; nhiều nhất vẫ là ối bình thường, có 100 trường hợp chiếm 80%; ít nhất
là đa ối, có 3 trường hợp, chiếm 2,4%.
65
Về cân nặng thai nhi theo siêu âm, đa số trọng lượng vẫn nằm trong
ngưỡng bình thường trên 2500 gram đến 3200 gram là 58,4%; chỉ có 11 trường
hợp trọng lượng dưới 2500 gram, chiếm 8,8%; số trẻ có trọng lượng trên 3200
gram lên đến 32,8%.
Điều này cho thấy tính trạng TSG của các thai phụ đến khám và nằm
điều trị tại Khoa Phụ sản bệnh Viện Trung Ương Thái Nguyên hầu hết là các
trường hợp TSG xuất hiện muộn và chưa có biến chứng như thiểu ối, thai chậm
tăng trưởng trong buồng tử cung. Cho thấy ý thức quản lí thai nghén tương đối
tốt của các thai phụ tại đây.
4.2.3. Bàn luận về phân loại TSG
Tỷ lệ bệnh nhân TSG nhẹ và TSG nặng là tương đương nhau với tỷ lệ TSG
nhẹ là 55,2%, TSG nặng là 44,8%. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của nhiều
tác giả. Theo nghiên cứu cuả tác giả Phan Lê Nam nhóm bệnh nhân TSG nhẹ
chiếm tỷ lệ cao hơn 50,7% so với nhóm bệnh nhân TSG nặng chiếm 44,6%
[18]. Kết quả nghiên cứu của Trương Thị Linh Giang (2017) TSG nhẹ chiếm
tỷ lệ cao hơn 53,6% và TSG nặng chiếm 46,4% [15].Trước đây, người ta phân
loại bệnh lý tiền sản giật thành hai mức độ nhẹ và nặng. Hiện nay, người ta áp
dụng cách phân loại mới là tiền sản giật và tiền sản giật nặng. Phân loại theo
mức độ bệnh tiền sản giật và tiền sản giật nặng khá mới nên không có nhiều
nghiên cứu để so sánh. Theo nghiên cứu của tác giả Phan Lê Nam (2016), phân
loại theo thời điểm khởi phát, đa số bệnh nhân thuộc nhóm tiền sản giật khởi
phát muộn (78,0%), tiền sản giật khởi phát sớm chiếm 22,0% [30]. Mbak A.K
và cộng sự (2009), tiền sản giật xuất hiện trước 34 tuần được gọi làtiền sản giật
khởi phát sớm, nó liên quan với mức độ nặng của bệnh, tiền sản giật khởi phát
sớm làm tăng gấp 4 lần nguy cơ tử vong của thai ở những thai kỳ sau so vớitiền
sản giật khởi phát muộn [72]. Vì vậy, trên lâm sàng phân biệttiền sản giật khởi
66
phát sớm vàtiền sản giật khởi phát muộn sẽ giúp cho người thầy thuốc có hướng
xử trí và tiên lượng thích hợp.
4.3. Kết quả xử trí người bệnh tiền sản giật tại khoa Phụ sản, Bệnh viện
Trung ương Thái Nguyên
4.3.1. Điều trị nội khoa
* Mục tiêu điều trị:
- Đối với mẹ: Ngăn cản sự tiến triển của bệnh. Tránh các biến chứng có
thể xảy ra nhằm cải thiện tình trạng bệnh và giảm tỷ lệ tử vong mẹ.
- Đối với con: Đảm bảo sự phát triển bình thường của thai, hạn chế những
nguy cơ có thể xảy ra cho thai: Kém phát triển trong tử cung, suy dinh dưỡng,
thai chết lưu, giảm tỷ lệ mắc bệnh và tử vong chu sinh.
Khi điều trị, thầy thuốc cần phải nắm vững phương châm: bảo vệ bà mẹ
là chính, có chiếu cố đến con. Thuốc điều trị triệu chứng cho mẹ có thể tác động
đến thai nhi nên cần cân nhắc kỹ trước khi điều trị cho mẹ [32].
- Điều trị bao gồm: nghỉ ngơi; điều trị nội khoa, sản khoa và ngoại khoa.
Phần lớn bệnh nhân nghiên cứu được dùng thuốc hạ áp đơn thuần, chiếm
61,6%, thuốc hạ áp được dùng vẫn chủ yếu là Methyldopa, nhiều hơn so với
nghiên cứu của Nguyễn Viết Tiến tại Bệnh viện Phụ Sản Trung Ương năm
2015, chỉ có 54,2% thai phụ có sử dụng 1 loại thuốc hạ huyết áp đó là
Methyldopa [47], điều này có thể lý giải do nghiên cứu của Nghuyễn Viết Tiến
được thực hiện ở Bệnh viện Phụ Sản Trung Ương, là tuyến đầu ngành của sản
khoa, có đầy đủ các loại thuốc cũng như trang thiết bị cần thiết cho điều trị, hơn
nữa các bệnh nhân ở đây chủ yếu là TSG nặng đã được chuyển từ các tuyến y
tế cơ sở khác đến nên việc sử dụng kết hợp các loại thuốc cho bệnh nhân TSG
là tất yếu; còn lại là kết hợp thuốc hạ áp với các loại thuốc khác, trong đó chủ
yếu vẫn là Magie sunfat và thuốc an thần. Theo nghiên cứu của Trần Thị Thu
Hường (2011) có 66,7% được dùng Magie sunfat [22]. Magie sunfat gây giãn
67
mạch, giãn các mao động mạch dẫn đến có tác dụng hạ huyết áp. Theo Noor. S
và cộng sự Magie sunfat là thuốc chống co giật lý tưởng được sử dụng trong
99% trường hợp TSG ở Bắc Mỹ. Magie sunfat có tác dụng làm tăng lưu lượng
dòng máu tử cung, tăng lưu lượng dòng máu thận, tăng giải phóng Prostacyclin
bởi tế bào nội mô, giảm hoạt động của các renin huyết tương, giảm enzyme chuyển
Angiotensin, giảm sự đáp ứng của mạch máu với các chất tăng áp, giảm kết tụ tiểu
cầu [68], Magie sunfat không những khống chế cơn giật mà còn giảm được các
biến chứng khác cho me, giảm đáng kể tỷ lệ tử vong mẹ [81]. Có 1 trường hợp
bệnh nhân không phải dùng thuốc gì, chỉ can thiệp lấy thai ra là các triệu chứng
lâm sàng mất đi hoàn toàn.
Trong nghiên cứu của Trịnh Minh Dũng (2013) thì có 313 bệnh nhân thì
có 176 bệnh nhân được điều trị nội khoa chiếm 56,23% trong đó có điều trị
TSG nhẹ và TSG nặng. Đối với điều trị TSG nhẹ thì có thể điều trị ở tuyến cơ
sở bằng cách nghỉ ngơi và nằm nghiêng trái dung thuốc an thần: Uống seduxen
(Diazepam) 5mg, theo dõi hàng tuần, nếu nặng lên phải nhập viện và điều trị
tích cực. Còn TSG nặng ngoài việc phải nghỉ ngơi nằm nghiêng trái và dùng an
thần thì còn dùng thêm Maguesium Sulfate, thuốc hạ huyết áp, có thể cân nhắc
thêm lợi tiểu nếu có đe dọa phù phổi cấp [14].
4.3.2. Bàn luận về phương pháp chấm dứt thai kì
- Phương pháp chấm dứt thai kỳ:
+ Gây chuyển dạ đẻ cho sản phụ đẻ theo đường âm đạo: nếu chỉ số Bishop
là trên 5, có điều kiện thuận lợi thì có thể khởi phát chuyển dạ bằng cách tách
màng ối, truyền tĩnh mạch oxytocin và bấm ối khi tử cung có cơn co tốt, cổ tử
cung bắt đầu có thay đổi.
