ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -------------------------------
HÀ KHẮC MINH
BÁO CHÍ VỚI QUÁ TRÌNH TÁI CƠ CẤU
DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC
(Khảo sát Báo Đầu tƣ, Báo Tuổi trẻ TPHCM,
Thời báo Kinh tế Sài Gòn, Tạp chí Tài chính doanh nghiệp,
từ tháng 8/2012 – tháng 8/2013)
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Báo chí học
Hà Nội – 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -------------------------------
HÀ KHẮC MINH
BÁO CHÍ VỚI QUÁ TRÌNH TÁI CƠ CẤU
DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC (Khảo sát Báo Đầu tƣ, Báo Tuổi trẻ TPHCM,
Thời báo Kinh tế Sài Gòn, Tạp chí Tài chính doanh nghiệp,
từ tháng 8/2012 – tháng 8/2013)
Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Báo chí học
Mã số: 60.32.01.01
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Anh Tuấn
Hà Nội – 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình do tôi tự nghiên cứu. Các số liệu
trong luận văn rõ ràng và trung thực, các kết luận của luận văn này chưa từng
được công bố trong các công trình khác.
Hà Nội, ngày 14 tháng 4 năm 2015
TÁC GIẢ
Hà Khắc Minh
LỜI CẢM ƠN
Xin chân thành cảm ơn TS. Nguyễn Anh Tuấn đã tư vấn, hướng dẫn tôi lựa
chọn và thực hiện nghiên cứu đề tài này. Đây là một đề tài khó, còn nhiều quan
điểm khác nhau nhưng mang tính ứng dụng thực tiễn cao đối với công việc của bản
thân. Mặc dù chưa có nhiều kinh nghiệm trong công tác nghiên cứu khoa học, song
được sự hướng dẫn tận tình của TS. Nguyễn Anh Tuấn, tôi đã có phương pháp tiếp
cận, nghiên cứu và thực hiện đề tài một cách hiệu quả.
Xin gửi lời tri ân đến các thầy, cô giáo tại Khoa Báo chí - Truyền thông,
Phòng Đào tạo Sau Đại học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn đã cung
cấp cho tôi những kiến thức cơ bản, để bổ sung, hoàn thiện hơn cơ sở lý luận báo
chí của mình đang khuyết thiếu, giúp tôi vững vàng hơn về nghiệp vụ, quan trọng
hơn là bước đầu hình thành tư duy và kỹ năng nghiên cứu khoa học.
Xin được gửi lời cảm ơn đến các nhà hoạch định chính sách, quản lý nhà
nước, lãnh đạo báo, các đồng nghiệp đã dành thời gian trao đổi, cung cấp nhiều
thông tin quý báu giúp tôi trong quá trình viết luận văn.
Tôi cũng xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc đến gia đình, người thân và bạn bè
đã luôn ủng hộ, động viên, là động lực giúp tôi hoàn thành luận văn.
Xin chân thành cảm ơn!
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: Một số vấn đề lý luận về báo chí và vai trò báo chí với tái cơ
cấu DNNN ...................................................................................................... 12
1.1. Báo chí, thông tin báo chí và giám sát phản biện của báo chí
trong sự phát triển kinh tế - xã hội ................................................................. 12
1.2. Quan điểm của Đảng, Nhà nước về tái cơ cấu DNNN......................... ... 20
1.3. Vai trò của báo chí với tái cơ cấu DNNN………….. .............................. 30
Tiểu kết Chương 1 .......................................................................................... 36
Chƣơng 2: Thực trạng thông tin báo chí về tái cơ cấu DNNN ................. 37
2.1. Thực trạng thông tin về tái cơ cấu DNNN trên 4 tờ báo ......................... 37
2.2. Thực trạng nội dung thông tin ................................................................. 40
2.3. Thực trạng hình thức thông tin ................................................................. 52
Tiểu kết chương 2....................................................................................... ... 71
Chƣơng 3: Kiến nghị một số giải pháp nâng chất lƣợng thông tin về tái
cơ cấu DNNN ................................................................................................ 72
3.1. Đánh giá ưu, nhược điểm công tác thông tin tái cơ cấu DNNN .............. 72
3.2. Nguyên nhân của những hạn chế………………………………...…... ... 85
3.3. Đề xuất một số giải pháp .......................................................................... 91
Tiểu kết chương 3 ......................................................................................... 109
KẾT LUẬN .................................................................................................... 110
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 112
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Báo Đầu tư
: BĐT
Báo Tuổi trẻ
: BTT
Cổ phần hóa
: CPH
Doanh nghiệp
: DN
Doanh nghiệp nhà nước
: DNNN
Đại học Quốc gia Hà Nội
: ĐHQGHN
Hỗ trợ phát triển chính thức
: ODA
Phản biện xã hội
: PBXH
Tạp chí Tài chính doanh nghiệp
: TCTCDN
: TĐKT
Tập đoàn kinh tế
: TCT
Tổng công ty
Thời báo Kinh tế Sài Gòn
: TBKTSG
Tổng sản phẩm quốc nội
: GDP
MỞ ĐẦU
1 - Tính cấp thiết và lý do chọn đề tài
Nghị quyết Đại hội Đảng IX đã khẳng định chủ trương nhất quán của Đảng ta
là phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò
chủ đạo. Kinh tế nhà nước cùng kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững
chắc của nền kinh tế quốc dân và một lần nữa nhấn mạnh nhiệm vụ “tiếp tục đổi
mới và phát triển kinh tế nhà nước để thực hiện tốt vai trò chủ đạo của nền kinh tế”.
Việc đổi mới và phát triển kinh tế nhà nước không thể không bao gồm đổi mới
các DNNN – nòng cốt của kinh tế nhà nước TĐKT, TCT.
Nhìn tổng thể, vai trò của DNNN nói chung, các TĐKT, TCT nhà nước nói
riêng trong thời gian qua là hết sức quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước. Các DNNN đã bảo đảm sản xuất, cung ứng các sản phẩm, hàng hoá
và dịch vụ thiết yếu cho nền kinh tế. Trong thời kỳ khủng hoảng tài chính và suy
thoái kinh tế toàn cầu, các DNNN vẫn duy trì được hoạt động và có đóng góp quan
trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước trong nhiều lĩnh
vực nhằm ổn định kinh tế và đảm bảo an sinh xã hội.
Tuy vậy, DNNN còn nhiều yếu kém và bất cập.
Một là, hiệu quả kinh tế và sức cạnh tranh của DNNN còn thấp mặc dù có
nhiều lợi thế về nguồn lực. DNNN chiếm khoảng 40% vốn đầu tư toàn xã hội, 50%
vốn đầu tư nhà nước, 70% nguồn vốn ODA và được hưởng nhiều đặc quyền khác.
Tuy nhiên, hiệu quả sản xuất kinh doanh của khu vực này còn thấp, chưa tương
xứng với những gì được đầu tư. Năm 2011, đóng góp vào GDP của khu vực kinh tế
nhà nước chỉ đạt 33,03% trong khi khu vực kinh tế ngoài nhà nước đóng góp tới
48%. Bên cạnh đó, việc giám sát nguồn vốn nhà nước, quản trị DN bị buông lỏng
đã gây ra những hậu quả nghiêm trọng, làm lãng phí, thất thoát vốn của Nhà nước.
Bên cạnh đó, theo số liệu của Bộ Tài chính tính đến cuối năm 2011, tổng số lỗ lũy
kế của riêng các tập đoàn lớn đã lên tới hơn 26.000 tỷ đồng, cao gấp 12 lần so với
1
các DN ngoài quốc doanh và DN có vốn đầu tư nước ngoài, trong số đó có tới gần
1/3 Tập đoàn, Tổng Công ty có tỷ lệ nợ phải trả cao gấp 3 lần vốn chủ sở hữu. Cũng
theo số liệu của Bộ Tài chính, tổng dư nợ cho vay DNNN lên trên 415 nghìn tỷ
đồng, trong đó tổng nợ của 12 tập đoàn kinh tế lớn đã chiếm đến 52,66%. Trong 10
năm qua, tỷ suất lợi nhuận trên tổng nguồn vốn của khu vực DNNN chưa năm nào
vượt quá 6%, trong khi các DN FDI luôn duy trì ở mức trên dưới 10%.
Hai là, thực trạng tài chính tại một số DNNN rất yếu kém, thua lỗ kéo dài,
tiềm ẩn nguy cơ rủi ro mất cân đối tài chính. Việc thực hiện vai trò điều tiết vĩ mô
của Nhà nước đối với kinh tế của các DNNN còn hạn chế. Nhiều DNNN chưa bắt
kịp với xu hướng phát triển của nền kinh tế thị trường; năng lực, hiệu lực, hiệu quả
quản trị DN còn yếu kém, bất cập. Các công ty nông nghiệp, lâm nghiệp (nông, lâm
trường quốc doanh) còn chậm được sắp xếp, đổi mới; và hoạt động của một bộ phận
DNNN đã góp phần dẫn đến bất ổn kinh tế vĩ mô.
Những con số trên do bắt nguồn từ mô hình phát triển kinh tế chung, DNNN
nhất là các TĐKT, TCT nhà nước đã quá thiên về mở rộng quy mô đầu tư, chưa chú
trọng phát triển theo chiều sâu nên hiệu quả kinh doanh và sức cạnh tranh thấp.
Chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành, lĩnh vực, sản phẩm và của từng
TĐKT, TCT, DNNN còn bất cập và yếu kém. Việc thực hiện sắp xếp, CPH DNNN
còn chậm so với phương án được duyệt. Một nguyên nhân nữa là tình trạng nhiều
TĐKT, TCT nhà nước đầu tư vào những ngành, lĩnh vực tiềm ẩn nhiều rủi ro, phụ
thuộc nhiều vào vốn vay hoặc chiếm dụng; tình trạng độc quyền hoặc thống lĩnh thị
trường trong một số lĩnh vực làm hạn chế động lực cạnh tranh và phát triển.
Ngoài ra, cơ chế, chính sách về quản lý DNNN chưa theo kịp với thực tiễn
hoạt động của các TĐKT, TCT; sự hạn chế trong phối hợp giữa các Bộ, Ngành
trong quản lý, giám sát DNNN nhất là TĐKT, TCT nhà nước; sự bất cập về mô
hình, thể chế quản trị, đội ngũ cán bộ quản lý DN và quản lý nhà nước cũng là
những nguyên nhân chủ quan gây ra sự yếu kém của khu vực DNNN. Hậu quả là đã
có sự đổ vỡ mà tiêu biểu là Tập đoàn công nghiệp Tàu thủy Việt Nam (Vinashin),
2
Tổng công ty Hàng Hải Việt Nam (Vinalines).
Từ những điểm nêu trên, có thể thấy rõ, việc TCC DNNN là yêu cầu cấp thiết,
được xác định là một trong ba nội dung quan trọng của TCC toàn bộ nền kinh tế
(cùng với TCC đầu tư công, TCC ngân hàng và các tổ chức tín dụng).
Kết luận của Hội nghị Trung ương 6 (khóa XI) tiếp tục khẳng định DNNN là
lực lượng nòng cốt của kinh tế nhà nước, lực lượng vật chất quan trọng, công cụ hỗ
trợ để điều tiết nền kinh tế, hạn chế những mặt trái của kinh tế thị trường. Vì thế,
nhìn rõ những yếu kém, sai lầm, đề ra các phương thức nâng cao tính hiệu quả của
DNNN là yêu cầu tất yếu, có tính mấu chốt trong quá trình TCC kinh tế hiện nay.
Do TCC DNNN có vai trò to lớn như vậy, nên việc tuyên truyền về TCC
DNNN làm sao cho hiệu quả là vô cùng quan trọng. Trong đề án TCC DNNN,
Chính phủ nêu rõ: Bộ Thông Tin Truyền thông phối hợp với các Bộ, ngành, địa
phương, các TĐKT, TCT nhà nước tổ chức thực hiện việc thông tin, tuyên truyền
về TCC DNNN theo đúng chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước. Việc tuyên
truyền đúng góp phần đả thông tư tưởng người quản lý, tạo sự ủng hộ của cán bộ
nhân viên trong DN, sự ủng hộ của toàn dân, những người được xem là cổ đông của
DNNN (vốn toàn dân, sở hữu toàn dân)...
Báo chí cách mạng với vai trò sứ mệnh của mình đã nhập cuộc tuyên truyền,
thông tin về TCC DNNN khá đậm nét với tần suất khá cao, hình thức phong phú, đa
dạng. Từ việc phản ánh những bất cập của cơ chế chính sách đến sai phạm trong
quản lý, yếu kém trong điều hành... báo chí còn phản ánh tâm tư nguyện vọng của
người dân, chuyên gia, và sức ép của các nhà tài trợ quốc tế. Bức tranh về TCC
DNNN trên báo chí đã trở nên đa sắc màu và sát với chủ trương đường lối của
Đảng, Nhà nước. Tuy nhiên, điều hành về lĩnh vực DNNN vốn là lĩnh vực khó,
nhạy cảm, nên có những vấn đề còn nhiều ý kiến trái chiều, nhiều quan điểm khác
nhau cần được cân nhắc kỹ lưỡng để hài hòa lợi ích kinh tế và yếu tố an ninh quốc
phòng và an sinh xã hội. Có những thông tin cũng đã thấp thoáng việc đòi hỏi thái
quá về TCC không đúng chủ trương là “TCC để gọn, nhưng vẫn mạnh, DNNN vẫn
3
phải là nòng cốt của nền kinh tế”. Theo đó, có ý kiến đòi tư nhân hóa tất tần tật...
Với những lý do đó, bản thân chọn nghiên cứu đề tài “Báo chí với quá trình
TCC DNNN” với mong muốn có cái nhìn khái quát, tổng thể thông qua sự khảo sát,
so sánh đối chiếu giữa các tờ báo, giữa các cách thể hiện, giữa thực tế và chủ
trương... Việc nghiên cứu bao gồm cả việc nhận xét đánh giá và đưa ra khuyến nghị
nhằm góp phần nâng cao hiệu quả tuyên truyền chủ trương lớn này.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Do chính sách TCC DNNN còn khá mới mẻ, được ban hành từ tháng 7/2012
nên đến nay, qua tìm hiểu của bản thân ở Khoa báo chí – Đại học Khoa học Xã hội
và Nhân Văn (ĐHQG Hà Nội), Học viện Báo chí Tuyên truyền có một số công trình
nghiên cứu, các bài viết chuyên sâu các vấn đề liên quan đến vấn đề báo chí với
DNNN ở cấp khóa luận như:
- “Báo chí với công tác sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả
doanh nghiệp nhà nước” của tác giả Đậu Huy Sáu - năm 2004.
- “Báo chí với việc phát huy vài trò chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước”,
Nguyễn Thị Nguyệt Hà - năm 1998;
- “Báo chí với tiến trình đổi mới hệ thống doanh nghiệp nhà nước” của Lê Thị
Hải Lý - năm1998;
- “Những thuận lợi và khó khăn của việc cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
trên báo chí”, Đặng Anh Tuấn – năm 2001;
- “Tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước qua sự phản ánh của báo
chí” của Phạm Thu Hà – năm 2002;
- “Báo chí với việc tuyên truyền chủ trương cổ phần hóa doanh nghiệp nhà
nước”, Lê Thị Ngọc Hà thực hiện - năm 2000;
- “Báo Nhân dân với việc tuyên truyền phát huy vài trò doanh nghiệp nhà
nước” của Nguyễn Thiện Kế - năm 2001.
- “Báo chí và doanh nghiệp: Gắn bó, hợp tác và chia sẻ”, bài báo khoa học
của TS Phạm Tất Thắng đăng ngày 21/10/2014 trên Tạp chí Cộng sản.
Các nghiên cứu này khá thành công trong việc khẳng định những đóng góp
4
của báo chí đối với nhiệm vụ thông tin, tuyên truyền về chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước về đổi mới phát triển DNNN ở thời điểm nghiên cứu. Tuy nhiên,
các nghiên cứu chỉ mới ở cấp khóa luận, nên chưa thực sự chuyên sâu. Việc đánh
giá nhận xét và đề xuất giải pháp chủ yếu dừng lại đối với báo in lúc bấy giờ, chưa
đặt trong môi trường truyền thông hội tụ và có sự cạnh tranh khốc liệt giữa các loại
hình báo chí khác nhau, cũng như sự vào cuộc của mạng xã hội. Do hoàn cảnh khác
nhau nên việc đánh giá và kiến nghị giải pháp với các luận văn không còn phù hợp
với hoàn cảnh hiện tại.
Mặt khác, những khóa luận trên chủ yếu được thực hiện từ những năm 2003
về trước (khi Luật DNNN chưa ra đời, nay luật này đã hết hiệu lực tháng 7/2010).
Như vậy, việc nâng cao hiệu quả hoạt động DNNN ở các nghiên cứu trên là trong
giai đoạn thường xuyên, chưa phải đợt cao điểm, cấp bách, toàn diện như hiện nay
nhất là khi hàng loạt sai phạm, đổ vỡ của các DNNN thời gian qua…; Chủ trương
TCC DNNN còn nóng hổi, trở thành mối quan tâm của toàn dân và các nhà tài trợ
nước ngoài… Chủ trương này cần được theo dõi, giám sát, phản biện từng ngày,
từng giai đoạn và đang trở thành mối quan tâm của toàn xã hội, xuất hiện một số
quan điểm trái chiều: đòi bán toàn bộ DNNN, không xem kinh tế nhà nước là chủ
đạo, vấn đề độc quyền nhà nước hay độc quyền DN…
Ở cấp luận văn, gần đây có 02 nghiên cứu:
- “Báo chí ngành tài chính với vấn đề TCC DNNN” – Đậu Huy Sáu (2013);
Đây là luận văn có đề tài gần nhất với đề tài của bản thân nhất. Nhưng do
nghiên cứu này được bảo vệ sau thời điểm bản thân được hội đồng thông qua quyết
định công nhận đề tài nghiên cứu nên thời điểm đó, bản thân không biết đã có
nghiên cứu về vấn đề này. Trong quá trình nghiên cứu, bản thân đã tìm được những
điểm khác biệt như sau:
Thứ nhất, về đối tượng khảo sát: Chỉ bị trùng 01 tờ TC TCDN. 03 tờ báo còn lại có
01 tờ chính trị - xã hội đại chúng hơn là tờ Tuổi trẻ TP HCM, nhằm tìm kiếm những
thông tin được “đại chúng hóa” một vấn đề vốn rất khô khan, vĩ mô, chuyên sâu..
mặt khác kỳ vọng vào tính chiến đấu của tờ báo này ở dạng phóng sự điều tra.
5
TBKTSG cũng chuyên sâu hơn về kinh tế và BĐT vốn có lợi thế hơn khi cơ quan
chủ quản – Bộ Kế hoạch Đầu tư được giao nhiệm vụ nghiên cứu Đề án TCC tổng
thể nền kinh tế (trong đó có TCC DNNN) và xây dựng nhiều cơ chế chính sách về
DNNN.
Thứ hai, về lý luận: Bản thân đã cắt nghĩa cụ thể hơn, đầy đủ hơn về các khái niệm
về TCC DNNN và bổ sung thêm phần giám sát, PBXH trên báo để làm cơ sở
nghiên cứu, đánh giá thông tin về lĩnh vực được xem là có nhiều lỗ hổng, dễ thất
thoát, sai phạm này.
Thứ ba, về kết quả nghiên cứu của đề tài, khi nghiên cứu đánh giá thông tin, bản
thân đi vào một số vấn đề nóng bỏng, vướng mắc nhất làm ảnh hưởng đến chất
lượng thông tin trên báo chí về TCC DNNN đó là: Thiếu thông tin (vốn được xem
là vấn đề cơ bản cốt lõi ảnh hưởng đến hoạt động của DNNN và khó khăn cho hoạt
động báo chí); Phản ánh mặt trái nhiều, mặt ưu điểm ít; Thông tin thể hiện sự nóng
vội thái quá, chệnh trọng tâm; thiếu thông tin hấp dẫn... Đây là những điều khác biệt
với luận văn của Đậu Huy Sáu.
- “Vấn đề TCC nền kinh tế trên báo chí kinh tế Việt Nam” - Lê Phương Vân
(năm 2014);
Luận văn này được bảo vệ khi công trình nghiên cứu của bản thân đã gần hoàn
thiện. Điểm khác biệt là: Vấn đề TCC nền kinh tế rộng hơn gồm: TCC Đầu tư công;
TCC ngân hàng và các tổ chức tín dụng; TCC DNNN. Do vậy, nghiên cứu này có
bề rộng hơn song thiếu chiều sơn so với luận văn tác giả. 03 vấn đề trong Đề án
TCC tổng thể nền kinh tế cũng có nhiều điểm khác nhau, do vậy nghiên cứu đánh
giá thông tin giữa hai luận văn cũng khác nhau. Kết quả nghiên cứu của Luận văn
này cũng chưa đề cập đến các vấn mà bản thân đã nêu ra ở trên là thiếu thông tin,
nóng vội chệch chuẩn; thiếu thông tin hấp dẫn và nêu ưu điểm quá ít so với nhược
điểm.
Như vậy, nghiên cứu của bản thân không bị trùng lặp với bất kỳ nghiên cứu
nào ở Việt Nam đến thời điểm hiện tại.
6
Ngoài báo chí học, cũng có khá nhiều nghiên cứu dưới các góc độ kinh tế học:
- Báo cáo Kinh tế vĩ mô 2012, Từ bất ổn vĩ mô đến con đường TCC, Ủy ban
Kinh tế Quốc hội, Nxb Tri thức, 2012;
- Cuốn Kinh tế Việt Nam năm 2012: Khởi động mạnh mẽ quá trình TCC nền
kinh tế, Ủy ban Kinh tế Quốc hội, Viện KHXHVN, VCCI, UNDP, tháng 5/2012;
- Kỷ yếu Hội thảo quốc gia “Tập đoàn kinh tế - Lý luận và thực tiễn” do Nhà
Xuất bản Chính trị Quốc gia - Sự thật tổ chức ngày 25/5/2009)”
- Kỷ yếu Diễn đàn kinh tế mùa Xuân, mùa Thu 2013, 2014, Ủy ban Kinh tế
Quốc hội…
Nghiên cứu của bản thân lần này cập nhật và đánh giá lại tất cả các vấn đề
nóng hổi mà báo chí nêu về TCC nền kinh tế nói chung và DNNN nói riêng; đặc
biệt trong thời gian gần đây có nhiều sự kiện chấn động toàn quốc đó là: Sau sự đổ
vỡ của Vinashin, Vinalines, báo chí đã đề cập đến hàng loạt vấn đề: Ai là ông chủ
thực sự của DNNN? Xảy ra sai phạm ai chịu trách nhiệm? Mô hình nào của DNNN
sắp tới là hiệu quả? DNNN có nên được tiếp tục xem là trọng điểm của nền kinh tế
của nền kinh tế quốc dân không?
3. Mục đích, nội dung nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: Mục đích nghiên cứu của đề tài “Báo chí với quá trình
TCC DNNN” là nhận diện, phân tích, đánh giá bước đầu thực trạng thông tin, tuyên
truyền về hoạt động tái cấu trúc DNNN trên 4 tờ báo được khảo sát, từ đó đề xuất
các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của báo chí nói chung và các tờ báo được
khảo sát nói riêng, góp phần thực hiện thành công tái cấu trúc DNNN theo tinh thần
Nghị Quyết của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI về Chiến lược phát triển kinh tế
-xã hội 2011 -2020.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
Tác giả làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về TCC DNNN và vai trò, sứ mệnh
của báo chí đối với chủ trương và thực tiễn của hoạt động này.
Dựa trên khung lý thuyết tại nhiệm vụ nghiên cứu trên và tham vấn ý kiến các
nhà hoạch định chính sách, nhà quản lý, các phóng viên, biên tập viên theo dõi
7
mảng kinh tế nói chung và TCC DNNN nói riêng, tác giả phân tích, đánh giá thực
trạng về cách thức tổ chức thông tin, nội dung và hình thức thông tin vấn đề TCC
DNNN trên 4 tờ báo khảo sát.
Qua việc, phân tích, đánh giá trên, tác giả cũng đề xuất một số khuyến nghị,
giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả thông tin tuyên truyền về triển khai
thực hiện TCC DNNN trên báo chí nói chung, các tờ báo được khảo sát nói riêng.
4 – Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn này là: Vấn đề TTC DNNN trên 04 tờ
báo: BĐT, BTT, TBKTSG, TCTCDN.
- Phạm vi nghiên cứu là nội dung thông tin; cách thức tổ chức thông tin đăng
tải trên 4 tờ báo, tạp chí sau: BĐT (Bộ Kế hoạch Đầu tư), BTT TP Hồ Chí Minh
(Thành đoàn TP Hồ Chí Minh), TBKTSG (Sở Công Thương TP Hồ Chí Minh),
TCTCDN (Cục Tài chính DN, Bộ Tài chính); Chỉ khảo sát báo in, ấn phẩm chính.
Việc lựa chọn 04 tờ báo này bởi: BĐT là tờ báo chuyên về kinh tế, thuộc bộ
kinh tế tổng hợp – Bộ Kế hoạch Đầu tư được Chính phủ ủy quyền xây dựng Đề án
tổng thể TCC toàn bộ nền kinh tế (Đề án TCC DNNN là một trong ba thành phần
của đề án này). Riêng với TCC DNNN, Bộ Kế hoạch Đầu tư cũng tham gia xây
dựng một số cơ chế chính sách, Quyết định, Nghị định cho Chính phủ. TCTCDN
thuộc Cục Tài chính DN (Bộ Tài chính) là nơi tác giả đang công tác, do vậy có điều
kiện hiểu sâu hơn về Tạp chí thuận lợi trong quá trình nghiên cứu. Ngoài ra, Tạp chí
thuộc Cục Tài chính DN – Đơn vị được Bộ Tài chính giao chủ trì soạn thảo chính
Đề án TCC DNNN này và các cơ chế chính sách về lĩnh vực DNNN. Do vậy, Tạp
chí có thuận lợi trong việc tiếp cận nguồn tin. BTT là tờ báo chính trị xã hội có uy
tín và tia ra hàng đầu tại Việt Nam hiện nay. Nhật báo này có thông tin thời sự nóng
hổi và được đánh giá dám nói những điều khó nói, đăng những bài phóng sự điều
tra về những sai phạm, thất thoát vốn… mà TCC DNNN và một trong những vấn đề
như thế. TBKTSG cũng là một tờ báo kinh tế ở phía nam được đánh giá có uy tín
cao trong lĩnh vực kinh tế, kinh doanh. Tờ báo kinh tế theo hướng thị trường này
gần đây có nhiều bài chuyên gia phân tích sâu sắc về lĩnh vực TCC DNNN.
8
Thời gian khảo sát: Từ tháng 8/2012 đến tháng 8/2013
- Lý do lựa chọn: Ngày 17/7/2012, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định
929/QĐ-TTg, phê duyệt Đề án “TCC DNNN, trọng tâm là TĐKT, TCT nhà nước
giai đoạn 2011 -2015”. Từ đó đến nay việc nội dung thông tin báo chí tập trung vào
phán ánh, giám sát quá trình thực hiện và đề xuất giải pháp cụ thể.
5 –Phƣơng pháp nghiên cứu:
Phương pháp luận:
Đề tài luận văn này được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của Chủ
nghĩa Mác – Lê nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và hệ thống lý luận báo chí truyền
thông; Chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về TCC DNNN; hệ thống văn
bản pháp luật, điều hành của Chính phủ, các bộ ngành trong việc triển khai thực
hiện TCC DNNN; định hướng và nội dung thông tin liên quan đến TCC DNNN trên
BĐT, BTT, TBKTSG, TCTCDN từ tháng 8/2012 đến hết tháng 8/2013.
Phương pháp cụ thể:
+ Nghiên cứu, khảo cứu tài liệu: Để tìm hiểu các khái niệm về vấn đề nghiên
cứu trong luận văn và
+ Thống kê, phân tích tài liệu: Thống kê số lượng tin bài, hình họa, biểu đồ...
về TCC DNNN trên 04 báo được khảo sát. Việc thống kê được căn cứ trên cơ sở lý
thuyết về thể loại báo chí để phân chia hợp lý, tạo điều kiện cho việc khái quát hóa.
+ So sánh, đối chiếu: Từ thống kê ở trên, tác giả đã tiến hành so sánh, đối
chiếu số lượng, chất lượng thông tin TCC DNNN giữa báo này với báo khác, giữa
thể loại này với thế loại khác...
+ Phân tích, tổng hợp; nhận xét, đánh giá và khái quát vấn đề: Việc phân tích
được dựa vào những con số cụ thể từ đó đánh giá chất lượng thông tin, đánh giá
điểm mạnh, điểm yếu và khái quát hóa để luận văn mang tính tổng thể của vấn đề.
+ Phỏng vấn sâu: Phỏng vấn chuyên gia, các nhà quản lý trong lĩnh vực kinh
tế - tài chính; các lãnh đạo báo, phóng viên, biên tập viên phụ trách lĩnh vực này. Cụ
thể, tác giả đã phỏng vấn: Ths Nguyễn Duy Long – Trưởng phòng Sắp xếp đổi mới
và Phát triển doanh nghiệp (Cục Tài chính doanh nghiệp- Bộ Tài chính), thành viên
9
ban soạn thảo Đề án TCC DNNN; Ths Đặng Quyết Tiến – Phó Cục trưởng Cục Tài
chính doanh nghiệp (Bộ Tài chính), Kiêm tổng Biên tập Tạp chí Tài chính doanh
nghiệp, thành viên ban soạn thảo Đề án TCC DNNN; ông Hoàng Tư Giang – Phóng
viên Thời báo Kinh tế Sài gòn; ông Bùi Đức Hải – Phó tổng Biên tập Báo Đầu tư;
Ths Tạ Thị Thu Hằng – Phóng viên Tạp chí Tài chính doanh nghiệp; Bà Lê Thanh –
Phóng viên báo Tuổi trẻ TP Hồ Chí Minh.
Tùy theo điều kiện khách quan, đề tài thực hiện phỏng vấn trực tiếp, gián tiếp
(quan email, điện thoại).
6 – Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
- Ý nghĩa lý luận:
+ Hệ thống hóa những vấn đề lý luận liên quan đến vai trò của báo chí đối với
việc triển khai thực hiện TCC DNNN hiện nay.
+ Khái quát lý luận về thông tin tuyên truyền TCC DNNN trên báo chí.
+ Cung cấp cơ sở lý luận, khoa học cho những người viết báo chuyên về lĩnh
vực kinh tế, tài chính, DN và những người làm quản lý các báo, chuyên mục kinh
tế- tài chính, nhằm góp phần nâng cao hiệu quả công tác định hướng dư luận, góp
sức vào thực hiện hiệu quả công tác TCC DNNN và đáp ứng nhu cầu của công
chúng.
+ Luận văn cũng góp phần làm giàu, phong phú và hoàn thiện thêm lý luận
báo chí truyền thông hiện đại (vai trò, chức năng, kinh tế báo chí truyền thông…).
- Ý nghĩa thực tiễn:
Luận văn đi sâu tìm hiểu thực trạng hoạt động truyền thông về TCC DNNN
trên các tờ báo được khảo sát. Do vậy luận văn có thể làm cẩm nang nghề nghiệp
cho sinh viên chuyên ngành báo chí học; tài liệu tham khảo cho các phóng viên,
biên tập viên, cơ quan báo chí khảo cứu cho việc hoạch định tổ chức thông tin báo
chí về công tác TCC DNNN. Đồng thời, thông qua việc nghiên cứu, khảo sát và
phân tích, tác giải đã đưa ra những khuyến nghị, giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng và hiệu quả thông tin tuyên truyền về TCC DNNN trên các cơ quan báo chí
khác.
10
7 – Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn có 3
chương như sau:
Chƣơng 1: Một số vấn đề lý luận về báo chí và vai trò báo chí với TCC
DNNN
Nội dung chương này giải quyết các vấn đề lý luận về TCC DNNN nói chung,
một số quan điểm định hướng của Đảng, Nhà nước về vấn đề TCC DNNN và vai
trò của báo chí cách mạng Việt Nam, trong đó nhấn mạnh vai trò của báo chí với
vấn đề TCC DNNN.
Chƣơng 2: Thực trạng thông tin báo chí về TCC DNNN
Chương này trình bày toàn bộ số liệu khảo sát cũng như thuyết minh kết quả
khảo sát về nội dung và hình thức chuyển tải thông tin về TCC DNNN trên 04 tờ
báo được khảo sát. Đây là những dữ liệu quan trọng để đánh giá ưu nhược điểm và
tìm ra giải pháp cho vấn đề.
Chƣơng 3: Kiến nghị một số giải pháp nâng cao vai trò của báo chí về
TCC DNNN
Trên cơ sở dữ liệu ở chương 2, chương 3 đã tiến hành đánh giá điểm mạnh và
những điểm còn hạn chế của công tác thông tin tuyên truyền về TCC DNNN trên 04
báo. Từ đó, tác giả đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng thông tin về
TCC DNNN thời gian tới.
CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BÁO CHÍ VÀ VAI TRÒ BÁO CHÍ
11
VỚI TCC DNNN
1.1. Báo chí, thông tin báo chí và sự giám sát phản biện của báo chí trong
phát triển kinh tế - xã hội
1.1.1. Khái niệm báo chí và thông tin báo chí
Theo giáo trình Cơ sở lý luận báo chí truyền thông của các tác giả: Dương
Xuân Sơn, Đinh Văn Hường, Trần Quang (2004), báo chí là một bộ phận của truyền
thông đại chúng, nhưng là bộ phận chiếm vị trí trung tâm, vai trò nền tảng vào có
khả năng quyết định, tính chất, khuynh hướng, chi phối năng lực và hiệu quả tác
động của truyền thông đại chúng. Báo chí là một hiện tượng đặc biệt phổ biến tác
động từng ngày, từng giờ vào xã hội. Quy mô phạm vi, hình thức hoạt động của báo
chí ngày càng mở rộng, thu hút sự quan tâm chú ý của đại bộ phận xã hội, trở thành
một phương tiện có sức mạnh được sử dụng vào các mục đích rất khác nhau như:
nhân đạo, kinh doanh, kinh tế, chính trị và quân sự, không có một đảng chính trị,
một tổ chức lực lượng kinh tế xã hội nào không sử dụng báo chí như một phương
tiện thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ của mình.
Trong xã hội hiện đại, báo chí ngày càng thể hiện vai trò, vị thế đặc biệt quan
trọng. Báo chí đã và đang đóng góp hết sức to lớn vào quá trình phát triển kinh tế -
xã hội, bảo đảm sự phát triển bền vững của xã hội. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và
môi trường truyền thông số hiện nay, báo chí và truyền thông nói chung có vai trò
đặc biệt quan trọng. Báo chí là loại hình hoạt động thông tin mang tính chính trị - xã
hội.
Khái niệm “thông tin” được bắt nguồn từ tiếng Latinh informetio, gốc của từ
tiếng Anh information. Hai ông Philippe Breton và Serge Proulx trong cuốn sách
“bùng nổ truyền thông” giải thích rằng: Khái niệm này có liên quan đến nét đặt
trưng Roma, biểu hiện sự mong muốn giảng dạy, truyền đạt. Nó có hai hướng
nghĩa: Thứ nhất là nói về một hành động cụ thể để tạo ra một hình dạng “forme”,
thứ hai là, nói về sự truyền đạt một ý tưởng, một khái niệm hay biểu tượng. Hai
12
hướng nghĩa này cùng tồn tại, một nhằm vào sự tạo lập cụ thể, một nhằm vào sự
truyền đạt kiến thức và truyền đạt, đây là tiêu biểu cho sự phát minh của tiếng
Latinh. Nó thể hiện sự gắn kết của hai lĩnh vực kỹ thuật và kiến thức.
Hiện nay, khi khoa học và công nghệ phát triển đến trình độ cao, trong các
lĩnh vực khoa học, thuật ngữ “thông tin” cũng có những cách hiểu khác nhau khi sử
dụng đến nó. Trong báo chí được dùng để nói về chất liệu ngôn ngữ sống, sự miêu
tả, câu chuyện kể, bằng chứng, chỉ cần nó thể hiện một nhân tố của thực tại.
Trong lý luận báo chí, khái niệm “thông tin” cũng đang tồn tại hai cách hiểu:
Một là tri thức, tư tưởng do nhà báo tái tạo và sáng tạo từ hiện thực cuộc sống. Hai
là sự loan báo cho mọi người biết. Theo cách hiểu thứ nhất, thông tin thể hiện tính
chất khởi đầu, khởi điểm (tương tự với khái niệm hình tượng trong nghệ thuật, hàng
hóa trong kinh tế - chính trị…). Đây chính là đặc trưng cơ bản của báo chí nói
chung. Còn theo cách hiểu thứ hai là sử dụng các phương tiện kỹ thuật hiện có để
truyền đạt kết quả sáng tạo của nhà báo ra thế giới xung quanh. Như vậy, thì thông
tin cũng chính là chức năng của báo chí (theo nghĩa là sử dụng phương tiện kỹ thuật
để phổ biến kết quả lao động sáng tạo của nhà báo).
Trong hoạt động báo chí, thông tin là công cụ chủ yếu để nhà báo thực hiện
mục đích của mình. Thông tin trở thành “cầu nối” giữa báo chí và công chúng. Nó
là “dụng cụ làm việc” của nhà báo, với sự giúp đỡ của dụng cụ đó, những công việc
đa dạng và quan trọng được thực hiện. Có thể coi những công việc của báo chí như
một hệ thống xã hội đặc biệt.
Trong thực tiễn báo chí, thuật ngữ “thông tin” có nhiều cách sử dụng khác
nhau. Có trường hợp, các nhà báo sử dụng nó để biểu thị tính chất của các thông
báo ngắn, không kèm theo lời phân tích, bình luận về một sự kiện mới (như tin văn
hay tin ngắn). Trong trường hợp khác, nó được dùng để chỉ tất cả các thể loại được
dùng để ghi chép những sự kiện, hiện tượng mới như: tin tức, tường thuật, phỏng
vấn… Nhiều khi một tin ngắn cũng được gọi là “thông tin”.
Nhưng bất cứ tác phẩm báo chí nào (tin vắn, phim tài liệu, tin của đài phát
13
thanh…) cũng đều chứa đựng thông tin. Tóm lại, “thông tin” là cách gọi truyền
thống trong nghề báo, theo nghĩa chính xác nhất của từ này thì đó là “thông tin sự
kiện”. Ngoài ta, trên báo, trong chương trình phát thanh hay trên vô tuyến truyền
hình còn có “thông tin lý luận”, “thông tin giải thích”, “thông tin nghệ thuật”
v.v… [45]
Thuật ngữ “thông tin” còn có cách hiểu rộng hơn. Để hiểu thuật ngữ này một
cách đầy đủ, đòi hỏi phải xem xét từ sự ứng dụng riêng biệt. Chúng ta có thể gọi
“toàn bộ các tác phẩm”, hay “hệ thống những tin tức”… là thông tin. Như vậy, thuật
ngữ “thông tin” nhiều khi còn được hiểu như một danh từ tập hợp. Khi xem xét khái
niệm thông tin trong hệ thống khái niệm của lí luận báo chí thì cách hiểu như vậy
không phù hợp, vì ý nghĩa riêng của thuật ngữ “thông tin” thường được sử dụng
theo thói quen hay theo kinh nghiệm. Ví dụ, khi nghe đài hay đọc báo mà người đọc
không thu nhận được điều gì mới mẻ, họ sẽ nói: “tác phẩm nghèo thông tin” thậm
chí là “không có thông tin”. Điều này dường như vô lý. Nhiệm vụ của báo chí là
mang thông tin đến cho công chúng nhưng tại sao họ lại không tìm thấy chúng
trong tác phẩm? Thế nhưng đây là điều có thật khi thông tin không phản ánh được
thực tế cuộc sống, không thỏa mãn nhu cầu của công chúng.
Ở dạng hoàn chỉnh, khái niệm thông tin chứa đựng nội dung rất phong phú; nó
có quan hệ trực tiếp đến chức năng và hiệu quả của công tác báo chí, đến “nguyên
tắc” cung cấp thông tin, đến những yêu cầu nghiệp vụ báo chí và những nguyên tắc
tác động lẫn nhau của các mặt nói trên. Khái niệm “thông tin” là nền tảng của công
tác báo chí, cho nên khi nghiên cứu lí luận báo chí cần chú ý đến ý nghĩa của thuật
ngữ này.
