ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NGUYỄN THU TRANG
BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN ĐẢO TRÊN BÁO IN HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: BÁO CHÍ HỌC
HÀ NỘI - 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NGUYỄN THU TRANG
BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN ĐẢO
TRÊN BÁO IN HIỆN NAY
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Báo chí học
Mã số: 60 32 01 01
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Phạm Minh Sơn
HÀ NỘI - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam kết, đây là luận văn do tôi tự nghiên cứu, chưa được công bố ở
bất cứ công trình khoa học nào. Mọi luận cứ trong luận văn là xác thực.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Nguyễn Thu Trang
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn PGS. TS. Phạm Minh Sơn – Người hướng
dẫn đã tận tình giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này!
Xin chân thành cảm ơn sự hợp tác của các chuyên gia, nhà quản lý,
lãnh đạo các ngành và các đơn vị có liên quan; sự giúp đỡ của các nhà báo,
biên tập viên, phóng viên, bạn bè đồng nghiệp đã dành thời gian tham gia
trả lời phỏng vấn; các thầy cô ở Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn đã
giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn!
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Nguyễn Thu Trang
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 5
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA THÔNG TIN BẢO VỆ CHỦ
QUYỀN BIỂN ĐẢO TRÊN BÁO IN .......................................................... 13
1.1 Một số thuật ngữ, khái niệm liên quan đến bảo vệ chủ quyền biển đảo
trên báo in ........................................................................................................ 13
1.2. Đặc trưng, thế mạnh của báo in trong thông tin bảo vệ chủ quyền biển
đảo ............................................................................................................... 33
1.3. Quan điểm chính sách của Đảng và Nhà nước ta về bảo vệ chủ quyền
biển đảo trên báo chí ....................................................................................... 39
Tiểu kết chương 1 ........................................................................................... 48
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG THÔNG TIN BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN
ĐẢO TRÊN BÁO IN .................................................................................... 50
2.1. Tổng quan về nội dung và dung lượng thông tin bảo vệ chủ quyền biển
đảo trên báo in ................................................................................................ 50
2.2 Nội dung thông tin về bảo vệ chủ quyền biển đảo .................................... 58
2.3 Hình thức thông tin bảo vệ chủ quyền biển đảo ....................................... 70
Tiểu kết chương 2 ........................................................................................... 77
Chƣơng 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƢỜNG THÔNG TIN
BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN ĐẢO TRÊN BÁO IN HIỆN NAY ........... 78
3.1 Đánh giá chung về công tác thông tin bảo vệ chủ quyền biển đảo trên
báo in ........................................................................................................... 78
3.2 Một số giải pháp tăng cường thông tin bảo vệ chủ quyền biển đảo trên báo
in hiện nay ....................................................................................................... 83
Tiểu kết chương 3 ........................................................................................... 99
KẾT LUẬN .................................................................................................. 100
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 103
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
1. Báo chí: BC
2. Biển đảo: BĐ
3. Biên tập viên: BTV
4. Bộ quy tắc ứng xử mang tính pháp lý của các bên ở Biển Đông: COC
5. Cảnh sát biển: CSB
6. Công ước Liên hiệp quốc về Luật Biển năm 1982: UNCLOS 1982
7. Liên hợp quốc: LHQ
8. Thông tin: TT
9. Xã hội chủ nghĩa: XHCN
10. Quốc phòng – An ninh: QP – AN
11. Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông: DOC
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Hình 2.1: Biểu đồ thể hiện tỉ lệ nội dung tác phẩm của Báo Nhân Dân (5/2011
– 5/2014) ......................................................................................................... 52
Hình 2.2: Biểu đồ thể hiện tỷ trọng nội dung tác phẩm của báo Khánh Hòa
(5/2011 – 5/2014) ............................................................................................ 53
Hình 2.3. Biểu đồ thể hiện tỉ lệ nội dung tác phẩm của Báo Thanh Niên
(5/2011 – 5/2014) ............................................................................................ 54
Hình 2.4: Biểu đồ thể hiện tỉ lệ tác phẩm về đề tài Biển đảo trên Báo Nhân
Dân, Báo Khánh Hòa và Báo Thanh Niên (5/2011 – 5/2014) ........................ 56
Hình 2.5: Biểu đồ thể hiện tỉ lệ thể loại tác phẩm về đề tài biển đảo trên Báo
Nhân Dân, Báo Khánh Hòa và Báo Thanh Niên (từ 5/2011 đến 5/2014) ...... 73
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Thống kê số lượng tin bài được khảo sát trên Báo Nhân Dân, Báo
Khánh Hòa và Báo Thanh Niên (từ 5/2011 đến 5/2014) ................................ 51
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Người Việt Nam từ xa xưa đã có truyền thống yêu nước, lòng tự tôn
dân tộc và ý thức sâu sắc về việc giữ gìn, bảo vệ Tổ quốc cũng như xây dựng
và phát triển đất nước. Truyền thống ấy đã được chứng minh trong những
trang sử lẫy lừng từ thuở dựng nước, giữ nước cho tới ngày nay và thể hiện
một cách khác nhau ở mỗi thời kì của lịch sử dân tộc. Nếu như trong thời
chiến, ông cha ta đã cầm giáo mác, súng đạn để “quyết tử cho Tổ quốc quyết
sinh” thì thế hệ chúng ta, những người con sống trong hòa bình cần nhận thức
được những gì dân tộc đã phải đánh đổi để có được đất nước như ngày nay và
biết mình phải làm gì để bảo vệ và phát huy thành quả đó.
Biển đảo Việt Nam có ý nghĩa to lớn đến mọi mặt của an ninh quốc
phòng và đời sống. Do đó, công tác TT bảo vệ chủ quyền BĐ luôn được Đảng
và nhà nước ta quan tâm chú trọng. Trong các phương tiện truyền thông đại
chúng, báo chí với chức năng nhiệm vụ của mình luôn tiên phong trong vai
trò tuyên truyền đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước. Trước những
diễn biến ngày càng trở nên phức tạp ở Biển Đông (gần đây nhất ngày
2/5/2014, Trung Quốc đã hạ đặt trái phép giàn khoan 981 vào vùng thềm lục
địa của Việt Nam), đòi hỏi báo chí cần phát huy hơn nữa vai trò mũi nhọn của
mình trong công tác thong tin về Biển đảo. Trong luận văn này, tác giả đi vào
tìm hiểu vai trò của báo in trong vấn đề thong tin bảo vệ chủ quyền Biển đảo
dựa trên những lí do cụ thể sau:
Thứ nhất: Biển đảo chiếm một vai trò vô cùng quan trọng đối với chủ
quyền lãnh thổ và phát triển kinh tế xã hội người Việt Nam. Bao đời nay,
Biển đảo là môi trường sống, môi trường giao tiếp văn hóa của người Việt.
Cùng với các không gian núi rừng và châu thổ, biển đã góp phần hợp thành,
định diện truyền thống, bản sắc văn hóa, cơ sở kinh tế, tư duy... của cộng
đồng người Việt. Biển đảo có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng trong bảo
1
vệ an ninh quốc phòng của nước ta. Trong tâm thức người dân thì Việt Nam
có “Rừng vàng, Biển bạc” và ý thức giữ gìn bảo vệ Biển đảo quê hương đã
trở thành một truyền thống tốt đẹp có từ lâu đời.
Việt Nam có một vùng biển đặc quyền kinh tế rộng trên 1 triệu km2,
gấp 3 lần diện tích đất liền; có bờ biển dài 3.260km và có hai quần đảo
Trường Sa và Hoàng Sa – nằm trên tuyến giao thông huyết mạch. Trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, biển có vai trò, vị trí rất quan trọng, gắn
bó mật thiết và ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm
quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường... Sau gần 30 năm thực hiện công
cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, tiềm lực kinh tế biển của đất nước ta
đã không ngừng lớn mạnh, phát triển với tốc độ khá nhanh và đã có những
đóng góp quan trọng vào nhịp độ tăng trưởng kinh tế - xã hội của đất nước
theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Chủ trương của Đảng và chính phủ đối với phát triển ven biển và hải
đảo từ 2011 – 2020 cũng khẳng định: “Phát triển mạnh kinh tế Biển tương
xứng với vị thế và tiềm năng biển của nước ta, gắn phát triển kinh tế biển với
bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ chủ quyền vùng biển… Đẩy nhanh tốc
độ đô thị hóa, tạo thành các trung tâm kinh tế biển mạnh, tạo thế tiến ra
biển...” (Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 – 2020).
Công tác tuyên truyền Biển đảo được xác định là một trong những
nhiệm vụ, giải pháp đi trước một bước nhằm thực hiện thắng lợi nghị quyết
Hội nghị lần thứ tư (số 09 – NQ/TƯ, ngày 09 – 02 - 2007) của ban chấp hành
trung ương Đảng khóa X về chiến lược biển Việt nam năm 2020. Để khẳng
định chủ quyền Biển đảo thong tin về BĐ, thời gian qua chúng ta đã đẩy
mạnh công tác thong tin trong nhân dân và cộng đồng quốc tế. Tuy nhiên,
hiệu quả của công tác này chưa được như mong muốn.
Thứ hai: Những năm đầu của thập kỷ 70 của thế kỷ XX đến nay, trên
Biển Đông đang tồn tại những tranh chấp Biển đảo rất quyết liệt và phức tạp,
tiềm ẩn những nhân tố mất ổn định, tác động đến quốc phòng và an ninh Việt
2
Nam. Trên Biển Đông, vùng biển nước ta tiếp giáp với vùng biển 7 nước
trong khu vực là: Trung Quốc (phía Bắc), Campuchia và Thái Lan (Tây
Nam), Philippines, Malaysia, Indonesia, Brunei (phía Đông, Đông Nam và
Nam). Nơi đây đang diễn ra những tranh chấp phức tạp và quyết liệt về chủ
quyền giữa các quốc gia, đẩy tới xu hướng tăng cường lực lượng quân sự, đặc
biệt là hải quân của các nước trong khu vực, nhất là những nước có tiềm lực
lớn về kinh tế, quân sự. Họ tận dụng ưu thế của mình trên Biển để đe dọa chủ
quyền vùng BĐ, thềm lục địa của nước ta, gây ra những nhân tố khó lường về
chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ và an ninh đất nước. Công cuộc bảo vệ tổ quốc,
chủ quyền quốc gia là nhiệm vụ của toàn dân. Vì vậy vấn đề đấu tranh chống
những luận điệu xuyên tạc, bảo vệ chủ quyền, phát triển kinh tế vùng Biển
đảo là vô cùng quan trọng.
Ngày 2/5/2014, Tập đoàn dầu khí Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn
khoan HD 981 vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam đã vi phạm nghiêm
trọng công ước luật Biển 1982 và luật pháp quốc tế về Biển và các quốc gia
ven biển (Trước đó, năm 1974, chính Trung Quốc đã dùng vũ lực cưỡng
chiếm Quần đảo Hoàng sa của Việt Nam, biến nó từ chỗ thuộc chủ quyền của
Việt Nam sang vùng đang xảy ra tranh chấp). Để đối phó với những luận điệu
sai lệch và xuyên tạc từ phía Trung Quốc, cũng như để cộng đồng trong nước
và quốc tế hiểu rõ về giàn khoan HD 981, Việt Nam đã và đang dốc toàn lực
đẩy mạnh công tác tuyên truyền Biển đảo. Đây là nhiệm vụ vô cùng quan
trọng và cấp bách của truyền thông Việt Nam trong năm 2014. Trên các loại
phương tiện thông tin đại chúng, trong mọi lĩnh vực nghiên cứu, văn hóa, giáo
dục… đều tập trung mũi nhọn về vấn đề này.
Thứ ba: Báo chí là bộ phận vô cùng quan trọng trong việc thông tin các
chủ trương, chính sách của nhà nước, vận động quần chúng nhân dân. Trong
các loại hình báo chí, báo in với những ưu thế của mình đang chiếm vai trò cực
kỳ quan trọng trong việc thông tin đường lối chính sách của nhà nước đến với
nhân dân. Cùng với sức nóng của sự kiện giàn khoan HD 981, Đảng và Nhà
3
nước đã chủ trương đẩy mạnh công tác thông tin Biển đảo trên các phương tiện
truyền thông đại chúng. Báo chí nước ta đã có những phản ứng nhanh nhạy và
kịp thời trước sự kiện này. Các bài viết chuyên biệt về đề tài biên giới Biển đảo
đã chuyển hướng hoàn toàn vào mảng đề tài Biển đảo, ngoài ra trên các chuyên
mục của các tờ báo từ 7/5/2014 – 17/7/2014, tin tức về Biển đảo được cập nhật
thường xuyên và liên tục. Các cơ quan báo đài cũng liên tục cử phóng viên ra
để cập nhật tin tức về giàn khoan ngoài biển Đông.
Trước những diễn biến phức tạp của BĐ, các loại hình báo chí, đặc biệt
là báo in cần phải làm tốt hơn nữa vai trò cung cấp thông tin, tuyên truyền,
định hướng dư luận của mình. Bởi đây là loại hình có sức lan tỏa thông tin vô
cùng nhanh chóng và hiệu quả đến với công chúng Việt Nam cũng như trên
thế giới. Trong luận văn này tác giả lựa chọn khảo sát ba tờ báo ngày, đó là
Báo Nhân Dân, Báo Khánh Hòa và Báo Thanh Niên. Đây là bao tờ báo có
diện phủ sóng rộng khắp trên cả nước. Nó có sự tương đồng nhất định với
nhau khi cùng xuất bản hàng ngày. Tuy nhiên, ba tờ báo này là khác nhau về
đối tượng độc giả, bởi Báo Nhân Dân là cơ quan ngôn luận của Đảng, Báo
Khánh Hòa là báo địa phương và Thanh Niên là của cơ quan đoàn thể. Dù
vậy, việc khảo sát đối chiếu so sánh vẫn có những sự tương đồng nhất quán,
từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm trong công tác thực hiện nội dung của
ba tờ báo. Trên cơ sở phân tích vai trò của thông tin bảo vệ chủ quyền Biển
đảo (khảo sát Báo Nhân Dân, Báo Khánh Hòa và Báo Thanh Niên), chúng ta
có cái nhìn khách quan hơn về thông tin bảo vệ chủ quyền biển đảo trên báo
in, những điểm mạnh, những điểm yếu còn tồn tại và đề xuất những biện pháp
nâng cao chất lượng thông tin bảo vệ chủ quyền biển đảo.
Tóm lại, việc nghiên cứu, đánh giá một cách toàn diện về thông tin bảo
vệ chủ quyền Biển đảo trên Báo Nhân Dân, Báo Khánh Hòa và Báo Thanh
Niên, theo tác giả là một việc làm cần thiết. Từ đó, chúng ta có cơ sở cho việc
đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp thông tin, nhằm nâng cao hơn nữa
chất lượng của báo in đối với lĩnh vực thông tin bảo vệ chủ quyền biển đảo.
4
Đặc biệt, sự kiện ngày 2/5/2014 Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan 981
vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam đánh dấu thời kỳ căng thẳng leo
thang trên khu vực Biển Đông, đòi hỏi công tác thông tin càng trở nên cấp
bách và cần được đẩy mạnh. Luận văn là một đề tài có tính cấp thiết, có giá trị
thực tiễn cao trong việc nâng cao chất lượng thông tin bảo vệc chủ quyền biển
đảo của chúng ta trong thời gian tới. Những lí do trên đã khiến tác giả quyết
định lựa chọn đề tài nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp Thạc sỹ chuyên
ngành Báo chí học của mình là: “Bảo vệ chủ quyền biển đảo trên báo in hiện
nay (Khảo sát Báo Nhân Dân, Báo Khánh Hòa và Báo Thanh Niên giai đoạn
từ tháng 5/2011 đến tháng 5/2014)”, nhằm đáp ứng yêu cầu thời sự hiện nay
và làm rõ thêm những vấn đề cơ bản xung quanh nội dung này.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trong những năm qua, đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về
tranh chấp chủ quyền biển đảo, do vậy, các tài liệu nghiên cứu về vấn đề này
cũng rất phong phú đa dạng. Kết quả nghiên cứu của các công trình đó đã
được nghiệm thu, công bố và đăng tải trên các sách, báo, tạp chí… Có thể kể
đến một số tác phẩm nổi bật như:
Cuốn sách Chính sách, pháp luật biển của Việt Nam và chiến lược phát
triển bền vững, NXB Tư pháp ấn hành năm 2006, PGS.TS Nguyễn Bá Diến
(Chủ Biên) đã hệ thống hóa toàn bộ những văn bản pháp luật, chính sách về
Biển của Việt Nam. Cuốn “Tài liệu tham khảo phục vụ công tác tập huấn
tuyên truyền về biển đảo”, do NXB Thông tin và Truyền Thông ấn hàng
tháng 11 năm 2012; trong cuốn “Trường Sa hỏi và đáp”, NXB trẻ phát hành
năm 2011, TS Trần Nam Tiến đã nêu rõ tầm quan trọng của biển Đông.
Luận văn của Tạ Thị Thu Hằng, Xung đột chủ quyền ở quần đảo
Trường Sa – Những vấn đề đặt ra và hướng giải quyết. Luận văn thạc sỹ
chính trị học (2013). Đây là một luận văn cập nhật được tính thời sự cao, phân
tích rõ tình hình căng thẳng ở quần đảo Trường sa giữa nước ta với các nước
láng giềng. Luận văn cũng đề ra được hướng giải quyết thích đáng của Đảng
và nhà nước ta trong tình hình hiện nay. Tuy nhiên, do đây là luận văn chính
5
trị học, bởi vậy tính lý luận chuyên ngành báo chí rất hạn chế.
Luận văn Phùng Quốc Việt, Báo Biên Phòng với chủ đề bảo vệ chủ quyền
anh ninh biên giới Quốc gia, Luận văn Thạc sỹ báo chí (2004). Đây là luận văn
có tính ứng dụng cao do tác giả là người làm việc trực tiếp tại Báo Biên phòng.
Tuy nhiên đề tài bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới quốc gia là một đề tài chung
chung, không cụ thể về chủ đề Biển đảo. Hơn nữa, luận văn này thực hiện năm
2004, nhiều vấn đề đã trở nên cũ, thông tin không còn cập nhật.
Luận văn của Nguyễn Thị Hòa, Nâng cao chất lượng chương trình về
Biển đảo trên sóng phát thanh của đài tiếng nói Việt Nam (2011). Đây cũng
là một luận văn về đề tài Biển đảo có tính ứng dụng cao. Thông qua việc
nghiên cứu chương trình Biển đảo phát sóng trên kênh VOV1 – Đài tiếng nói
Việt Nam, tác giả đã chỉ ra được những ưu điểm cũng như điểm hạn chế của
chương trình. Từ đó, có những đề xuất nâng cao chất lượng chương trình về
Biển đảo trên sóng phát thanh của đài tiếng nói Việt Nam nói riêng cũng như
của phát thanh nói chung.
Luận văn của Tạ Thị Thu Hằng, Xung đột chủ quyền ở quần đảo
Trường Sa – Những vấn đề đặt ra và hướng giải quyết. Luận văn thạc sỹ
chính trị học (2013). Đây là một luận văn cập nhật được tính thời sự cao, phân
tích rõ tình hình căng thẳng ở quần đảo Trường sa giữa nước ta với các nước
láng giềng. Luận văn cũng đề ra được hướng giải quyết thích đáng của Đảng
và nhà nước ta trong tình hình hiện nay. Tuy nhiên, do đây là luận văn chính
trị học, bởi vậy tính lý luận chuyên ngành báo chí rất hạn chế.
Luận văn của Văn Nghiệp Chúc, So sánh phương thức tuyên truyền về
Biển Đông giữa báo chí Việt Nam và báo chí Trung Quốc (2012). Luận văn
đã hệ thống hóa những quan điểm và phân tích tổng quan những nét chính về
lĩnh vực thông tin, tuyên truyền Biển đảo và diễn biến cách thức tuyên truyền
cho biển đông của báo chí hai nước. Luận văn không chỉ khái quát ưu nhược
điểm của công tác tuyên truyền mà còn đề xuất những giải pháp, cách tiếp cận
như thế nào để báo chí nước ta những năm tới nâng cao hiệu quả thông tin,
6
tuyên truyền về công tác TT về BĐ. Đây là luận văn đề cập khá chi tiết về
công tác TT về BĐ của Việt Nam và Trung Quốc, tuy nhiên TT ở đây thiên
về vấn đề TT bảo vệ chủ quyền ở Biển Đông.
Luận văn của Hồ Thị Giang, Truyền hình với vấn đề tuyên truyền về
biển đảo (Khảo sát Tạp chí biên giới biển đảo phát sóng VTC1 và chuyên
mục núi sông bờ cõi phát sóng VTV4 từ 6/2012 đến 6/2014).
Công trình nghiên cứu “Chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa”, Nhà xuất bản L’Harmattan Paris (Pháp) công bố vào tháng
3/1996, học giả người Pháp Monique Chemillier – Gendreau đã rà soát các tài
liệu lưu trữ của Pháp với khoảng gần 50 phụ lục đính kèm đã khẳng định chủ
quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa – Trường Sa, đồng thời phản đối hành
động bành trướng của Trung Quốc. Bà Monique quả quyết: “Nước này (tức
Trung Quốc) trong nhiều tài liệu khẳng định cao giọng và mạnh mẽ rằng họ
có những bằng chứng không thể bác bỏ về các quyền lịch sử lâu đời của họ
đối với các quần đảo. Vậy thì họ còn sợ gì mà không trình bày các luận cứ
của họ trước một cơ quan tài phán rộng rãi như Tòa án La Haye?” Chúng ta
cũng đã đặt ra bao nhiêu lần câu hỏi này cho phía Trung Quốc, nhưng suốt từ
thời Pháp thuộc tới nay, chúng ta vẫn chỉ thấy một thái độ làm ngơ, chỉ có thể
lý giải là đuối lý của Trung Quốc.
Tóm lại, do những năm trước đây, vấn đề BĐ chưa được chú trọng
đúng mức nên những công trình nghiên cứu về BĐ còn hạn chế về lý luận và
thực tiễn, chưa phong phú cả về nội dung và hình thức.
Đây là luận văn đầu tiên nghiên cứu đề tài: “Bảo vệ chủ quyền biển đảo
trên báo in” một cách cụ thể trên ba tờ báo Nhân Dân, Khánh Hòa và Thanh
Niên. Nếu thành công, luận văn này sẽ đóng góp những nghiên cứu về BĐ và
những vấn đề của việc TT về BĐ trên báo in, vai trò của báo in trong công tác
thông tin về bảo vệ chủ quyền biển đảo hiện nay. Đồng thời cung cấp đề xuất
nâng cao chất lượng thông tin bảo vệ chủ quyền biển đảo trên báo in.
Ngoài ra, luận văn cung cấp giá trị thực tiễn to lớn khi đề ra được
những biện pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả về nội dung và hình thức
7
những tin bài có nội dung thông tin bảo vệ chủ quyền biển đảo trên Báo Nhân
Dân, Báo Khánh Hòa và Báo Thanh Niên. Trong khi vấn đề này là nhiệm vụ
cấp thiết mà Đảng và Nhà nước đang định hướng cho báo chí nói chung và
báo in nói riêng. Từ đó, ba tờ báo này có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ thông
tin của Đảng và Nhà nước giao phó. Các cơ quan báo chí trong cả nước cũng
có thể lấy những nghiên cứu trong luận văn này làm cơ sở tham khảo để có
những hướng khắc phục, nâng cao hiệu quả thông tin bảo vệ chủ quyền biển
đảo cho mình.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1.Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở khảo sát, phân tích và làm rõ những vấn đề lý luận và thực
trạng thông tin bảo vệ chủ quyền biển đảo trên Báo Nhân Dân, Báo Khánh
Hòa và Báo Thanh Niên giai đoạn từ tháng 5/2011 đến tháng 5/2014, luận văn
đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường thông tin bảo vệ chủ quyền biển
đảo trên báo chí hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ những vấn đề lý luận về thông tin bảo vệ chủ quyền biển đảo
trên báo in.
- Hệ thống hóa đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về bảo vệ
chủ quyền biển đảo và giải quyết các vấn đề tranh chấp ở Biển Đông.
- Khảo sát làm rõ thực trạng thông tin bảo vệ chủ quyền biển đảo trên
Báo Nhân Dân, Báo Khánh Hòa và Báo Thanh Niên trong giai đoạn từ tháng
5/2011 đến tháng 5/2014.
- So sánh, đánh giá việc thông tin bảo vệ chủ quyền biển đảo trên Báo
Nhân Dân, Báo Khánh Hòa và Báo Thanh Niên.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường thông tin bảo vệ chủ
quyền biển đảo trên báo in hiện nay.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Những thông tin bảo vệ chủ quyền biển đảo trên báo in (Khảo sát Báo
8
Nhân Dân, Báo Khánh Hòa và Báo Thanh Niên.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: công tác bảo vệ chủ quyền biển đảo là một nhiệm vụ
quan trọng, được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Tuy nhiên,
luận văn chỉ tập trung đi sâu tìm hiểu công tác thông tin bảo vệ chủ quyền
biển đảo trên Báo Nhân Dân, Khánh Hòa và Thanh Niên giai đoạn từ tháng
5/2011 đến tháng 5/2014.
- Về khách thể: Vấn đề biển đảo đang được nhiều báo quan tâm đưa tin.
Đề tài chỉ giới hạn nghiên cứu ba cơ quan báo chí: Báo Nhân Dân, Báo
Khánh Hòa và Báo Thanh Niên.
Báo Nhân dân là cơ quan Trung ương của Đảng cộng sản Việt Nam,
là tiếng nói của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam, ra số đầu ngày 11-3-
1951 tại Chiến khu Việt Bắc trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Báo Nhân Dân khai thác các bài viết về biển đảo trên ba chuyên mục chính:
Trường Sa – Hoàng Sa, Theo dòng thời sự, Biển Đông - DOC – COC.
Báo Khánh Hòa là cơ quan của Đảng bộ tỉnh Khánh Hòa, là tiếng nói
của chính quyền và nhân dân tỉnh Khánh Hòa, nơi có huyện đảo Trường Sa.
Luận văn tập trung khai thác các bài viết về chủ quyền biển đảo và tình hình
chính sự thế giới trên Báo Khánh Hòa, đặc biệt các bài viết liên quan đến bảo
vệ chủ quyền biển đảo trên quần đảo Trường Sa.
Báo Thanh Niên lại là diễn đàn của Hội Liên hiệp Thanh Niên Việt
Nam. Báo Thanh Niên hiện nay chưa có các chuyên mục riêng về chủ quyền
biển đảo nên khi khai thác, luận văn chỉ tập trung vào các bài viết trên bốn
chuyên mục: Chính trị - xã hội, Quân sự, Kinh tế và Thế giới.
- Về thời gian: từ tháng 5/2011 – 5/2014. Luận văn chọn mốc thời gian
từ tháng 5/2011 bởi đúng vào khoảng thời gian này xảy ra sự việc Trung
Quốc cắt cáp tàu Bình Minh, từ đó, vấn đề Biển Đông nổi lên, trở thành vấn
9
đề được dư luận đặc biệt quan tâm.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên phương pháp của chủ nghĩa Mác-Lê nin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước
về bảo vệ chủ quyền biển đảo trên báo chí nói chung và báo in nói riêng.
5.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở nhận thức học về duy vật biện chứng,
lý luận về truyền thông, quan điểm của Đảng và nhà nước Việt Nam về báo
chí truyền thông và công tác tư tưởng, về chiến lược triển khai công tác thông
tin và tuyên truyền biển đảo.
Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu, luận văn sử dụng các phương pháp
nghiên cứu cụ thể như: Phân tích, tổng hợp thống kê, so sánh, phỏng vấn sâu…
- Phương pháp thu thập dữ liệu và xử lý thông tin: tìm hiểu thông tin từ
các nguồn tài liệu khác nhau như nghiên cứu khoa học, báo, mạng internet,
các bài tiểu luận, các văn bản, quyết định, kế hoạch….. sau đó tiến hành chọn
lọc các thông tin, các tư liệu phù hợp với mục tiêu của đề tài.
- Phương pháp thống kê so sánh: Thống kê các đối tượng nghiên cứu để
có cái nhìn bao quát và toàn diện về vấn đề. Việc so sánh số liệu các báo với
nhau cho phép nhìn nhận rõ hơn về hiện trạng của những đối tượng nghiên
cứu, biết được thành công cũng như những điểm chưa làm tốt trong việc bảo
vệ chủ quyền biển đảo của Việt Nam và làm cho vấn đề trở lên khách quan.
- Phương pháp phỏng vấn sâu: Phỏng vấn sâu một số đối tượng khác
nhau như các chuyên gia, các nhà báo là lãnh đạo các cơ quan báo chí để từ
đó có cái nhìn đa chiều hơn, khách quan hơn về đối tượng mà tác giả muốn
nghiên cứu.
- Phương pháp lịch sử: để khai thác sâu hơn các thông tin liên quan đến
tình hình biển đông và làm căn cứ lịch sử cho bài luận, luận văn đã nghiên
cứu lịch sử tranh chấp chủ quyền biển, đảo, các tài liệu lịch sử của Việt Nam
10
và Quốc tế đặt vấn đề tuyên truyền biển, đảo là vấn đề cấp thiết.
- Phương pháp logic: luận văn dựa trên nguồn tài liệu về lịch sử, chính
trị, các văn bản pháp lý của quốc tế và Việt Nam… để suy luận, đưa ra những
đánh giá, nhận xét.
- Phương pháp phân tích và tổng hợp: từ những dẫn chứng, số liệu và
kết quả thu thập, nghiên cứu các nguồn tài liệu có liên quan đến vấn đề của đề
tài, tiến hành phân tích và tổng hợp để đưa ra được những bảng số liệu, biểu
đồ và những kết luận đánh giá xác đáng nhất.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Luận văn là một công trình nghiên cứu vận dụng lý luận Báo chí học để
giải quyết một vấn đề của thực tiễn. Kết quả của đề tài này sẽ góp phần bổ
sung cho lý luận Báo chí học về vấn đề thông tin bảo vệ chủ quyền biển đảo
cho nhân dân. Đây có thể được coi là tài liệu tham khảo phục vụ cho công tác
giảng dạy cho sinh viên, học viên sau đại học. Thực hiện luận văn, tác giả
cũng mong muốn những cán bộ, phóng viên, biên tập viên và những người
làm công tác thông tin bảo vệ chủ quyền biển đảo tại ba tờ báo này cũng như
những người làm báo nói chung có thêm một góc nhìn về lý luận và có thể áp
dụng vào thực tiễn cho các tác phẩm của mình.
Từ trước tới nay, đã có một số luận văn nghiên cứu xung quanh vấn đề
về báo in và Biển đảo. Tuy nhiên, chưa có luận văn nào nghiên cứu với tên cụ
thể: Bảo vệ chủ quyền biển đảo trên báo in hiện nay – Khảo sát Báo Nhân
Dân, Báo Khánh Hòa và Báo Thanh Niên. Chính vì vậy, luận văn sẽ đóng góp
hiệu quả cho vấn đề lý luận và thực tiễn về vấn đề này. Nó không chỉ cho thấy
thực trạng vấn đề thông tin bảo vệ chủ quyền biển đảo trên các báo được khảo
sát mà còn đề ra những biện pháp nâng cao chất lượng thông tin bảo vệ chủ
quyền biển đảo cho các tờ báo này cũng như trên các tờ báo khác về chủ đề
Biển đảo nói chung.
Luận văn cung cấp cái nhìn khái quát về công tác thông tin bảo vệ chủ
quyền biển đảo trên Báo Nhân Dân, Báo Khánh Hòa và Báo Thanh Niên, từ
11
đó những phóng viên, nhà báo, biên tập viên có khả năng nhìn nhận trực tiếp
công tác thực hiện của mình, từ đó có hướng điều chỉnh tốt hơn. Những người
làm báo trên cơ sở nghiên cứu về đề tài của luận văn này cũng sẽ có những
bài học cụ thể cho mình trong công tác TT về BĐ.
Luận văn có tính thời sự cấp bách, nó ra đời trong hoàn cảnh Biển
Đông đang là vấn đề được Đảng và Nhà nước cũng như dư luận nhân dân đặc
biệt quan tâm. Trên tất cả các tờ báo lớn cũng như các chương trình truyền
hình, thời sự trong tháng 5 đến tháng 6, hàng ngày liên tục đưa tin về tình
hình giàn khoan HD 981 hạ đặt trái phép vào vùng đặc quyền kinh tế và sự
gây hấn của các tàu Trung Quốc với tàu kiểm ngư, chấp pháp của Việt Nam.
Báo chí với chức năng của mình đã làm rất tốt nhiệm vụ thông tin về Biển
đảo, vạch trần luận điệu xuyên tạc và bất chấp luật pháp quốc tế của Trung
Quốc. Báo in với tư cách là một phương tiện truyền thông phổ biến ở Việt
Nam được nghiên cứu cụ thể, nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng thông tin
các chính sách của Đảng và nhà nước về Biển đảo, góp phần thực hiện tốt
nhiệm vụ Đảng và Chính phủ giao phó cho nền Báo chí nước nhà.
Riêng với bản thân tác giả, quá trình nghiên cứu đề tài: “Bảo vệ chủ
quyền biển đảo trên báo in hiện nay – Khảo sát Báo Nhân Dân, Báo Khánh
Hòa và Báo Thanh Niên” sẽ là một cơ hội để tôi tích lũy kiến thức, nâng cao
tầm hiểu biết cũng như năng lực chuyên môn, để thực hiện một cách tốt nhất
nhiệm vụ của mình với tư cách là một phóng viên, biên tập viên.
7. Kết cấu của luận văn
Chương 1: Cơ sở lý luận của thông tin bảo vệ chủ quyền biển đảo trên
báo in.
Chương 2: Thực trạng thông tin bảo vệ chủ quyền biển đảo trên báo in
(Khảo sát Báo Nhân dân, Báo Khánh Hòa và Báo Thanh Niên giai đoạn từ
tháng 5/2011 đến tháng 5/2014).
Chương 3: Một số giải pháp nhằm tăng cường thông tin bảo vệ chủ
12
quyền biển đảo trên báo in hiện nay.
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA THÔNG TIN
BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN ĐẢO TRÊN BÁO IN
1.1 Một số thuật ngữ, khái niệm liên quan đến bảo vệ chủ quyền
biển đảo trên báo in
1.1.1 Biển đảo
a) Biển:
Trong từ điển tiếng Việt, biển được định nghĩa: 1. Danh từ 1. Vùng
nước mặn rộng lớn trên bề mặt trái đất; 2 Vùng đại dương ven lục địa được
ngăn cách bởi đảo hay đất liền; 3 Khối lượng nhiều đông đảo được ví như
biển.Ví dụ Mọi thứ chìm trong biển lửa.
Theo định nghĩa thông dụng, biển là phần riêng biệt của đại dương ăn
sâu vào đất liền ít hay nhiều.
b) Khái niệm Đảo và Quần Đảo
Trong công ước của Liên hợp Quốc về Luật Biển năm 1982, điều 121 Quy
định: Một đảo là một vùng đất tự nhiên có nước bao bọc, khi thủy triều lên, vùng
đất này vẫn ở trên mặt nước [Trích điều 121, Công ước luật Biển 1982].
Đảo theo cách hiểu thông thường là một vùng đất có nước bao quanh.
Đối với người đi Biển thì Đảo được hiểu là các hải đảo nói chung, bao gốm
các đảo, đá.