+ Mổ lấy thai:
Những chỉ định mổ lấy thai trong TSG:
Cần nắm vững những chỉ định mổ lấy thai cho những thai phụ bị TSG để
68
có chỉ định hợp lý và chính xác.
Những trường hợp TSG nặng có biến chứng cho thai phu và thai nhi như:
suy thận, suy gan, suy tim nặng, đe doạ phù phổi cấp, những trường hợp điều
trị không có kết quả (sau 7 ngày thậm chí sau 2 hoặc 3 ngày). Ngày nay, nhiều
tác giả cho rằng ngay cả trong những trường hợp TSG nặng, sau khi điều trị
sao cho bệnh nhân không còn nguy cơ lên cơn SG nữa thì những tác giả này
cũng chủ trương đình chỉ thai nghén và họ khuyến cáo là nên mổ lấy thai, nhất
là thai nhi có thể sống được sau khi thai phụ được mổ lấy thai.
Những trường hợp SG nặng, cơn SG liên tục, đã sử dụng mọi biện pháp
để cắt cơn nhưng không có kết quả. Đối với những thai phụ như vậy cần có chỉ
định mổ lấy thai để cứu mẹ (tất nhiên là cuộc mổ phải được tiến hành ngoài
cơn giật) [32].
Những trường hợp TSG có lượng acid uric tăng cao từ 400 umol/lit trở
lên nhưng phải kết hợp với mức THA ít nhất là độ 1 trở lên sau khi đã điều trị
trong thời gian đã trình bày trên đây. Cần tránh việc chỉ sử dụng lượng acid uric
tăng trên 400 μmol/l đơn thuần mà không kết hợp với THA từ độ 1 trở lên để
đưa ra chỉ định mổ lấy thai. Nếu làm như vậy là không hợp lý, nếu như không
muốn nói là không có chỉ định đơn độc như vậy. Bởi vì, sự tăng acid uric là do
các tiểu động mạch đến của các tiểu cầu thận bị co thắt và hẹp lại, lượng huyết
tương đến các tiểu cầu thận bị giảm đi rất nhiều, sự bài tiết acid uric qua thận
vì thế mà giảm xuống, đồng thời chức năng gan trong TSG nặng cũng thuyên
giảm; vì vậy lượng acid uric đã tăng lên, đó là hậu quả tất yếu của THA trong
TSG, Từ những hiểu biết trên đây, không có lý do gì mà không xem xét lượng
acid uric tăng cao phải kết hợp với THA để đưa ra chỉ định mổ lấy thai cho
những bệnh nhân bị TSG. Nếu chỉ có tăng acid uric đơn thuần mà không có
THA thì cần phải xét nghiệm lại acid uric xem có sai không hoặc thai phụ có
ăn quá nhiều thức ăn có thể làm tăng acid uric tạm thời hoặc chính họ mắc bệnh
69
“Gut” kèm theo và huyết áp không tăng. Khi cổ tử cung và ngôi thai không
thuận lợi cho việc gây chuyến dạ đẻ đường âm đạo thì mổ lấy thai là phương
pháp đình chỉ thai nghén an toàn nhất không những cho thai phụ mà còn cho cả
thai nhi. Khi mổ lấy thai, phẫu thuật viên có thể xử trí các tình huống có thể
xảy ra trong cuộc mổ chẳng hạn như đờ tử cung gây chảy máu do huyết áp cao,
phẫu thuật viên có thể thắt động mạch tử cung hoặc xử trí các tình huống khác
nhằm đảm bảo tính mạng cho sản phụ hơn là các phương pháp đình chỉ thai
nghén khác. Mặt khác, việc hồi sức cấp cứu cho thai phụ cũng thuận lợi hơn
nhiều so với các phương pháp đình chỉ thai nghén khác, nhất là vô cảm bằng
gây mê nội khí quản [32].
Trong số 125 bệnh nhân nghiên cứu, có 94,4% là mổ lấy thai; chỉ có 7
trường hợp đẻ đường âm đạo, chiếm 5,6% và không có trường hợp nào phải
can thiệp thủ thuật forceps trong đẻ. Kết quả của tác giả Nguyễn Viết Tiến năm
2015 thì mổ lấy thai là 90,3% [47], tác giả Trương Thị Hà Khuyên 83,3%
(2014) [26]. Điều này cho thấy mổ lấy thai là phương pháp mà các thầy thuốc
đang chỉ định rộng rãi trong điều trị TSG cho bệnh nhân. Có thể phương pháp
mổ lấy thai là một phương pháp an toàn, không tốn thời gian theo dõi và cho
kết quả nhanh chóng. Trong khi đó các phương pháp đình chỉ thai nghén khác
đòi hỏi sự theo dõi sát sao và có thể xuất hiện biến chứng. Có một số kết quả
nghiên cứu ở Mỹ củng cố thêm cho nhận định trên như nhóm bệnh nhân TSG
có nhiều yếu tố nguy cơ gây chuyển dạ thất bại và tỷ lệ mổ lấy thai cũng cao
hơn rõ rệt so với nhóm không bị TSG; những bệnh nhân TSG có nguy cơ mổ
lấy thai cao hơn đẻ đường âm đạo khi gây chuyển dạ so với những bệnh nhân
không bị TSG ở cùng độ tuổi thai và ở cả nhóm con so, con rạ [63].
Theo Trương Thị Linh Giang (2017) tỷ lệ mổ lấy thai chiếm 56,2%, tỷ
lệ này thấp hơn một số tác giả khác trong nước, đặc biệt theo nghiên cứu của
Phạm Thị Mai Anh tỷ lệ mổ lấy thai chiếm tới 90% [3], đây là một tỷ lệ mổ cao
70
hơn nhiều so với những nghiên cứu khác. Kết quả này nghiên cứu của chúng
tôi cao hơn kết quả của một số tác giả khác trên thế giới, Farve nghiên cứu trên
94 trường hợp thai nghén nguy cơ cao cho kết quả mổ lấy thai là 38 trường hợp
(40,3%), đẻ thường 50 trường hợp (53%), 1 trường hợp thai lưu (1,1%) và 4
trường hợp tử vong sau đẻ (4,3%).
4.3.3. Bàn luận về chỉ định đình chỉ thai nghén trong tiền sản giật
Có nhiều lý do để chỉ định mổ lấy thai và phụ thuộc vào nhiều yếu tố:
Tình trạng bệnh của mẹ, các biến chứng với mẹ và thai, yếu tố sản khoa, khả
năng sống sót của thai và các yếu tố xã hội.
Nguyên nhân chính dẫn dến chỉ định mổ lấy thai ở nghiên cứu này là
không kiểm soát được huyết áp và do các nguyên nhân khác lần lượt là 42,4%
và 37,6%. Trong đó, các nguyên nhân khác chủ yếu là do sẹo mổ lấy thai cũ,
yêu cầu của bệnh nhân và ít ối. Việc không kiểm soát được huyết áp lại chủ yếu
gặp ở những bệnh nhân TSG nặng, huyết áp cao ngay từ lúc vào viện. Kết quả
này phù hợp với các tác giả Đặng Thị Minh Nguyệt năm 2013 (85,2%) [35]và
Phan Thị Thu Huyền (63%) [24]. Chỉ có 12,0% mổ lấy thai vì thai chậm phát
triển trong buồng tử cung. Ngoài ra các nguyên nhân rau bong non, SG, thai
suy mỗi nguyên nhân chỉ chiểm tỉ lệ rất nhỏ. Và ta cùng thấy được, yêu tố xã
hội đóng một vai trò ngày càng lớn. Việc chỉ định mổ lấy thai theo yêu cầu của
gia đình và bệnh nhân cũng có một Số lượng không hề nhỏ.