Nhận thức về thông tin phát triển song song với nhận thức về chức năng và đối
tượng phản ánh của báo chí. Muốn có sự nhận thức đúng đắn về thông tin, cần xác
định được mục đích hoạt động của báo chí, đồng thời phải nêu lên định hướng có
tính nguyên tắc cho những hoạt động thực tiễn của một nền báo chí. Sự định hướng
rõ ràng sẽ trang bị cho nhà báo phương pháp thông tin và biết cách vận dụng thông
14
tin có hiệu quả để thực hiện chức năng của báo chí. Một hướng quan trọng trong
cách tiếp cận thông tin báo chí là mỗi chương trình, mỗi tác phẩm phải được xem
xét kỹ lưỡng trong hệ thống những mối quan hệ giữa báo chí và công chúng. Tác
phẩm báo chí (trong lí luận về thông tin thường dùng thuật ngữ “bài báo”) là điểm
trung gian (cầu nối) của hệ thống Nhà báo – Tác phẩm – Công chúng.
Tác phẩm (bài báo, chương trình phát thanh hay truyền hình) do nhà báo
chuẩn bị và được in trên báo hay phát sóng. Đối với công chúng, tác phẩm báo chí
mới chỉ thể hiện qua chất lượng của thông tin tiềm năng. Bởi vì những thông tin đó
chưa chắc đã được công chúng tiếp nhận. Có nhiều tác phẩm (bài báo) giữ vai trò là
“cầu nối”, phục vụ cho việc trao đổi thông tin giữa nhà báo và công chúng, nhưng
công chúng không tiếp nhận, mặc dù tác phẩm (hay chương trình) đã được đăng báo
hay phát sóng. Hiện tượng đó diễn ra khi công chúng không đọc báo, không xem
truyền hình hay không nghe đài (có nhiều lý do dẫn đến hiện tượng này, chẳng hạn
như kỹ thuật in kém, sóng truyền hình yếu v.v… nhưng quan trọng hơn cả mà người
làm báo cần chú ý là bài viết, hay chương trình phát thanh, truyền hình… không hấp
dẫn được người đọc, người xem, người nghe). Trong những trường hợp như vậy,
mối quan hệ nhà báo – tác phẩm – công chúng bị phá vỡ. Điều đó dẫn đến tình trạng
là không có khả năng chuyển thông tin tiềm năng thành thông tin hiện thực. Thông
tin hiện thực là thông tin được nhà báo sáng tạo và được công chúng tiếp nhận qua
các phương tiện thông tin đại chúng hoặc có thể họ là “người nhận thứ hai” (nghe
người đã từng nghe, xem, đọc kể lại). Việc đảm bảo sự ổn định trong mối quan hệ
lẫn nhau giữa nhà báo và công chúng được thể hiện qua các tác phẩm và chương
trình là rất cần thiết, đảm bảo cho thông tin tiềm năng trở thành thông tin hiện thực.
Vì thế mà trong khoa học hiện đại có một cách định nghĩa về thông tin như sau:
Thông tin không chỉ đơn giản là tác phẩm báo chí mà là những tác phẩm báo chí
khi đã được công chúng tiếp nhận [45].
Trong hoạt động báo chí, khi tìm hiểu về khái niệm thông tin cần đặt nó trong
mối liên hệ trực tiếp với vấn đề hiệu quả, tức là ảnh hưởng trực tiếp của thông tin
đối với công chúng, hướng dẫn nhận thức và giáo dục đạo đức cho họ để họ có hành
15
động đúng đắn. Vì vậy, có thể đồng tình với định nghĩa: Thông tin là phần tri thức
được sử dụng để định hướng, tác động đến những hành động tích cực và quản lý xã
hội, thực hiện mục đích giữ gìn những đặc điểm phẩm chất, sự hoàn thiện và sự
phát triển hệ thống. (Như là phương tiện tác động trong mối quan hệ báo chí – công
chúng).
Thông tin báo chí là dạng thông tin xã hội đặc thù, mang tính thời sự, phổ cập
và rất quan trọng về phương diện chính trị - xã hội. Để xã hội loài người tồn tại và
phát triển, con người cần nhiều loại hoạt động như sản xuất của cải vật chất để duy trì
sự sống, sáng tạo nghệ thuật để thỏa mãn tinh thần. Một phần của sự hoạt động đó là
hoạt động báo chí nhằm cung cấp cho công chúng những thông tin, tức là thông báo
cho công chúng biết mọi sự kiện, hiện tượng diễn ra hàng ngày trong đời sống xã hội.
"Nhưng thông tin báo chí là những thông tin chính trị - xã hội. Nghĩa là thông tin báo
chí bao giờ cũng chứa đựng những giá trị xã hội hay chính trị. Thông tin là đặc trưng
của ngành truyền thông đại chúng so với các ngành khác" [45, tr.51,52].
Tiêu chí đánh giá một thông tin tốt là: khách quan, kịp thời, đúng thời điểm,
chính xác, đầy đủ, độc đáo, thích hợp và đại chúng.
Còn theo Thông tư số 18/2012/TTLT- BTC-BTTTT ngày 14/02/2012, hướng
dẫn quản lý, sử dụng kinh phí hỗ trợ tác phẩm báo chí chất lượng cao ở Trung
ương và địa phương giai đoạn 2011 – 2015 của Liên bộ Văn hoá - Thông tin, Bộ
Tài chính (2012), tiêu chí đánh giá tác phẩm báo chí chất lượng cao, được các cơ
quan quản lý nhà nước nghiên cứu quy định cụ thể, đó là: "Những tác phẩm mang
lại hiệu quả thiết thực cho toàn xã hội hoặc một vùng miền, địa phương; có nhiều
tìm tòi, phát hiện những vấn đề mới nảy sinh trong cuộc sống hàng ngày; có nội
dung phù hợp, hấp dẫn người đọc, người nghe, người xem; phù hợp với quan điểm
chỉ đạo, tuyên truyền, đường lối, chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước". Do vậy, báo chí cần hướng tới những tiêu chí này.
Ngày nay ai cũng biết con người cần thông tin về nhiều mặt, nhiều lĩnh vực,
nhất là thông tin về sự kiện chính trị và kinh tế xã hội. Để đáp ứng nhu cầu thông tin
16
của công chúng, mỗi loại hình báo chí đều có thế mạnh riêng của mình. Nhà báo
cần hiểu rõ đặc trưng các loại hình để thông tin một cách hiệu quả. Với báo in, dù ra
đời sớm nhất và chịu sự cạnh tranh khốc liệt của một số loại hình báo chí khác trong
thời đại kỹ thuật số, nhưng báo in vẫn khẳng định được vai trò, vị trí và tồn tại song
song với các loại hình báo chí khác, bởi những đặc trưng, thế mạnh riêng của nó. Đặc
trưng lớn nhất của thông tin trên báo in là khả năng phân tích, bình luận, lý giải sâu
rộng đầy đủ các vấn đề, sự kiện.
1.1.2. Giám sát và phản biện của báo chí
Khái niệm giám sát: Trong cuốn “Tìm hiểu một số thuật ngữ trong Văn kiện
Đại hội X của Đảng”, giám sát được hiểu là “sự theo dõi, kiểm tra, phát hiện, đánh
giá của cá nhân, tổ chức, cộng đồng người đối với cá nhân, tổ chức, cộng đồng
người khác trong các lĩnh vực hoạt động kinh tế - xã hội, trong việc thực hiện Hiến
pháp, pháp luật, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước, các
quyền lợi, nghĩa vụ của công dân, của các tổ chức chính trị - xã hội và kiến nghị
phát huy ưu điểm, thành tựu, xử lý đối với tổ chức, cá nhân có những hành vi sai
trái”.
Qua những tìm hiểu và tổng hợp trên, có thể tạm hiểu khái niệm giám sát
trên những khía cạnh:
- Giám sát là hành vi độc lập, từ bên ngoài. Giám sát là hoạt động theo dõi,
quan sát, xem xét, nhận định về việc làm của đối tượng chịu sự giám sát.
- Mục đích của giám sát là xem xét việc làm của đối tượng bị giám sát có
đúng những quy định, quy chế, chuẩn mực đã đặt ra hay không. Qua đó phát hiện
những khiếm khuyết trong tổ chức và hoạt động của đối tượng bị giám sát để có
những kiến nghị và biện pháp can thiệp, khắc phục kịp thời nhằm hướng hoạt động
của đối tượng đi đúng hướng.
PBXH : Thuật ngữ PBXH được sử dụng chính thức trong Báo cáo chính trị
tại Đại hội X của Đảng Cộng sản Việt Nam, theo đó, “PBXH là phản biện nói
chung, nhưng có quy mô và lực lượng rộng rãi hơn của xã hội, của nhân dân và các
nhà khoa học về nội dung, phương hướng, chủ trương, chính sách, giải pháp phát
17
triển kinh tế - xã hội, khoa học - công nghệ, giáo dục, y tế, môi trường, trật tự an
ninh chung toàn xã hội của Đảng, Nhà nước và các tổ chức liên quan. PBXH là
phát huy dân chủ XHCN và quyền làm chủ của nhân dân, ý thức trách nhiệm của
nhân dân trong việc tham gia quản lý Nhà nước, góp ý kiến với cán bộ, công chức
và các cơ quan Nhà nước… PBXH là nhu cầu cần thiết và là đòi hỏi bắt buộc của
quá trình lãnh đạo và điều hành đất nước, khắc phục tệ quan liêu, tham nhũng, lãng
phí và các tiêu cực khác”. [5, (23), tr239-240]
Phản biện trên báo chí: Báo chí từ trước đến nay vẫn thường được xem là
công cụ chính trị của giai cấp cầm quyền. Vì thế, PBXH của báo chí dễ bị hiểu sai
lệch là phản biện những vấn đề giai cấp cầm quyền đưa ra. Hiểu như thế là chỉ mới
hiểu một mặt của PBXH của báo chí. Đối tượng của PBXH của báo chí là bất cứ
vấn đề nào nảy sinh trong cuộc sống. Từ sự phản biện đó, báo chí kịp thời định
hướng nhận thức cho quần chúng cũng như phản hồi, góp ý để giai cấp cầm quyền
đưa ra chính sách hợp lý hơn.
Tính phản biện trong báo chí hiện đại là bước phát triển của tính chiến đấu
của báo chí cách mạng. Báo chí cách mạng coi tính chiến đấu như là một yếu tố
quan trọng khẳng định vai trò và vị trí của báo chí đối với đời sống xã hội thông qua
hình thức phê bình và tự phê bình trên báo chí. Tính chiến đấu – nghĩ là làm cho
chân lý được sáng tỏ, điều phi chân lý bị đẩy lùi; làm cho cái mới được sinh sôi nảy
nở, cái cũ héo hon tàn lụi; làm cho cái tiến bộ được phát triển, cái lạc hậu bị xóa bỏ.
Với ý nghĩa này, tính phản biện, suy cho cùng cũng là tính chiến đấu của báo chí
hiện đại. PBXH của báo chí hiện đại làm cho cái đúng được bảo vệ, được làm sáng
rõ, cái sai được đẩy lùi.
Ở nước ta, lần đầu tiên trong Nghị quyết Trung ương 6 lần hai khóa VIII,
Đảng cộng sản Việt Nam đã ghi nhận, khẳng định báo chí và truyền thông đại
chúng là một trong bốn hệ thống giám sát xã hội. Đây là bước phát triển quan trọng
về lý luận, nhận thức của Đảng về vai trò xã hội của báo chí và truyền thông đại
chúng. Tại Đại hội Đảng XI, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chính thức ghi nhận, yêu
cầu nền báo chí cách mạng Việt Nam nhận thêm vai trò, nhiệm vụ PBXH. Nghị
18
quyết Đại hội về phát triển hệ thống thông tin đại chúng nêu rõ: “Chú trọng nâng
cao tính tư tưởng, phát huy mạnh mẽ chức năng thông tin, giáo dục, tổ chức và
PBXH của các phương tiện thông tin đại chúng vì lợi ích của nhân dân và đất
nước...”.
Thực hiện chức năng giám sát, PBXH là báo chí góp phần khơi gợi, tập hợp
nguồn lực trí tuệ và cảm xúc của toàn dân, trước hết là đội ngũ trí thức, chuyên gia
về mọi lĩnh vực góp ý cho các quyết sách lớn của Nhà nước trong quá trình xây
dựng và thực hiện nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Theo đó, giám sát và PBXH bằng báo
chí và thông qua báo chí là việc làm sinh động nhất của việc phát huy dân chủ xã
hội theo nghĩa để cho người dân được nói, bảy tỏ quan điểm của mình.
Giám sát, PBXH của báo chí trong quá trình thực hiện chủ trương, chính
sách, pháp luật là để kịp thời phát hiện những nơi làm đúng, làm hay để biểu dương,
khích lệ, tổng kết kinh nghiệm và nhân rộng mô hình; đồng thời cũng để sớm phát
hiện những trục trặc, những nơi làm dở, làm sai, vi phạm chủ trương, chính sách và
luật pháp. Vai trò và sức mạnh giám sát xã hội của báo chí trước hết là xã hội hóa
những việc làm tốt và những sai phạm của các tổ chức, cá nhân để khơi nguồn và
định hướng dư luận xã hội theo hướng ủng hộ hoặc chỉ trích, tạo áp lực dư luận và
buộc các cơ quan công quyền giải quyết, giải thích và giải đáp trước nhân dân,
trước công luận. Trong cuộc đấu tranh chống tiêu cực, tham nhũng trong những
năm gần đây, phần lớn những vụ việc đều do báo chí phát hiện, phanh phui rồi các
cơ quan chức trách mới vào cuộc.
Giám sát và PBXH có mối quan hệ chặt chẽ với nhau – đây cũng là mối quan
hệ giữa nhận thức và thực tiễn. Có giám sát mới có hiểu biết, có kinh nghiệm để
phát hiện được ưu điểm cũng như những hạn chế, yếu kém mà đề xuất, kiến nghị
thay đổi hoặc bổ sung về đường lối, quan điểm, chính sách, pháp luật. Ngược lại, có
PBXH thì giám sát mới sát, đúng và trúng nhu cầu, nguyện vọng của nhân dân, góp
phần giúp quản lý xã hội ngày càng đi vào chiều sâu và có hiệu quả. Qua giám sát
19
và PBXH, các mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân bộc lộ thành phản hồi xã hội, nhờ
đó giới cầm quyền nắm được thông tin và kịp thời điều chỉnh phương thức quản lý,
phòng ngừa xung đột xã hội.
Giám sát và PBXH là hai chức năng gắn bó mật thiết với nhau vì chỉ giám
sát một cách nghiêm túc mới có thông tin đầy đủ và thấu đáo làm tiền đề cho phản
biện. Giám sát của báo chí thực chất là giám sát bằng dư luận xã hội. Qua giám sát,
theo dõi một cách khách quan và có định hướng mà báo chí thể hiện vai trò PBXH
của mình. Nếu phản biện khoa học là một trong những cách thức chủ yếu để các nhà
nghiên cứu tiệm cận tới các chân lý khoa học, thì trong đời sống xã hội, PBXH là
một công cụ không thể thiếu để tổ chức ra một xã hội dân chủ. Sứ mạng của báo chí
trước hết là để thỏa mãn nhu cầu thông tin của xã hội. Xã hội càng hiện đại, việc
phổ biến thông tin trên quy mô đại chúng càng trở nên quan trọng, vì vậy sự phụ
thuộc, ảnh hưởng lẫn nhau giữa các phương tiện thông tin đại chúng và xã hội càng
trở nên chặt chẽ. Trong thời đại bùng nổ thông tin ngày nay, vai trò tích cực của
cộng đồng truyền thông đã thúc đẩy quá trình xã hội hóa các hoạt động giám sát và
PBXH. Bằng cách này hay cách khác, hoạt động phản biện luôn chứa đựng khả
năng tạo ra một trường tương tác xã hội giữa 3 nhóm cộng đồng: đó là cộng đồng
trí thức (phát hiện và lý giải vấn đề), cộng đồng truyền thông (phổ biến, chuyển tải
thông tin) và cộng đồng xã hội (hưởng ứng thông tin và hình thành dư luận). Thông
qua báo chí, người dân có thể phát biểu ý kiến, nguyện vọng của mình về các vấn đề
trong đời sống xã hội, qua đó, thể hiện sự giám sát và PBXH của mình. Bám sát sự
kiện, thông tin nhanh nhạy, phân tích trúng vấn đề trọng điểm và định hướng tư
tưởng, hướng dẫn dư luận rõ ràng, các cơ quan thông tấn, báo chí đã thực hiện tốt
chức năng phản biện, mang lại hiệu quả xã hội rõ rệt. Bởi thế, vai trò, chức năng
phản biện của báo chí ngày càng được khẳng định và niềm tin của công chúng đối
với cơ quan truyền thông cũng được nâng lên.
Trong tác dụng phòng ngừa và hạn chế sai lầm, cả trước và sau khi quyết
định chính trị được ban hành, giám sátvà PBXH đều cần thiết và quan trọng, nhưng
ở khâu ban hành quyết định chính trị, PBXH giúp các quyết định chính trị ngay khi
20
còn ở giai đoạn dự thảo đã chịu sự cọ xát với các ý kiến khác nhau, nhờ đó gạn lọc
được phương án bất lợi, lựa chọn phương án tối ưu, vì thế vai trò của PBXH quan
trọng hơn nhằm đảm bảo các quyết định có chất lượng tốt nhất, hạn chế sai lầm, tối
ưu hóa phương án xã hội. Như vậy trong giai đoạn chuẩn bị ban hành các quyết
định chính trị thì vai trò của PBXH rất quan trọng. Điều đó đòi hỏi PBXH phải
được thực hiện từ sớm, phải có sự tranh luận chủ động để làm rõ các vấn đề, lôi
cuốn sự tham gia của các chuyên gia, nhà khoa học và sự đồng thuận của xã hội về các
vấn đề được nêu.
Sở dĩ chức năng giám sát và PBXH của báo chí đóng một vai trò vô cùng
quan trọng trong đời sống kinh tế - xã hội vì báo chí có tính công khai, tính đại
chúng. Ý kiến trên báo chí có thể được nhiều người thảo luận, bàn cãi từ nhiều góc
độ khác nhau. Một ý kiến độc đáo có thể là khởi nguồn gây cảm hứng cho hàng
ngàn ý kiến khác. Song ý kiến của đa số chưa hẳn đã đúng, có khi ý kiến của thiểu
số, thậm chí của một người lại mới là chân lý. Chính vì thế phải lắng nghe bằng
“nhiều tai”, lắng nghe tất cả mọi ý kiến, kể cả các ý kiến thiểu số. Tiếng nói của
người dân qua báo chí nếu được lắng nghe, tiếp thu sẽ tạo ra một vòng phản hồi tự
tăng cường rất tốt: chất lượng chính sách được nâng cao, nhân dân tích cực tham gia
vào những công việc chung của đất nước, uy tín của chính quyền được củng cố, cứ
như thế làm cho các chính sách và quyết định về sau càng đúng đắn và hợp lòng dân
hơn. Ngược lại, nếu tiếng nói của người dân không được lắng nghe, phản hồi hay bị
làm ngơ thì dần dần họ sẽ mất niềm tin vào vai trò làm chủ của mình, lòng tin vào
chính quyền cũng bị giảm sút, đến một lúc nào đó họ sẽ không thiết tha tham gia
vào công việc chung của quốc gia nữa.
Nếu một tờ báo có số lượng phát hành lớn, phạm vi ảnh hưởng rộng thì tác
dụng phản biện lớn hơn rất nhiều. Đó là chưa kể khi có một thông tin có giá trị, các
báo đồng loạt đăng tải càng tạo nên tác động trên phạm vi rộng, gây áp lực đối với
các chủ thể hoạch định và thực thi chính sách. Tất nhiên, dư luận không hình thành
ngay lập tức sau khi bài báo được công bố mà đòi hỏi phải hội tụ đủ quy mô, cường
độ, tần số. Ngày nay với sự đa dạng các loại hình báo chí từ báo nói, báo viết, báo
21
hình đến báo điện tử cùng đưa tin về một vấn đề nào đó thì tạo dư luận rất nhanh
chóng, sôi động, nhất là báo điện tử đã và đang trở thành một kênh phản ánh rất
nhanh nhạy những thông tin từ xã hội cũng như thông tin của Chính phủ đối với
người dân. Chính vì ý nghĩa đó mà người ta còn gọi báo chí là quyền lực thứ tư để
phân biệt với ba nhánh quyền lực trong bộ máy nhà nước là lập pháp, hành pháp và
tư pháp. Bản thân khái niệm quyền lực thứ tư tự nó đã nói lên vai trò, sức mạnh
giám sát, phản biện của báo chí.
Hiệu quả PBXH của báo chí cũng đòi hỏi dũng khí, bản lĩnh của từng tờ báo,
từng nhà báo khi giác ngộ được sâu sắc về trách nhiệm xã hội của mình. Báo chí rất
khó thực hiện tốt chức năng PBXH nếu thiếu tự do ngôn luận, thiếu chế định luật
pháp bảo vệ quyền của nhà báo trước các nguy cơ kiểm duyệt cũng như gắn trách
nhiệm của tổng biên tập, nhà báo với tin tức đưa ra, nhưng cao nhất chính là trách
nhiệm xã hội của báo chí. Do đó, để báo chí thật sự trở thành một kênh PBXH hiệu
quả thì có rất nhiều việc phải làm, trước hết là đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với
công tác báo chí, bảo đảm vừa giữ vững ổn định chính trị - tư tưởng, vừa tăng
cường năng lực phản biện của báo chí.
Báo chí thực hiện chức năng giám sát và PBXH trước hết ở việc cung cấp
thông tin chân thực, khách quan theo cả hai chiều, từ chủ thể quản lý đến khách thể
quản lý và ngược lại. Hoạt động quản lý có hiệu quả hay không phụ thuộc nhiều vào
tính chất, số lượng và chất lượng thông tin hai chiều liên tục này. Để thực hiện tốt
chức năng, nhiệm vụ của mình, báo chí cần phải tuân thủ một hệ thống các nguyên
tắc là cơ sở phương pháp luận cho hoạt động báo chí, là chuẩn mực nghề nghiệp và
cũng là nền tảng cho việc sáng tạo tác phẩm báo chí, trong đó nổi bật nhất là tính
chân thật, khách quan, tính công khai, tính đại chúng và tính chiến đấu.
Thực chất, PBXH của báo chí chính là sự PBXH được thể hiện trên báo chí.
Báo chí thực hiện hoạt động phản biện của mình qua các nội dung: tổ chức PBXH, thông
tin các hoạt động và kết quả PBXH, trực tiếp tham gia PBXH.
1.2. Quan điểm của Đảng, Nhà nƣớc về tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nƣớc
22
1.2.1. Khái niệm về doanh nghiệp nhà nước
DNNN là tổ chức kinh tế do nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản
lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích, nhằm thực hiện các mục tiêu
kinh tế, xã hội do Nhà nước giao. DNNN có hai loại: Loại hoạt động kinh doanh vì
mục tiêu lợi nhuận và loại hoạt động công ích không vì mục tiêu lợi nhuận. Ngoài
ra, còn có loại nằm giữa hai loại trên như những tổ chức kinh tế đang quản lý, duy
tu, bảo dưỡng cơ sở kinh tế hạ tầng (cầu, đường, sân bay, bến cảng…).
Luật DN năm 2005 giải thích: DNNN là DN trong đó Nhà nước sở hữu trên
50% vốn điều lệ; Nghị định số 99/2012/NĐ-CP ngày 15 tháng 11 năm 2012 của
Chính phủ về phân công, phân cấp thực hiện các quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ của
chủ sở hữu nhà nước đối với DNNN và vốn Nhà nước đầu tư vào DN định nghĩa:
DNNN là DN mà Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ, bao gồm: a) DN mà Nhà
nước nắm giữ 100% vốn điều lệ là công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên;
b) DN mà Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ là công ty cổ phần, công ty trách
nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên.
DNNN là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế, đóng vai trò chủ đạo trong
hệ thống cấu trúc nền kinh tế của một quốc gia, thông qua hiệu quả hoạt động kinh
doanh của các DNNN và khả năng dẫn dắt nền kinh tế, khắc phục các khuyết tật của
thị trường nâng cao năng lực cạnh tranh của DN trên thị trường. DNNN chỉ là một
phận quan trọng của kinh tế nhà nước. Còn kinh tế nhà nước là đặc trưng của một
loại hình sở hữu sở hữu. Thành phần kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền
kinh tế Việt Nam là lực lượng vật chất quan trọng là công cụ để nhà nước định
hướng và điều tiết kinh tế vĩ mô.
Trong thành phần kinh tế nhà nước, các DNNN giữ vai trò then chốt, là quả
đấm thép của nền kinh tế đảm bảo an sinh xã hội.
Đối với kinh tế nhà nước, phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước đi đôi
với phát triển mạnh mẽ các thành phần kinh tế và các loại hình DN. Hình thành một
số TĐKT, các TCT đa sở hữu, áp dụng mô hình quản lý hiện đại, có năng lực canh
23
tranh quốc tế.
1.2.2. Khái niệm về cơ cấu và tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước
Cơ cấu: Theo cuốn từ điển tiếng việt (2007) do cố Giáo sư Hoàng Phê chủ
biên có một số định nghĩa về từ “cơ cấu”:
Ở dạng danh từ: (1) cơ cấu là nguyên tắc kết hợp và hoạt động của các chi tiết
máy trong cùng một chỉnh thể, theo những quy luật nhất định.
(2) cơ cấu là cách tổ chức các thành phần nhằm thực hiện chức năng của chỉnh
thể: cơ cấu của nền kinh tế, điều chỉnh cơ cấu đại biểu quốc hội, cải tổ cơ cấu tổ
chức quản lý hành chính [41, tr. 348].
Ở dạng động từ: cơ cấu được hiểu là tổ chức, sắp xếp các thành phần, bộ phận
trong một chỉnh thể, nhằm thực hiện chức năng chung: Cơ cấu lại danh mục đầu tư,
TCC ngân hàng [41, tr. 348].
Qua khảo cứu và thu thập các khái niệm về cơ cấu, có thể hiểu về cơ cấu như
sau: cơ cấu hay kết cấu là một phạm trù triết học phản ánh cấu trúc bên trong của
một đối tượng nào đó, kể cả số lượng và chất lượng là tập hợp những mối quan hệ
cơ bản, tương đối ổn định giữa các yếu tố cấu thành nên đối tượng đó trong một
thời gian nhất định.
TCC: Thuật ngữ “TCC” (có cách gọi khác là tái cấu trúc) hiện đang được sử
dụng khá phổ biến hiện nay, và cũng có nhiều cách hiểu khác nhau. “TCC” trong
tiếng anh có một số từ thường được sử dụng: 1 http://uman.com.vn/dich-vu/tu-van-
chien-luoc/tai-cau-truc-doanh-nghiep-c13a52.html
(1) Restructuring – được hiểu là việc điều chỉnh lại định hướng chiến lược
(strategic direction), tầm nhìn (vision) hoặc cơ cấu lại một lĩnh vực, một ngành, một
tổ chức nào đó. Theo cách tiếp cận này thì TCC được coi là một cuộc cách mạng về
sự thay đổi. TCC sẽ làm thay đổi toàn bộ cơ cấu của hệ thống hoặc hoạt động của tổ
chức, cắt bỏ toàn bộ những gì chưa làm được để làm lại từ đầu. Nội dung của TCC
bao gồm điều chỉnh lại chiến lược, khung khổ các nguồn lực và tài chính của DN
nhằm thích ứng với thị trường hoặc cũng chỉ có thể là những cải cách tích cực làm
24
phản ứng lại thị trường. Trên thực tế, TCC luôn là những quyết định khó khăn và
gây tranh cãi. TCC thường liên quan đến tư duy cũ, mối mòn, sự bảo thủ mang tính
hệ thống.
Bản chất của TCC là một trò chơi tổng bằng không (zero sum game). Chiến
lược chuyển dịch cơ cấu làm giảm tổn thất tạo điều kiện thuận lợi nhanh chóng
thoát khỏi tình huống khó khăn. 2 http://en.wikipedia.org/
(2) Một thuật ngữ khác được sử dụng là “Re-engineering” – nghĩa là “TCC
quy trình”. Thuận ngữ này thường được áp dụng cho việc sắp xếp lại các quy trình
cốt lõi để tăng hiệu quả, tăng tính cạnh tranh, tối thiểu hóa chi phí, tăng lợi nhuận
DN. Theo Michael Hammer và James Champy (trong cuốn TCC tổng công ty xuất
bản năm 1993), TCC được xem là sự bắt đầu lại của một hệ thống hoặc TCC lại
một công ty, hay một quá trình kinh doanh. Quá trình này bao gồm xem xét lại, thiết
kế lại căn bản quá trình kinh doanh để đạt được những cải tiến đáng kể trong kinh
doanh.
(3) Một hình thức TCC khác có thể được hiểu là cắt giảm chi phí và tránh cơ
cấu lại toàn bộ hệ thống – Downsizing. Đây là sự kết hợp giữa “Restructuring” và
“Re- engineering”, khá thích hợp trong trường hợp kinh tế suy thoái như hiện nay.
(4) Một thuật ngữ có nội hàm rộng hơn “Recreating” – có nghĩa là tái tạo, hay
tái lập DN. Quá trình này bao gồm ba bước chính:
i) Tái lập tư duy (Rethinking); ii) Thiết kế lại (Redesigning); iii) Xây dựng lại
(Rebuilding).
Tái lập tư duy là suy ngẫm lại về môi trường, thị trường và DN. Môi trường
mà DN đang tồn tại hoặc sẽ hướng đến bao gồm các yếu tố vĩ mô như chính trị,
pháp lý, kinh tế, xã hội, công nghệ… Thị trường mà các DN đang hoạt động, bao
gồm dung lượng của thị trường, mức tăng trưởng, xu hướng tiêu dùng, phân khúc
thị trường và thị trường mục tiêu, các tác động ảnh hưởng (sản phẩm thay thế, đối
thủ tiềm năng và hiện tại, sức ép từ khách hàng, sức ép từ nhà cung cấp…), thương
25
hiệu, hệ thống phân phối…
Khi tái lập tư duy, cần phải thu thập và phân tích rất kỹ những thông tin của
môi trường bên ngoài và bên trong DN để có những giải pháp tốt nhất cho DN. Kết
quả của “tư duy lại” có thể là một trong những phương án sau: i) Tiếp tục các bước
tiếp theo: Thiết kế lại, xây dựng lại; ii) Tạm dừng để xem xét lại; iii) Loại bỏ.
“Thiết kế lại” là “vẽ” lại toàn bộ bức tranh tổng thể và chi tiết về DN, đi từ
triết ký kinh doanh, sứ mệnh, tầm nhìn, giá trị cốt lõi, các chuẩn mực đạo đức,
chuẩn mực hành vi, văn hóa DN, mục tiêu, định hướng chiến lược, chiến lược công
ty… cho đến cơ cấu tổ chức, cơ chế quản lý điều hành, các hoạt động, quá trình, các
nguồn lực… “Thiết kế lại” là để cho ra đời một “bản vẽ kiến trúc” mới ưu việt hơn
cho tào nhà DN dựa trên cơ sở những phân tích trong quá trình “tư duy lại” ở trên.
“Xây dựng lại” là xây dựng lại tòa nhà DN theo đúng thiết kế mới đã lập. Đây
là một quá trình lâu dài và gian khổ, đòi hỏi sự cam kết từ phía lãnh đạo DN cũng
như sự nỗ lực và quyết tâm cao của toàn thể cán bộ, nhân viên. Kết quả của quá
trình “xây dựng lại” phụ thuộc vào “vật liệu”, “trang thiết bị” xây lắp, con người,
“phương pháp thi công”… Vì vậy, nhiệm vụ này đòi hỏi phải có sự phối hợp đồng
bộ giữa các phòng ban, bô phận và cần có những người am hiểu cách thức xây dựng
theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng.
Như vậy, “TCC” coi là một phần của quá trình tái lập, chủ yếu chỉ đi vào mục
tiêu “nâng cao thể trạng” của DN trên nền tảng hiện có, trong khi đầu ra của tái lập
là giải pháp tốt nhất cho DN, bao gồm mục tiêu, định hướng, giải pháp dựa trên một
nền tảng có thể hoàn toàn mới. Thuật ngữ “TCC” có thể được hiểu theo các nghĩa
khác nhau, một cách chung nhất có thể hiểu: TCC là sự thay đổi chiến lược, mục
tiêu, tầm nhìn của một hệ thống hoặc là sự cơ cấu lại hệ thống bao gồm các hoạt
động như: Sắp xếp lại, chuyển đổi hình thức hoạt động, xác định lại mục tiêu, chiến
lược, tầm nhìn, các giá trị cốt lõi và chuẩn mực của tổ chức hay DN.
TCC có thể ở các cấp độ khác nhau, cấp độ cao là sự thay đổi tầm nhìn, chiến
26
lược, cơ cấu lại toàn bộ tổ chức có tính hệ thống; cấp thấp là sự chuyển đổi, sắp xếp
lại, đổi mới quy trình hoạt động và cũng có thể bao gồm cả hai cấp, vừa thay đổi
tầm nhìn chiến lược, vừa thực hiện tổ chức sắp xếp lại DN.
TCC DNNN: Có quan điểm cho rằng “TCC DNNN” là quá trình khảo sát,
đánh giá lại cấu trúc hiện tại và đề xuất giải pháp cho mô hình cấu trúc mới nhằm
tạo ra “trạng thái” tốt hơn cho DN, hướng tới những mục tiêu đề ra trong những
điều kiện, hoàn cảnh luôn thay đổi. Mục tiêu chung của TCC là đạt được một “thể
trạng” tốt hơn cho DN để DN hoạt động hiệu quả dựa trên những nền tảng về sứ
mệnh, tầm nhìn, định hướng chiến lược sẵn có của DN.
Một cách chung nhất có thể hiểu: TCC DNNN có thể hiểu là điều chỉnh lại sở
hữu lại nghành nghề, mô hình hoạt động, thể chế, cơ chế hoạt động, bố trí lại
nguồn nhân lực (vốn và nhân lực) tạo lập một trật tự DNNN mới chặt chẽ hơn, hiệu
quả hơn theo định hướng của Nhà nước.
Nội hàm của TCC DNNN bao gồm ba nội dung: thể chế, thiết chế và định chế
1.2.3. Quan điểm, định hướng về tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước
Đánh giá chung về DNNN, tại rất nhiều hội thảo, diễn đàn đều đánh giá, sở dĩ
phải TCC lại vì: Hiệu quả và sức cạnh tranh thấp mặc dù nhận được khá nhiều ưu
đãi về nguồn lực; Thực trạng tài chính ở không ít TĐKT, TCT NN, DNNN rất yếu
kém, tiềm ẩn nguy cơ rủi ro mất cân đối tài chính, thua lỗ kéo dài; Việc thực hiện
vai trò là công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước đối với kinh tế của các TĐ, TCT NN
còn hạn chế; Nhiều TĐ, TCT NN chưa bắt kịp với xu hướng phát triển của nền kinh
tế thị trường, chậm đổi mới, năng lực, hiệu lực, hiệu quả quản trị DN còn yếu kém,
TCC lại là rất cần thiết.
bất cập; Tiến trình đổi mới, sắp xếp DNNN còn những hạn chế. Do vậy, việc
Quan điểm TCC DNNN của Đảng và Nhà nước ta là:
Một là phải quán triệt chức năng của nhà nước là điều tiết vĩ mô nền kinh tế
thông qua sử dụng các công cụ điều tiết, trong đó công cụ quan trọng là DNNN (xu
hướng lâu dài là nhà nước giảm điều hành quá trình kinh tế cụ thể, tập trung thực
27
hiện chức năng ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm dịch vụ công).
Hai là TCC DNNN không phải là hạn chế, làm giảm vai trò mà phải làm cho
DNNN mạnh hơn, thực sự trở thành nòng cốt của kinh tế nhà nước, góp phần để
kinh tế nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa; quá trình TCC phải thực hiện các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ
và giải pháp đổi mới, nâng cao hiệu quả DNNN đã được xác định trong các nghị
quyết của Đảng.
Ba là TCC DNNN phải thực hiện trên cả phương diện vĩ mô (điều chỉnh lại
chính sách, khung pháp lý, phân bổ lại nguồn lực, cơ cấu sở hữu, quản lý của khu
vực DNNN) và cả phương diện vi mô (điều chỉnh lại sở hữu, mô hình, cơ chế hoạt
động, quản trị, bố trí lại nguồn lực ở từng DN ), đồng thời phải gắn với TCC nền
kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô, phù hợp với chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 -2020.
Bốn là vừa thực hiện TCC hệ thống DNNN (trên 5 phương diện chủ yếu:
ngành nghề, tài chính, quản trị DN , quản lý nhà nước, hệ thống pháp luật) vừa thực
hiện TCC theo thực thể (tại mỗi tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước). Kiên
quyết thực hiện TCC DNNN theo ngành, lĩnh vực kinh doanh không phân biệt cấp,
cơ quan quản lý theo nguyên tắc giảm về số lượng, nâng cao chất lượng và hiệu quả
hoạt động.
Năm là đổi mới triệt để hệ thống nông, lâm trường quốc doanh gắn với giải
quyết các vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn và hiệu quả quản lý, sử dụng
đất và các mục tiêu quản lý khai thác rừng của nhà nước.
Sáu là kiên định về mục tiêu và nguyên tắc, mềm dẻo trong hình thức và
phương thức thực hiện; không tuyệt đối hóa duy ý chí, không sử dụng mệnh lệnh
hành chính trong quá trình TCC trong bán, giải thể, sáp nhập và thành lập mới
DNNN.
Mục tiêu TCC DNNN
Một là nâng cao năng lực hoạt động, hiệu quả sản xuất kinh doanh, sức cạnh
28
tranh của khu vực DNNN và từng DNNN tương xứng với nguồn lực được giao.
Hai là lành mạnh hóa và nâng cao năng lực tài chính, đảm bảo cơ cấu tài chính
hợp lý cho sự phát triển lành mạnh và bền vững của DNNN, nhất là TĐKT, TCT
nhà nước.
Bà là đảm bảo cho TĐKT, TCT nhà nước làm tốt vai trò, công cụ điều tiết vĩ
mô, là đầu tàu định hướng cho sự phát triển, tạo môi trường thuận lợi, thúc đẩy các
DN thuộc thành phần khác cùng phát triển.
Bốn là đặt DNNN đặc biệt là TĐKT, TCT nhà nước trong môi trường cạnh
tranh bình đẳng với các DN khác, nhất quán và kiên trì thực hiện nguyên tắc thị
trường trong hoạt động của DNNN.
Năm là hình thành các DNNN có quy mô lớn, hầu hết đa sở hữu, sau năm
2015 có 43 TĐKT, TCT nhà nước; đến năm 2020, có khoảng 3-5 TĐKT nhà nước
lớn nằm trong số những TĐKT hàng đầu trong khu vực, có 1-2 TĐKT ngang tầm
quốc tế và khu vực Đông Á; 10-15 TĐKT, TCT nhà nước có vai trò đầu tàu, dẫn
dắt, điều tiết kinh tế trong phạm vi quốc gia.
Định hướng TCC DNNN:
Một là tập trung phát triển DNNN trong những ngành, lĩnh vực quan trọng có
ý nghĩa then chốt của nền kinh tế quốc dân, chủ yếu thuộc các chuyên ngành kinh
tế, kỹ thuật liên quan đến kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, đảm bảo cân đối lớn (tiền
tệ, điện, lương thực, giao thông, vận tải hàng không, đường sắt, viễn thông, dầu khí,
xăng dầu, khai thác tài nguyên, khoáng sản, xây lắp); ngành độc quyền tự nhiên
(hóa chất độc, phóng xạ...); dịch vụ công; ổn định kinh tế vĩ mô và quốc phòng, an
ninh trên một số địa bàn quan trọng; hoạt động kinh doanh các sản phẩm, dịch vụ
công ích thực hiện thông qua đấu thầu, đặt hàng, giao kế hoạch.
Hai là thực hiện triệt để hơn phân định và tăng cường chức năng quản lý nhà
nước và chức năng thực hiện quyền chủ sở hữu trên cơ sở hoàn thiện cơ chế phân
cấp thực hiện quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước theo nguyên tắc phải có
29
một cơ quan đầu mối chịu trách nhiệm chính theo dõi việc sử dụng vốn tài sản nhà
nước và phân tích, đánh giá hiệu quả kinh doanh của DNNN, kể cả TĐKT, TCT
nhà nước đặc biệt.