Theo nghĩa pháp lý: Điều 46 Công ước Luật Biển 1982 quy định:
“Quần Đảo là một nhóm đảo, kể cả các bộ phận của các đảo, các vùng nước
nối các thành phần tự nhiên khác có liên quan với nhau chặt chẽ đến mức tạo
thành một thể thống nhất địa lý, kinh tế và chính trị, hay được coi như thế về
mặt lịch sử”.
Một nước ven biển có năm vùng biển: Nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp
giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, vùng thềm lục địa
c) Nội thủy
Điều 8 của Công ước Luật Biển năm 1982 quy định: “Nội thủy là toàn
13
bộ vùng nước tiếp giáp với bờ biển và nằm phía trong đường cơ sở dùng để
tính chiều rộng của lãnh hải. Tại nội thủy, quốc gia ven biển có chủ quyền
hoàn toàn và tuyệt đối như đối với lãnh thổ đất liền của mình”.
d) Lãnh hải
Lãnh hải là vùng biển nằm phía ngoài đường cơ sở. Theo luật biển
quốc tế cho đến những năm 60 của thế kỷ 20, chiều rộng của lãnh hải của
quốc gia ven biển chỉ có 03 hải lý (mỗi hải lý bằng 1.852m). Theo luật biển
quốc tế hiện đại, cụ thể là điều 3 của Công ước Luật Biển năm 1982 thì chiều
rộng tối đa của lãnh hải là 12 hải lý.
e) Vùng tiếp giáp lãnh hải
Vùng tiếp giáp lãnh hải là vùng biển nằm ngoài và sát với lãnh hải.
Chiều rộng của vùng tiếp giáp lãnh hải cũng không quá 12 hải lý. Quốc gia
ven biển có quyền thi hành sự kiểm soát cần thiết nhằm ngăn ngừa việc vi
phạm các luật và quy định về hải quan, thuế khóa, nhập cư hay y tế trên lãnh
thổ hay trong lãnh hải của mình. Quốc gia ven biển cũng có quyền thi hành sự
kiểm soát cần thiết trong vùng tiếp giáp lãnh hải để trừng trị việc vi phạm các
luật và quy định nói trên xảy ra trên lãnh thổ hay trong lãnh hải của mình.
f) Vùng đặc quyền kinh tế
Đó là vùng biển nằm phía ngoài lãnh hải và có chiều rộng 200 hải lý
tính từ ðường cơ sở (vì lãnh hải 12 hải lý, nên thực chất vùng đặc quyền kinh
tế có 188 hải lý). Đây là một chế định pháp lý hoàn toàn mới vì theo luật biển
quốc tế cho đến những năm 50 của thế kỷ 20, các quốc gia ven biển không có
vùng biển này.
g) Thềm lục địa
Thềm lục địa của quốc gia ven biển là phần đáy biển và lòng đất dưới
đáy biển nằm bên ngoài lãnh hải của quốc gia ven biển. Trên thực tế, rìa ngoài
của thềm lục địa ở các khu vực có khác nhau: Có nơi hẹp, không đến 200 hải
lý; nhưng có nơi rộng đến hàng trăm hải lý. Điều 76 của Công ước Luật Biển
năm 1982 quy định rất rõ ràng. Thềm lục địa của quốc gia ven biển rộng tối
14
thiểu 200 hải lý (kể cả khi thềm lục địa thực tế hẹp hơn 200 hải lý).
Điều cần nhấn mạnh là, một mặt các quốc gia ven biển được hưởng các
quyền tương ứng như đã nêu trên đối với các vùng biển của mình, nhưng mặt
khác họ có nghĩa vụ tôn trọng quyền của các quốc gia ven biển khác.
Theo “Những điều cần biết về Đất Biển Trời nước ta” tác giả Lưu Văn
Lợi, . Việt Nam giáp với biển Đông ở hai điểm Đông và Nam. Vùng biển
Việt Nam là một phần của Biển Đông, chiếm khoảng 29% diện tích của Biển
Đông (khoảng 1 triệu km) rộng gấp 3 lần diện tích lãnh thổ đất liền, bờ biển
dài 326 km, như vậy cứ trên 100km có 1 km bờ biển.
1.1.2 Vai trò của Biển đảo đối với nước ta
Việt Nam là quốc gia ven biển nằm bên bờ Tây của Biển Đông, có địa
chính trị và địa kinh tế rất quan trọng không phải bất kỳ quốc gia nào cũng có. Với
bờ biển dài trên 3.260 km2 trải dài từ Bắc xuống Nam, đứng thứ 27 trong số 157
quốc gia ven biển, các quốc đảo và các lãnh thổ trên thế giới. Chỉ số chiều dài bờ
biển trên diện tích đất liền của nước ta là xấp xỉ 0,01 (nghĩa là cứ 100 km2 đất liền
có 1 km2 bờ biển) đứng đầu các nước Đông Dương, trên Thái Lan và xấp xỉ
Malaysia. Trong 63 tỉnh, thành phố của cả nước thì 28 tỉnh, thành phố có biển và
gần một nửa dân số sinh sống tại các tỉnh, thành ven biển.
Biển, đảo giữ vai trò quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa:
a) Về kinh tế, chính trị - xã hội:
Theo các tài liệu được công bố hiện nay của Bộ Quốc Phòng nước ta
[Báo cáo tham luận tại Hội nghị tuyên truyền Viên của thiếu tá Nguyễn Văn
Vững, Tổng cục II, 2011]. Biển Đông kéo dài từ bờ biển nam Đảo Đài Loan
xuống bờ Bắc Indonexia, có diện tích khoảng 3,5 triệu Km, được 8 quốc gia
bao bọc xung quanh: Phía Bắc giáp Trung Quốc – Đài Loan; Phía Nam giáp
Thái Lan, Malaisia, Indonesia; Tây giáp Việt Nam, campuchia; Đông giáp
philippinnes và Bruney. Biển Đông là vùng biển có một trong số 10 tuyến
đường hàng hải lớn nhất trên thế giới đi qua. Giao thông nhộn nhịp đứng thứ
15
2 thế giới (sau Địa Trung Hải). Hàng ngày có khoảng 200-300 tàu từ 5.000
tấn trở lên qua lại (không kể dưới 5.000 tấn) chiếm 1/4 lưu lượng tàu hoạt
động trên biển của thế giới. Là tuyến đường hàng hải và hàng không huyết
mạch mang tính chiến lược của các nước trong khu vực và thế giới; nối liền
Thái Bình Dương với Ấn Độ Dương, Châu Âu, Trung Đông với Châu Á và
giữa các nước Châu Á với nhau; chuyên chở 1/2 sản lượng dầu thô và các sản
phẩm toàn cầu. Với Mỹ: Là tuyến hoạt động chính của Hạm đội 7, có 90%
hàng hóa của Mỹ và đồng minh chuyên chở qua Biển Đông; với Trung Quốc
hàng năm nhập 160 triệu tấn dầu thì 50% dầu nhập và 70% hàng hóa qua Biển
Đông; với Nhật Bản 70% lượng dầu nhập khẩu và 42% lượng hàng hóa xuất
khẩu chuyên chở qua Biển Đông. Đối với Việt Nam, vùng biển và ven biển
Việt Nam nằm án ngữ trên con đường hàng hải và hàng không huyết mạch
thông thương giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, giữa châu Âu, Trung
Cận Đông với Trung Quốc, Nhật Bản và các nước trong khu vực. Ngoài ra sự
hình thành mạng lưới cảng biển cùng các tuyến đường bộ, đường sắt dọc ven
biển và nối với các vùng sâu trong nội địa (đặc biệt là các tuyến đường xuyên
Á) sẽ cho phép vùng biển và ven biển nước ta có khả năng chuyển tải hàng
hóa nhập khẩu tới mọi miền của Tổ quốc một cách nhanh chóng và thuận lợi.
Cùng với đất liền, vùng biển nước ta là một khu vực giàu tài nguyên thiên
nhiên, một thị trường có sức mua khá lớn, một vùng kinh tế nhiều thập kỷ
phát triển năng động, đó là nơi rất hấp dẫn các thế lực đế quốc, bành trướng
nhiều tham vọng và cũng là nơi rất nhạy cảm trước các biến chuyển trong đời
sống chính trị thế giới.
Biển Việt Nam có tiềm năng tài nguyên phong phú, đặc biệt là dầu mỏ
khí đốt. Tại vùng biển và thềm lục địa Việt Nam đã xác định nhiều bề trầm
tích có triển vọng dầu khí với trữ lượng dự báo khoảng 10 tỉ tấn dầu quy đổi,
trong đó trữ lượng khai thác khoảng 2 tỉ tấn, đặc biệt khí thiên nhiên có tiềm
năng rất lớn. Hiện nay, chúng ta đã phát hiện hàng chục mỏ dầu khí có trữ
lượng khai thác công nghiệp, trong đó đã đưa vào khai thác gần một chục mỏ,
16
hàng năm cung cấp hàng chục triệu tấn dầu và hàng tỷ mét khối khí phục vụ
cho phát triển kinh tế và dân sinh. Ngoài ra còn có các khoáng sản quan trọng
và có tiềm năng lớn như than, sắt, titan, băng cháy, cát thủy tinh, muối và các
loại vật liệu xây dựng khác.
Nguồn lợi hải sản nước ta được đánh giá vào loại phong phú trong khu
vực. Ngoài cá biển là nguồn lợi chính còn có nhiều đặc sản khác có giá trị
kinh tế cao như: tôm cua, mực, hải sâm, rong biển… Riêng cá biển đã phát
hiện hơn 2.000 loài khác nhau, trong đó có trên 100 loài có giá trị kinh tế cao.
Đến nay đã xác định có 15 bãi cá lớn quan trọng, trong đó có 12 bãi cá phân
bổ ở vùng ven bờ và 3 bãi cá ở các gò nổi ngoài khơi. Dọc ven biển còn có
hơn 80 vạn héc-ta bãi triều và các eo vịnh, đầm phá ven bờ rất thuận lợi để
nuôi trồng hải sản có giá trị xuất khẩu cao như tôm, cua, ngọc trai, cá song, cá
mú, rong câu… Với tiềm năng trên, trong tương lai chúng ta có thể phát triển
ngành nuôi trồng hải sản ở biển và ven biển một cách toàn diện và hiện đại
tạo ra nguồn xuất khẩu có kim ngạch lớn và khả năng cạnh tranh cao. Dọc bờ
biển nước ta đã xác định nhiều khu vực có thể xây dựng cảng, trong đó một số
nơi có khả năng xây dựng cảng nước sâu như: Cái Lân và một số điểm ở khu
vực Vịnh Hạ Long và Bái Tử Long, Lạch Huyện, Đình Vũ, Cát Hải, Đồ Sơn,
Nghi Sơn, Cửa Lò, Hòn La, Vũng Áng, Chân Mây, Đà Nẵng, Dung Quất,
Văn Phong, Cam Ranh, Vũng Tàu, Thị Vải… Riêng khu vực Vũng Tàu đến
Hà Tiên do biển nông, nhiều sình lầy nên ít có khả năng xây dựng cảng biển
lớn, nhưng vẫn có thể xây dựng cảng quy mô vừa ở Hòn Chông, Phú Quốc
hoặc cảng sông Cần Thơ. Hiện nay nước ta có trên 100 cảng biển và 10 khu
chuyển tải hàng hóa, sản lượng hàng hóa thông qua hệ thống các cảng biển.
b) Về quốc phòng - an ninh:
Biển nước ta được ví như mặt tiền, sân trước, cửa ngõ quốc gia; biển,
đảo, thềm lục địa và đất liền hình thành phên dậu, chiến lũy nhiều lớp, nhiều
tầng, bố trí thành tuyến phòng thủ liên hoàn bảo vệ Tổ quốc. Lịch sử dân tộc
đã ghi nhận có tới 2/3 cuộc chiến tranh kẻ thù đã sử dụng đường biển để tiến
17
công xâm lược nước ta. Những chiến công hiển hách của cha ông ta trên
chiến trường sông biển đã minh chứng: Ba lần đại thắng quân thù trên sông
Bạch Đằng (năm 938, 981 và 1288; chiến thắng trên phòng tuyến sông Như
Nguyệt năm 1077; chiến thắng Rạch Gầm - Xoài Mút năm 1785 và những
chiến công vang dội của quân và dân ta trên chiến trường sông biển trong hai
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ là những minh chứng
ghi đậm dấu ấn không bao giờ mờ phai trong lịch sử dân tộc.
Ngày nay trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Biển đảo Việt
Nam có vai trò quan trọng, làm tăng chiều sâu phòng thủ đất nước ra hướng
biển. Do đặc điểm lãnh thổ đất liền nước ta có hình chữ S, trải dài ven biển từ
Bắc vào Nam, chiều ngang hẹp (nơi rộng nhất khoảng 600km, nơi hẹp nhất
khoảng 50km), nên chiều sâu phòng thủ đất nước bị hạn chế. Hầu hết các
trung tâm chính trị, kinh tế - xă hội của ta đều năm trong phạm vi cách bờ
biển không lớn, nên rất dễ bị địch tấn công từ hướng biển. Nếu chiến tranh
xảy ra thì mọi mục tiêu trên đất liền đều nằm trong tầm hoạt động, bắn phá
của vũ khí trang bị công nghệ cao xuất phát từ hướng biển. Nếu các quần đảo
xa bờ, gần bờ được củng cố xây dựng thành những căn cứ, vị trí trú đậu, triển
khai của các lực lượng Hải quân Việt Nam và sự tham gia của các lực lượng
khác thì biển, đảo có vai trò rất quan trọng làm tăng chiều sâu phòng thủ hiệu
quả cho đất nước.
Từ nhiều năm nay, nhất là vào những năm đầu thập kỷ 70 của thế kỷ
XX đến nay trên Biển Đông đang tồn tại những tranh chấp biển, đảo rất quyết
liệt và an ninh của nước ta. Trên Biển Đông vùng biển nước ta tiếp giáp với
vùng biển 7 nước trong khu vực là: Trung Quốc (phía Bắc), Campuchia và
Thái Lan (Tây Nam), Philippin, Malaysia, Indonexia, Brunay (phía Đông,
Đông Nam và Nam), nơi đây đang diễn ra những tranh chấp phức tạp và
quyết liệt về chủ quyền giữa các quốc gia, đẩy tới xu hướng tăng cường lực
lượng quân sự, đặc biệt là hải quân của các nước trong khu vực, nhất là những
nước có tiềm lực lớn về kinh tế, quân sự tận dụng ưu thế của mình trên biển
đe dọa chủ quyền trên vùng biển đảo, thềm lục địa của nước ta, gây ra những
18
nhân tố khó lường về sự toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ và an ninh đất nước.
Vươn ra biển, làm giàu từ biển là định hướng đúng đắn phù hợp trong
điều kiện hiện nay. Việt Nam là một quốc gia có biển, một nhân tố mà thế
giới luôn xem như một yếu tố đặc lợi, chúng ta cần tăng cường hơn nữa
những khả năng quản lý, làm chủ vươn ra biển làm động lực thúc đẩy các
vùng khác trong đất liền phát triển. Chúng ta phải có quyết tâm cao, tập trung
huy động mọi tiềm năng và lợi thế của biển, kết hợp chặt chẽ giữa phát triển
kinh tế với củng cố quốc phòng - an ninh trên biển để tạo ra môi trường hòa
bình, ổn định, tạo điều kiện cho các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam và
ngư dân các địa phương yên tâm làm ăn trên các vùng biển, đảo, nhất là ở
vùng biển xa. Việt Nam phải xây dựng Hải quân nhân dân Việt Nam và các
lực lượng vững mạnh, theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và hiện
đại, ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ để quản lý, bảo vệ vững chắc chủ quyền
biển, đảo, thềm lục địa của Tổ quốc.
1.1. 3 Chủ quyền, bảo vệ chủ quyền biển đảo
- Khái niệm chủ quyền biển đảo Việt Nam:
Theo Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982 có qui định:
Chủ quyền là quyền làm chủ tuyệt đối của quốc gia độc lập đối với lãnh
thổ của mình. Chủ quyền của quốc gia ven biển là quyền tối cao của quốc gia
được thực hiện trong phạm vi nội thủy và lãnh hải của quốc gia đó.
Quyền chủ quyền là các quyền của quốc gia ven biển được hưởng
trên cơ sở chủ quyền đối với mọi loại tài nguyên thiên nhiên trong vùng
đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của mình, cũng như đối với những hoạt
động nhằm thăm dò và khai thác vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa
của quốc gia đó vì mục đích kinh tế, bao gồm cả việc sản xuất năng lượng
từ nước, hải lưu, gió...
Quyền tài phán là thẩm quyền riêng biệt của quốc gia ven biển trong
việc đưa ra các quyết định, quy phạm và giám sát việc thực hiện chúng, như:
cấp phép, giải quyết và xử lý đối với một số loại hình hoạt động, các đảo nhân
19
tạo, thiết bị và công trình trên biển, trong đó có việc lắp đặt và sử dụng các
đảo nhân tạo các thiết bị và công trình nghiên cứu khoa học về biển; bảo vệ
và gìn giữ môi trường biển trong vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa của
quốc gia đó.
Quyền chủ quyền có nguồn gốc từ chủ quyền lãnh thổ trong khi quyền
tài phán là hệ quả của quyền chủ quyền, có tác dụng hỗ trợ, tạo ra môi trường
để thực hiện quyền chủ quyền được tốt hơn. Bên cạnh đó, trong khi chủ
quyền và quyền chủ quyền chỉ được thực hiện trên vùng lãnh thổ mà quốc gia
có quyền thì quyền tài phán có không gian mở rộng hơn, tới những nơi mà
quốc gia đó không có chủ quyền (ví dụ quyền tài phán áp dụng trên tàu
thuyền có treo cờ của một quốc gia nhất định đang hoạt động trong vùng biển
thuộc chủ quyền của một quốc gia khác).
- Khái niệm Bảo vệ chủ quyền biển đảo:
Là bảo vệ chủ quyền, các quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia
trên các vùng biển, hải đảo và thềm lục địa của quốc gia phù hợp với luật
pháp quốc tế và nguyên tắc ứng xử của khu vực, biển đảo Việt Nam bất khả
xâm phạm.
1.1.4 Thông tin, thông tin báo chí
Có rất nhiều cách hiểu về thông tin. Thậm chí ngay các từ điển cũng
không thể có một định nghĩa thống nhất. Ví dụ: Từ điển Oxford English
Dictionary thì cho rằng thông tin là " điều mà người ta đánh giá hoặc nói đến;
là tri thức, tin tức" Từ điển khác thì đơn giản đồng nhất thông tin với kiến
thức: "Thông tin là điều mà người ta biết" hoặc "thông tin là sự chuyển giao
tri thức làm tăng thêm sựhiểu biết của con người"... Nguyên nhân của sự khác
nhau trong việc sử dụng thuật ngữ này chính là do thông tin không thể sờ mó
được. Người ta bắt gặp thông tin chỉ trong quá trình hoạt động, thông qua tác
động trừu tượng của nó.
* Khái niệm thông tin
Trong lịch sử tồn tại và phát triển của mình, con người thường xuyên
20
cần đến thông tin. Ngày nay, với sự bùng nổ thông tin, thông tin càng trở
thành một trong những nhu cầu sống còn của con người và khái niệm "thông
tin" đang trở thành khái niệm cơ bản chung của nhiều khoa học.
Khái niệm "thông tin" được bắt nguồn từ chữ La tinh informetio, gốc
của từ tiếng Anh information. Hai ông Philipppe Breton và Serge Proulx
trong cuốn sách "Bùng nổ thông tin và sự ra đời một ý thức hệ mới" [35]
giải thích rằng: Khái niệm này có hai hướng nghĩa: Thứ nhất là, nói về một
hành động cụ thể để tạo ra một hình thái (frome), thứ hai là, nói về sự truyền
đạt một ý tưởng, một khái niệm hay biểu tượng. Hai hướng nghĩa này cùng
tồn tại, một nhằm vào sự tạo lập cụ thể, một nhằm vào sự tạo lập kiến thức và
truyền đạt. Nó thể hiện sự gắn kết của hai lĩnh vực kỹ thuật và kiến thức.
Sau khi nêu ra nghĩa của tiếng Anh, từ nguyên gốc La tinh:
information, được hiểu = quan niệm, hình ảnh, sự lý giải, bài học; informare =
sự tạo hình thức phản ánh, thuật ngữ Báo chí - Truyền thông được tác giả
Phạm Thành Hưng định nghĩa: “Từ góc độ nhận thức luận, thông tin là kết
quả của sự phản ánh hiện thực khách quan, được biểu hiện bằng các hệ thống
ngôn từ, ký hiệu, hình ảnh v.v. Thông tin đồng nghĩa với các hình thái tri thức
mới mẻ, có giá trị phát triển sự hiểu biết của con người. Từ góc độ khoa học
kỹ thuật, thông tin là số liệu, dẫn liệu mà ta có thể lấy ra phân tích, so sánh,
phân loại, giải thích, khái quát, tổ chức lại, từ đó mà rút ra được những ý
nghĩa, giá trị nào đó về tính chất, đặc trưng của các sự vật, hiện tượng nào
đó cũng như các quy luật tồn tại và vận động của chúng”[28]
Theo quan điểm của triết học, thông tin là một hiện tượng vốn có của
vật chất, là thuộc tính khách quan của thế giới vật chất. Nội dung của thông
tin chính là những thuộc tính, tính chất vốn có của sự vật với các sự vật hiện
tượng được bộc lộ ra, thể hiện thông qua tác động qua lại của sự vật ấy với sự
vật khác. Thông tin luôn gắn với quá trình phản ánh. Những dấu ấn để lại
chính là những thông tin của hệ thống vật chất này đối với hệ thống vật chất
khác. Phản ánh của vật chất là phản ánh thông tin, không có thông tin chung
21
chung mà thông tin là thông tin về sự vật này đối với sự vật khác.
Theo các tác giả cuốn “Cơ sở lý luận báo chí”, do Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh, Phân viện Báo chí và Tuyên truyền, Nhà xuất bản van
hóa - Thông tin xuất bản năm 1999, từ “Thông tin” được sử dụng với những ý
nghĩa khác nhau trong các tình huống cụ thể: “Thông tin là một loại hình hoạt
động để chuyển đi các nội dung thông báo. Hoạt động thông tin không chỉ có
trong xã hội loài người. Ngay trong thiên nhiên cũng có những hoạt động
thông tin phức tạp, đa dạng của các loại động vật khác nhau; Thông tin được
dùng để chỉ chất lượng nội dung của thông báo nói chung. Trong trường hợp
này, người ta xem xét chất lượng nội dung thông báo bằng “lượng thông tin”
được chuyển đến đối tượng tiếp nhận”[45, tr.23]
Nhà xã hội học Mỹ Mác Luhan có quan niệm về thông tin chính là
thông điệp nhưng giá trị của nó phụ thuộc vào phương tiện chuyển tải:
"Thông tin là một thông điệp chỉ có giá trị tuỳ theo loại phương tiện truyền
thông đã truyền đạt nó"[32, tr.12]
Từ điển tiếng Việt định nghĩa: "Thông tin với nghĩa động từ là
truyền tin cho nhau để biết; và với nghĩa danh từ là điều được truyền đi
cho biết, tin truyền đi (ví dụ bài báo có lượng thông tin cao) [50] .
Như vậy, thông tin được hiểu theo hai nghĩa: Thứ nhất, đó chính là nội
dung thông tin; Thứ hai, đó là phương tiện chuyển tải, thông báo, báo tin.
Chiến lược phát triển thông tin đến năm 2010 của Thủ tướng Chính phủ
đã nêu khái niệm: "Thông tin được coi là một nhu cầu thiết yếu trong đời
sống xã hội, là công cụ để điều hành, quản lý, chỉ đạo của mỗi quốc gia, là
phương tiện hữu hiệu để mở rộng giao lưu hiểu biết giữa các quốc gia, dân
tộc, là nguồn cung cấp tri thức mọi mặt cho công chúng và là nguồn lực phát
triển kinh tế - xã hội". Chiến lược phát triển thông tin của Thủ tướng Chính
phủ đã nhận định: Sự chênh lệch về trình độ phát triển thông tin giữa các
nước là một đặc điểm về quy mô và trình độ phát triển trong thời kỳ cách
mạng khoa học và công nghệ. Nước nào không vượt qua được những thách
22
thức về thông tin, nước đó mất cơ hội phát triển và có nguy cơ mất khả năng
tự chủ. Thiếu thông tin, sẽ gặp khó khăn trong việc đưa ra các quyết định
hoặc các quyết định sẽ bị sai lệch, thiếu cơ sở khoa học, không thực tiễn và
trở nên kém hiệu quả.
* Thông tin báo chí
Trong tiến trình phát triển của lịch sử văn hoá nhân loại, báo chí là một
hiện tượng xã hội, ra đời do nhu cầu thông tin giao tiếp, giải trí và nhận thức
của con người. Thông tin là một hiện tượng vốn có của thế giới vật chất. Lần
đầu tiên thông tin được con người chú ý nghiên cứu về mặt ý nghĩa xã hội của
nó và được đề cập đến trong lý thuyết báo chí vào những năm 20 - 30 của thế
kỷ XX. Theo cách hiểu kinh điển thì "Thông tin chính là những cái mới khác
với những điều đã biết" [25].
Theo tác giả E.P.Prôkhôrốp viết trong cuốn "Cơ sở lý luận của báo
chí" ấn hành năm 2001, hiện đang làm giáo trình giảng dạy cho sinh viên
ngành báo chí của các trường đạo học và cao đẳng ở Nga: "Từ "Thông tin"
trong ngành báo chí cũng được sử dụng theo nhiều nghĩa, từ lâu nó đã được
dùng trong ba nghĩa có quan hệ mật thiết với nhau: đó là các thông báo ngắn
không bình chú về các tin tức nóng hổi của đời sống trong nước và quốc tế; là
danh mục nhóm thể loại tin tức (các loại hình thông tin: tin ngắn, báo cáo,
tường thuật, phỏng vấn); cuối cùng "Thông tin" đôi khi được hiểu là thể loại
tin ngắn"[20, tr.26].
Theo quan niệm của tác giả Phạm Thành Hưng, trong cuốn “Thuật
ngữ Báo chí -Truyền thông”: “Trong báo chí học và nghiên cứu truyền
thông, thông tin đồng nghĩa với những số liệu, kết luận hàm súc, có một hình
thức dường như không cần bình luận, bàn cãi về các sự kiện, hiện tượng, vấn
đề xã hội cụ thể” [28].
Thông tin là chức năng sơ khởi của báo chí, theo nghĩa sử dụng phương
tiện kỹ thuật để phổ biến kết quả lao động sáng tạo của nhà báo. Thực hiện
chức năng thông tin, báo chí cung cấp cho công chúng về tất cả các vấn đề, sự
kiện của đời sống xã hội, đáp ứng nhu cầu khám phá, tìm hiểu thế giới tự
23
nhiên, xã hội.
Trong một thế giới hiện thực chứa đầy lượng thông tin, báo chí có cách
riêng của mình để phản ánh hiện thực với mục đích tác động tới nhiều tầng lớp
xã hội với những mối quan tâm, sở thích và nhu cầu khác nhau. Chính điều đó
đã khiến cho báo chí trở thành một hoạt động thông tin đại chúng rộng rãi và
năng động nhất mà không một hình thái ý thức xã hội nào có được.
Như vậy, khái quát lại thông tin báo chí cũng được hiểu theo hai nghĩa:
Thứ nhất, đó là tri thức, tư tưởng do nhà báo tái tạo và sáng tạo từ
hiện thực cuộc sống. Tất cả những vấn đề, sự kiện, hiện tượng trong tự nhiên
và xã hội được báo chí phản ánh nhằm phục vụ nhu cầu tìm hiểu, khám phá
của con người.
Thứ hai, đó là phương tiện, công cụ chuyển tải tác phẩm báo chí tới
công chúng.
Trong hoạt động báo chí, thông tin là công cụ chủ yếu để nhà báo thực
hiện mục đích của mình. Thông tin trở thành "cầu nối" giữa báo chí và công
chúng. Căn cứ việc phân loại theo phương thức thể hiện, người ta chia thông
tin báo chí thành các loại hình: Thông tin bằng chữ viết (báo in); thông tin
bằng tiếng nói (phát thanh); thông tin bằng hình ảnh (truyền hình); thông tin
trên mạng internet (đa phương tiện).
Trong thực tiễn báo chí, thuật ngữ "Thông tin" có nhiều cách sử dụng
khác nhau, có khi chỉ là cái tin vắn, tin ngắn, bài bình luận, phóng sự, phỏng
vấn, một chương trình phát thanh, truyền hình, các tiêu đề, vị trí của tác phẩm
trên các cột báo, giọng đọc của phát thanh viên, các cỡ chữ hay cách xếp chữ
trên các tờ báo...chúng đều có chứa đựng thông tin.
Thuật ngữ "Thông tin" trong hoạt động báo chí còn có có cách hiểu
rộng hơn, chúng còn được hiểu như một danh từ tập hợp. Chúng ta có thể gọi
toàn bộ tác phẩm, hay hệ thống những tin tức... là thông tin.
Thông tin báo chí là dạng thông tin xã hội đặc thù, mang tính thời sự,
phổ cập và rất quan trọng về phương diện chính trị - xã hội. Để xã hội loài
24
người tồn tại và phát triển, con người cần nhiều loại hoạt động như sản xuất
của cải vật chất để duy trì sự sống, sáng tạo nghệ thuật để thỏa mãn tinh thần.
Một phần của sự hoạt động đó là hoạt động báo chí nhằm cung cấp cho công
chúng những thông tin, tức là thông báo cho công chúng biết mọi sự kiện,
hiện tượng diễn ra hàng ngày trong đời sống xã hội. "Nhưng thông tin báo chí
là những thông tin chính trị - xã hội. Nghĩa là thông tin báo chí bao giờ cũng
chứa đựng những giá trị xã hội hay chính trị. Thông tin là đặc trưng của
ngành truyền thông đại chúng so với các ngành khác"[43, tr.51, 52].
Thông tin báo chí được hiểu theo nghĩa rộng, hàm chứa cả những tin
tức về các lĩnh vực khác của đời sống kinh tế - xã hội. Trong một xã hội có
giai cấp, các quá trình kinh tế, xã hội, tinh thần đều có nội dung giai cấp và
được quản lý với ý thức về lợi ích của giai cấp thống trị chính trị. Do đó,
thông tin về các quá trình đó cũng mang tính khuynh hướng chính trị và được
sử dụng như một thứ công cụ, phương tiện nhằm tác động vào xã hội để thực
hiện các mục tiêu đã định trước.
Ngày nay ai cũng biết con người cần thông tin về nhiều mặt, nhiều lĩnh
vực, nhất là thông tin về sự kiện chính trị và kinh tế xã hội. Xã hội có dân trí
là xã hội có thông tin báo chí phong phú. Xã hội hiện đại, dân trí cao, dân chủ
tốt thì tất yếu kinh phí chi cho dịch vụ thông tin báo chí phải chiểm tỷ lệ lớn
trong tổng kinh phí của đất nước. Xuất phát từ quan điểm này, tác giả Nguyễn
Uyển đã viết trong cuốn "Nghề nghiệp và công việc của nhà báo" của Hội
Nhà báo Việt Nam, Hà Nội, 1992": "Dịch vụ thông tin là tối cần thiết, vì ở
quốc gia nào cũng vậy, thông tin là của cải, là tài nguyên, là hàng hoá, là trí
tuệ và quyền uy của Nhà nước. Ai nắm quyền thông tin thì người đó nắm
quyền uy".
Đảng và Nhà nước ta hết sức coi trọng và đánh giá cao vai trò của
thông tin. Đây không chỉ là phương tiện cung cấp thông tin, cung cấp tri thức,
là một trong những công cụ giúp cho công tác chỉ đạo, điều hành đất nước mà
còn là nơi để phản hồi những thông tin từ nhân dân đối với đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, góp phần quan trọng
25
thực hiện dân chủ hoá trong đời sống xã hội. Thông tin thực sự là công cụ
cung cấp tri thức, dự báo sự phát triển đồng thời cũng là động lực thúc đẩy sự
phát triển. Đời sống nhân dân được cải thiện, trình độ dân trí ngày càng được
nâng cao nên nhu cầu thông tin của nhân dân đòi hỏi ngày càng cao hơn.
a) Tiêu chí đánh giá chất lượng thông tin báo chí
Chất lượng là cái tạo nên phẩm chất, giá trị của một con người, một sự
vật [50]. Chất lượng theo quan điểm của Triết học Mác - Lênin, đó là hai mặt
có mối quan hệ biện chứng của mỗi sự vật, hiện tượng. Chất là tính quy định
vốn có của các sự vật và hiện tượng, là sự thống nhất hữu cơ những thuộc
tính, những yếu tố cấu thành sự vật, nó lên sự vật đó là gì, phân biệt nó với
các sự vật và hiện tượng khác. Lượng là tính quy định của sự vật và hiện
tượng về mặt quy mô, trình độ phát triển của nó, biểu thị con số các thuộc
tính, các yếu tố cấu thành nó. Quá trình thay đổi về của lượng tạo điều kiện
cho chất đổi và ngược lại, khi chất mới ra đời, nó lại tạo ra một lượng mới
phù hợp với nó. Quy luật những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về
chất và ngược lại là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy
vật. Quy luật này nói lên cách thức của sự vận động và phát triển của sự vật
và hiện tượng.
Trong hoạt động báo chí, nhận thức về chất lượng thông tin song song
với nhận thức về chức năng và đối tượng phản ánh của báo chí. Muốn có sự
nhận thức đúng đắn về thông tin, cần xác định được mục đích hoạt động của
báo chí, đồng thời phải nêu lên định hướng có tính nguyên tắc cho những hoạt
động thực tiễn của một nền báo chí. Sự định hướng rõ ràng sẽ trang bị cho
nhà báo phương pháp thông tin và biết cách vận dụng thông tin có hiệu quả để
thực hiện chức năng của báo chí. Một hướng quan trọng trong cách tiếp cận
thông tin báo chí là mỗi chương trình, mỗi tác phẩm phải được xem xét kỹ
lưỡng trong hệ thống những mối quan hệ giữa báo chí và công chúng. Tác
phẩm báo chí là điểm trung gian trong mối quan hệ: Nhà báo - Tác phẩm -
Công chúng. Tác phẩm báo chí khi được đăng tải, phát sóng, mới chỉ dừng lại
26
ở thông tin tiềm năng, vì thông tin đó chưa chắc đã được công chúng tiếp
nhận. Người làm báo phải tìm mọi cách biến thông tin tiềm năng thành thông
tin hiện thực. Tính chất thực tiễn của thông tin là tiêu chuẩn để đánh giá giá
trị của thông tin cao hay thấp, tức là có mang đến cho công chúng những
thông tin phù hợp với nhu cầu của họ không và có khả năng chuyển thông tin
tiềm năng thành thông tin hiện thực không.
Lý luận báo chí truyền thông đã chỉ ra các tiêu chí đánh giá chất lượng
thông tin, đó là tính độc đáo, tính đại chúng và tính hợp thời (đúng lúc).
* Tính độc đáo của thông tin, là cái mới mà công chúng chưa biết.
Nhưng cái mới không phải là cái duy nhất thể hiện tính độc đáo. Cùng với sự
đòi hỏi tất yếu của cái mới, có thể tái hiện thông tin cũ đã bị lãng quên, giúp
cho công chúng có thêm tư liệu để nhận thức tốt hơn sự kiện mới. Tuy nhiên,
những thông tin được nhắc lại sẽ vô bổ, thậm chí có hại khi cái mới, cái độc
đáo bị chìm đi trong một loạt cái cũ; khi cái cũ không đóng vai trò bổ sung
mà lại cản trở việc nhận thức cái mới.