Những chỉ định mổ lấy thai có nguyên nhân từ phía thai nhi:
+ Đó là những trường hợp thai nhi có thể sống được sau khi lấy thai ra
khỏi tử cung của người mẹ. Những chỉ định này thường liên quan tới tình trạng
của thai nhi không được khoẻ mà các xét nghiệm thăm dò như monitoring sản
khoa phát hiện các DIP biến đổi, DIP II, nhịp tim thai phẳng… Doppler động
mạch rốn, siêu âm phát hiện ra thai kém khát triển trong tử cung trong những
trường hợp này, cần có chỉ định đình chỉ thai nghén để cứu thai nhi, cách tốt
71
nhất được lựa chọn là mổ lấy thai.
Như thế, những chỉ định mổ lấy thai có thể do nguyên nhân từ phía mẹ
hoặc có nguyên nhân từ phía thai nhi. Việc đưa ra chỉ định mổ lấy thai cần dựa
trên việc xem xét những diễn biến của bệnh TSG ở thời điểm cần can thiệp. Tất
nhiên là trong thực hành lâm sàng, có thể xuất hiện những yếu tố khác nữa từ
thai phụ hoặc từ phía thai nhi, chẳng hạn như TSG thể nhẹ bình thường sẽ theo
dõi và cho sản phụ đẻ đường âm đạo bằng forceps, nhưng nếu chuyển dạ kéo
dài, sản phụ mệt cần cân nhắc để đưa ra chỉ định mổ lấy thai trong những trường
hợp này là hợp lý [32].
Hiện chưa chứng minh được mổ đẻ cải thiện kết quả sơ sinh và chúng có
thể liên quan đến kết quả mẹ kém hơn. Các nghiên cứu cho thấy sinh ngả âm
đạo có thể tốt hơn về lâu dài đối với trẻ sinh non và có thể mang lại lợi ích cho
mẹ, với tỷ lệ biến chứng thấp hơn và thời gian nằm viện ngắn hơn [56]. Hơn
nữa, tỷ lệ bại não của trẻ sơ sinh vẫn giữ nguyên [56].
Xem xét các nghiên cứu gần đây về đánh giá phương thức sinh ở phụ nữ
bị TSG, một nghiên cứu quan sát đánh giá kết cục của bà mẹ bao gồm 500
người tham gia bị TSG nặng, và xác định nguy cơ biến chứng sau sinh và bệnh
tật nặng ở mẹ [57]. Chuyển dạ tự nhiên ở 22,0% và được gây ra ở 28,2%, trong
khi 49,8% được sinh mổ tự chọn, 95 trường hợp (67,4%) trong số những người
tham gia được kích thích chuyển dạ đẻ đường âm đạo. Tổng tỷ lệ mổ lấy thai
là 68,2%, nguy cơ mắc bệnh nặng ở mẹ cao hơn đáng kể ở những phụ nữ sinh
mổ (54,0% so với 32,7%), bất kể có chuyển dạ hay không. Các yếu tố vẫn liên
quan đến bệnh nặng của mẹ sau khi phân tích đa biến gồm tan máu, tăng men gan
và hội chứng Số lượng tiểu cầu thấp (HELLP) sau khi sinh (nguy cơ cao hơn gần
bốn lần) và sinh mổ (nguy cơ cao hơn gần hai lần). Các tác giả kết luận rằng sinh
mổ thường được thực hiện ở những phụ nữ bị TSG nặng và có liên quan đến tỷ lệ
mắc bệnh nặng ở mẹ sau sinh.
72
Một nghiên cứu thuần tập hồi cứu đã được công bố vào tháng 8 năm 2017
bao gồm 5506 phụ nữ bị TSG ở tuổi thai 34 tuần và không sinh mổ trước đó
[62]. Trong số này, 5104 (92,7%) phụ nữ được khởi phát chuyển dạ. Tỷ lệ sinh
ngả âm đạo là 67,6%, với tỷ lệ sinh mổ thấp hơn nghiên cứu trước. Khởi phát
chuyển dạ so với mổ lấy thai theo kế hoạch không liên quan đến tăng nguy cơ
kết cục chính (nhập viện chăm sóc đặc biệt, thuyên tắc mạch, truyền máu và
cắt tử cung), nhưng có liên quan đến tăng nguy cơ mẹ nhập viện chăm sóc đặc
biệt và liên quan đến giảm nguy cơ sơ sinh tổng hợp (ngạt, pH dây động mạch
dưới 7,0, bệnh não thiếu oxy – thiếu máu cục bộ và điểm Apgar dưới 5 phút),
nhập viện chăm sóc đặc biệt sơ sinh, thở nhanh thoáng qua ở trẻ sơ sinh và hội
chứng suy hô hấp. Các tác giả kết luận rằng nghiên cứu của họ ủng hộ ACOG
về THA trong thai kỳ khuyến nghị không cần sinh mổ [53].
Theo Đặng Thị Minh nguyệt (2013) có nhiều lý do để chỉ định mổ lấy
thai và phụ thuộc vào nhiều yếu tố: Tình trạng bệnh của mẹ, các biến chứng với
mẹ và thai, yếu tố sản khoa, khả năng sống sót của thai và các yếu tố xã hội.
Chỉ định mổ lấy thai có thể đơn thuần, có thể phối hợp nhiều nguyên nhân như
suy thai, điều trị nội không kết quả, thai chậm phát triển… Trong đó chỉ định
mổ lấy thai do TSG nặng chiến tỷ lệ cao nhất 85,2% [35]. Kết quả này phù hợp
với kết quả của tác giả Phan Thị Thu Huyền (63%) [23] và Nguyễn Hữu Hải
(49,6%) [17]. Chỉ định mổ lấy thai do biến chứng của mẹ, biến chứng của thai
và các nguyên nhân khác chiếm tỷ lệ thấp.
4.3.4. Bàn luận về kết quả điều trị và biến chứng
4.3.4.1. Thời gian từ lúc vào viện đến lúc sinh
Thời gian vào viện trung bình đến lúc đình chỉ thai là 13,4 giờ, thời gian
vào viện đến lúc sinh trung bình ở sản phụ TSG nhẹ là 15,67 giờ, TSG nặng là
10,67 giờ, sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05. Ngắn nhất
73
là 0.17 giờ bằng 10 phút có 2 trường hợp chiếm 1.6%. Lâu nhất là 384 giờ bằng
16 ngày có 1 trường hợp chiếm 0.8%.
Theo Hà Thị Tiểu Di (2014) Thời gian kéo dài của thai nghén từ 8-20
ngày chiếm tỉ lệ cao nhất (37,31%), ngắn nhất là 1 ngày, dài nhất là 37 ngày,
số ngày trung bình là 11 ± 3 ngày [10]. Kết quả này của Hồ Thị Phương Thảo
là 7,1 ± 9,3 [45], nghiên cứu của Abdel - Hady và cộng sự tại Ai Cập (2009)
trên 221 thai phụ bị TSG thời gian mang thai kéo dài thêm 12 ± 6 ngày [54].
4.3.4.2. Bàn luận về tuổi thai lúc kết thúc thai nghén
Qua Bảng 3.20 cho thấy hầu hết bệnh nhân nghiên cứu được đình chỉ
thai ở tuổi thai 38 – 40 tuần, chiếm 75,2%; có 8 trường hợp chiếm 6,4% bệnh
nhân kết thúc thai nghén khi thai ≥ 41 tuần. Có 18,4% thai phụ đình chỉ thai khi
thai ≤ 37 tuần.