Ba là đổi mới cơ chế thực hiện quyền chủ sở hữu nhà nước đối với TĐKT,
TCT nhà nước và cơ chế đại diện chủ sở hữu nhà nước tại DN, tách biệt thực hiện
quyền chủ sở hữu đối với quyền chủ động sản xuất kinh doanh của DN.
Bốn là đẩy mạnh CPH DNNN, chú trọng vào TĐKT, TCT theo hướng giảm
số lượng DNNN và giảm vốn nhà nước tại DN; thực hiện đa dạng hóa sở hữu trong
các DNNN, thu hút các nhà đầu tư chiến lược, tư nhân lớn có năng lực tài chính,
quản trị trong và ngoài nước tham gia đầu tư vào DNNN.
Năm là đổi mới quản trị và cơ chế hoạt động của DNNN theo hướng chuyển
sang tổ chức và hoạt động theo mô hình công ty cổ phần, hạn chế hoạt động theo
hình thức công ty TNHH; tuân thủ quy định của luật DN, cạnh tranh bình đẳng trên
thị trường.
Sáu là thực hiện công khai minh bạch hoạt động của DNNN, đặc biệt là
TĐKT, TCT nhà nước trong những lĩnh vực, ngành nghề độc quyền tự nhiên.
Bảy là chuyển đổi các DN, ban quản lý rừng, hoặc giải thể các nông lâm
trường, phù hợp với các chính sách về quản lý đất đai, về rừng đáp ứng yêu cầu bảo
vệ môi trường, đảm bảo quốc phòng, an ninh và đảm bảo phát triển kinh tế.
1.3. Vai trò của báo chí với tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước
Vai trò là tính chất của sự vật, sự việc hiện tượng, dùng để nói về vị trí chức
năng, nhiệm vụ mục đích của sự vật, sự việc, hiện tượng trong một hoàn cảnh, bối
cảnh và mối quan hệ nào đó. Báo chí có vai trò ngày càng quan trọng trong đời sống
xã hội.
Báo chí đóng vai trò quan trọng trong xã hội bởi lẽ:
- Là kênh tạo lập định hướng và hướng dẫn dư luận;
- Là kênh chủ yếu cung cấp kiến thức thông tin về tình hình thời sự trong
30
nước và quốc tế cho nhân dân
- Là một công cụ hữu hiệu để quản lý, điều hành và cải cách xã hội
- Là một định chế với những quy tắc và chuẩn mực riêng của mình và có
những quan hệ mật thiết với những định chế khác trong xã hội.
- Chúng cũng trở thành một bộ phận hữu cơ không thể thiếu trong đời sống
hàng ngày của mọi cá nhân, là phương tiện cung cấp thông tin, kiến thức và giải trí
cho người dân.
Báo chí vừa là người bạn đồng hành thân thiết, vừa là cầu nối hữu hiệu giữa
DN và cộng đồng. DN là một trong những đối tượng phản ánh không thể thiếu của
báo chí, đồng thời cũng là một đối tượng độc giả đặc biệt của báo chí. DN ăn nên
làm ra thì báo chí cũng có thêm điều kiện phát triển. Vai trò của Báo chí Việt Nam
đối với DN được thể hiện trên nhiều bình diện.
1.3.1. Báo chí thông tin tuyên truyền về đường lối, chính sách, của Đảng và
Nhà nước về hoạt động tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước
Có thể khẳng định rằng: Nhiệm vụ tuyên truyền các định hướng, quan điểm
của Đảng về vấn đề TCC DNNN là rất quan trọng, bởi việc phổ cập được các định
hướng, quan điểm đường lối của Đảng về vấn đề này đến với cán bộ, đảng viên và
nhân dân sẽ góp phần tạo sự đồng thuận nhất trí chung trong đổi mới kinh tế của đất
nước, tạo ra sức mạnh tinh thần trong lĩnh vực “chủ đạo” của nền kinh tế. Thực tế
cho thấy Đảng đã ra nhiều Nghị quyết về phát triển kinh tế xã hội, có Nghị quyết
vào cuộc sống rất nhanh tạo ra sự phát triển mạnh về kinh tế xã hội nhưng cũng có
Nghị quyết vào cuộc sống còn chậm do nhận thức không theo kịp tình hình phát
triển, mỗi người một ý đã làm cho Nghị quyết chưa phát huy hết tính đúng đắn của
nó. Với lĩnh vực DNNN do đây là vấn đề khó, còn nhiều quan điểm khác nhau. Cho
nên tạo sự nhất trí, đồng thuận cao thực hiện các chủ trương đường lối của Đảng
trong lĩnh vực TCC DNNN là một trong các vấn đề mấu chốt của công tác tuyên
truyền về kinh tế hiện nay.
Báo chí cung cấp cho công chúng những thông tin phong phú về tình hình
hoạt động của DN trong và ngoài nước, hoạt động giữa các loại mô hình DN khác
31
nhau và kinh nghiệm TCC DN ở các quốc gia. Thông qua đó, báo chí giúp cho công
chúng hiểu được đường lối chính sách phát triển kinh tế của quốc gia, hiểu được
nền kinh tế thị trường, có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ
nghĩa mà Đảng và nhân dân đang xây dựng cũng như hiểu được các quá trình vận
động, các xu hướng biến đổi, kinh nghiệm TCC DN của các nước… báo chí viết về
các vấn đề TCC cũng đã tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau: cách nhìn của người
dân, giải thích của nhà quản lý, ý kiến của nhà khoa học và đương nhiên là cả quan
điểm riêng của nhà báo. Với quan điểm tiếp cận như vậy, đã có những nhà báo được
coi là những chuyên gia trong một số chuyên ngành nào đó. Cách tiếp cận và
phương thức phản ánh như vậy cũng đã thể hiện tính dân chủ, công khai, công bằng
thông tin về kinh tế và thực hiện quyền tiếp cận thông tin của người dân. Thực tiễn
những năm qua cho thấy, trong từng thời kỳ lịch sử, vấn đề kinh tế thường nảy sinh
nhiều câu chuyện đòi hỏi phải có cách nhìn nhận và sự định hướng đúng đắn. Khi
vấn đề nào đó đang có nhiều quan điểm và được đưa ra bàn thảo trên báo chí, công
chúng sẽ hiểu được vấn đề một cách trọn vẹn, còn nhà quản lý sẽ có cơ sở để đưa ra
các quyết sách phù hợp ý Đảng, lòng dân. Không chỉ phản ánh thông tin, báo chí
còn chuyển tải nhiều ý kiến tham vấn, có những ý kiến phân tích mang tính phản
biện xác đáng về những “lỗ hổng” của cơ chế, chính sách, phần nào giúp cho các cơ
quan quản lý nhà nước kịp thời khắc phục hoàn thiện, nhằm nâng cao hiệu lực và
hiệu quả quản lý, điều hành. Hơn thế nữa, báo chí giờ đây không chỉ phản ánh đơn
thuần đời sống kinh tế mà còn chủ động tham gia tìm tòi, gợi mở, kết nối thông tin
và thúc đẩy hành động, nhằm xây dựng một nền kinh tế phát triển bền vững, DN có
điều kiện kinh doanh tốt.
Cũng chính vì thế, vấn đề TCC DNNN không chỉ thu hút sự quan tâm của
nhân dân mà còn giành được sự quan tâm đặc biệt của báo giới. Bám sát thực tiễn,
hệ thống báo chí đã tích cực thông tin, tích cực tuyên truyền về các chủ trương,
chính sách của Đảng, Quốc hội, Chính phủ; Chương trình hành động của các cấp,
các ngành, tình hình triển khai TCC DNNN với đông đảo bạn đọc, từ đó xây dựng
những diễn đàn trao đổi, thảo luận, phản biện chính sách, tạo được sự đồng thuận
32
của cả hệ thống chính trị về vấn đề mang tính quốc gia này.
Như trên đã nói, do TCC DNNN là vấn đề khó, vĩ mô nên mỗi một chính sách
ban hành không dễ để mọi người có thể hiểu hết. Do vậy, với ưu điểm “truyền
thông đại chúng”, báo chí sẽ thông tin một cách dễ hiểu nhất nhưng vẫn bao quát và
đúng vấn đề để người dân có thể nắm được ý chính là vô cùng quan trọng. Thông
qua báo chí, vấn đề TCC DNNN, được nhìn nhận, mổ xẻ ở nhiều góc độ, từ đề xuất
của cơ quan nghiên cứu, nhà quản lý, đến phản biện của các chuyên gia, những chia
sẻ từ cộng đồng DN và dư luận xã hội. Nhiều vấn đề đã và đang được làm rõ hơn,
sâu hơn và cụ thể hơn, như việc tính toán và huy động kinh phí để thực hiện TCC
DNNN. Điều rất quan trọng là tập hợp, phản ánh kịp thời ý kiến đóng góp của nhiều
thành phần trong xã hội đối với từng chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Không chỉ truyền bá các quan điểm lý luận trong các Nghị quyết của Đảng mà báo
chí cũng đã đi sâu tham gia tổng kết thực tiễn, đóng góp tích cực trong việc hoàn
thiện chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về vấn đề TCC DNNN. Báo chí
còn đưa những thông tin nhiều chiều để tạo nên cái nhìn tổng thể khó khăn, thuận
lợi của chính sách. Tất cả những việc làm đó với mục tiêu cuối cùng là để chính
sách đi vào cuộc sống của người dân.
Tất nhiên, để tạo được sự đồng thuận trong xã hội thì điều quan trọng là phải
chuyển nội dung tuyên truyền thông tin TCC DNNN của các cơ quan chuyên môn
thành dư luận xã hội rộng rãi. Để làm được điều này, đòi hỏi cần phải cơ cấu nội
dung và chất lượng thông tin, mở rộng thông tin, tạo ra thông tin hai chiều, đối thoại
dân chủ, minh bạch thông tin, nâng cao nhận thức làm cho đời sống kinh tế ngày
càng sôi nổi. Với phương thức tuyên truyền linh loạt, khoa học, báo chí đã phản ánh
trung thực kịp thời, tập hợp được tiếng nói tâm huyết của các chuyên gia, của các
nhà kinh tế và cả người dân tham gia góp ý, phản biện, góp phần đưa những Nghị
quyết, quyết sách về vấn đề DNNN, chính trị, những vấn đề tưởng chừng như rất
khô cứng của Đảng, Nhà nước vào cuộc sống, đóng góp chung vào thành công của
lực lượng đầu tàu này.
1.3.2. Báo chí thực hiện chức năng giám sát, phản biện xã hội về hoạt động
33
tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước
Tại Đại hội Đảng XI, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chính thức ghi nhận, yêu
cầu nền báo chí cách mạng Việt Nam nhận thêm vai trò, nhiệm vụ phản biện xã hội.
Trong Nghị quyết Đại hội về phát triển hệ thống thông tin đại chúng nêu rõ: “Chú
trọng nâng cao tính tư tưởng, phát huy mạnh mẽ chức năng thông tin, giáo dục, tổ
chức và phản biện xã hội của các phương tiện thông tin đại chúng vì lợi ích của
nhân dân và đất nước…”. Đây được coi là nhiệm vụ nặng nề đối với người làm báo.
Vì vậy, ý nghĩa của thông tin báo chí rất quan trọng. Với nội dung thông tin có
định hướng đúng đắn, chân thật, có sức thuyết phục, báo chí có khả năng hình thành
dư luận xã hội dẫn đến hành động xã hội, phù hợp với sự vận động của hiện thực
theo những chiều hướng có chủ định.
Báo chí có vai trò quan trọng trong việc giám sát phản biện các vấn đề về kinh
tế - xã hội. Đối với hoạt động của các DNNN vai trò này lại càng quan trọng hơn.
Bởi lĩnh vực này vốn được xem là có nhiều lỗ hổng chính sách, dễ nảy sinh tiêu
cực, tham nhũng, thất thoát tài sản và tiền bạc của nhà nước. Và thực tế đã chừng
minh điều đó. Do vậy, bằng việc thực hiện nhiệm vụ giám sát xã hội, thông tin phản
ánh, phản biện xã hội trong hoạt động TCC DNNN, báo chí đã trở thành một động
lực quan trọng tiến trình TCC DNNN.
Báo chí đã luôn theo sát những diễn biến của nền kinh tế nói chung và TCC
DNNN nói riêng như một lực lượng giám sát hoạt động của hệ thống DNNN. Chính
sự vào cuộc của báo chí dưới những góc nhìn nhiều chiều, hoạt động của các
DNNN nói chung và TCC DNNN nói riêng, được phản ánh một cách sinh động.
Sự phản biện của báo chí đối với lĩnh vực TCC DNNN có thể thấy rõ ở một số
chủ đề: “Kinh tế nhà nước (nòng cốt là DNNN) là chủ đạo của nền kinh tế”; “Phân
cấp, phân quyền và trách nhiệm trong hoạt động DNN”; “Mô hình để quản lý
DNNN hiệu quả”; “Ai là ông chủ thực sự của DNNN”; “Minh bạch thông tin đối
với DNNN”; “Lợi ích nhóm”. Đây đang là những vấn đề nóng bỏng, tuy rất vĩ mô
nhưng vô cùng quan trọng. Báo chí đã phản biện, phân tích để tìm ra một mô hình
hợp lý nhất, mục tiêu là để nâng cao thể trạng cho DNNN, hạn chế sự thất thoát, đổ
34
vỡ như thời gian qua. Đồng thời, nếu có sự cố thì phải tìm ra địa chỉ trách nhiệm.
Tính chiến đấu của báo chí đã thể hiện rõ khi công khai đòi hỏi thực hiện một số
giải pháp có động chạm đến “lợi ích nhóm”. Một số tác phẩm cũng để cập thẳng
những sai phạm xảy ra ở một số DN, tuy rằng thông tin này chưa nhiều và chưa
thực sự mang tính tự phát hiện của phóng viên mà chủ yếu dựa vào các kết quả của
cơ quan chức năng khi đã có kết quả thanh kiểm tra. Việc giám sát, phản biện kịp
thời rộng khắp đã phần nào thúc đẩy quá trình TCC DNNN và tạo sự đồng thuận
35
của xã hội và DN.
Tiểu kết Chƣơng 1
Như vậy, TCC là chính sách lớn của Đảng và Nhà nước, được kỳ vọng sẽ
mang lại một sự thay đổi lớn góp phần tháo gỡ những khó khăn, trì trệ để thúc đẩy
kinh tế xã hội phát triển. Với mục tiêu “TCC để mạnh hơn” để đảm bảo những
nhiệm vụ trọng yếu của quốc gia khi mà các thành phần kinh tế không làm được.
Đồng thời, TCC để phân bổ lại nguồn lực, làm bình đẳng hóa các thành phần kinh
tế tạo động lực cho các thành phần kinh tế cùng phát triển.
Báo chí là tiếng nói của đảng, nhà nước, các tổ chức đoàn thể xã hội là công
cụ cách mạng của Đảng. Do vậy, báo chí phải thể hiện vai trò trách nhiệm của mình
trong việc tuyên truyền chủ trương đường lối của Đảng, Nhà nước vào cuộc sống.
Đồng thời, đây cũng là chủ đề quan trọng và hấp dẫn vì nó còn nhiều quan điểm
khác nhau, nên độc giả tìm đến báo để xem, tìm hiểu về các luồng ý kiến hiểu thêm
vấn đề. Mặt khác, do vốn DNNN là vốn của dân, do vậy, người dân cũng rất quan
tâm thông tin việc phân bổ, sử dụng nguồn lực quan trọng này, nên báo chí đã tích
cực vào cuộc để khai thác thông tin. Đề tài về doanh nghiệp nhà nước giúp công
chúng tìm đến báo để biết được chủ trương, để tìm hiểu thông tin và cũng thể hiện
trách nhiệm của công dân về đồng vốn nhà nước, đồng vốn của nhân dân đang được
quản lý giám sát như thế nào? Tại sao việc quản lý, giám sát nó chưa được chặt chẽ
và có sự điều chỉnh thế nào?
Như vậy, ở chương 1, ngoài việc khái quát một số lý luận về báo chí và thông
tin báo chí, người viết còn làm rõ thêm mối quan hệ giữa báo chí với nền kinh tế,
đặc biệt là vai trò của báo chí đối với hoạt động của DNNN và chủ trương tái cơ cấu
DNNN. Đây là cơ sở để nhìn nhận, phân, tích, đánh giá và đề xuất những giải pháp
36
nâng cao chất lượng thông tin báo chí các phần sau.
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG THÔNG TIN BÁO CHÍ VỀ TÁI CƠ CẤU
DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC
2.1. Sơ lƣợc về 4 tờ báo đƣợc khảo sát
2.1.1. Báo Đầu tư
BĐT là cơ quan ngôn luận của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, thành lập từ ngày
12/6/1991- Tờ bán nguyệt san Việt Nam- Đầu tư nước ngoài và tuần báo tiếng anh
Vietnam Investmert Review ra số đầu tiên vào ngày 27/9/1991 đánh dấu sự xuất
hiện các ẩn phẩm của cơ quan BĐT trên thị trường Báo chí Việt Nam. Sau hơn 20
xây dựng và phát triển, đến nay BĐT đã trở thành một trong những cơ quan báo chí
kinh tế hàng đầu tại Việt Nam.
Trong năm năm đầu BĐT trực thuộc Ủy ban Nhà nước về hợp tác và đầu tư
(State Committee For cooperation and Vietnam Investmert – SCCI).
Tháng 9 năm 1996, sau khi SCCI hợp nhất với Ủy ban Kế hoạch Nhà nước
thành Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Báo Việt Nam – Đầu tư nước ngoài đổi tên thành
BĐT và tăng kỳ xuất bản lên 2 kỳ/tuần. Từ tháng 7 năm 2000 đến nay xuất bản 3
kỳ/tuần (thứ 2 thứ 4 thứ 6).
Ngoài ra, BĐT còn có các ẩn phẩm: Timeout (ra đời năm 1993) – Phụ trương
của Vietnam Invesment Review phục vụ nhu cầu thông tin của cộng đồng người
nước ngoài sinh sống và làm việc tại Việt Nam.
BĐT chứng khoán (ra đời năm 1999), đến nay phát hành 3 kỳ/tuần và tháng
5/2007, ra mắt tinnhanhchungkhoan.vn; Tháng 9/2009, chính thức khai trương báo
điện tử tiếng Việt: www.baodautu.vn và báo điện tử tiếng anh: www.vir.com.vn;
BĐT có trụ sở tại 47 Quán Thánh, Ba Đình, Hà Nội và đã thành lập văn phòng
đại diện tại các tỉnh, thành: TP Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Cần Thơ, Nghệ An, Hà
Tĩnh, Thái Bình, Quảng Bình.
Về cơ cấu tổ chức: Tổng cố cán bộ, nhân viên của BĐT gồm 185 người, trong
37
đó khối phóng viên, biên tập viên có 95 người. Ngoài ra, báo có đội ngũ cộng tác
viên gần 100 người. Toàn bộ đội ngũ cấp phòng, ban của báo đều được đào tạo cơ
bản. Trong đó có 24 người có trình độ đại học, 02 người có trình độ thạc sĩ. Về trình
độ lý luận chính trị, có 25 người trình độ trung cấp, 01 người trình độ cao cấp.
BĐT gồm có 8 phòng, ban. Trong đó các ẩn phẩm được sản xuất bởi 03 ban
nội dung, đó là Ban Đầu tư, Ban Chứng khoán và Ban Tiếng Anh. Các dịch vụ kinh
doanh do hai phòng Quảng cáo Truyền thông và phòng Kinh doanh phát hành phụ
trách.
2.2.2. Báo Tuổi trẻ TP Hồ Chí Minh
BTT TP Hồ Chí Minh (BTT) là cơ quan ngôn luận của Đoàn Thanh niên cộng
sản TP Hồ Chí Minh, ra đời ngày 2/9/1975. Trải qua 40 năm xây dựng và phát triển,
tờ báo Chính trị Xã hội này đã khẳng định vị trí của mình trong làng báo chí Việt
Nam. Hiện nay, BTT là tờ nhật báo lớn nhất nước, báo phát hành trên toàn quốc với
số lượng bình quân 350.000 bản/ngày. BTT xếp thứ 6/100 tờ báo lớn tại châu Á, và
thứ 34/200 trên thế giới (Theo đánh giá xếp hạng của trang web thư mục và tìm
kiếm quốc tế).
BTT còn có các ấn phẩm phụ như: Tuổi trẻ cười, Tuổi trẻ Chủ nhật, Tuổi trẻ
điện tử, bản tiếng anh Tuoitre news và đều có lượng phát hành cao.
BTT có trụ sở chính tại 60 A, Hoàng Văn Thụ, Quận Phú Nhuận, TP Hồ Chí
Minh. Báo có 9 văn phòng đại diện tại các tỉnh, thành: Hà Nội, Nghệ An, Huế, Đà
Nẵng, Quy Nhơn, Nha Trang, Đà Lạt, Đắk Lắk và Cần Thơ.
Về nhân sự: BTT có gần 1000 phóng viên tại trụ sở chính và các văn phòng
đại diện. BTT luôn nhận được sự cộng tác nhiệt tính của nhiều chuyên gia, nhà
nghiên cứu. Đội ngũ phóng viên của Báo rất đông đảo, năng động đã tạo dấu ấn trên
mặt báo và được bạn đọc Việt Nam yêu thích. Ngoài ra, BTT còn gửi phóng viên ra
38
nước ngoài nhằm tạo điều kiện tiếp cận thông tin một cách nhanh nhất.
Nhờ làm kinh tế báo chí tốt, nên mức lương của BTT hiện nay đều đảm bảo
mức trên 10 triệu đồng/người/tháng. Nhuận bút của Báo cũng thuộc diện cao nhất
nhì làng báo chí Việt Nam hiện nay.
2.1.3. Thời báo Kinh tế Sài Gòn
TBKTSG là một tờ báo tiếng Việt trong bốn tờ báo thuộc nhóm
TBKTSG (Saigon Times Group). Ba tờ còn lại trong nhóm này là (TBKTSG
Online; báo Sài Gòn tiếp thị; Thời báo Vi tính Sài Gòn); hai tờ báo tiếng Anh
(Saigon Times Weekly; Saigon Times Daily), hai tờ phụ trương quảng cáo: Thị
trường Địa ốc và Chào; hai tổ chức phi lợi nhuận là Saigon Times Club và Saigon
Times Foundation;
Saigon Times Group cũng thường xuyên tổ chức các “Chương trình vận động
xã hội” nhằm phục vụ cho định hướng hỗ trợ DN trong nước. Saigon Times
Group còn có Tủ sách “Saigon Times” và xuất bản đĩa CD-ROM giúp truy cập tin,
bài đã đăng trên các báo của Group.
Ấn phẩm chính TBKTSG: Phát hành vào thứ năm hằng tuần, gồm 80 trang,
khổ 20cm x 30cm, là tuần báo thông tin tổng hợp và có chiều sâu về kinh tế với đối
tượng đọc là giới kinh doanh, nhà quản lý, chuyên viên, sinh viên và những người
quan tâm đến kinh tế. Số đầu tiên ra ngày 04/01/1991.
Ngoài trụ sở chính đặt tại 35 Nam kỳ Khởi Nghĩa, Q.1, TP.HCM, báo còn có
các văn phòng đại diện tại: Hà Nội, TP.Đà Nẵng; Đồng bằng sông Cửu Long.
2.1.4. Tạp chí Tài chính doanh nghiệp
TCTCDN là cơ quan ngôn luận của Cục Tài chính DN – Bộ Tài chính. Tạp chí
được hình thành trên cơ sở nâng cấp tờ Thông tin DN vào năm 2001. Đây là một tờ
tạp chí khoa học về lĩnh vực kinh tế, xuất bản hàng tháng với 40 trang nội dung khổ
A4. Tạp chí chủ yếu đăng các bài nghiên cứu khoa học kinh tế của các học giả và
bài do phóng viên thực hiện. Tổng Biên tập Tạp chí do lãnh đạo Cục Tài chính DN
39
kiêm nhiệm. Cơ cấu Tạp chí được chia làm 2 ban là Ban Trị sự và Ban Biên tập.
Ban Trị sự phụ trách công tác phát hành, quảng cáo, tạo nguồn thu và công tác văn
phòng, tài chính. Ban Biên tập chuyên tâm vào công tác nội dung. Tạp chí có 9
người. Trong đó có 5 người thuộc Ban Trị sự và 4 người thuộc Ban Biên tập.
2.2. Thực trạng nội dung thông tin
TCC là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, trong đó, TCC DNNN là
một trong ba thành phần chính của đề án TCC toàn bộ nền kinh tế. Do vậy, hầu hết
các tờ báo đều bám sát chủ trương này và có nhiều thông tin nhanh chóng kịp thời,
đa dạng.
Tên ấn phẩm
Tổng số tin bài về TCC DNNN
Số phát hành trong năm
Tỷ lệ % tin bài về TCC DNNN
Ƣớc tổng số tin bài trong 01 năm
Tần suất xuất hiện tin bài về TCC DNNN
10 45 77 43
22.239 9.600 2.860 228
353 150 52 12
35,3 3,33 0,68 0,28
0,04 0,47 2,69 18,86
BTT BĐT TBKTSG TCTCDN
Bảng 2.2a: Thống kê tổng số tin bài về TCC DNNN trên 04 báo
Qua thống kê các báo được khảo sát (Bảng 2.2a) cho thấy, BTT đã đăng tải 10
tin bài trong tổng số 22.234 tin bài (con số ước); tần suất xuất hiện là cứ 35,3 số báo
thì có một tin hoặc bài về TCC DNNN. Đây là tờ lượng tin bài về đề tài này ít nhất
trong các tờ được khảo sát.
BĐT đã đăng 45 tin bài trên tổng số 9.600 tin bài được đăng tải trong 150 số
phát hành. Tần suất xuất hiện 3,33 số báo, tức là gần như tuần nào cũng có tin bài
về TCC DNNN.
Trên TBKTSG, chủ đề TCC DNNN được ưa dùng hơn. Khi mật độ xuất hiện
về chủ đề này dày hơn. Cứ 0,68 số báo thì có một tin bài về TCC DNNN. Trong 01
năm được tác giả lựa chọn khảo sát có 77 tin bài về vấn đề này. Cứ một số báo có
1,48 tin bài về TCC DNNN. Có nhiều số báo được tổ chức các chuyên đề chuyên
40
sâu.
Trên TCTCDN, số lượng tin bài về TCC DNNN cũng được chú trọng. Trong
12 số báo có đến 43 tin bài về DNNN. Như vậy, tần suất xuất hiện ở mức 3,5 tin
bài/số và số tin bài về TCC DNNN chiếm đến 18,86% tổng tất cả các tin bài trong
năm. Như vậy, có thể thấy mật độ khá dày và là TCC DNNN đã trở thành chủ đề
xương sống của Tạp chí. Rất nhiều số báo có 2-3 tin bài cùng chủ đề này hoặc có
các chuyên đề được tổ chức một cách có hệ thống về từng vấn đề hẹp.
Nội dung thông tin trên các báo chủ yếu có thể phân 03 loại như sau: Thông
tin về chủ trương, chính sách; thông tin về mua bán, sáp nhập, CPH, thoái vốn;
thông tin về ý kiến bình luận, phân tích và đóng góp vào vấn đề TCC DNNN
Tên ấn phẩm
Tổng tin bài về TCC DNNN
Thông tin về ý kiến bình luận, phân tích TCC DNNN
BTT
BĐT
TBKTSG
TCTCDN
Thông tin về chủ trƣơng chính sách 3 30 12 26,67 11 14,28 11 25,58 37
Thông tin về mua bán sáp nhập, CPH... 3 30 24 53,33 43 55,84 13 30,23 83
Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ %
4 40 9 17,78 23 29,97 19 41,19 55
10 100 45 100 77 100 43 100 175
Tổng cộng (số lƣợng)
Bảng 2.2b: Thống kê tin, bài TCC NNN theo nhóm chủ đề trên 04 báo
2.2.1. Thông tin về chủ trương, chính sách TCC DNNN
Với ưu điểm là cơ quan ngôn luận của các Bộ, ngành, hội có uy tín và có vai
trò quan trọng trong việc tham mưu, chủ trì xây dựng các chính sách về DNNN và
TCC DNNN nên cả 4 tờ báo được khảo sát đều đã tập trung thông tin một cách đầy
đủ, kịp thời về các chính sách của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước về
thông tin TCC DNNN.
4 tờ báo, tạp chí đã có tổng 37 tin, bài về cơ chế, chính sách mới và quan điểm
chủ trương của Đảng, Nhà nước về vấn đề TCC DNNN. Trong đó, Tuổi trẻ có 3/10
41
tin bài; BĐT 12/45 tin bài; TBKTSG có 11/45 tin bài; TCTCDN có 11/43 tin, bài.
Các thông tin trên chủ yếu tập trung các chính sách mới trong gian đoạn tác giả
khảo sát như: Quyết định 929/QĐ-TTg ngày 17/7/2012 của Thủ tướng Chính phủ,
Phê duyệt Đề án “TCC DNNN, trọng tâm là tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước
giai đoạn 2011 – 2015”; Nghị định 99/2012/NĐ-CP, ngày 15 tháng 11 năm 2012 về
phân công, phân cấp thực hiện các quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà
nước đối với DNNN và vốn Nhà nước đầu tư vào DN; Nghị định số 61/2013/NĐ-
CP ngày 25/6/2013 của Chính phủ về việc ban hành Quy chế giám sát tài chính và
đánh giá hiệu quả hoạt động và công khai thông tin tài chính đối với DN do nhà
nước làm chủ sở hữu và DN có vốn nhà nước; Nghị định 71/2013/NĐ-CP, ngày
11 tháng 7 năm 2013 quy định về đầu tư vốn nhà nước vào DN và quản lý tài
chính đối với DN do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ; Chính phủ và các bộ
ngành còn ban hành nhiều chính sách quan trọng cụ thể hóa đề án TCC DNNN...
Trên BTT: Là tờ báo chính trị xã hội đang có lượng phát hành vào diện lớn
nhất trong làng báo chí Việt Nam hiện nay, BTT cũng thông tin kịp thời các thông
tin cơ bản về vấn đề TCC đó là giảm số lượng DN, số vốn và sắp xếp lại bộ máy.
Tuy nhiên, số lượng không nhiều, chỉ tập trung vào những vấn đề cơ bản. Cụ thể:
“Sẽ giảm còn 5-7 tập đoàn nhà nước” [9 (242), tr3]; “Tổ chức lại một số tập đoàn”
[9 (243), tr17]; “Sẽ giảm mạnh vốn nhà nước tại DN”, [10 (185), tr6].
Trên BĐT: Như ở trên đã nói, do trực thuộc Bộ kinh tế tổng hợp, nên có lợi
thế về mặt nguồn tin. Trong thời gian từ tháng 8/2012- tháng 8/2013, Bộ Kế hoạch
Đầu tư được Chính phủ giao chủ trì soạn thảo nhiều đề án về lĩnh vực TCC DNNN,
trong đó các đề án tiêu biểu là: Quyết định số 339/QĐ – TTg, ngày 19 tháng 2 năm
2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án tổng thể TCC kinh tế gắn
với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và
năng lực cạnh tranh giai đoạn 2013 – 2020; Nghị định 99/2012/NĐ-CP ngày
15/11/2012 của Chính phủ về phân công, phân cấp thực hiện các quyền, trách
nhiệm, nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước đối với DNNN và vốn Nhà nước đầu tư
vào DN… Vì thế, BĐT bám rất sát vấn đề và thông tin kịp thời. Ngoài ra, việc công
42
bố tổng hợp số liệu của các cơ quan chức năng hay ý kiến chỉ đạo, điều hành cũng
được báo cập nhật đầy đủ. Việc truyền đạt ý kiến các cấp, các nhà quản lý cũng là
thông điệp kịp thời để các DN triển khai. Đồng thời việc trích dẫn thông điệp đó
giúp người dân có điều kiện giám sát, kiểm chứng trách nhiệm cơ quan quản lý giữa
nói và làm.
Một số bài viết tiêu biểu nhóm bài này là: “CPH với tái cấu trúc DNNN” [7
(102), tr1-14]; “Khắc phục hạn chế trong đề án TCC” [7 (103), tr5]; “Tái cấu trúc
DNNN phải bắt đầu từ lãnh đạo cao nhất” [7 (129), tr5]; “Xác định rõ cơ quan thực
hiện chủ sở hữu nhà nước DNNN” [7 (127), tr5]; “Lấp đầy khoảng trống pháp lý về
DNNN” [7 (131), tr5]; “Quy định rõ trách nhiệm chủ sở hữu nhà nước” [7 (134),
tr3]; “Không có kịch bản chung khi TCC vốn nhà nước” [7 (131), tr5]; “Thúc đẩy
tiến trình CPH DNNN: đề xuất loại bỏ một số lĩnh vực” [8 (90), tr5].
Trên TBKTSG: Ngoài những thông tin chủ trương lớn như trên BTT,
TBKTSG thông tin chuyên sâu hơn và rộng hơn bao gồm cả các chủ trương của cơ
quan quản lý về một số DN. Do là báo tuần, nên báo cũng không phải là thế mạnh
trong khâu cập nhật thông tin về chủ trương chính sách của cơ quan quản lý. Thay
vào đó, ngoài việc truyền tải thông tin này báo thường có sự cập nhật từ tình hình
thực tế của DN để soi vào ý kiến chỉ đạo, điều hành đó.
Các tác phẩm tiêu biểu: “Phân quyền mạnh hơn cho quản lý DN”, [53 (32),
tr8]; “Giải tán bớt tập đoàn”, [53 (34), tr9-67]; “Quản trị và giám sát tập đoàn
KTNN” [53 (39), tr13-14]; “Cải cách DNNN: Chấn chỉnh DNNN bằng luật mới”,
[53 (42); tr12-13]; “Tìm lối ra cho Vinashin”, [53 (43), tr9+10]; “Vẫn được đầu tư
ngoài ngành”, [53 (46), tr53]; “Đầu tư ngoài ngành: Vẫn được bật đèn xanh”, [54
(26), tr50]; “Đẩy nhanh tiến độ sắp xếp các DN thuộc Vinashin”, [54 (30), tr7];
“Giám sát đặc biệt DNNN: quyền được phá sản, giải thể”, [54 (31), tr53]; “Nhiệm
vụ bất khả thi”, [54 (11), tr19];
Ở TCTCDN: Chỉ riêng năm 2013, Cục Tài chính DN (cơ quan chủ quản của
TCTCDN) được Bộ Tài chính giao nhiệm vụ soạn thảo 5 nghị định và một số thông
43
tư hướng dẫn, các báo cáo về tình hình hoạt động của DNNN trình Bộ Chính trị,
Quốc hội, Chính phủ… Đây là những vấn đề cốt lõi, trọng tâm trong quá trình TCC
DNNN. Vì vậy, TCTCDN đã phát huy lợi thế “người nhà” nên bám sát các chủ
trương này ngay khi còn là bản dự thảo đầu tiên. Việc đưa tin một số quy định từ
lúc còn manh nha đã nhận được sự quan tâm đặc biệt của bạn đọc và đóng góp ý
kiến của các chuyên gia, DN. Chẳng hạn: “Phê duyệt đề án TCC DNNN” [51 (8),
tr8]; “Hoàn thiện dự thảo Luật quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất
kinh doanh” [52 (4), tr2]; “TCC DNNN: Quy định chung và trách nhiệm riêng” [52
(7), tr2]; “Đầu tư vốn nhà nước vào DN: Điều đến đâu, chỉnh thế nào?” [52 (7), tr
4-5]; “Một số điểm mới khi đầu tư vốn nhà nước vào DN” [52 (8), tr8-9].
Việc thông tin về chủ trương chính sách trên Tạp chí thông thường khi chủ
trương chính sách đã cơ bản được “chốt” nghĩa là đã ở bản dự thảo cuối cùng trước
lúc trình Chính phủ, hoặc được thể hiện thành bài phản ánh thông tin dài nên
thường đầy đủ. Tuy nhiên, điều này thường khiến thông tin bị chậm hơn và không
thu hút được độc giả bằng những thông tin ngắn gọn, sơ khai ban đầu. Nhưng điều
này cũng dễ hiểu bới đây là tạp chí ngành và việc soạn thảo các văn bản do cơ quan
chủ quản đảm nhiệm nên thường bị kiểm duyệt chặt hơn.
2.2.2. Thông tin về thực trạng Tái cơ cấu của các doanh nghiệp nhà nước
Bên cạnh thông tin chủ trương chính sách, các báo đều bám sát cơ sở thông tin
kịp thời những chuyển biến tại DN, từ lúc soạn thảo, ban hành các đề án đến việc
thực hiện. Hàng năm, Chính phủ, Bộ Tài chính đều công bố báo cáo về kết quả tình
hình hoạt động sản xuất kinh doanh, thực hiện nghĩa vụ đóng góp cho ngân sách,
công tác an sinh xã hội của khối DNNN. Trong đó, cũng có những công bố bán niên
tại các kỳ họp Quốc hội. Từ khi ban hành đề án TCC, Bộ Tài chính cũng thường
xuyên cập nhật về tình hình chuyển động tại các DN chủ yếu là: CPH, thoái vốn,
mua bán, sáp nhập, xử lý nợ; thay đổi quản trị, nhân sự, công nghệ… Do đó, các
báo đều tích cực chuyển tải các thông tin này. Trong đó có những thông tin riêng
từng chủ đề như vấn đề nợ nần của DNNN; vấn đề minh bạch thông tin; vấn đề
44
thoái vốn; chấp hành pháp luật…Tổng trên 4 tờ báo được khảo sát có 83 tin, bài,
chiếm số lượng lớn trong ba tiêu chí tại bảng 2.2b. Việc bám sát thông tin này góp
phần cổ vũ động viên các DN thi đua thực hiện chủ trương đẩy nhanh tiến độ TCC.
Mặt khác còn kịp thời thông tin những bài học quý, cách làm hay tại DN cũng như
phản ánh những vướng mắc của cơ chế chính sách khi được áp dụng vào thực tế để
cơ quan chức năng nắm bắt kịp thời có sự điều chỉnh thích hợp.
Trên BTT có 03 bài về TCC tại DN là: “TCC hai tập đoàn xây dựng: Giảm
gánh nặng cho nhà nước”, [9 (274), tr6]; “VNA phải CPH”, [10 (19), tr6]; “Tổ chức
lại một số tập đoàn” [9 (243), tr2]. Đây là những DNNN có quy mô lớn, việc TCC
có ảnh hưởng nhất định tới thị trường. Tuy nhiên, thông tin trên BTT cũng chỉ đưa
một cách ngắn gọn.
Ngoài BTT, do các tờ báo được lựa chọn đều là báo kinh tế nên việc thông tin
cụ thể tại từng DN được chú trọng hơn. Do đó, số lượng thông tin TCC trên 3 tờ
báo còn lại đều lớn hơn.
BĐT đã đăng tải 24 tin bài về thực trạng TCC tại DNNN, gấp đôi số lượng
thông tin về chủ trương chính sách. Đây cũng là điều dễ hiểu theo đúng tôn chỉ,
mục đích của báo là hướng tới DN, đồng hành cùng DN. Các bài báo chủ yếu đi
trực tiếp đến hoạt động TCC của DN như: “VNF1 không thiếu tiền để TCC”, [7
(103), tr5]; “Tập đoàn Dầu khí VN: Lập ra quá nhiều công ty cháu”, [7 (110), tr10];
“Tập đoàn hay TCT NN: Tiêu chí bỏ, chọn” [7 (120), tr5]; “Sắp xếp lại Vinaphone
và Mobiphone: VNPT khó được hưởng miễn trừ”, [14 (133), tr10]; “Vinachem rút
khỏi hóa dầu”, [7 (140), tr1]; “AMC cứu cánh để xử lý nợ tồn”, [7 (134), tr11];
“Vinacomin rời sân chơi bảo hiểm”, [7 (146), tr6]; “Bật đèn xanh để TCC VNA”, [8
(9),tr5]; “Dồn sức TCC DN viễn thông”, [8 (15), tr10].
Một số bài có tính chất cổ vũ động viên rất lớn, góp phần thúc đẩy các DN
khác làm theo như: “DN ngành giao thông tự cứu mình qua TCC”, [8 (38), tr5]. Bài
báo đã đưa ra những khó khăn hiện tại của các DN ngành giao thông và những kết
quả bước đầu sau CPH. Điều này một lần nữa khẳng định CPH đã và đang mang
45
lại hiệu quả và là cách làm không thể thoái lui.