* Tính đại chúng (dễ hiểu): Để công chúng nhận thức nội dung tác
phẩm tương ứng với ý đồ tác giả, đòi hỏi ngôn ngữ của báo chí (cách viết,
cách thể hiện...) phải được công chúng nhận thức đầy đủ. Nếu không thực
hiện được nguyên tắc tính đại chúng của ngôn ngữ sẽ dẫn đến tình trạng là
công chúng không hiểu được tác phẩm.
* Tính hợp thời (đúng lúc): Những tác phẩm báo chí xuất hiện đúng lúc,
đáp ứng được nhu cầu của công chúng và sự quan tâm của họ trong thời điểm
đó thì tác phẩm sẽ có giá trị hơn, tạo sự hứng thú, hấp dẫn công chúng. Lượng
thông tin còn phụ thuộc vào tính thời điểm của nó. Trong thời đại ngày nay,
lượng thông tin phụ thuộc một cách quyết định vào tính kịp thời, đúng lúc,
nhanh nhạy. Báo chí làm được những điều trên sẽ làm tăng giá trị của thông tin,
nếu thông tin chậm, hiệu quả sẽ ngược lại và lượng của nó sẽ bằng không.
Là sự phản ánh hiện thực, thông tin có nội dung khách quan đồng thời
lại mang tính chủ quan. Do vậy, việc sử dụng thông tin vào hoạt động truyền
27
thông đại chúng cũng như việc tiếp nhận thông tin ở mỗi người đều không
diễn ra một cách thụ động mà phải có sự kiểm định, xử lý lại thông tin.
Những thông tin chính xác, khách quan, đầy đủ, trung thực sẽ được sử dụng,
tiếp nhận. Ngược lại, những thông tin giả dối, ngụy tạo, phiến diện sẽ bị loại
bỏ, phủ nhận. Tiêu chí đánh giá một thông tin tốt là: khách quan, chính xác,
đầy đủ, kịp thời, thích hợp và bất ngờ. Trong các tiêu chí đó, kịp thời và bất
ngờ là hai yếu tố tạo nên mặt đặc thù của thông tin báo chí. Yếu tố kịp thời
tạo nên tính thời sự. Yếu tố bất ngờ tạo nên sự quý hiếm của thông tin báo
chí. Có nhiều luận thuyết thống nhất cho rằng: giá trị của tin tức tỷ lệ nghịch
với tần số xuất hiện của sự kiện, hiện tượng, điều gì càng ít xảy ra, tin tức về
nó càng trở lên quý hiếm, có giá. Lý thuyết này cũng bị bác bỏ, vì nó chỉ phù
hợp nhất với dạng tin giật gân, câu khách trong nghề báo.
Tiêu chí đánh giá tác phẩm báo chí chất lượng cao, được các cơ quan
quản lý nhà nước nghiên cứu quy định cụ thể, đó là: "Những tác phẩm mang
lại hiệu quả thiết thực cho toàn xã hội hoặc một vùng miền, địa phương; có
nhiều tìm tòi, phát hiện những vấn đề mới nảy sinh trong cuộc sống hàng
ngày; có nội dung phù hợp, hấp dẫn người đọc, người nghe, người xem; phù
hợp với quan điểm chỉ đạo, tuyên truyền, đường lối, chủ trương chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nước" [30].
Cơ sở lý luận báo chí truyền thông cũng chỉ ra rằng, tác phẩm báo chí
là một chỉnh thể, bao gồm hai yếu tố nội dung và hình thức. Hai yếu tố này có
mối quan hệ biện chứng, gắn bó hữu cơ, chi phối lẫn nhau tạo nên chất lượng
tác phẩm báo chí. Tác phẩm báo chí còn được hiểu rộng hơn, đó là cả trang
báo, số báo, tờ báo, chuyên mục, chương trình phát thanh, truyền hình...Do đó
tiêu chí đánh giá chất lượng thông tin báo chí phải coi trọng cả hai yếu tố nội
dung và hình thức thông tin.
Hoạt động báo chí là hoạt động có ý thức và mục đích của con người,
bởi vậy yêu cầu về tính hiệu quả báo chí phải được đặt lên hàng đầu. Hiệu quả
báo chí là việc vận dụng các quy luật, các nguyên tắc, hình thức, phương thức
28
hoạt động báo chí giúp cho nó thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình
nhằm đạt mục đích đặt ra. Để báo chí hoạt động hiệu quả, trước hết nội dung
phải hay, phải súc tích và hình thức thể hiện phải hấp dẫn.
- Về nội dung phải phong phú, mang lại cho công chúng một lượng
thông tin mới, phản ánh đúng, kịp thời, đi vào những vấn đề thiết thực nhất
mà công chúng đang quan tâm hoặc đang thiếu thông tin.
- Về hình thức, phải thỏa mãn nhu cầu mỹ cảm, tác động sâu sắc đến
tình cảm và suy nghĩ của đối tượng. Thông tin báo chí phải được chuyển tải
bằng các hình thức, phương pháp thể hiện thuyết phục, dễ hiểu. Nó không chỉ
làm cho công chúng thích thú mà còn khơi gợi được sự suy nghĩ theo hướng
đúng và thúc đẩy hành động tích cực của họ.
b) Nâng cao chất lượng thông tin báo chí
Nghiên cứu khái niệm thông tin báo chí được đặt trong mối quan hệ
trực tiếp với vấn đề hiệu quả báo chí, tức là ảnh hưởng trực tiếp của thông tin
đối với công chúng, hướng dẫn nhận thức để họ có hành động đúng đắn.
Nâng cao chất lượng báo chí trong đời sống xã hội, mục tiêu cuối cùng là
quan tâm tới tính hiệu quả của thông tin. Hiệu quả của thông tin báo chí khi
được phát huy sẽ trở thành một sức mạnh to lớn, góp phần hình thành dư luận
xã hội, xây dựng hệ tư tưởng chủ đạo của xã hội, biến nhận thức thành hành
động theo chiều hướng tích cực để góp phần cải tạo và xây dựng một xã hội
tốt đẹp.
Thực trạng thông tin báo chí ở nước ta trong những năm qua, bên cạnh
những tác dụng tích cực về tính chất, nội dung, hình thức và loại hình, thì tình
trạng thiếu cân đối, vừa có sự chồng chéo về nội dung và phân bố lại vừa có
sự thiếu hụt ở một số lĩnh vực và địa bàn. Nhu cầu thông tin của một bộ phận
nhân dân chưa được đáp ứng đầy đủ, mức độ thụ hưởng thông tin của các
tầng lớp nhân dân không đồng đều. "Ở một số lĩnh vực thông tin còn nặng yếu
tố phổ biến, truyền đạt, tính hai chiều và tính diễn đàn chưa được phát huy.
Mặt trái của cơ chế thị trường đã có những tác động tiêu cực, làm nảy sinh
hiện tượng giật gân, câu khách, không phù hợp với định hướng tư tưởng,
29
chính trị và truyền thống văn hoá dân tộc" [48].
Việc nâng cao chất lượng thông tin báo chí xuất phát từ yêu cầu tự thân
của hoạt động báo chí. Đặc biệt yêu cầu này càng thêm bức thiết, nhất là trong
thời đại bùng nổ thông tin và bối cảnh quốc tế và trong nước tạo ra thời cơ
lớn, đồng thời cũng đặt ra những thách thức hết sức gay gắt cho lĩnh vực
thông tin nước ta hiện nay. Chiến lược phát triển thông tin đến năm 2010 ở
nước ta được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt theo Quyết định số
219/2005/QQĐ - TTg, ngày 9/9/2005 nêu quan điểm định hướng quan trọng:
Tất cả các loại hình thông tin báo chí đều hướng tới một mục tiêu chất lượng
cao, coi trọng chất lượng chính trị, chất lượng văn hoá, chất lượng khoa học
và chất lượng nghiệp vụ của thông tin. Thông tin phải đảm bảo tính chân thật,
tính giáo dục, tính nhân dân, tính chiến đấu, phù hợp với lợi ích của đất nước
và của nhân dân; phải góp phần quan trọng trong việc cung cấp tri thức, nâng
cao dân trí, hình thành và định hướng dư luận xã hội lành mạnh; tăng cường
sự đoàn kết, nhất trí về tư tưởng chính trị và tinh thần trong nhân dân; biểu
dương các nhân tố mới điển hình tiên tiến; tích cực đấu tranh phê phán các
quan điểm sai trái, thù địch, đấu tranh chống tiêu cực, tham nhũng và các tệ
nạn xã hội; giữ gìn và phát huy truyền thống văn hóa dân tộc, tiếp thu văn hoá
nhân loại. Thông tin phải thực sự đi trước một bước, vừa làm tốt việc dự báo,
định hướng phát triển xã hội, đồng thời phải là nguồn lực thức đẩy sự phát
triển xã hội.
Như vậy, việc nâng cao chất lượng thông tin báo chí là nâng cao chất
lượng nội dung, tăng hàm lượng thông tin của tác phẩm báo chí, đồng thời đổi
mới mạnh mẽ cách tiếp cận và phương thức thể hiện thông tin.
* Về nội dung:
- Góp phần thực hiện công tác tư tưởng, văn hoá theo đường lối của
Đảng, Nhà nước. Nội dung thông tin phải theo cả hai chiều từ Đảng, Nhà
nước, các tổ chức xã hội đến nhân dân và ngược lại từ nhân dân tới các cấp
30
lãnh đạo, các cơ quan quản lý, điều hành đất nước.
- Các sự kiện, hiện tượng, quá trình, nhân vật... mà báo chí thông tin
đến công chúng phải thực sự là thông tin cần thiết, có chọn lọc, với số lượng
và chất lượng thoả đáng, qua đó hướng dẫn dư luận, thúc đẩy hành động cách
mạng của quần chúng, đáp ứng những yêu cầu theo từng giai đoạn của công
tác tư tưởng của Đảng.
- Góp phần nâng cao năng lực hoạt động thực tiễn của mỗi đối tượng
tiếp nhận nhằm thực hiện tốt những nhiệm vụ cách mạng trong từng thời kỳ
xây dựng và phát triển đất nước.
- Giáo dục ý thức xã hội, quan điểm cách mạng theo tinh thần đổi mới
của Đảng, nâng cao tính tự giác, tích cực trong việc xây dựng và cải tạo xã
hội, tôn trọng pháp luật và có lối sống lành mạnh.
- Đẩy lùi, hạn chế tiêu cực, tệ nạn xã hội... đấu tranh chống các thế lực
thù địch trong và ngoài nước.
- Làm cho nhân dân thế giới hiểu biết về Việt Nam và ngược lại, thúc
đẩy quá trình hợp tác quốc tế theo hướng độc lập dân tộc, dân chủ, hoà bình
ổn định, hợp tác cùng có lợi và tiến bộ xã hội.
* Về hình thức:
- Mỗi cơ quan báo chí cần tạo cho mình một phong cách riêng, một bản
sắc khu biệt với các cơ quan báo chí khác.
- Các yếu tố hình thức như trình bày, kết cấu, cách sử dụng ngôn ngữ,
âm thanh, hình ảnh, đồ họa, màu sắc, cần được vận dụng trên cơ sở phù hợp
với nội dung thông tin, để tạo bản sắc và tính hấp dẫn của tác phẩm báo chí.
- Xây dựng hệ thống chuyên mục phù hợp, sử dụng có hiệu quả các thể
loại báo chí để tạo sự phong phú, sinh động, hấp dẫn.
- Kỹ thuật in ấn, phát sóng, trang thiết bị cần hiện đại và đồng bộ; khâu
phát hành đảm bảo nhanh, kịp thời và đúng đối tượng phục vụ.
Việc thể hiện bài viết cho sinh động, hấp dẫn không phải chỉ là vấn đề
thể hiện, mà có vai trò rất quyết định, có ý nghĩa quan trọng trong việc chuyển
31
tải nội dung thông tin. Trong lời tâm sự của Bác Hồ khi học tập nghề báo, Bác
đã nói: "Chớ viết khô khan quá. Phải viết cho văn chương. Vì ngày trước
khác, người đọc báo chỉ muốn biết những việc thật. Còn bây giờ khác, sinh
hoạt đã cao hơn, người ta thấy hay, thấy lạ, thấy văn chương thì mới thích
đọc"[3, tr.107,108]. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, phải chống lại bệnh "dài
dòng", "rỗng tuyếch", "cầu kỳ", "khô khan". "Thấy hay, thấy lạ, thấy văn
chương" như Bác Hồ đã nói, không phải sa vào chủ nghĩa hình thức, mà chính
là làm cho bài báo hấp dẫn, đáp ứng được yêu cầu của bạn đọc. Trong thư gửi
lớp học viết báo Huỳnh Thúc Kháng tháng 5/1949, Hồ Chủ tịch căn dặn: "Đối
tượng của tờ báo là đại đa số dân chúng; một tờ báo không được đại đa số
ham chuộng thì không xứng đáng là một tờ báo. Muốn dân chúng ham
chuộng, coi tờ báo ấy là của mình thì:
Nội dung tức là các bài viết phải giản đơn, dễ hiểu, phổ thông thiết
thực hoạt bát. Và:
Hình thức tức là cách sắp đặt các bài, cách in phải sạch sẽ, sáng
sủa"[31, tr.625, 626].
V.I. Lênin cũng đã chỉ rõ: "Tính chất đơn điệu và sự chậm chễ đều
không hợp với nghề báo"[43, tr.188]. Đây cũng là những nhân tố quan trọng
ảnh hưởng tới sức lôi cuốn, hấp dẫn của báo chí.
Tóm lại, hiệu quả báo chí phụ thuộc vào việc nâng cao chất lượng
thông tin báo chí. Nâng cao chất lượng báo chí trong đời sống xã hội, mục
tiêu cuối cùng là tính hiệu quả của thông tin. Muốn nâng cao hiệu quả báo chí
phải tăng cường sự hợp tác giữa các bộ phận, các yếu tố nội dung và hình
thức của tác phẩm báo chí. Hiệu quả báo chí còn phụ thuộc vào sức hấp dẫn
của việc truyền thông tin, cách thể hiện thông tin. Cho nên, bên cạnh việc
nâng cao chất lượng nội dung, tăng cường hàm lượng thông tin, việc lựa chọn
những phương thức chuyển tải phù hợp và hình thức biểu hiện thông tin một
cách sinh động, gây được những xúc cảm tốt cũng là yêu cầu cần thiết đối với
báo chí, làm cho báo chí phát huy tác dụng thực sự trong việc hướng dẫn dư
32
luận và đáp ứng nhu cầu thông tin của công chúng.
Ngày 31/01/2008, tại Hà Nội, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã có buổi
Gặp gỡ Báo chí Xuân Mậu Tý 2008, do Văn phòng Chính phủ tổ chức. Thủ
tướng yêu cầu báo chí trong điều kiện cạnh tranh thông tin quyết liệt phải cố
gắng vươn lên, cung cấp thông tin mau lẹ, kịp thời, chính xác, sắc sảo, đáp
ứng nhu cầu thông tin của nhân dân, phục vụ sự điều hành của Chính phủ.
Thủ tướng mong muốn: "Thời gian tới, báo chí nước nhà có nhiều tin, bài
phong phú về thể loại, nội dung có giá trị cao hơn, đi vào lòng người, góp
phần định hướng, điều chỉnh hành vi xã hội của người dân cũng như định
hướng dư luận xã hội. Báo chí phát triển nhanh về số lượng song cũng phải
đáp ứng tốt yêu cầu về chất lượng, đủ sức cạnh tranh và có uy tín trong và
ngoài nước. Báo chí không được tự mãn với kết quả đạt được mà phải không
ngừng nâng cao chất lượng thông tin hơn nữa, có tác dụng chính trị, xã hội
tốt hơn"[Bộ TTTT, Website BCVT & CNTT, ngày 01/02/2008].
1.2. Đặc trƣng, thế mạnh của báo in trong thông tin bảo vệ chủ
quyền biển đảo
Từ khi tờ báo đầu tiên ra đời cho đến nay, trải qua hơn 4 thế kỷ tồn tại,
báo chí đã trở thành phương tiện truyền tải thông tin quan trọng bậc nhất
trong hệ thống phương tiện thông tin đại chúng. Báo chí trở thành món ăn tinh
thần không thể thiếu được của con người. Ở nước ta, báo chí đã có những
đóng góp quan trọng trong việc nâng cao dân trí, hun đúc tinh thần yêu nước,
lòng tự cường dân tộc, động viên ý thức trách nhiệm của công dân. Trong
cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do cho dân tộc, báo chí luôn là công cụ, là vũ
khí sắc bén được Đảng và nhà nước sử dụng tích cực nhằm động viên sức
người, sức của, giải quyết các nhiệm vụ đấu tranh cách mạng. Bước vào thời
kỳ xây dựng và phát triển đất nước, cùng với các loại hình báo chí nói chung,
báo in là một công cụ có hiệu quả, là vũ khí đấu tranh mạnh mẽ chống các
hiện tượng, hành vi bảo thủ tiêu cực, tham nhũng…động viên và góp phần
hình thành các phong trào cách mạng để thực hiện các mục tiêu chiến lược
33
trong xây dựng và bảo vệ đất nước. Đặc biệt trong gần 30 năm đổi mới, báo
chí đã có sự phát triển mạnh mẽ, góp phần kiến tạo nên bầu không khí dân
chủ trong đời sống xã hội.
Theo báo cáo tháng 6/2013 của Bộ thông tin và truyền thông; 815 cơ
quan báo in, 1084 ấn phẩm; 67 đài phát thanh, truyền hình; 75 báo và tạp chí
điện tử; 1.110 trang thông tin điện tử (>300 trang của cơ quan báo chí); 382
mạng xã hội trực tuyến đăng ký hoạt động. Sóng phát thanh phủ kín 97,5%
diện tích lãnh thổ và có trên 85% dân số cả nước xem truyền hình Việt Nam.
Trong thời gian qua, vấn đề thông tin BĐ được Đảng và nhà nước ta
hết sức quan tâm và chú trọng. Các cơ quan báo chí của nhà nước đã làm rất
tốt vai trò thông tin BĐ của mình. Trong các loại hình báo chí, mỗi loại hình
đều có vị trí, đặc trưng, thế mạnh và lợi thế riêng. Song dưới góc độ truyền
thông đại chúng ở Việt Nam, báo in vẫn có nhiều ưu điểm.
Báo in chuyển tải nội dung thông tin thông qua văn bản bao gồm chữ
in, hình vẽ, tranh ảnh, sơ đồ, biểu đồ,… Toàn bộ nội dung thông tin của báo
in xuất hiện đồng thời ngay trước mắt độc giả. Việc tiếp nhận thông tin của
công chúng đối với báo in chỉ qua thị giác, giác quan quan trọng nhất của con
người trong mối quan hệ với thế giới xung quanh. Chính vì vậy báo in có
những đặc thù sau:
Thứ nhất, người đọc hoàn toàn chủ động trong việc tiếp nhận thông tin
từ báo in. Việc tiếp nhận thông tin thông qua việc bố trí thời điểm đọc, cách đọc,
tốc độ đọc… Tùy vào thời gian rảnh rỗi của mỗi người mà có thể đọc báo bất cứ
lúc nào, khác với phát thanh và truyền hình, người nghe có thể nghe bất cứ lúc
nào nhưng thông tin không được rõ vì có thể nghe đoạn cuối nói nhưng không
nghe đoạn đầu nên rất dễ gây hiểu lầm cho người nghe. Mặt khác, người đọc có
thể đọc tùy hứng, đọc chậm rãi hay lướt qua, hoặc chú tâm vào các chi tiết, còn
với phát thanh, truyền hình tùy vào việc đưa thông tin và cách đọc của biên tập
viên. Nghĩa là người nghe, xem phụ thuộc vào biên tập viên.
Bên cạnh đó, người đọc có thể lướt nhanh để nắm bắt thông tin và lựa
34
chọn thông tin nào mình nên đọc trước và người đọc cũng có thể đọc theo sở
thích của mình. Đây là điều mà báo mạng điện tử đang cố gắng phát huy.
Điều này tạo cho báo in có khả năng thông tin những nội dung phức tạp và
sâu sắc hơn.
Thứ hai, báo in có khả năng lưu trữ thông tin lâu. Việc tiếp nhận thông
tin từ báo in so với các loại hình báo chí khác là hoàn toàn chủ động, vì vậy
đòi hỏi người đọc phải tập trung cao độ, phải huy động sự làm việc tích cực
của trí não nếu không sẽ không lưu lại được thông tin mình vừa đọc là gì và
nó như thế nào. Hơn nữa, nguồn thông tin từ báo in đảm bảo sự chính xác và
độ xác định cao. Dù thông tin chậm hơn so với các loại hình báo chí khác
nhưng đảm bảo sự chính xác về thông tin vì đã được kiểm định. Mặt khác,
báo in còn trở thành nguồn tài liệu quý giá đối với người đọc vì những thông
tin mà người đọc lưu trữ trong trí não. Báo in có thể làm tài liệu, minh chứng
cho các công trình nghiên cứu khoa học. Do vậy độc giả vẫn tìm đến với báo
in trong sự phát triển mạnh mẽ của các phương tiện truyền thông mới bởi báo
in có khả năng lưu trữ thông tin cao. Khi người đọc, tiếp nhận thông tin qua
mắt nhưng đồng thời với đó là trí não hoạt động, tập trung mọi ỹ nghĩ vào
trong tờ báo để tiếp nhận thông tin. Như phát thanh hay truyền hình thì
thính giả và khán giả chỉ có thể xem khi không tập trung mọi giác quan, trí
não của mình thì những chi tiết, nội dung thông tin chuyển đến người đọc là
không hiệu quả và không lưu lại được trong trí não.
Cũng giống như sách, khi ta đọc một cuốn sách, những chi tiết trong
cuốn sách, những tình huống, câu chuyện hấp dẫn người đọc. Thì ta chăm chú
đọc và suy ngẫm và lưu lại trong trí não của người đọc và có thể kể lại những
gì mình vừa đọc hoặc tóm lược lại nội dung câu chuyện cho người khác nghe
bằng ngôn ngữ của mình. Thì báo in cũng vậy, khi bạn tiếp nhận một thông
tin từ báo in, bạn cũng có thể truyền đạt lại thông tin ấy một cách chi tiết, cụ
thể, sinh động cho người khác nghe thông qua những cử chỉ, điệu bộ của
mình để thu hút sự lắng nghe, quan tâm của người khác. Điều này là hơn hẳn
35
với các loại hình báo chí khác.
Thứ ba, báo in có khả năng phân tích, bình luận, lý giải sâu rộng đầy
đủ các vấn đề, sự kiện. Đây là một thế mạnh mà có thể nói đặc trưng nhất của
báo in mà đến nay không loại hình báo chí nào có thể làm được điều này, kể
cả báo mạng điện tử. Chính lợi thế này mà nó đã giúp báo in đứng vứng và
cạnh tranh với các loại hình báo chí khác trong sự phát triển nhanh chóng
vượt bậc của khoa học công nghệ. Nhiều bài báo của Hồ Chí Minh đến nay
vẫn tồn tại nguyên vẹn giá trị của nó. Do đâu mà có được như vậy? Đó chính
là sự biện luận sắc sảo của chủ tịch Hồ Chí Minh, người luôn đi sâu vào phân
tích vấn đề, giải quyết vấn đề một cách có căn cứ.
Trong cuốn sách “Cơ sở lý luận báo chí đặc tính và phong cách”, tác
giả Hà Minh Đức có trích dẫn lời bình luận như sau: “Với bản cáo trạng này,
Hồ Chí Minh đã xuất hiện như một chiến sĩ chân chính của chủ nghĩa quốc tế
vô sản và người bảo vệ nhân quyền và tự do của tất cả những người bị áp bức
dù họ cư trú ở bất cứ nước nào. Bài báo đã từ một tội ác cụ thể của chủ nghĩa
đế quốc chỉ ra bản chất độc ác của chúng”.
Sự tồn tại lâu dài của một tác phẩm báo chí đó là sự kết hợp hoàn hỏa
giữa nội dung và nghệ thuật. Đó phải là một tác phẩm hay, có cấu trúc chặt
chẽ, biện luận sắc sảo, phân tích rõ ngọn nguồn của sự kiện vấn đề, từ những
nguyên nhân chủ quan đến khách quan để lý giải cho 5 Wh (what, where,
when, who, why) và một H (How). Thêm vào đó ngôn từ chọn lọc và gây ấn
tượng. Từ một thông tin đơn lẻ ta có thể phân tích bàn luận để có một bài xã
luận, bình luận. Đi sâu vào tìm hiểu diễn biến cụ thể và các mối quan hệ đan
xen nhau của hiện tượng xã hội ta có thể viết một tác phẩm ký, hay cũng có
thể là một phóng sự dài kỳ về câu chuyện đời sống. Ở mỗi một thể loại khác
nhau, người viết có thể đi sâu vào khai thác vấn đề sẽ cho ra một tác phẩm có
đầy đủ lý luận và đưa ra được vấn đề cần giải quyết.
Như vậy, chỉ có bài báo có chiều sâu về phân tích, bình luận thì nó sẽ
tồn tại được lâu với thời gian. Nếu như với phát thanh, truyền hình, những
36
thông tin mà công chúng nhận được qua thị giác và thính giác nhưng sự lưu
trữ thông tin trong trí não là rất ít. Bởi không có sự phát huy đồng thời của thị
giác và trí não nên thông tin do phát thanh, truyền hình làm cho công chúng
phân tâm. Đối với báo in, khi người ta đọc tác phẩm, với sự phân tích, bình
luận của tác giả sẽ giúp công chúng hiểu rõ được vấn đề, từ đó định hướng
cho độc giả những phán đoán, suy nghĩ đúng đắn về vấn đề, sự kiện. Đó cũng
chính là giúp báo in thực hiện được chức năng định hướng tư tưởng, cho độc
giả ngoài chức năng thông tin, giải trí và khai sáng cho độc giả. Thì đây là
một thế mạnh đã giúp báo in hoàn thành nhiệm vụ, chức năng đối với mỗi loại
hình báo chí.
Thứ tƣ, báo in đa dạng về chủng loại. Phải nói rằng, không có loại hình
báo chí nào theo kịp được báo in về mặt này, bởi sự đa dạng của nó. Báo in bao
gồm nhiều chủng loại như: nhật báo, tuần báo, nguyệt san, bán nguyệt san, tạp
chí, đặc san, phụ san, nội san, chuyên san, tập san, chuyên đề, bản tin…
Báo chí in bao gồm báo và tạp chí là những ấn phẩm định kỳ chuyển tải
nội dung thông tin mang tính thời sự và được phát hành rộng rãi trong xã hội.
Ngoài hai thành phố lớn là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh tập trung nhiều
cơ quan báo chí Trung ương, tất cả các tỉnh, thành phố còn lại đều có báo, tạp
chí riêng.
Căn cứ vào định kỳ xuất bản, tính chất nội dung thông tin, hiện nay báo
in ở nước ta có các loại: báo hàng ngày (là những tờ phát hành mỗi ngày một
kỳ vào buổi sáng hoặc buổi chiều); báo nhiều kỳ trong tuần (là tờ báo phát
hành khoảng từ 5 - 6 kỳ trong một tuần); báo một số kỳ trong tuần (là những
tờ báo có số kỳ xuất bản từ 2 - 4 kỳ trong tuần); báo tuần (là những tờ báo
xuất bản định kỳ 1 kỳ/một tuần); báo nửa tháng hay hàng tháng (chủ yếu là
những ấn phẩm phụ xuất bản giữa tháng hoặc cuối tháng của các tờ báo hằng
ngày, các tờ báo nhiều kỳ, một số kỳ trong tuần hoặc tuần báo).
Tạp chí là những ấn phẩm định kỳ có nội dung chuyên sâu vào một hay một
số vấn đề, lĩnh vực về đời sống xã hội, khoa học, kỹ thuật… Định kỳ xuất bản
37
của tạp chí có thể là một tuần, nửa tháng, 1 tháng, 2 tháng. Cũng có tạp chí
xuất bản 3, 4, 5 hoặc 6 tháng/ kỳ. Hầu hết các trung tâm tỉnh, thành phố trong
cả nước đều được đọc báo phát hành trong ngày.
Nhật báo là những tờ báo xuất bản hằng ngày, có thể phát hành vào
buổi sáng, trưa, tối.Tuần báo là các tờ báo xuất bản định kỳ tuần một số. Báo
thưa kỳ là những tờ báo xuất bản nhiều kỳ trong tuần, tháng. Nguyệt san là
những tờ báo, tạp chí xuất bản theo chu kỳ tháng một số. Bán nguyệt san là
những tờ báo hoặc tạp chí đặt tên theo chu kỳ xuất bản 15 ngày một số. Đặc
san là những tờ báo, tạp chí xuất bản định kỳ hoặc không định kỳ và được
xuất bản trong những điều kiện cụ thể như các dịp lễ tết, các sự kiện chính trị
trọng đại. Phụ san là những tờ báo hay tạp chí xuất bản thêm số phụ định kỳ
hoặc không định kỳ. Với mục đích là đi sâu vào những vấn đề bạn đọc quan
tâm thuộc lĩnh vực mà tờ báo, tạp chí chính thức không có điều kiện đăng tải.
Ngoài ra còn có nội san, chuyên san, tập san, chuyên đề, bản tin và các loại
tạp chí khác.
Ở Báo in, có một đặc điểm cơ bản khác mà khó có thể tồn tại ở các loại
hình báo chí khác, đó chính là tính hiện diện. Báo in có thể hiện diện ở khắp
mọi nơi mà không phụ thuộc kỹ thuật công nghệ hiện đại hay phương tiện
truyền tải kỹ thuật số.
Ngoài ra, tính hiện diện của báo in còn được biểu hiện qua việc tiếp cận
đến tất cả các đối tượng độc giả khác nhau. Có lẽ nhờ đặc điểm này, báo in
vẫn đã và đang tồn tại với bạn đọc dù gặp sự cạnh tranh khốc liệt bởi các loại
hình báo chí khác, nhất là các phương tiện truyền thông mới như báo điện tử
(báo mạng internet).
Thông tin trên báo in trong thời gian qua đã góp phần làm cho nhân dân
trong nước, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài và bạn bè quốc tế hiểu
rõ hơn tính chính nghĩa, quan điểm, chủ trương của Đảng, Nhà nước ta trong
giải quyết các vấn đề liên quan đến biển đảo; góp phần tạo sự đồng thuận xã
hội về chủ trương của Đảng, Nhà nước trong xử lý các vấn đề biển đảo; thúc
38
đẩy giải quyết tranh chấp biển đảo và các vấn đề nảy sinh trên biển bằng biện
pháp hòa bình. Bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, gắn với bảo vệ Đảng, bảo vệ xã hội
chủ nghĩa, thành quả cách mạng, bảo vệ môi trường hòa bình để phát triển đất
nước; tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế về vấn đề biển
đảo của Việt Nam. Đồng thời, báo chí còn tích cực tuyên truyền, bảo đảm sự
ổn định chính trị xã hội, chuyển tải kịp thời thông điệp của Chính phủ đến
mọi người dân giúp người dân hiểu được tình hình, thể hiện tình yêu nước
chân chính, không để bị kích động, bị lợi dụng, phương hại đến hình ảnh đất
nước, cũng như an ninh xã hội.
Các cơ quan báo in đã tham gia tích cực và có hiệu quả trong việc cung
cấp thông tin nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân
dân về vị trí chiến lược của biển đảo Việt Nam, cũng như trách nhiệm bảo vệ
chủ quyền biên giới quốc gia của toàn xã hội. Thông tin trên các báo đã góp
phần cổ vũ tinh thần yêu nước, khơi gợi lòng tự hào dân tộc trong xây dựng
và bảo vệ đất nước, nâng cao ý thức đấu tranh bảo vệ, giữ gìn chủ quyền biển
đảo thiêng liêng của Tổ quốc trong các tầng lớp nhân dân, tạo sự đồng tình,
ủng hộ của bạn bè và dư luận quốc tế.
1.3. Quan điểm chính sách của Đảng và Nhà nƣớc ta về bảo vệ chủ
quyền biển đảo trên báo chí
1.3.1 Quan điểm của Đảng, nhà nước
Thông tin bảo vệ chủ quyền Biển, đảo có thể hiểu là những hoạt động
truyền bá, phổ biến, giáo dục các giá trị tinh thần (tâm thức biển của dân tộc
Việt Nam); quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng
và Nhà nước ta về biển, đảo; kiến thức và tình hình Biển Đông liên quan tới
chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam, nhằm làm thay
đổi nhận thức và hành vi của đối tượng tuyên truyền. Đích chung và cuối
cùng của tuyên truyền Biển, đảo là phục vụ sự nghiệp bảo vệ chủ quyền toàn
vẹn lãnh thổ và phát triển đất nước. [Theo tài liệu tuyên giáo của tuyên giáo
39
Hậu Giang, 2013].
Trong lịch sử xây dựng và bảo vệ đất nước, chúng ta đã sớm ý thức
được vai trò của BĐ và tầm quan trọng của nhiệm vụ của công tác TT về BĐ.
Những năm gần đây, lĩnh vực biển và hải đảo đã được Đảng và Nhà nước đặc
biệt quan tâm, thông qua việc ban hành các cơ chế, chính sách ưu tiên,
khuyến khích phát triển. Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 đã xác lập
hướng đi đúng đắn đối với việc quản lý, bảo vệ và phát triển bền vững biển,
đảo Việt Nam. Năm 2008, Chính phủ đã quyết định thành lập Uỷ ban Biên
giới quốc gia và Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam [Nghị định số
25/2008/NĐ-CP ngày 4.3.2008].
Trước thềm thế kỷ XXI, nhân loại xác định, thế kỷ XXI là “Thế kỷ của
đại dương”. Và sự thật, trong sự phát triển toàn diện và mạnh mẽ của thế giới,
trước hết tại các quốc gia có Biển và hướng ra Biển, hơn một thập niên vừa
qua, đã chứng minh rất sinh động và đầy thuyết phục điều dự báo ấy. Đối với
Việt Nam, nếu nhìn gần nhất, ngay từ những năm 90 của thế kỷ XX, nghĩa là
khoảng hơn hai mươi năm trước, Đảng ta đã hạ quyết tâm chính trị chiến lược
và tổ chức phát triển mạnh mẽ kinh tế vùng biển và kinh tế Biển Đảo. Cụ thể,
trong các kỳ họp quốc hội, Đảng và nhà nước cũng làm rõ vấn đề này: Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (tháng 6-1996), Đại hội IX (tháng 4-
2001; Đại hội X (tháng 4-2006)… Đặc biệt, ngày 9-2-2007, Hội nghị Trung
ương 4, khóa X, ra Nghị quyết số 09-NQ/TW về “Chiến lược Biển Việt Nam
đến năm 2020”, trong đó xác định: “Phấn đấu đưa nước ta trở thành quốc gia
mạnh về biển, làm giàu từ biển, bảo đảm vững chắc chủ quyền, quyền chủ
quyền quốc gia trên biển, đảo, góp phần quan trọng trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, làm cho đất nước giàu mạnh”. Tiếp tục chủ trương,
đường lối phát triển kinh tế biển, đảo được xác định trong các văn kiện trước
đây của Đảng, Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm (2011-2020),
được Đại hội XI của Đảng (tháng 1-2011) thông qua, nhấn mạnh: “Phát triển
mạnh kinh tế biển tương xứng với vị thế và tiềm năng biển của nước ta, gắn
phát triển kinh tế biển với bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ chủ quyền
40
vùng biển…”
Trên tinh thần đó, hoạt động tuyên truyền Biển, đảo đã trở thành một
trong những nhiệm vụ trọng tâm của công tác quản lý nhà nước về biển và hải
đảo ở nước ta. Hoạt động này đã được triển khai trong bối cảnh khu vực Biển
Đông diễn biến phức tạp, tranh chấp về chủ quyền biển, đảo và tài nguyên
thiên nhiên biển có chiều hướng gia tăng, gây hậu quả khó lường và có tính
lâu dài. Mặc dù vậy, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự chỉ đạo và hướng dẫn của
các cơ quan chức năng ở Trung ương, của các bộ, ngành và địa phương, công
tác tuyên truyền biển, đảo vừa qua được triển khai khá mạnh mẽ, rộng khắp,
đối với mọi tầng lớp, mọi lứa tuổi trong xã hội và đã đạt được những thành
quả đáng ghi nhận.