Các trường hợp TSG nhẹ có tỷ lệ kết thúc thai nghén ở tuổi thai là đủ
tháng và già tháng cao hơn chiếm 85,4% so với 76,8% ở các thai phụ TSG nặng
và kết thúc thai nghén ở tuổi thai ≤ 37 tuần thấp hơn là 14,5% so với 23,2% ở
các trường hợp TSG nặng. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với P < 0,05.
Điều này cho thấy, việc điều trị giữ thai ở các sản phụ TSG đến đủ tháng
là có hiệu quả khiến cho việc phải đình chỉ thai sớm là rất ít. Đặc biệt đối với
các thai phụ TSG nặng, việc xem xét kết thúc thai kì sớm có thể là giải pháp an
toàn, giúp cải thiện tiên lượng ở cả mẹ và thai. Theo Phạm Thị Mai Anh (2017)
tuổi thai khi sinh: tỉ lệ thai phụ đẻ non tháng cao 82%, trong đó chủ yếu đẻ ở
nhóm tuổi thai 34 - 37 tuần chiếm tỉ lệ 48,8% [3]. Theo một số tác giả như
Nguyễn Thanh Hà (2016) tỷ lệ trẻ đẻ non là 74,9% [16], Nguyễn Thị Anh
(2012) đẻ non 87,7% [2], theo Phan Thị Thu Huyền (2007) trẻ non tháng 73,7%
và thấp cân là 73,3% [23]. Lí giải tỷ lệ đẻ nhẹ cân non tháng ở các nghiên cứu
này lớn là do các bà mẹ TSG thường phải kết thúc thai kì sớm khi thai chưa đủ
tháng để tránh cho tình trạng bệnh trầm trọng hơn cho mẹ vì vậy, thai nhi trong
74
bụng mẹ chưa hoàn chỉnh đầy đủ, nên khi ra đời thường bị nhẹ cân. Mặt khác,
do sự tiền bộ y khoa trong chăm sóc trẻ nhẹ cân, nôn tháng nên các bác sĩ đã
mạnh dạn hơn trong việc ra quyết định đình chỉ thai nghén mà không đợi đến
lúc thai nhi đủ tháng đó cũng là một yếu tố làm cho con của các bà mẹ bị TSG
thường được sinh ra nhẹ cân hơn so với các bà mẹ bình thường khác. Hơn nữa,
sau thời gian điều trị nội khoa không kết quả, người thầy thuốc buộc phải lấy
thai ra nhằm tránh những biến chứng cho cả mẹ và con.
4.3.4.3. Bàn luận về tình trạng con sau sinh
Theo nghiên cứu của chúng tôi, trẻ sơ sinh sau sinh bởi các thai phụ TSG
đa phần có tình trạng apgar ngay sau đẻ tốt có 122 trường hợp, chiếm 97,6%;
chỉ có 3 trường hợp apgar xấu ngay sau đẻ chiếm 2,4%. Theo Trương Thị Linh
Giang (2017) Trẻ sơ sinh đa số có Apgar phút thứ 5 >7 điểm chiếm 76,5 %,
22,2 % có Apgar từ 4 -7 điểm, chỉ có 2 trường hợp Apgar xấu <3 điểm [15].
Theo nghiên cứu của Nguyễn Thanh Hà (2016) có 28,5% trẻ sơ sinh có apgar
< 7 điểm ở phút thứ nhất và phút thứ 5 sơ sinh có apgar < 7 giảm xuống còn
20,6%. Những trẻ sơ snh có chỉ số Apgar ở phút thứ nhất ≤ 7 điểm cần hồi sức
tích cực đều là con của các sản phụ có bệnh cảnh lâm sàng rất nặng và phần lớn
thai là thai nhi nhẹ cân, non tháng [16]. Điều này có thể được giải thích do sự
khác biệt về đặc điểm đối tượng và mẫu nghiên cứu của chúng tôi với các
nghiên cứu khác.
Về trọng lượng trẻ được sinh ra bởi các bà mẹ TSG cùng đa phần trong
giới hạn bình thường, chiếm 59,2%, chỉ có 12,8% là trẻ có cân nặng dưới
2500g. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Trương Thị Linh Giang 2017
tại Huế thì đa số trẻ sinh ra có trọng lượng >2500g chiếm tỷ lệ 79,10 %, nhóm
trẻ có trọng lượng thấp dưới 1500g chiếm tỷ lệ thấp nhất 2,00 %, nhóm trẻ có
trọng lượng từ 1500 - 2000g chiếm tỷ lệ 5,9%, nhóm trẻ có trọng lượng từ 2000
- 2500 chiếm 13,1% [15]. Theo nghiên cứu của Nguyễn Thanh Hà (2016) trẻ
75
có cân nặng ≤ 2500 g chiếm tỉ lệ cao 76,7%, trẻ có cân nặng > 2500g chiếm
23,3%. Tỷ lệ trẻ sơ sinh có cân nặng thấp ngoài bệnh lí của mẹ ảnh hưởng đến
tuần hoàn tử cung – rau dẫn đến thai kém phát triển trong tử cung, xu hướng
đình chỉ thai nghén sớm ở những thai phụ TSG nhằm giảm thiểu nguy cơ cho
mẹ và con đã làm tăng tỷ lệ sơ sinh non tháng và thấp cân [16]. Sự khác biệt
giữa nghiên cứu của chúng tôi với nghiên cứu của Nguyễn Thanh Hà là do sự
khác biệt về địa điểm và cách thức chọn mẫu nghiên cứu.
4.3.4.4. Bàn luận về tình trạng nước ối hồi cứu
Về tình trạng nước ối hồi cứu sau lấy thai, phần lớn nước ối trong chiếm
93,6%; nước ối xanh bẩn chỉ có 6,4%. Điều này chứng tỏ tình trạng thai suy
trước khi vào viện là ít, đa phần bệnh nhân khởi phát bệnh muộn. Tuy nhiên,
do hồ sơ bệnh án nhiều khi chưa chú trọng ghi chép lại tình trạng nước ối thấy
được khi lấy thai, nên việc đánh giá tình trạng ối nhiều khi còn theo mẫu, chưa
phản ánh trung thực Số lượng cũng như màu sắc nước ối của những bệnh nhân
TSG.
4.3.4.5. Bàn luận về biến chứng
Trong số các bệnh nhân nghiên cứu, đa phần đối tượng không có biến
chứng gì, chiếm 92%; có 2 trường hợp bị TSG có biến chứng SG, chiếm 1,6%;
không có trường hợp nào tử vong mẹ hoặc con. Số bệnh nhân có các tai biến
khác là 7 trường hợp, chiếm 5,6%, đa phần là phải cắt tử cung do đờ tử cung
sau sinh. Kết quả này phù hợp với những nghiên cứu khác, chỉ có Số lượng nhỏ
bệnh nhân gặp biến chứng sau sinh như nghiên cứu của Đặng Thị Minh Nguyệt
2013 tại Bệnh viện Phụ Sản Trung Ương TSG là một bệnh lý của thời kỳ thai
nghén có thể gây ra rất nhiều biến chứng nặng nề. Trong nhóm nghiên cứu có
244 sản phụ TSG nặng có 92 sản phụ có biến chứng chiếm 37,7%. Trong các
biến chứng gây ra cho mẹ, biến chứng chiếm tỷ lệ cao nhất là suy gan chiếm
20,5%, suy thận chiếm 9,0%, phù phổi cấp chiếm 2,5%, sản giật chiếm 3,7%,
76
chảy máu chiếm 4,9%, hội chứng HELLP chiếm 6,98% và không có thai phụ
nào tử vong. Về biến chứng cho con thì nghiên cứu cho thấy nhẹ cân là biến
chứng gây ra cho con chiếm tỷ lệ cao nhất 87,7 %, biến chứng đẻ non chiếm
64,3%, biến chứng chết sau đẻ 9,4%, và không có trẻ nào chết lưu. Biến chứng
nhẹ cân và đẻ non trong nghiên cứu này cao, phải chăng tỷ lệ này có xu hướng
tăng theo thời gian và liên quan đến mức độ trầm trọng của bệnh, cũng như
những tiến bộ trong công tác chăn sóc và điều trị trẻ sơ sinh non tháng, thấp
cân, các thuốc trưởng thành phổi nên có xu hướng can thiệp sớm về sản khoa
trên bệnh nhân TSG làm tăng tỷ lệ trẻ nhẹ cân và non tháng, giảm tỷ lệ chết lưu
[35].