Tuy nhiên, BĐT cũng không chỉ dừng lại ở việc thông tin đơn thuần về TCC
tại DNNN mà còn cập nhật tình hình của cộng đồng DN cũng như chỉ rõ nguyên
nhân tồn tại như: “CPH DNNN: bó chân vì ôm đồm” [7 (120), tr5], bài báo nêu rõ:
“CPH DNNN là một bài toán khó, phải cân nhắc về mặt lợi ích. Khi thị trường
xuống thấp, cộng với tình hình kinh doanh không hiệu quả, khả năng bán đi không
được, hoặc có thể không được giá, thậm chí là lỗ nên tâm lý tiếc, thậm chí là sợ
trách nhiệm vì bán lỗ, không đảm bảo trách nhiệm bảo toàn vốn, nên chưa muốn
bán. Nhưng nhìn lại, khi thị trường lên “phơi phới”, có tâm lý không muốn bán vì
nhỡ thị trường lên nữa”. Từ đó, tác giả đưa ra khuyến nghị: “Câu chuyện đặt ra ở
đây là nếu muốn được cả thì sẽ không làm được việc gì, nhất là trong lúc nền kinh
tế đang rất khó khăn. Lời giải là phải chọn được đâu là mục tiêu ưu tiên, mục tiêu
cơ bản trong cổ phần hoá DNNN để từ đó giải toả những lấn cấn”.
Trên TBKTSG có 43 tin bài (gấp đôi BĐT) thông tin về thực trạng DN. Đây
là một con số khá bất ngờ đối với tác giả, bởi báo này chủ yếu tập trung các vấn đề
vĩ mô và do là báo tuần nên ít đưa tin. Tuy nhiên, do đặc điểm báo tuần, các bài
thông tin hoạt động của DN trên TBKTSG thường được phân tích một cách sâu sắc
hơn. Các bài viết trong phần này không chỉ thông tin đơn thuần mà còn phân tích về
tình hình TCC tại DN đó, hơn nữa còn đưa ra những nhận định, kiến nghị về DN
đó, khái quát thành vấn đề lớn như: “DATC nên thuộc Chính phủ” [53 (39), tr16-
17]; “TCC VNPT: Phục hồi độc quyền” [53 (34), tr52]. Từ thông tin về chức năng
nhiệm vụ và số liệu nợ DNNN, tác giả Tư Giang cho rằng để Công ty Mua bán Nợ
Việt Nam hoàn thành sứ mệnh của mình phải nâng tầm DATC thuộc chính phủ thay
vì thuộc Bộ Tài chính như hiện nay. Hay từ bài viết phân tích TCC tại VNPT, Luật
gia Vũ Xuân Tiền đã đề cập đến một vấn đề đang được quan tâm là “độc quyền”…
Báo cũng có những bài viết dạng vấn đề phản ánh tình trạng chung tại DN
như: “Những cục nợ chạy lòng vòng”, [53 (39), tr15-16]; “Luật lệ bị phớt lờ” [53,
(16), tr20-21]; “Cải cách DNNN vẫn chậm chạp” [54, (21), tr8]; “DNNN cắt lỗ”
[53, (33), tr19]; “Nợ xấu DNNN tới gần 200 nghìn tỷ đồng” [53 (41), tr7]. Bên cạnh
46
đó, còn nhiều bài viết trực tiếp thông tin hoạt động TCC tại DN: “Tìm lối ra cho
Vinashin” [53 (43), tr9-10]; “Trục vớt Vinashin” [53 (46), tr12-13]; “TCC Vinaline:
Phụ thuộc Vinashin” [54 (9), tr10].
Trên TCTCDN có 13 bài viết về thực trạng TCC tại DN. So với 4 tờ báo được
khảo sát, thì Tạp chí và TBKTSG có điểm tương đồng hơn ở cách thông tin. Dù là
thông tin về tại DN nhưng không chỉ dừng lại ở việc đưa tin hoặc nêu vấn đề. Do
phát hành mỗi tháng một số nên số lượng tin không nhiều. Các bài viết về hình hình
TCC của cộng đồng DNNN hoặc tại cụ thể tại một DN đều được phân tích sâu hơn.
Thậm chí việc công bố một đề tài nghiên cứu ở cấp thạc sĩ còn có trích dẫn cả kết
quả điều tra bằng bảng hỏi, và tổng hợp ý kiến đề xuất giải pháp cho DN như tác
phẩm: “Xây dựng chiến lược kinh doanh: Nhìn từ Tổng công ty than khoáng sản và
thương mại Hà Tĩnh” [52 (8), tr14-16].
“Các TĐ, TCT tiết kiệm 14.000 tỷ đồng” [52 (10), tr5]; “TCC DNNN: Các ông
lớn nhập cuộc thoái vốn”, [52 (10), tr16-17]; “Chuyển đổi chủ sở hữu thông qua
mua bán nợ: Thiếu chiến lược với nhà đầu tư chiến lược” [52 (12), tr30-31]; “CPH
đang phá tiến độ: Vẫn là xác định giá trị đất” [53 (3), tr18-19]; “CPH DNNN: Định
giá đang phá tiến độ” [53 (5), tr23-24]; “VAMC: Trái phiếu hay giấy nợ” [53 (6),
tr28-29]; “Mua bán xử lý nợ: Nợ tăng, xử lý giảm” [53 (8), tr24-25].
2.2.3. Thông tin về ý kiến bình luận, phân tích và đóng góp vào các vấn đề
tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước
Ngoài BTT, các báo được lựa chọn khảo sát chủ yếu là báo ngành kinh tế. Do
vậy, nội dung phản ánh mang tính chuyên sâu nên đều tập trung phân tích, bình
luận và đưa ra nhiều ý kiến đóng góp cho TCC. Ngoài các vấn đề được phóng viên
của báo phân tích hoặc trích dẫn ý kiến của các chuyên gia, nhà khoa học và lãnh
đạo DN, các tờ báo kinh tế đều chú trọng và đăng các bài báo khoa học của các
chuyên gia, tập trung phân tích và đề xuất nhiều giải pháp cho cơ quan quản lý thêm
tư liệu tham khảo. Cả 4 cơ quan báo chí đều rất chú trọng trong việc tạo lập diễn
47
đàn, thu hút các ý kiến bình luận, phân tích của các nhà quản lý, chuyên gia kinh tế,
nhà nghiên cứu nhằm đưa ra những kiến thức từ lý luận, kinh nghiệm và các giải
pháp cụ thể.
Thống kê cho thấy 4 tờ báo có 55 bài bình luận, phân tích và đóng góp ý kiến
vào vấn đề TCC DNNN.
Trên BĐT có 8 tác phẩm về nhóm bài này. Đầu tư đã chạy đều các bài phỏng
vấn trên mỗi số báo về các vấn đề kinh tế trong đó có không ít bài về chủ đề TCC
DNNN. Các bài phỏng vấn này gần như được xếp cố định ở mục Đối thoại trên
trang 3. Đối tượng được phỏng vấn chủ yếu là các chuyên gia kinh tế, các nhà
hoạch định chính sách… Ngoài ra, Đầu tư còn thể hiện được một điểm nhấn đó là tổ
chức được nhiều cuộc gặp gỡ, tọa đàm, cùng các chuyên gia kinh tế hàng đầu với
thiện ý ghi nhận những đóng góp, ý kiến phản biện từ các chuyên gia đối với một
vấn đề nóng hổi, nhưng cũng mang ý kiến lâu dài, đó là chuyển đổi mô hình tăng
trưởng của nền kinh tế. Qua đó chạy được khá nhiều chuyên đề dài hơi, đặc biệt là
Chuyên đề “Chuyển đổi mô hình tăng trưởng” trong suốt 5 tháng của năm 2012 (từ
tháng 4 đến tháng 9/2012). Đều đặn vào số báo thứ 2 hàng tuần, trên chuyên trang
Diễn đàn kinh doanh (trang 5), Đầu tư đã chuyển đến độc giả nhiều thông tin về
TCC DNNN có hàm lượng khoa học cao. Hầu hết là những ý kiến, phản biện, đóng
góp sát thực, tâm huyết của các chuyên gia nghiên cứu độc lập, cơ quan quản lý
(hầu hết là cán bộ lãnh đạo, nguyên là cán bộ lãnh đạo thuộc các đơn vị chức năng
của Bộ Kế hoạch Đầu tư) như: TS Nguyễn Đình Cung, Phó Viên trưởng Viện
Nghiên cứu và Quản lý Trung ương với các bài: Áp đặc Kỷ luật thị trường cạnh
tranh với DNNN; Chế ngự và kiểm soát nhóm lợi ích; Bài viết của đại diện cộng
đồng DN như: ông Phùng Hoàng Cơ, Phó chủ tịch HĐQT Công ty cổ phần báo cáo
đánh giá Việt Nam với bài: Bốn rào cản TCC DNNN.
Bên cạnh đó còn một số tác phẩm đáng chú ý: “Tiền đâu để TCC”, [7, (99),
tr5]; “Khó đánh giá thông tin DNNN”, [7, (142), tr3]; “Vẽ lại bức tranh DNNN” [8,
(1+2), tr5]; “Xác định rõ cơ quan thực hiện quền chủ sở hữu nhà nước” [7, (127),
48
tr5]; “Không có kịch bản chung khi TCC vốn DN” [7, (131), 5]; “Thấu đáo trách
nhiệm sở hữu nhà nước” [7, (140), tr3]; “Quy định rõ trách nhiệm chủ sở hữu nhà
nước” [7, (134), tr3];
Trên BTT đăng tải 4 tác phẩm về nhóm bài này: “Tái cấu trúc giữa nói và
làm”[10,(42), tr1-4]; “TCC tập đoàn, DNNN sẽ rõ địa chỉ trách nhiệm” [9, (296),
tr7]; “Diễn đàn DNVN: Làm thật thay vì nghe và hứa” [10, (147), tr1-6]; “Sẽ giảm
mạnh vốn nhà nước tại DN” [ 9,(185), tr6]. Các bài viết tập trung phân tích một số
vấn đề cơ bản là “địa chỉ trách nhiệm”, giảm vốn, và quy định cụ thể để thúc tiến
độ.
Trên TBKTSG, với nhóm bài này, TBKTSG bộc lộ điểm mạnh rõ nét và đã
đăng tải 9 bài. Vốn được xem là tờ báo chuyên gia, tờ báo luôn có đông đảo cộng
tác viên là các học giả, nhà nghiên cứu cả trong và ngoài nước. Nhiều độc giả, trong
đó có tác giả đã tìm đến tờ báo để học hỏi, trang bị thêm kiến thức về kinh tế.
Các tác phẩm tiêu biểu cho nhóm bài này là: “Đẩy xuống nước cho tự bơi”
[53, (32), tr1]; “Tập đoàn chưa mang lại lợi ích gì cho DN ” [53, (36), tr46];
“Thuyền thúng sẽ vẫn là thuyền thúng” [53, (38), tr47-48]; “Tránh vết xe đổ của mô
hình siêu bộ” [53, (43), tr45]; “Kết thúc thí điểm tập đoàn KTNN: Cần một ủy ban
độc lập” [53, (46), tr10-11]; “Bán DNNN để cứu DNNN tại sao không” [54, (19),
tr20 -21]; “Vì sao DNNN khó minh bạch thông tin”, [54, (25), tr16-17]; “Điều lệ
mẫu không là chìa khóa vàng”, [54, (27), tr58-59”; “Để giảm thiệt hại cho DNNN”,
[54, (29), tr21]; “Thà một lần đau”, [54, (34), tr13]; “Thoái trào”, [54, (35), tr12-
13]…
Trong các bài viết có những ý kiến đóng góp rất đáng lưu tâm. Bài “Bán
DNNN để cứu DNNN tại sao không” [54, (19), tr20 -21] do phóng viên Hồng Phúc
ghi lại ý kiến của ông Nguyễn Xuân Thành – Giám đốc chính sách công, Chương
trình giảng dạy kinh tế Fulbright đã đề xuất như vậy. Trong bài viết, ông Thành nêu
vấn đề: “Khi gặp khó khăn, dù là cá nhân hay DN tư nhân đều phải bán bớt tài sản
49
để trả nợ, vậy tại sao Nhà nước không thể làm?”. Chuyên gia này cũng phân tích
những ưu điểm và hạn chế của đề xuất này trước khi kết luận: “Cách làm này có thể
hóa giải hầu hết những vấn đề hiện tại!”
Ở bài “Kết thúc thí điểm tập đoàn KTNN: Cần một ủy ban độc lập” [53, (46),
tr10-11] của chuyên gia kinh tế, TS Lê Đăng Doanh, sau khi nêu và phân tích vấn
đề tác giả đề xuất: “Đề thực hiện kết luận của Hội nghị trung ương 6 về kết thúc thí
điểm tập đoàn, lần này không thể để tiếp diễn cảnh con hát mẹ khen hay. Quốc hội
cần lập một ủy ban độc lập về tổng kết thí điểm tập đoàn dưới sự giám sát của Ủy
ban kinh tế, ngân sách, pháp luật, khảo sát, điều tra, nghiên cứu thực địa và xây
dựng một báo cáo có căn cứ khoa học và thực tiễn về cuộc thí điểm này để rút ra
bài học nghiêm túc và có kiến nghị thích hợp”
Với bài “Mô hình nào cho quản lý tập đoàn” [53, (46), tr52] của tác giả Minh
Minh, sau khi phân tích những ưu điểm và hạn chế của mô hình quản lý tập đoàn
hiện nay, tác giả đưa ra ý kiến: Việc đề xuất thành lập một cơ quan độc lập ngang
bộ để quản lý giám sát tập đoàn cũng chưa hẳn là tối ưu. “Nguyên nhân cốt lõi của
sự thất bại trong việc thực hiện chính sách đối đối với DNNN trong mấy thập kỷ
qua là thiếu cơ chế minh bạch về phương thức và biện pháp hình thành, giám sát
việc thực hiện các quyết định của chủ sở hữu nhà nước. Lấp đầy sự thiếu hụt này,
không thể chỉ bằng việc thành lập mới các cơ quan, tổ chức mà quan trọng hơn là
cơ chế này sẽ được vận hành như thế nào, ai giám sát, chế tài thế nào”. Tuy nhiên
lại rất khó tìm được nhiều người vô tư, khách quan khi thực hiện những quyền lớn
này.
Do vậy, theo tác giả: “Vì khó tìm được nhiều người vô tư, khách quan khi được
giao những quyền hạn lớn trong quản lý DNNN nên càng hạn chế số lượng DNNN
thì hiệu quả DNNN càng được đảm bảo. Điều đó cũng phù hợp với xu hướng Nhà
nước không nên trực tiếp trực tiếp đầu tư, làm kinh tế thông qua việc thành lập
DNNN, mà Nhà nước chỉ nên kiến tạo môi trường đầu tư, phát triển bằng các chính
sách để thức đẩy các thành phần kinh tế tự đầu tư, phát triển bằng động lực chính
50
họ”.
Tương tự, các tác phẩm về nhóm bài này của TBKTSG đều đã đưa ra được
những khuyến nghị rất sâu sắc nhờ đội ngũ cộng tác viên là các chuyên gia kinh tế
đầu ngành. Ngay ở phần giới thiệu về báo cũng nêu rõ danh sách các cộng tác viên
là các nhà khoa học có uy tín trong và ngoài nước: TS Vũ Thành Tự Anh; Luật gia
Nguyễn Ngọc Bích, TS Lê Đăng Doanh; Huỳnh Thế Du, TS Nguyễn Ngọc Điện,
TS Trần Du Lịch…
Trên TCTCDN , như trên đã nói, với nhóm bài này thực sự là điểm mạnh đối
với một tờ tạp chí khoa học. Ngoài việc xác định tôn chỉ mục đích chuyên sâu cho
các phóng viên, Tạp chí còn có nhiều bài báo khoa học của các học giả. Các ý kiến
đề xuất, kiến nghị trong mỗi tác giả rất rõ ràng. Chẳng hạn trong bài trả lời phỏng
vấn của phóng viên báo: “Xử lý nợ xấu: Nên thực hiện nguyên tắc Hà Nội” [51, (9),
tr18-21], TS Phan Thanh Hà, Bộ Kế hoạch Đầu tư đề xuất: “Vấn đề chính của
DATC là họ phải làm việc với các ngân hàng riêng biệt và khó bắt các ngân hàng
đồng ý làm theo một phương án nếu họ không muốn. Vì vậy, tôi cho rằng nên thực
hiện nguyên tắc Hà Nội để kết nôi các ngân hàng cùng xử lý. Đây không phải một
quy định pháp luật mà là một bộ nguyên tắc được thống nhất giữa các ngân hàng
và người cho vay lớn nhằm quản lý việc TCC. Theo đó, Bộ Tài chính cần yêu cầu
tất cả các ngân hàng tuân theo nguyên tắc này. Theo đó, yêu cầu thứ nhất: không
tác động gì đến công ty và chia sẻ thông tin; thứ hai, các ngân hàng tập hợp thành
một nhóm và sẽ thảo luận cùng nhau. Nếu 70% ngân hàng có nợ đồng ý, các ngân
hàng khác phải tham gia TCC với điều kiện giống nhau. Thứ ba, căn nhặc việc cần
có một tổ chức định giá nếu như không thỏa thuận được. Với quy tắc Hà Nội sẽ
dừng việc cạnh tranh giá và tập trung vào nâng cao giá trị thu hồi”.
Đây không phải là trường hợp đặc biệt, các bài viết, ý kiến, bình luận trên Tạp
chí đều đi rất sát chủ đề và đề ra nhiều giải pháp khác nhau. Đây thực sự là một
kênh để cơ quan quản lý tham khảo, nhất là trong giai đoạn này, cơ quan của chủ
quản được giao nhiệm vụ xây dựng nhiều Nghị định, thông tư về vấn đề này, trong
51
đó có các vấn đề trọng tâm như: Cơ chế giám sát vốn, cách xác định giá trị DN để
tiến hành CPH ; cơ chế thoái vốn đầu tư trái ngành khi giá thị trường thấp hơn giá
trị sổ sách…
Một số bài viết có nhiều ý kiến đáng chú ý trên Tạp chí như: “DNNN – một số
vấn đề, thực trạng và giải pháp” [52, (10), tr12-13-14]; “Xử lý nợ gắn với TCC
DNNN: Nên phát hành chứng thư bão lãnh DATC” [52, (11), tr22-24]; “Xử lý nợ
xấu bất động sản: DATC nên là nhà cung cấp bảo lãnh tín dụng”, [53, (5), tr28-29];
“Giám sát TCDN : Quan trọng là cơ chế, chính sách” [53, (7), tr10-11]; “Cổ tức
nghìn tỷ: Bỏ quên có chủ ý” [53, (7), tr11-13]; “Nợ của DNNN không được tính vào
nợ công” [53, (8), tr22-23]
2.3. Thực trạng hình thức thông tin
2.3.1. Cách thức tổ chức thể hiện
2.3.1.1. Bố cục thể hiện và vị trí trang
Cả 4 tờ báo được lựa chọn khảo sát đều rất chú trọng khâu thể hiện, từ cách
lựa chọn, sắp xếp tin bài ở trang nhất, tổ chức chuyên mục, chuyên đề và tin bài,
hình họa trong mỗi số báo. Các tác phẩm của các báo hầu như đều có tít chính, tít
phụ và sapo, ảnh hoặc biểu đồ, bảng biểu minh họa. Ngoài ra, việc trích dẫn các ý
kiến hoặc các vấn đề quan trọng làm box cũng đã tạo ra những điểm nhấn và tạo sự
dễ đọc, dễ nhận biết vấn đề cho bạn đọc.
BĐT có lựa chọn các chuyên mục phù hợp với việc đăng tải các bài viết về
TCC DNNN. Trang 1, ngoài phần măng sét cố định trên đầu trang, Đầu tư cũng lạ
chọn phần giữa trang báo (lệch về phía tay trái) cho 01 tít bài và 01 ảnh lớn, cùng
với đôi dòng giới thiệu về bài “đinh” của số báo phát hành (Phần này được coi là ở
trung tâm trang báo); về phía tay phải, tòa soạn lựa chọn những bài được coi là đặc
sắc của số báo, đưa tít bài, trang số và đôi khi kèm ảnh minh họa. Dưới cùng được
bố trí lần lượt theo hướng từ phải sang là chuyên mục Góc nhìn đầu tư; rồi đến biểu
đồ hoặc ảnh cùng một số tít bài. Do là trang quan trọng của tờ báo, nên những nội
52
dung hình ảnh được đưa ra là thông tin sự kiện có tính thời sự đang được dư luận
quan tâm. Kết quả khảo sát của người viết thì có đến 60% các bài viết liên quan đến
chủ đề nghiên cứu đều được rút tít, hình ảnh ra trang đầu.
Một số hình ảnh trang 1 BĐT có thông tin về TCC DNNN
Ngoài ra, các tin, bài về vấn đề TCC DNNN được bố trí trên khá nhiều chuyên
trang, chuyên mục của Đầu tư: Góc nhìn đầu tư (trang 1); Tin tức sự kiện (trang 2);
Kinh tế đầu tư (trang 4); Tài chính ngân hàng (trang 7); DN doanh nhân (trang 10
hoặc trang 13); Thời sự nhận định (trang 3) còn có nhiều tiểu mục Đối thoại để
đăng tải các bài phỏng vấn các đối tác có liên quan đến vấn đề mà bài viết đề cập.
Một số tin bài cũng được đưa vào mục Diễn đàn kinh doanh; Cơ hội đầu tư; Đầu tư
chứng khoán; Nhịp cầu đầu tư và rất ít khi có ở mục Đời sống pháp luật, CNTT-
Viễn Thông. Về dung lượng, các tin thường có độ dài từ 100-200 chữ. Bài từ 800-
1000 chữ và thường có kèm ảnh minh họa.
Đầu tư cũng thực hiện một số báo gộp nhân các ngày lễ lớn trong năm như Tết
dương lịch, nguyên đán. Các số gộp có thay đổi về cơ cấu trang, chuyên mục.
Thường các số gộp chỉ để tên chuyên mục chung chung như: Chào xuân 2013; Kỷ
niệm 30/4-1/5. Hình thức các tờ báo gộp thường bắt mắt hơn, cách làm báo hiện đại
53
hơn, ít chữ và bố trí thoáng hơn.
Trên BTT, do là tờ báo chính trị xã hội lại là nhật báo nên các thông tin về
chính trị xã hội hàng ngày được chú trọng hơn. Phía trên cùng trang 1 của báo là
măng séc. Ngay phía dưới là sự kiện trọng đại nhất trong ngày, thường là hoạt động
của lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước. Tiếp xuống là bài đinh của số báo được
thiết kế to nổi bật nhất. Các bài đinh của các trang báo thường được để ở phía bên
tay trái từ trên xuống và có thể có ảnh minh họa đi kèm. Do là tờ báo chính trị xã
hội hàng ngày nên thông tin trên trang nhất về chủ đề TCC DNNN không nhiều.
Báo vẫn ưu tiên các vấn đề dân sinh liên quan trực tiếp đến người dân hơn là bàn
các vẫn đề vĩ mô. Do vậy thông tin về TCC DNNN nếu không gắn với hoạt động
của Đảng, Chính phủ, Quốc hội thì mới có cơ hội xuất hiện trang 1 và tiếp theo là
trang 3 (trang thời sự). Còn các tin thường ở trang 2 (trang tin). Nếu là bài viết thì
đăng ở trang 6-7 (trang kinh tế).
Một số trang BTT đăng tin, bài về TCC DNNN
Trên TBKTSG, thông qua số lượng tin bài về vấn đề nghiên cứu đã thấy được
mức độ quan tâm của tòa soạn TBKTSG đến chủ đề này. Do vậy, cách thức tổ chức
thể hiện cũng được quan tâm đặc biệt. Là báo khổ giấy A4 – khổ thường được xem
là khó trình bày đối với báo, chỉ hợp với Tạp chí, nhưng tờ báo này đã có nhiều
54
sáng tạo, trình bày trên giấy couse mart và in 4 màu. Riêng trang bìa 1 có thể đi
thẳng vào chủ đề kèm ảnh minh họa, cũng có thể chọn ảnh cho bài PR vì mục đích
thương mại, nhưng luôn có Tít với phông chữ cho nổi bật cho bài đinh.
Một số trang bìa 1, TBKTSG đăng thông tin về TCC DNNN
Một số chuyên đề TCC DNNN trên TBKTSG
Các tin bài về TCC DNNN của TBKTSG thương đăng ở các trang: Trang 1
(Lời Ban Biên tập); Trang 8 (Tin trong tuần); Trang 11-14-15 (Sự kiện và vấn đề) –
55
Đây là trang thường được đăng tải nhiều nhất. Thời báo thường xuyên có những
chuyên đề được tổ chức một cách bài bản ở các trang này. Mỗi chuyên đề thường có
3-5 trang, khoảng 3 bài.
Các chuyên đề tiêu biểu như: “Giải pháp TCC DNNN” ngày 9/5/2013 có 2
bài: “Bán DNNN cứu DNNN tại sao không?” Và “Có ai mua cảng biển không” từ
trang 20 đến trang 22.
Bên cạnh các chuyên đề ở mục vấn đề sự kiện các tin bài về DN có thể được
đăngở trang 20-50 (trang tài chính, chứng khoán) với các mục: Cải cách DNNN,
trên đường phát triển.
Trên TCTCDN: Về hình thức có thể nói Tạp chí là tờ kém mềm mại hơn cả so
với các tờ báo được khảo sát. Do là tạp chí khoa học nên việc thiết kế vẫn theo
hướng truyền thống và thường là thiết kế liền 2-3 trang/bài và thường chỉ có 1 ảnh
phụ họa đi kèm.
Một số bìa TCTCDN có chủ đề TCC DNNN
Duy chỉ có trang bìa 1 của Tạp chí thì được in 4 màu bằng giấy couche khá
56
đẹp, thể hiện chủ đề rõ ràng của số báo, và trong đó có không ít bìa mang đậm dấu
ấn “TCC DNNN”. Các bìa này ngoài hình ảnh còn có tít lớn, có thể đó là tít của
riêng một tin bài hoặc chùm bài về TCC DNNN.
Các bài về chủ đề này thường được đăng ở các chuyên mục tin tức sự kiện,
vấn đề hôm nay, nghiên cứu – trao đổi và DN – thị trường. Tạp chí cũng có gộp
một số nhân dịp Tết Nguyên đán. Với các số gộp thường được in màu trên giấy
couse chất lượng tốt. Theo đó, hình thức thể hiện cũng ấn tượng hơn, các chuyên
mục được lược bỏ, và còn tổ chức bàn tròn ghi nhận ý kiến của các chuyên gia,
DN...
Một số trang TCTCDN thông tin TCC DNNN
Dù là tạp chí khoa học, song các bài viết đều được thể hiện một cách khá nhẹ
nhàng (ngoại trừ bài Nghiên cứu khoa học của các học giả), ngôn ngữ không quá
chuyên ngành gây khó hiểu. Và việc giật tít cũng khá ấn tượng: “CPH DNNN:
Định giá đang phá tiến độ”, “Thoái vốn không trốn không chờ”, “Nợ xấu biến mất,
hay biến chất”, “Cổ tức nghìn tỉ: Bỏ quên có chủ ý?”
2.3.1.2. Ảnh và hình họa, biểu đồ
Có thể thấy, việc sử dụng các ngôn ngữ phi văn tự trên mỗi trang báo với
nhiều hình thức như: Biểu đồ, đồ thị, bản đồ, bảng biểu, ảnh, tranh minh họa…
ngày càng đa dạng hơn, sinh động hơn và quan trọng hơn với việc thể hiện thông
tin, đặc biệt là thông tin kinh tế. Theo thạc sĩ Hà Huy Phượng, trong sự độc đáo của
57
thông tin đồ họa có nhiều ưu điểm rõ nét. Nó không chỉ dành riêng cho sách, báo in
và còn sử dụng cả trên truyền hình hoặc báo điện tử trên mạng Internet. Thông tin
bằng đồ họa lợi thế hơn cả chữ viết và hình ảnh chụp. Nhờ ngôn ngữ tạo hình riêng
biệt, thông tin đồ họa còn có khả năng diễn đạt chi tiết, sắp xếp hài hòa có ý đồ về
nội dung và hình thức… Thông tin đồ họa giúp người tiếp nhận thông tin nhanh, dễ
hiểu, dễ nhớ, ấn tượng và đặc biệt tiết kiệm đáng kể diện tích mặt báo. Tuy nhiên,
thông tin phi văn tự chỉ là kênh thông tin phụ của báo chí. Nó chỉ có tác dụng đối
với một số thể loại, một số chủ đề, đề tài nhất định và chỉ phù hợp với một số tờ báo
nhất định và hấp dẫn với một số độc giả nào đó.
Qua 4 tờ báo khảo sát cho thấy, ảnh minh họa được các báo dùng nhiều nhất.
Trong 175 tin bài về chủ đề TCC của các báo có 98 ảnh được dùng, tương đương
56%. Có bài được dùng 2 ảnh kèm. Điều này cũng dễ hiểu vì thực tế có nhiều người
khi cầm tờ báo trên tay ngay lập tức đọc tít, sapo, tiếp đến là xem ảnh có thông tin,
có đẹp không, có gì thu hút không? Cả 4 tờ báo được khảo sát thì hầu như đều rất
ưa dùng ảnh minh họa. Đó có thể là ảnh báo chí, ảnh chân dung, hay đơn giản hơn
là ảnh minh họa về một đề tài cụ thể nào đó. Có tác phẩm ảnh do chính phóng viên,
tác giả viết thực hiện, cũng có ảnh phóng viên trích dẫn nguồn minh họa, có ảnh
mua của Thông tấn xã. Hầu hết các ảnh thời sự (Hội nghị, hội thảo, các cuộc họp
của Quốc hội, Chính phủ); ảnh chân dung các nhà quản lý, chuyên gia, lãnh đạo DN
phù hợp với từng bài viết.
Với BĐT, ngoài ảnh minh họa thì có một số biểu đồ rất đáng chú ý. Báo gần
như cố định có biểu đồ minh họa về các bài đinh ở trang 1.
58
Một số biểu đồ về TTC DNNN trên trang nhất BĐT
Chủ đề TCC DNNN cũng có nhiều biểu đồ thể hiện được sự chuyển biến của
cộng đồng DN trong quá trình thực hiện chủ trương này.
Riêng TBKTSG có ưu điểm nổi trội trong hình thức thể hiện đó là hình họa.
Trong 77 tin bài tin bài về TCC DNNN thì có 13 hình họa. Các hình họa này chủ
yếu do họa sĩ riêng của báo thiết kế căn cứ vào nội dung tin bài. Các hình họa nhìn
rất bắt mắt và tạo được dấu ấn riêng cho tờ báo, đồng thời cũng góp phần thư giản,
giảm áp lực thông tin nặng nề của một tờ báo kinh tế chuyên sâu.
Một số hình ảnh minh họa trên TBKTSG
Tuy nhiên, TBKTSG lại chưa chú trọng đến các ngôn ngữ vi văn tự khác.
Bảng biểu gần như không có, và biểu đồ cũng chỉ có 2/73 tin bài.
2.3.2. Các thể loại báo chí được thể hiện
Thống kê các thể loại báo chí được sử dụng trên 04 tờ báo khảo sát cho kết
59
quả như sau:
Tên ấn phẩm
Tin
Bình luận
Bài phản ánh
Phỏng vấn
Tổng tin bài về TCC DNNN
BTT
BĐT
3 30 8
4 30 31
17,78 68,89
TBKTSG
TCTCDN
Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ %
7 9,09 8 18,6 27
61 79,22 24 58,14 120
2 20 4 8,89 3 3,89 2 4,65 11
1 10 1 2,22 2 2,59 0 0 4
Bài báo khoa học 0 0 1 2,22 4 5,18 8 18,60 13
10 100% 45 100% 77 100% 43 100% 175
Tổng số (số lƣợng)
Bảng 2.3.2: Thống kê các thể loại được 04 báo sử dụng thông tin TCC DNNN
2.3.2.1. Tin
Trên BTT: Vốn là tờ nhật báo hàng đầu tại Việt Nam hiện nay, có thể nói,
Tuổi trẻ sống bằng thể loại tin là chính. Tuy nhiên, do tôn chỉ mục đích của báo chủ
yếu hướng vào các hoạt động dân sinh nên đây là là chủ đề mà báo tương đối “kén”.
Điều này thể hiện rõ ở việc tổng tin bài về đề tài này rất ít, và việc đưa tin cũng rất
vắn tắt. Trong 10 tin bài về TCC DNNN thì có 3 tin là: “Tổ chức lại một số tập
đoàn” [9, (242), tr17]; “TCC hai tập đoàn ngành xây dựng: Giảm gánh nặng cho
nhà nước” [9, (274), tr7]; “VNA CPH ” [10, (19), tr4];
Trên BĐT: Số lượng tin về TCC DNNN xuất hiện nhiều hơn BTT. Đầu tư có
8 tin. Đây là số lượng khá khiêm tốn về đề tài này đối với một tờ báo kinh tế. Tuy
nhiên, Đầu tư không phải là báo ngày, nên tin cũng không phải là thể loại được lựa
chọn số một ở báo. Mặt khác, có rất nhiều tin hàng ngày có thể được cập nhật ở báo
điện tử. Còn trên báo giấy sẽ được thể hiện dạng bài phản ánh thông tin, hoặc bài
tường thuật dài hơn, sâu hơn. Các tin trên BĐT chủ yếu được đăng ở trang 2, trang
tin tức sự kiện hoặc trang DN – doanh nhân.
“Tìm giải pháp TCC DNNN” [7, (127), tr2]; “Vinachem rút khỏi hóa dầu” [7,
60
(140), tr1]; “5 DN lọt vào danh sách hỗ trợ TCC của ADB” [8, (31), tr2]; “Hoàn
thành đề án TCC VNA” [8 (7), tr2]; “Vicem hoàn thiện phương án thực hiện CPH ”
[8, (10), tr2]; “DATC được chủ động TCC DNNN” [8, (86), tr2]
Trên TBKTSG, như trên đã nói do là báo tuần vốn gĩ không xem tin là thế
mạnh, báo chủ yếu chỉ điểm qua các tin về cơ chế chính sách và tiếp tục phân tích
sâu hơn ở các thể loại khác. Lượng tin trên TBKTSG chỉ ở mức 7/77 tổng số tin bài
của báo này về TCC DNNN và chỉ bằng 1/9 lượng bài phản ánh. Các tin trên báo
cũng chỉ khoảng 100-200 chữ.
Một số tin trên báo: “Phân quyền mạnh hơn cho quản lý DN ” [53, (32), tr8];
“Đầu tư ngoài ngành mỗi cơ quan một con số” [53, (34), tr8]; “Nợ xấu DNNN tới
200 nghìn tỷ đồng” [53, (41), tr7]; “Cải cách DNNN vẫn chậm chạp”, [54, (21),
tr8]; “Đẩy nhanh các tiến độ sắp xếp các DN thuộc Vinashin” [54, (30), tr7];
“Vinashin chính thức thoái các vụ kiện quốc tế” [54, (32), tr6]; “Quỹ hỗ trợ sắp xếp
DN đạt hơn 45.000 tỷ đồng” [54, (33), tr6].
Trên TCTCDN, cũng tương tự như TBKTSG, Tạp chí chỉ đưa 8/43 tin bài về
chủ đề này. Cách đưa tin cũng không có nhiều khác biệt, gần như không có tin phát
hiện kiểu độc quyền. Thông tin chủ yếu tập trung vào các quy định mới do cơ quan
chủ quản đưa ra. Vị trí các tin thường ở 4 trang đầu của Tạp chí và được in giấy
couse bốn màu, trong lúc đó các bài ở giữa đều giấy bãi bằng và in hai màu. Các tin
trên Tạp chí là: “Phê duyệt đề án TCC DNNN” [51, (8), tr8]; “Các TĐ, TCT tiết
kiệm 14.000 tỷ đồng” [51, (10), tr5]; “Hoàn thiện dự thảo Luật quản lý, sử dụng vốn
nhà nước đầu tư vào sản xuất kinh doanh” [52, (4), tr2]; “TCC DNNN: Quy định
chung và trách nhiệm riêng” [52, (7), tr2]; “Cục TCDN : Tiếp tục xây dựng các đề
án về TCC DNNN” [52, (7), tr2-3]; “Góp ý vào dự thảo Luật Quản lý, sử dụng vốn
Nhà nước đầu tư vào DN” [52, (7), tr5]; “Ban hành quy chế giám sát tài chính DN”
[52, (7), tr8];
2.3.2.2. Bài phản ánh
Theo tác giả Trần Quang trong giáo trình Các thể loại báo chí chính luận, bài
61
phản ánh được phân thành 03 nhóm lớn: Bài phản ánh thông tin, bài phản ánh phân
tích và bài phản ánh nêu vấn đề. Kết quả khảo sát cho thấy các báo đều ưu chuộng
sử dụng thể loại này. Có tờ sử dụng bài phản ánh chiếm đa số, trong đó nhiều nhất
là bài phản ánh phân tích và nêu vấn đề.
Tên ấn phẩm
Phản ánh phân tích
Phản ánh Thông tin
Phản ánh nêu vấn đề
BTT
BĐT
TBKTSG
TCTCDN
Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ %
3 90 16 51,61 11 18,03 8 33,33 38
1 10 8 25,81 43 70,49 11 45,83 63
0 0 7 22,59 7 11,48 5 20,83 19
Tổng bài phản ánh về TCC DNNN 4 100 31 100 61 100 24 100 120
Tổng số (số lượng)
Bảng 2.3.2.2: Thống kê các loại bài phản ánh về TCC DNNN trên 04 báo
Thứ nhất bài phản ánh thông tin
Đây là thể loại được 04 cơ quan báo chí dùng khá nhiều chiếm 38/120 tổng số
bài phản ánh về TCC DNNN và chỉ sếp 2 sau loại bài phân tích là 63 bài. Các bài
phản ánh thông tin có thể phản ánh thông tin về cơ chế chính sách, cũng có thể về
tình hình cộng đồng DN hay cụ thể tại một DN nào đó. Do các báo được khảo sát
ngoài Tuổi trẻ, không còn tờ nào là nhật báo, do đó để không bị lỗi thời trong thể
loại tin tức, các báo có xu hướng chuyển thành bài phản ánh để cập thông tin sâu
hơn, đầy đủ hơn đối với các nội dung tại cuộc họp, một chủ trương, một cơ chế, hay
một cuộc tổng kết về chương trình, kế hoạch...
Trên BTT, do số lượng chung về chủ đề TCC DNNN không nhiều nên Tuổi
trẻ cũng chỉ có 03 bài phản ánh thông tin về chủ đề này: “Sẽ giảm còn 5-7 tập đoàn
nhà nước” [9, (242), tr3]; “Bàn ba nhóm vấn đề khó, nhạy cảm” [9, (268), tr1-3];
Trên BĐT, nhóm bài này chủ yếu là phản ánh thông tin tại các DN như:
“VNF1 không thiếu tiền TCC” [7, (105), tr9]; “Vinacomin rời sân chơi bảo hiểm”
62
[7, (146), tr6]; “Vinatex dồn dập thoái vốn ngoài ngành” [7 (148), tr6]; “TCC VNE:
Đường còn gập ghềnh” [8, (01), tr8]; “Bật đèn xanh để TCC VNA” [8, (09), tr5];
“Dồn sức TCC DN viễn thông” [8, (15), tr9]; “DN ngành giao thông tự cứu mình
qua TCC” [8, (38), tr10]. Nhìn chung với những bài này chủ yếu cập nhật thông tin
về tình hình TCC tại DN, đồng thời thực hiện chức năng giám sát của báo chí để
phản ánh kịp thời những khó khăn vướng mắc hoặc những chuyển biến tích cực
nhằm cổ vũ, động viên các DN khác làm theo.
Bên cạnh đó, cũng có nhiều bài thông tin về cơ chế chính sách và tình hình
chung của cộng đồng DNNN. Chẳng hạn, ở bài: “Lấp đầy những khoảng trống
pháp lý” [7, (131), tr5], tác giả Bảo Duy cho biết Chính phủ sẽ ban hành Nghị định
mới. Theo đõ sẽ : “Sự rõ ràng về chủ thể, công cụ thực hiện chức năng chủ sở hữu
nhà nước đối với khu vực DNNN sẽ chấm dứt tình trạng không rõ ràng trong thực
hiện các chức năng”. Trước đó, tác giả cũng thông tin thêm về tình hình khoảng
trống pháp lý về lĩnh vực DNNN hiện nay là: “Hiện tại, khu vực này đang thiếu quy
định rõ và cụ thể về giám sát thực hiện các quyền, nghĩa vụ và bảo vệ lợi ích của
chủ sở hữu nhà nước, thiếu các quy định về phương thức và biện pháp hình thành
các quyết định của chủ sở hữu nhà nước… Lý do là, hầu hết các văn bản liên quan
đến hoạt động của DNNN đều dựa trên cơ sở Luật DNNN năm 2003 và Luật DNNN
2005. Nhưng các văn bản luật này hết hiệu lực, nhiều cơ quan quản lý nhà nước và
DNNN vẫn phải vận dụng các văn bản hướng dẫn của Luật DNNN để xử lý các vấn
đề trong thực tế”.