Đảng và Nhà nước ta có thái độ hết sức rõ ràng, mềm mại khi thương
thuyết về vấn đề tranh chấp chủ quyền BG BĐ và cũng rất quyết liệt trước
những luận điệu sai trái.
Thời gian gần đây, việc Trung Quốc tranh chấp với việt Nam quyền sở
hữu quần đảo Hoàng sa và đặc biệt là vào 5/2014, Trung Quốc hạ đặt trái
phép giàn khoan HD 981 vào vùng thềm lục địa nước ta đang là vấn đề nóng
được dư luận trong nước và quốc tế quan tâm. Hàng triệu trái tim người dân
Việt Nam đều hướng về Biển Đông - nơi đầu sóng ngọn gió của Tổ quốc – và
bằng những cách khác nhau thể hiện tình yêu Biển đảo cũng như niềm tin yêu
đối với các lực lượng bảo vệ tuyên truyền về Biển đảo Việt Nam. Để kịp thời
cung cấp thông tin về chủ quyền Biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc, phát huy
đúng hướng truyền thống yêu nước của nhân dân, Đảng và chính phủ đang
chỉ đạo tích cực thực hiện công tác tuyên truyền sâu rộng trên mọi lĩnh vực
trong nhân dân. Công tác tuyên truyền sẽ góp phần giúp mọi người dân, đặc
biệt là thế hệ trẻ nâng cao nhận thức và thắp sáng ngọn lửa của tình yêu biển,
đảo quê hương. Từ đó, tạo động lực mạnh mẽ để mỗi công dân không ngừng
tu dưỡng, rèn luyện, nâng cao ý thức trách nhiệm, tinh thần xung kích, tình
nguyện, đồng lòng cùng Đảng và Nhà nước bảo vệ biên giới, hải đảo và xây
41
dựng đất nước giàu mạnh.
Nhiều nhà lãnh đạo, quản lý báo chí nước ta như Ông Lê Nghiêm, Cục
trưởng Thông tin Đối ngoại, Bộ Thông tin và Truyền thông trong hội nghị
tổng kết công tác tuyên truyền biển, đảo, phân giới cắm mốc, 2011 cho rằng:
“Công tác thông tin Biển đảo với số lượng các bài viết về chủ đề Biển đảo với
đề tài và góc độ tiếp cận đa dạng đã góp phần thức tỉnh nhận thức các tầng
lớp nhân dân, các cơ quan chức năng và cả các cấp lãnh đạo của đất nước về
BĐ và chủ quyền BĐ và sự cần thiết công khai dư luận. Chiến lược biển Việt
Nam đến năm 2020 của Ban Chấp Hành Trung ương Đảng khóa X cũng đồng
thời tạo điều kiện cho công tác thông tin, tuyên truyền về Biển, đảo cả về chủ
trương, cả về nguồn nhân lực triển khai.”
1.3.2 Nội dung thông tin biển đảo:
Theo Nghị quyết số 09-NQ/TW về “Chiến lược Biển Việt Nam đến
năm 2020” và Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm (2011-2020),
được Đại hội XI của Đảng (tháng 1-2011) thông qua: “Phát triển mạnh kinh
tế biển tương xứng với vị thế và tiềm năng biển của nước ta, gắn phát triển
kinh tế biển với bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ chủ quyền vùng
biển…”. Do đó, công tác thông tin phải đảm bảo 2 vấn đề là thông tin về chủ
quyền lãnh thổ và thông tin về phát triển nguồn lực Biển đảo.
* Trong Hướng dẫn số 105 – HD/BTGTW, ngày 24 tháng 01 năm
2014 của Ban Tuyên Giáo Trung Ương về công tác thông tin Biển đảo năm
2014 nhấn mạnh một số yêu cầu trong công tác tuyên truyền Biển đảo như sau:
Thông tin tạo sự thống nhất, đồng thuận trong cán bộ, đảng viên và
toàn xã hội đối với các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật
của Nhà nước về Biển, đảo; tạo môi trường thuận lợi để thực hiện thắng lợi
hai mục tiêu chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Công tác thông tin cần đảm bảo sự chỉ đạo, điều hành chặt chẽ, thống
nhất, xuyên suốt từ Trung Ương đến cơ sở; Tăng cường tính chủ động, kịp
thời, chính xác trong việc cung cấp thông tin, sự phối hợp hiệu quả giữa các
lực lượng tuyên truyền của cả hệ thống chính trị, nhất là đối với những vấn đề
42
phức tạp, nhạy cảm và các tình huống đột xuất.
Sử dụng các hình thức thông tin phù hợp với đối tượng cụ thể để
truyền tải kịp thời tình hình Biển đảo và các quan điểm, lập trường của Việt
Nam đối với các vấn đề Biển Đông tới các tầng lớp nhân dân trong tỉnh và
xác định đây là nhiệm vụ chính trị thường xuyên của cấp ủy Đảng, chính
quyền các cấp.
* Về nội dung thông tin, Ban Tuyên giáo T.Ư định hướng một số nội
dung trọng tâm:
Tiếp tục thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền, phổ biến nâng cao nhận
thức về vị trí, vai trò, tiềm năng, thế mạnh của Biển với sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc; vạch trần âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, cơ
hội lợi dụng về tranh chấp Biển, đảo để xuyên tạc, kích động, gây phức tạp
tình hình an ninh trật tự.
Thông tin bảo vệ chủ quyền của Việt Nam ở Biển Đông, phổ biến và
giáo dục những kiến thức cơ bản, chủ trương quan điểm của Đảng, chính sách
của Nhà nước; các văn bản pháp luật về Biển, đảo như: Luật Biển Việt Nam;
Công ước của Liên hợp Quốc về luật Biển năm 1982 mà Việt Nam là thành
viên; Tuyên bố cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) và Bộ quy tắc
ứng xử mang tính pháp lý của các bên ở Biển Đông (COC) khi được thông
qua và Tuyên bố chung về nguyên tắc 6 điểm của ASEAN về Biển Đông. Đẩy
mạnh tuyên truyền, thông tin đối ngoại làm cho bạn bè và dư luận quốc tế
hiểu rõ lập trường chính nghĩa của Việt Nam; những cơ sở Pháp lý, chứng cứ
lịch sử và thực tiễn khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo
Trường Sa và Hoàng Sa cũng như những chủ trương, chính sách của Đảng,
nhà nước ta về vấn đề Biển Đông, tạo sự đồng tình, ủng hộ của bạn bè và dư
luận quốc tế đối với Việt Nam.
Tuyên truyền nhân rộng các điển hình về phát triển kinh tế Biển đảo,
các mô hình hợp tác, tổ đội đoàn kết hỗ trợ nhau trong sản xuất trên Biển, đấy
mạnh phát triển kinh tế-xã hội các vùng biển, ven biển và hải đảo; Tuyên
43
truyền giới thiệu những chính sách đúng đắn, những thành tựu phát triển kinh
tế biển, đảo của các địa phương, các ngành trong cả nước; đóng góp của các
ngành kinh tế vào phát triển kinh tế Biển.
Tuyên truyền, phổ biến những kiến thức ứng dụng, chuyển giao
những thành tựu khoa học, công nghệ phục vụ phát triển các ngành kinh tế
biển; những thành tựu hợp tác về quốc tế về biển. Tăng cường tuyên truyền về
quản lý, bảo vệ và khai thác bền vững tài nguyên, môi trường biển; kiến thức
về tìm kiếm cứu hộ cứu nạn, về thông tin dự báo thời tiết, về phòng chống
thảm họa thiên tai, biến đổi khí hậu, mực nước biển dâng.
Tuyên truyền các quy định về đảm bảo hoạt động an toàn trên Biển;
nâng cao ý thức, chấp hành pháp luật Việt Nam, pháp luật quốc tế về Biển
trong ngư dân, những người lao động trên Biển; đấu tranh chống các hành vi
và hoạt động sai trái, tiêu cực và vi phạm pháo luật trên Biển đảo như: vi
phạm quy định về trật tự, an toàn giao thông trên Biển; buôn bán hàng cấm,
trốn lậu thuế; đánh bắt có tính chất hủy diệt nguồn thủy hải sản, phá hoại môi
trường sinh thái Biển; lao động bất hợp pháp làm ảnh hưởng quan hệ giữa
Việt Nam và các nước trong vùng; tàu thuyền nước ngoài xâm phạm chủ
quyền, quyền tài phán trên vùng Biển, thềm lục địa,vùng đặc quyền kinh tế
của nước ta.
Tuyên truyền về các chính sách khuyến khích nhân dân định cư ổn
định lâu dài trên đảo, làm ăn dài ngày trên Biển; tuyên truyền nâng cao tinh
thần trách nhiệm, tình cảm của mọi tầng lớp nhân dân đối với cán bộ, chiến sỹ
và nhân dân đang ngày đem làm nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền Biển, đảo thiêng
liêng của tổ quốc.
Phát huy vai trò của truyền thông đại chúng trong nâng cao chất
lượng, hiệu quả công tác tuyên truyền về Biển đảo. Nặng về tuyên truyền kiểu
truyền thống, dễ gây cảm giác nhàm chán, khô cứng. Cần đổi mới cả về nội
dung lẫn hình thức – tuyên truyền một cách tự nhiên, cuốn hút với những đề
tài hay và nhiều thể loại đặc sắc. Thời gian tới, cần khai thác và phát huy sở
44
trường của từng loại hình đa phương tiện trong cùng hệ thống (báo in, báo
mạng). Từ đó, hỗ trợ truyền hình, tạo mạng lưới rộng khắp, tác động nhiều
hướng và liên tục cho mục tiêu tuyên truyền Biển đảo.
Tóm lại, có thể khái quát nội dung cơ bản của thông tin Biển đảo cụ thể
vào những vấn đề chính:
- Tuyên truyền, vị trí và vai trò của Biển, đảo Việt Nam đối với sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Nhận thức đầy đủ và đúng đắn hơn về tài nguyên và môi trường
biển, đảo
- Tuyên truyền về an ninh, chủ quyền trên Biển Đông và trong các vùng
biển của Việt Nam. Tuyên truyền về chính sách pháp luật Biển, đảo
- Đẩy mạnh tuyên truyền, thông tin đối ngoại làm cho bạn bè và dư
luận quốc tế hiểu rõ lập trường chính nghĩa của Việt Nam
Công tác TT về BĐ luôn được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà
nước Việt Nam; luôn được sự quan tâm, ủng hộ của đồng bào và chiến sỹ cả
nước, kể cả lực lượng đông đảo kiều bào ở nước ngoài; luôn có sự gắn bó chặt
chẽ của toàn bộ hệ thống chính trị. Công tác tuyên truyền biển, đảo cần bám
sát thực tiễn tình hình, không ngừng đổi mới nội dung, đa dạng hóa hình thức,
phương pháp tuyên truyền phù hợp với trình độ nhận thức của từng đối tượng,
đồng thời tận dụng có hiệu quả các phương tiện kỹ thuật và chú trọng mở
rộng phạm vi tuyên truyền. Công tác tuyên truyền về chủ quyền quốc gia trên
biển đòi hỏi có sự phối hợp đồng bộ giữa các cấp, các ngành và các địa
phương; phải có sự chỉ đạo thống nhất, chặt chẽ từ Trung ương tới cơ sở về
nội dung và phương pháp tuyên truyền.
Có thể khẳng định, công tác TT về BĐ nhiều năm qua, đã thu được
kết quả tích cực, góp phần nâng cao nhận thức của các tầng lớp nhân dân
trong nước và kiều bào ta ở nước ngoài về chủ trương, chính sách của Đảng
và Nhà nước ta trong việc bảo vệ chủ quyền; hạn chế việc các thế lực phản
động lợi dụng vấn đề biển đông chống phá Đảng và nhà nước ta. Trong năm
45
2013, Việt Nam đã triển khai công tác TTBĐ một cách đồng bộ với nhiều
hình thức ở các cấp các ngành, các địa phương, trong các đoàn thể địa
phương, đoàn thể nhân dân; xây dựng, biên tập bộ tài liệu tuyên truyền bảo
vệ chủ quyền biển, đảo Việt Nam; Trang mạng Biên Giới – Lãnh Thổ đi vào
hoạt động, trong đó có nội dung chính là về vấn đề thực thi và bảo vệ chủ
quyền biển đảo thu hút mỗi tháng hàng triệu người truy cập. Tuy nhiên,
trong quá trình tổ chức thực hiện chủ trương của Đảng và nhà nước Việt
Nam, vẫn còn bộc lộ một số khiếm khuyết và hạn chế trong công tác TT về
BĐ cần nhanh chóng khắc phục.
1.3.3 Yêu cầu của thông tin biển đảo:
Công tác thông tin biển đảo cần bám sát thực tiễn tình hình, không
ngừng đổi mới nội dung, đa dạng hóa hình thức, phương pháp tuyên truyền
phù hợp với trình độ nhận thức của từng đối tượng, đồng thời tận dụng có
hiệu quả các phương tiện kỹ thuật và chú trọng mở rộng phạm vi tuyên
truyền. Công tác tuyên truyền về chủ quyền quốc gia trên biển đòi hỏi có sự
phối hợp đồng bộ giữa các cấp, các ngành và các địa phương; phải có sự chỉ
đạo thống nhất, chặt chẽ từ Trung ương tới cơ sở về nội dung và phương pháp
tuyên truyền.
Nội dung thông tin phải đa dạng và phong phú trên các phương tiện
thông tin đại chúng trong nước và quốc tế, lồng ghép chặt chẽ giữa các hoạt
động đối ngoại, chính trị, kinh tế, quân sự, quốc phòng… Qua đó, nhân dân
Việt Nam cũng như cộng đồng quốc tế hiểu và nắm vững các vùng, khu vực
thuộc chủ quyền lịch sử lâu đời của Việt Nam cũng như chủ quyền biển Việt
Nam được xác lập trên cơ sở các điều khoản quy định trong Công ước quốc tế
về Luật Biển 1982. Tuyên truyền về các điều khoản và nghĩa vụ cần phải chấp
hành các quy định của luật pháp Việt Nam khi hoạt động hoặc tham gia giao
thông trong phạm vi lãnh hải, các vùng nội thuỷ, vùng đảo, quần đảo và khu
vực đặc quyền kinh tế trên biển Việt Nam; về các quan điểm chủ đạo và nhất
quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong thực thi quyền tài phán quốc gia
trên các vùng biển, đảo, quần đảo và các khu vực đặc quyền kinh tế biển. Đặc
46
biệt, chú trọng nâng cao nhận thức cho các cấp, các ngành, nhất là các cấp,
ngành ở địa phương ven biển, nhận thức rõ tính chất phức tạp của nhiệm vụ
bảo vệ chủ quyền biển, đảo trong bối cảnh mở cửa, hội nhập quốc tế; khẳng
định, củng cố niềm tin cho nhân dân cả nước, cộng đồng quốc tế về chủ
quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa; làm chuyển
biến ý thức, trách nhiệm của mỗi người…
Qua đó phát huy sức mạnh của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân và của
cả hệ thống chính trị, kết hợp sức mạnh trong và ngoài nước, thực hiện thắng
lợi nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc. Công tác tuyên truyền
phải được tiến hành sâu rộng trong và ngoài nước, phải gắn kết giữa lịch sử
với hiện tại để người dân thấy được ý nghĩa và tầm quan trọng của biển, đảo
trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước; làm cho mỗi công dân Việt
Nam thấy được trách nhiệm, nghĩa vụ của mình đối với chủ quyền biển, đảo
quốc gia. Từ đó đoàn kết, chung sức đồng lòng quyết tâm làm chủ, bảo vệ
biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc.
Tại hội nghị toàn quốc tổng kết công tác thông tin đối ngoại, tuyên
truyền biển, đảo và phân giới cắm mốc trên đất liền năm 2012 và triển khai
nhiệm vụ năm 2013 do Ban Tuyên giáo TƯ tổ chức, Thường trực Ban Bí thư
Lê Hồng Anh nhấn mạnh: “Các cơ quan báo chí, truyền thông tiếp tục đổi
mới hình thức, nội dung, nâng cao hiệu quả thông tin, các sản phẩm phục vụ
mục đích tuyên truyền đối ngoại, chú trọng tính chính xác, kịp thời, hiệu quả,
phù hợp với các đối tượng cụ thể, tăng cường phối hợp giữa thông tin đối
ngoại với thông tin đối nội.”
Theo PGS. TS Thiếu tướng Lê Văn Cương - Nguyên viện trưởng viện
chiến lược – Bộ Công An cũng đề ra yêu cầu cụ thể trong công tác tuyên
truyền Biển đảo cho báo chí: “Hội nhà báo nên có hoạt động mạnh mẽ hơn
nữa nhằm nâng cao công tác tuyên truyền về Biển đảo. Ví dụ, chi hội nhà Báo
ở VN có thể mời các hãng truyền thông quốc tế nổi tiếng như CNN, New York
Time đến để trao đổi về vấn đề HD 981. Ngoài ra có thể mời PV của họ lên
tàu chấp pháp ra chứng kiến hành động ngang ngược của Trung Quốc ở Biển
47
Đông” [Phụ lục 4].
Tiểu kết chương 1
Trong tiến trình phát triển của lịch sử văn hoá nhân loại, báo chí là một
hiện tượng xã hội. Báo chí ra đời do nhu cầu thông tin - giao tiếp, giải trí và
nhận thức của con người. Mặc dù ra đời chậm so với các hình thái ý thức xã
hội khác, những báo chí đã nhanh chóng trở thành một trong những lĩnh vực
xung kích bởi khả năng phản ánh hiện thực của nó.
Báo chí là một trong những kênh quan trọng của truyền thông, là loại
hình hoạt động thông tin chính trị - xã hội. Thông tin báo chí rất quan trọng, vì
nó khẳng định mối quan hệ đối với hiện thực xã hội và bằng chính khả năng
tiếp nhận của công chúng. Trong báo chí, hoạt động chính trị - xã hội diễn ra
dưới một hình thức thông tin đặc biệt. Nâng cao chất lượng báo chí trong đời
sống xã hội, mục tiêu cuối cùng là quan tâm tới tính hiệu quả của thông tin.
Hiệu quả của thông tin báo chí khi được phát huy sẽ trở thành một sức mạnh
to lớn, góp phần hình thành dư luận xã hội, xây dựng hệ tư tưởng chủ đạo của
xã hội, biến nhận thức thành hành động theo chiều hướng tích cực để góp
phần cải tạo và xây dựng một xã hội tốt đẹp.
Là tiếng nói của Đảng, Nhà nước, diễn đàn của nhân dân, báo chí, đặc
biệt là báo in có mối quan hệ chặt chẽ với các hoạt động bảo vệ chủ quyền
biển đảo. Hoạt động thông tin bảo vệ chủ quyền biển đảo luôn là nguồn đề tài
sinh động, hấp dẫn và cần thiết đối với báo chí.
Kết thúc chương 1, tác giả đã đi vào giới thiệu vị trí, vai trò của BĐ
Việt Nam, nhưng tiềm lực về kinh tế, chính trị quốc phòng… Bên cạnh đó,
phản ánh những quan điểm đường lối chủ trương chính sách của Đảng, nhà
nước về vấn đề thông tin bảo vệ chủ quyền BĐ; vai trò của báo chí nói chung
và báo in về bảo vệ chủ quyền BĐ nói riêng trong lĩnh vực TT về lĩnh vực
này. Đây là cơ sở để chúng ta có cái nhìn toàn diện về vấn đề biển đảo và
thông tin biển đảo trên báo in Việt Nam hiện nay.
Tuy nhiên để làm rõ thêm vấn đề TT bảo vệ chủ quyền BĐ ở ba tờ báo:
48
Nhân Dân, Thanh Niên và Khánh Hòa đang diễn ra như thế nào, và những
thành công hạn chế ra sao, chúng ta sẽ cùng đi vào phân tích vấn đề ở chương
2: Thực trạng thông tin bảo vệ chủ quyền biển đảo trên báo in (Khảo sát Báo
Nhân Dân, Báo Thanh Niên và Báo Khánh Hòa).
Trong chương này, trên cơ sở vận dụng lý luận khoa học để khảo sát,
phân tích đánh giá thực trạng hoạt động TT bảo vệ chủ quyền BĐ của ba tờ
báo, chúng ta sẽ cùng làm rõ những ưu nhược điểm của đối tượng khảo sát.
Đây cũng là cơ sở để tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường TT
49
bảo vệ chủ quyền BĐ trên báo in ở chương 3.
Chƣơng 2
THỰC TRẠNG THÔNG TIN BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN ĐẢO
TRÊN BÁO IN
( Khảo sát Báo Nhân Dân, Báo Khánh Hòa và Báo Thanh Niên giai đoạn
từ tháng 5/2011 đến tháng 5/2014)
2.1. Tổng quan về nội dung và dung lƣợng thông tin trên báo in
(khảo sát Báo Nhân Dân, Báo Khánh Hòa và Báo Thanh Niên từ tháng
5/2011 – 5/2014)
Nghị quyết Trung ương 4, khóa X về "Chiến lược biển Việt Nam đến
năm 2020" đã đi vào cuộc sống và báo chí đã góp một phần quan trọng trong
việc nâng cao nhận thức về chủ quyền Biển đảo. Nhiều cơ quan báo chí đã
xây dựng được những chương trình với đa dạng các thể loại thông tin về chủ
quyền vùng Biển đảo, thềm lục địa cũng như các hoạt động của Hải quân
nhân dân Việt Nam và các lực lượng chức năng về BĐ. Cùng với các hoạt
động của báo chí nói chung, trên báo in, công tác thông tin về Biển đảo đã
được triển khai một cách mạnh mẽ (đặc biệt sau vụ giàn khoan HD 981 của
Trung Quốc hạ đặt trái phép vào vùng thềm lục địa của nước ta 2/5/2014 –
17/7/2014). Có nhiều tin bài, phóng sựtrên các tờ báo từ Trung ương đến
địa phương đã đề cập đến vấn đề nàynhư: Lao Động, Thanh Niên, Tuổi
Trẻ, Nhân Dân, Hà Nội mới, Tin Tức, Khánh Hòa…
Trong số đó, Nhân Dân, Thanh Niên và Khánh Hòa là ba tờ báo có ý
nghĩa sâu sắc trong việc thông tin bảo vệ chủ quyền Biển đảo hiện nay. Nó
đã góp phần phản ánh kịp thời các chính sách của nhà nước, vấn đề chủ
quyền, đời sống nhân dân các vùng Biển đảo đến độc giả trong nước, đưa
Biển đảo đến gần hơn với đất liền. Do thuộc các tổ chức độc lập, khác nhau
về đối tượng mục tiêu, định hướng thông tin… nên ba tờ báo có những đặc
50
trưng riêng.
2.1.1 Tổng quan về nội dung các đề tài trên Báo Nhân Dân, Khánh
Hòa và Thanh Niên (từ 5/2011 – 5/2014)
Khảo sát nội dung thông tin của báo Nhân Dân, Khánh Hòa và Thanh
Niên trong 3 năm (tháng 5/2011 – 5/2014), ta lập được bảng thống kê sau:
Báo Báo Báo
Nhân Dân Khánh Hòa Thanh Niên
1604 Tổng số tin bài được khảo sát 2095 (100%) 1976 (100%) (100%)
Tin bài về chủ đề biển đảo 1219 (58,2%) 690 (43%) 724 (36,6)
Tin bài về chủ đề khác 876 (41,8%) 914 (57%) 1252 (63,4%)
Bảng 2.1: Thống kê số lượng tin bài được khảo sát trên Báo Nhân Dân,
Báo Khánh Hòa và Báo Thanh Niên (từ 5/2011 đến 5/2014)
Qua bảng thống kê này, chúng ta có thể thấy: Báo Nhân Dân trong hơn
1000 số báo (3 năm), với khoảng 2095 tin bài được khảo sát thì trong đó có
đến 1219 tin bài về đề tài biển đảo (chiếm 58,2%) và 876 tin bài về các đề tài
khác (chiếm 41,8%). Số lượng tin bài đã đăng trên Báo Khánh Hòa và Thanh
Niên ít hơn. Khánh Hòa chỉ có 1604 tin bài, Thanh Niên có 1976 tin bài, chỉ
bằng 76,6% và 54,6% số tin bài của Báo Nhân Dân (2095 tin bài). Bởi vậy,
các tác phẩm về đề tài Biển đảo của Khánh Hòa và Thanh Niên cũng ít hơn so
với Nhân Dân, 690 và 724 tác phẩm so với 1219 tác phẩm đề tài tương tự của
Báo Nhân Dân (gấp 1,77 và 1,68 lần).
Sở dĩ lượng tin bài về đề tài Biển đảo trên Báo Nhân Dân nhiều hơn là
do đây là cơ quan ngôn luận của Đảng, Nhà nước luôn coi trọng và đẩy mạnh
công tác thông tin về các điều khoản và nghĩa vụ cần phải chấp hành các quy
định của luật pháp Việt Nam khi tham gia giao thông trong phạm vi lãnh hải,
các vùng nội thủy, vùng đảo, quần đảo và khu vực đặc quyền kinh tế trên biển
Việt Nam. Hơn nữa, Báo Nhân Dân có các chuyên mục chuyên biệt về các
51
vấn đề bảo vệ lãnh thổ chủ quyền của Việt Nam. Trong thời gian gần đây,
nhất là từ 2011, tình hình Biển Đông thường xuyên xảy ra diễn biến bất ổn, đe
dọa đến chủ quyền lãnh thổ trên Biển và nguồn lực Biển của nước ta, do đó
vấn đề Biển đảo được quan tâm nhiều hơn.
Về phía Báo Thanh Niên, đây là diễn đàn của Hội Liên hiệp Thanh
Niên Việt Nam, đối tượng độc giả là thế hệ trẻ của đất nước, do vậy các
chuyên mục và nội dung đa dạng hơn, phong phú hơn. Các nội dung trên báo
không chỉ tập trung đơn thuần vào các vấn đềbiển đảo mà còn hướng đến
nhiều nội dung khác, phù hợp với đối tượng mục tiêu của tờ báo. Cũng tương
tự như vậy, Khánh Hòa là một tờ báo địa phương, phạm vi phát hành bị hạn
chế, hướng đến hơn một triệu dân trên địa phận tỉnh Khánh Hòa, bởi vậy, nội
dung tờ báo không chỉ bó hẹp trong phạm vi chủ quyền biển đảo, mà mở rộng
hơn với các nội dung liên quan đến lực lượng biên phòng cũng như đời sống
của người dân vùng biển nơi đây…
Báo Nhân Dân, Báo Khánh Hòa và Báo Thanh Niên biểu hiện qua các
nội dung cụ thể như sau:
* Khảo sát Báo Nhân Dân trong 3 năm (5/2015 – 5/2014), qua thống kê
số lượng và tỉ lệ nội dung tin bài được khảo sát [Bảng 2.2, phụ lục 1], chúng
ta vẽ được biểu đồ sau:
Hình 2.1: Biểu đồ thể hiện tỉ lệ nội dung tác phẩm
52
của Báo Nhân Dân (5/2011 – 5/2014)
Chúng ta có thể thấy chủ đề về biển đảo chiếm tỷ lệ lớn nhất với 86 tác
phẩm (chiếm tới27,6% chủ yếu đề cập đến tình hình, diễn biến tại Biển
Đông), tiếp đến là mảng đề tài về lực lượng biên phòng với 72 tác phẩm
(chiếm khoảng 23%). Chủ đề đời sống nhân dân vùng biên giới cũng được
chú trọng với 59 tác phẩm (chiếm 19% ). Khiêm tốn hơn là một số tác phẩm
thuộc đề tài quốc tế với 51 tác phẩm (chiếm 16,4%), đề tài lịch sử với 44 tác
phẩm (chiếm 14%). Nhìn chung, nội dung chủ yếu mang đậm tính tuyên
truyền, chủ yếu tập trung vào các hoạt động, tình hình biên giới, hải đảo và
cập nhật thông tin phía quốc tế để tác động đến nhận thức người dân.
* Khảo sát Báo Khánh Hòa trong 3 năm (5/2015 – 5/2014), qua thống
kê số lượng và tỉ lệ nội dung tin bài có liên quan đến bảo vệ chủ quyền biển
đảo đã đăng [Bảng 2.3, phụ lục 1], chúng ta vẽ được biểu đồ sau:
Hình 2.2: Biểu đồ thể hiện tỷ trọng nội dung tác phẩm
53
của báo Khánh Hòa (5/2011 – 5/2014)
Chúng ta có thể thấy chủ đề về biển đảo vẫn chiếm tỷ lệ lớn nhất với
690 tác phẩm, (chiếm tới 43% ), tiếp đến là mảng đề tài về cuộc sống người
dân vùng biển với 403 tác phẩm (chiếm khoảng 25,1%). Chủ đề về lực lượng
quốc phòng cũng được chú trọng với 219 tác phẩm chiếm 13,7% toàn bộ nội
dung trên báo. Khiêm tốn hơn là một số tác phẩm thuộc đề tài quốc tế với 185
tác phẩm (chiếm 11,5%) và đề tài lịch sử với 107 tác phẩm (chiếm 6,7%).
Nhìn chung, nội dung chủ yếu mang đậm tính tuyên truyền, chủ yếu tập trung
vào các hoạt động của lực lượng biên phòng.
* Khảo sát Báo Thanh Niên trong 3 năm (5/2015 – 5/2014), qua thống
kê số lượng và tỉ lệ nội dung tin bài có liên quan đến bảo vệ chủ quyền biển
đảo đã đăng [Bảng 2.4, phụ lục 1], chúng ta vẽ được biểu đồ sau:
Hình 2.3. Biểu đồ thể hiện tỉ lệ nội dung tác phẩm của
Báo Thanh Niên (5/2011 – 5/2014)
Chúng ta có thể thấy chủ đề về biển đảo chiếm tỷ lệ lớn nhất với 724
tác phẩm, (chiếm tới 36,6% - chủ yếu đề cập đến tình hình, diễn biến tại Biển
Đông), tiếp đến là mảng đề tài về lực lượng quốc phòng với 461 tác phẩm
54
(chiếm khoảng 23,3%). Chủ đề đời sống nhân dân vùng biên giới cũng được
chú trọng với 387 tác phẩm chiếm 19,6%. Khiêm tốn hơn là một số tác phẩm
thuộc đề tài quốc tế với 207 tác phẩm (chiếm 10,5%), đề tài lịch sử với 124
tác phẩm (chiếm 6,3%). Và đề tài khác 73 với tác phẩm (chiếm 3,7%). Nhìn
chung, nội dung chủ yếu của các bài viết chủ đề bảo vệ chủ quyền biển đảo
trên Báo Thanh Niên đều nhằm mục đích tuyên truyền khơi dậy lòng yêu
nước, tự tôn dân tộc của thế hệ trẻ Việt Nam đồng thời cung cấp thông tin đầy
đủ để đối tượng người đọc có thể nhận thức và cập nhật tình hình đầy đủ diễn
biến trên biển Đông. Bên cạnh đó báo có rất nhiều bài viết nêu cao tấm gương
anh dũng của những chiến sĩ và người dân nơi biên giới hải đảo để làm tấm
gương cho thế hệ sau.
Khảo sát Báo Nhân Dân, Báo Khánh Hòa và Báo Thanh Niên trong ba
năm (từ 5/2011 đến 5/2014), luận văn nhận thấy, các tin bài trực tiếp về đề
tài biển đảo đã đăng chiếm tỷ lệ lớn, 58,2% (với Báo Nhân Dân), 43% (với
Báo Khánh Hòa) và 36,6% (đối với Báo Thanh Niên) trong toàn bộ nội dung
tờ báo. Nhưng khi tình hình Biển đảo có những biến động lớn (như vụ việc
Trung Quốc hạ đặt giàn khoan 981 vào thềm lục địa nước ta ngày 2/5/2014)
thì gần như toàn bộ nội dung tờ báo đã chuyển hướng tập trung phản ánh đề
tài thông tin bảo vệ chủ quyền Biển đảo với tỷ lệ từ 70% đến 80%.
2.1.2 Tổng quan về nội dung thông tin bảo vệ chủ quyền biển đảo
trên Báo Nhân Dân, Báo Khánh Hòa và Báo Thanh Niên (từ tháng 5/2011
– 5/2014)
Vấn đề về biển đảo được phản ánh trên ba tờ báo không giống nhau về cả
tỷ trọng và nội dung chủ đề. Mỗi tờ báo có một cách phản ánh với số lượng và
nội dung thể hiện riêng, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu vấn đề này ngay sau đây.
Dựa vào những số liệu đã khảo sát trên Báo Nhân Dân, Khánh Hòa và
Thanh Niên (từ 5/2011 đến 5/2014), tác giả lập đượcbảng thống kê tỉ lệ tác
phẩm về đề tài Biển đảo trên ba tờ báo [Phụ lục 2.5]. Biểu thị bảng thống kê
55
trên ra biểu đồ ta có hình vẽ:
Hình 2.4: Biểu đồ thể hiện tỉ lệ tác phẩm về đề tài biển đảo
trên Báo Nhân Dân, Báo Khánh Hòa và Báo Thanh Niên (5/2011 – 5/2014)
Theo như biểu đồ này, vấn đề thông tin biển đảo của Báo Nhân Dân và
Thanh Niên với nội dung chủ đề tuyên truyền chủ quyền, bảo vệ chủ quyền
chiếm tỷ trọng lớn hơn so với chủ đề phát triển nguồn lực biển đảo. Ngược
lại, trên Báo Khánh Hòa, vấn đề tuyên truyền chiếm tỷ trọng không lớn bằng
chủ đề phát triển nguồn lực biển đảo.
Trên Báo Nhân Dân, nội dung tuyên truyền chủ quyền bảo vệ chủ
quyền biển đảo là trọng tâm chiếm đến 58,2% với 709 tin bài, trong khi chủ
đề phát triển nguồn lực biển đảo chỉ chiếm 41,8% với 510 tin bài. Tương tự
như vậy, trên Báo Thanh Niên, nội dung tuyên truyền chủ quyền bảo vệ chủ
quyền biển đảo cũng là trọng tâm, chiếm 57,9% với 419 tin bài, chủ đề phát
triển nguồn lực chiếm 42,1% với 305 tin bài. Sở dĩ như vậy vì đây là hai tờ
báo lớn, Nhân Dân là cơ quan Trung ương của Đảng, là tiếng nói của Đảng,
Nhà nước và nhân dân Việt Nam, trong khi Thanh Niên cũng là diễn đàn của
Hội Liên hiệp Thanh Niên Việt Nam, lượng phát hành lớn, rộng khắp, hướng
đến nhiều đối tượng độc giả khác nhau (Nhân Dân đang ở top đầu về số lượng
phát hành lớn với 20 – 30 vạn bản/kỳ phát hành, trong khi Thanh Niên là
khoảng 460.000 bản/kỳ) nên vấn đề khẳng định chủ quyền lãnh thổ là vô cùng
quan trọng. Song song với nó là phần phát triển nguồn lực biển đảo, vì nhiệm
56
vụ bảo vệ chủ quyền và phát triển nguồn lực kinh tế Biển luôn được đi đôi với
nhau. Điểm đặc biệt của báo Thanh Niên và Nhân Dân chính là ở chỗ đã đề
cập đến các vấn đề quốc tế, đặt bối cảnh tình hình Biển đảo của ta trong bối
cảnh quốc tế nói chung, vừa tạo được sự ủng hộ đồng thuận, vừa tạo được
tiếng nói khẳng định chủ quyền của chúng ta ngoài lãnh thổ Việt Nam.