Theo Hà Thị Tiểu Di (2014) về biến chứng mẹ và con: biến chứng mẹ
gặp trong 9 trường hợp (14,92%), trong đó 4 trường hợp hội chứng HELLP
(5,97%), 3 trường hợp suy thận cấp, không có tử vong mẹ. Biến chứng con chủ
yếu là sinh non với tỷ lệ 67,16 %, trong đó có 2 trường hợp thai chết trong tử
cung thai phụ phát hiện trước khi nhập viện [10]. Nghiên cứu của Lê Thiện
Thái (2010), tỉ lệ biến chứng có thấp hơn: Trong số 2072 trường hợp TSG -
SG: biến chứng mẹ rau bong non 0,5%; suy gan 7,5% và suy thận 15,4%; hội
chứng HELLP 1%; không có trường hợp nào chảy máu, phù phổi cấp. Thai
chậm phát triển trong tử cung 49,3%; sinh non 51,7%; 3,5% thai chết trong tử
cung [43].
Đây là nghiên cứu hồi cứu dựa trên hồ sơ bệnh án lưu trữ, do vậy sẽ còn
tồn tại một số hạn chế nhất định. Nhiều thông tin chúng tôi muốn thì các hồ sơ
bệnh án không cung cấp đủ. Người nghiên cứu không trực tiếp theo dõi, điều
trị cho bệnh nhân do đó không đánh giá được hết các yếu tố ảnh hưởng đến
nghiên cứu. Việc loại bỏ yếu tố nhiễu trong nghiên cứu cũng gặp nhiều khó
khăn. Tuy nhiên, trong quá trình thu thập và xử lý số liệu chúng tôi đã cố gắng
77
loại bỏ các yếu tố gấy nhiễu để thu được kết quả một cách khách quan nhất có
ý nghĩa phục vụ cho điều trị.
78
KẾT LUẬN
Từ kết quả nghiên cứu trên 125 thai phụ TSG tại Khoa Phụ Sản Bệnh
viện Trung ương Thái Nguyên chúng tôi rút ra kết luận sau:
1. Đặc điểm lâm sàng cận lâm sàng của sản phụ TSG:
- Tiền sản giật nặng chiếm 44,8%, có các triệu chứng cơ năng: đau đầu
3,2%, rối loạn thị giác và khó thở đều chiếm 0,8%, tỉ lệ các triệu chứng khác
(mệt mỏi, buồn nôn…) chiếm 4,0%.
- Bệnh nhân nghiên cứu được chẩn đoán xác định bệnh TSG khi tuổi thai
đã đủ tháng là 67,2%, tuổi thai ≤ 28 tuần là 2,4%. Tuổi thai trung bình là 38,03
± 2,61.
- Triệu chứng phù chiếm 89,6%, phù nhẹ 67,2%; phù to toàn thân 22,4
- Toàn bộ (100,0%) bệnh nhân nghiên cứu đều có THA, trong đó THA độ
1 là 34,4%, THA độ 2 là 43,2% và THA độ 3 là 22,4%.
- Protein trong nước tiểu với lượng vừa 300 - 999mg/dl là 88,0%; lượng
protein trong nước tiểu ≥ 1000mg/dl là 3,2%.
- Acid uric ≥ 420µmol/l chiếm 53,6%, SGOT và SGPT tăng chiếm 36%
và 34,4%.
2. Kết quả xử trí TSG tại Khoa Phụ sản Bệnh viện Trung Ương Thái Nguyên:
- Bệnh nhân TSG được dùng thuốc hạ áp đơn thuần 61,6%; dùng kết hợp
thuốc hạ áp với các loại thuốc khác là 36,0. Trong đó có 94,4% là mổ lấy thai;
đẻ đường âm đạo là 5,6%. Chỉ định mổ lấy thai do không kiểm soát được huyết
áp 42,4%.
- Sau sinh, tỉ lệ trẻ có Apgar ngay sau đẻ ≥ 7 điểm là 97,6%; tỉ lệ nước ối
trong qua hồi cứu là 93,6%.
- TSG có biến chứng SG 1,6%; các biến chứng khác như đờ tử cung,
rau bong non, cắt tử cung... 5,6%.
79
KHUYẾN NGHỊ
Qua nghiên cứu về bệnh tiền sản giật tại Bệnh viện Trung ương Thái
Nguyên, chúng tôi có một số kiến nghị như sau:
1. Cần giảm tỉ lệ TSG trong thời gian tới thông qua việc vận động, tuyên
truyền các thai phụ nên khám thai định kỳ nhằm phát hiện các rối loạn của cơ
thể trong thời gian mang thai, đặc biệt là TSG - SG; cần phát huy công tác khám
thai và quản lý thai nghén tại các cơ sở y tế.
2. Tuyên truyền các dấu hiệu lâm sàng, các yếu tố nguy cơ và các biến
chứng của bệnh lý THA trong thai kỳ tại các kênh thông tin truyền thông trong
khu vực, nhằm giúp cho thai phụ hiểu rõ về bệnh lý rối loạn THA trong thai kỳ
để được chăm sóc và quản lý thai nghén tốt hơn, nhất là khi có dấu hiệu bất
thường nên đến cơ sở y tế nhanh hơn để giảm các biến chứng của bệnh lý này
gây nên.
3. Nghiên cứu sâu rộng hơn nữa về dịch tễ học của các rối loạn THA
trong thai kỳ tại các vùng khác nhau trong vùng miền núi phía Bắc và các vùng
trong nước Việt Nam để có biện pháp quản lí và phòng bệnh hợp lý đối với
từng vùng.
4. Triển khai các kĩ thuật mới trong thăm dò, đánh giá tiên lượng thai nhi
và mẹ trong bệnh lí tiền sản giật nhằm tránh những tai biến có thể đề phòng
được
TÀI LIỆU THAM KHẢO
TIẾNG VIỆT
1. Nguyễn Đạt Anh (2012), Các xét nghiệm thường quy áp dụng trong
thực hành lâm sàng, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội.
2. Nguyễn Thị Anh (2012), Nghiên cứu mối liên quan giữ triệu chứng lâm
sàng với xét nghiệm cận lâm sàng trong TSG nặng và kết quả mổ lấy thai
ở những sản phụ này, Luận văn tốt nghiệp thạc sĩ y khoa, Đại Học Y Hà
Nội, Hà Nội.
3. Phạm Thị Mai Anh (2017), Nghiên cứu thông số Doppler động mạch
tử cung ở thai phụ tiền sản giật, Luận văn Thạc sĩ Y học, Trường Đại
học Y Hà Nội, Hà Nội.
4. Ngõ Bạch (2001), Nghiên cứu các đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và
điều trị tiền sản giật-sản giật tại Khoa sản Bệnh viện Trung Ương Huế,
Luận văn Thạc sỹ y học-Trường Đại học Y khoa Huế.