Hay tại bài “DNNN muốn tiếp cận khoản hỗ trợ từ ADB: Phải minh bạch
thông tin” [7, (148), tr6], BĐT cũng “mách nước” cho các DNNN để tiếp cận được
một gói hỗ trợ không hề nhỏ nhằm tận dụng thêm nguồn lực để thực hiện cải cách.
Một số bài báo về nhóm bài này là: “AMC cứu cánh để xử lý nợ tồn” [7, (134),
tr11]; “ADB khuyến cáo trong cải cách DNNN” [8, (43), tr4]; “Thúc đẩy tiến trình
CPH DNNN: Đề xuất loại bỏ một số lĩnh vực” [8, (99), tr5].
Tương tự hai tờ báo trên, TBKTSG và TCTCDN cũng dùng thể loại bài phản
63
ánh thông tin để thông báo các sự kiện được sắp xếp theo đề tài có sự đánh giá các
hiện tượng. Một số tác phẩm thuộc nhóm bài này trên TBKTSG: “DNNN cắt lỗ”
[53, (33), tr19]; “Giải tán bớt tập đoàn” [53, (34), tr9-67]; “Cải cách DNNN: Chấn
chỉnh DNNN bằng luật mới” [53, (42), tr12-13]; “Trục vớt Vinashin” [53, (46),
tr12-13]; “Vẫn được đầu tư ngoài ngành” [53, (46), tr53]; “Nỗ lực lội ngược dòng
của PVFC” [54 (12), tr10-11]; “Một năm bước ra ánh sáng” [54, (18), tr32]; “Đầu
tư ngoài ngành: Vẫn được bật đèn xanh” [54, (26), tr50]; “Nợ xấu các DNNN sắp
được xử lý” [54, (30), tr24]. Trên TCTCDN : “Tăng tốc cuối năm, chú trọng sắp
xếp lại TĐKT” [51, (9), tr2-3]; “TCC DNNN: Các ông lớn nhập cuộc thoái vốn”
[51, (10), tr16-17]; “Hai phương án điều chỉnh lương, thưởng tại DNNN” [51, (10),
tr22]; “Các TĐ, TCT quyết tâm vượt khó” [52, (1), tr11-13]; “Nhiều con nợ khó đòi
được DATC cứu vớt” [52, (1), tr32-33]; “TCC DNNN: Đã chậm lại xin lùi” [52, (7),
tr6-7]; “Một số điểm mới khi đầu tư vốn nhà nước vào DN” [52, (8), tr8-9]; “Nợ
của DNNN không được tính vào nợ công” [52, (8), tr22-23].
Thứ hai bài phản ánh phân tích
Đây thực sự là thể loại thuộc thế mạnh của các báo chuyên ngành kinh tế.
Dạng bài này đòi hỏi phải phân tích và đánh giá nguyên nhân gây ra sự kiện, hiện
tượng được phản ánh trong bài. Với thể loại này, thường được các báo dùng để
phản ánh tiến độ thực trạng triển khai TCC nền kinh tế. Thống kê tại Bảng 4 cho
thấy, BTT có 01 bài, BĐT có 08 bài, TBKTSG có nhiều nhất 43 bài và TCTCDN
có 11 bài. Những bài viết thuộc thể loại này chủ yếu phản ánh sự chậm trễ trong
TCC DNNN; Chất lượng đề án TCC; Tình trạng nợ nần và việc xử lý nợ…
Sự phân tích sẽ góp phần giúp độc giả nhìn nhận vấn đề một cách sâu sắc hơn.
Chẳng hạn, TBKTSG đăng bài: “Còn nhiều việc phải làm” [53, (32), tr12-14], tác
giả Tư Giang đã phân tích: “Việc nhập nhằng về vài trò quản nhà nước và chủ sở
hữu là một trong những tồn tại lớn nhất và dai dẳng nhất. Tuy nhiên, đề án TCC
DNNN đã không đưa ra định hướng hay giải pháp cụ thể nhằm tháo gỡ vấn đề
này”. Do vậy, tác giả phân tích tiếp: „Điều then chốt này chưa làm được thì ý tưởng
64
cử 80 cán bộ xuống giám sát các TĐKT, TCT của Bộ Tài chính là hão huyền, lẫn
cả về thực tế lẫn lý thuyết”. Hay tại tác phẩm: “Sắp xếp lại Vinaphone và
Mobiphone: VNPT khó được hưởng miễn trừ” [7, (133), tr10], sau khi nêu đề xuất
của VNPT trong đề án, tác giả Huyền Anh phân tích: “Theo quy định của Luật
Cạnh tranh, việc cấm tập trung kinh tế có thể được xem xét miễn trừ trong hai
trường hợp. Một là, nếu một hoặc nhiều bên tham gia tập trung kinh tế đang trong
nguy cơ bị giải thể, hoặc lâm vào tình trạng phá sản. Trường hợp miễn trừ, chắc
chắn không được tính đến, vì cả VinaPhone và MobiFone đều đang trong tình trạng
sống khỏe. Theo bảng xếp hạng 1.000 doanh nghiệp nộp thuế thu nhập doanh
nghiệp lớn nhất năm 2012 vừa được công bố, MobiFone đứng thứ 2, trong khi
VNPT đứng thứ 9”...
Các tác phẩm của thể loại này trên các báo như: Trên BTT: “Khó xử ký nợ xấu
nếu chưa phân loại: Cần giảm mạnh DNNN” [9, (256); tr16]. Trên BĐT: “Loại bỏ
kinh tế địa tô” [7, (112), tr5]; “CPH DNNN bó chân vì ôm đồm” [7, (115), tr5];
“Tổng công ty bưu điện VN: có lẽ vẫn phải phụ thuộc VNPT” [7, (149), tr5]. Trên
TBKTSG: “Chưa chạm đến cốt lõi TCC” [53, (32); tr14]; “Cứu ngân sách hay cứu
nền kinh tế” [53, (34), tr10]; “Vì sao chỉ mua nợ DNNN” [53, (40), tr15]; “Tìm lối
ra cho Vinashin” [53, (43), tr9-10]; “Chưa thể hi vọng một cuộc lột xác” [54, (10),
tr17-18]; “Bán DNNN để cứu DNNN, tại sao không” [54, (19), tr20-21]; “Chủ đạo
chỏi lại bình đẳng” [54, (23), tr9]; “Kinh tế Nhà nước hay DNNN là chủ đạo” [54,
(26), tr12]...
Trên TCTCDN: “Xử lý nợ xấu: Nên thực hiện nguyên tắc Hà Nội” [51, (9),
tr18-21]; “Dừng thí điểm tập đoàn: Đâu là nguyên nhân cốt lõi” [51, (10), tr20-21];
“Xử lý nợ gặp với TCC DNNN: Nên phát hành chứng thư bảo lãnh DATC” [51,
(10), tr30-31]; “Chuyển đổi sở hữu thông qua mua bán nợ: Thiếu chiến lược với
nhà đầu tư chiến lược” [51, (12), tr30-31]; “Chứng khoán hóa các khoản nợ gắn với
nhiệm vụ TCC DN ” [52, (3), tr28-29]; “Hậu VAMC: Nợ xấu biến chất hay biến
mất” [52, (4), tr32-33]; “Đầu tư vốn vào DN : Điều đến đâu, chỉnh thế nào” [52,
65
(7), tr4-5]; “VAMC mua nợ xấu: Trả giả hay ép giá” [52, (7), tr20-21]...
Thứ ba bài phản ánh nêu vấn đề
Các báo đã cập nhật được các vấn đề nóng hổi, gai góc và đang vướng làm
chậm tiến trình TCC cũng như hạn chế sự phát triển của khu vực này như: sự bưng
bít thông tin, thiếu minh bạch; thiếu bình đẳng giữa các thành phần kinh tế; nợ của
DNNN và TCC chưa triệt để hay mô hình giám sát, quản lý…
Đây là những vấn đề nhức nhối được báo chí đề cập và được xem là rào cản
thực sự. Đề án TCC cũng nêu rõ là sẽ dần khắc phục tình trạng này. Trên TBKTSG
có bài: “Mô hình nào quản lý tập đoàn” [53, (46); tr52]; “Ai giám sát DNNN?” [53,
(47), tr10]. Vấn đề được nêu trong bài báo là: Việc quản lý nên giao cho chủ sở
hữu, bộ chuyên ngành; bộ tài chính hay một cơ quan độc lập chuyên làm nhiệm vụ
này. Vì tình trạng hiện nay là mỗi bộ, ngành quản lý, giám sát một mảng nhưng khi
xảy ra thất thoát thì không ai chịu trách nhiệm. Đây cũng là một vấn đề được hầu
hết các bài đề cập. BTT không có bài dạng này, còn BĐT có 7 bài; TBKTSG có 5
bài và TCTCDN 5 bài. Một số bài trên BĐT: “Tiền đâu để TCC” [7, (99), tr10];
“Phân vân quản lý DNNN” [7, (137), tr10]; “Không có kịch bản chung khi TCC vốn
DN ” [7, (131), tr5]; “TĐ, TCT nhà nước xin cơ chế thoái vốn” [8, (8), tr1-4]; “Câu
hỏi về tính tuân thủ của DNNN” [8, (10), tr1-3]. Trên TBKTSG: “TCC DNNN: Mò
mẫm” [52, (32), tr11-12]; “Khó tiếp cận số liệu nợ công” [52, (34), tr48]; “Bàn mãi
cũng chỉ bàn chơi” [53, (5), tr10]; “Luật lệ bị phớt lờ” [53, (16), tr20-21]; “Thoái
trào” [53, (35), tr12-13]. Trên TCTCDN: “Minh bạch thông tin về nợ: Xưa như
diễm” [51, (11), tr34-35]; “CPH đang phá tiến độ: Vẫn là xác định giá trị đất” [52,
(3), tr18-19]; “Thoái vốn không trốn, không chờ” [52, (5), tr8-9]; “Mua bán và xử lý
nợ: Nợ tăng, xử lý giảm” [52, (8), tr24-25]
2.3.2.3. Phỏng vấn
Các bài phỏng vấn trên các báo chủ yếu là phỏng vấn một nhân vật chính, còn
chùm phỏng vấn nhóm nhân vật dạng bàn tròn không nhiều. Đối tượng được lựa
chọn phỏng vấn thường là lãnh đạo Bộ, ngành, địa phương, DN và các chuyên gia,
66
nhà nghiên cứu, các nhân vật có uy tín trong lĩnh vực trao đổi.
Tên ấn phẩm
Phỏng vấn chuyên gia
Phỏng vấn lãnh đạo DN
Tổng số bài phỏng vấn
Phỏng vấn nhà quản lý
BTT
BĐT
TBKTSG
TCTCDN
Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ %
2 100 2 50 0 0 0 0 4
0 0 1 25 0 0 2 100 3
0 0 1 25 3 100 0 0 4
2 100 4 100 3 100 2 100 11
Tổng số (số lượng)
Bảng 2.3.2.3: Tổng bài phỏng vấn theo đối tượng được phỏng vấn trên 04 báo
Qua bảng 2.3.2.3 cho thấy, thể loại phỏng vấn không được 04 tờ báo lựa chọn
nhiều. Tuổi trẻ có 02 bài, Đầu tư 04 bài, TBKTSG 3 bài và TCTCDN 02 bài. Một
số báo cúng có trích dẫn ý kiến các nhân vật nhưng để kèm theo một bài viết, nên
tác giả xem đó là việc trích ý kiến làm box, không xếp vào dạng bài phỏng vấn bàn
tròn.
Phỏng vấn nhà quản lý
Đây là đối tượng phỏng vấn được các cơ quan báo chí, phóng viên và bạn đọc
yêu thích. Bởi hơn hết, những thông tin được họ cung cấp luôn là những thông tin
được cập nhật và mang lại sự tin tưởng tuyệt đối về nội dung thông tin. Bên cạnh
đó, thông tin được các nhà quản lý nhà nước cung cấp cũng mang tính định hướng,
giúp bạn đọc hiểu rõ, hiểu đúng về mỗi cơ chế, chính sách từng thời điểm. Những
bài phỏng vấn này cũng chiếm tới khoảng 36,4% tổng số bài phỏng vấn có liên
quan về TCC DNNN trên các báo. Nhiều gương mặt thủ lĩnh các bộ, ngành hoặc
lãnh đạo một số vụ, cục được báo chí lựa chọn phỏng vấn nhiều như: GS. TS
Vương Đình Huệ, Bộ trưởng Bộ Tài chính (thời điểm này); Thống đốc Ngân hàng
Nhà nước Nguyễn Văn Bình; TS Nguyễn Đình Cung, Phó Viện trưởng, Viện
Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương; ông Đặng Quyết Tiến – Phó Cục trưởng
Cục Tài chính DN (bộ Tài chính); ông Phạm Viết Muôn – Phó Chủ nhiệm Văn
67
phòng Chính phủ, Phó trưởng Ban chỉ đạo Đổi mới và Phát triển DN; ông Phạm
Mạnh Thường, Phó Tổng giám đốc Công ty Mua bán Nợ Việt Nam… Có thể nói
đây là những nhà quản lý có thẩm quyền cũng như có chuyên môn và đủ tư cách
phát ngôn về vấn đề TCC DNNN, đảm bảo những thông tin được cung cấp là chính
thống, đáng tin cậy, có sức thuyết phục, trách nhiệm và giá trị pháp lý cao. Chẳng
hạn, bài phỏng vấn ông Phạm Viết Muôn, Phó chủ nhiệm Văn phòng chính phủ,
Thường trực Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển DN trên BTT: “TCC tập đoàn,
DNNN sẽ rõ địa chỉ trách nhiệm” [9, (296), tr7]; “Sẽ giảm mạnh vốn nhà nước tại
DN” [10, (185), tr6] cho thấy: Nội dung vấn đề nêu ra rất rõ ràng thể hiện ngay cả ở
Tít bài. Tương tự trên BĐT cũng có 02 bài phỏng vấn cơ quan quản lý: “Quy định
rõ trách nhiệm chủ sở hữu nhà nước” [10, (134), tr3]; “Tập trung kiểm toán DNNN”
[10, (141), tr3].
Phỏng vấn chuyên gia
Kết quả khảo sát cho thấy, 04 tờ báo chỉ có 03 bài phỏng vấn chuyên gia. Điều
này cũng không quá ngạc nhiên. Bởi thực tế trên các báo, ý kiến của các chuyên gia
có thể đã được thể hiện ở các hình thức khác như trực tiếp tham gia viết bài, hoặc
được phóng viên trích dẫn vào bài. Cũng có những bài được phóng viên trực tiếp
ghi lại toàn bộ buổi nói chuyện của chuyên gia và thể hiện dưới dạng lược ghi như
bài: “Bán DNNN cứu DNNN tại sao không?” [54, (19), tr20-21] do phóng viên
Hồng Phúc ghi lại ý kiến của ông Nguyễn Xuân Thành- Giám đốc Chính sách công,
chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright. Các tác phẩm phỏng vấn trên BĐT:
“Khó đánh giá thông tin DNNN” [7, (142), tr3] với TS Nguyễn Đình Cung -
Viên Nghiên cứu Quản lý Kinh tê Trung ương; Trên TCTCDN có 02 bài: “Giám
sát TCDN: Quan trọng là cơ chế, chính sách” [52, (7), tr10-11]; “Tài chính DN
phải là lĩnh vực đi tắt đón đầu” [8, (8), tr2-3], phỏng vấn ông Phạm Đình Soạn,
nguyên Cục trưởng Cục Tài chính DN – bộ Tài chính.
Phỏng vấn lãnh đạo DN
Cũng như hai loại phỏng vấn trên, số bài thuộc nhóm này không nhiều. Một
68
phần vì ý kiến DN được trích dẫn trong bài hoặc được làm box ý kiến nhỏ. Nhưng
với đối tượng phỏng vấn là lãnh đạo DN sở gĩ không được lựa chọn nhiều vì thường
ít lãnh đạo nói về tình trạng chung hoặc góp ý chuyên sâu vào của vấn đề TCC,
thường là nói trực tiếp tại DN họ. Đối với ý kiến về vấn đề chung, thường nói ít,
vắn tắt chưa đủ độ dài để thể hiện một bài phỏng vấn riêng nên các phóng viên
thường lồng vào bài viết. Đối với vấn đề được trao đổi cụ thể tại DN lại thường nói
về cái tốt, cái tích cực hơn và che dấu cái xấu, cái còn khiếm khuyết… Do vậy, chỉ
còn một số bài phỏng vấn lãnh đạo DN trên các báo như: Trên BĐT, “Vicem sẽ
hoàn tất CPH đúng hẹn” [8, (63), tr12]; Trên TBKTSG: “Tập đoàn chưa mang lại
lợi ích gì cho DN ” [54, (36), tr46]; “Không chỉ làm sạch sổ sách” [54, (16), tr50-
51] Phỏng vấn ông Đoàn Xuân Trường, nguyên chủ tịch HĐQT Công ty CP
Coma18 hay Phỏng vấn ông Phạm Mạnh Thường – Phó tổng giám đốc Công ty
Mua bán Nợ Việt Nam; “Để giảm thiệt hại cho DNNN” [54, (29), tr21] phỏng vấn
Tổng giám đốc Công ty Mua bán Nợ Việt Nam Phạm Thanh Quang.
2.3.2.4. Thể loại khác (Bình luận, bài báo khoa học...)
Bình luận:
Thể loại này không được sử dụng nhiều trên cả bốn tờ báo đối với chủ đề TCC
DNNN. Qua thống kê tại bảng 3 cho thấy, cả 04 tờ báo chỉ sử dụng tổng số 04 bài
bình luận. Trong đó BTT 01 bài “Tái cấu trúc giữa nói và làm” [9, (42), tr1-4] của
tác giả Phạm Duy Nghĩa; ĐT 01 bài “Thấu đáo trách nhiệm sở hữu nhà nước” [7,
(140), tr3]; TBKTSG 02 bài: “Đẩy xuống nước cho tự bơi” [53, (32), tr1]; “Đã thí
điểm, cần tổng kết” [53 (38), tr1];
Bài báo có tính học thuật, khoa học:
Sở gì dùng từ “có tính” bởi các tác phẩm này chưa hẳn mang đầy đủ yêu cầu
của một bài báo khoa học. Một phần, do các nhà khoa học kinh tế đã tham gia viết
báo nhiều nên dần quen với thể loại phản ánh và tác phẩm của họ được thể hiện ở
mức tiệm cận với bài phản ánh. Mặt khác, do các tòa soạn đặt bài thường yêu cầu
69
dung lượng và đề nghị đi thẳng vào vấn đề, bài viết là một “nhát cắt” thay vì một đề
tài nghiên cứu. Do vậy, về dung lượng và tính hàn lâm có thể chưa mang đầy đủ
yếu tố cấu thành một bài báo khoa học hoàn chỉnh.
Tuy số lượng không nhiều nhưng cả 04 tờ báo được khảo sát đều dùng thể loại
bài báo khoa học để đan xen với các bài phản ánh của phóng viên. Tổng 04 tờ báo
có 13 bài báo khoa học. Các bài báo này đều đi vào những vấn đề vĩ mô, hóc búa
vốn được dư luận quan tâm lâu nay, như trên BĐT: “Xác định rõ cơ quan thực hiện
quền chủ sở hữu nhà nước” [7, (127), tr5] tác giả Bùi Văn Dũng – Trưởng Ban Cải
cách phát triển DN CIEM. Việc phân quyền để gắn với trách nhiệm vốn gĩ được
nhắc đến rất nhiều trong quản lý DNNN, tuy nhiên quyền đến đâu và trách nhiệm
thế nào, đến nay vẫn chưa thực sự ngã ngũ. Và bài viết của chuyên gia này phần nào
đi thẳng vấn đề này. 04 bài khác trên TBKTSG: “Tái cấu trúc kinh tế: Bàn dễ, làm
khó” [53, (35), tr14-15] của TS Phạm Đỗ Chí; “Kết thúc thí điểm tập đoàn KTNN:
Cần một ủy ban độc lập” [53, (46), tr10-11] của TS Lê Đăng Doanh; “Vì sao
DNNN khó minh bạch thông tin” [54, (25), tr16-17] của Đinh Tuấn Minh – Phó
trưởng ban Pháp chế VCCI; “Điều lệ mẫu không là chìa khóa vàng” [54, (27),
tr58-59] của Luật gia Vũ Xuân Tiền cũng đều đề cập các vấn đề khó hiện tại nhằm
tăng thêm sức nặng, uy tín cho tờ báo.
Với TCTCDN, do là tạp chí khoa học nên thể loại này được sử dụng nhiều
hơn với 08 tác phẩm. Các tác giả chủ yếu là lãnh đạo Cục Tài chính DN, Bộ Tài
chính và các nghiên cứu sinh ở các trường Đại học: “CPH DNNN: Hoàn thiện cơ
chế, tạo lập lộ trình mới” [51, (8), tr9-10], Ths Nguyễn Duy Long – Cục TCDN;
“Xây dựng chiến lược kinh doanh: Nhìn tư tổng công ty than khoáng sản và thương
mại Hà Tĩnh” [51, (8), tr14-16] tác giả nghiên cứu sinh Lê Thanh Hải; “DNNN –
Mộ số vấn đề, thực trạng và giải pháp” [51, (10), tr12-13-14] của Nguyên Cục
trưởng Cục Tài chính DN Phạm Đình Soạn; “VAMC: Trái phiếu hay giấy nợ” [51,
(6), tr28-29] của Ths Lê Hà Trang; “Xây dựng chiến lượng kinh doanh cho công ty
TNHH MTV Cảng Nghệ tĩnh giai đoạn 2012-2020” [51, (7), tr14-15], Trần Văn
70
Đạt…
Tiểu kết chƣơng 2
Ở chương này, tác giả đã thống kê chi tiết công tác thông tin tuyên truyền của
các báo, từ đó đưa ra, so sánh, đối chiếu và phân tích từ nội dung đến hình thức.
Có thể nói 4 tờ báo được lựa chọn khảo sát đều làm tốt công tác thông tin
tuyên truyền về chủ đề TCC DNNN. Nội dung vừa rộng, bao phủ hết các hoạt động
từ chủ trương chính sách, đến việc đề cập các khó khăn vướng mắc và những bước
chuyển từ cộng đồng DN. Đồng thời, thông tin cũng rất sâu sắc tương xứng với các
tờ báo kinh tế hàng đầu khi có nhiều phân tích về nguyên nhân của sự yếu kém và
đề xuất nhiều giải pháp hay, thiết thực với cơ quan quản lý, cộng đồng doạnh
nghiệp.
Các thể loại báo chí cũng được sử dụng cơ bản từ: tin, bài phản ánh, phỏng
vấn, bình luận, bài báo khoa học…Về hình thức và ngôn ngữ thể hiện, các tờ báo
đều có hình thức khá bắt mắt, thể hiện nhẹ nhàng không quá chuyên môn hóa kinh
tế mà đang được hướng tới đông đảo bạn đọc phổ thông hơn.
Từ sự thống kê và phân tích cụ thể ở trên đã cho ta một dữ liệu quan trọng làm
cơ sở để đưa ra những nhận định và đưa ra những nguyên nhân, hạn chế nhằm tìm
giải pháp để nâng cao chất lượng thông tin tuyên truyền về chủ trương quan trọng
71
này, góp phần thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế và đảm bảo an sinh xã hội.
CHƢƠNG 3: KIẾN NGHỊ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT
LƢỢNG THÔNG TIN VỀ TÁI CƠ CẤU DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚ TRÊN
BÁO CHÍ
3.1. Đánh giá ƣu, nhƣợc điểm thông tin tuyên truyền về tái cơ cấu doanh
nghiệp nhà nƣớc
3.1.1. Mặt tích cực
3.1.1.1. Báo chí kịp thời đưa chính sách tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nƣớc
đi vào cuộc sống
Đăng tải, phổ biến, giải thích đường lối về TCC DNNN của Đảng, nhà nước
và cấp, các ngành cho các tổ chức và các thành viên xã hội biết, hiểu, nhận thức và
hành động trong thực tiễn. Đảng ta trong nhiều văn kiện đã chỉ rõ: Các phương tiện
thông tin đại chúng có nhiệm vụ truyền bá đường lối, chính sách của Đảng, nhà
nước đi sát thực tế, thông tin kịp thời và phân tích sâu sắc những sự kiện mới, phát
hiện và phản ánh trung thực những điển hình tiên tiến, nhiệt tình ủng hộ, cổ vũ
những nhân tố mới; dũng cảm đấu tranh chống những hiện tượng lạc hậu, trì trệ và
mọi biểu hiện tiêu cực khác, đề cập và chỉ ra phương hướng giải quyết những vấn
đề thiết thực của xã hội; xây dựng xã hội lành mạnh, động viên quần chúng tích cực
hoàn thành nhiệm vụ cách mạng. Để giải quyết vấn đề này, một mặt báo chí phải
nhạy cảm, hiểu biết và chủ động tuyên truyền, phân tích, giải thích, bình luận đường
lối, chính sách cho quần chúng biết, mặt khác phải dựa vào nhân dân, trong đó có
các nhà khoa học, nhà kinh tế, nhà hoạt động xã hội, nhà hoạt động văn học, nghệ
thuật để tiến hành công tác đó. Ý kiến, trình độ và uy tín của họ sẽ góp phần tích
cực vào nhiệm vụ quan trọng này.
Kể từ đầu năm 2012 đến nay, Đảng, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách
quan trọng về lĩnh vực DNNN [Phụ lục 1]. Các chính sách này ngay từ lúc dự thảo
đã được báo chí đưa tin để lấy ý kiến các nhà quản lý, học giả, doanh nhân và đông
đảo quần chúng nhân dân. Do vậy, ban soạn thảo đã có điều kiện tiếp thu, chỉnh
72
sửa, loại bỏ những vấn đề không hợp lý như… Do vậy, khi ban hành các cơ chế
chính sách đã đi vào cuộc sống, DN dễ áp dụng và báo chí đã thông tin đầy đủ, kịp
thời các cơ chế chính sách để DN biết, triển khai thực hiện. Bên cạnh đó, báo chí
cũng đăng tải ý kiến chỉ đạo của lãnh đạo Chính phủ, lãnh đạo các bộ ngành trong
các buổi làm việc với các địa phương, DN và trả lời chất vấn tại Quốc hội… Đây
cũng là những thông điệp, định hướng về lĩnh vực này để các đơn vị, DN biết thực
hiện.
3.1.1.2. Báo chí tạo diễn đàn cho người dân, giới chuyên môn, giới khoa
học đóng góp ý kiến để nâng cao hiệu quả tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nƣớc
Bộ trưởng Bộ Tài chính Vương Đình Huệ năm 2012 đã đánh giá: “TCC
DNNN là nhiệm vụ khó nhất trong ba vấn đề chính của TCC nền kinh tế”. Cụ thể,
ông nói: “TCC DNNN là việc làm khó khăn phức tạp, liên quan đến nhiều vấn đề,
quyền lợi của nhiều nhóm lợi ích, DN và toàn xã hội nên đòi hỏi nhiều công sức, vật
chất. Bởi, việc nhận thức đầy đủ và thống nhất của cả hệ thống chính trị với TCC
DN không phải dễ dàng” [51 (1+2), tr6-7].
Do đây là vấn đề khó khăn, phức tạp như vậy, nên việc báo chí tạo diễn đàn
người dân, giới chuyên môn, giới khoa học đóng góp ý kiến để nâng cao hiệu quả
TCC DNNN là rất cần thiết.
Một số hình ảnh về ý kiến chuyên gia, DN trên báo
Thực tế cho thấy, “phong trào” góp ý kiến trên báo chí về chủ đề này khá rầm
rộ bằng nhiều hình thức khác nhau. Đó là những bài báo khoa học của các chuyên
gia, hay trả lời bài phỏng vấn, các ý kiến được trích dẫn trong bài viết; đó là những
73
ý kiến, kiến nghị của lãnh đạo DN. Do đây là báo in nên không đăng tải được nhiều
ý kiến tham gia của người dân. Thế nhưng, một số bài viết về TCC DNNN sau đó
được báo mạng cập nhật và thu hút rất nhiều người vào phản hồi, đưa ra chính kiến.
Tuy nhiên, do TCC DNNN là vấn đề khá vĩ mô, khó nên số người tham gia vào
diễn đàn không lớn như những vấn đề xã hội, dân sinh. Mặt khác, do nội tại cộng
đồng DNNN còn nhiều yếu kém và có cả nhóm lợi ích nên dư luận dễ nảy sinh tiêu
cực, các ý kiến trái chiều còn nhiều, tạo nên bức tranh đa sắc màu để cơ quan chức
năng có thể tham khảo.
Các ý kiến có thể từ việc phân cấp, phân quyền trong quản lý; vấn đề quyền
lợi và trách nhiệm; vấn đề giám sát; lương thưởng hay khó khăn vướng mắc tại DN
trong quá trình thực hiện.
Thông tin trên báo chí còn tạo ra động lực, áp lực cho các nhà lãnh đạo DN và
cơ quan chủ sở hữu, trong việc thấy được trách nhiệm của mình trong việc thúc đẩy
tiến trình TCC.
3.1.1.3. Báo chí tham mưu, góp phần tháo gỡ các vướng mắc trong quá
trình tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nƣớc
Đây là nhiệm vụ quan trọng của báo chí. Điều này cho thấy, báo chí không chỉ
tuyên truyền, động viên và tổ chức quần chúng thực hiện vào thực tế mà còn tham
gia trực tiếp vào việc xây dựng mới, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện đường lối, chính
sách đó. Chúng ta từng chứng kiến các dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội
Đảng, sửa đổi Hiến pháp, các bộ luật, các chính sách mới… đã được công bố công
khai và rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng để lấy ý kiến đóng góp của
cán bộ, đảng viên và nhân dân. Hàng triệu ý kiến chân thành, thẳng thắn, xây dựng
và đầy tinh thần trách nhiệm của nhân dân trên báo chí đã giúp cho Đảng, Nhà nước
hoàn thiện đường lối, chính sách phù hợp với yêu cầu và nguyện vọng của nhân
dân.
Báo chí phản ánh, phân tích kịp thời tình hình thực tế hiện trạng công việc của
các địa phương, cơ sở xản xuất hoặc một vấn đề nào đó trong sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ đất nước. Hoạt động này nhằm cung cấp bức tranh hiện thực sinh động,
74
phong phú, phức tạp của xã hội. Các số liệu, sự kiện, con người, khó khăn, thuận lợi
được báo chí phản ánh khách quan, cụ thể và kịp thời là cơ sở để giúp các cơ quan
lãnh đạo, quản lý nắm bắt nhanh, sát thực tiễn, kịp thời điều chỉnh, bổ sung hoặc
hủy bỏ chính sách không phù hợp. Hoạt động này đòi hỏi báo chí phải năng động,
nhạy bén với thời cuộc, bám sát thực tiễn cuộc sống, luôn có mặt ở những nơi bức
xúc của đời sống xã hội, gần gũi với nhân dân để nắm được tình hình, phát hiện
những vấn đề mới mẻ, có ích để phân tích và phản ánh kịp thời.
Báo chí cùng với nhân dân đề xuất sáng kiến, đưa ra kiến nghị, giải pháp cho
hoạt động quản lý hiệu quả hơn trên cơ sở phân tích sâu sắc, toàn diện và khoa học
các số liệu, giữ liệu cần thiết, khi báo chí đề cập một vấn đề kinh tế - xã hội thì
không chỉ nêu thuận lợi, khó khăn, phê phán mà điều quan trọng hơn là đưa ra được
sáng kiến, giải pháp gì để khắc phục khó khăn đó. Ngay cả những người làm báo
chân chính ở phương tây cũng không đồng tình với việc chỉ nêu cái xấu, miêu tả
thực trạng đen tối, tiêu của của xã hội. Người ta đã đề xướng và đang thực hiện
“một nền báo chí có giải pháp”, tức là báo chí không chỉ phê phán hiện thực mà còn
phải đưa ra giải pháp để khắc phục và cải tạo hiện thực đó. Ngoài ra, báo chí còn
phải dự báo, đoán định trước các nhu cầu, tâm lý, sở thích, quyền lợi và nguyện
vọng của nhân dân; các xu hướng vận động, phát triển của đời sống trong nước và
quốc tế để chủ động, kịp thời đưa ra kế sách ứng phó, đón đầu. Đây là yêu cầu
khách quan của cuộc sống, đồng thời là chức năng mới của báo chí hiện nay, thể
hiện rõ hơn trách nhiệm xã hội và nghĩa vụ công dân của nhà báo. “Những người
viết báo trong quá trình thâm nhập thực tiễn ngoài những bài viết, có thể và cần
thiết tiến hành tập hợp và phân tích tình hình phản ánh ý kiến của nhân dân, nêu
kiến nghị với cơ quan lãnh đạo của Đảng và Nhà nước ở các cấp, đồng thời phản
ánh những mô hình, điển hình làm tốt trong nhân dân về các lĩnh vực để nhân rộng
ra”. (Nguyễn Văn Linh. Báo Nhân dân ngày 12/3/1991).
Soi vào quá trình TCC DNNN, báo chí thực đã chuyển tải nhiều ý kiến, góp ý
thực sự đắt giá tạo kênh tham thảo hữu ích cho cơ quan quản lý nhà nước. Ngay từ
ngày chắp bút xây dựng Đề án TCC DNNN, trên các báo đã xuất hiện nhiều ý kiến
75
khác nhau: Nào là cần phải tư nhân hóa tất cả DNNN; nào là cần minh bạch thông
tin; cần bình đẳng các thành phần hình kinh tế; Cần chấm dứt bảo hộ DNNN… Về
sau, Đề án được ban hành, đã có ghi nhận một số ý kiến từ những bài báo đó, chẳng
hạn, đề án đã tạo lập được một lộ trình CPH cụ thể cho các DN; có những yêu cầu
bắt buộc về công bố thông tin, và nhà nước không trả nợ thay DN… Trước lúc ban
hành mỗi cơ chế, chính sách ban soạn thảo đều có báo cáo giải trình về việc tiếp thu
ý kiến đóng góp của các cơ quan, tổ chức,DN… Đó là những sự tham mưu, góp ý
kịp thời để cùng cơ quan điều hành vượt qua khó khăn, vướng mắc.
Một điểm nữa đáng chú ý như trên đã đề cập là do DNNN còn nhiều yếu kém
nên có nhiều ý kiến khá tiêu cực đòi xóa bỏ toàn bộ DNNN… Trước những thông
tin này, báo chí đã thể hiện được vai trò của mình thông tin một cách chính thống,
có định hướng; giúp cơ quan nhà nước thông qua báo chí thông tin lại, giải thích,
định hướng để Đảng hiểu dân, dân tin Đảng, tin tưởng vào chủ trương cùng nhau
thực hiện.
3.1.2. Mặt hạn chế
“Đánh giá hiệu quả của DNNN phải công bằng, nhìn thẳng vào ưu, khuyết
điểm thay vì chỉ nhìn thấy mặt trái, không thể nói tất cả DNNN là ăn hại” - Thủ
tướng Nguyễn Tấn Dũng phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị 10 năm sắp xếp đổi mới
DNNN, [51, (1+2), tr4].
Tuy nhiên, qua các báo nói chung và 04 tờ báo được khảo sát nói riêng cho
thấy, một số bài báo vẫn chưa thực sự đảm bảo được điều này.
3.1.2.1. Báo chí phản ánh mặt trái nhiều, mặt ưu điểm ít
Đánh giá trên của Thủ tướng được đưa ra sau khi nhận xét về thông tin trên
báo chí vốn đề cập đến ý kiến của một số chuyên gia cho rằng: Nên bán tất cả vốn
nhà nước tại DN, thậm chí bán bất cứ giá nào vì DNNN hoạt động không hiệu quả.
Ông Đặng Quyết Tiến, Phó cục trưởng Cục Tài chính DN kiêm Tổng Biên tập
TCTCDN cũng nhận xét: “Có khi báo chí đưa tin thiếu kiểm chứng, có thể thông tin
đó đúng tại một DN, một con người cụ thể song đó không phải là tình trạng chung”
76
[Phụ lục 3.2.2].
Qua khảo sát trên 04 tờ báo thì số lượng bài đề cập các vấn đề tiêu cực của
DNNN như: Chấp hành pháp luật kém, quản trị yếu, lợi ích nhóm, chậm chuyển
đổi… thường xuất hiện nhiều hơn các vấn đề tích cực. Chỉ tính riêng chủ đề nợ nần
của DNNN đã chiếm số lượng tin bài khá lớn. TBKTSG có 14/77 viết về về chủ đề
nợ DNNN, chưa kể có khá nhiều bài viết dạng viết về sự chậm trễ, chấp hành kém,
quản lý lỏng lẻo… ; TCTCDN có 9/43 bài về chủ đề nợ (tất nhiên không phải bài
nào về chủ đề này cũng là tiêu cực).
Phát biểu của Chủ tịch HĐQT Ngân hàng Đầu tư Phát triển Việt Nam –
BIDV, Trần Bắc Hà tại Hội nghị triển khai nhiệm vụ TCC DNNN giai đoạn 2014-
2015 (21/02/2014) rất đáng chú ý: “Tôi còn nhớ năm ngoái chúng tôi đã làm được
nhiều việc nhưng chỉ vì một vài TĐ, TCT có hoạt động yếu kém mà cuối cùng thì cứ
bị đánh hết, tràn lan và đi đâu cũng bị coi như “vi trùng”.Chúng tôi thấy rất
buồn!” [32]. Ông Hà nói tiếp: Báo chí cũng là của Nhà nước nhưng lại toàn đi nói
xấu DNNN.
Ông Hà đề xuất: “Về vai trò của DNNN, Chính Phủ đánh giá đúng, Quốc hội
cần phải ghi nhận, đồng thuận đánh giá, tránh tình trạng do một số trường hợp vi
phạm thì quy chụp cả hệ thống. Tất nhiên chúng ta không thể hoàn hảo được nhưng
ai làm chưa đúng thì phải sửa và cái đúng thì phải ghi nhận”[32].
Ông Bùi Đức Hải- Phó Tổng Biên tập BĐT cũng thừa nhận: “Điểm khiến tôi
chưa thực sự hài lòng là dường như những tồn tại trong hoạt động TCC DNNN
được đưa đậm nét hơn những điều làm được" [Phụ lục 3.4.4].
Trong lúc đó, các báo thông tin không nhiều về những kinh nghiệm quý, bài
học hay để đẩy nhanh TCC, hoặc chuyển biến thực sự tại các DNNN sau TCC.
Chẳng hạn những bài cổ vũ như thế này không nhiều: “DN Ngành Giao thông tự
cứu mình qua TCC” [8, (38), 10]; trong đó, tác giả dẫn chứng số liệu cho thấy, sau
CPH , các DN mang lại lợi nhuận cao hơn, điều này là minh chứng cho sự hiệu quả
của chủ trương TCC DNNN và khiến các DN không được trì hoãn. Hay trên
77
TCTCDN có tin: “Các TĐ, TCT tiết kiệm 14.000 tỷ đồng” [8, (10), tr5]. Thế nhưng,
điều đáng tiếc là không có bài nào của các báo được khảo sát viết về bài học quý
trong sự tiết kiệm của một DN cụ thể, các cá nhân có sáng kiến mang lại tiết kiệm
đó để nhân rộng điển hình.
Về nguyên nhân của tình trạng này, ông Hải phân tích: “Có một phần lý do là
tồn tại còn quá lớn và cần phải được cải thiện nhanh, mà tiếng nói từ truyền thông
có sức nặng đáng kể, nhưng những bài học thành công có lẽ cũng cần phải được đề
cập một cách đầy đủ. Trong quá trình các DN đang vào giai đoạn rốt ráo thực hiện
các phương án tái cấu, bài học thành công cũng cần như bài học thất bại. Đây là
điều mà BĐT và nhiều báo khác chưa thực sự coi trọng” [Phụ lục 3.4.4].