Ngược lại với Báo Nhân Dân và Thanh Niên, Báo Khánh Hòa có tỉ lệ
tin bài về chủ đề phát triển nguồn lực biển đảo chiếm tỷ trọng lớn nhất, chiếm
đến 57 % với 393 tin bài, chủ đề về chủ quyền biển đảo chiếm 43% với 297
tin bài, trong số đó có cả tin bài đề cập đến vấn đề biển đảo quốc tế. Sở dĩ như
vậy là bởi, đây là một tờ báo địa phương, đối tượng độc giả bị hạn chế, chủ
yếu hướng đến nhân dân tỉnh Khánh Hòa, lượng phát hành ít. Hơn nữa, thời
gian gần đây, từ cuối năm 2012, du lịch phát triển mạnh, vì vậy, Báo Khánh
Hòa đã xây dựng chuyên trang du lịch trở thành một điểm nhấn trong hoạt
động thông tin của mình. Với những lý do đó, nên Báo Khánh Hòa nên ít đề
cập đến mảng đề tài tuyên truyền chủ quyền mà thiên về mảng đề tài phát
triển nguồn lực biển đảo, hướng đến đề cập đến cuộc sống của người dân
vùng biển đảo. Ở Khánh Hòa có lợi thế về du lịch với biển Nha Trang đẹp nổi
tiếng cũng như hoạt động đánh cá của người dânnên Báo Khánh Hòa không
thiên về khai thác mảng đề tài chủ quyền mà khai thác về vấn đề phát triển
nguồn lực Biển, nhấn mạnh đến những đề tài về cuộc sống của ngư dân
cũng như phát triển du lịch biển đảo.
Nhìn chung, ba tờ báo có nhiều nét tương đồng về tần suất phát hành
(hàng ngày) và đề tài, khác nhau về công chúng mục tiêu, Báo Nhân Dân
hướng đến độc giả trong cả nước, đặc biệt là lứa tuổi trung niên trở lên,
Báo Thanh Niên cũng hướng đến nhân dân trong toàn lãnh thổ của Việt
Nam nhưng lại hướng đến những người trẻ hơn còn Báo Khánh Hòa lại
mang tính địa phương, hướng đến nhân dân trong tỉnh. Bởi vậy, Báo Nhân
Dân và Thanh Niên có nội dung, chủ đề khái quát cao về phạm vi biên giới
lãnh thổ, biển đảo, còn Báo Khánh Hòa lại tập trung chủ yếu về vấn đề
cuộc sống của ngư dân cũng như những đề tài liên quan đến phát triển
57
nguồn lực biển đảo.
2.2 Nội dung thông tin về biển đảo
2.2.1 Nội dung thông tin biển đảo trên Báo Nhân Dân, Báo Khánh
Hòa và Báo Thanh Niên
Theo chủ trương của Đảng và chính phủ đối với phát triển ven biển và
hải đảo từ 2011 – 2020: “Phát triển mạnh kinh tế biển tương xứng với vị thế
và tiềm năng biển của nước ta, gắn phát triển kinh tế biển với bảo đảm quốc
phòng, an ninh, bảo vệ chủ quyền vùng biển…”. Theo chủ trương này, công
tác thông tin biển đảo có hai vấn đề phải tập trung đó là: Bảo vệ chủ quyền và
phát triển nguồn lực biển đảo. Đây là cơ sở để tác giả khảo sát phân tích vấn
đề trên các báo. Trên cơ sở đó, tác giả khảo sát chủ đề thông tin bảo vệ chủ
quyền biển đảo theo 2 nội dung chính: Một là thông tin chủ quyền và bảo vệ
chủ quyền biển đảo, hai là phát triển nguồn lực biển đảo.
2.2.1.1 Về nội dung thông tin chủ quyền và bảo vệ chủ quyền biển đảo.
Bảo vệ vững chắc chủ quyền Biển đảo Việt Nam là trách nhiệm thiêng
liêng của mỗi công dân Việt Nam đối với lịch sử dân tộc, là nhân tố quan
trọng bảo đảm cho dân tộc ta phát triển bền vững. Nghị quyết Đại hội lần thứ
XI của Đảng chỉ rõ: “Mục tiêu, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh là bảo vệ vững
chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; giữ vững chủ quyền
biển, đảo, biên giới, vùng trời; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ
XHCN…”. Đó là ý chí sắt đá, quyết tâm không gì lay chuyển được của dân
tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Thời gian qua, sự biến đổi khôn lường của tình hình thế giới, khu vực
và trên biển Đông khiến nhiệm vụ phòng thủ, bảo vệ đất nước, nhất là an
ninh trên biển trở thành nhiệm vụ nhiều khó khăn, thách thức. Để hoàn
thành nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, điều tiên quyết đặt
ra là phải không ngừng củng cố, tăng cường sức mạnh quốc gia, xây dựng
thế trận quốc phòng toàn dân trên biển. Trong đó, xây dựng thế trận lòng
dân, đảm bảo bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ
58
quốc là vấn đề chiến lược, mang tính cấp bách, then chốt.
Bên cạnh đó, nếu không bảo vệ được chủ quyền thì chúng ta không có
căn cứ để thực hiện khai thác nguồn lực Biển. Thêm nữa, vấn đề tranh chấp
chủ quyền Biển đảo trên Biển đông những năm qua đang trở nên căng thẳng.
Đảng và nhà nước ta đã có những chủ trương biện pháp cụ thể về vấn đề
tuyên truyền Biển đảo và đặc biệt về chủ quyền Biển đảo.
Theo kết quả khảo sát, nội dung thông tin biển đảo về các vấn đề: về
chủ quyền; Hoạt động bảo vệ chủ quyền biển đảo; thông tin biển đảo quốc tế
đều được ba tờ báo là Nhân Dân, Khánh Hòa và Thanh Niên tập trung khai
thác trong những tác phẩm của mình. Vấn đề thông tin chủ quyền và bảo vệ
chủ quyền biển đảo đều được phản ánh trong các bài viết trên ba tờ báo, tuy
nhiên mỗi tờ báo lại có một cách khai thác và thể hiện khác nhau về nội
dung này:
a) Báo Nhân Dân
Vấn đề thông tin chủ quyền và bảo vệ chủ quyền BĐ được những
người làm báo quan tâm bởi Biển đảo là một phần lãnh thổ quan trọng của
nước ta. Báo Nhân Dân đã xây dựng được một nội dung với chủ đề hết sức đa
dạng và thành công về thông tin chủ quyền và bảo vệ chủ quyền biển đảo.
Báo Nhân Dân hiện nay đã có nhiều chuyên mục phục vụ công tác
cung cấp thông tin về vấn đề bảo vệ chủ quyền biển đảo như “Hoàng Sa –
Trường Sa”, “Biển Đông – DOC – COC”, hay “ Các bài hát về Trường Sa –
Hoàng Sa”, “Theo dòng thời sự” với các đề tài trong công tác, chiến đấu của
các lực lượng vũ trang, bộ đội biên phòng và đồng bào các dân tộc tham gia
bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới quốc gia, phát triển kinh tế - văn hóa - xã
hội, xây dựng biên giới vững mạnh, đoàn kết hữu nghị với các nước láng
giềng. Từ khi xây dựng và hoạt động đến nay báo Nhân dân kết hợp với
các đơn vị lực lượng khác đã luôn luôn nỗ lực phấn đấu qua các thời kỳ
khác nhau, góp phần quan trọng đảm bảo đời sống văn hoá tinh thần cho
cán bộ chiến sỹ và nhân dân biên giới, thực hiện tốt nhiệm vụ công tác
59
thông tin.
Sự ra đời của các chuyên mục về biên giới, hải đảo có ý nghĩa quan
trọng đối với công tác thông tin vận động của cục chính trị. Cụ thể:
- Về chính trị: Chương trình góp phần thông tin đường lối, chính sách
của đảng về quốc phòng, an ninh biên giới. Xây dựng hình ảnh đẹp về người
chiến sĩ biên phòng trên mặt trận bảo vệ an ninh biên giới trong lòng nhân
dân. Củng cố tình quân dân “cá nước”…
- Về kinh tế - văn hóa - xã hội: Nhờ có báo in mà đồng bào những vùng
sâu vùng xa, những nơi biên giới xa xôi ít tiếp cận với thông tin đại chúng có
dịp cập nhật những thông tin xã hội, củng cố nhận thức và trách nhiệm của
đồng bào cũng như toàn xã hội về việc bảo vệ an ninh biên giới. Hoạt động
thông tin của bộ đội biên phòng diễn ra dễ dàng hơn, cán bộ chiến sĩ có dịp
hoc hỏi lẫn nhau qua những tấm gương tiêu biểu, phá tan những âm mưu
chính trị của địch.
Chuyên mục “Trường Sa – Hoàng Sa”
Tác phẩm về đề tài biển đảo của chuyên mục không chỉ đa dạng về số
lượng mà còn nổi bật với sự khai thác vấn đề sâu sắc cuốn hút. Nói đến chủ
quyền và bảo vệ chủ quyền biển đảo, chuyên mục đã có những tác phẩm phản
ánh đa diện như: “Hòa Bình, trưng bày chuyên đề “Hoàng Sa – Trường Sa
của Việt Nam – Những bằng chứng lịch sử” (Thứ 3, ngày 27/01/2012);
“Triển lãm tư liệu về Trường Sa – Hoàng Sa ” tại Thừa Thiên Huế (Thứ ba,
ngày 15/07/2013); Nhà nghiên cứu Phan Thuận An với châu bản triều
Nguyễn khẳng định chủ quyền Hoàng Sa (2/3/2013); Tuần lễ Biển đảo lý Sơn,
dư luận quốc tế về chủ quyền Hoàng Sa, trường sa; Nhà cổ Lý sơn, nhân
chứng sống về chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa…”
Chuyên mục “ Theo dòng thời sự ”
Coi nhiệm vụ thông tin về pháp lý chủ quyền là nhiệm vụ hàng đầu,
chuyên mục “Theo dòng thời sự” đã khéo léo khẳng định chủ quyền của chúng ta
qua những chứng cứ trong lịch sử: “Chủ quyền Việt Nam trên cửu đỉnh Huế;
60
Khánh Hòa đón nhận Bằng di tích cấp Quốc gia Bia chủ quyền Quần đảo Trường
Sa, Hà Nội – 300 hình ảnh, tư liệu, hiện vật khẳng định chủ quyền Quần đảo
Hoàng Sa, Trường Sa, của Việt Nam, ( Thứ 3, ngày 6/7/2012); Bồi dường kiến
thức biên giới biển đảo cho cán bộ, giáo viên THPT (ngày 22/2/2013 )… Đây là
một cách thông tin khéo léo do sự khẳng định chủ quyền hiện tại từ những chứng
cứ chủ quyền lịch sử không thể chối cãi của chúng ta về quần đảo Trường Sa và
Hoàng Sa.
Song song với hoạt động thông tin về chủ quyền, chuyên mục “Theo
dòng thời sự” đã có những tác phẩm về vấn đề bảo vệ chủ quyền như: “Các
hành động cản trở gây hấn của tàu Trung Quốc với tàu chấp pháp của Việt
Nam; Xu hướng giải quyết vụ việc của Việt Nam; Diễn biến chính vụ Trung
Quốc hạ đặt giàn khoan HD 981 trong thềm lục địa của Việt Nam; Các tuyên
bố của Trung Quốc trước phản đối của Việt Nam, hành động cản trở gây hấn
của Tàu Trung Quốc đối với tàu chấp pháp của Việt Nam (10/5/2014)…”.
Những tác phẩm này đã nêu được ý chí kiên định, quyết tâm giữ vững chủ
quyền lành thổ của chúng ta, từ những người dân yêu nước đến các lực lượng
chức năng đang ngày đêm bám biển.
Cách thông tin của các chương trình cũng hết sức thuyết phục, dám
nhìn thẳng vào vấn đề với những phân tích lập luận chặt chẽ. Ví dụ như trong
“Hà Nội – 300 hình ảnh, tư liệu, hiện vật khẳng định chủ quyền Quần đảo Hoàng
Sa, Trường Sa, của Việt Nam
Nói đến việc lực lượng chức năng thực thi nhiệm vụ, trong bài viết:
“Trước bão số 2, các lực lượng thực thi pháp luật vẫn kiên trì bám trụ Hoàng
Sa”đã đề cập rất xúc động về tinh thần của cảnh sát biển và ngư dân kiên
cường bám biển trước hành động ngang nhiên vi phạm chủ quyền lãnh thổ
biển đảo của Việt Nam.
Chuyên mục “ Biển Đông – DOC – COC ”
Chuyên mục “Biển Đông – DOC – COC” rất chú trọng thông tin các
vấn đề biển đảo quốc tế, bao gồm các vấn đề như hợp tác quốc tế, thông tin
61
quốc tế liên quan đến vấn đề biển đảo... Có thể kể đến như các bài viết như:
Malaysia đề nghị ASEAN thảo luận không chính thức về vấn đề biển Đông
(03/08/2013), Hợp tác ASEAN – Trung Quốc về tìm kiếm, cứu hộ trên biển
Đông( 19/06/2013), Đối thoại chiến lược Quốc phòng Việt Nam – Trung
Quốc lần thứ 4 (06/06/2013), Biển Đông – Địa thế chiến lược và tiềm năng
kinh tế; Vấn đề biển Đông trên bàn nghị sự ASEAN khi có DOC…Những tác
phẩm này vừa thể hiện quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về các vấn đề
biển đảo quốc tế, đồng thời là bài học kinh nghiệm từ các nước trên thế giới
về vấn đề biển đảo. Theo tác giả, đây là điểm đột phá mới của chuyên mục so
với các chuyên mục khác cùng đề tài.
Báo Nhân Dân đã đạt được những hiệu quả to lớn trong lĩnh vực thông
tin về biển đảo. Những vấn đề được đề cập đến đều rất thẳng thắn, chính xác
và kịp thời. Cách khai thác với góc nhìn rộng, đa diện trong cả không gian
(trong và ngoài nước) và thời gian (quá khứ, hiện tại), các chuyên mục trên
báo Nhân Dân đã thành công trong việc thông tin về biển đảo cũng như xây
dựng thương hiệu uy tín cho mình. Theo một số chuyên gia, đây là một trong
những tờ báo thể hiện xuất sắc nội dung thông tin về biển đảo trên báo in Việt
Nam hiện nay.
b) Báo Khánh Hòa
Công tác thông tin về chủ quyền và bảo vệ chủ quyền biển đảo là một
trong hai nội dung chính được phản ánh trên Báo Khánh Hòa. Có thể kể đến
một số tác phẩm như: Cuộc sống ngư dân nơi hải đảo (Chuyên mục Xã hội
ngày 08/12/2011), Vươn lên khó khăn làm kinh tế (Chuyên mục kinh tế ngày
06/9/2012), Một ngư dân vững vàng ý chí vươn khơi, bám biển (Chuyên mục
Xã hội ngày 04/02/2014, Triển lãm sách về Quân đội Nhân dân Việt Nam
(Chuyên mục Văn hóa ngày 10/02/2014), Phát triển đội tàu hậu cần dịch vụ
nghề cá (Chuyên mục Kinh tế ngày 10/02/2014), Bồi đắp niềm tin, tình yêu
biển đảo (Chuyên mục Văn hóa ngày 25/05/2014), Bộ tư lệnh BĐBP ký kết
62
với lực lượng Cảnh sát biển (28/5/2014)…
Cho dù chủ đề này không phải là đặc trưng của mình nhưng Báo Khánh
Hòa đã thể hiện khá thành công. Với những tác phẩm có nội dung sinh động
và hấp dẫn, báo đã đáp ứng được nhu cầu của hơn một triệu dân tỉnh Khánh
Hòa cũng như nhân dân cả nước.
Trên một số tin bài, chủ quyền về biển đảo đã được thể hiện một cách
mạnh mẽ và quyết liệt bằng ý chí của toàn Đảng toàn dân ta. Có thể kể đến
những tác phẩm như: Báo mạng Trung Quốc: Gây sự trên biển Đông là sai
lầm chiến lược, Hoạt động Trung Quốc không làm thay đổi thực tế chủ quyền
Việt Nam (Chuyên mục Chính trị số ra ngày 17/4/2014)… đã thể hiện rõ nét
những điều này.
Bên cạnh công tác thông tin về chủ quyền, hành động bảo vệ chủ quyền
biển đảo đã được thể hiện qua những tin bài: Bộ tư lệnh BĐBP ký kết với lực
lượng Cảnh sát biển [28/5/2014]; Trung úy Lê Công Chiến với sáng kiến làm
ngàn phao cảnh báo an toàn trên Biển; Những người lính bám đảo
[28/12/2013] ; Những người lính giữ Biển [5/4/2014]…
Cụ thể, trong bài viết “Một ngư dân vững vàng ý chí vươn khơi, bám
biển” đã thể hiện ý chí kiên cường của ngư dân quyết tâm bám biển, khẳng
định chủ quyền thiêng liêng của Biển đảo nước ta. Ở phóng sự ngắn: Ngư dân
Khánh Hòa kiên cường bám biển [số ra ngày 12/5/2014] đã khẳng định và
giải thích rất rõ ý chí quyết tâm của ngư dân với biển: “Với ngư dân biển là
nguồn sống. Vì thế dù trong những ngày gần đây, dù liên tục bị tàu Trung
Quốc cản trở, đe dọa phun vòi rồng gây thiệt hại lớn về tài sản khi đi ngang
qua khu vực giàn khoan HD 981 hạ đặt trái phép, nhưng họ vẫn không hề
chùn bước, vẫn kiên cường bám biển, chuẩn bị hậu cần, ngư lưới cụ sẵn sàng
cho những chuyến biển tiếp theo.”
Trong những tác phẩm này, nổi bật lên hình ảnh của những người dân
như những người chiến sỹ, ngày đêm bám biển, thể hiện quyết tâm đập tan
những ý đồ bành chướng của Trung Quốc. Bên cạnh họ luôn thấp thoáng hình
ảnh những người chiến sỹ biên phòng tuần tra, cứu hộ, sửa chữa tàu thuyền hỏng
63
cho ngư dân vươn khơi.
Để thực hiện công tác đảm bảo an ninh vùng biển, lực lượng bộ đội
biên phòng thể hiện sự phối hợp với các lực lượng chức năng qua tin “Bộ tư
lệnh Cảnh sát biển ký kết Quy chế”: Nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của 2
lực lượng và tạo điều kiện hỗ trợ, giúp đỡ nhau hoàn thành nhiệm vụ chính trị
của mỗi lực lượng trên các vùng biển, Vừa qua tại Hà Nội, Bộ Tư lệnh BĐBP
và Bộ tư lệnh Cảnh sát biển ký kết Quy chế trong thực hiện nhiệm vụ quản lý,
bảo vệ chủ quyền và an ninh, trật tự trên các vùng Biển.
Báo Khánh Hòa đã thành công trong công tác thông tin, thể hiện được
chủ quyền và công tác bảo vệ chủ quyền biển đảo của tổ quốc. Tuy nhiên một
số đề tài còn mang tính hình thức, chung chung, chủ yếu mới khai thác những
đề tài trong nước, ít quan tâm đến mảng đề tài quốc tế cũng như lịch sử như
trên Báo Nhân Dân. Đây là mặt hạn chế trong việc khai thác đề tài của Báo
Khánh Hòa.
c) Báo Thanh Niên
Sự ra đời của những bài viết về chủ đề biển đảo có ý nghĩa quan trọng
đối với công tác thông tin vận động của cục chính trị, bộ đội biên phòng và
các bạn ngành khác đến những tầng lớp trẻ - thế hệ tương lai của đất nước,
góp phần tuyên truyền, đường lối, chính sách của đảng về quốc phòng, an
ninh biên giới.
Trong nhiều năm qua, cùng với các cơ quan thông tấn báo chí, biển đảo
luôn là chủ đề được sự quan tâm, chỉ đạo trực tiếp của Đảng và Nhà nước, Bộ
Quốc Phòng, Cục chính trị, báo Thanh niên đã thực hiện tốt công tác thông tin
nhiệm vụ thiêng liêng trong xây dựng và quản lý bảo vệ biên giới biển đảo của
Tổ Quốc thông qua hàng loạt các bài viết được đăng liên tục trong hầu hết tất
cả các số báo phát hành.
Trong quá trình thực hiện luận văn có một sự kiện đặc biệt diễn ra, đó
là vụ việc Trung Quốc ngang nhiên đưa giàn khoan 981 hạ đặt trái phép vào
vùng thềm lục địa của Việt Nam. Đây là hành động đặc biệt nghiêm trọng, vi
phạm chủ quyền và quyền chủ quyền của nước ta, vi phạm công ước luật biển
64
1982 của Liên hợp quốc, Luật Biển Việt Nam...
Sự kiện đã nhận được sự chú ý của công chúng, trên công cụ tìm kiếm
Google ngày 2/8/2014, khi gõ cụm từ “giàn khoan HD 981” trong 0,40 giây
hiện ra khoảng 1.870.000 kết quả, đây là con số rất lớn, biểu thị sự quan
tâm của nhân dân trong và ngoài nước ta về vấn đề biển đảo. Sự việc bắt
nguồn từ ngày 2/5/2014, Trung Quốc đã ngang ngược hạ đặt giàn khoan
HD 981 trái phép ở vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa Việt Nam, vi
phạm nghiêm trọng quyền chủ quyền của quốc gia.
Trong suốt khoảng thời gian đó, trên báo Thanh Niên đã có một loạt bài
viết được đăng tải với những thông tin chính xác, cụ thể thẳng thắn và tuyên
truyền rõ quan điểm của Đảng và Nhà nước như :
Bài viết:“Cuốn sách của Trung Quốc về đường lưỡi bò là vô giá trị”
(số ngày 14/05/2014) hay như bài viết:“Để công dân biết Hoàng Sa là của
Việt Nam” (số ngày 15/012014):“Lá thư được soạn bằng tiếng Anh và tiếng
Việt, do các trí thức trong nhóm nghiên cứu biển Đông tại Pháp và thành viên
Quỹ Nghiên cứu biển Đông đồng soạn thảo”.
Một tác phẩm nổi bật nữa phải kể đến là: “Trung Quốc xây sân bay trái
phép tại bãi đá Chữ Thập” (số ngày 19/5/2014).
Tóm lại, nội dung về chủ đề biển đảo đã được thể hiện sinh động và đa
chiều trong các các bài viết trên Báo Thanh Niên. Từ những vấn đề thông tin
chủ quyền và bảo vệ chủ quyền biển đảo đến cuộc sống của người dân và các
chiến sĩ biên giới hải đảo. Sự thành công của các bài viết là đã tạo được sự
gần gũi, thân thiết và khơi dậy niềm tự hào tự tôn dân tộc trong lòng độc giả.
Để tăng cường hiệu quả thông tin về biển đảo, thời gian qua, chúng ta đã đẩy
mạnh công tác thông tin trong nhân dân và hướng đến cộng đồng quốc tế.
Đây là một hướng tác động mới đầy hiệu quả trong công tác thông tin của
nước ta. Nó đã vạch trần bộ mặt của chủ nghĩa bành chướng Trung Quốc với
thế giới và làm cho dư luận thế giới hiểu được chính nghĩa của Việt Nam.
(Hình thức thông tin ra nước ngoài, tận dụng sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế
65
đã được phía Trung Quốc thực hiện trước chúng ta rất nhiều). Ngoài ra,
những thông tin quốc tế về tình hình biển đảo, kinh nghiệm và bài học của các
nước về biển đảo cũng là những thông tin hữu ích cho chúng ta học tập nghiên
cứu và ứng dụng.
2.2.1.2 Thông tin về phát triển nguồn lực biển đảo:.
Biển Việt Nam chứa đựng nhiều tiềm năng to lớn để phát triển về kinh
tế. Đảng ta đã khẳng định trong Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020:
“Thực hiện quá trình dân sự hóa trên biển, đảo gắn với tổ chức dân cư, tổ
chức sản xuất và khai thác biển. Có chính sách đặc biệt để khuyến khích
mạnh mẽ nhân dân ra định cư ổn định và làm ăn dài ngày trên biển; thí điểm
xây dựng các khu quốc phòng - kinh tế tại các đảo, quần đảo Trường Sa,
vùng Biển, Đảo của Tổ quốc”. Vì vậy, để khai thác, sử dụng hiệu quả và biến
các tiềm năng ấy thành nguồn lực, động lực đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH
đất nước, Đảng và Nhà nước đã tập trung đầu tư nguồn lực thích đáng cho các
ngành kinh tế mũi nhọn, có thế mạnh ở các vùng ven biển, trên các đảo và
quần đảo.
Chính vì ý thức được tầm quan trọng từ việc khai thác thế mạnh từ
nguồn lực Biển đảo, Báo Nhân Dân, Khánh Hòa và Thanh Niên đã có sự nỗ
lực không ngừng trong việc thể hiện đề tài này.
a) Báo Nhân Dân
CM NSBC đã đề cập đến vấn đề phát triển nguồn lực Biển đảo bao
gồm những nội dung: Hoạt động của lực lượng chức năng; Đời sống tinh thần
của nhân dân vùng Biển đảo, Nguồn lực Biển đảo Việt Nam.
Đề tài phát triển nguồn lực Biển đảo trên CM NSBC chỉ có 130 tin bào
(chiếm 41,8% số tác phẩm về đề tài Biển đảo) tuy không nhiều bằng đề tài
tuyên truyền và bảo vệ chủ quyền Biển đảo (với 182 tác phẩm chiếm 58,2%
số tác phẩm về đề tài Biển đảo) nhưng cũng khá đa dạng với rất nhiều tác
phẩm thuộc nhiều đề tài như: Lý Sơn hôm nay và giáo dục truyền thống cho
66
thanh niên [18/5/2013]; Biển Đông - Địa chiến lược và tiềm năng kinh tế;
Tuần lễ biển và hải đảo 2013 - Chung tay hành động vì biển đảo quê hương;
Biển Trà Cổ, dấu ấn một thủa khai hoang miền biên viễn; Bình yên trên đảo
Cô Tô [số ngày 15/6/2013]….
Nói đến đời sống của những người đang hàng ngày hàng giờ gắn bó với
Biển đảo khơi xa, Báo Nhân Dân đã có những tác phẩm hết sức xúc động:
Đời sống của Chiến sỹ nhà giàn DK 1/15; Chuyện học chữ ở Trường Sa;
Nghe tiếng đất liền từ biển xa; Lý Sơn hôm nay và giáo dục truyền thống cho
thanh niên [số ngày 18/5/2013]… Trong các tác phẩm này cuộc sống dung dị
của những chiến sỹ, những người dân ngoài Biển đảo gây xúc động cho người
xem. Những tác phẩm dường như đã đưa cuộc sống ở Biển đảo gần thêm với
đất liền.
Biển đảo của chúng ta vô cùng giàu đẹp và thanh bình, biểu hiện ở những
phóng sự giàu chất thơ: Bình yên trên đảo Cô Tô; Màu Xanh trên đảo Trường
Sa, Biển Trà Cổ, dấu ấn một thủa khai hoang miền biên viễn... Trong những tác
phẩm này, hình ảnh của Biển đảo quê hương được phản ánh hết sức tươi đẹp,
yên bình làm tăng thêm lòng tự hào dân tộc của người Việt với từng tấc núi
sông của cha ông để lại.
Đề tài phát triển nguồn lực Biển đảo đã có những tin bài hay về hoạt
động hỗ trợ cho quá trình phát triển kinh tế Biển đảo như: Thanh niên hướng
tới Trường Sa, Hoàng Sa; Tuần lễ Biển và Hải Đảo 2013 – Chung tay về Biển
đảo Quê Hương [số ngày 9/11/2013]…
Báo Nhân Dân đã phản ánh một hoạt động thật gần gũi với đời sống
ngư dân. Đây là một trong những sự trợ giúp hiệu quả, góp phần thúc đẩy
kinh tế biển đảo phát triển, tạo thế và lực cho sự phát triển của chính trị, văn
hóa - xã hội.
b) Báo Khánh Hòa:
Báo Khánh Hòa có thế mạnh về đề tài nguồn lực biển đảo, bởi đây là
67
một tờ báo địa phương, nơi có quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền Việt
Nam. Hơn nữa, Khánh Hòa là một trong những vùng kinh tế biển trọng điểm
với những hoạt động đánh bắt cá của ngư dân… Một loạt tin bài đã thể hiện
được hình ảnh này: Tuổi trẻ Khánh Hòa hướng về biển đảo; [số ngày
2/6/2012]; Cuộc sống ngư dân nơi hải đảo (Chuyên mục Xã hội ngày
08/12/2011), Vươn lên khó khăn làm kinh tế (Chuyên mục kinh tế ngày
06/9/2012), Phát triển đội tàu hậu cần dịch vụ nghề cá (Chuyên mục Kinh tế
ngày 10/02/2014)…
Các tác phẩm thể hiện đề tài “tình quân dân” như: Sâu nặng tình
quân dân (số ngày 6/10/2011); Thuyền trưởng xa bờ phải học (số ngày
17/11/2012); Cánh sóng bình yên nơi phên dậu tổ quốc (số ngày 2/1/2013);
Niềm tin nơi biển cả (số ngày 25/8/2012); Giã cào ở Quảng Nam (số ngày
29/6/2013); Nghề Bàng (số ngày 10/8/2013); Sát cánh cùng ngư dân (số
ngày 10/8/2014); Chuyến hàng chở nặng nghĩa tình ( số ngày 25/1/2014)
… đã thể hiện trọn vẹn tấm chân tình đó.
Nói về hoạt động đời sống tinh thần của nhân dân vùng biển đảo, trong
bài báo: “Phát triển giáo dục vùng biên cương, hải đảo giúp giữ vững chủ
quyền lãnh thổ Tổ quốc” (ra ngày 31/2 /2012) có đề cập đến chủ đề này như
sau: “Việc phát triển giáo dục không chỉ giúp các khu vực vùng sâu, vùng xa,
vùng biên giới, hải đảo thu hẹp khoảng cách với các khu vực khác trong
nước, mà còn giúp người dân những khu vực này yên tâm bám biển. Chương
trình hôm nay sẽ nói về việc phát triển giáo dục tại một số vùng biên giới, hải
đảo của Việt Nam”. Với bài viết này, tác giả đã có cách dẫn dắt rất khéo léo
bằng lời bài đồng dao của các em nhỏ đang trong giờ học trên đảo Trường
Sa:“Nu na nu nống; Đánh trống phất cờ; Biển cả xa mờ; Có hai quần đảo;
Hoàng Sa, Trường Sa…”
Bài “Đồng dao biển đảo” đã được đọc đầy tự hào trong giờ tập đọc của
các em nhỏ tại trường tiểu học thị trấn Trường Sa thuộc huyện đảo Trường
Sa, cùng với những lời bình sâu sắc đã gây ấn tượng mạnh và gợi nhiều suy nghĩ
68
cho người xem.
Với các tác phẩm này, người xem có thể nhận thức một cách chân thực
đời sống của người dân miền Biển đảo xa xôi của Tổ quốc.
c) Báo Thanh Niên
Báo Thanh Niên cũng không có thế mạnh về đề tài nguồn lực biển đảo
(chỉ chiếm 42,1% tổng số bài viết về đề tài biển đảo). Tuy nhiên, với đối tượng
hướng tới là thế hệ trẻ thì hình ảnh những người lính quân hàm xanh giúp đỡ
người dân các vùng biên giới hải đảo xa xôi đã trở nên thân thiết và không
còn xa lạ nữa. Một loạt bài viết đã thể hiện được hình ảnh này như: Nhân dân
Việt Nam gửi ra hải đảo (Số ngày 27/10/2011), Nơi ấy Trường Sa (Số ngày
25/12/2012), Mong muốn tình yêu biển đảo được lan tỏa (Số ngày
03/09/2014), Kiên cường ngư dân (Số ngày 29/04/2014), Kết nối biển khơi
với đất liền (Số ngày 2/6/2012); Sóng đã lên ngàn (Số ngày 16/6/2012). Các
bài viết đó đã thể hiện được tình cảm quân dân sâu sắc như “cá – nước” giữa các
chiến sỹ bộ đội với nhân dân vùng biên giới biển đảo. Là những người lính, trực
tiếp gắn bó với đời sống của người dân nên những tác phẩm về mảng đề tài này
hết sức chân thực và gây ấn tượng với người đọc. Các tác phẩm thể hiện đề tài
“tình quân dân” đã thể hiện trọn vẹn tấm chân tình đó.
Ngoài tin, có rất nhiều phóng sự thể hiện nội dung này, điển hình như:
“Ngày hội xuân hướng về biển đảo (số ngày 20/01/2014), Di vật cổ ở Trường
Sa – Hoàng Sa (số ngày 26/09/2014)… Trong bài viết “Mong muốn tình yêu
biển đảo được lan tỏa” (số ngày 03/09/2014) đã có đoạn phản ánh công tác
tuyên truyền biển đảo của bộ đội biên phòng cho ngư dân cũng như tình cảm
gắn bó của con người nơi đây.
Tóm lại, nội dung chủ đề phát triển nguồn lực biển đảo đã được thể
hiện sinh động và đa chiều trong các tin bài của Báo Nhân Dân, Khánh Hòa
và Thanh Niên. Từ những vấn đề tuyên truyền chủ quyền và bảo vệ chủ
quyền biển đảo đến vấn đề phát triển nguồn lực biển đảo. Sự thành công của
69
các tác phẩm là đã tạo được sự gần gũi, thân thiết với độc giả với chính những
tin bài về đề tài này. Để tăng cường hiệu quả thông tin bảo vệ chủ quyền biển
đảo, thời gian qua chúng ta đã đẩy mạnh công tác thông tin trong nhân dân và
hướng đến cộng đồng quốc tế. Đây là một hướng tác động mới đầy hiệu quả
trong công tác thông tin của nước ta. Nó đã vạch trần bộ mặt của chủ nghĩa
bành chướng Trung Quốc với thế giới và làm cho dư luận thế giới hiểu được
chính nghĩa của Việt Nam. (Hình thức tuyên truyền ra nước ngoài, tận dụng
sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế đã được phía Trung Quốc thực hiện trước
chúng ta rất nhiều). Ngoài ra, những thông tin quốc tế về tình hình biển đảo,
kinh nghiệm và bài học của các nước về biển đảo cũng là những thông tin hữu
ích cho chúng ta học tập nghiên cứu và ứng dụng.