5. Dương Thị Bế (2003), Nghiên cứu sự tác động của một số các yếu tố
cận lâm sàng và lâm sàng trong nhiễm độc thai nghén tại Bệnh viện Phụ
sản Trung ương trong 2 năm 2003 – 2004, Luận văn tốt nghiệp bác sĩ
chuyên khoa cấp II, Trường Đại học Y Hà Nội, Hà Nội.
6. Bệnh viện Từ Dũ Sở y tế Thành phố Hồ Chí Minh (2015), Phác đồ
điều trị sản phụ khoa, Nhà xuất bản Thanh Niên.
7. Bộ Môn Nội trường Đại học Y Hà Nội (2011), Nội khoa cơ sở tập 2,
Nhà xuất bản Y Học, Hà Nội.
8. Bộ môn Phụ sản - Trường Đại học Y Dược Huế (2007), Bài giảng Sản
phụ khoa, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội.
9. Bộ môn Phụ Sản Trường Đại học Y Hà Nội (2006), Bài giảng sản phụ
khoa tập 1, Nhà xuất bản Y học, tr. 168-198.
10. Bộ Y Tế (2007), Cấp cứu sản khoa, Hà Nội, 102-118, p. 102-118.
11. Cao Ngọc Thành, Võ Văn Đức, Nguyễn Vũ Quốc Huy, và cs., "Mô
hình sàng lọc bệnh lí tiền sản giật tại thời điểm 11 tuần đến 13 tuần 6
ngày thai kì dựa vào yếu tố nguy cơ mẹ, huyết áp động mạch, PAPP- A
và siêu âm doppler động mạch tử cung", Tạp chí Y Dược học - Trường
Đại học Y Dược Huế - Số 28+29.
12. Hà Thị Tiểu Di (2014), "Nghiên cứu bệnh lý tiền sản giật nặng-sản giật
và kết quả điều trị tại Bệnh viện Phụ sản-Nhi Đà Nẵng", Tạp chí Phụ
sản, 12 (3), tr. 83-87.
13. Đỗ Xuân Vinh (2018), "Nhận xét các trường hợp mổ lấy thai trên những sản
phụ tiền sản giật tại Bệnh Viện Phụ Sản Hà Nội 2017- 2018".
14. Trịnh Minh Dũng (2014), Nhận xet triệu chứng lâm sàng, cận lâm sàng
và thái độ xử trí tiền giật tại Bệnh viện Phụ sản Hà nội năm 2013, Khóa
luận tốt nghiệp Bác sỹ y khoa, Trường Đại Học Y Hà Nội, Hà Nội.
15. Trương Thị Linh Giang (2017), Nghiên cứu giá trị của siêu âm
Doppler trong tiên lượng tình trạng sức khoẻ của thai ở thai phụ tiền sản
giật, Luận án Tiến sĩ Y học, Trường Đại học Y Dược, Đại học Huế.
16. Nguyễn Thanh Hà (2016), Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng
và xử trí tiền sản giật tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương, Luận văn Bác
sỹ chuyên khoa II, Trường Đại Học Y Hà Nội, Bộ Y tế.
17. Nguyễn Hữu Hải (2004), Nhận xét về những chỉ thai nghén trong tiền
sản giật tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương trong ba năm 2001 – 2003,
Luận văn tốt nghiệp Bác sỹ Y khoa, Đại học Y Hà Nội, Hà Nội.
18. Hồ Thị Phương Thảo (2002), "Đánh giá điều trị tiền sản giật nặng- sản
giật bằng Magiesulfate và bù dịch tại Khoa Phụ sản bệnh viện Trung Ương
Huế", Luận văn Thạc sỹ Y học, Trường Đại học Y Dược Huế.
19. Hội Tim mạch học Quốc gia Việt Nam (2018), "Khuyến cáo về chẩn
đoán và điều trị tăng huyết áp".
20. Bộ môn Phụ Sản Trường Đại học Y Dược Huế (2007), Bài giảng Sản
Phụ khoa, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội, tr. 198 - 205.
21. Lê Lam Hương (2016), "Mối liên quan giữa protein niệu với một số chỉ
số sinh hóa ở thai phụ tiền sản giật", Tạp chí Y học thành phố Hồ Chí
Minh, 20 (5), tr. 92-97.
22. Trần Thị Thu Hường, Đặng Thị Minh Nguyệt (2012), "Nhận xét về
xử trí sản khoa và một số biến chứng của thai phụ sản giật tại bệnh viện
Phụ Sản Trung ương", Tạp chí Phụ sản, 10 (2), tr. 75-79.
23. Phan Thị Thu Huyền (2008), Nghiên cứu những chỉ định đình chỉ thai
nghén ở những thai phụ tiền sản giật tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương
trong 2 năm 1997 và 2007, Luận văn Thạc sĩ Y học, Trường Đại học Y
Hà Nội, Hà Nội.
24. Phan Thị Thu Huyền (2008), "Nghiên cứu những chỉ định đình chỉ thai
nghén ở những thai phụ tiền sản giật tại BVPSTƯ trong 2 năm 1997 và
2007," Luận văn thạc sỹ y học chuyên ngành sản phụ khoa. Trường Đại
học Y Hà Nội.
25. Trần Thị Khảm (2008), Nghiên cứu một số chỉ số sinh hóa và huyết học
ở sản phụ tiền sản giật tại Bệnh viện Phụ sản Trung Ương từ 7/2006 đến
6/2008, Đại Học Y Hà Nội, ed. B.Y. Tế, Luận Văn Bác sỹ chuyên khoa
II.
26. Trương Thị Hà Khuyên. (2015), "Nghiên cứu hoạt độ LDH huyết thanh
trong bệnh lý tiền sản giật tại bệnh viện Phụ sản Trung ương", Luận văn
tốt nghiệp bác sĩ nội trú, Sản phụ khoa. Đại học Y Hà Nội.
27. Lê Xuân Trường (2019), Hóa sinh lâm sàng, Nhà xuất bản Y học.
28. Trần Mạnh Linh (2020), "Nghiên cứu kết quả sàng lọc bệnh lý tiền sản
giật - sản giật bằn xét nghiệm PAPP-A, siêu âm doppler động mạch tử
cung và hiệu quả điều trị dự phòng".
29. Bộ môn sinh lý học Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh (2008),
Sinh lý học y khoa tập 1, Nhà xuất bản Y Học.
30. Phan Lê Nam (2016), Nghiên cứu nồng độ acid uric máu trong bệnh lý
tiền sản giật – sản giật và mối liên quan với những biến chứng mẹ và kết
quả thai nhi, Luận văn tốt nghiệp Bác sỹ nội trú, Trường Đại học Y
Dược, Đại học Huế.
31. Bạch Ngõ (2001), Nghiên cứu các đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và
điều trị tiền sản giật-sản giật tại Khoa sản Bệnh viện Trung ương Huế,
Luận văn Thạc sĩ Y học, Trường Đại học Y Dược, Đại học Huế.
32. Ngô Văn Tài (2006), Tiền sản giật và sản giật, Nhà xuất bản Y học, Hà
Nội.
33. Nguyễn Anh Trì (2008), "Đông máu ứng dụng trong lâm sàng", NXB Y học.
34. Nguyễn Thị PhươngThảo, Nguyễn Tĩnh Bình, Phạm Thị Lệ Hằng,
et al. (2017), "Khảo sát một số yếu tố liên quan đến tăng huyết áp tồn tại
ở sản phụ tiền sản giật đã sinh tại khoa sản Bệnh viện đa khoa tỉnh Gia
Lai", Tạp chí Phụ sản, 15 (3), tr. 61–65.