3.1.2.2. Một số thông tin báo chí thể hiện sự nóng vội thái quá, chưa đúng
trọng tâm
Sự chệch chuẩn của thông tin trên báo chí về TCC DNNN chủ yếu do nóng
vội theo trào lưu cần đẩy nhanh, CPH gấp…
Nhà báo Hoàng Tư Giang TBKTSG cho biết: “Quan điểm của Ban Biên tập
TBKTSG rất rõ ràng là: Ủng hộ, thúc đẩy, và kêu gọi đẩy nhanh CPH , thoái vốn
nhà nước để tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân phát triển” [Phụ lục 3.3]
Đây là quan điểm không sai đường lối chủ trương của Đảng, Nhà nước. Tuy
nhiên, do áp đặt quan điểm này từ đầu nên có trường hợp không thuận lợi cho việc
thoái vốn, CPH vẫn kêu gọi nhanh chóng bán vốn, thậm chí bán lỗ, bán cho đối thủ
là DN nước ngoài, có thể đó là đối thủ chính của DN Việt. Từ đây có thể gây thất
thoát vốn nhà nước, mất thương hiệu Việt, DN bị thâu tóm, thực tế đã có những
thương hiệu Việt như: Nước ngọt Tribeco, bộ giặt Daso bị thâu tóm mất thương
hiệu vĩnh viễn…
Trong lúc đó, Thủ tướng đã chỉ đạo: “Sắp xếp DNNN phải đảm bảo nâng cao
hiệu quả hoạt động, giữ được vai trò chủ đạo đối với nền kinh tế. Phải kiên định
điều này, không thể tư nhân hóa hết mọi thứ” – Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng phát
biểu chỉ đạo tại Hội nghị 10 năm sắp xếp đổi mới DNNN, [51, (1+2), tr4].
Nhận xét về nhược điểm của báo chí nói chung khi thông tin về TCC DNNN,
78
ông Đặng Quyết Tiến – Phó Cục trưởng kiêm Tổng Biên tập TCTCDN nhận xét:
“Chưa tập trung nêu và phân tích rõ nguyên nhân, chỉ ra được đâu là nguyên nhân
khiến việc TCC bị chậm. Hầu hết, báo chí mới đưa tin mang tính “chụp lại hình
ảnh”, biểu hiện bên ngoài. Gốc rễ vấn đề ở đây của việc TCC, CPH bị chậm đó là
do người đứng đầu DN. Trong lúc không ít báo đều nói theo tiếng nói DN là do cơ
chế chưa thông” [Phụ lục 3.2.1].
Ông Tiến phân tích: Tính chủ động của lãnh đạo DN lẽ ra phải thay đổi để đáp
ứng yêu cầu mới của nền kinh tế. Tuy nhiên, nhiều lãnh đạo DN vẫn ở trên hào
quang đạt được của thời gian trước, chưa muốn CPH. Đến khi chiến lược giai đoạn
2011-2015 đưa ra thì mất 3 năm từ 2011-2013 loay hoay thông tin theo tiếng nói
của DN là cơ chế chưa thông, thiếu cơ chế, do cơ quan quản lý nhà nước chưa ban
hành cơ chế…. Trong khi đó vẫn với cơ chế đó nhưng ở những bộ, ngành DN có
người đứng đầu quyết liệt thì vẫn thực hiện CPH tốt. Ví dụ ở Bộ Giao thông Vận
tải, ở Tập đoàn Than khoáng sản Việt Nam. Mãi đến khi Thủ tướng Chính phủ chỉ
đạo quyết liệt và khẳng định gắn trách nhiệm người đứng đầu DN vào TCC thì báo
chí mới vào cuộc quyết liệt, thúc đẩy được trách nhiệm người đứng đầu. Do vậy,
tình trạng này đã từng bước được khắc phục. Một số tác phẩm trên BĐT như: “Tái
cấu trúc DNNN phải bắt đầu từ lãnh đạo cao nhất” [7, (129), tr10]. Bài báo nêu rõ:
“Việc tái cấu trúc phải bắt nguồn từ lãnh đạo cao nhất của DN, tức là, tổng giám
đốc hay chủ tịch hội đồng thành viên của DNNN phải quyết tâm làm và xem đây là
nhiệm vụ sống còn của DN”. Đây thực sự là thông tin có giá trị, để DN, dư luận
nhìn trúng vấn đề.
Về chủ đề thoái vốn đầu tư trái ngành, khi Chính phủ chủ trương đẩy mạnh
thoái vốn, nhiều thông tin trên báo chí cho rằng thiếu cơ chế để thoái vốn dưới
mệnh giá và viện dẫn rất nhiều ý kiến của DN. Trên BĐT: “TCC tập đoàn, tổng
công ty nhà nước: Xin cơ chế thoái vốn” [8, (8), tr5] tác giả bài báo trích dẫn ý kiến
của ông Nguyễn Thành Phương, Chủ tịch HĐQT Tổng công ty cổ phần Xuất nhập
khẩu và xây dựng Việt Nam (Vinaconex): “Giả sử giá trị sổ sách là 17, nhưng thị
trường chỉ chấp nhận mua với giá 7 - 8 thì có bán không? Hiện việc thoái vốn rất
79
khó nếu dựa trên giá trị sổ sách”.
Hay trên TBKTSG, “Còn nhiều việc phải làm” [54, (32), tr11-12] của tác giả
Giang Anh cũng phản ánh tình trạng này: “Quy định thoái vốn theo nguyên tắc thị
trường mâu thuẫn với yêu cầu bảo toàn vốn, đặc biệt trong bối cảnh thị trường
chứng khoán, bất động sản suy giảm nghiêm trọng và chưa biết bao giờ hồi phục…
Phó Tổng giám đốc EVN Đinh Quang Tri nói thẳng: Nếu thoái vốn mà có thể bị
truy tố, phạt tù, thì không một lãnh đạo DNNN nhà dám quyết định thoái vốn”
Theo ông Đặng Quyết Tiến: “Thực ra các cơ chế hiện hành từ cơ chế quản lý
vốn nhà nước, đến cơ chế CPH đều đã có quy định việc thoái vốn, trong đó đã đề
cập trường hợp giá thị trường thấp hơn giá trị trị sổ sách thì quy trình như thế nào,
ai là người quyết định... Nên báo chí đưa tin là cơ chế thiếu, cơ chế chưa thông là
không đúng. Nhiều trường hợp áp dụng cơ chế đó vẫn thoái vốn được như DN
ngành Giao Thông, hay ở Tập đoàn Than Khoáng sản Việt Nam” [Phụ lục 3.2.1].
“Giá như, các cơ quan báo chí đăng tải sớm và nêu được: Cơ chế thoái vốn đã
có nhưng rải rác ở các văn bản khác nhau, DN khó tiếp cận. Kiến nghị Chính phủ
cần hệ thống một cách khoa học và sửa đổi những bất cập, đồng thời báo chí phải
đăng tải hướng dẫn cụ thể cho DN... Thì chúng tôi, cơ quan quản lý Nhà nước đã
sớm tham mưu để Chính phủ ban hành Nghị quyết 15/NĐ-CP và Quyết định
51/2014/NĐ-CP sớm hơn, giúp DN thực hiện dễ hơn.”[Phụ lục 3.2.2]
Thông tin trên báo chí phải đúng, đủ, chuẩn xác định hướng chủ trương, mục
tiêu của Đảng và nhà nước. Đảng và Chỉnh phủ luôn nhất quán: “việc TCC DNNN,
trọng tâm là CPH nhằm mục đích nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nhà nước hay nói
cách khác là đồng vốn của dân tại các DN, khơi thông nguồn lực trong xã hội, thúc
đẩy kinh tế dân doanh, các thành phần kinh tế khác”.
Việc đẩy nhanh CPH, thoái vốn là cũng nhằm mục tiêu như vậy, nhưng có vấn
đề cần lưu ý là đây là bán đồng vốn của người dân, mà Nhà nước được trao quyền
quản lý, thì không thể bán bằng mọi giá được mà phải bán đúng giá trị, đúng thị
trường, đảm bảo tránh sự lợi dụng, tranh thủ việc bán này để mua rẻ, chiếm đoạt tài
sản nhân dân. Việc bán vốn đó phải công khai minh bạch, và phải phân biệt chỉ bán
80
ở lĩnh vực thành phần kinh tế khác làm được, sẵn sàng tiếp nhận. Còn nếu ở lĩnh
vực mà các thành phần kinh tế khác không làm được, hoặc chưa sẵn sàng làm thì vô
hình trung sẽ đẩy lĩnh vực kinh tế đó thành khoảng trống, không có ai quản lý dẫn
đến chất lượng phục vụ người dân sẽ xuống. Ví dụ, lĩnh vực hạ tầng giao thông chi
phí lớn, hay lĩnh vực bảo đảm an sinh xã hội...Báo chí phải sáng suốt để tuyên
truyền để đông đảo nhân dân ủng hộ.
Quan điểm của Chính phủ và các Bộ ngành không phải CPH là bán bằng mọi
giá và việc tìm cổ đông chiến lược cần có thời gian. Thực tế CPH một số công ty
vật tư nông nghiệp địa phương thời gian qua cho thấy, khi nhà đầu cơ mua cổ phần
sẽ không giữ lại ngành nghề kinh doanh chính của DN, đằng sau những đơn vị này
là những lợi ích khác như nguồn lực đất đai, cơ sở hạ tầng. Thay vì cung cấp phân
bón, thuốc trừ sâu cho người nông dân họ chuyển sang kinh doanh thương mại dẫn
đến địa phương không thể chỉ đạo. Khi đã CPH, DN hoạt động theo Luật DN nên
ngành nghề kinh doanh nào hiệu quả thì họ làm. Điều này cho thấy, người nông dân
không được hưởng lợi từ công tác này, để khắc phục hậu quả, các địa phương lại
thành lập các trung tâm khuyến nông cung cấp vật tư cho nông dân.
Đối với DN nhỏ, tác động không nhiều đến an ninh – quốc phòng, việc bán cổ
phần chi phối của nhà nước sẽ không phải là vấn đề lớn. Nhưng đối với DN kinh
doanh xăng dầu, hay hàng không có ảnh hưởng đến nền kinh tế, nếu nhà đầu tư
không phục vụ nhân dân tốt như mong muốn của Chính phủ có nghĩa là CPH thất
bại. Do vậy, mục tiêu CPH các tập đoàn, tổng công ty này cần thận trọng. Trước
tiên, DN phải chuyển sang mô hình công ty cổ phần. Khi đó, việc tìm cổ đông chiến
lược do hội đồng quản trị, đại hội đồng cổ đông quyết định. Giá bán cổ phần sẽ thực
hiện theo thị trường và theo Luật chứng khoán. Làm như vậy việc bán cổ phần lần 2
sẽ dễ hơn mô hình 1 chủ.
Việc CPH của Tổng Công ty Hàng Không Việt Nam (Vietnam Airline) có
khía cạnh tích cực là vốn nhà nước không bán ào ào, vấn đề ở đây không phải là
thiếu vốn. Nếu bán vì tiền, các nhà đầu tư mạo hiểm, đầu cơ sẽ tìm mọi cách để mua
81
nhưng mục tiêu của CPH là tìm cổ đông chiến lược. Cổ đông chiến lược phải là
người bạn đồng hành cùng DN, chứ không phải đối thủ cạnh tranh. Nếu Vietnam
Airline không có sự sàng lọc để chọn cổ đông chiến lược, các đối thủ sẽ sẵn sàng
mua cổ phần, xóa thương hiệu của DN trên thị trường. Do vậy, việc chọn cổ đông
chiến lược phải rất thận trọng, để tìm đúng bạn đồng hành.
Điển hình như năm 2013, Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam (Petrolimex) chỉ bán
5% nhưng hiện DN này đã tìm được cổ đông chiến lược là 1 tập đoàn tư nhân JX
của Nhật Bản. Đặc biệt, sau 02 năm nghiên cứu, tập đoàn này muốn mua tới 30% cổ
phần của Petrolimex. Nghĩa là họ muốn mua với mức có thể điều hành được DN.
Đây là cả quá trình dẫn đến sự thay đổi về “chất” của DN. Trong đó bản thân DN
phải thay đổi quản trị, minh bạch thông tin. Đồng thời, phải thay đổi cách thức mời
cổ đông chiến lược. DN cần trí tuệ, công nghệ phải tự tìm hiểu đối tác, có khi phải
đến tận nơi giới thiệu, chào bán cổ phần. CPH không phải như “cô gái ngủ trong
rừng” nhà đầu tư tự tìm đến.
Việc bán ít cổ phần của Tổng công ty Công nghiệp Ô tô Việt Nam
(Vinamotor) 1 năm trước cũng vậy. Đây không thể xem là thất bại, bởi sau khi thực
hiện bán một phần vốn nhà nước, DN thấy được thị trường thiếu gì và đã có những
điều chỉnh phù hợp. Trên cơ sở đó, tạo tiền đề để 1 năm sau cho việc bán bước 2
thành công. Sở dĩ, cổ phần của nhà nước tại DN này được bán hết, vì hiện nay đã có
một số DN kinh doanh trong lĩnh vực này làm tốt hơn như Trường Hải. Nhưng nếu
chưa có DN đứng đầu, vẫn cần có một đơn vị cung cấp ô tô như Vinamotor thì rõ
ràng phải cân nhắc.
Như vậy, với mục tiêu giảm tỷ lệ vốn nhà nước, bán đạt kế hoạch theo phương
án đã được Chính phủ duyệt, nhiệm vụ của Ban chỉ đạo CPH không chỉ là chuyển
đổi thành công ty cổ phần. Đơn vị này phải tiếp tục thực hiện các bước tiếp theo để
đảm bảo tỷ lệ vốn nhà nước giảm. Đồng thời, tìm được nhà đầu tư để thay đổi được
quản trị, chất lượng dịch vụ của DN. Còn những DNNN không cần nắm giữ cổ
82
phần chi phối sẽ bán hết, thu vốn về để đầu tư vào những lĩnh vực trọng yếu, nhà
nước phải làm, khai thông nguồn lực cho người dân, các thành phần kinh tế ngoài
nhà nước tiếp nhận, để thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh.
“Báo chí là công cụ cách mạng phải làm rõ được điều đó, còn thông tin trái
với quan điểm, chủ trương rõ ràng là chệch chuẩn”- ông Tiến nhận định.
3.1.2.3. Chưa chú trọng tổ chức tin bài mang tính chỉ dẫn và thông tin cụ
thể tại doanh nghiệp
TCC DNNN kể từ khi dự thảo cho đến khi chính thức được phê duyệt đã có
rất nhiều các văn bản, chính sách pháp luật liên quan được ban hành. Trong 02 năm
2012 và 2013, đã có 31 văn bản mới (Nghị định, Quyết định, Thông tư) được ban
hành (Phụ lục 1.1), chưa kể đến các văn bản đang dự thảo, các văn bản sự vụ cụ thể
khác, cũng như văn bản liên bộ, văn bản các bộ khác trong vấn đề triển khai TCC
DNNN.
Vì là chính sách mới, nên các văn bản chính sách mới liên quan đến vấn đề
này cũng là một trong những thông tin mà đông đảo bạn đọc là giới nghiệp nhân,
doanh nghiên cứu, giới học sinh sinh viên và cán bộ công nhân viên chức quan tâm,
tìm hiểu.
Một vấn đề đáng lưu tâm đó là thoái vốn đầu tư trái ngành, như trên đã nói,
trong lúc DN đều kêu vướng lẽ ra các cơ quan báo chí nên đăng dạng tư vấn, hướng
dẫn: Trong đó đã đề cập trường hợp giá thị trường thấp hơn giá trị trị sổ sách thì
quy trình như thế nào? Ai là người quyết định?... Thế nhưng, báo chí đã chưa làm
tốt việc đó.
Từ đó cho thấy, cùng với việc đưa thông tin chung, đưa thông tin mang tính
phân tích, diễn giải, thì các báo cũng nên phát huy lợi thế, tổ chức khai thác và giới
thiệu chỉ dẫn cho độc giả các cách thức tiếp cận thông tin văn bản mới một cách dễ
dàng thuận tiện, từ đó mở rộng thêm khả năng phục vụ công chúng, thu hút thêm
độc giả cho mình.
Đồng thời, để phát huy uy tín của mình, các cơ quan báo chí cần mở các
chuyên mục hỏi đáp về TCC, hay giải thích một số thuật ngữ mới về TCC.
83
3.1.2.4. Thiếu thông tin thực sự hấp dẫn
Nhận xét hạn chế trên báo mình và các cơ quan báo chí nói chung về chủ đề
TCC DNNN, Nhà báo Hoàng Tư Giang - TBKTSG cho rằng: “Không có nhiều
thông tin thực sự hấp dẫn, thu hút bạn đọc. Chẳng hạn, không có mấy tin bài về
việc một số nhân vật giàu lên một cách bất thường nhờ “lộc” từ CPH DN” [Phụ lục
3.3.2]. Ông Giang phân tích tiếp: Bên cạnh đó, báo chí không đưa được thông tin
“đắt” về một DN cụ thể, chẳng hạn như: Tập đoàn Dệt may Việt Nam (Vinatex) sắp
CPH, vậy DN này có đất nhiều ở vị trí vàng không? Điều này không những bạn đọc
mà cả những nhà đầu tư mới thực sự quan tâm.
Nhà báo Lê Thanh – BTT cũng nhận xét: “Vấn đề cốt yếu nhất là thông tin tờ
báo phải đem đến cái mới, hấp dẫn bạn đọc. Nhưng hầu hết các báo nói chung và
Tuổi trẻ nói riêng chưa làm được. Ví dụ, bạn đọc rất thích thông tin cụ thể như tập
đoàn A, B định giá trị DN thiếu hàng ngàn tỷ đồng… trong quá trình CPH , nhưng
các báo chưa đáp ứng được”.[Phụ lục 3.6.5]
Qua khảo sát cho thấy, với thông tin chỉ đạo định hướng TCC DNNN thì Tuổi
trẻ đưa rất ngắn, chỉ là mang tính chất thông tin, không có những tuyến bài dài về
chủ đề này. Tuổi trẻ thường đưa thông tin thời sự như CPH của Vinatex, Vietnam
Airline… hay kế hoạch phát hành cổ phần lần đầu ra công chúng của BIDV, Tổng
công ty thép… Thông tin về hạn chế khi triển khai quá trình CPH, thoái vốn nhà
nước mà các Tập đoàn tổng công ty thực hiện chậm hoặc chưa đúng với chỉ đạo của
Chính phủ. Số lượng tin bài TCC DNNN của Tuổi trẻ cũng rất ít, trong 01 năm
khảo sát, Tuổi trẻ chỉ có 10/22.239 tin bài về TCC DNNN, chiếm khoảng 0,04%.
Đây là một tỷ lệ rất nhỏ đối với một chủ trương lớn như TCC DNNN, cứ 35,3 số
báo mới có một tin bài về vấn đề này.
“Nhiều thông tin TCC DNNN trên báo chí nói chung thường chỉ phán ánh,
thông báo hoặc cao hơn một chút là phản biện của các chuyên gia chứ chưa có ý
kiến, phản hồi của các cơ quan chức năng” [Phụ lục 3.6]. Do vậy, bạn đọc chưa
84
thỏa mãn và chưa có nhu cầu theo dõi thông tin đến cùng.
Nhà báo Tạ Thị Thu Hằng – TCTCDN cũng chia sẻ: “Do đặc thù là tạp chí
khoa học, 1 số/tháng nên tính thời sự của thông tin chưa cao. Cùng với đó các
thông tin hầu như chỉ mang tinh chất một chiều, phản ánh quan điểm của các nhà
hoạch định chính sách, chưa có những bài viết sâu phản ánh thực tế TCC tại DN.
Ngoài ra, hình thức trình bày còn theo khuôn mẫu, chưa thực sự bắt mắt”.
Một điểm chung của cả mấy tờ báo còn thiếu nữa là việc thiếu vắng thể loại
phóng sự điều tra về chủ đề TCC DNNN. Điều này có thể dễ hiểu với TCTCDN
hay TBKTSG bởi báo tháng báo tuần không thực sự thích hợp. Tuy nhiên với BĐT
và nhất là BTT thì rất thích hợp. Bởi thực tế cho thấy thời gian qua bộc lộ quá nhiều
điểm yếu kém, liên quan đến tham ô, thất thoát vốn nhà nước, gây lãng phí ở một số
DNNN. Với thực trạng yếu kém như thời gian qua và pháp luật vẫn chưa hoàn
chỉnh thì các hành vi tiêu cực nảy sinh tại các DNNN chắc chắn vẫn chưa được phát
hiện hết. Đây chính là thể loại thực sự cần báo chí dấn thân hơn, để qua đó giúp bạn
đọc có thêm thông tin và khẳng định uy tín của tờ báo, góp phần vào công tác chống
tham nhũng của Đảng và nhà nước.
3.2. Nguyên nhân của những hạn chế
3.2.1. Nguyên nhân khách quan
3.2.1.1. Thiếu thông tin
Thiếu thông tin ở khối DNNN là chuyện đã được đề cập từ lâu nay. Ngay cả
những bài báo thuộc đối tượng khảo sát của đề tài cũng thể hiện rõ điều đó. Trên
BĐT: “Khó đánh giá Thông tin DNNN” [7, (142), tr3]; “DNNN muốn tiếp nhận
khoản hỗ trợ từ ADB: Phải minh bạch thông tin” [7, (148), tr6]; Trên TBKTSG:
“Đầu tư ngoài ngành mỗi cơ quan một con số” [7, (34), tr3]; “Khó tiếp cận số liệu
nợ công” [7, (34), tr48]; “Vì sao DNNN khó minh bạch thông tin” [8, (25), tr16-17];
“Có ép được DNNN minh bạch thông tin” [8, (28), tr18-19]; Trên TCTCDN :
“Minh bạch thông tin về nợ: Xưa như diễm” [51, (11), tr34-35]… Việc thiếu minh
bạch thông tin về DNNN vốn có nhiều nguyên nhân. Ở khía cạnh tích cực người ta
85
giải thích là: Liên quan an ninh quốc phòng, bí mật quốc gia, sợ lộ bí mật kinh
doanh của DN. Ở chiều ngược lại nhiều người cho rằng do có lợi ích nhóm nên
bưng bít thông tin, tù mù để trục lợi…
Đây được xem là một nguyên nhân căn bản khiến báo chí thiếu đi những
thông tin hấp dẫn, độc đáo.
Ông Bùi Đức Hải nói: “Các DNNN trong giai đoạn TCC hiện nay phần lớn là
các DN quy mô lớn, nên có những phức tạp trong thực hiện TCC. Việc tiếp cận
thông tin không dễ”, [Phụ lục 3.4.5].
Đồng tình quan điểm này, Nhà báo Hoàng Tư Giang – TBKTSG cho biết:
“Nguyên nhân chính là việc khó tiếp cận thông tin. Chẳng hạn, một sự kiện lớn về
DNNN thường do Ban Đổi mới sắp xếp DN (thuộc Văn phòng Chính phủ) đứng ra
tổ chức. Và Ban này thông thường cũng chỉ mời 3-5 báo. Còn lại các phóng viên
báo khác không được vào, không có cơ hội tiếp cận thông tin thì không thể viết hay
được” [Phụ lục 3.3.3]. Với những thông tin cụ thể từ DN, ông Giang cho biết thêm:
“Đây là mối chằng chịt thông tin, mù mờ khó tiếp cận. Có tiếp cận được cũng
không kiểm chứng được nên không dám đăng”.
Nhà báo Tạ Thị Thu Hằng cũng chia sẻ: “Hiện tôi được giao nhiệm vụ theo
dõi mảng nợ DNNN trong quá trình TCC, khó khăn lớn nhất là tiếp cận với DN. Kể
từ khi triển khai Quyết định 929/2012/QĐ-TTg, việc công bố thông tin về các khoản
nợ của DNNN đã được cải thiện. Tuy nhiên, để có được báo cáo cơ cấu nợ của DN
cụ thể nào đó là vô cùng khó khăn. Mặt khác, mặc dù số lượng các DN đã được
DATC xử lý nợ TCC tương đối lớn, nhưng việc tiếp xúc để làm rõ quá trình đơn vị
này tham gia xử lý nợ cũng rất hạn chế.” [Phụ lục 3.5.3].
Trên thực tế, Chính phủ đã có nhiều văn bản chỉ đạo tăng cường cung cấp
thông tin cho báo chí. Tuy nhiên, trên thực tế việc chấp hành các văn bản này chưa
thực sự tốt.
Ngay cả một số cơ quan hành chính nhà nước, địa phương, hiểu về Quy chế
phát ngôn và cung cấp thông tin cho bao chí cũng chưa đầy đủ, thực hiện chưa
86
nghiêm túc nên đã gây khó khăn cho phóng viên khi tác nghiệp. Nhiều trường hợp
thông tin cung cấp cho báo chí chậm, thiếu sự định hướng, thậm chí có trường hợp
cung cấp thông tin nửa vời, tạo ra sự nhiễu loạn thông tin. Bên cạnh đó, nhiều
DNNN còn gây khó khăn trong việc tác nghiệp của phóng viên khi không cấp đầy
đủ thông tin, hoặc những người có trách nhiệm của đơn vị tránh mặt báo chí, không
ra mặt phát ngôn hoặc không có thái độ hợp tác với báo chí.
Lý giải về tình trạng đói thông tin của phóng viên, ông Đặng Quyết Tiến cho
biết: “Có thể cơ quan nhà nước và DN lo ngại việc thông tin của báo chí không
chuẩn xác gây mất uy tín và tạo ra sự bất lợi cho DN.” [Phụ lục 3.2.3]. Do vậy, các
phóng viên chuyển tải thông tin cần thận trọng để đảm bảo thông tin chuẩn xác,
tránh mất lòng tin lẫn nhau.
3.2.1.2. Đề tài khó, vĩ mô, nhiều quan điểm khác nhau
Đây có lẽ nguyên nhân khiến nhiều tòa soạn né tránh, ít phóng viên dám
đương đầu. Độ khó của TCC DNNN đã được đề cập từ lâu và ở một số nước cũng
không thành công. Một số nước sau đó tư nhân hóa rất nhanh như Nga.
Ở nước ta, quan điểm ngay tại Hiến pháp - đạo luật gốc nói về kinh tế nhà
nước (trong đó DNNN là chủ lực) vốn gĩ đã có nhiều ý kiến trái ngược nhau, thậm
chí tranh cãi rất gay gắt. Hiến pháp hiến định “kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ
đạo”. Trong lúc đó, rất nhiều chuyên gia, nhân sĩ, thậm chí cả nhiều nhà quản lý nhà
nước cũng không đồng tình quan điểm này. Lập luận phản biện lại quan điểm này là
vì trải qua thời gian dài DNNN không thể hiện được điều đó dù được ưu ái nhiều
nguồn lực.
Vấn đề thứ hai là xác định vai trò, vị trí của DN trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Ông Nguyễn Duy Long – Thành viên Ban soạn thảo
Đề án TCC DNNN cho biết: Đây là vấn đề nhận được nhiều ý kiến nhất trong quá
trình thảo luận. Chính phủ, Bộ Tài chính luôn nhấn mạnh quan điểm: "Phải quán
triệt chức năng của Nhà nước là điều tiết vĩ mô nền kinh tế thông qua sử dụng các
công cụ điều tiết, trong đó công cụ quan trọng là DNNN”. Thế nhưng, không ít
chuyên gia đề xuất thay đổi quan điểm này. Vì theo TS. Trần Đình Thiên: Kinh
87
nghiệm thế giới cho thấy các nhà nước đều có đầy đủ quyền lực như thuế, chính
sách xuất nhập khẩu, thậm chí ra luật cấm một số hành vi kinh doanh... để tác động
đến thị trường.Nếu chính sách tốt, DN nào cũng có thể là công cụ điều tiết của nhà
nước.
Tiếp đến là cơ quan quản lý, giám sát DNNN. Một số ý kiến đề xuất thành lập
cơ quan ngang bộ, làm đầu mối, quản lý giám sát toàn bộ DNNN. Số khác lại cho
rằng phải bộ quản lý ngành mới có đủ chuyên sâu; cũng có ý kiến cho là tài chính
của DN là vấn đề số một, do vậy để tránh thất thoát, lãng phí cơ quan quản lý phải
là cấp Tổng cục thuộc Bộ Tài chính.
Hay vấn đề minh bạch, công bố thông tin cũng vậy, đến nay, Chính phủ vẫn
áp dụng mức công bố thông tin có “vùng cấm”. Tuy nhiên, dư luận vẫn cho rằng
chính đó là nguyên nhân làm DNNN kém phát triển. DNNN phải công khai toàn bộ
mọi hoạt động, và minh bạch tài chính như DN trên sàn chứng khoán để tạo động
lực phát triển…vv
Các vấn đề đó đều ở tầm vĩ mô, ngay cả các chuyên gia cũng đau đầu và khó
thống nhất. Khi vấn đề này được đặt ra vẫn còn nhiều quan điểm, ý tưởng khác
nhau, chưa thống nhất về mặt tư tưởng, lý luận nên dẫn đến hành động cụ thể chưa
rõ ràng. Và báo chí cũng cũng nằm trong tình trạng đó. Rất khó để ban biên tập xác
định được đâu là hướng đúng để định hướng thông tin, dư luận. Mặt khác do đây là
vấn đề “đao to, búa lớn” nên về mặt bằng chung người dân cũng chưa thể đón nhận
được hết, hiểu hết. Do vậy, họ không mặn mà tiếp cận bằng các thông tin rất gần
cuộc sống của mình như: giá xăng tăng, giá điện tăng, giá sữa tăng… Đây cũng là lý
do để báo chí né đề tài này.
Nhà báo Lê Thanh cho biết: “Đây là vấn đề khá vĩ mô, bạn đọc ở Tuổi trẻ
không quan tâm nhiều so với những thông tin về thị trường. Đấy là một trong những
lý do chính mà Tuổi trẻ khó làm đậm chủ đề TCC DNNN” [Phụ lục 3.6.1]
Ở BĐT, ông Bùi Đức Hải cũng thừa nhận: “Đây là vấn đề phức tạp, liên quan
đến cả quan điểm, tư duy từ các cấp lãnh đạo. Trong 3 năm thực hiện đề án TCC
88
nền kinh tế, TCC DNNN, có không ít nội dung có sự thay đổi mạnh mẽ, như liên
quan đến thoái vốn trong DNNN, cách thức tiến hành CPH … Thêm vào đó, năng
lực của phóng viên trên các lĩnh vực chưa đồng đều, chưa phối hợp tốt…”
Nhà báo Hoàng Tư Giang cũng đồng quan điểm này: “Đây là đề tài khó, dễ
nhàm chán. Còn vấn đề thu hút, hấp dẫn thì không làm được vì không có thông tin”
[Phụ lục 3.3.5].
3.2.2. Nguyên nhân chủ quan
3.2.2.1.Quan điểm của Ban Biên tập
Công tác chỉ đạo, quản lý thông tin của lãnh đạo một số cơ quan báo chí đôi
lúc còn chưa thật chủ động, thiếu nhạy bén, lúng túng chạy theo sự vụ, chưa đáp
ứng yêu cầu định hướng chính trị trong nội dung thông tin… nên để xảy ra trường
hợp nặng nhẹ trong việc tuyên truyền về các vấn đề TCC nền kinh tế, một chủ đề
được nhìn nhận là có nhiều dư địa để các cơ quan báo chí tổ chức được những tuyến
bài phong phú về nội dung và đang dạng về hình thức thể hiện. Một số cơ quan báo
chí chưa chủ trương nhân tố tích cực, điển hình tiên tiến, cào bằng trong cách trả
nhuận bút theo lượng chữ, hoặc tin/bài…
Như trên đã phân tích, do đây là vấn đề khó, vĩ mô, nên có báo chủ trương
không đi sâu vào lĩnh vực này. “Ban Biên tập BTT không phân công phóng viên
theo dõi riêng cho mảng này. Mỗi phóng viên phụ trách thông tin của ngành, địa
phương sẽ theo dõi và đưa thông tin về lĩnh vực mà mình phụ trách”, [Phụ lục
3.6.1]. Theo đó, phóng viên theo dõi Bộ Giao thông Vận tải sẽ nắm thông tin TCC
DNNN ngành giao thông; Phóng viên theo Bộ Xây dựng, Nông nghiệp Phát triển
Nông thôn cũng vậy. Điều này có thể có lợi cho việc thông tin tuyên truyền về các
lĩnh vực cụ thể, nhưng với chủ trương khó này thì phóng viên lại rất có được
chuyên sâu, rất khó có được thông tin (vốn gĩ đã rất khó tiếp cận) nên tin bài hoặc
ít, hoặc không hấp dẫn là điều dễ hiểu.
BTT chủ yếu đi vào các tin dân sinh, không khuyến khích đưa tin vĩ mô, do
vậy kén đề tài này và không có chủ trương thực sự thúc đẩy phóng viên viết lĩnh
89
vực này.
Ban Biên tập TBKTSG cũng không phân công cụ thể cho phóng viên theo dõi
riêng vấn đề TCC DNNN. Bên cạnh đó, đáng quan tâm hơn là quan điểm của Ban
Biên tập báo trong việc tuyên truyền được cố định: “Thúc đẩy cải cải cách DNNN
theo hướng CPH để tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế tư nhân” [Phụ lục 3.3.1]. Quan
điểm này không sai với đường lối chủ trương của Đảng, Nhà nước. Chủ trương này
đã được Chính phủ cụ thể hóa bằng việc xác lập lộ trình cụ thể mốc thời gian DN
phải CPH , thoái vốn… Tuy nhiên, việc “cố định” quan điểm “thúc đẩy” sẽ khiến
phóng viên chỉ theo đuổi mục tiêu này. Thời gian vừa qua do thị trường chứng
khoán ảm đạm, việc bán vốn rất khó. Vì nóng vội thực hiện mà nhiều bài báo đã
kêu gọi việc bán rẻ, bán tháo… Điều này nếu được thực hiện sẽ dẫn tới thất thoát tài
sản nhà nước, nhân dân, đồng thời bán “nhầm” cho các cổ đông chiến lược mà thực
chất đó là đối thủ đang chờ cơ hội thâu tóm DN, thương hiệu Việt như đã phân trích
ở trên.
Ở BĐT, thông tin về chủ đề này được quan tâm, thể hiện rõ ở tin bài khá
nhiều. Thế nhưng, qua khảo sát BĐT trong một thời gian dài cho thấy, Ban Biên tập
dường như không có chủ trương hoặc hạn chế thông tin mặt sai trái, vi phạm pháp
luật… Điều này thể hiện ở việc vắng bóng các bái phóng sự điều tra về tình hình
hoạt động của các DN, đặc biệt là DNNN, một thể loại vốn gĩ rất hấp dẫn bạn đọc.
Đây cũng là quan điểm chung của các báo.
3.2.2.2. Trình độ biên tập viên, phóng viên còn hạn chế
Nhận xét về trình độ phóng viên ông Bùi Đức Hải cho rằng: “Năng lực của
phóng viên trên các lĩnh vực chưa đồng đều, chưa phối hợp tốt…” [Phụ lục 3.4.5]
Thực tế cho thấy, hầu hết các phóng viên kinh tế hiện nay được đào tạo
chuyên ngành báo chí, nên kiến thức kinh tế chuyên sâu còn yếu, hoặc ngược lại,
được đào tạo chuyên về kinh tế lại non kém về nghiệp vụ báo chí. Công tác đào tạo,
bồi dưỡng nâng cao nhận thức chính trị cho phóng viên, biên tập viên của các cơ
quan báo chí chưa được quan tâm đúng mức. Khảo sát tại TCTCDN cho thấy, cơ
quan có 09 người, nhưng duy nhất chỉ có 01 người học báo chí còn lại học trái
90
ngành như kế toán, văn học, chính trị học.
3.3. Đề xuất một số giải pháp
TCC DNNN là một chủ đề có phạm vi ảnh hưởng rộng lớn toàn xã hội. Đây
cũng là một lĩnh vực thông tin có cả tính đại chúng rộng rãi và cả thông tin mang
tính chuyên ngành hẹp về quản lý và tác nghiệp trong lĩnh vực kinh tế. Trong xu thế
cạnh tranh và phát triển mới của báo chí, để đáp ứng nhu cầu đa dạng của công
chúng, báo chí cần phải có sự đổi mới, đưa ra những sản phẩm thông tin vừa có tính
chuyên môn, chuyên sâu, vừa đưa ra những thông tin đáp ứng được mức độ hiểu
biết khác nhau của số đông công chúng.
Thông qua khảo sát 4 cơ quan báo chí về nội dung và hình thức đăng tải
thông tin TCC nền kinh tế trên 4 ấn phẩm, cũng như thông qua thực tiễn công tác
của bản thân, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm, nhằm có thể hạn chế những
điểm tồn tại, nâng cao hơn nữa chất lượng thông tin về vấn đề TCC nền kinh tế trên
báo chí nói chung và 4 báo in khảo sát nói riêng
3.3.1. Giải pháp chung
3.3.1.1. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng
Trong công tác tư tưởng lý luận, sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà
nước đối với báo chí là nguyên tắc bất di bất dịch để bảo đảm cho hoạt động thông
tin, tuyên truyền của báo chí đối với DN được thuận lợi, đúng pháp luật. Đảng và
Nhà nước lãnh đạo và quản lý báo chí bằng các nghị quyết, chế tài, bằng hành lang
pháp lý để định hướng cho báo chí hoạt động thông tin tuyên truyền đúng với nhiệm
vụ chính trị của mình, đúng với lập trường, quan điểm chính trị tư tưởng của Đảng,
pháp luật của Nhà nước. Để làm được điều này, Đảng và Nhà nước phải có cơ chế
kiểm tra, giám sát thường xuyên các hoạt động thông tin tuyên truyền của báo chí,
kịp thời uốn nắn, giúp đỡ các cơ quan báo chí khi gặp phải những sai sót, khó khăn
trong khi thi hành nhiệm vụ. Thực tiễn đòi hỏi phải đổi mới, tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước đối với hoạt động báo
91
chí.
Chỉ thị 22 ngày 17/10/1997 của Bộ Chính trị (Khóa VIII) đã yêu cầu: “Báo
chí – xuất bản đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, của các tổ
chức chính trị xã hội và là diễn đàn của nhân dân luôn luôn đi đầu trong việc bảo vệ
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng và
Nhà nước. Chủ đề trung tâm của hoạt động báo chí – xuất bản là độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội.”
Phát biểu tại Hội nghị lần thứ 5 BCH Trung ương (khóa X). Tổng Bí thư
Nông Đức Mạnh nhấn mạnh, phải “tăng cường sự lãnh đạo của Đảng về chính trị,
tư tưởng và tổ chức trong các cơ quan báo chí, xuất bản, văn hóa, văn nghệ, nhất là
xa rời tôn chỉ, mục đích, chạy theo thị hiếu thấp kém, vì lợi ích vật chất cá nhân, cục
bộ”.
Để thực hiện tốt tư tưởng chỉ đạo này cần coi trọng, chăm lo công tác xây
dựng Đảng trong các cơ quan báo chí. Đề cao trách nhiệm đảng viên của người làm
báo, nhất là người giữ cương vị lãnh đạo. Thường xuyên kiểm tra, giám sát các tổ
chức Đảng, Đảng viên ở các cơ quan báo chí, cơ quan chủ quản, cơ quan quản lý
báo chí về thi hành điều lệ Đảng, các quy định của Đảng, Nhà nước đối với hoạt
động báo chí. Xây dựng quy chế để thường xuyên làm tốt việc định hướng và cung
cấp thông tin cho báo chí, nhất là đối với các vấn đề quan trọng, phức tạp, nhạy cảm
về đối nội, đối ngoại; nghiên cứu bổ sung, sửa đổi Luật Báo chí và các văn bản quy
phạm pháp luật liên quan; quy định thẩm quyền, trách nhiệm, cơ chế phối hợp giữa
các cơ quan chỉ đạo báo chí của Đảng, cơ quan quản lý báo chí của Nhà nước, Hội
Nhà báo và các cơ quan chủ quản báo chí đối với cơ quan báo chí và người làm báo;
xây dựng chế tài đủ mạnh, xử lý dứt điểm, kịp thời, nghiêm minh các sai phạm.