2.3 Hình thức thông tin bảo vệ chủ quyền biển đảo
a) Báo Nhân Dân
Hình thức của báo in thể hiện ở thể loại, ngôn ngữ, hình ảnh... Bên
cạnh nội dung, hình thức là một yếu tố vô cùng quan trọng, làm nên giá trị
của tác phẩm. So với các thể loại khác, tin là thể loại được sử dụng phổ biến
nhất, năng động nhất và thể hiện rõ nhất sự nhạy bén, tính chất xác thực của
báo chí trong việc phản ánh một hiện thực luôn vận động, biến đổi. Đối tượng
của tin là sự kiện thời sự. Do vậy tin chỉ có nhiệm vụ phản ánh các sự kiện có
thực tiêu biểu, mới xảy ra trong đời sống, chứ không đi sâu vào giải quyết các
vấn đề. Tin thường có dung lượng ngắn gọn, thông tin sự kiện một cách khách
quan, dễ hiểu và thường tập trung trả lời những câu hỏi cơ bản.
Qua khảo sát số lượng tin bài nói chung và tin bài về đề tài biển đảo từ
tháng 5/2011 đến tháng 5/2014, có thể thấy tin là thể loại xuất hiện trong cả 3
chuyên mục.
Đa số các tin được sử dụng là tin là tin vắn, tin ngắn, tin dài hiện nay
rất ít được sử dụng trong chương trình. Ưu điểm của tin vắn là dễ nhớ, dễ tiếp
nhận, không chiếm nhiều thời gian của công chúng. Những tác phẩm viết theo
70
dạng tin này thường có hình tháp ngược hoặc viên kim cương. Do dung lượng
ngắn nên tin vắn rất dễ được sử dụng, dễ sắp xếp, trình bày, thường được bố
trí theo từng chùm tin của chuyên mục.
Trong 3 năm, chuyên mục tin tức về chủ đề biển đảo trên Báo Nhân
Dân đã có số lượng tác phẩm tăng lên so với thời gian trước đó trong khi tần
suất phát hành vẫn không thảy đổi. Điều đó chứng tỏ các tin đã được viết một
cách ngắn gọn, súc tích hơn thể hiện tính thời sự “nóng hổi”. Trong thời gian
này, các chuyên mục nổi bật với các tin vắn, cô đọng, được sắp xếp đơn lẻ
hoặc theo từng chùm tin phục vụ những chủ đề nhất định.
b) Báo Khánh Hòa
Báo Khánh Hòa sử dụng chủ yếu những hình thức chính là thể loại tin,
phóng sự, bình luận và phỏng vấn.
Phỏng vấn thể hiện về cuộc trao đổi hỏi đáp giữa một hoặc nhóm người
này với một nhóm người khác nhằm thu thập, khai thác thông tin về một vấn
đề được khán giả quan tâm một cách khách quan, trung thực. Thể loại phỏng
vấn được xây dựng thành chuyên mục độc lập. Mục đích của dạng phỏng vấn
này là khai thác được thông tin cụ thể về sự kiện hoặc ý kiến về vấn đề cấp
bách, thời sự. Người trả lời có thể là người chứng kiến hoặc người có uy tín
trong lĩnh vực. Câu trả lời không phải là thông cáo chính thức cho nên phong
cách phỏng vấn giống một cuộc nói chuyện bình thường. Ngoài phỏng vấn
Khánh Hòa còn sử dụng các thể loại khác là tin vắn, bài bình luận và phóng
sự điều tra. Tuy nhiên, được sử dụng nhiều nhất trong các bài viết vẫn là thể
loại tin.
Tác phẩm được thể hiện bằng thể loại phóng sự thì ngôn ngữ mềm mại,
linh hoạt hơn, với các bút pháp miêu tả, thuật (kể) và nghị luận (bàn và đánh
giá một vấn đề nào đó).
Ngược lại có một số bài viết thiên về ngôn ngữ thiên về kể, miêu tả và
71
phản ánh.
c) Báo Thanh Niên
Các bài viết trên Báo Thanh Niên sử dụng nhiều các hình thức khác
nhau như: thể loại tin, phóng sự, bài bình luận… và sử dụng yếu tố hình ảnh
rõ nét.
Các bài tin ngắn được sử dụng với số lượng đăng tải dày đặc, chiếm
45% trên tổng số các bài viết về chủ đề biển đảo, ví dụ như: “Triển lãm hình
ảnh, hiện vật về Trường Sa – Hoàng Sa, Hơn 400 triệu đồng ủng hộ chương
trình “Vì học sinh Trường Sa thân yêu” (số ngày 20/12/2013), Tinh bình
nhập ngũ, khát khao đến Trường Sa bảo vệ chủ quyền (số ngày 10/09/2013),
Học sinh mầm non chung tay vẽ bản đồ đất nước (số ngày 30/05/2014)…
Để thông tin tốt chính sách và quan điểm của Đảng và Nhà nước, trên
các bài viết đã thực hiện rất nhiều cuộc phỏng vấn với các cấp lãnh đạo để gia
tăng niềm tin và sự vững vàng của các chiến sĩ và ngư dân nơi đây.
Về việc sử dụng các yếu tố hình ảnh:
Hình ảnh luôn được xem là yếu tố đầu tiên cấu thành nên tác phẩm
phóng sự hay các bản tin dài. Ngôn ngữ hình ảnh, bối cảnh chụp, đây là yếu
tố then chốt trong thành công của tác phẩm hay bài viết. Đối với thể loại báo
in, hình ảnh là một trong những ngôn ngữ đặc trưng. Đây cũng là phương tiện
chuyển tải thông tin mạnh mẽ đến với công chúng khán giả. So với ngôn ngữ
đặc trưng của các loại hình báo chí khác, ngôn ngữ hình ảnh tạo ra hiệu quả
nhận thức, tâm lý và hành vi trực tiếp nhất, nhanh nhất. Các bài viết trong
Báo Thanh Niên đều có chất lượng hình ảnh rất tốt, đáp ứng được yêu cầu
của tác phẩm và làm hài lòng độc giả. Tuy nhiên, để đánh giá cụ thể và độc
lập thì mỗi bài viết có một ưu thế và hạn chế riêng của mình.
Theo Bảng thống kê tỷ lệ thể loại tin bài trên Báo Nhân Dân, Báo
Khánh Hòa và Báo Thanh Niên (phụ lục 2.6), chúng ta dựng được biểu đồ với
72
hình vẽ như sau:
Hình 2.5: Biểu đồ thể hiện tỉ lệ thể loại tác phẩm về đề tài biển đảo
trên Báo Nhân Dân, Báo Khánh Hòa và Báo Thanh Niên
(từ 5/2011 đến 5/2014)
Qua bản thống kê và biểu đồ trên, chúng ta có thể nhận ra có sự thay
đổi về thể loại khi thể hiện các nội dung có chủ đề biển đảo ở ba tờ báo.
Với đề tài biển đảo, cả ba tờ báo đều sử dụng thể loại tin tức là chủ
yếu. Nhân Dân với 716 tác phẩm, chiếm 58,7%, Thanh Niên với 374 tác
phẩm, chiếm 51,7% và Khánh Hòa là 42,1% với 163 tác phẩm. Tiếp theo là
thể loại bình luận cũng được Báo Nhân Dân, Báo Khánh Hòa và Báo Thanh
Niên lựa chọn sử dụng để chuyền tải các nội dung liên quan đến đề tài biển
đảo, để phân tích những vấn đề lớn. Như vậy có thể thấy không có sự thay đổi
nhiều về thể loại được sử dụng trên các báo. Nó được sử dụng một cách có
chọn lọc xung quanh vấn đề phán ánh chủ quyền, tranh thủ lợi thế từ lịch sử
cũng như sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế về vấn đề biển đảo. Thể loại tin
tức, phóng sự và bình luận vẫn chiếm đa só, trong đó nổi bật nhất vẫn là thế
loại tin tức, một phần cũng do đặc thù của báo ngày, cần đưa thông tin nhanh
73
tới độc giả.
2.4. So sánh, đánh giá thông tin bảo vệ chủ quyền biển đảo trên
các báo Nhân Dân, Khánh Hòa và Thanh Niên
Các chuyên mục trên báo Nhân Dân đã đạt được những hiệu quả to lớn
trong lĩnh vực tuyên truyền về biển đảo. Những vấn đề được đề cập đến đều rất
thẳng thắn, chính xác và kịp thời. Cách khai thác với góc nhìn rộng, đa diện
trong cả không gian (trong và ngoài nước) và thời gian (quá khứ, hiện tại),
Chuyên mục thành công trong việc tuyên truyền về Biển đảo cũng như xây dựng
thương hiệu uy tín cho mình. Theo một số chuyên gia, đây là một trong những
Báo in thể hiện xuất sắc nội dung tuyên truyền về biển đảo hiện nay.
“Với ba chuyên mục đã xây dựng, báo sẽ tiếp tục đẩy mạnh công tác
thu thập thông tin và kiểm soát chất lượng bài viết một cách tốt nhất. Đồng
thời bổ sung thêm một số hình thức thể hiện khác để thu hút hơn nữa sự quan
tâm của bạn đọc” (Theo Ông Nguyễn Văn Chương – Ủy viên Ban Biên tập
Báo Nhân Dân).
Báo Nhân Dân còn tích cực thông tin, bảo đảm sự ổn định chính trị xã
hội, chuyển tải kịp thời thông điệp của Chính phủ đến mọi người dân giúp
người dân hiểu được tình hình, thể hiện tình yêu nước chân chính, không để
bị kích động, bị lợi dụng, phương hại đến hình ảnh đất nước, cũng như an
ninh xã hội. Đồng thời tham gia rất tích cực và có hiệu quả trong việc tuyên
truyền, nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân về
vị trí chiến lược của biển, đảo Việt Nam, cũng như trách nhiệm bảo vệ chủ
quyền biên giới quốc gia của toàn xã hội. Thông tin trên báo chí đã góp phần
cổ vũ tinh thần yêu nước, khơi gợi lòng tự hào dân tộc trong xây dựng và bảo
vệ đất nước, nâng cao ý thức đấu tranh bảo vệ, giữ gìn chủ quyền biển, đảo
thiêng liêng của Tổ quốc trong các tầng lớp nhân dân, tạo sự đồng tình, ủng
hộ của bạn bè và dư luận quốc tế.
Cùng với Báo Nhân Dân, công tác thông tin bảo vệ chủ quyền biển đảo
trên Báo Khánh Hòa với số lượng các bài viết lớn đã đem lại những hiệu quả
74
tích cực về truyền thông.
Số lượng các bài viết được đăng đều đặn trên hầu hết các chuyên mục
khiến những vấn đề về biển đảo trở nên cấp thiết và đến gần hơn với các đối
tượng bạn đọc khác nhau.
“Trong những năm gần đây khi tình hình biển Đông diễn ra căng thẳng
thì số lượng và chất lượng các bài viết tăng lên đáng kể, chủ đề biển đảo gần
như phủ sóng hầu hết các chuyên mục đáp ứng như cầu người đọc.”(Theo Bà
Phạm Thị Ngọc Anh – Phó Tổng biên tập Báo Khánh Hòa)
Như vậy Báo Khánh Hòa đã đóng góp tích cực vào cuộc đấu tranh dư
luận, đấu tranh phản đối việc làm vi phạm luật pháp quốc tế của Trung Quốc
đưa giàn khoan Hải Dương 981 vào hoạt động trái phép trong vùng đặc quyền
kinh tế, thềm lục địa của nước ta; nêu rõ lập trường chính nghĩa của Việt
Nam; cổ vũ, động viên, tập hợp sức mạnh toàn dân tộc, kết hợp với sức mạnh
đoàn kết quốc tế, kiên quyết đấu tranh, bảo vệ chủ quyền biển đảo thiêng
liêng của Tổ quốc, khẳng định truyền thống và khát vọng yêu chuộng hòa
bình của nhân dân ta; đồng thời, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để
phát triển đất nước, giữ gìn quan hệ hữu nghị với nhân dân Trung Quốc.
Công tác thông tin đối ngoại, thông tin bảo vệ chủ quyền biển đảo và
phân giới cắm mốc đạt được những kết quả quan trọng, các ngành, các cấp đã
phối hợp chặt chẽ, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ này một cách hiệu quả, làm
cho bạn bè quốc tế, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài hiểu thêm về
tình hình trong nước và thế giới, ủng hộ Việt Nam.
Tuy nhiên hiện nay trên Báo Khánh Hòa chưa có những chuyên mục
đi sâu về khai thác các vấn đề biển đảo, các bài viết còn rải rác ở các
chuyên mục khác nhau gây khó khăn cho người đọc khi muốn tìm hiểu
thông tin cụ thể.
Cũng như Báo Khánh Hòa, về công tác thông tin biển đảo, Báo Thanh
Niên đã mang lại hiệu quả tích cực về mặt truyền thông với số lượng các bài
viết rất lớn và cập nhật thường xuyên, bám sát theo các tình hình chính sự
75
trong và ngoài nước. Điểm khác biệt ở đây là các bài viết trên báo Thanh
Niên nhấn mạnh nhiều đến cuộc sống và tình cảm gắn bó của các chiến sĩ
hải đảo và người dân nơi đây, góp phần giúp người đọc hiểu rõ hơn về cuộc
sống của những con người “đầu sóng ngọn gió”, động viên tinh thần của
những cán bộ và chiến sĩ nơi đây. Đồng thời cũng thẳng thắn và dùng
những lời lẽ sắc bén khi đề cập đến những hành động xâm phạm từ phía
Trung Quốc qua nhiều phương diện khác nhau từ ngoại giao, lịch sử đến
xây dựng kinh tế hải đảo…
Đối tượng độc giả của Báo Thanh Niên đa phần là những bạn trẻ -
những chủ nhân tương lai của đất nước nên đã có nhiều bài viết nói về tinh
thần của những người chiến sĩ trẻ nơi đảo xa, những khó khăn vất vả khi đến
trường của những em nhỏ và ý chí kiên cường của người dân nơi đây góp
phần khơi dậy tinh thần yêu nước và lòng tự hào dân tộc của những con người
trẻ tuổi. Bên cạnh đó đẩy mạnh thông tin các quy định về đảm bảo hoạt động
an toàn trên biển; nâng cao ý thức chấp hành pháp luật Việt Nam, pháp luật
quốc tế về biển trong ngư dân, những người lao động trên biển; đấu tranh
chống các hành vi và hoạt động sai trái, tiêu cực và vi phạm pháp luật trên
biển, đảo như: vi phạm quy định về trật tự, an toàn giao thông trên biển, buôn
bán hàng cấm, trốn lậu thuế, đánh bắt có tính chất hủy diệt nguồn lợi thủy, hải
sản, phá hoại môi trường sinh thái biển, lao động bất hợp pháp làm ảnh hưởng
quan hệ giữa Việt Nam với các nước trong vùng, tàu, thuyền nước ngoài xâm
phạm chủ quyền, quyền tài phán trên vùng biển, thềm lục địa, vùng đặc quyền
kinh tế của nước ta. Thông tin về các chính sách khuyến khích nhân dân định
cư ổn định lâu dài trên đảo, làm ăn dài ngày trên biển, nâng cao tinh thần
trách nhiệm, tình cảm của mọi tầng lớp nhân dân đối với cán bộ, chiến sĩ và
nhân dân đang ngày đêm làm nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển đảo thiêng
liêng của Tổ quốc.
Tuy nhiên báo vẫn chưa xây dựng được những chuyên mục cụ thể về
76
biển đảo gây khó khăn cho công cuộc tìm đọc của người xem.
“Hiện nay số lượng các bài viết trên Báo Thanh Niên rất đa dạng và
cập nhật liên tục, tuy nhiên chưa xây dựng được thành những chuyên mục
riêng. Các bài viết còn rời rạc và chưa thực sự đều đặn. Trong thời gian tới,
Báo sẽ cố gắng để hoàn thiện những thư mục riêng về chuyên đề bảo vệ chủ
quyền biển đảo, và tăng cường hình thức phóng sự và video để phản ánh trực
quan hơn” (Theo Bà Nguyễn Tuyết Nhung – Phó Tổng thư ký Tòa soạn Báo
Thanh Niên ).
Tiểu kết chương 2:
Trong chương 2, tác giả đã đi sâu vào vấn đề khảo sát nội dung và hình
thức thông tin bảo vệ chủ quyền biển đảo trên Báo Nhân Dân, Báo Khánh
Hòa và Báo Thanh Niên từ tháng 5/2011 đến tháng 5/2014. Từ kết quả khảo
sát, có thể thấy rằng, đề tài thông tin về biển đảo là những nội dung chính,
luôn được các tờ báo quan tâm và khai thác. Nội dung thông tin của cả 3 tờ
báo khảo sát đã đáp ứng đúng và đủ yêu cầu thông tin về biển đảo theo chỉ thị
của Đảng và Nhà nước, góp thêm một tiếng nói sinh động vào công tác thông
tin bảo vệ chủ quyền biển đảo của báo in nước ta hiện nay.
Đặc biệt, quá trình khảo sát đã cho thấy sự “vào cuộc” của báo chí nói
chung cũng như Báo Nhân Dân, Khánh Hòa và Thanh Niên đối với công tác
thông tin bảo vệ chủ quyền biển đảo, đặc biệt là trong sự kiện Trung Quốc hạ
đặt giàn khoan HD 981 vào vùng thềm lục địa của nước ta, bắt đầu từ
2/5/2014.
Qua khảo sát, tác giả nhận thấy, nội dung chủ yếu phản ánh vào hai vấn
đề chính, thông tin về chủ quyền và bảo vệ chủ quyền biển đảo và thông tin
phát triển nguồn lực biển đảo. Ngoài ra, việc khảo sát hình thức qua thể loại là
một trong những yếu tố cơ bản để phân tích những thành công và hạn chế của
từng tờ báo. Từ đó, tác giả đi tìm nguyên nhân, giải thích vấn đề, làm cơ sở đề
xuất những biện pháp khắc phục hiệu quả cho Báo Nhân Dân, Khánh Hòa và
Thanh Niên nói riêng cũng như các tờ báo in khác về đề tài BĐ trong thời
77
gian tới nói chung trong chương 3.
Chƣơng 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƢỜNG THÔNG TIN BẢO VỆ
CHỦ QUYỀN BIỂN ĐẢO TRÊN BÁO IN HIỆN NAY
3.1 Đánh giá chung về công tác thông tin bảo vệ chủ quyền biển
đảo trên báo in hiện nay (khảo sát Báo Nhân Dân, Báo Khánh Hòa và
Báo Thanh Niên)
3.1.1 Thành công
3.1.1.1 Báo Nhân Dân
a) Về nội dung
Báo Nhân Dân có chủ đề thông tin phong phú, nội dung đa dạng. Vấn
đề thông tin bảo vệ chủ quyền biển đảo chủ yếu tập trung vào 2 mảng đề tài
chính, đó là: thông tin chủ quyền và bảo vệ chủ quyền biển đảo và phát triển
nguồn lực biển đảo. Tuy nhiên, để thể hiện hai mảng đề tài trên được thành
công và hấp dẫn như vậy không phải đơn giản. Nó đòi hỏi nhiều nỗ lực thực
hiện của các PV, BTV. Họ đã thực sự sáng tạo khi khai thác nội dung thông
tin về biển đảo vốn khô cứng một một cách sinh động và đa chiều, hấp dẫn
nhất. Ví dụ, nói về chủ đề “thông tin chủ quyền và bảo vệ chủ quyền biển
đảo”, Báo Nhân Dân đã khai thác trên các khía cạnh vấn đề chủ quyền biển
đảo của Việt Nam, căn cứ lịch sử pháp lý chủ quyền, vấn đề chủ quyền biển
đảo quốc tế…
Các nội dung được tập trung phản ánh theo chủ đề, chủ điểm tập trung
ở ba chuyên mục chính là “Hoàng Sa – Trường Sa”, “Biển Đông – DOC –
COC”, và “Theo dòng thời sự” bên cạnh các bài viết rải rác ở các chuyên
mục khác.
b) Về hình thức
Báo Nhân Dân đã sử dụng đa dạng và hiệu quả nhiều thể loại như: Tin
tức, phóng sự, bình luận để làm sáng tỏ nội dung những vấn đề được khai thác
78
trên báo. Việc lựa chọn thể loại phù hợp đã làm nên sự thành công cho mỗi
chuyên mục cũng như từng tác phẩm. Nổi bật ở Báo Nhân Dân là các tin tức
ngắn gọn, xúc tích, đề cập trực tiếp đến vấn đề, hay các phóng sự hấp dẫn với
độc giả.
Bên cạnh các thể loại, Báo Nhân Dân còn hấp dẫn độc giả với hệ thống
ngôn ngữ gần gũi, sắc bén.
Báo Nhân Dân đã thực hiện tốt nhiệm vụ thông tin các chính sách của
Đảng và nhà nước với nhân dân, truyền tải được chủ trương quan điểm của
Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước về biển đảo đến toàn bộ nhân dân
trong và ngoài nước. Các chuyên mục trên báo đã đưa thông tin về biển đảo
một cách phong phú và đầy đủ, và đến gần hơn với đời sống người dân, đáp
ứng được mục tiêu tuyên truyền, cung cấp thông tin cho nhân dân trên khắp
cả nước.
Việc thông tin về tình hình biển đảo cùng với đời sống của nhân dân
nơi đây đã góp phần giúp các cơ quan chức năng nắm bắt được tình hình, từ
đó đưa ra giải pháp phù hợp khi hoạch định chính sách với biển đảo quê
hương. Những vấn đề đặt ra về sự vi phạm chủ quyền, những đe dọa đối với
vùng biên giới biển đảo ở trong và ngoài nước đã được thông tin cho người
dân và được truyền đến các cơ quan chức năng. Báo Nhân Dân đã có những
tác phẩm mang tính chất phát hiện, góp phần đề xuất những kiến nghị, giải
pháp cho những vấn đề “nóng bỏng” của xã hội về đề tài biển đảo.
3.1.1.2 Báo Khánh Hòa
a) Về nội dung
Báo Khánh Hòa đã thể hiện đề tài biển đảo một cách chân thực từ chính
cuộc sống của người dân nơi đây. Do đó, những tác phẩm của Báo Khánh
Hòa thường rất chân thực, thấm đẫm cái hồn của biên giới biển đảo xa xôi,
gây nhiều cảm xúc cho người đọc.
Có nhiều đề tài hấp dẫn xuất hiện nhờ việc am hiểu về phong tục tập quán
79
của ngư dân miền biển, thể hiện sự độc đáo, riêng biệt của Báo Khánh Hòa.
b) Về hình thức
Báo Khánh Hòa đã sử dụng nhiều thể loại như tin tức, phóng sự, bình
luận và phỏng vấn khiến cho chương trình trở nên phong phú, đa dạng, tránh
được phần nào sự nhàm chán, đơn điệu của đề tài vốn nặng tính tuyên truyền.
Đặc biệt, những bài phóng sự, bình luận trên Báo Khánh Hòa thường
thu hút độc giả bởi tính chân thật, phản ánh đúng cuộc sống bình dị, vất vả
nhưng cũng thấm đẫm tình yêu của người dân Khánh Hòa. Những phóng sự
về chủ quyền biển đảo với lời lẽ đanh thép cũng đã góp phần khẳng định chủ
quyền biển đảo của Việt Nam.
Báo Khánh Hòa có ý nghĩa chính trị lớn lao: góp phần thông tin, đường
lối, chính sách của đảng về quốc phòng, an ninh biên giới cho người dân tỉnh
Khánh Hòa, xây dựng hình ảnh đẹp về người chiến sĩ trên mặt trận bảo vệ an
ninh biên giới trong lòng nhân dân, củng cố tình quân dân “Cá- Nước” và đời
sống khó khan vất vả của người dân vùng biển…
Nhờ có những bài viết tập trung về vấn đề biên giới BĐ mà ngư dân
miền biển ít tiếp cận với thông tin đại chúng có dịp cập nhật những thông tin
xã hội, củng cố nhận thức và trách nhiệm của đồng bào cũng như toàn xã hội
về việc bảo vệ an ninh biên giới. Báo Khánh Hòa đã trở thành món ăn tinh
thần không thể thiếu, thu hút sự quan tâm của đông đảo người dân nơi đây do
có những đề tài gần gũi với cuộc sống của họ.
3.1.1.2 Báo Thanh Niên
a) Về nội dung
Cùng với Báo Nhân Dân và Khánh Hòa, Báo Thanh Niên cũng đã làm
tốt vai trò của mình trong việc thông tin bảo vệ chủ quyền biển đảo với những
bài viết chất lượng, hướng tới những người trẻ, thế hệ lương lai của đất nước.
Bên cạnh những tin tức ngắn chiếm tỷ trọng lớn trên báo, đề cập đến những
tình hình chính trị, sự kiện nổi bật về đề tài biển đảo, thì những phóng sự trên
báo đã động viên kịp thời các cán bộ trẻ đang làm nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền
biên giới lãnh thổ vốn gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc sống cũng như khi
80
làm nhiệm vụ.
b) Về hình thức
Báo Thanh Niên cũng sử dụng đa dạng, linh hoạt các thể loại báo chí
khác nhau như tin tức, phóng sự, bình luận để làm sáng tỏ vấn đề thông tin
bảo vệ chủ quyền biển đảo. Với tiêu chí hướng đến độc giả là những người trẻ
tuổi, nên ngôn ngữ thể hiện trên báo Thanh Niên hết sức ngắn gọn, đề cập
trực tiếp đến những vấn đề nổi cộm của xã hội. Đặc biệt, những bài bình luận
trên Báo Thanh Niên cũng tạo điểm nhấn cho tờ báo với những chứng cứ xác
thực, lời lẽ đanh thép, khẳng định chủ quyền biển đảo biên giới quốc gia.
Tóm lại, qua những thành công của ba tờ báo được khảo sát, có thể
thấy, cả ba tờ báo đã hoàn thành nhiệm vụ của mình trong công tác thông tin
bảo vệ chủ quyền biển đảo. Vấn đề trọng tâm trong đó là thông tin chủ quyền,
bảo vệ chủ quyền và phát triển nguồn lực biển đảo đều được phản ánh với
những cách tiếp cận phong phú, dưới nhiều góc cạnh.
3.1.2 Hạn chế
Cả ba tờ báo được khảo sát đêu có những nét tương đồng ở những đề
tài phản ánh nhạy cảm và tần suất phát hành giống nhau nên có một số hạn
chế và trở ngại chung như sau.
Thứ nhất, cả ba tờ báo chưa có một kế hoạch truyền thông cụ thể mang
tính chiến lược, khai thác đề tài mang tính thời vụ, khi có sự kiện nổi cộm thì
phản ánh một cách rầm rộ, khi thì thưa thớt vắng bóng… dẫn đến việc thông
tin thiếu tập trung, hiệu quả không cao. Ngoài ra ba tờ báo có hạn chế chung
rất lớn đó là chưa khai thác được những vấn đề “nóng bỏng, nổi cộm” mà dư
luận xã hội đặc biệt quan tâm. Điều này là do phóng viên gặp khó khăn khi
khai thác những thông tin “nóng” và “nhạy cảm”. Một số thông tin về chính trị
không được phép cung cấp, một số thông tin thì do nguồn tin cố tình bưng bít,
gây khó dễ, do đó không thể hiện được đúng chức năng thông tin của báo chí.
Hơn nữa, đề tài về biển đảo cũng là một đề tài mang tính nhạy cảm. Ngoài ra, ba
tờ báo vẫn chưa tạo được sự tương tác với độc giả, mới chỉ thông tin một chiều
81
gây nhàm chán.
Do nặng tính tuyên truyền nên thông tin nhiều khi mang tính áp
đặt, khiên cưỡng, không phù hợp với tâm lý tiếp nhận của độc giả. Bên
cạnh những hạn chế chung, Báo Nhân Dân, Báo Khánh Hòa và Báo Thanh
Niên có những đặc điểm riêng về hạn chế và nguyên nhân của nó.
a) Báo Nhân Dân
Báo Nhân Dân là cơ quan ngôn luận của Đảng, bởi vậy, nội dung thông
tin trên báo thường rất nhiều, chủ yếu là các hoạt động của các lãnh đạo
Đảng, Nhà nước. Biểu hiện ở thể loại đơn điệu, ít có sự thay đổi, chủ yếu sử
dụng dạng tin tức và phóng sự; hình ảnh nặng tính chính trị nên có ít giá trị
thông tin, ngôn ngữ đơn điệu, thiên về kể, tường thuật... Đề tài khai thác chưa
phong phú, thêm vào đó lại có sự lặp lại. Trong một vài số, chất lượng tin, bài
chưa cao, chưa phát huy được đội ngũ cộng tác viên ở các tỉnh, thành biên
phòng trên cả nước. Mặc dù, mật độ phủ sóng của Báo Nhân Dân rộng khắp,
nhưng lượng độc giả thực sự lại không nhiều, một phần vì Báo Nhân Dân chỉ
được phát hành trong các cơ quan của Đảng và Nhà nước.
Nhiều tin bài được thực hiện một cách hời hợt, theo lối mòn cũ, nặng về
phản ánh, liệt kê số liệu, thiếu những bài bình luận sắc sảo. Nhiều phóng sự mới
chỉ dừng lại ở việc nêu ra mà chưa phân tích được nguyên nhân và biện pháp
giải quyết vấn đề. Những người làm báo chưa thực sự chú trọng vào đổi mới cho
từng chuyên mục cũng như bài viết dẫn đến sự nhàm chán cho độc giả.
Đây là những hạn chế mà Báo Nhân Dân cần nhanh chóng nhìn nhận
và khắc phục, nâng cao hiệu quả thông tin bảo vệ chủ quyền biển đảo trong
thời kỳ mới.
b) Báo Khánh Hòa
Là một tờ báo địa phương nên đối tượng độc giả bị hạn chế. Bên
cạnh đó, nội dung trên báo cũng chưa đa dạng, phong phú, chưa có chuyên
mục riêng biệt về đề tài biển đảo. Tin bài thường đơn điệu, nhàm chán,
những tin về chủ quyền biển đảo thường nặng về tuyên truyền một chiều, ít
có sự liên hệ với đề tài lịch sử và phạm vi thế giới như Báo Nhân Dân và
82
Thanh Niên.
Một số tin bài trên Báo Khánh Hòa, đề tài thường bị “nguội”, vì khi có
sự kiện diễn ra, do không có cộng tác viên ở khu vực hiện trường nên thông
tin bị “nguội”, thường lấy lại từ các nguồn thông tin khác, do đó không cuốn
hút được độc giả.
Việc khai thác nội dung chưa thực sự cân đối hợp lý, chủ yếu là các
mảng đề tài phản ánh đời sống của người dân vùng biển đảo, sự kiện lịch
sử… Đội ngũ phóng viên, biên tập viên Báo Khánh Hòa có trình độ chuyên
môn nghiệp vụ, kinh nghiệm về báo chí rất ít.
c) Báo Thanh Niên
Lượng độc giả của Báo Thanh Niên rất lớn, đa dạng, do vậy, lượng
thông tin trên báo cũng phong phú, đa dạng, hướng đến nhiều chủ đề, nội
dung khác nhau. Chính vì yếu tố này mà thông tin về chủ đề biển đảo chưa
được tập trung, chưa xây dựng được chuyên mục riêng biệt, các bài viết còn
rời rạc và chưa thực sự đều đặn, gây khó khăn cho độc giả trong việc theo dõi
tin bài. Hơn nữa, mặc dù có đội ngũ cộng tác viên rộng khắp, nhưng số lượng
phóng viên, cộng tác viên chuyên theo dõi mảng đề tài về chủ quyền biển đảo
thì còn ít, do vậy, chất lượng tin bài chưa sâu.
Bên cạnh đó, việc trang bị cơ sở vật chất, điều kiện tác nghiệp dành cho
những phóng viên, nhà báo chuyên theo dõi mảng đề tài về biên giới biển đảo
chưa được lãnh đạo Báo Thanh Niên quan tâm đầu tư.
Trên đây là những hạn chế và nguyên nhân của ba tờ báo trong thực tế
hoạt động thông tin bảo vệ chủ quyền biển đảo mà qua quá trình khảo sát,
phân tích luận văn đã thống kê. Bên cạnh đó, còn một số hạn chế và nguyên
nhân khác mà trong phạm vi của luận văn chưa thể nêu hết được.
3.2 Một số giải pháp tăng cƣờng thông tin bảo vệ chủ quyền biển
đảo trên báo in hiện nay
3.2.1 Xác định mục tiêu, định hƣớng thông tin cụ thể
Các bài viết về thông tin bảo vệ chủ quyền biển đảo trên báo in cần xác
định mục tiêu cụ thể và định hướng rõ ràng. Đó là cơ sở vững chắc và tiền đề
cho các cơ quan báo chí xây dựng các chuyên mục và bài viết đúng với chủ
83
trương chính sách của Đảng và Nhà nước.
Tầm quan trọng của biển đảo đã được khẳng định từ lâu, tuy nhiên
công tác thông tin trên báo in nhìn chung vẫn theo từng “đợt”, giai đoạn nhất
định. Do vậy, cần có những chiến dịch cụ thể, dài hơi đảm bảo công tác thông
tin có tính hệ thống và liên tục hơn nữa.
3.2.1.1 Mục tiêu thông tin
Đẩy mạnh hơn nữa các hình thức thông tin bảo vệ chủ quyền biển đảo
nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức và hành động của các cấp,
các ngành và các tầng lớp nhân dân về vị trí chiến lược của biển đảo nước ta,
từ đó dẫn đến các hành động cụ thể với phương châm hiệu quả, thiết thực,
đảm bảo thông tin được duy trì thường xuyên, tạo bước chuyển biến mới.
Phấn đấu thực hiện mục tiêu đến 2020 đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh
từ biển, làm giàu từ biển, bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia, chủ quyền
biển đảo của Tổ quốc.
Chủ động xây dựng kế hoạch thông tin nhằm tiếp tục tổ chức, triển khai
thực hiện nghị quyết, chương trình hành động của cấp ủy các cấp, góp phần
thực hiện thắng lợi nghị quyết TƯ 4, khóa X của Đảng về chiến lược biển
Việt Nam đến 2020; Quyết định số 373/QĐ -TTg ngày 23/3/2010 của Thủ
tướng chính phủ đẩy mạnh công tác thông tin về quản lý, bảo vệ và phát triển
bền vững biển và hải đảo Việt Nam.
Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan báo in với nhau, phát huy tối đa
vai trò của các tổ chức, quần chúng, tạo sức mạnh trong công tác thông tin về
biển đảo. Từ đó, mỗi người dân cũng như toàn xã hội hiểu sâu sắc về chủ
quyền cũng như nguồn lực phát triển của biển đảo nước ta.
Phải có trách nhiệm đánh giá, dự báo đúng nhu cầu phát triển nguồn
nhân lực của toàn hệ thống nhà nước về biển và hải đảo. Cần đặt ra mục tiêu
góp phần đưa đến một hệ thống luật pháp chặt chẽ về công tác biển đảo, phù
hợp với Luật Biển và công ước quốc tế. Đây là nhiệm vụ khó khăn song cũng
đầy cao cả của báo chí, thể hiện chức năng định hướng dư luận, phản biện và
84
giám sát xã hội.
3.2.1.2 Định hướng thông tin
Trong thời gian tới, thông tin về bảo vệ chủ quyền biển đảo cần có chiến
lược lâu dài, xác định đối tượng, địa bàn cụ thể, lựa chọn phương thức thông tin
phù hợp. Có thể tập trung vào thông tin về cơ sở pháp lý, cơ sở thực tiễn về bảo
vệ chủ quyền biển đảo, hỗ trợ ngư dân, các gương ngư dân bám biển, phát triển
kinh tế, sự dũng cảm, mưu trí, anh dũng của các lực lượng như kiểm ngư, cảnh
sát biển, hải quân trong công cuộc bảo vệ chủ quyền biển đảo...