35. Đặng Thị Minh Nguyệt, Nguyễn Thị Anh (2013), "Nhận xét kết quả
mổ lấy thai ở các sản phụ tiền sản giật nặng tại Bệnh viện Phụ sản Trung
Ương", Tạp chí Phụ sản, 11 (2), tr. 19-22.
36. Phạm Thị Mai Anh, Nghiên cứu thông số Doppler động mạch tử cung ở
thai phụ Tiền sản giật, 2009, Luận văn thạc sĩ Y học, Đại học Y Hà Nội.
37. Phan Thị Minh Ngọc (2018), "Nghiên cứu một số chỉ số đông máu của
thai phụ ".
38. Đặng Thị Thúy Phương, Huỳnh Nguyễn Khánh Trang (2016), "Khảo
sát yếu tố nguy cơ trên thai phụ tiền sản giật tại khoa Sản Bệnh viện Đa
khoa Kiên Giang", Tạp chí Y học thành phố Hồ Chí Minh, 20 (1), tr. 291-
297.
39. Hoàng Xuân Sơn (2013), "Nghiên cứu tình hình tiền sản giật điều trị tại
Bệnh viện Đa khoa Bắc Kạn tháng 8/2009 - 7/2011", Tạp chí Phụ sản,
11 (3), tr. 52-54.
40. Ngô Văn Tài (2006), Tiền sản giật và sản giật, Nhà xuất bản Y học, Hà
Nội.
41. Bộ Y Tế (2010), "Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị tăng huyết áp".
42. Bộ Y Tế, Hướng dẫn quốc gia về các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh
sản, 2016.
43. Lê Thiện Thái (2010), Nghiên cứu ảnh hưởng của bệnh lý Tiền sản giật
lên thai phụ và thai nhi và đánh giá hiệu quả của phác đồ điều trị, Luận
án tiến sĩ Y học, Trường Đại học Y Hà Nội, Hà Nội.
44. Cao Ngọc Thành, Trương Quang Vinh, Nguyễn Vũ Quốc Huy,và cs.
(2015), "Đánh giá hiệu quả điều trị dự phòng bệnh lý tiền sản giật–sản
giật bằng aspirin ở những thai phụ có nguy cơ cao", Tạp chí Phụ sản, 13
(3), tr. 47-53.
45. Hồ Thị Phương Thảo (2002), Đánh giá điều trị tiền sản giật nặng - sản
giật bằng Magiesulfate và bù dịch tại Khoa Phụ sản bệnh viện Trung
ương Huế, Luận văn Thạc sĩ Y học, Trường Đại học Y Dược, Đại học
Huế.
46. Huỳnh Thị Thu Thủy, Huỳnh Thanh Phương (2011), "Nghiên cứu
vai trò của siêu âm doppler động mạch tử cung ở ba tháng giữa thai kì
trong dự đoán tiền sản giật", Tạp chí Y học thành phố Hồ Chí Minh, 15
(2), tr. 146-151.
47. Nguyễn Viết Tiến, Nguyễn Thanh Hà (2017), "Kết quả xử trí tiền sản
giật tại Bệnh viện Phụ Sản Trung Ương trong năm 2015", Tạp chí Phụ
sản, 15 (2), tr. 24-29.
48. Trương Minh Phương, Nguyễn Duy Ánh, "Tiên đoán tiền sản giật ở
tuổi thai 12-14 tuần bằng chỉ số PLGF và sàng lọc yếu tố nguy cơ của
thai phụ", Y học thực hành.
49. Trương Thị Linh Giang (2017), "Nghiên cứu giá trị của siêu âm
Doppler trong tiên lượng tình trạng sức khoẻ của thai ở thai phụ tiền sản
giật”".
50. Nguyễn Thành Vinh (2013), Nghiên cứu giá trị một số đặc điểm lâm
sàng và Doppler động mạch tử cung tại thời điểm tuổi thai 11 tuần – 14
tuần trong dự báo tiền sản giật, Luận văn tốt nghiệp bác sĩ nội trú,
Trường Đại học Y Dược, Đại học Huế.
TIẾNG ANH
51. A. N. Britov,M. M. Bystrova (2003), "[New guidelines of the Joint
National Committee (USA) on Prevention, Diagnosis and Management
of Hypertension. From JNC VI to JNC VII]", Kardiologiia, 43 (11), pp.
93-7.
52. A. Filipek,E. Jurewicz (2018), "[Preeclampsia - a disease of pregnant
women]", Postepy Biochem, 64 (4), pp. 232-229.
53. (2013), "Hypertension in pregnancy. Report of the American College of
Obstetricians and Gynecologists’ Task Force on Hypertension in
Pregnancy", Obstet Gynecol, 122 (5), pp. 1122-31.
54. S. Abdel-Hady el, M. Fawzy, M. El-Negeri, et al. (2010), "Is expectant
management of early-onset severe preeclampsia worthwhile in low-
resource settings?", Arch Gynecol Obstet, 282 (1), pp. 23-7.
55. R. Akolekar, A. Syngelaki, R. Sarquis, et al. (2011), "Prediction of
early, intermediate and late pre-eclampsia from maternal factors,
biophysical and biochemical markers at 11-13 weeks", Prenat Diagn, 31
(1), pp. 66-74.
56. M. C. Alanis, C. J. Robinson, T. C. Hulsey, et al. (2008), "Early-onset
severe preeclampsia: induction of labor vs elective cesarean delivery and
neonatal outcomes", Am J Obstet Gynecol, 199 (3), pp. 262.e1-6.
57. M. M. Amorim, L. Katz, A. S. Barros, et al. (2015), "Maternal
outcomes according to mode of delivery in women with severe
preeclampsia: a cohort study", J Matern Fetal Neonatal Med, 28 (6), pp.
654-60.
58. V. L. Bilano, E. Ota, T. Ganchimeg, et al. (2014), "Risk factors of pre-
eclampsia/eclampsia and its adverse outcomes in low- and middle-
income countries: a WHO secondary analysis", PLoS One, 9 (3), pp.
e91198.
59. W. H. Chung,W. W. K. To (2018), "Outcome of pregnancy with new
onset proteinuria and progression to pre-eclampsia: A retrospective
analysis", Pregnancy Hypertens, 12 pp. 174-177.
60. X. Dong, W. Gou, C. Li, et al. (2017), "Proteinuria in preeclampsia: Not
essential to diagnosis but related to disease severity and fetal outcomes",
Pregnancy Hypertens, 8 pp. 60-64.
61. J.A. Hutcheon, S. Lisonkova,K.S. Joseph (2011), "Epidemiology of
pre-eclampsia and the other hypertensive disorders of pregnancy", Best
Pract Res Clin Obstet Gynaecol, 25 (4), pp. 391-403.
62. T. Kawakita,K. Bowers (2018), "Maternal and Neonatal Outcomes of
Induction of Labor Compared with Planned Cesarean Delivery in
Women with Preeclampsia at 34 Weeks' Gestation or Longer", Am J
Perinatol, 35 (1), pp. 95-102.
63. L. H. Kim, Y. W. Cheng, S. Delaney, et al. (2010), "Is preeclampsia
associated with an increased risk of cesarean delivery if labor is
induced?", J Matern Fetal Neonatal Med, 23 (5), pp. 383-8.
64. J. H. Kristensen, S. Basit, J. Wohlfahrt, et al. (2019), "Pre-eclampsia and
risk of later kidney disease: nationwide cohort study", Bmj, 365 pp. l1516.
65. G. M. Maher, F. P. McCarthy, C. M. McCarthy, et al. (2019), "A
perspective on pre-eclampsia and neurodevelopmental outcomes in the
offspring: Does maternal inflammation play a role?", Int J Dev Neurosci,
77 pp. 69-76.