Nâng cao nhận thức là yếu tố có ý nghĩa đối với kết quả thực hiện mọi nhiệm
vụ. Sự lãnh đạo của Đảng chỉ có ý nghĩa quyết định khi được gắn với dân ở mọi
bình diện và cấp độ. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong việc tuyên truyền
thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng, trong đó có Đại hội Đảng lần thứ XI, các Cương
92
lĩnh phát triển đất nước, các quyết định về triển khai TCC nền kinh tế, trong đó có
TCC DNNN. Thực tế cho thấy, hiện có không ít cán bộ, Đảng viên hiểu biết chưa
sâu sắc về TCC DNNN. Vì vậy, việc tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo sát sao,
thường xuyên của ban cán sự Đảng, Đảng đoàn và sự lãnh đạo cơ quan chủ quản
đối với hoạt động của cơ quan báo chí thuộc quyền; coi trọng việc xây dựng tổ chức
Đảng trong cơ quan báo chí vững mạnh về mọi mặt, đề cao vai trò, trách nhiệm
Đảng viên của người làm báo, nhất là những người giữ cương vị lãnh đạo, quản lý
trong cơ quan báo chí. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, cần hướng tới việc tăng
cường, nâng cao chất lượng phổ biến nâng cao nhận thức về các Nghị quyết của
Đảng, các Quyết định của Chính phủ về TCC DNNN.
Bên cạnh đó, cần có giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý và
định hướng hoạt động theo đúng tôn chỉ, mục đích của cơ quan báo chí, và chức
năng, nhiệm vụ của người làm báo. Chú trọng việc thực hiện đầy đủ và có hiệu quả
các nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan chủ quản báo chí theo quy định tại Điều 12
của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí và Nghị định số
51/2002/NĐ- CP của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Báo chí, sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật Báo chí. Đồng thời, chỉ đạo các cơ quan báo chí thực
hiện nghiêm túc việc quy hoạch báo chí theo kết luận của Bộ Chính trị vừa qua.
Việc chỉ đạo cần rõ: Tuyên truyền cần phải làm rõ trách nhiệm của từng cấp,
ngành, đơn vị trong quá trình triển khai vì các Bộ quản lý ngành, địa phương là cơ
quan đại diện chủ sở hữu theo phân cấp chịu trách nhiệm trước Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ triển khai công việc TCC, CPH , thoái vốn theo kế hoạch và Đề án
được duyệt. Việc phản ánh các vấn đề vướng mắc nên thận trọng xem xét lấy thêm
ý kiến từ nhiều phía (cơ quan quản lý Nhà nước, đơn vị thực hiện…) để tránh việc
đưa tin một chiều làm ảnh hưởng chung đến tiến trình TCC DNNN chung, không
lấy một hiện tượng cụ thể và không mang tính điển hình để quy kết chung cho cả
quá trình này.
93
3.3.1.2. Nâng cao năng lực, phẩm chất người làm báo kinh tế
Trong hoạt động của báo chí, chất lượng, hiệu quả tuyên truyền phụ thuộc vào
nhiều yếu tố, nhưng yếu tố mang tính quyết định vẫn là đội ngũ những người làm
báo. Theo số liệu từ Báo cáo đánh giá công tác báo chí năm 2013 và một số nhiệm
vụ chủ yếu trong thời gian sắp tới của Ban tổ chức Hội nghị báo chí toàn quốc năm
2014 thì phần lớn số người làm việc trong lĩnh vực báo chí đều có trình độ cao
đẳng, đại học trở lên; số người làm báo có trình độ dưới đại học đã giảm trung bình
khoảng 1%/năm. Năm 2009, tỷ lệ nhân lực có trình độ đại học là 85% và trên đại
học là 4%. Đến năm 2013, tỷ lệ nhân lực có trình độ đại học là khoảng 91% và trên
đại học là 4,9%. Số liệu trên cho thấy nguồn nhân lực hoạt động trong lĩnh vực báo
chí đang chuyển biến tích cực về trình độ chuyên môn.
Về chính trị, hầu hết đội ngũ nhà báo đều có trình độ chính trị từ trung cấp trở
lên, trong đó cử nhân chính trị khoảng 5% và cao cấp chính trị là 3%. Số lượng đội
ngũ làm báo được đào tạo chính trị tăng khoảng 14%/năm. Điều đó đã phản ánh sự
quan tâm của cơ quan chủ quản báo chí, cơ quan báo chí và cơ quan chỉ đạo, quản
lý báo chí trong việc nâng cao nhận thức chính trị cho đội ngũ nhà báo. Tuy nhiên,
để thích nghi với sự đa dạng, phức tạp và biến động của thực tiễn họ cần phải được
đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên về chính trị, về chuyên môn.
Tuyên truyền về TCC DNNN là một nội dung của tuyên truyền kinh tế nói
chung trên báo chí. Để thể hiện được nội dung này, nhà báo phải có những kiến
thức cơ bản, chuyên sâu về các chuyên ngành kinh tế như kinh tế chính trị, quản lý
kinh tế, kinh tế phát triển... Vì có như vậy, nhà báo mới có thể làm tốt được nhiệm
vụ của mình là thông tin toàn bộ nền kinh tế đất nước hoặc lĩnh vực, ngành mình
phụ trách, đồng thời đưa ra những phân tích, đánh giá, giải thích, nhận định, dự báo
phù hợp, không những nhằm mục đích thông tin cho DN mà còn giúp cho các nhà
quản lý hoạch định chính sách kịp thời bổ sung, điều chỉnh các quyết sách.
Rõ ràng, để thực hiện tốt nhiệm vụ của mình thì những yêu cầu đối với người
làm báo cách mạng là rất cao, họ không những phải có tài mà còn phải có đức.
94
Trong điều kiện nước ta xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, hội nhập quốc tế sâu rộng, đội ngũ những người làm báo cần quán triệt
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, đặt lợi ích
quốc gia lên trên hết, không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, chính
trị và phẩm chất đạo đức của người làm báo. Chỉ có như vậy, trong hoạt động của
mình, khi gặp những vấn đề mới nảy sinh của thực tiễn những người làm báo mới
có được phương pháp luận khoa học mà phân tích, đánh giá, nhận định một cách
chính xác, không những phản ánh đúng và trúng những gì đã và đang tồn tại mà còn
đưa ra được những dự báo phù hợp với sự vận động tất yếu của tự nhiên và xã hội.
Trong điều kiện vận động của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, hội nhập quốc tế, nhiều vấn đề mới nảy sinh, nên viết về kinh tế, về hoạt
động của các DN có những đòi hỏi rất cao. Vì vậy, người làm báo muốn thực hiện
tốt các hoạt động của mình cần hội đủ những yêu cầu:
Nhà báo phải có trình độ chính trị vững vàng, đứng vững trên lập trường giai
cấp công nhân, nhân dân lao động và quyền lợi quốc gia, dân tộc mà thông tin tuyên
truyền. Điều này cũng có nghĩa là người làm báo phải bảo đảm nêu cao được ý thức
giai cấp và ý thức công dân, làm cho ý thức giai cấp và ý thức công dân trở thành
sức mạnh kích thích khả năng sáng tạo.
Nhà báo phải am tường về lĩnh vực ngành mà mình được giao nhiệm vụ
nghiên cứu thông tin tuyên truyền mà cụ thể ở đây là kiến thức về kinh tế, từ kinh tế
vĩ mô đến kinh tế vi mô đều phải hiểu một cách thấu đáo thì khi thâm nhập vào thực
tiễn người làm báo mới có cơ hội phát hiện được những cái mới nảy sinh, phân biệt
được những mặt trái, mặt phải của DN để từ đó có phương pháp tuyên truyền giúp
các DN kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, đưa ra những đề đạt, kiến nghị, cũng
như dự báo nhằm phục vụ cho sự phát triển.
Người làm báo phải làm chủ được các phương tiện tác nghiệp hiện đại để có
thể chủ động nắm bắt được thông tin trong mọi tình huống. Muốn thế, ngoài kỹ
năng chuyên môn, người làm báo cần phải trau dồi ngoại ngữ, kiến thức tin học và
95
các kiến thức bổ trợ khác một cách thường xuyên để tránh bị tụt hậu.
Người làm báo viết về DN phải được trang bị đầy đủ các kiến thức về DN theo
quan điểm, đường lối phát triển kinh tế của Đảng; tạo điều kiện cho họ khi thâm
nhập thực tiễn có được sự dễ dàng, nhạy bén trong việc thu thập tài liệu và đưa ra
được những nhận định, kết luận chính xác, sâu sắc, hiệu quả.
Trong trao đổi với ông Đặng Quyết Tiến, ông cho rằng với một tờ báo kinh tế,
ông thích tuyển phóng viên được đào tạo từ các trường kinh tế, sau đó sẽ cho đi học
các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ báo chí. Như vậy tòa soạn vừa có được một phóng
viên chuyên sâu vừa đỡ tốn kém hơn rất nhiều trong việc đào tạo. Tuy nhiên, ông
rất ủng hộ nét mới trong chương trình đào tạo cử nhân báo chí của Khoa Báo chí –
Truyền thông, trường Đại học Khoa học Xã hội Nhân Văn (ĐHQGHN). Bởi khác
với trước kia, Khoa Báo chí chỉ tuyển chọn đầu vào của khối C, khối D thì hai ba
năm gần đây, Khoa đã mạnh dạn tuyển thêm khối A với mục tiêu đa dạng hóa đầu
vào cho chuyên ngành báo chí với kỳ vọng sâu xa hơn là đào tạo những nhà báo đa
zi năng. “ Đó là một hướng đi khá phù hợp. Tuy nhiên, điều tôi băn khoăn là khung
chương trình đào tạo có kịp thời thay đổi cho phù hợp với bối cảnh mới hay không?
Hay vẫn chỉ là “bình mới rượu cũ”. Ông Tiến cũng đề xuất, các trường đào tạo báo
chí nên tăng cường số giờ học về kinh tế cho sinh viên theo hình thức môn học tự
chọn (dành cho những người thích viết về kinh tế ), đồng thời đẩy mạnh việc liên
kết với các náp, các hội để sinh viên có những bài học ngoại khóa qua hình thức
thực tập và tham gia các Câu lạc bộ Nhà báo kinh tế. Như vậy sẽ định hướng cho
sinh viên ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường hướng đi sau này của mình.
Một trong những hướng đi đã và đang được lãnh đạo các cơ quan báo chí nói
chung, báo chí kinh tế nói riêng là tích cực tham gia và cử phóng viên, biên tập viên
chuyên trách tham gia các lớp đào tạo, hội nghị, hội thảo tập huấn, bồi dưỡng kiến
thức về tài chính, tiền tệ cũng như nhiều vấn đề mới nảy sinh trong xã hội do Bộ
Thông tin và Truyền thông, Ban Tuyên giáo Trung ương, Hội Nhà báo Việt Nam
phối hợp với nhiều cơ quan, tổ chức trong nước triển khai… Những hội thảo, tập
huấn này thực sự mang đến cho đội ngũ lãnh đạo cơ quan báo chí và nhà báo những
96
kiến thức mới, bổ ích phục vụ trực tiếp cho công việc điều hành của lãnh đạo cũng
như tác nghiệp của đội ngũ phóng viên, biên tập viên các báo. Hướng đi này cần
tiếp tục được triển khai mạnh hơn nữa với số lượng và chất lượng được tăng lên,
đặc biệt là bám sát sự chuyển mình của xã hội.
3.3.1.3. Tăng cường sự tham gia của nhân dân vào hoạt động báo chí
Phát biểu tại Đại hội Hội Nhà báo Việt Nam lần thứ IX (12/08/2010), Chủ tịch
Quốc hội Nguyễn Phú Trọng kết luận: Sắp tới nhiệm vụ của báo chí vẫn là tiếp tục
trở thành “Diễn đàn của nhân dân”, nâng cao dân trí, bồi dưỡng bản lĩnh, tâm hồn,
nhân cách cho người Việt Nam. Do đó “thông tin báo chí phải trung thực, khách
quan, nhiều chiều, chính xác để định hướng nhận thức dư luận xã hội. Tránh đưa tin
phiến diện, võ đoán. Tiếp tuc cổ vũ cái tốt đẹp, phê phán tệ nạn, thói hư tật xấu,
tham nhũng, lãng phí. Kiên quyết đấu tranh với thế lực thù địch và các luận sai
trái”. Đây chính là biểu hiện sinh động và là điều kiện để nhân dân tham gia vào
hoạt động thông tin báo chí.
Chính sự tham gia của nhân dân làm cho báo chí thực sự trở thành diễn đàn
dân chủ để nhân dân bày tỏ chính kiến, nguyện vọng, tham gia quản lý xã hội. Đồng
thời cũng làm cho thông tin báo chí sinh động hơn, nhanh chóng, kịp thời và sát với
cuộc sống hơn và đương nhiên thiết thực hơn.
Để thu hút sự tham gia của nhân dân vào hoạt động báo chí, báo chí cần tiếp
tục bám sát hơi thở cuộc sống, gắn bó với nhân dân để thu thập thông tin từ nhân
dân, làm tốt việc tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước. Thông tin trung thực về tình hình trong và ngoài nước, góp phần
nâng cao dân trí, xây dựng và phát huy dân chủ, tăng cường khối đoàn kết nhân
dân. Phản ánh sinh động những vấn đề thực tiễn trong cuộc sống, phát biện, biểu
dương, nhân rộng những nhân tố mới; tích cực cổ vũ cái đúng, cái tốt, cái đẹp; đấu
tranh chống các hiện tượng tiêu cực và tệ nạn xã hội, làm lành mạnh quan hệ xã hội
trên cơ sở phân tích, lý giải các sự kiện, những vấn đề thiết thực đặt ra từ cuộc sống
97
phù hợp với nguyện vọng chính đáng của nhân dân.
Cơ quan báo chí cần xây dựng đội ngũ cộng tác viên mạnh, tích cực, có trách
nhiệm; thường xuyên định hướng, bồi dưỡng nghiệp vụ, có cơ chế khuyến khích vật
chất, tinh thần hợp lý tạo điều kiện cho cộng tác viên tích cực hợp tác. Mở rộng và
khai thác tốt lực lượng cộng tác viên là cơ sở để có tiếng nói từ cơ sở, để có được
nguồn thông tin phong phú, thu hút chất xám xã hội cho hoạt động báo chí, tăng
thêm gắn bó và uy tín báo chí với công chúng.
Với vấn đề TCC DNNN, như trên đã phân tích do đây là vấn đề khó, vĩ mô do
vậy, việc phóng viên báo “tự chủ” hoàn toàn về mặt thông tin là không nên mà cần
mở rộng tăng cường lôi cuốn các nhà quản lý, chuyên gia, doanh nhân… tham gia
viết báo. Và thực tế, danh hiệu Nhà báo kinh tế không còn là độc quyền của nhà báo
chuyên nghiệp mà dành cho tất cả những ai có thể trình bày và phổ biến một vấn đề
kinh tế như một nhà báo hay như một nhà kinh tế. Đã và sẽ xuất hiện những nhà báo
kinh tế không chuyên nhưng uy tín không hề kém, đôi khi còn hơn cả không ít nhà
báo kinh tế mang danh chuyên nghiệp. Nhà kinh tế và nhà báo là hai nghề nghiệp
khác nhau theo sự phân công lao động của xã hội. Một nhà kinh tế có thể trở thành
một nhà báo kinh tế không chuyên, ngược lại, một nhà kinh tế chuyên nghiệp có thể
được xếp vào đội ngũ nhà kinh tế song chỉ là hạn hữu, cá biệt. Vì vậy các cơ quan
thông tin cần lưu ý đặc điểm và xu thế này để có cơ chế thu hút những “nhà báo
kinh tế không chuyên” tham gia với cơ quan của mình, nhằm cung cấp cho độc giả
những bài viết chất lượng. Điều này thể hiện rõ nét ở trên TBKTSG khi các chuyên
gia: TS Lê Đăng Doanh, TS Phạm Chi Lan, TS Trần Du Lịch, Luật gia Vũ Xuân
Tiền… đã trở thành những cộng tác viên đắc lực với nhiều bài viết sâu sắc về vấn
đề DNNN.
3.3.1.4. Tăng cường công tác thông tin và minh bạch thông tin doanh
nghiệp nhà nước
Do TCC DNNN có vai trò to lớn như vậy, nên việc tuyên truyền về TCC
DNNN làm sao cho hiệu quả là vô cùng quan trọng. Trong đề án TCC DNNN,
98
Chính phủ nêu rõ: “Bộ Thông Tin Truyền thông phối hợp với các Bộ, ngành, địa
phương, các TĐKT, TCT nhà nước tổ chức thực hiện việc thông tin, tuyên truyền về
TCC DNNN theo đúng chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước”.[22]
Ngoài ra, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng nhiều lần chỉ đạo: “Các DN
phải tăng cường hơn nữa tính công khai, minh bạch trong hoạt động của DNNN;
kết quả sản xuất kinh doanh phải được công bố công khai, minh bạch, trung thực
kịp thời với báo chí, dư luận để xã hội hiểu đúng về DNNN. Chủ tịch HĐTV, HĐQT
các DNNN phải chịu trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ này”. [52, (1+2), tr 6 ].
Tại Thông tư 171/2013/TT-BTC ngày 20 tháng 11 năm 2013, về việc “hướng
dẫn công khai thông tin tài chính theo quy định tại Nghị định 61/2013/NĐ-CP”
cũng quy định: “DNNN phải thực hiện công bố thông tin với chủ sở hữu, nhà đầu
tư, người lao động, công chúng”. Tuy nhiên, hình thức công bố cao nhất, được cho
là minh bạch nhất mới chỉ dừng ở trang web của DN, chứ chưa buộc phải công khai
trên báo chí. Nhưng với thực trạng trang web của DN hiện nay là chưa đủ sự minh
bạch cần thiết và rất khó giám sát.
Thế nhưng, qua trao đổi với tác giả, 04 nhà báo đều trả lời nguyên nhân dẫn
đến những hạn chế trong công tác thông tin TCC DNNN là do không tiếp cận được
thông tin hoặc thiếu thông tin và đề xuất có cơ chế minh bạch thông tin, tăng cường
cung cấp thông tin cho báo chí.
Dù việc minh bạch thông tin về DNNN hiện đang có tiến triển, nhưng cần
thực hiện quyết liệt, nhất quán hơn nữa.
Trước mắt, các cơ quan nhà nước cần nghiêm túc thực hiện đúng quy định trên
và quy chế phát ngôn của Thủ tướng. Bên cạnh đó, cần sớm sửa đổi thông tư này
với yêu cầu cao hơn và công bố thông tin trên báo chí. Riêng mức độ công bố thông
tin, Chính phủ cần lập danh mục cụ thể những DN nào không phải công bố thông
tin đầy đủ như các DN trên sàn chứng khoán do yếu tố vì an ninh quốc phòng; DN
nào phải công bố. Tránh tình trạng các DN vin vào yếu tố an ninh quốc phòng, đảm
99
bảo an sinh xã hội, bí mật nhà nước mà né tránh cung cấp thông tin cho báo chí.
Mỗi bộ, ngành, địa phương căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của mình phải
xây dựng kế hoạch tuyên truyền cụ thể chi tiết đến từng tháng. Ngoài bộ phận tuyên
truyền của Bộ, ngành, địa phương cần có đầu mối cung cấp thông tin cho báo chí tại
các vụ cục, đơn vị trực thuộc, đặc biệt là đơn vị phụ trách về quản lý về DNNN.
Chẳng hạn là Vụ quản lý DN ở các bộ; Cục Tài chính DN ở Bộ Tài chính… Các
đầu mối này phải có người học báo chí, am hiểu về báo chí để có sự đồng hành
cùng với báo chí, đảm bảo thông tin nhanh chóng, kịp thời, đúng định hướng. Định
kỳ tháng hoặc quý nên tổ chức họp báo để công bố công khai các thông tin về hoạt
động, TCC của DNNN để báo chí biết và giải đáp mọi thắc mắc của dư luận. Đặc
biệt, công khai những đơn vị có sai sót, chậm trễ trong quá trình thực hiện.
Ngoài ra, Ban Đổi mới Xắp xếp DNNN thuộc Văn phòng Chính phủ cũng nên
rộng cửa hơn với báo chí. Có thể lựa chọn cơ quan báo, phóng viên để thông tin
nhưng việc hạn chế quá ít cơ quan báo chí trong tình hình hiện nay vô hình trung đã
thu hẹp phạm vi thông tin.
Về lâu dài, nhất là sau khi Đảng và Nhà nước thống nhất chủ trương là sẽ lập
cơ quan ngang bộ, hoặc cấp tổng cục tại Bộ Kế hoạch Đầu Tư, hay tại Bộ Tài chính
làm cơ quan chuyên quản DNNN thì đầu mối công bố thông tin về DNNN nên giao
hẳn cho đơn vị này. Theo đó, đơn vị chuyên quản này lập trang web và có mục tổng
hợp toàn bộ thông tin về DNNN và cụ thể các DN. Mức độ thông tin phải đảm báo
như DN niêm yết trên sàn chứng khoán. Kèm theo đó là có chế tài cụ thể đối với
những DN không thực hiện, vì hiện nay vẫn còn thiếu chế tài này.
Đối với cơ quan báo chí
Ông Bùi Đức Hải nhận định: “Báo chí đang có nhiều thuận lợi hơn trong việc
truyền thông về vấn đè này. Thứ nhất, các quy định mới về TCC DNNN buộc các
DNNN phải công khai thông tin về lộ trình CPH, thoái vốn… Thứ hai, Chính phủ
đã xác định trách nhiệm rõ ràng của người đứng đầu trong thực hiện CPH. Các bộ,
100
ngành địa phương đều được yêu cầu thông tin về việc thực hiện công việc này. Thứ
ba, sau 3 năm tuyền truyền về vấn đề này, báo chí đã có kinh nghiệm hơn trong
thực hiện các đề tài liên quan đến CPH DNNN” [Phụ lục 3.4].
Để tận dụng cơ hội này, theo ông Hải, trước mắt báo chí cần “truyền thông về
yêu cầu thực hiện nghiêm túc quy định về công khai cần được thực hiện quyết liệt”.
Theo đó, đẩy mạnh tuyên truyền để dư luận, DN hiểu cụ thể mục đích của tuyên
truyền là có lợi, cần thiết cho cả nhà nước, DN, nhà đầu tư… “a) Đảm bảo minh
bạch, trung thực và khách quan tình hình tài chính của DNNN. Phát hiện kịp thời
hành vi vi phạm chế độ quản lý tài chính, chế độ kế toán của DN. b) Thực hiện
quyền hạn và trách nhiệm của chủ sở hữu nhà nước, người lao động trong việc
giám sát, kiểm tra và thực hiện quy chế dân chủ ở DNNN; thực hành tiết kiệm
chống lãng phí, chống tham nhũng, nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh
doanh, bảo toàn và phát triển vốn Nhà nước. c) Là căn cứ để các nhà đầu tư trong
và ngoài nước nghiên cứu và quyết định việc đầu tư vào DN; các chủ nợ có thông
tin để giám sát đánh giá khả năng thanh toán nợ của DN”- Điều 26, Thông tư.
Mặt khác, báo chí đưa tin phải đảm bảo trung thực, khách quan tránh tình
trạng cắt câu, bẻ chữ không đúng nội dung người trả lời phỏng vấn, trao đổi để giật
gân, câu khách. Ông Đặng Quyết Tiến nêu quan điểm: “Báo chí cần xác định rõ,
việc thông tin tuyên truyền là để giúp DN phát triển tốt hơn chứ không phải là để
DN khó khăn hơn. Việc thông tin cần vào thời điểm thích hợp để DN còn có thời
gian tập trung vào sản xuất, kinh doanh”. Nếu báo chí thông tin thiếu khách quan
sẽ khiến cơ quan nhà nước sợ bị mất uy tín, DN sợ bị ảnh hưởng đến sản xuất kinh
doanh, từ đó sẽ tạo ra khoảng cách với báo chí, né tránh báo chí…
Ngoài ra, để đảm bảo sự khách quan cần tránh tình trạng: “Lấy vấn đề cụ thể ở
một DN và quy lên là trách nhiệm của cơ quan này, cơ quan khác là thiếu hay
không đầy đủ trong kiểm tra giám sát để thất thoát... Hoặc xem đó là tình trạng
chung của tất cả các DN” như đã được phân tích ở phần trên. Tóm lại, cơ quan báo
chí, bản thân nhà báo phải tạo dựng niềm tin đối với DN bằng sự chân thành, đồng
101
hành để cùng phát triển.
Để làm được điều đó, báo chí cần đào tạo phóng viên am hiểu lĩnh vực mình
phụ trách, am hiểu về tài chính để đưa tin, hiểu các tính năng kỹ thuật ngành đó để
đưa tin đúng, kiểm chứng. Để không tạo ra sự ngộ nhận. Đặc biệt, đạo đức nghề
nghiệp là điều không thể thiếu. Nếu đưa tin không đúng phải tuân thủ việc cải
chính. Thực tế cho thấy, từ một báo cáo tài chính của DN, nhưng nếu báo chí khai
thác các khía cạnh khác nhau sẽ tạo ra các cách khiểu khác nhau. Chính vì vậy, báo
chí phải tôn trọng DN. Họ đưa ra thông tin báo chí phải chuyển tải đầy đủ rồi mới
phân tích những gì hạn chế, những cái chưa đúng, chưa chuẩn xác... để bạn đọc có
điều kiện đối chiếu. Vì DN còn phải đối diện với thị trường, và các đối thủ cạnh
tranh. Nếu thông tin không đúng, đủ làm hiểu sai sẽ ảnh hưởng đến quá trình sản
xuất kinh doanh.
Bên cạnh đó, theo Nhà báo Hoàng Tư Giang, để có thông tin độc “phóng viên
phải yêu nghề, tha thiết với nghề từ đó, phải tự thân vận động. Nhà báo cần kiên
trì, bám trụ, tăng cường quan hệ. Ví dụ, hội thảo không cho vào thì nhờ người quen
xin vào, trường hợp không được thì gửi máy ghi âm, kiểu gì cũng phải viết được”.
Đối với DN, hiện nay hầu hết các DNNN đều đã có phòng truyền thông (có
DN gọi là phòng PR, quan hệ công chúng, bộ phận đối ngoại…). Và cũng hầu hết ở
các bộ phận đó đều có các nhân sự học báo chí, hoặc hiểu về báo chí, thường xuyên
quan hệ, cung cấp thông tin cho báo chí. Tuy nhiên, thông tin chủ yếu dừng lại ở
việc quảng bá, quảng cáo, một chiều, chưa đảm bảo khách quan nên khó được báo
chí sử dụng, hoặc sử dụng nhưng không hấp dẫn được bạn đọc. Do vậy, lãnh đạo
DN cũng cần chủ động hơn trong việc cung cấp thông tin cho báo chí, xem báo chí
là bạn đồng hành, trao đổi thẳng thắn, cởi mở với nhau hơn nữa, đặc biệt phải tin
cậy, nương tựa, tôn trọng lẫn nhau.
3.3.2. Giải pháp cụ thể
3.3.2.1. Đổi mới nội dung, hình thức thông tin
Như đã đề cập ở phần trên của luận văn, nhiệm vụ thông tin về TCC nền kinh
102
tế của 4 báo in được khảo sát đã có được những thành công nhất định, góp phần
quan trọng vào những thành công ban đầu của công cuộc TCC DNNN. Tuy nhiên,
vẫn còn có những hạn chế mà các báo cần khắc phục trong giai đoạn tới.
Thứ nhất, cơ cấu lại tin bài
Các báo cần có sự phân chia hợp lý hơn về số lượng tin bài theo từng nhóm
nội dung TCC DNNN trên báo. Mỗi báo cần tận dụng lợi thế là cơ quan báo chí của
Bộ, ngành để có hướng khai thác tin bài toàn diện hơn, làm sao đảm bảo hài hòa,
hợp lý giữa từng nội dung. Đặc biệt, việc để lọt thể loại bài phóng sự điều tra về các
vấn đề thất thoát lãng phí tiền và tài sản Nhà nước, một vấn đề gây nhức nhối trong
xã hội qua nhiều năm nay là điều đáng tiếc với các báo được khảo sát. Chính vì vậy,
với những tờ như: Tuổi trẻ, Đầu tư cần có sự quan tâm thường xuyên hơn đến nội
dung này trong cơ cấu tin bài của báo. Đây cũng là cách mà các báo khẳng định
được cá tính của mình trong hàng trăm tờ báo đang ngày càng đề cập tới vấn đề
TCC DNNN. Các báo cần thông tin cụ thể hơn đối với từng DN, nhất là DN lớn, để
tăng tính đa dạng, hấp dẫn. Phải bám sát thông tin đầy đủ hơn tại DN, tích cực
xuống cơ sở quan sát trực tiếp, để có những tin bài từ nơi sản xuất, có tiếng nói của
công nhân, người lao động thay vì chỉ có những con số trên báo cáo.
Với BTT, trước tiên cần tăng số lượng tin bài về TCC DNNN. Tỷ lệ hiện tại là
quá ít, không chuyển tải hết nội dung thông tin. Vì như trả lời của phóng viên Lê
Thanh ở trên, có thể khẳng định: “Tin chưa hay không phải không có tin hay”. Thực
tế có nhiều thông tin hay, bạn đọc cần nhưng chưa khai thác được. Do vậy, trước
hết, Ban Biên tập cần xác định tăng lượng và phân công phóng viên cụ thể hơn,
hướng vào các đề tài được xác định là lọt sổ nói trên. Ngoài ra, có một số đề tài hay
dân sinh, gắn quyền lợi sát sườn của người lao động mà báo vẫn chưa khai thác. Đó
là việc CPH , bán vốn nhà nước dễ ảnh hưởng đến quyền lợi của người lao động,
việc sắp xếp lại lao động dôi dư sẽ như thế nào? Họ được quyền lợi gì khi bị sắp
xếp lại… Thêm vào đó, việc củng cố vai trò các đoàn thể, chính trị (trong đó có tổ
103
chức đoàn thanh niên) sau khi CPH nhà nước không còn nắm vốn chi phối sẽ thế
nào? Vì sự thực DN sẽ rơi vào tay một vài người có tiền, có thể đó là doanh nhân
nước ngoài.
Với BĐT, ngoài việc tăng bài phóng sự điều tra như trên đã đề cập, cần chú
trọng hơn tuyến bài chuyên sâu về TCC DNNN. Thực tế chưa thấy tuyến bài nhiều
kỳ chuyên sâu về một chủ đề nào đó trong vấn đề TCC DNNN. Tuyến bài này cần
được nhìn dưới góc độ “đầu tư”, bởi thực tế vốn đầu tư của nhà nước hiện nay chủ
yếu được thông qua DNNN.
Đối với TCTCDN, Nhà báo Tạ Thị Thu Hằng chia sẻ: “Để nâng cao chất
lượng thông tin về vấn đề này trên TCTCDN, theo tôi nhóm phóng viên đã được
phân công cần có sự chọn lọc thông tin. Nghĩa là phải xác định được đối tượng
người đọc là ai, họ cần những thông tin như thế nào. Trên cơ sở đó định hướng tin,
bài, phân công công việc cụ thể cho phóng viên, đảm bảo thông tin được đăng tải
có dẫn chứng sinh động và sát với nhu cầu thực tế của DN” [Phụ lục 3.5.4]
Để làm được điều đó, phải bám sát thực tiễn đang vận động để phân tích, lý
giải những vấn đề nóng bỏng do thực tiễn đặt ra, Tạp chí phải bám sát các vấn đề
đang đặt ra đối với DN, đi sâu phân tích lý giải nguyên nhân sâu xa và đề ra giải
pháp, rút ra bài học. Trước mắt các vấn đề đó là: đã được nêu ở Mục 2.5.1.2.
Tạp chí cần tập trung nghiên cứu, khảo sát thực tiễn để có những đề tài và bài
viết sâu sắc, sinh động, có sức thuyết phục. Giới thiệu các bộ, ngành, địa phương và
DN thực hiện có hiệu quả chủ trương TCC này. Lý giải tại sao họ làm được, trong
lúc ở các nơi khác không làm được. Chẳng hạn, vừa qua ở Bộ Giao thông Vận tải
làm rất tốt điều này, song Tạp chí chưa có những bài phân tích sâu sắc chỉ rõ
nguyên nhân làm được.
Bên cạnh báo in cần phát triển báo điện tử và nhiều công cụ truyền thông trên
internet khác để cập nhật thường xuyên các sự vụ về hoạt động TCC DNNN. Đây
được xem là xu hướng phát triển tất yếu. Mặt khác, người làm nhiệm vụ thiết kế
cũng cần có kiến thức về mỹ thuật để có thể thu hút được nhiều độc giả đối với các
104
tin, bài về vấn đề này.
Thứ hai, cả 4 báo cần chú trọng nhiều hơn trong việc tổ chức các tin bài có
thông tin chỉ dẫn, giúp độc giả dễ dàng tìm kiếm thông tin về chính sách TCC. Có
thể ở mỗi bài thông tin về cơ chế chính sách của Đảng, Nhà nước về TCC nền kinh
tế, các báo nên thiết kế 1 box thông tin cung cấp đầy đủ số hiệu, cơ quan ban hành
và thậm chí là địa chỉ mà độc giả có thể tìm kiếm được văn bản đó nhằm phục vụ
cho mục đích khác nhau của độc giả.
Các báo có thể có mục hỏi đáp căn cứ theo tôn chỉ, mục đích của mình. Chẳng
hạn, BTT nên có mục hỏi đáp về quyền lợi của người lao động khi sắp xếp lại các
lao động dôi dư khi DN CPH; họ có được mua cổ phần ưu đãi không, giá cả thế
nào? Trường hợp không có tiền mua thì xử lý ra sao?... TCTCDN cũng có thể hỏi
đáp ở các vấn đề: Cách tính để xác định giá trị DN; Cách tính lợi thế đất vào giá trị
DN?...
Thứ ba, 4 báo cần đẩy mạnh tuyến bài viết nhằm phát hiện, cổ vũ, nhân rộng
những gương điển hình tiên tiến trong việc thực hiến TCC.
Thẳng thắn chỉ ra những trì trệ, ách tắc, thiếu trách nhiệm trong quá trình triển
khai TCC nền kinh tế. Cần thông tin toàn diện, lựa chọn những thông tin thiết thực
mà đông đảo bạn đọc đón đợi. Tránh sử dụng quá nhiều thuật ngữ chuyên môn
trong một bài viết mà không có chú giải đầy đủ, kỹ càng. Những tác phẩm viết về
cơ chế, chính sách, các lĩnh vực kinh tế vĩ mo cần kết hợp nhiều thông tin phân tích
bình giải rõ ràng, giúp các đối tượng thụ hưởng chính sách hiểu đúng và làm đúng.
Giảm thiểu dung lượng chữ trong một bài viết, gia tăng kênh đồ thị, ngôn ngữ phi
văn tự.
Với lợi thế của mình, các cơ quan báo chí trên cần chủ động đứng ra tổ chức
các cuộc hội thảo chuyên đề, các tuyến bài mang tính chuyên đề, bàn tròn với các
chuyên gia, các nhà hoạch định chính sách và các nhà quản lý, để cung cấp thông
tin sinh động hơn, thiết thực hơn đối với độc giả. Qua đó tuyên truyền, định hướng
được những vấn đề đang còn nhiều tranh luận. Bên cạnh đó, để bắt nhịp với xu thế
105
báo chí hiện đại, nâng cao năng lực cạnh tranh thông tin với các cơ quan báo chí
khác, báo chí khối kinh tế cần tăng cường hơn nữa các thể loại bài điều tra, phóng
sự điều tra, thể loại tin để tạo sức hấp dẫn với công chúng độc giả. Thường xuyên
tổng kết, tổ chức khảo sát, nghiên cứu khoa học để đánh giá chính xác chất lượng
hiệu quả tuyên truyền để từ đó điều chỉnh hợp lý thủ pháp tuyên truyền.
Do vậy, các báo cần xác định thời gian tới cần tích cực hơn trao đổi với các bộ
ngành, chủ động chất vấn bộ ngành quản lý về quá trình TCC DNNN. Nên đi vào
những vấn đề cụ thể thay vì chỉ nêu những chủ trương, định hướng chỉ đạo chung
chung.
Ngoài những nội dung trên, báo chí khối kinh tế nói chung và 4 cơ quan báo in
khảo sát nói riêng nên xây dựng định hướng đổi mới theo hướng hiện đại và đa
truyền thông; cần tập trung đầu tư cho kênh online nhằm thu hút bạn đọc, tăng
lượng truy cập, việc này đồng thời với việc tăng được lượng thông tin quảng cáo
vốn rất đang khó khắn đối với hoạt động của báo in. Các báo cũng nên chủ động đặt
vấn đề với các cơ quan quản lý hạ tầng truyền thông để chia sẻ giá trị từ việc bạn
đọc trả tiền truy cập để đọc báo miễn phí. Việc này phù hợp với Đề án Quy hoạch
báo chí đến năm 2025 do Bộ Chính trị vừa thông qua. Theo đó về báo chí in sẽ sắp
xếp lại các cơ quan báo chí theo mô hình một cơ quan báo chí có nhiều ấn phẩm báo
chí; phấn đấu đến năm 2020, các cơ quan báo chí tự chủ về tài chính. Về báo điện
tử, đến năm 2020, báo điện tử trở thành loại hình báo chí chủ lực của các cơ quan
truyền thông đa phương tiện. Nhà nước có cơ chế hỗ trợ việc xây dựng và phát triển
các báo điện tử phục vụ nhiệm vụ chính trị, thông tin, truyên truyền thiết yếu và
phục vụ thông tin đối ngoại.
3.3.2.2. Chú trọng phát triển nguồn nhân lực chuyên nghiệp và cơ chế tài
chính
Để nâng cao chất lượng thông tin, đáp ứng nhu cầu thông tin ngày càng cao
của độc giả, báo chí luôn cần phải chú trọng đến việc phát triển chất lượng nguồn
nhân lực; phát triển trình độ lý luận và kiến thức chuyên môn cho đội ngũ những
106
người làm báo. Do vậy, các cơ quan báo chí nói chung và 4 cơ quan báo chí khảo
sát cần chú trọng tới việc xây dựng và phát triển nguồn nhân lực như tăng cường
phát triển hệ thống cộng tác viên là những người làm công tác chuyên môn, công
tác nghiên cứu, công tác quản lý ngay trong nội bộ cơ quan chủ quản của mình;
quan tâm phát triển đội ngũ cộng tác viên là các nhà nghiên cứu, các nhà quản lý,
các nhà chuyên môn từ các cơ sở đào tạo kinh tế - tài chính. Bên cạnh đó cần xây
dựng mối liên kết với các trường đào tạo, bồi dưỡng báo chí hay các trường khối
kinh tế để tổ chức các khóa học, đào tạo bồi dưỡng cho phóng viên, biên tập viên, tổ
chức Câu lạc bộ nhà báo kinh tế tạo ra sân chơi hấp dẫn cho các nhà báo viết về
mảng đề tài này.
Bên cạnh đó, cần có cơ chế tài chính tốt cho báo chí để nâng cao thu nhập cho
phóng viên, đảm bảo đời sống để phóng viên có điều kiện làm việc và học tập nâng
cao trình độ, hạn chế những tác động tiêu cực đến chất lượng thông tin. Đó là những
việc làm cần thiết để từng bước xây dựng được một hệ thống báo chí kinh tế đủ
mạnh, hình thành được đội ngũ phóng viên, biên tập viên kinh tế chuyên nghiệp,
xứng tầm với sứ mệnh của mình, theo kịp sự phát triển của nền kinh tế đất nước
cũng như hội nhập vào dòng chảy của báo chí kinh tế thế giới.
Thực tế hiện nay, tại 4 cơ quan báo in khảo sát, việc chi trả lương thưởng,
nhuận bút đang có sự chênh lệch khá rõ.
Với BĐT, phóng viên, biên tập viên được lĩnh lương cứng theo các bậc:
1,2,3,4: với người mới có thể chỉ ở bậc 1,bậc 2 nhưng với những người có thâm
niên, có khả năng viết tốt, mức lương có thể là bậc 3, bậc 4 với mức lương 6 triệu, 7
triệu và phụ cấp. Tuy nhiên, mức nhuận bút của tờ này so với một số báo lớn là
không cao, dao động ở mức 150.000-200.000 đ/bài.
Ở BTT trả nhuận bút theo thỏa thuận đầu vào ban đầu và năng suất lao động.
Tuy nhiên, nhuận bút báo này cao hơn hẳn, trung bình mỗi bài khoảng 800.000đ.
Đối với bài độc đáo khoảng 1.500.000 -2.000.000 đ. Tin ngắn cũng ở mức 150.000
- 400.000 đ/tin. Trung bình mỗi phóng viên thu nhập khoảng 15.000.000 đ/tháng.