Bảo vệ chủ quyền của Tổ quốc trong đó có chủ quyền biển đảo là mục
tiêu cần ưu tiên trong giai đoạn hiện nay, nhưng bên cạnh đó báo chí cả nước
cần tiếp tục phản ánh toàn diện các vấn đề của đất nước, trong đó ưu tiên cho
việc ổn định để phát triển kinh tế-xã hội. Các cơ quan báo chí cần quan tâm
đến vấn đề chống tiêu cực, thông tin những nhân tố mới, điển hình tiên tiến
trong công cuộc chiến đấu, xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế.
3.2.2 Tăng cƣờng công tác quảng bá và khảo sát độc giả
Nghiên cứu công chúng là một việc làm cần được chú trọng bởi công
chúng có vai trò quyết định đến sự tồn tại và phát triển của các loại hình báo
chí truyền hình. Số lượng độc giả chính là thước đo chất lượng và uy tín của
mỗi tờ báo. Bởi vậy, việc nghiên cứu công chúng là một việc làm cần được
tiến hành thường xuyên, liên tục. Đây vừa là giải pháp trước mắt đồng thời là
chiến lược lâu dài để nâng cao chất lượng nội dung.
Việc khảo sát độc giả sẽ đem đến kết quả thiết thực nhất vì họ vừa là
một trong những đối tượng được phản ánh, vừa là người thưởng thức các nội
dung đó. Đối tượng công chúng ở đây là 90 triệu người dân Việt Nam và 4
triệu kiều bào ở hơn 90 quốc gia và vùng lãnh thổ trên khắp thế giới. Do sự
phức tạp về lứa tuổi, ngôn ngữ, giới tính, trình độ học vấn… nên việc nắm bắt
công chúng là rất khó khăn. Thời gian qua, ba cơ quan báo chí đã có sự quan
tâm nhất định đến vấn đề khảo sát công chúng nhưng theo chúng tôi, cần phải
tận dụng nhiều kênh thông tin hơn nữa để nắm bắt tâm lý khán giả. Phải có
85
những đợt điều tra, khảo sát độc giả theo từng chuyên mục để có thể rút kinh
nghiệm. Từ những việc làm chưa tốt cũng như phát huy những việc đã làm
được. Đây sẽ là cơ sở để điều chỉnh nội dung, hình thức, phương pháp thông
tin của chương trình cho phù hợp với tâm lý, tình cảm, nhu cầu tiếp nhận
thông tin của độc giả.
Công chúng báo in là những đối tượng tiếp nhận các thông tin, chịu ảnh
hưởng và chuyển biến khi tiếp xúc với những thông tin đó. Có một vấn đề
được đặt ra hiện nay là con người của xã hội hiện đại đã và đang chịu ảnh
hưởng của rất nhiều loại thông tin từ các phương tiện thông tin đại chúng.
Độc giả theo dõi các tin tức trên báo chí, tức là đang chịu tác động của thông
tin mà báo in mang lại, có thể làm thay đổi nhận thức của công chúng từ việc
làm ăn đến quan điểm chính trị, từ cách thức học hành đến vui chơi giải trí.
Cần xác định rõ công chúng báo in gồm những đối tượng nào, từ đó có
hướng điều chỉnh, phục vụ thị hiếu của những nhóm đối tượng ấy. Điều đó
giúp cho công chúng thân thiết của chuyên mục có được vốn thông tin toàn
diện về các vấn đề kinh tế-văn hóa-xã hội, lại vừa giúp thu hút các nhóm đối
tượng quan tâm tới những thông tin trên đến với tờ báo.
Tóm lại, muốn phát triển báo in thì việc thiết yếu là phải tăng cường
nghiên cứu công chúng một cách chuyên nghiệp và thường xuyên. Từ đó, có
thể tạo ra các tác phẩm báo chí phù hợp với công chúng, được công chúng
yêu thích và đón nhận.
3.2.3 Nâng cao chất lƣợng nội dung và hình thức
Giải pháp căn bản để nâng cao chất lượng cho các chuyên mục, bài viết
chính là phải ngày càng hoàn thiện về nội dung và hình thức của nó. Nói cách
khác, sức hấp dẫn của mỗi chuyên mục trên báo chí phụ thuộc vào chính nội
dung và hình thức mà bài báo đó đem đến cho công chúng.
3.2.3.1 Về nội dung:
Thông tin trên báo chí trong thời gian qua đã góp phần làm cho nhân
dân trong nước, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài và bạn bè quốc tế
86
hiểu rõ hơn tính chính nghĩa, quan điểm, chủ trương của Đảng, Nhà nước ta
trong giải quyết các vấn đề liên quan đến biển đảo, góp phần tạo sự đồng
thuận xã hội về chủ trương của Đảng, Nhà nước trong xử lý các vấn đề biển
đảo, thúc đẩy giải quyết tranh chấp biển đảo và các vấn đề nảy sinh trên biển
bằng biện pháp hòa bình. Bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, gắn với bảo vệ Đảng, bảo
vệ xã hội chủ nghĩa, thành quả cách mạng, bảo vệ môi trường hòa bình để
phát triển đất nước, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế về
vấn đề biển đảo của Việt Nam. Đồng thời, báo chí còn tích cực thông tin, bảo
đảm sự ổn định chính trị xã hội, chuyển tải kịp thời thông điệp của Chính phủ
đến mọi người dân giúp người dân hiểu được tình hình, thể hiện tình yêu
nước chân chính, không để bị kích động, bị lợi dụng, phương hại đến hình
ảnh đất nước, cũng như an ninh xã hội.
Các cơ quan báo chí đã tham gia tích cực và có hiệu quả trong việc
nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân về vị trí
chiến lược của biển đảo Việt Nam, cũng như trách nhiệm bảo vệ chủ quyền
biên giới quốc gia của toàn xã hội. Thông tin trên báo chí đã góp phần cổ vũ
tinh thần yêu nước, khơi gợi lòng tự hào dân tộc trong xây dựng và bảo vệ đất
nước, nâng cao ý thức đấu tranh bảo vệ, giữ gìn chủ quyền biển đảo thiêng
liêng của Tổ quốc trong các tầng lớp nhân dân, tạo sự đồng tình, ủng hộ của
bạn bè và dư luận quốc tế.
Phát biểu tổng kết Hội nghị Công tác thông tin đối ngoại, tuyên truyền
biển, đảo và phân giới cắm mốc năm 2009, ông Tô Huy Rứa, Ủy viên Bộ
Chính trị, Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương, nhận xét: “Công tác thông tin
về biên giới, lãnh thổ biển, đảo chưa được tiến hành một cách có bài bản,
chưa xây dựng được bộ tài liệu chuẩn để sử dụng phù hợp với từng đối tượng.
Thông tin và đấu tranh dư luận về bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trên biển
Đông cũng chưa được tiến hành thường xuyên, chưa có hệ thống và hiệu quả
còn thấp”.
Ông Tô Huy Rứa nhấn mạnh: “Thời gian qua dư luận cho rằng có lúc
87
chúng ta bị động, lúng túng trước những luận điệu xuyên tạc, bóp méo. Để
khắc phục, cùng với việc nâng cao nhận thức, bổ sung nguồn lực, chúng ta
cần tăng cường tổ chức nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện, chuyên sâu về
từng vấn đề cụ thể. Đồng thời phải chia từng nhóm đối tượng, nhóm vấn đề
để nghiên cứu cách thức thông tin. Đối với những dư luận không đúng do
những người vì thiếu thông tin mà có những phát biểu không phù hợp thì
chúng ta phải giải thích, thông tin theo hướng cung cấp chính thống, có căn
cứ khoa học và thực tiễn để tranh thủ rộng rãi sự ủng hộ”.
“Mục tiêu quan trọng nhất là xây dựng, quảng bá hình ảnh một đất
nước Việt Nam đổi mới, năng động, thân thiện, tranh thủ được sự đồng tình
của cộng đồng quốc tế và cộng đồng người Việt ở nước ngoài”, ông kết luận.
Cần tăng cường thông tin “nóng”, những vấn đề về chủ quyền biên giới
biển đảo hàng ngày hàng giờ đang diễn ra trên cả nước được xã hội quan tâm.
Những tin bài phản ánh tâm tư nguyện vọng, kiến nghị của người dân vùng
biển đảo, cần được mở rộng đa dạng hơn trong chương trình.
Tăng cường các thông tin có chất lượng về phát triển nguồn lực biển
đảo, thông tin về khai thác biển, giúp ngư dân làm kinh tế, hỗ trợ đời sống
cho họ.
Ngoài ra, xã hội càng phát triển, nhu cầu đọc báo in càng giảm, thay
vào đó là nhu cầu giải trí tăng cao. Bởi vậy, việc bổ sung thêm nội dung
giải trí hấp dẫn sẽ tạo sức hút hơn với những độc giả thường xuyên đọc
báo. Vấn đề thông tin bảo vệ chủ quyền biển đảo sẽ trở nên không còn khô
cứng, nhàm chán khi xen kẽ các nội dung này.
Xây dựng một số chuyên mục mới phù hợp với nhu cầu và tâm lý tiếp
nhận của công chúng. Với Báo Nhân Dân, chú trọng đến vấn đề thông tin biển
đảo theo thị hiếu thích hợp với công chúng trong nước, trong khi Báo Thanh
Niên cần tập trung vào các vấn đề mà giới trẻ quan tâm. Ngoài ra, cần loại bỏ,
thay đổi những chuyên mục không còn phù hợp, hoặc có nội dung khiên
88
cưỡng, nặng nề. Cần thông tin một cách sâu sắc nhưng linh hoạt, mềm dẻo.
Xây dựng các chuyên mục riêng, chuyên biệt về những vấn đề biển đảo
và các hoạt động kinh tế, quân sự, an ninh quốc phòng tại hai Quần đảo
Trường Sa và Hoàng Sa.
Xây dựng các chuyên mục riêng, chuyên biệt về những vấn đề biển đảo
và các hoạt động kinh tế, quân sự, an ninh quốc phòng tại hai Quần đảo
Trường Sa và Hoàng Sa.
Kiểm soát nội dung các bài viết một cách chặt chẽ để tránh sai lệch về
thông tin, chủ trương của Đảng và Nhà nước gây ảnh hưởng nghiêm trọng
đến nhận thức và tư tưởng của người dân.
Công tác thông tin bảo vệ chủ quyền biển đảo cần bám sát thực tiễn
tình hình, không ngừng đổi mới nội dung, đa dạng hóa hình thức, phương
pháp thông tin phù hợp với trình độ nhận thức của từng đối tượng, đồng thời
tận dụng có hiệu quả các phương tiện kỹ thuật và chú trọng mở rộng phạm vi
thông tin.
Công tác thông tin về chủ quyền quốc gia trên biển đòi hỏi có sự phối
hợp đồng bộ giữa các cấp, các ngành và các địa phương, phải có sự chỉ đạo
thống nhất, chặt chẽ từ Trung ương tới cơ sở về nội dung và hình thức. Nội
dung thông tin phải đa dạng và phong phú trên các phương tiện thông tin đại
chúng trong nước và quốc tế, lồng ghép chặt chẽ giữa các hoạt động đối
ngoại, chính trị, kinh tế, quân sự, quốc phòng… Qua đó, nhân dân Việt Nam
cũng như cộng đồng quốc tế hiểu và nắm vững các vùng, khu vực thuộc chủ
quyền lịch sử lâu đời của Việt Nam cũng như chủ quyền biển Việt Nam được
xác lập trên cơ sở các điều khoản quy định trong Công ước quốc tế về Luật
Biển 1982.
Thông tin về các điều khoản và nghĩa vụ cần phải chấp hành các quy
định của luật pháp Việt Nam khi hoạt động hoặc tham gia giao thông trong
phạm vi lãnh hải, các vùng nội thuỷ, vùng đảo, quần đảo và khu vực đặc
quyền kinh tế trên biển Việt Nam, về các quan điểm chủ đạo và nhất quán của
89
Đảng và Nhà nước Việt Nam trong thực thi quyền tài phán quốc gia trên các
vùng biển đảo, quần đảo và các khu vực đặc quyền kinh tế biển. Đặc biệt, chú
trọng nâng cao nhận thức cho các cấp, các ngành, nhất là các cấp, ngành ở địa
phương ven biển, nhận thức rõ tính chất phức tạp của nhiệm vụ bảo vệ chủ
quyền biển đảo trong bối cảnh mở cửa, hội nhập quốc tế, khẳng định, củng cố
niềm tin cho nhân dân cả nước, cộng đồng quốc tế về chủ quyền của Việt
Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, làm chuyển biến ý thức, trách
nhiệm của mỗi người… Qua đó phát huy sức mạnh của toàn Đảng, toàn quân,
toàn dân và của cả hệ thống chính trị, kết hợp sức mạnh trong và ngoài nước,
thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ quốc.
Công tác thông tin phải được tiến hành sâu rộng trong và ngoài nước,
phải gắn kết giữa lịch sử với hiện tại để người dân thấy được ý nghĩa và tầm
quan trọng của biển, đảo trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, làm
cho mỗi công dân Việt Nam thấy được trách nhiệm, nghĩa vụ của mình đối
với chủ quyền biển đảo quốc gia. Từ đó đoàn kết, chung sức đồng lòng quyết
tâm làm chủ, bảo vệ biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc.
3.2.3.2 Về hình thức
Muốn nâng cao hiệu quả của các bài biết, cần chú trọng việc cải tiến
hình thức. Sẽ không thể có những bài viết hấp dẫn, lay động tình cảm, chuyển
biến nhận thức của công chúng nếu những thông tin và thông điệp được chứa
đựng trong một hình thức khuôn sáo, tẻ nhạt. Nhất là trong tình hình hiện nay,
người làm báo đang đứng trước sự biến đổi và cạnh tranh không ngừng của
công nghệ và xã hội.
Các báo cần sử dụng đa dạng các thể loại của báo in nói riêng và báo chí
nói chung như: tin, phỏng vấn, phóng sự, ghi nhanh, bình luận, chính luận, ghi
chép, ký... Mỗi thể loại báo chí đều sử dụng để đáp ứng một nhiệm vụ cụ thể.
Việc vận dụng các thể loại tác phẩm, tạo nên tính hấp dẫn và hiệu quả thông tin
đưa đến cho khán giả những góc độ tiếp cận khác nhau. Trên thực tế, không có
90
quy định người làm báo phải sử dụng một thể loại báo chí theo khuôn mẫu nào.
Nhưng việc xác định thể loại sẽ giúp cho người làm báo tận dụng mọi khả năng
để biểu đạt, sáng tạo tác phẩm một cách tốt nhất theo ý đồ của mình.
Cần đổi mới, linh hoạt về kết cấu của chuyên mục theo từng đề tài chủ
đề, tránh tình trạng dập khuôn. Ví dụ trong các chuyên mục về đề tài khác
nhau thì có thể sắp xếp phân bố các chuyên mục theo thứ thự thời gian và
dung lượng khác nhau. Thậm chí, có thể cắt bớt một số mục nếu cần thiết.
Tăng cường các thể loại khác như phỏng vấn, ký, tin, hỏi đáp…, tăng
cường khả năng tương tác với độc giả, giải đáp những thắc mắc hoặc trưng
cầu ý kiến qua những sự kiện, vấn đề mà tờ báo đưa ra. Đây là cách làm mới
và có sức thu hút công chúng cao.
Chất lượng in ấn cũng có ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng hình ảnh,
hình thức của tờ báo. Bởi vậy cần chú ý tới kỹ thuật in và chất lượng hình ảnh
cũng như nội dung, đảm bảo không có lỗi chính tả, ảnh mờ xấu, làm ảnh
hưởng đến hình thức của tờ báo.
Báo in cần sử dụng lời nói ngắn gọn, nhiều hình ảnh sinh động. Bởi
trong nhịp sống hiện đại, độc giả sẽ không có nhiều thời gian và thói quen đọc
hết một bài báo quá dài, ít hình ảnh. Ngày nay, mọi người có xu hướng thích
đọc những bài báo ngắn gọn, dễ hiểu và có nhiều hình ảnh sinh động. Thực tế
cho thấy, dù đã có nhiều thay đổi, nhưng Báo Nhân Dân vẫn còn nặng nhiều
về nội dung, nhiều chữ, ít hình ảnh. Hơn nữa, khổ báo quá to, gây khó khăn
trong việc cất giữ và đem theo để có thể đọc ở mọi nơi, mọi lúc.
Tóm lại, cả ba tờ báo Nhân Dân, Thanh Niên và Khánh Hòa cần có sự
cải thiện về hình thức cũng như chất lượng nội dung các chuyên mục, bài báo.
Bởi trong xã hội ngày càng phát triển, trình độ dân trí của người dân ngày
càng tăng lên, họ sẽ không thể tiếp nhận những thông tin đơn điệu tẻ nhạt cả
về nội dung và hình thức. Trước sự cạnh tranh giữa các loại hình báo chí ngày
càng khốc liệt, nếu không thu hút được khán giả, báo in sẽ dần mất đi vai trò
91
của nó.
3.2.4 Kết hợp chặt chẽ giữa thông tin bảo vệ chủ quyền biển đảo
với các nội dung khác
3.2.4.1 Thông điệp
Thông điệp là tư tưởng chỉ đạo và là trọng tâm của bất kỳ một chiến
dịch thông tin nói chung và biển đảo nói riêng. Nội dung và mục tiêu của một
chiến dịch thông tin biển đảo phải được đúc kết thành một số câu đơn giản,
nhưng hàm ý sâu sắc, khái quát và tổng thể. Do đó, thông điệp sẽ giúp đối
tượng hiểu đúng và hiểu rõ vấn đề.
3.2.4.2 Triển khai các chiến dịch thông tin
Chiến dịch thông tin/truyền thông là một đợt hoạt động thông tin tập
trung, đồng bộ, phối hợp nhiều phương tiện thông tin, các kênh thông tin
nhằm truyền tải các thông điệp cần thiết để tác động đến một hoặc nhiều
nhóm đối tượng.
Chiến dịch thông tin biển đảo phản ánh mục tiêu ưu tiên cụ thể do Nhà
nước lựa chọn và chỉ đạo, là định hướng chính thống của quốc gia như Tuần
lễ Biển và Hải đảo Việt Nam (1-7/6 hàng năm), nhằm tạo sự gắn bó và sức
mạnh chung cho toàn xã hội.
3.2.4.3 Phương thức giao tiếp
Tiếp xúc, trao đổi, đối thoại mở, phỏng vấn các đối tượng có uy tín và
trình độ về biển đảo, về chủ quyền biển đảo liên quan. Đây là các phương
thức phù hợp trong điều kiện học đường nhằm giải thích kịp thời các vấn đề
phức tạp, truyền tải các thông điệp, thuyết phục hoặc gây ảnh hưởng đến đối
tượng, v.v.
3.2.4.4 Tổ chức các diễn đàn
Định kỳ tổ chức các diễn dàn, các hội nghị, hội thảo, cuộc họp để tăng
cường nhận thức biển đảo thông qua giới thiệu và trao đổi các kiến thức sâu
hơn, cập nhật thông tin mới về tình hình biển đảo trong nước và quốc tế, giới
92
thiệu chính sách, pháp luật mới về biển đảo…
Các diễn đàn là nơi chia sẻ, lắng nghe và người thông tin phải giữ thái
độ trung gian, trung lập và tạo điều kiện để mọi đối tượng đề xuất được nhiều
ý kiến hay nhất.
3.2.4.5 Sử dụng hệ thống thông tin
Huy động hiệu quả các phương tiện thông tin đại chúng (báo chí,
truyền hình, đài phát thanh…) để tạo phạm vi thông tin rộng, có tiếng nói
chính thức từ các cơ quan quản lý, lan tỏa ra ngoài nước với các hình thức
hoạt động vụ thể khác nhau. Ví dụ: Loạt 18 tập phim “Ký sự biển đảo”, Cuộc
thi tìm hiểu biển đảo trên trang Web của Đảng Cộng sản Việt Nam hoặc Báo
Tuổi trẻ, Cầu truyền hình Trường Sa - Hà Nội để đảo xa gần lại…
3.2.4.6 Xây dựng các Nhóm thông tin
Xây dựng các Câu lạc bộ, Hiệp hội/hội về biển đảo để tập hợp các lực
lượng trẻ cùng tìm hiểu và có những hoạt động vì biển đảo quê hương,…
3.2.4.7 Tổ chức sự kiện
Ngành hoặc khối trường nên tổ chức các sự kiện phù hợp để thu hút
học sinh, sinh viên hoạt động thiết thực và hiệu quả như Ngày làm sạch bãi
biển, Góp đá cho Trường Sa, Đêm thơ biển đảo quê hương, Hát về biển...
Thông qua các sự kiện biểu dương, vinh danh người tốt việc tốt, phát thưởng
cho những người vì biển đảo quê hương.
3.2.4.8 Triển lãm, trưng bày
Trưng bày, triển lãm dài ngày các bằng chứng về chủ quyền biển đảo;
tổ chức chiếu phim tư liệu…nhằm thu hút quảng đại quần chúng tham dự.
3.2.4.9 Các phương tiện hỗ trợ
Áp-phích, panô, mũ, áo, ấn phẩm về biển đảo…có mang thông điệp về
biển đảo Việt Nam. Sản phẩm như vậy có thể bán, phát trong các sự kiện biển
đảo của đất nước, của ngành và các trường.
93
3.2.4.10 Trách nhiệm của tuổi trẻ học đường
Đưa công tác thông tin biển đảo vào các chương trình, kế hoạch, hoạt
động thi đua của các tổ chức đoàn thanh niên nhà trường, hội sinh viên…
nhằm xác định trách nhiệm và ý thức của các em với biển đảo.
3.2.5 Nâng cao chất lƣợng đội ngũ phóng viên, biên tập viên
Nhân lực là yếu tố quyết định đến sự thành công của mọi công việc.
Muốn nâng cao chất lượng chương trình, trước hết phải nâng cao trình độ đội
ngũ phóng viên, Biên tập viên có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao, có bản
lĩnh chính trị vững vàng.
3.2.5.1 Tăng cường bản lĩnh chính trị, đạo đức cho phóng viên, biên
tập viên:
Nâng cao bản lĩnh chính trị của người làm báo là một vấn đề quan
trọng, cần phải đặt ra trong giai đoạn hiện nay. Chỉ thị 22 – CT/TƯ của Bộ
chính trị đã chỉ rõ: “Người hoạt động báo chí xuất bản phải theo định hướng
của Đảng và pháp luật của nhà nước, có bản lĩnh chính trị vững vàng, tính
chiến đấu cao, phẩm chất đạo đức trong sáng, kiến thức trong sáng, kiến thức
sâu rộng, trình độ nghiệp vụ và ngoại ngữ ngày một nâng cao, luôn gắn bó với
thực tiễn đất nước”.
Bản lĩnh chính trị của người làm báo được hình thành trên cơ sở thấm
nhuần sâu sắc chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Bản lĩnh chính
trị giúp cho người làm truyền hình biết lựa chọn sự kiện bản chất nhất trong
vô vàn sự kiện diễn ra trong nước, quốc tế để thông tin tới công chúng. Nhờ
có bản lĩnh chính trị mà người làm truyền hình điều tiết được liều lượng, mức
độ thông tin.
3.2.5.2 Nâng cao chất lượng phóng viên, biên tập viên
Cần chuyên môn hóa cho phóng viên có thể đi sâu khai thác đề tài của
mình. Nếu mỗi phóng viên kiêm nhiệm nhiều lĩnh vực thì khi tác nghiệp hầu
như không có điều kiện tìm hiểu vấn đề một cách kỹ càng, vì vậy nhiều bài
viết chỉ dừng lại ở mức độ phản ánh chứ chưa đi sâu phân tích và tìm ra giải
pháp cụ thể cho từng sự việc, chưa làm tốt nhiệm vụ định hướng dư luận của
94
báo chí. Khi phân công phóng viên chuyên trách thì bản thân phóng viên đó
có trách nhiệm hơn với công việc được giao, dành nhiều thời gian tìm hiểu
chuyên sâu, đầu tư sáng tạo nên những tác phẩm báo chí có giá trị đối với đời
sống xã hội.
Các phóng viên có nghiệp vụ báo chí chưa đồng đều là bởi nhiều lí do.
Thứ nhất, biên chế trong đơn vị phần lớn là do thuyên chuyển công tác, do
giới thiệu các đồng chí có năng lực ở các đơn vị khác. Thứ hai, chế độ đãi ngộ
ở đơn vị chưa thu hút được những người có trình độ năng lực cao ở bên ngoài.
Do đó năng lực chưa tương xứng.
Đối với báo Thanh Niên cần bổ sung trình độ ngoại ngữ cho anh chị em
phóng viên để có thể thực hiện các đề tài biển đảo quốc tế. Ngoài ra, cần nâng
cao kiến thức “nền” về lịch sử văn hóa xã hội vùng biên một cách sâu sắc cho
phóng viên. Từ đó, họ sẽ có đủ tầm hiểu biết về văn hóa xã hội để khai thác
những đề tài vùng biên giới biển đảo xa xôi của Tổ quốc.
Đặc biệt, BĐ là đề tài nhạy cảm và khó thực hiện, do đó yêu cầu các
PV, BTV phải có quan điểm lập trường đúng đắn và có kiến thức “nền” (về
lịch sử, đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân) về biển đảo vững vàng.
Để nâng cao chất lượng các bài viết về BĐ cần phải tăng cường và
nâng cao chất lượng hệ thống nhân sự, đây là “mắt xích” quan trọng trong quá
trình nâng cao chất lượng báo in về biển đảo nói riêng cũng như bất cứ
chuyên mục nào nói chung.
Tóm lại, nhân lực là yếu tố quan trọng hàng đầu, cần phải đảm bảo khi
muốn thực hiện bất cứ công việc gì. Việc đảm bảo nhân lực không chỉ về số
lượng mà còn về chất lượng đang là vấn đề được quan tâm hàng đầu. Muốn thu
hút được nhân sự, cần đảm bảo cho họ có một chế độ đãi ngộ tốt nhất. Công tác
đào tạo và tự đào tạo cần được tăng cường, các đơn vị tạo điều kiện cho anh em
đi học bổ túc kiến thức, chuyên môn nghiệp vụ để nâng cao trình độ.
3.2.6 Tăng cƣờng đầu tƣ hiện đại hóa cơ sở vật chất
Ưu tiên nguồn lực cho phát triển kinh tế biển đảo và thực hiện có hiệu
95
quả chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trên các vùng ven biển, hải đảo.
Biển Việt Nam chứa đựng nhiều tiềm năng to lớn về kinh tế. Vì vậy, để
khai thác, sử dụng hiệu quả và biến các tiềm năng ấy thành nguồn lực, động
lực đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, Đảng và Nhà nước cần tập
trung đầu tư nguồn lực thích đáng cho các ngành kinh tế mũi nhọn, có thế
mạnh ở các vùng ven biển, trên các đảo và quần đảo như: Khai thác, chế biến
dầu khí, hệ thống cảng và dịch vụ vận tải biển, khai thác, chế biến hải sản, du
lịch... Trong đó, ưu tiên xây dựng các trung tâm dịch vụ, thành lập các tập
đoàn kinh tế mạnh có đủ khả năng vươn xa, kết hợp phát triển kinh tế với làm
chủ biển đảo; tập trung nguồn vốn, khoa học, công nghệ, nguồn lao động để
khai thác có hiệu quả các tiềm năng của biển; ưu tiên phát triển hạ tầng cơ sở
kinh tế - xã hội và quốc phòng - an ninh trên khu vực quần đảo Trường Sa và
các đảo lớn xa bờ, tạo điều kiện thuận lợi đẩy nhanh tốc độ sản xuất của nhân
dân đang sinh sống trên các đảo và quần đảo.
Quá trình thu hút nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội biển đảo đòi
hỏi các ngành chức năng và địa phương cần phối hợp nghiên cứu, khảo sát
tổng thể, xác định rõ tiềm năng, thế mạnh của từng vùng, từng khu vực, đánh
giá đúng, đủ các yếu tố tự nhiên cũng như xu thế phát triển. Việc quy hoạch
phải tính đến sự kế thừa, phát triển, tính liên kết giữa các vùng và các khu
vực; phải gắn bờ, biển, đảo và quần đảo trong một không gian sinh tồn về
kinh tế và quốc phòng. Vì vậy, nếu không khảo sát đầy đủ, đánh giá một cách
khoa học thì kết quả sẽ thấp, thậm chí không mang lại hiệu quả mà còn phá
vỡ tính cân bằng trong quá trình phát triển kinh tế biển.
Phát triển kinh tế biển phải gắn với giải quyết tốt các vấn đề xã hội và
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, coi đó như một vấn đề
then chốt trong xây dựng thế trận lòng dân trên biển. Lịch sử đã chứng minh,
ở bất cứ thời đại, chế độ nào, nguyện vọng sâu xa của nhân dân vẫn là đời
sống vật chất và tinh thần được đảm bảo, “khoan thư sức dân” - cách thức tốt
nhất để quy tụ lòng dân, làm cơ sở, nền tảng để xây dựng thế trận lòng dân.
96
Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta thời gian qua rất chú trọng xây dựng cơ sở hạ
tầng, nâng cao đời sống vật chất, văn hóa tinh thần cho nhân dân các vùng
ven biển và hải đảo, nhất là ở các vùng biển, đảo giữ vai trò quan trọng về
quốc phòng, an ninh của đất nước.
Kết hợp chặt chẽ giữa thúc đẩy nhanh quá trình dân sự hóa trên biển
với xây dựng thế trận quốc phòng - an ninh trên biển vững mạnh, đủ khả năng
bảo vệ chủ quyền quốc gia trên biển.
Dân sự hóa các vùng biển, đảo vừa là cơ sở để chúng ta khai thác có
hiệu quả các nguồn tài nguyên trên biển, vừa là tiền đề để xây dựng, củng cố
và phát huy lực lượng tại chỗ phục vụ chiến lược quốc phòng - an ninh trên
biển. Đảng ta đã khẳng định trong Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020:
“Thực hiện quá trình dân sự hóa trên biển, đảo gắn với tổ chức dân cư, tổ
chức sản xuất và khai thác biển. Có chính sách đặc biệt để khuyến khích
mạnh mẽ nhân dân ra định cư ổn định và làm ăn dài ngày trên biển; thí điểm
xây dựng các khu quốc phòng - kinh tế tại các đảo, quần đảo Trường Sa, vùng
biển, đảo của Tổ quốc”. Đây là một chủ trương chiến lược có ý nghĩa vô cùng
quan trọng đối với sự nghiệp bảo vệ chủ quyền biển, đảo của đất nước. Chủ
trương này đã và đang được hiện thực hóa, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế
biển đi đôi với bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc chủ quyền
của Việt Nam trên biển.
Quán triệt đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước, công tác dân
sự hóa trên các vùng biển, đảo, nhất là ở những vùng biển, đảo chiến lược đã
được đẩy mạnh, ảnh hưởng tốt đến sự phát triển kinh tế - xã hội, tạo điều kiện
thuận lợi để củng cố và xây dựng thế trận lòng dân trên biển. Ở một số đảo có
vị trí đặc biệt quan trọng về an ninh, quốc phòng như: Quần đảo Hoàng Sa,
Trường Sa… quá trình dân sự hoá bước đầu được thực hiện có hiệu quả, tạo
được dư luận tốt đối với quần chúng nhân dân trong và ngoài nước. Cơ sở hạ
tầng trên nhiều đảo ở Trường Sa được xây dựng ngày càng khang trang. Đời
sống của nhân dân từng bước đi vào ổn định. Nhân dân Trường Sa hoàn toàn
97
tin tưởng vào chủ trương, chính sách của Đảng.
Cùng với quá trình dân sự hóa ở các vùng biển đảo, việc bảo vệ chủ
quyền biển đảo và duy trì lợi ích quốc gia trên biển giai đoạn hiện nay cần kết
hợp chặt chẽ hơn nữa giữa phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc
phòng - an ninh. Việc quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội ở các khu vực ven
biển, trên biển và các đảo phải tuân thủ các yêu cầu đặt ra trong kế hoạch tổng
thể của khu vực phòng thủ địa phương, phải mang tính hệ thống, bảo đảm sự
liên kết chặt chẽ giữa biển, đảo với đất liền; kết hợp chặt chẽ giữa thế trận
“tĩnh” của đảo và bờ với thế “động” của lực lượng tác chiến cơ động trên biển
tạo nên thế trận liên hoàn, vững chắc.
Trang bị kỹ thuật phục vụ cho mục đích kinh tế-xã hội phải phù hợp
với hệ thống trang bị kỹ thuật quốc phòng - an ninh trong hệ thống các cụm
lực lượng trên biển, thực hiện kiểm soát, giám sát, báo động, chi viện, hỗ trợ
nhau trong đấu tranh phòng chống các hoạt động xâm phạm chủ quyền, lợi
ích quốc gia. Các cơ sở hậu cần, kỹ thuật kinh tế - xã hội ven bờ, trên biển và
trên các đảo phải sẵn sàng huy động cho nhiệm vụ quốc phòng, ưu tiên xây
dựng các đảo tiền tiêu xa bờ có công sự kiên cố, trang bị hoả lực mạnh, có
khả năng tác chiến dài ngày. Quá trình thiết kế, xây dựng hạ tầng cơ sở trên
biển, đảo phải mang tính lưỡng dụng cao, không chỉ bền vững trước tác động
của môi trường biển mà còn phải bền vững khi chuyển sang phục vụ mục đích
quốc phòng - an ninh.
Bên cạnh đó, cần xây dựng một lực lượng kiểm ngư đủ mạnh để bảo vệ
việc khai thác, đánh bắt hải sản của ngư dân trên biển, sẵn sàng thực hiện
nhiệm vụ cứu hộ, cứu nạn trên biển; đồng thời kiểm tra, giám sát, phát hiện,
ngăn chặn các hành động khai thác hải sản trái phép của nước ngoài trên vùng
biển của Việt Nam. Các địa phương ven biển, huyện đảo phải có lực lượng
dân quân tự vệ vừa tham gia sản xuất, khai thác hải sản, vừa làm nhiệm vụ
giữ gìn an ninh trật tự trên biển, kịp thời phát hiện, đấu tranh ngăn chặn các
98
hành động xâm phạm lợi ích, chủ quyền quốc gia.
Tiểu kết chương 3:
Từ việc tổng hợp lại những ưu và nhược điểm của việc thông tin bảo
vệ chủ quyền biển đảo tại ba báo in, trong chương 3 của luận văn, tác giả đã
đưa ra một số giải pháp cụ thể nhằm tăng cường thông tin bảo vệ chủ quyền
biển đảo trên báo in.
Vấn đề tăng cường thông tin bảo vệ chủ quyền biển đảo là yêu cầu đòi
hỏi tất yếu đối với Báo Nhân Dân, Báo Khánh Hòa, Báo Thanh Niên và đội
ngũ PV, BTV thực hiện nội dung. Việc thông tin về biển đảo là điều kiện để
thay đổi nhận thức và hành động của công chúng. Các giải pháp tăng cường
thông tin bảo vệ chủ quyền biển đảo của 3 tờ báo cũng là những biện pháp
cho các tờ báo in khác tham khảo.
Công tác thông tin bảo vệ chủ quyền biển đảo của Báo Nhân Dân, Báo
Khánh Hòa và Báo Thanh Niên thời gian qua nói chung không tránh khỏi
những hạn chế, xong với những phương hướng cơ bản và giải pháp đã được
đề xuất trong chương 3 của luận văn, hy vọng sẽ là cơ sở để nâng cao chất
lượng thông tin, góp phần thực hiện chủ trương của Đảng và nhà nước về vấn
đề này. Đây cũng là bài học kinh nghiệm để báo in nói chung nâng cao chất
99
lượng thông tin bảo vệ chủ quyền biển đảo của mình.