66. G. Mancia, R. Fagard, K. Narkiewicz, et al. (2013), "2013 ESH/ESC
Guidelines for the management of arterial hypertension: the Task Force
for the management of arterial hypertension of the European Society of
Hypertension (ESH) and of the European Society of Cardiology (ESC)",
J Hypertens, 31 (7), pp. 1281-357.
67. B. W. J. Mol, C. T. Roberts, S. Thangaratinam, et al. (2016), "Pre-
eclampsia", Lancet, 387 (10022), pp. 999-1011.
68. S. Noor, M. Halimi, N. R. Faiz, et al. (2004), "Magnesium sulphate in
the prophylaxis and treatment of eclampsia", J Ayub Med Coll
Abbottabad, 16 (2), pp. 50-4.
69. H. E. Onah,G. C. Iloabachie (2002), "Conservative management of
early-onset pre-eclampsia and fetomaternal outcome in Nigerians", J
Obstet Gynaecol, 22 (4), pp. 357-62.
70. E. A. Phipps, R. Thadhani, T. Benzing, et al. (2019), "Pre-eclampsia:
pathogenesis, novel diagnostics and therapies", Nat Rev Nephrol, 15 (5),
pp. 275-289.
71. L. C. Poon, N. A. Zymeri, A. Zamprakou, et al. (2012), "Protocol for
measurement of mean arterial pressure at 11-13 weeks' gestation", Fetal
Diagn Ther, 31 (1), pp. 42-48.
72. Anthony C Sciscione,Edward J Hayes (2009), "Uterine artery Doppler
flow studies in obstetric practice", American journal of obstetrics and
gynecology, 201 (2), pp. 121-126.
73. S. Soltani,M. Nasiri (2019), "Association of ERAP2 gene variants with
risk of pre-eclampsia among Iranian women", Int J Gynaecol Obstet, 145
(3), pp. 337-342.
74. B. E. Vikse, L. M. Irgens, T. Leivestad, et al. (2008), "Preeclampsia
and the risk of end-stage renal disease", N Engl J Med, 359 (8), pp. 800-
9.
75. M. Wagnew, M. Dessalegn, A. Worku, et al. (2016), "Trends of
preeclampsia/eclampsia and maternal and neonatal outcomes among
women delivering in addis ababa selected government hospitals,
Ethiopia: a retrospective cross-sectional study", Pan Afr Med J, 25
(Suppl 2), pp. 12.
76. T. Wataganara, J. Leetheeragul, S. Pongprasobchai, et al. (2018),
"Prediction and prevention of pre-eclampsia in Asian subpopulation", J
Obstet Gynaecol Res, 44 (5), pp. 813-830.
77. D. Williams,J. Davison (2008), "Chronic kidney disease in pregnancy",
BMJ, 336 (7637), pp. 211-215.
78. World Health Organization (2011), "WHO recommendations for
prevention and treatment of preeclampsia and eclampsia", World Health
Organization.
79. D. Wright, A. Syngelaki, R. Akolekar, et al. (2015), "Competing risks
model in screening for preeclampsia by maternal characteristics and
medical history", Am J Obstet Gynecol, 213 (1), pp. 62.e1-62.e10.
80. E. M. Xenakis, J. M. Piper, N. Field, et al. (1997), "Preeclampsia: is
induction of labor more successful?", Obstet Gynecol, 89 (4), pp. 600-3.
81. G. G. Zeeman, J. L. Fleckenstein, D. M. Twickler, et al. (2004),
"Cerebral infarction in eclampsia", Am J Obstet Gynecol, 190 (3), pp.
714-20.
82. (2019), "Hypertension in pregnancy: diagnosis and management", NICE
guideline [NG133], pp. 55.
83. (2020), "Gestational Hypertension and Preeclampsia: ACOG Practice
Bulletin, Number 222", Obstetrics & Gynecology, 135 (6), pp. e237-
e260.
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN VĂN
Đặc điểm lâm sàng cận lâm sàng bệnh tiền sản giật tại khoa Phụ Sản
Bệnh viện Trung Ương Thái Nguyên, năm 2020, Tạp chí Y học thực
hành(1140)- số 7/2020, tr 212-214.
PHỤ LỤC
BỆNH ÁN NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG TIỀN SẢN GIẬT
TẠI BỆNH VIỆN TRUNG ƯƠNG THÁI NGUYÊN NĂM 2018-2019
Số bệnh án:
Số lưu trữ:
I. Hành chính:
Họ và tên:
1, ≤20 2, 21-25 3, 26-30 4, 31-35 Tuổi: 5, 36-40 6, ≥41
SĐT:
Địa chỉ: 1, Thành thị 2, Nông thôn
1, Học sinh, sinh viên 2, Cán bộ Nghề nghiệp 3, Công nhân 4, Nông dân
5, Nghề khác
Dân tộc 1, Kinh 2, Khác:
Vào viện hồi:…………….Ngày…..Tháng…….Năm 201….
II. Lí do vào viện
Tuổi thai Tuần
Khám thai 0, Không khám 1, Có khám
Para
1, Lần 1 2, Lần 2
Số lần sinh 3, Lần 3 4, Nhiều hơn 3
lần
1, Không có bệnh 2, Tiền sản giật Tiền sử bệnh 3, Có bệnh mạn tính, bệnh khác……
III. Triệu chứng lâm sàng
0, Không phù 1, Phù nhẹ 2, Phù to Triệu chứng phù (hai chân) (toàn thân)
Lúc vào Lúc đình chỉ
Sau đình chỉ Lúc ra viện Huyết áp(mmHg) HAtt cao nhất HAtrcao nhất
Phân độ THA theo huyết áp cao nhất:
0, Không
1, Rối loạn thị giác
2, Đau đầu Triệu chứng kèm theo 3, Đau hạ sườn phải hoặc đau thượng vị
4, khó thở
5, Triệu chứng khác
IV. Triệu chứng cận lâm sàng
Protein niệu(mg/dl) 1, <300 2, 300-499 3, 500-999 4, ≥1000
Acid uric HT
(mcmol/l) 1, <420 2, ≥ 420
Protein TP HT (g/l) 1, <65 2, ≥ 65
Ure HT (mmol/l) 1, <8,3 2, ≥8,3
Creatinin HT
(mcmol/l) 1, <115 2, ≥ 115
SGOT (UI/l) 1, <37 2, ≥37
SGPT (UI/l) 1, <41 2, ≥ 41
Tiểu cầu (UI/mm3) 1, <150 2, ≥ 150
Fibrinogen (g/l) 1, <2 2, 2-4 3, >4
1, Ít ối 2, Bình thường 3, Đa ối Tình trạng ối Siêu Cân nặng thai âm (gram) 1, <2500 2, 2500 - 3200 3, >3200
V. Xử trí
0, Không 1, Magie Sunphat Điều trị nội khoa 2, Hạ áp 3, Kết hợp
Phương pháp chấm dứt thai 1, Mổ lấy thai 2, Đẻ đường âm đạo
kì
0, Đẻ đường âm đạo
1, Thai chậm phát triển
2, Không kiểm soát được huyết áp
Chỉ định mổ lấy thai 3, Rau bong non
4, Sản giật
5, Thai suy
6, Các nguyên nhân khác (MLT cũ…)
VI. Kết quả điều trị và biến chứng
Thời gian điều trị đến lúc sinh Giờ
2, < 7 điểm Tình 1, ≥ 7 điểm Apgar
trạng Cân nặng trẻ trẻ sau 1, <2500 2, 2500 - 3200 3, >3200 (gram) sinh
Nước ối hổi cứu 1, Trong 2, Xanh bẩn
0, Không
1, Sản giật
Biến chứng 2, Đẻ non
3, Tử vong
4, Khác…………………………………
Ngày………tháng ……..năm……..
Người lập phiếu