KẾT LUẬN
1. Biển đảo có vai trò vô cùng quan trọng đối với nước ta về mọi mặt,
chính trị, kinh tế, an ninh quốc phòng... Hội nghị Ban chấp hành Trung ương
Đảng lần thứ 4 (khóa X) tháng 2 năm 2007 thông qua Nghị quyết số
09/2007/NQ - TW về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020, đặc biệt là
“Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020” trong Nghị quyết TW 4 (khoá X):
“Đến năm 2020, phấn đấu đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu
lên từ biển”. Trên tinh thần đó, hoạt động tuyên truyền biển, đảo đã trở thành
một trong những nhiệm vụ trọng tâm của công tác quản lý nhà nước về biển
và hải đảo ở nước ta.
Đặc biệt, sự kiện giàn khoan HD 981của Trung Quốc được hạ đặt trái
phép trong vùng thềm lục địa của nước ta từ 2/5/2014 đến 17/7/2014 đã khiến
tình hình BĐ của nước ta trở nên vô cùng căng thẳng. Dưới sự lãnh đạo của
Đảng, sự chỉ đạo và hướng dẫn của các cơ quan chức năng ở TƯ, của các bộ,
ngành và địa phương, công tác thông tin biển đảo vừa qua được triển khai khá
mạnh mẽ, rộng khắp, đối với mọi tầng lớp, mọi lứa tuổi trong xã hội và đã đạt
được những thành quả đáng ghi nhận.
Báo chí nước ta đã thể hiện vai trò của mình qua việc dốc toàn lực trên
mặt trận thông tin. Các phương tiện truyền thông đại chúng đã tích cực tham
gia thông tin đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng về biển đảo. Các tin
bài, phóng sự, chuyên mục, chương trình truyền hình về biển đảo xuất hiện
ngày càng nhiều trên các loại hình báo chí. Với nội dung và hình thức thể hiện
phong phú, báo chí đã góp phần làm chuyển biến mạnh mẽ nhận thức người
dân về vị trí, vai trò, tiềm năng của BĐ đối với sự nghiệp phát triển KT-XH
của đất nước.
2. Trong các loại hình báo chí, báo in có vai trò vô cùng đặc biệt. Là
loại hình ra đời sớm nhất, nhưng báo in vẫn khẳng định được vị thế của nó, là
công cụ sắc bén của Đảng và Nhà Nước, là diễn đàn của nhân dân. Với ưu
100
điểm là đưa thông tin sâu, có nhiều bài bình luận sâu sắc về mọi lĩnh vực đời
sống của xã hội, độ chính xác cao, báo in ngày càng khẳng định ưu thế của
mình trong việc thực hiện hiệu quả các chức năng thông tin, tuyên truyền,
giáo dục điều hành và quản lý xã hội.
Báo Nhân Dân, Báo Khánh Hòa, Báo Thanh Niên đã đóng góp to lớn
vào việc thông tin bảo vệ chủ quyền biển đảo, nâng cao nhận thức của công
chúng, cải biến hành động của họ trước các vấn đề về biển đảo. Qua khảo sát
trong 3 năm đối với ba tờ báo, chúng ta có thể rút ra một số kết luận sau: mỗi
tờ báo đã định vị cho mình được vị trí riêng về thông tin bảo vệ chủy quyền
biển đảo, một tờ báo Trung ương, một tờ báo địa phương và một tờ báo của
Đoàn thể.
Vì những lý do đó, tác giả lựa chọn đề tài nghiên cứu: “Bảo vệ chủ
quyền biển đảo trên báo in hiện nay (Khảo sát Báo Nhân Dân, Báo Khánh
Hòa và Báo Thanh Niên) làm đề tài nghiên cứu cho luận văn Thạc sĩ Báo chí
nhằm góp phần làm rõ thêm những vấn đề cơ bản xung quanh nội dung này.
Trong luận văn, tác giả không có tham vọng khái quát một cách toàn diện, sâu
sắc về thực trạng hoạt động thông tin bảo vệ chủ quyền biển đảo của cả hệ
thống báo in mà chỉ tập trung vào 3 tờ báo được khảo sát, từ đó các báo khác
có thể tham khảo cho mình.
3. Trong luận văn này, tác giả đã giải quyết được một số nội dung cơ
bản sau đây:
Trong chương 1, tác giả đã làm rõ những vấn đề lý luận có liên quan
đến đề tài nghiên cứu. Về lý luận, luận văn đã trình bày một số khái niệm,
định nghĩa về những thuật ngữ liên quan đến đề tài, đồng thời tác giả đã đi
vào giới thiệu vị trí, vai trò của biển đảo Việt Nam, Quan điểm của Đảng và
Nhà nước ta về vấn đề biển đảo. Đây là cơ sở lý luận quan trọng để đi sâu
phân tích, đánh giá thực trạng công tác thông tin bảo vệ chủ quyền biển đảo
trên Báo Nhân Dân, Báo Khánh Hòa và Báo Thanh Niên trong chương 2 và
gợi mở cho việc đề xuất những giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả thông tin
101
trong chương 3.
Trong chương 2, tác giả đã đi sâu vào vấn đề khảo sát nội dung và hình
thức thông tin bảo vệ chủ quyền biển đảo trên Báo Nhân Dân, Báo Khánh
Hòa và Báo Thanh Niên từ tháng 5/2011 đến tháng 5/2014. Từ kết quả khảo
sát, có thể thấy rằng nội dung thông tin về biển đảo là những nội dung chính,
luôn được quan tâm và chú trọng trên các báo.
Dựa vào kết quả khảo sát, phân tích của chương 2, trong chương 3, tác
giả luận văn đã đưa ra một số giải pháp nhằm tăng cường thông tin bảo vệ chủ
quyền biển đảo trên báo in hiện nay,
4. Tác giả nghiên cứu đề tài này trước đòi hỏi bức thiết của xã hội với
những diễn biến ngày càng căng thẳng trên Biển Đông. Mặc dù đã có nhiều
cố gắng, nhưng do hạn chế về điều kiện khảo sát, đồng thời gặp những trở
ngại khách quan như: Việc lưu trữ thông tin, tư liệu nên việc khảo sát của tác
giả gặp rất nhiều khó khăn và không được như mong muốn, nên việc tìm hiểu,
khảo sát thông tin để có những đánh giá mang tính hệ thống cũng gặp nhiều
khó khăn. Nhưng với những kết quả nghiên cứu bước đầu, tác giả luận văn hy
vọng đóng góp thêm được các cứ liệu xác thực và điểm nhìn ở góc độ hẹp về
một vấn đề trong thực tiễn rất phong phú và sinh động của hoạt động báo chí.
Với tâm huyết và trách nhiệm, tác giả luận văn đã lao động nghiêm túc
để hoàn thành công trình nghiên cứu. Tuy nhiên, do trình độ còn nhiều hạn
chế, nhất là những hiểu biết về thực trạng thông tin bảo vệ chủ quyền biển đảo
chưa đầy đủ, cũng như chưa có nhiều kinh nghiệm khi nghiên cứu khoa học
nên chắc chắn rằng, luận văn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, sơ suất.
Chính vì thế, tác giả rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của các thầy
cô giáo và các bạn đồng nghiệp, giúp tác giả rút ra những kinh nghiệm quý
báu, bổ ích cho bản thân trên con đường nghiên cứu khoa học và hoạt động
báo chí sau này.
102
Tháng 10. 2015
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban chấp hành trung ương (2007), Nghị quyết TƯ 5 (khóa X) tháng
5/2007 về công tác tư tưởng, lý luận báo chí trước yêu cầu mới, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà nội.
2. Ban chấp hành Trung ương khóa VIII, Chiến lược phát triển kinh tế xã
hội 2001 – 2010 (Báo cáo tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của
Đảng)
3. Ban tuyên giáo trung ương (2008), Phát triển kinh tế và bảo vệ chủ quyền
biển, đảo Việt Nam, NXB chính trị Quốc gia Hà nội.
4. Bộ ngoại giao - Ủy ban biên giới quốc gia (2010), Những vấn đề liên quan
đến chủ quyền biển đảo của Việt Nam trên Biển Đông, Hà Nội.
5. Ban Biên giới quốc gia (1998), Khái quát về Luật biển quốc tế và việc áp
dụng luật biển tại Việt Nam, Tài liệu tập huấn về nâng cao năng lực quản
lý biển, Trung tâm thông tin tài liệu, tháng 6/1998, Hà Nội
6. Brice M.Clayet (1996), Những yêu sách đối kháng của Việt Nam và Trung
Quốc ở khu vực bãi ngầm Tư Chính và Thanh Long trong Biển Đông,
NXB Chính trị Quốc gia.
7. C.Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập (1995), tập 1, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội
8. Chính phủ (2010), Quyết định 373/QĐ-TTg, ngày 23 tháng 3 năm 2010
của Thủ tướng Chính phủ về “Phê duyệt đề án đẩy mạnh công tác tuyên
truyền về quản lý, bảo vệ và phát triển bền vững biển và hải đảo Việt
Nam”, Hà Nội.
9. Chính phủ (2007), Nghị quyết số 27/2007/NQ-CP ngày 30 tháng 5 năm
2007 của Chính phủ ban hành chương trình hành động của Chính phủ
thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa X “Về chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020”, Hà Nội.
103
10. Đại Bách khoa toàn thư liên xô, NXB Thế giới
11. Đào Duy Quát (2004) “Về công tác tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt
Nam”, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước, Nxb Sự
thật, Hà Nội.
13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ X, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
14. Đảng cộng sản Việt Nam (1991) Cương lĩnh xây dựng đất nước, NXB Sự
thật, Hà Nội.
15. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ XI, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
16. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Hội nghị Trung ương 4 khóa
X, NXB Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội.
17. Đinh Kim Phúc (2009), “Chủ quyền quốc gia Việt Nam trên 2 quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa”, nghiên cứu và phát triển
18. Đinh Văn Hường (2006), Các thể loại Báo chí thông tấn, NXb Đại học
Quốc gia Hà nội 5.
19. Đức Dũng, Sáng tạo tác phẩm báo chí, NXB Văn hóa thông tin, 2002
20. Hồ Chí Minh: Toàn tập (2002), tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
21. Hoàng Quốc Bảo (2006), Học tập phương pháp Tuyên truyền Cách mạng
Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
22. Khoa Báo chí – Trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn Hà Nội
(2005), Báo chí những vấn đề lý luận và thực tiễn, NXb ĐHQGHN, Hà Nội
23. Liên Hợp Quốc, Công ước Luật Biển 1982Nguyễn Bá Diến – Trung tâm
Luật Biển và hàng hải Quốc Tế (Chủ Biên) (2006), Chính sách pháp luật
biển Việt Nam và chiến lược phát triển bền vững, NXB Tư pháp
24. Lois Baird, Trường Phát thanh Truyền hình và Điện ảnh Ôxtrâylia
(2000), Hướng dẫn sản xuất chương trình phát thanh" (Đài Tiếng nói
Việt Nam dịch và lưu hành nội bộ), Hà Nội.
104
25. Luật biên giới quốc gia (2003), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội
26. Nguyễn Bá Diến – Trung tâm Luật biển và Hàng hải quôc tế (chủ biên)
(2006), Chính sách pháp luật Biển Việt Nam và chiến lược phát triển bền
vững, Nxb Tư pháp.
27. Nguyễn Thị Hòa, Nâng cao chất lượng chương trình về Biển đảo trên
sóng phát thanh của đài tiếng nói Việt Nam. (2011).
28. Nguyễn Văn Dững - ThS. Đỗ Thị Thu Hằng (2006), Truyền thông - Lý
thuyết và kỹ năng cơ bản, Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội.
29. Nguyễn Văn Dững, Đề cương bài giảng Cơ sở lý luận báo chí truyền
thông.
30. Nguyễn Văn Dững (chủ biên) – Báo chí, những điểm nhìn từ thực tiễn,
tập I và II, NXB Văn hóa – Thông tin.
31. Nguyễn Văn Dững, Báo chí với điểm nhìn từ thực tiễn, tập I, tập II, NXB
Văn Hóa - Thông tin
32. Nguyễn Văn Dững - ThS. Đỗ Thị Thu Hằng (2006), Truyền thông - Lý
thuyết và kỹ năng cơ bản, Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội
33. Nguyễn Văn Dững - Chủ biên (2006), Tác phẩm báo chí, T2, Nxb Lý
luận chính trị, Hà Nội.
34. Nguyễn Văn Dững - Chủ biên (2000), Báo chí những điểm nhìn từ thực
tiễn, tập 1, NXB Văn hóa -Thông tin, Hà Nội.
35. Nguyễn Hồng Thao chủ biên (2011). Công ước Biển 1982 và Chiến lược
Biển của Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia
36. Nguyễn Thị Huyên (2009), Thực trạng hoạt động của báo nói, báo hình
ở các đài tỉnh khu vực bắc miền Trung. Luận văn Thạc sỹ Truyền thông
đại chúng chuyên ngành Báo chí học, Học viện Báo chí và Tuyên truyền,
Hà Nội.
37. Nguyễn Như Ý (Chủ biên), 1999, Đại từ điển tiếng Việt, NXB Văn hóa –
105
Thông tin.
38. Mai Thanh Tân, Đặng Ngọc Thanh, Lê Đức Tố (Chủ biên), Viện khoa
học công nghệ Việt Nam, Biển Đông, tập 1,2,3,4, Nhà Xuất Bản khoa học
tự nhiên và Công nghệ.
39. Mc Dougal, Burke (1999), Sự liên hệ của các quan niệm về sự phát triển
chung tới tranh chấp về hàng hải ở biển Nam Trung Quốc
40. Phùng Quốc Việt, Báo biên phòng với chủ đề bảo vệ chủ quyền anh ninh
biên giới Quốc gia, Luận văn Thạc sỹ báo chí (2004).
41. Tạ Thị Thu Hằng, Xung đột chủ quyền ở quần đảo Trường Sa – Những
vấn đề đặt ra và hướng giải quyết. Luận văn thạc sỹ chính trị học (2013).
42. Tạ Ngọc Tấn trong cuốn "Truyền thông đại chúng", NXB Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
43. Tạ Ngọc Tấn - Tuyển chọn (2004), Hồ Chí Minh, Về báo chí, NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
44. Tạ Ngọc Tấn – chủ biên (1995) Tác phẩm báo chí, tập 1, NXB Giáo dục,
Hà Nội
45. Tạ Ngọc Tấn, Truyền thông đại chúng, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
46. Tạ Ngọc Tấn - Chủ biên (2002), Cơ sở lý luận báo chí, NXB Lý luận
chính trị, Hà Nội.
47. Trần Công Trục – nguyên trưởng Ban Biên giới Chính phủ chủ biên
(2012), Dấu ấn Việt Nam trên Biển Đông, NXB thông tin và truyền thông.
48. Trần Đình Bá, Một chặng đường làm báo, NXB Thanh Niên, 1992
49. Trần Nam Tiến (2011), “Trường Sa hỏi và đáp”, NXB Trẻ
50. Trần Ngọc Châu, Nguyễn Đức Dân, Nguyễn Văn Dững, Bùi Tiến Dũng,
Đậu Ngọc Đản (2005), Báo chí, những vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB
Đại học Quốc gia Hà Nội
51. Thiện Cẩm (chủ biên), (2010), Biển đông và hải đảo Việt Nam, Nxb Tri
thức Hà Nội
52. Tạp chí chuyên ngành: Người làm báo, Nghề báo
106
53. Vũ Quang Hào, Ngôn ngữ Báo chí, NXB Đại học Quốc Gia Hà Nội, 2004
Trang WEB
http://www.nhandan.com.vn
http://www.thanhnien.com.vn
http://www.baokhanhhoa.com.vn
http://biengioilanhtho.gov.vn
http://nguoilambao.vn
http://dangcongsan.vn/
http://www.cpv.org.vn
http://www. chinhphu.vn
http://hanoi.vietnamplus.vn
107
http://www.thuvienphapluat.vn
PHỤ LỤC
Trong phần phụ lục của luận văn có một số nội dung được sắp xếp theo
trình tự sau:
Phụ lục 1: Thống kê số lƣợng và tỉ lệ nội dung tin bài đƣợc khảo sát trên
Báo Nhân Dân, Báo Khánh Hòa và Báo Thanh Niên (5/2011 - 5/2014)
Báo Nhân Dân Chủ đề
2095 (100%) Tổng số tin bài
1219 (58,2%) Đề tài về biển đảo
202 (9,6%) Lực lượng quốc phòng
154 (7,4%) Đời sống nhân dân vùng biển
196 (9,3%) Lịch sử
324 (15,5%) Các vấn đề Quốc tế
Bảng 2.2 Thống kê số lượng và tỉ lệ nội dung tác phẩm
trên Báo Nhân Dân (5/2011 - 5/2014)
Báo Khánh Hòa Chủ đề
1604 (100%) Tổng số tin bài
690 (43%) Đề tài về biển đảo
219 (13,7%) Lực lượng quốc phòng an ninh
403 (25,1%) Nhân dân vùng biển
107 (6,7%) Lịch sử
185 (11,5%) Các vấn đề Quốc tế
Bảng 2.3 Thống kê số lượng và tỉ lệ nội dung tác phẩm
trên Báo Khánh Hòa (5/2011 - 5/2014)
Chủ đề Báo Thanh Niên
Tổng số tin bài 1976 (100%)
Đề tài về Biển đảo 724 (36,6%)
Lực lượng quốc phòng 461 (23,3%)
Nhân dân vùng biển 387 (19,6%)
Lịch sử 124 (6,3%)
Các vấn đề Quốc tế 207 (10,5%)
Đề tài khác 73 (3,7%)
Bảng 2.4 Thống kê số lượng và tỉ lệ nội dung tác phẩm
trên Báo Thanh Niên (5/2011 - 5/2014)
Báo Báo Báo Tác phẩm có nội dung về BĐ Khánh Thanh Nhân Dân Niên Hòa
Tổng số tin về đề tài biển đảo 1219 690 724 (100%) (100%) (100%)
TT chủ quyền và bảo vệ chủ quyền 709 419 BĐ 297 (43%) (58,2%) (57,9%)
Phát triển nguồn lực Biển đảo 510 305 393 (57%) (41,8%) (42,1%)
Bảng 2.5: Bảng thống kê tỉ lệ tin bài về chủ đề biển đảo
trên Báo Nhân Dân, Báo Khánh Hòa và Báo Thanh Niên
(từ tháng 5/2011 – 5/2014)
Phụ lục 2: Thống kê thể loại tin bài về đề tài BĐ trên Báo Nhân Dân, Báo
Khánh Hòa và Báo Thanh Niên (5/2011 - 5/2014)
Báo Thanh Thể loại Báo Nhân Dân Báo Khánh Hòa Niên
Tổng số 1219 (100%) 387 (100%) 724 (100%)
Tin tức 163 (42,1%) 374 (51,7%) 716 (58,7%)
Bình luận 296 (24,3%) 95 (24,5%) 159 (22%)
Phóng sự 207 (17%) 88 (22,7%) 123 (17%)
Phỏng vấn 0 (0%) 41 (10,6%) 68 (9,3%)
Bảng 2.6: Thống kê thể loại về đề tài BĐ trên Báo Nhân Dân,
Báo Khánh Hòa và Báo Thanh Niên (5/2011 - 5/2014)
Phụ lục 3
Biên bản hỏi và trả lời phỏng vấn sâu
(Mẫu dành cho cán bộ quản lý và phóng viên các chƣơng trình)
Kính gửi: Quý ông/bà.
Tôi là Nguyễn Thu Trang – Học viên Cao học báo chí K16, trường đại
học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc Gia Hà Nội. Hiện đang thực
hiện đề tài Luận Văn tốt nghiệp: “Bảo vệ chủ quyền biển đảo trên báo in hiện
nay (Khảo sát Báo Nhân Dân, Báo Khánh Hòa và Báo Thanh Niên giai đoạn
từ tháng 5/2011 đến tháng 5/2014)”.
Để phục vụ mục đích nghiên cứu đề tài, tôi mong muốn nhận được từ
quý ông/bà những ý kiến chia sẻ của mình thông qua các câu hỏi phỏng vấn
sau đây.Ý kiến của ông/bà sẽ chỉ được dùng vào mục đích nghiên cứu khoa
học.Chúng tôi cam kết sẽ giữ bí mật hoàn toàn các thông tin cá nhân của quý
ông/bà trong trường hợp quý vị không muốn tiết lộ danh tính.Với nghiên cứu
này sẽ không có câu trả lời nào là đúng hay sai, mọi ý kiến của ông/bà đều
hữu ích cho việc phân tích và đánh giá vấn đề của luận văn.
TRẢ LỜI CỦA ÔNG NGUYỄN VĂN CHƢƠNG
ỦY VIÊN BAN BIÊN TẬP BÁO NHÂN DÂN
Câu 1: Đánh giá của Ông về chất lượng những bài viết có nội dung
thông tin bảo vệ chủ quyền biên đảo trên Báo Nhân Dân hiện nay như
thế nào?
Trả lời: “Nhìn chung các bài viết đã được đăng trên báo Nhân Dân về
chủ đề biển đảo rất đa dạng về nội dung. Chúng tôi luôn cố gắng để cập nhật
những thông tin và tình hình mới nhất để tránh trùng lặp về nội dung cũng
như phản ánh đa chiều nhất đến người đọc”.
Câu 2: Theo ông số lượng các bài viết được đăng trên báo thời gian
qua có đáp ứng được nhu cầu của người đọc không? Và nội dung các bài
báo tác động đến người đọc như thế nào?
Trả lời: “Đối tượng bạn đọc trên báo Nhân dân rất đa dạng nên để đáp
ứng nhu cầu người đọc Báo Nhân dân đã xây dựng các chuyên mục riêng biệt
như Biển Đông, Trường Sa – Hoàng Sa…Và hầu hết các bài viết đều nhận
được lượt truy cập khá cao cho thấy mức độ quan tâm của người đọc.”
Câu 3: Theo ông để nâng cao chất lượng cũng như số lượng các bài
viết về chủ đề biển đảo thì Báo Nhân dân có định hướng như thế nào trong
thời gian tới?
Trả lời: “Với ba chuyên mục đã xây dựng báo sẽ tiếp tục đẩy mạnh
công tác thu thập thông tin và kiểm soát chất lượng bài viết một cách tốt nhất.
Đồng thời bổ sung thêm một số hình thức thể hiện khác để thu hút hơn nữa sự
quan tâm của bạn đọc”.
Trân trọng cảm ơn
Tác giả
Nguyễn Thu Trang
TRẢ LỜI CỦA BÀ PHẠM THỊ NGỌC ANH
PHÓ TỔNG BIÊN TẬP BÁO KHÁNH HÕA
Câu 1: Đánh giá của bà về chất lượng những bài viết có nội dung
thông tin về bảo vệ chủ quyền biên đảo trên Báo Khánh Hòa hiện nay như
thế nào?
Trả lời: “Có thể nói báo Khánh Hòa hiện nay là một trong những báo
phản ánh đầy đủ thông tin và chính xác nhất tình hình biên giới hải đảo. Đặc
biệt là quần đảo Trường Sa thuộc tỉnh Khánh Hòa. Vì phần lớn các nội dung
đều mang màu sắc chính trị rất lớn nên chúng tôi luôn phải kiểm duyệt nội
dung rất chặt chẽ.”
Câu 2: Theo bà số lượng các bài viết được đăng trên báo thời gian
qua có đáp ứng được nhu cầu của người đọc không? Và nội dung các bài
báo tác động đến người đọc như thế nào?
Trả lời: “Trong những năm gần đây khi tình hình biển Đông diễn ra
căng thẳng thì số lượng và chất lượng các bài viết tăng lên đáng kể, chủ đề
biển đảo gần như phủ sóng hầu hết các chuyên mục đáp ứng như cầu người
đọc.”
Câu 3: Theo bà để nâng cao chất lượng cũng như số lượng các bài
viết về chủ đề biển đảo thì Báo Khánh Hòa có định hướng như thế nào
trong thời gian tới?
Trả lời: “Trong thời gian tới báo Khánh Hòa sẽ cố gắng xây dựng thêm
những thư mục về chuyên đề biển đảo riêng biệt và cập nhật nhiều hơn nữa tình
hình trong và ngoài nước để phản ánh một cách đa chiều nhất đến người đọc”.
Trân trọng cảm ơn
Tác giả
Nguyễn Thu Trang
TRẢ LỜI CỦA BÀ NGUYÊN TUYẾT NHUNG
PHÓ TỔNG THƢ KÝ TÕA SOẠN BÁO THANH NIÊN
Câu 1: Đánh giá của bà về chất lượng những bài viết có nội dung thông
tin bảo vệ chủ quyền biên đảo trên Báo Thanh Niên hiện nay như thế nào?
Trả lời: “Nhìn chung chất lượng các bài viết có nội dung thông tin bảo vệ
chủ quyền biển đảo trên Báo Thanh Niên hiện nay rất đang dạng với nhiều hình
thức thể hiện và chủ đề khác nhau từ: Lịch sử, biên phòng, đời sống nhân dân.”
Câu 2: Theo bà số lượng các bài viết được đăng trên báo thời gian
qua có đáp ứng được nhu cầu của người đọc không? Và nội dung các bài
báo tác động đến người đọc như thế nào?
Trả lời: “Đối tượng bạn đọc của Báo Thanh Niên đa phần là các bạn
trẻ. Độ tuổi trung bình từ 18 – 25. Với đối tượng là những người trẻ như vậy
cần chú trọng rất nhiều về nội dung và hình thức thể hiện để làm sao phản ánh
được đầy đủ thông tin và thu hút nhất. Giới trẻ cũng là đối tượng dễ bị tác
động vào nhân thức và hành động nên những nội dung có tính chất tuyên
truyền trên báo cũng phải được kiểm duyệt rất chặt chẽ.”
Câu 3: Theo bà để nâng cao chất lượng cũng như số lượng các bài
viết về chủ đề biển đảo thì Báo Thanh Niên có định hướng như thế nào
trong thời gian tới?
Trả lời: “Hiện nay số lượng các bài viết trên Báo Thanh Niên rất đa
dạng và cập nhật liên tục tuy nhiên chưa xây dựng được thành những chuyên
mục riêng. Các bài viết còn rời rạc và chưa thực sự đều đặn. Trong thời gian
tới Báo sẽ cố gắng để hoàn thiện những thư mục riêng về chuyên đề bảo vệ
chủ quyền biển đảo, và tăng cường hình thức phóng sự và video để phản ánh
trực quan hơn”.
Trân trọng cảm ơn
Tác giả
Nguyễn Thu Trang
TRẢ LỜI CỦA ÔNG NGUYỄN MINH KHÁNH
PHÓ GIÁM ĐỐC SỞ THÔNG TIN VÀ TRUYỀN THÔNG HÀ NỘI
Câu 1: Đánh giá của ông về chất lượng những bài viết có nội dung
thông tin bảo vệ chủ quyền biển đảo trên các báo Nhân Dân, Khánh Hòa
và Thanh Niên hiện nay như thế nào?
Trả lời: “Có thể nói Báo Nhân Dân là báo in đi đầu trong vấn đề
thông tin bảo vệ chủ quyền biển đảo với ba chuyên mục riêng được cập
nhật đầy đủ và chi tiết. Báo Khánh Hòa hiện nay là một trong những báo
phản ánh thông tin nhanh và chính xác nhất tình hình biên giới hải đảo.
Đặc biệt là quần đảo Trường Sa . Bên cạnh đó Báo Thanh Niên thì cũng đã
có nhiều bài viết với nhiều màu sắc khác nhau từ chính trị đến đời sống tuy
nhiên số lượng các bài viết còn hạn chế và tính cập nhật chưa cao như hai
Báo Nhân Dân và Khánh Hòa.”
Câu 2: Theo ông số lượng các bài viết được đăng trên ba báo in trên
thời gian qua có đáp ứng được nhu cầu của người đọc không? Và nội dung
các bài báo tác động đến người đọc như thế nào?
Trả lời: “Những năm gần đây khi tình hình Biển Đông diễn ra căng
thẳng thì số lượng và chất lượng các bài viết trên các báo đều tăng tăng
lên , không chỉ riêng ba báo in trên mà ở hầu hết các báo in, báo điện tử
đều phủ sóng các bài viết, thông tin về biển đảo góp phần giúp người dân
nâng cao hiểu biết của mình. Tùy từng mức độ phản ánh và tiếp cận của
độc giả của từng báo khách nhau nhưng nhìn chung đáp ứng được yêu cầu
của người đọc.”
Câu 3: Theo ông để nâng cao chất lượng cũng như số lượng các bài
viết về chủ đề biển đảo thì các báo in có định hướng như thế nào trong thời
gian tới?
Trả lời: “Tùy vào đặc điểm, tính chất, lĩnh vực của từng báo mà có
những biển pháp định hướng khác nhau. Tuy nhiên số lượng phải luôn đi kèm
với chất lượng và yếu tố nhân lực phải được đặt lên hàng đầu. Tiếp đó cần
chú trọng đến việc đổi mới hình thức, nội dung và khảo sát thường xuyên các
ý kiến của bạn đọc để thay đổi các bài viết, chuyên mục cho phù hợp….”
Trân trọng cảm ơn
Tác giả
Nguyễn Thu Trang
TRẢ LỜI CỦA PGS. TS THIẾU TƢỚNG LÊ VĂN CƢƠNG
NGUYÊN VIỆN TRƢỞNG VIỆN CHIẾN LƢỢC – BỘ CÔNG AN
Câu 1: Thưa ông, ông có nhận xét như thế nào về công tác thông tin
biển đảo của Việt Nam trong những năm qua?
Trả lời: Theo tôi, biển đảo giữ vai trò chiến lược, cực kỳ quan trọng đối
với nước ta không chỉ về kinh tế mà còn về an ninh quốc phòng. Ngoài nguồn
lợi thủy hải sản mà Biển mang lại, chúng ta phải đối phó với những trở ngại do
tranh chấp với Biển đông, đặc biệt là sự đe dọa từ phía Trung Quốc. Lấy mốc
từ ¼ thế kỷ trước, Hội nghị Thành Đô ngày 3-4/9/1990 là bước ngoặt của quan
hệ Trung Việt... (Hai bên ký kết Kỷ yếu hội nghị đồng thuận bình thường hóa
quan hệ hai nước). Trung Quốc thường xuyên có những hành động gây hấn ở
Biển Đông. Họ không bao giờ cho đất nước chúng ta yên tâm khai khác ở Biển
Đông. Trước năm 2014, đã có rất nhiều hành động gây hấn của Trung Quốc
diễn ra như: 2011 - vụ cắt cáp tàu Bình Minh 2; năm 2012 - Trung Quốc tuyên
bố thành lập thành phố Tam Sa tại đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa của
Việt Nam (bị Trung Quốc chiếm đóng trái phép). Ngoài ra, ngư dân của Việt
Nam tiến hành khai thác trong ngư trường của mình cũng bị tàu cá “lạ” của
Trung Quốc gây hấn xua đuổi, đánh đập. Năm 2007: 9 ngư dân Thanh Hóa của
chúng ta bị Trung Quốc bắn chết, tiếp theo 2009 - ngư dân ở Quảng Nam, Đà
Nẵng cũng bị thiệt mạng. Tóm lại, từ năm 2013 trở về trước, hàng trăm lần
chúng ta bị tàu Trung Quốc gây hấn. Hai tư năm nay, do nhiều vấn đề truyền
thông của chúng ta dường như “im hơi lặng tiếng” với vấn đề này.
Năm 2014, theo tôi là bước ngoặt với Truyền thông Việt Nam. Nhà
nước mà trực tiếp là thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã chính thức cho phép là
kêu gọi Báo chí truyền thông lên tiếng. Lần đầu tiên sau ¼ thế kỷ, Báo chí đã
vào cuộc, kịp thời đưa thông tin đến cho 90 triệu người dân Việt Nam và 8 tỷ
người trên thế giới một cách chính xác và cập nhật nhất về tình hình căng
thẳng trên biển đảo Việt Nam. Vấn đề thông tin biển đảo cũng được đẩy mạnh
ở trên mọi lĩnh vực như truyền thông báo chí, văn hóa văn nghệ, giáo dục, y tế
cũng có những hoạt động hướng về biển đảo quê hương...
Câu 2: Vụ việc Trung Quốc đưa trái phép giàn khoan HD 981 vào
thềm lục địa của Việt Nam ngày 2/5/2014 đã khiến tình hình Biển Đông trở
nên căng thẳng, ông đánh giá thế nào về sự kiện này và theo ông chúng ta
nên làm gì để tăng cường hiệu quả thông tin biển đảo.
Trả lời: Tính đến nay (8/7/2014) là 2 tháng 6 ngày, kể từ khi Trung
Quốc hạ đặt giàn khoan vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Tôi coi
đây là một hành động cực kỳ nghiêm trọng, vi phạm công ước luật biển 1982
của Liên hợp Quốc, đi ngược với cam kết đã ký của Trung Quốc về vấn đề
Biển Đông. Không chỉ dừng lại ở hành động này, sau khi hạ đặt giàn khoan
trái phép, Trung Quốc liên tiếp đâm va vào tàu Chấp pháp và Hải giám của
Việt Nam, thậm chí đâm chìm tàu của Việt Nam và còn cản trở các tàu khác
đến cứu hộ. Hành động này của Trung Quốc đã khiến cả dư luận thế giới cũng
phẫn nộ. Sự “trâng tráo” của Trung Quốc được chứng minh qua hành động
gửi kháng thư cho Liên hợp Quốc tố cáo bị tàu Việt Nam đâm trên 1.400 lần.
Điều này đã chứng minh một điều, Trung Quốc luôn luôn “nói một đằng, làm
một nẻo”. Chính sách của Trung Quốc đối với Việt Nam là “cá lớn nuốt cá
bé”. Chính Trung Quốc đã “vứt vào sọt rác” 4 tốt, 16 chữ vàng với Việt Nam.
Trước thực trạng này Đảng và Nhà Nước phải nói cho toàn dân biết
thực trạng quan hệ Việt - Trung. Ý chí bảo vệ độc lập chủ quyền phải dựa trên
những hiểu biết sâu sắc về quan hệ hai nước. Mặt khác, nếu chúng ta lúng
túng, không kiên quyết đấu tranh thì thế giới cũng khó lòng ủng hộ mình
được. Điều nảy đã được Đảng, nhà nước chúng ta thực hiện quán triệt trong
một loạt hành động, tăng cường tuyên truyền biển đảo trên các phương tiện
thông tin đại chúng, kêu gọi phong trào ủng hộ biển đảo. Báo chí đã thực sự
vào cuộc, cung cấp thông tin chính xác và cập nhật đến với đông đảo nhân
dân trong nước cũng như người dân trên thế giới. Tạo nên sự đồng tình cũng
hộ cỏ dư luận trong nước và quốc tế.
Ngoài ra, muốn đối phó với Trung Quốc, trước hết các nước trong khu
vực như Việt Nam, Philippines, Malaysia, Indonesia… phải có sự hợp tác.
Khi đó, Trung Quốc muốn “quẫy” ở Biển Đông cũng sẽ gặp nhiều khó khăn.
Mặt khác, trong vấn đề ngoại giao, phải đặt lợi ích dân tộc lên hàng đầu.
Trân trọng cảm ơn
Tác giả
Nguyễn Thu Trang