107
Tương tự BTT, TBKTSG cũng có mức thu nhập khá cao bằng khoảng 80% so với
BTT. Nhuận bút bài cũng khoảng 900.000 đ/bài. Ở TCTCDN , lương được tính
theo hệ số lương nhà nước. Sau đó, tùy vào tình hình tài chính của của báo sẽ có
phần thu nhập tăng thêm. Phần thu nhập này bằng khoảng 50% theo hệ số. Riêng
nhuận bút khoảng 250.000 -350.000 đ/bài. Tổng thu nhập của phóng viên khoảng
7.000.000 đ/tháng.
Với hoàn cảnh khác nhau của 4 cơ quan nói trên, trong bối cảnh hiện này, thiết
nghĩ báo ĐT nên có chế độ nhuận bút tốt hơn, nhằm khuyến khích được cán bộ,
phóng viên, biên tập viên yên tâm công tác và tiếp tục cống hiến. Đồng thời thực
hiện tốt những quy định mới về chế độ nhuận bút tại Nghị định số 18/2014/NĐ-CP
của Chính phủ ngày 14/03/2014.
Ngoài ra, theo khảo sát của người viết đối với 4 báo in, hiện nay thì cả 4 cơ
quan báo chí trên đều thực hiện việc tự chủ hoàn toàn. Doanh thu chủ yếu 4 cơ quan
trên, chủ yếu vẫn từ hoạt động quảng cáo. Ngoài ra, các báo còn khá linh hoạt triển
khai thêm các hoạt động có thu nhằm mang lại nguồn lực cho cơ quan.
Chẳng hạn, với BĐT, cơ quan này đã có những hoạt động cụ thể gắn bó với
cộng đồng, đồng hành cùng DN: Ngoài việc chủ trì tổ chức các cuộc tọa đàm, hội
thảo với các chủ đề về kinh tế, đầu tư, báo còn khởi xướng và tổ chức các giải: Giải
Golf từ thiện thường niên “ Vì trẻ em Việt Nam” (từ 2007 đến 2012 đã huy động
được 4,2 tỷ đồng và trao hơn 5000 suất học bổng cho học sinh, sinh viên nghèo có
thành tích học tập tốt); tổ chức bình chọn và trao giải Báo cáo thường niên tốt nhất
cho nhiều DN; tổ chức chương trình Bình chọn và tôn vinh thành viên thị trường và
DN niêm yết tiêu biểu cho các DN trên thị trường chứng khoán; tổ chức Diễn đàn
DN niêm yết; bảo trợ thông tin và tham gia Hội đồng chấm Giải thưởng Sao Vàng
Đất Việt;… Các hoạt động trên của BĐT thu hút được sự tham gia của nhiều nhà tài
trợ lớn vừa mang lại giá trị kinh tế cũng như nâng cao uy tín của báo trong 20 năm
qua. Và có lẽ chính lý do này mà trong bối cảnh khó khăn của hoạt động quảng cáo
của báo chí nói chung, trong đó có báo in, BĐT dù có bị sụt giảm chút ít so với giai
108
đoạn trước nhưng vẫn là địa chỉ tin cậy cho hoạt động thông tin quảng cáo.
Tiểu kết chƣơng 3
Qua quá trình khảo sát ở chương 2 cho thấy, công tác thông tin tuyên truyền
trên các tờ báo được khảo sát dù đạt được nhiều kết quả tốt: Đã kịp thời đưa chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về TCC DNNN đi vào cuộc sống; cổ vũ
DN, mọi cơ quan ban ngành đẩy nhanh tiến độ, đồng thời phản ánh mọi khó khăn
vướng mắc để cơ quan chức năng kịp thời tháo gỡ… Tuy nhiên, công tác thông tin
về chủ trương lớn này vẫn còn một số yếu điểm đó là: có lúc vẫn còn “chệch
chuẩn”, nóng vội. Việc thông tin vẫn chưa thực sự sát với đời sống cộng đồng DN,
chưa có nhiều tin bài đưa tin chỉ dẫn về cách làm hay của DN hay những thông tin
về sự thất thoát vốn nhà nước mặc dù điều đấy là có trong quá trình thực hiện. Do
vậy, cần nhanh chóng điều chỉnh lại những hạn chế này và đề ra giải pháp phù hợp
để nâng cao chất lượng và hiệu quả thông tin về TCC DNNN nhất là thời gian tới
cùng với việc tổng kết giai đoạn 2010 -2015 về chủ trương này, báo chí cũng cần có
sự tổng kết đánh giá, nhìn nhận vai trò của mình với chủ trương này.
Từ những đánh giá ban đầu đó, chúng ta thấy vấn đề bất cập làm hạn chế chất
lượng thông tin trên báo chí chính là doanh các cơ quan nhà nước, DNNN chưa chú
trọng thông tin cho báo chí; vấn đề minh bạch thông tin ở DNNN còn hạn chế. Mặt
khác, vấn quan điểm của ban biên tập và trình độ của phóng viên cũng cần được
nâng cao hơn nữa…
Để khắc phục những hạn chế này, tác giả mạnh dạn đề xuất một số giải pháp.
Trong đó, đáng chú ý là “minh bạch thông tin” và cần công bố công khai hoạt động
của DNNN trên báo chí…Với những nhận định, đánh giá ưu và nhược điểm cụ thể
này cùng với những giải pháp từ khái quát đến cụ thể trên, hi vọng sẽ góp phần tạo
nên cái nhìn đa sắc, toàn diện hơn để nâng cao chất lượng thông tin trên báo chí về
chủ trương quan trọng này, nhất là công tác TCC DNNN vốn đang vào giai đoạn
109
cao điểm.
KẾT LUẬN
Như vậy, TCC DNNN là một chủ trương đúng của Đảng và nhà nước với mục
đích nâng cao hiệu quả hoạt động của lực lực đầu tàu này. Làm tốt chủ trương này
còn góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế và nâng cao năng
lực cạnh tranh của Việt Nam. Kinh tế thay đổi sẽ góp thêm sức mạnh mọi mặt cho
đất nước trong đó có báo chí. Từ đó, báo chí càng có điều kiện để thể hiện sứ mệnh
của mình, giữ vững và phát huy vai trò của mình đối với đất nước. Với bất cứ một
chủ trương nào, thì vai trò của báo chí trong việc thông tin tuyên truyền đều rất
quan trọng. Và với vấn đề TCC DNNN một lĩnh vực vốn gĩ còn nhiều quan điểm
trái chiều, nhiều ý kiến khác nhau, do vậy, việc tuyên truyền càng quan trọng hơn
bao giờ hết. Thông tin kịp thời và tuyên truyền đúng lúc, đúng trọng điểm để góp
phần làm cho chủ trương đi vào cuộc sống, để cán bộ đảng viên hiểu hơn về chủ
trương, để nhân dân đồng thuận với chủ trương, để Đảng với dân tạo nên một khối
đoàn kết cùng nhau hành động…Do là vấn đề khó, khô, thiếu hấp dẫn nên tuyên
truyền càng phải mềm dẻo, đúng cách, đúng thời điểm, phù hợp từng đối tượng thì
mới có thể đạt hiệu quả cao. Và với sứ mệnh của mình, báo chí cơ bản đã đạt được
những mục tiêu ban đầu đó. TCC DNNN đang có chuyển biến tích cực, đã đi vào
cuộc sống, nhiều DNNN sau tái cơ cấu đã thay da đổi thịt, đã chuyển biến rõ nét.
Tài chính dần ổn định, đời sống người lao động được nâng cao…
Thế nhưng, như đã phân tích ở chương 2. Vẫn còn đó những hạn chế, khiếm
khuyến, có sự chệch chuẩn và có sự nóng vội dẫn đến chưa thực sự đúng trọng tâm;
hiệu quả tuyên truyền chưa đạt kết quả như mong muốn. Những thông tin như vậy
khiến cho một số bộ phận nhân dân mất lòng tin vào DNNN, xem DNNN chỉ là “ăn
hại”, và có ý kiến đòi xóa bỏ vai trò của lực lượng đầu tàu này. Do vậy, báo chí cần
nghiêm túc nhìn nhận lại vai trò của mình chưa thực sự tốt, cần chấn chỉnh. Luận
văn phân tích cũng đã làm rõ, tại sao báo chí chưa làm tốt hoàn toàn. Đó là do công
tác cung cấp thông tin cho báo chí chưa tốt, và vấn đế minh bạch thông tin ở DNNN
còn yếu, che đậy, bưng bít thông tin, né tránh báo chí, né trách nhà đầu tư. Do vậy,
110
để dứt điểm xử lý được hạn chế, cần có sự hành động quyết liệt cả ba phía, chính
quyền, báo chí và cả doanh nghiệp. Chính quyền cần đẩy mạnh tuyên truyền, cung
cấp thông tin cho báo chí và ban hành quyết định buộc DNNN phải cung cấp thông
tin. Báo chí cần thông tin đủ, phân tích khách quan, không cắt câu, bẻ chữ để mọi
người dân hiểu, tin đồng hành với Chính phủ. Với DNNN cần coi báo chí là bạn
đồng hành, cần hiểu rằng: báo chí thông tin là để DN mạnh lên chứ không phải làm
mình yếu đi….
Làm được như vậy, mới hi vọng, chất lượng thông tin về TCC DNNN được
nâng lên, góp phần vào mục tiêu chung của Đảng, Chính phủ là TCC DNNN thành
111
công, xứng đáng là lực lượng đầu tàu của nền kinh tế.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Tư tưởng – Văn hóa Trung ương (2005), Tiếp tục thực hiện Chỉ thị 22-
CT/TW của Bộ Chính trị (Khóa VIII) về đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo, quản lý
công tác báo chí, xuất bản, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
2. Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (19/1/2011), Nghị
quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI.
3. Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Nghị quyết
Hội nghị lần thứ 3, Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về tiếp tục đổi mới,
sắp xếp phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN.
4. Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (29/10/2012), Kết
luận số 50-KL/TW.
5. Ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam (2011), Báo cáo chính
trị tại Đại hội X của Đảng
6. Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Thông tin truyền thông (2012), Báo cáo
đánh giá công tác xuất bản báo chí năm 2012 và một số nhiệm vụ chủ yếu năm
2013, Quảng Ninh.
7. Báo Đầu tư năm 2012
8. Báo Đầu tư năm 2013
9. Báo Tuổi trẻ TP Hồ Chí Minh năm 2012
10. Báo Tuổi trẻ TP Hồ Chí Minh năm 2013
11. Bộ Chính trị (2010), Kết luận số 78/TW (ngày 27/6/2010) về việc Báo cáo
kết quả kiểm tra thực hiện Nghị quyết Trung ương 3, Trung ương 9 (khóa IX) và
Nghị quyết Đại hội X của Đảng về tiếp tục sắ xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao
hiệu quả DNNN.
12. Bộ Chính trị (2012), Nghị quyết Trung ương 6 (khóa XI)
13. Bộ Chính trị (2012), Nghị quyết Trung ương 3 (khóa XI)
14. Bộ Chính trị (2011), Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI
112
15. Bộ Tài chính (2011), Báo cáo tổng kết về tình hình hoạt động DNNN
16. Bộ Tài chính (2013), Thông tư 171/2013/TT-BTC (ngày 20/11/2013) về
việc hướng dẫn công khai thông tin tài chính theo quy định tại Nghị định số
61/2013/NĐ-CP của Chính phủ.
17. Chính phủ, Báo cáo tình hình kinh tế xã hội năm 2012 và nhiệm vụ năm
2013.
18. Chính phủ (2013), Nghị định số 61/2013/NĐ-CP ngày 25/6/2013 về việc
ban hành Quy chế giám sát tài chính và đánh giá hiệu quả hoạt động và công khai
thông tin tài chính đối với DN do nhà nước làm chủ sở hữu và DN có vốn nhà nước.
19. Chính phủ (2011), Báo cáo 262/BC-CP ngày 23/11/2011 về thực trạng
hoạt động của TĐ, TCT nhà nước giai đoạn 2006-2010 và phương hướng, nhiệm
vụ, giải pháp giai đoạn 2011-2015.
20. Chính phủ, Ban chỉ đạo Đổi mới và Phát triển DN (2011), Báo cáo tại Hội
nghị tổng kết 10 năm sắp xếp đổi mới DNNN, Hà Nội.
21. Chính phủ (2012), Chỉ thị số 03/CT-TTg của Thủ tướng ngày 17/1/2012 về
việc đẩy mạnh TCC DNNN
22. Chính phủ (2012), Quyết định số 929/QĐ-TTg về việc phê duyệt Đề án
“TCC DNNN, trọng tâm là Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty Nhà nước giai đoạn
2011-2015”
23. Chính phủ (2013), Quyết định phê duyệt Đề án Tổng thể TCC kinh tế gắn
với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao cao chất lượng, hiệu quả
và năng lực cạnh tranh giai đoạn 2013-2020
24. Chính phủ (2012), Nghị định 99/2012/NĐ-CP ngày 15/11/2012 về phân
công, phân cấp thực hiện các quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà
nước đối với DNNN và vốn nhà nước đầu tư vào DN.
25. Chính phủ (2014), Hồ sơ Dự án Luật Đầu tư và Quản lý vốn nhà nước
Đầu tư tại DN.
26. Chính phủ (2014), Tài liệu Hội nghị Triển khai nhiệm vụ TCC DNNN
113
2014-2015 (ngày 18/2/2014), Hà Nội.
27. Hoàng Đình Cúc và Đức Dũng (2007), Những vấn đề của báo chí hiện
đại, Nxb Lý luận Chính trị, H,.
28. Đức Dũng (2002), Viết báo như thế nào, NXB VHTT Hà Nội.
29. Nguyễn Văn Dững (2011), Báo chí truyền thông hiện đại (Từ hàn lâm đến
đời thường), Nxb ĐHQGHN.
30. Hà Minh Đức (1997), Báo chí những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Đại
học Quốc gia, Hà Nội.
31. Hà Minh Đức (1997), Báo chí với sự nghiệp đổi mới, Nxb ĐHQG Hà Nội
32. Trần Bắc Hà, bài phát biểu của tại Hội nghị triển khai nhiệm vụ TCC
DNNN giai đoạn 2014-2015 (21/2/2014), Hà Nội. http://bidv.com.vn/Tin-tuc-su-
kien/Tin-BIDV/B--224;i-ph--225;t-bieu-cua-Chu-tich-HDQT-BIDV-Tra.aspx
33. Vũ Quang Hào (2008), Ngôn ngữ báo chí (tái bản), Nxb ĐHQG Hà Nội.
34. GS. TS. Vương Đình Huệ (2010): Giải pháp chủ yếu nhằm tái cấu trúc
DNNN (Trọng tâm là tập đoàn kinh tế, Tổng công ty nhà nước), webtise Bộ Tài
chính.
http://www.mof.gov.vn/portal/page/portal/mof_vn/TCTDNNN?p_page_id=48
626205&pers_id=48624555&item_id=50649615&p_details=1
35. Hoàng Trần Hậu (2012), Định hướng, giải pháp tái cấu trúc DNNN, Đề
tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ năm 2011.
36. Đinh Văn Hường (2004), Tổ chức và hoạt động của tòa soạn, Nxb ĐHQG
Hà Nội
37. TS Trần Du Lịch (2011), Nhận diện vấn đề và định hướng tái cấu trúc nền
kinh tế, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, ĐH Kinh tế TPHCM, số Xuân 2012
38. Mai Quỳnh Nam (1995), Dư luận xã hội, mấy vấn đề lý luận và phương
pháp nghiên cứu, Tạp chí Xã hội học, số 1.
39. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia- Sự thật, Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh
tế Trung ương, Thời báo Kinh tế Việt Nam, Công ty Thanh niên Việt Nam (2009),
Kỷ yếu hội thảo Tập đoàn kinh tế lý luận và thực tiễn (ngày 25/5/2009), Hà Nội.
114
40. Hoài Nguyễn (2011), TCC nền kinh tế: Phải đổi mới từ... cái đầu,
http://ddDN
.com.vn/doanh-nghiep/tai-co-cau-nen-kinh-te-phai-doi-moi-tu-
cai-dau-20111021035156327.htm
41. Hoàng Phê, Trung tâm từ điển Vietx (2007), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà
Nẵng.
42. Philippe Gaillard (2007), Nghề làm báo, Nxb Thông Tấn, Hà Nội.
43. Trần Quang (2005), Các thể loại báo chí chính luận, Nxb ĐHQG Hà Nội.
44. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Hiến pháp
2013.
45. Dương Xuân Sơn, Đinh Văn Hường, Trần Quang (2004), Cơ sở lý luận
báo chí truyền thông, Nxb ĐHQGHN, Hà Nội.
46. Nguyễn Phú Trọng (2011), Phát biểu bế mạc Hội nghị lần thứ ba Ban
chấp hành Trung ương Đảng kháo XI (10/10/2011)
47. TS. Phạm Tất Thắng (2014): Báo chí và DN - Mối quan hệ gắn bó, Tạp
chí Cộng sản http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Binh-luan/2014/29858/Bao-
chi-va-doanh-nghiep-Gan-bo-hop-tac-va-chia-se.aspx
48. TS Phạm Thắng, TS Hoàng Hải (2005), Vai trò của Báo chí trong phát
triển DN, Nxb Lao động, Hà Nội.
49. Hữu Thọ (1992), Định hướng và Chính sách, Ban Tư tưởng Văn hóa
Trung ương- Bộ Văn hóa Thông tin.
50. Hữu Thọ (1998), Công việc người viết báo, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
51. Tạp chí Tài chính doanh nghiệp năm 2012
52. Tạp chí Tài chính doanh nghiệp năm 2013
53. Thời báo Kinh tế Sài gòn năm 2012
54. Thời báo Kinh tế Sài gòn năm 2013
55. Tạ Ngọc Tấn (2004), Hồ Chí Minh bàn về báo chí, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
57. Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Ủy Ban Kinh tế Quốc hội, Viên
56. Thomas L.Fiedman (2006), Thế giới phẳng, Nxb Trẻ, TP Hồ Chí Minh
115
Nghiên cứu Chính sách Quốc gia Nhật Bản (2010), Kỷ yếu Hội thảo Khoa học
Quốc tế “Chất lượng tăng trưởng Kinh tế Việt Nam: Giai đoạn 2001-2010”, Nxb
58. Linh Thư (2015), Đặt báo chí dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng,
http://vietnamnet.vn/vn/chinh-tri/216312/dat-bao-chi-duoi-su-lanh-dao-truc-tiep-cua-
dang.html
59. Lê Phương Vân (2014), Luận văn thạc sĩ, vấn đề TCC nền kinh tế
trên báo chí kinh tế Việt Nam, ĐHKHXHNV(ĐHQGHN).
60. Viện chiến lược và Chính sách Tài chính (2012), Tài chính Việt Nam
Đại học Kinh tế Quốc dân.
2011, Tái cấu trúc và minh bạch chính sách, Nxb Tài chính.
61. V.V Vorosilop (2004), Nghiệp vụ báo chí lý luận và thực tiễn, Nxb Thông
tấn, Hà Nội.
116
62. Một số trang web: www.uman.com.vn ; www.wikipedia.org ;
PHỤ LỤC 1
CÁC VĂN BAN QUY PHẠM PHÁP LUẬT LIÊN QUAN ĐẾN DNNN
Ban hành trong 2 năm 2012-2013
Các Nghị định, quyết định của Chính phủ, Thủ tƣớng Chính phủ
STT SỐ/KÍ HIỆU TÊN VĂN BẢN NGÀY BAN HÀNH
1 99/2012/NĐ-CP 15/11/2012
Về phân công, phân cấp thực hiện các quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước và vốn Nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp
2 50/2013/NĐ-CP 14/05/2013
Quy định quản lý lao động, tiền lương và tiền thưởng đối với người lao động làm việc trong công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu
3 51/2013/NĐ-CP 14/05/2013
Quy định chế độ tiền lương, thù lao, tiền thưởng đối với thành viên Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty, Kiểm soát viên, Tổng giám đốc hoặc Giám đốc, Phó tổng giám đốc hoặc Phó giám đốc, Kế toán trưởng trong công ty TNHH MTV do Nhà nước làm chủ sở hữu
4 07/06/2013 35/2013/QĐ-TTg
Ban hành Quy chế hoạt động của Kiểm soát viên công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ
5 61/2013/NĐ-CP 25/06/2013
Về việc ban hành Quy chế giám sát tài chính và đánh giá hiệu quả hoạt động và công khai thông tin tài chính đối với DN do NN làm chủ sở hữu và doanh nghiệp có vốn NN.
6 71/2013/NĐ-CP 11/07/2013 Về đầu tư vốn nhà nước vào doanh nghiệp và quản lý tài chính đối với doanh nghiệp do Nhà nước năm giữ 100% vốn điều lệ
7 118/2013/NĐ-CP 09/10/2013 Về Điều lệ tổ chức và hoạt động của Tập đoàn Dệt May Việt Nam
8 151/2013/NĐ-CP 01/11/2013 Về chức năng, nhiệm vụ và cơ chế hoạt động của Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước.
9 172/2013/NĐ-CP 13/11/2013
Về thành lập, tổ chức lại, giải thể công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu và công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là công ty con của công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu
10 175/2013/NĐ-CP 13/11/2013 Về Điều lệ tổ chức và hoạt động của Tổng công ty Đường sắt Việt Nam
11 184/2013/NĐ-CP 15/11/2013 Về Điều lệ tổ chức và hoạt động của Tổng công ty Hàng hải Việt Nam
12 189/2013/NĐ-CP 20/11/2013
Sửa đổi bổ sung Nghị định 59/2011/NĐ-CP ngày 18/7/2011 của Chính phủ về chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần
13 74/2013/QĐ-TTg 05/12/2013
Ban hành Quy chế thí điểm chuyển đổi Công ty phát triển hạ tầng khu công nghiệp hoạt động theo mô hình đơn vị sự nghiệp có thu thành Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu
14 205/2013/NĐ-CP 06/12/2013 Về Điều lệ tổ chức và hoạt động của Tập đoàn Điện lực Việt Nam
15 206/2013/NĐ-CP 09/12/2013
Thay thế Nghị định số 69/2012/NĐ-CP ngày 12/7/2012) về quản lý nợ của doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ
16 21/2012/QĐ-TTg 10/05/2012 Ban hành quy chế quản lý và sử dụng Quỹ hỗ trợ sắp xếp và phát triển doanh nghiệp
17 929/2012/QĐ-TTg 17/07/2012
Phê duyệt Đề án tái “Cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là Tập đoàn kinh tế, Tổng Công ty nhà nước giai đoạn 2011-2015”
18 952/2012/QĐ-TTg 26/07/2012 Một số cơ chế tài chính của Công ty TNHH NN một thành viên Lọc Hoá dầu Bình Sơn
19 2344/2013/QĐ-TTg 02/12/2013 Phê duyệt tái cơ cấu Tổng công ty đầu tư kinh doanh vốn nhà nước (SCIC)
Thông tƣ do Bộ Tài chính ban hành
20 41/2012/TT-BTC 09/03/2012
Hướng dẫn mức thu một số loại phí hàng hải đối với tàu thuỷ có trong tải lớn cập cảng Cái Mép- Thị Vải.
21` 2857/QĐ- BTC 13/08/2012 Quy chế “ Tài chính của Công ty TNHH MTV mua bán nợ Việt Nam”
22 55/2012/ TT-BTC 09/04/2012 Hướng dẫn phương pháp xác định giá trị vườn cây cà phê, vườn cây chè gắn với cơ sở chế biến khi cổ phần hoá
23 137/2012/TT-BT 20/08/2012 Hướng dẫn quản lý tài chính đảm bảo cung ứng dịch vụ bưu chính công ích giai đoạn 2011- 2013
24 138/2012/TT-BTC 20/08/2012 Hướng dẫn phân bổ giá trị lợi thế kinh doanh đối với doanh nghiệp cổ phần được chuyển đổi từ công ty nhà nước.
25 184/2012/TT-BTC 25/10/2012
Hướng dẫn một số nội dung của Quy chế quản lý và sử dụng Quỹ hỗ trợ sắp xếp và phát triển Doanh nghiệp ban hành kềm theo QĐ số 21/2012/QĐ-TTg ngày 10/5/2012
26 26/11/2012 206/2012/TT-BTC Hướng dẫn việc lập, quản lý và sử dụng các quỹ tập trung của Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam
18/01/2013 27
Cơ chế quản lý, sử dụng Quỹ hỗ trợ sắp xếp doanh tại các Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty nhà nước công ty mẹ trong tổ hợp công ty mẹ - công ty con 10/2013/TT - BTC
09/08/2013 28 1905/QĐ-BTC Phê duyệt Đề án tái cơ cấu Công ty mua bán nợ Việt Nam
13/11/2013 29 158/2013/TT-BTC Hướng dẫn giám sát tài chính và đánh giá hiệu quả hoạt động đối với DN do nhà nước làm chủ sở hữu và doanh nghiệp có vốn nhà nước
20/11/2013 30 171/2013/TT-BTC Hướng dẫn công khai thông tin tài chính theo quy định tại Nghị định số 61/2013/NĐ-CP ngày 25/6/2013 của Chính phủ
31 194/2013/TT-BTC 17/12/2013
Hướng dẫn tái cơ cấu doanh nghiệp 100% vốn nhà nước không đủ điều kiện cổ phần hóa theo quy định tại Nghị định số 59/2011/NĐ-CP ngày 18/7/2011 của Chính phủ về chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần
Phụ lục 2
BẢNG THỐNG KÊ TIN BÀI VỀ TÁI CƠ CẤU DNNN
TRÊN 04 BÁO KHẢO SÁT
Phụ lục 2.1
BẢNG THỐNG KÊ TIN BÀI VỀ TÁI CƠ CẤU DNNN
TRÊN BÁO ĐẦU TƢ
STT Tít bài báo – tác giả Trang
1. Tiền đâu để tái cơ cấu - Hà Tâm 5
2. Cổ phần hóa với tái cấu trúc DNNN- Bảo Duy 1-14
3. Bốn rào cản tái cấu trúc DNNN- Phùng Hoàng 9 Cơ
4. Khắc phục hạn chế trong đề án tái cơ cấu 5
5. VNF1 không thiếu tiền tái cơ cấu – Hà Tâm 5 Số báo – ngày xuất bản 99 17/8/2012 102 24/8/2012 103 27/8/2012 103 27/8/2012 105 31/8/2012
6. Tập đoàn Dầu khí VN: 10 Lập ra quá nhiều công ty cháu - Thanh Hương Số 110 12/9
5 7. Loại bỏ “kinh tế địa tô” - Bảo Duy Số 112 17/9
8. CPH DNNN: Bó chân vì ôm đồm – Bảo Duy 5
9. Tập đoàn hay TCT NN: 5
Tiêu chí bỏ, chọn – Bảo Duy
10. Tìm giải pháp tái cơ cấu DNNN - Tuấn Vũ 2
11. Xác định rõ cơ quan thực hiện quyền chủ sở 5 Số 115 24/9 Số 120 Ngày 5/10/2012 Số 127. 22/10/2012 Số 127 22/10/2012
hữu nhà nước – Bùi Văn Dũng- trưởng ban cải cách phát triển doanh nghiệp CIEM
12. Tái cấu trúc DNNN phải bắt đầu từ lãnh đạo 5 cao nhất - Thanh Vũ
13. Lấp đầy khoảng trống pháp lý về DNNN 5 Số129. 26/10/2012 Số 131 31/10
10 14. Sắp xếp lại vinaphone và Mobiphone: VNPT khó được hưởng miễn trừ- Huyền Anh Số 133 5/11
15. Phân vân quản lý DNNN- bảo duy 10
16. Vinachem rút khỏi hóa dầu 1
17. Thấu đáo trách nhiệm chủ sở hữu nhà nước Số 137 14/11 Số 140 21/11 Nt 3
18. Tập trung kiểm toán DNNN 3 Mạnh bôn Số 141 23/11
19. Khó đánh giá thông tin DNNN- Khánh An 3 142 26/11
20. Đánh giá DNNN chỉ để xếp lương – Bảo Duy Nt 5
21. Quy định rõ trách nhiệm chủ sở hữu nhà nước – 3 134 28/11 Khánh An
22. AMC cứu cánh để xử lý nợ tồn- Mạnh Bôn Nt 11
23. Vinacomin rời sân chơi bảo hiểm – Chí Tín 6
24. Vinatex thoái vốn tại công ty cổ phần bia sài 3 146 5/12 147 7/12 gòn – quảng ngãi
25. Vinatex dồn dập thoái vốn ngoài ngành – Thế 6 148 10/12 Hải
26. DNNN muốn tiếp nhận khoản hỗ trợ từ ADB: Nt 15 Phải chấp nhận minh bạch thông tin – Bảo Duy
27. Tổng công ty bưu điện VN: 5 21/12 Có lẽ vẫn phải phụ thuộc VNPT -Hữu Tuấn
28. Không có kịch bản chung khi tái cơ cấu vốn 5 131. 31/10/2012 DN - Đình Bắc
29. Bắt đầu triển khai đề án tái cơ cấu Vinalines- 2 26 1/3/2013 Anh Minh
30. 5 doanh nghiệp lọt vào danh sách ngắn hỗ trợ 2 tái cơ cấu của ADB
31. Doanh nghiệp nghành giao thông tự cứu mình 10 qua tái cơ cấu- Anh Minh
32. Tái cơ cấu EVN đường còn gập ghềnh – Thanh 8 Hương
33. Vẽ lại bức tranh DNNN – Khánh An 9
34. Hình thành đề án tái cơ cấu VNA – Anh Minh 2
35. Tái cơ cấu tập đoàn, tổng công ty nhà nước xin 1-4
31 13/3/2013 38 29/3/2013 01/2013 02/1/2013 01 02/01/2013 07 16/1/2013 08 18/1/2013 09 cơ chế thoái vốn – Bảo Duy 36. Bật đèn xanh để tái cơ cấu VNA 5
37. Câu hỏi về tính tuân thủ của DNNN - Bảo Duy 1-3
38. Số lượng DNNN cổ phần hóa 1
39. Vicem hoàn thiện phương án thực hiện cổ phần 2 hóa – Hải yến
40. Dồn sức tái cơ cấu doanh nghiệp viễn thông – 9 Nhã Nam
41. ADB khuyến mãi trong cải cách DNNN – Bảo 4 Duy
42. Lộ diện DNNN được hỗ trợ -Khánh An 5
43. Vicem sẽ hoàn tất cổ phần hóa đúng hẹn – Thế 12
Hải
44. DATC được chủ động tái cơ cấu DNNN – 2 Mạnh Bôn
45. Thúc đẩy tiến trình CPH DNNN: Đề xuất loại 5 bỏ một số lĩnh vực 21/1/2013 10 23/1/2013 10 23/1/2013 10 23/1/2013 15 4/2/2013 43 10/4/2013 55 08/05/2013 63 27/5/2013 86 19/07/2013 90 29/7/2013
Phụ lục 2.2
BẢNG THỐNG KÊ TIN BÀI VỀ TÁI CƠ CẤU DNNN
TRÊN BÁO TUỔI TRẺ
STT Tít bài báo – tác giả Trang
1. Sẽ giảm còn 5-7 tập đoàn NN – Võ Văn 3 Thành
2. Tổ chức lại một số tập đoàn NN – 17 V.V.Thành
3. Khó xử lý nợ xấu nếu chưa phân loại: Cần 16 giảm mạnh DNNN- L.Thanh; C.V.Kình
4. Bàn ba nhóm vấn đề khó, nhạy cảm 1-3
5. Tái cơ cấu hai tập đoàn nghành xây dựng: 7 Giảm gánh nặng cho nhà nước.
7 6. Tái cơ cấu tập đoàn, DNNN sẽ rõ địa chỉ trách nhiệm - V.V.Thành; Trần Vũ Nghi
7. Tái cấu trúc – Giữa nói và làm – Phạm 1-4 Duy Nghĩa
8. VNA phải cổ phần hóa – V.V.Thanh 4 Số báo – ngày xuất bản 242 06/09/2012 243 07/09/2012 256 20/9/2012 268 02/10/2012 274 08/10/2012 296 30/10/2012 42/2013 19/2/2013 19 19/1/2013
9. Diễn đàn doanh nghiệp VN: Làm thật thay 1-6 vì nghe và hứa – C.V.Kình 147 4/6/2013
6 10. Sẽ giảm mạnh vốn nhà nước tại doanh nghiệp – V.V.Thành; C.V.Kình 185 12/7/2013
Phụ lục 2.3
BẢNG THỐNG KÊ TIN BÀI VỀ TÁI CƠ CẤU DNNN
TRÊN THỜI BÁO KINH TẾ SÀI GÒN
STT Tít bài báo Tác giả Trang
1. Đẩy xuống nước cho tự bơi Lời BBT
1 8 2. - Phân quyền mạnh hơn cho Số báo – ngày xuất bản Số 32 2/8/2012 Ngọc Lan quản lý DN
3. Mục cải cách DNNN:
11 11+12 14 Ngọc Lan Tư Giang Giang Anh - Tái cơ cấu DNNN: Mò mẫm - Còn nhiều việc phải làm - Chưa chạm đến cốt lõi tái cơ
19 19 6 cấu 4. Nợ của DNNN 5. DNNN cắt lỗ 6. Đầu tư ngoài ngành mỗi cơ quan Hải Lý Hải Lý Tư Giang một con số
7. Giải tán bớt tập đoàn Ngọc Lan 9 +67
Số 33 9/8/2012 Số 34 16/8 Số 34 16/8 Nt 52 8. Tái cơ cấu VNPT: Phục hồi độc Vũ Xuân Tiền quyền
10 9. Cứu ngân sách hay cứu nền kinh Tấn Đức Số 34 tế
10. Tiền thu từ CPH đi về đâu Hải Lý Số 34 11+12
11. Phác thảo hình hài nợ DNNN Tư Giang Số 34 46+47
12. Khó tiếp cận số liệu nợ công Tư Hoàng Số 34 48
13. Tái cấu trúc kinh tế: Bàn dễ, làm TS Phạm Đỗ Chí 14+15 khó Số 35 23/8
14. Tập đoàn chưa mang lại lợi ích Lan Nhi 46 gì cho DN
15. Dự án đầu tư công cần đảm bảo Vũ Xuân Tiền Số 36 30/8 Số 36 50 tính khả thi
16. Đã thí điểm, cần tổng kết BBT 1
17. Thuyền thúng sẽ vẫn là thuyền Tấn Đức thúng
18. Quản trị và giám sát tập đoàn Nguyễn Tú Anh Số 38 13/9/2012 Số 38 Số 39 47 +48 13-14
KTNN 20/9
19. Những cục nợ chạy lòng vòng Ngọc Lan 15-16
20. DATC nên thuộc Chính phủ Ngọc Lan 16-17
21. Vì sao chỉ mua nợ DNNN Lan Nhi 15
22. Nợ xấu DNNN tới 200 nghìn tỷ PV 7 đồng Số 39 20/9 Số 39 20/9 Số 40 27/9/ Số 41 4/10/2012
23. Cải cách DNNN: Ngọc Lan 12-13 Số 42 11/10 Chấn chỉnh DNNN bằng luật mới
24. Tìm lối ra cho Vinashin Hải Lý 9-10
25. Tránh vết xe đổ của mô hình Tâm Dân Số 43 18/10 Số 43 45 “siêu bộ”
26. Kết thúc thí điểm tập đoàn TS Lê Đăng Doanh Số 46 10-11 8/11 KTNN: Cần một ủy ban độc lập
nt 27. Trục vớt Vinashin Ngọc Lan 12-13
nt 52 28. Mô hình nào cho quản lý tập Minh Minh đoàn ?
nt 53 29. Vẫn được đầu tư ngoài ngành Ngọc Lan
30. Ai giám sát DNNN Tư Giang 9-10
53 31. Dò dẫm mô hình mới Chiến Thắng
52 32. Luật của bầu trời Trường Nam
19 33. Tái cơ cấu không phải là mỹ từ Tâm Dân
9 34. Dân nào giám sát nổi tập đoàn Tư Giang
10 35. Bàn mãi cũng chỉ là bàn chơi Tư Hoàng
9 36. Gánh nặng Vinashin Hải Lý
10 37. Đẩy nợ về tương lai Ngọc Lan
19 38. Tái cơ cấu Vinalines: Phụ thuộc Ngọc Lan Vinashin
39. Chưa thể hi vọng một cuộc “lột Tấn Đức 17-18 Số 49 29/11 Số 51 13/12 Số 2 10/1 Số 3 17/1 Số 5 31/1 Số 5 31/1 Số 8 21/2 Số 8 21/2 Số 9 28/2 Số 10 7/3/2013 xác”
40. SCIC rồi đến SIC – chưa hết lo Hồng Phúc 18-19
41. Nhiệm vụ bất khả thi Tấn Đức 19
42. Phá sản Vinashin, tại sao không? Hải Lý 9-10
43. Nỗ lực lội ngược dòng của Ngọc Lan 10-11 PVFC Số 11 14/3 Số 11 14/3 Số 12 21/3 Số 12 21/3
44. Dư nợ DNNN ít vậy thôi sao? Tư Giang 11 Số 14 4/4/2013
45. Chưa có lối thoát cho Vinashin Ngọc Lan 12-13 Số 14 4/4/2013
46. Chưa thành tiền lệ đã có người Ngọc Lan 9
theo Số 15 11/4
47. Luật lệ bị phớt lờ Hồng Phúc 20-21
48. Nợ xấu ở SHB Hải Lý Số 16 18/4 49-50
49. Không chỉ làm sạch sổ sách Lan Nhi 16 50-51
50. Vì sao chủ nợ ngập ngừng Ngọc Lan 9
51. Một năm bước ra ánh sáng Hồng Phúc Số 18 2/5 32
52. Bán DNNN để cứu DNNN, tạo Hồng Phúc 20-21 sao không? Số 19 9/5
53. Có ai mua cảng biển không? Hồng Phúc 22
54. Vai trĩu nặng nợ thì không thể an Tư Giang 11+12 lòng Số 20 16/5
55. Cải cách DNNN vẫn chậm chạp Tư Hoàng 8 Số 21 23/5
56. “Chủ đạo” chỏi lại “bình đẳng” Chiến Thắng 9
57. Vì sao DNNN khó minh bạch Đinh Tuấn Minh 16+17 thông tin Số 23 6/6 Số 25 20/6
58. Khi cơ quan quản lý nhường Lan Nhi 16 bước
59. Không cần thiết thì nên bỏ Chiến Thắng 17
60. Kinh tế nhà nước hay DNNN là Nguyễn Tú Anh 12 chủ đạo Số 26 27/6
61. Đầu tư ngoài ngành: Vẫn được Ngọc Lan 50 bật đèn xanh
62. Điều lệ mẫu không là chìa khóa Vũ Xuân Tiền 58-59 vàng Số 27 4/7
63. Có ép được DNNN minh bạch Tư Giang 18-19 thông tin Số 28 11/7
64. Để giảm thiệt hại cho DNNN Ngọc Lan 21
65. Thoái vốn ngoài ngành: văn bản Hồng Phúc 53-54 Số 29 18/7 mới, băn khoăn mới
66. Đẩy nhanh tiến độ sắp xếp các PV 7 DN thuộc Vinashin Số 30 23/7
67. Nợ xấu các DNNN sắp được xử Ngọc Lan 24 lý
68. CPH 10 đơn vị đường sông Bá Đàn 6
69. Giám sát đặc biệt DNNN: Quyền Thành Nam 53 Số 31 1/8
đặc phá sản, giải thể
70. Vinashin chính thức thoát vụ Ngọc Lan 6 kiện quốc tế Số 32 8/8
71. Gánh nặng đơn vị hành chính sự Sơn Nghĩa 22 nghiệp
72. CPH, hay bình mới rượu cũ Quang Chung 23-24
73. Quỹ hỗ trợ sắp xếp DN đạt hơn Hồng Phúc 6 45.000 tỷ đồng Số 33 15/8
74. Thà một lần đau Phi Tuấn 13
75. Thoái trào Thanh Hương 12-13 Số 34 22/8 Số 35 29/8
Phụ lục 2.4
BẢNG THỐNG KÊ TIN BÀI VỀ TÁI CƠ CẤU DNNN
TRÊN TẠP CHÍ TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
STT Tít bài báo Tác giả Trang
Số báo – ngày xuất bản Tháng 8 8 1. Phê duyệt đề án tái cơ cấu Hải Dương DNNN
9-10 2. CPH DNNN: Hoàn thiện cơ chế, tạo lập lộ trình mới
14-16 3. Xây dựng chiến lược kinh Ths Nguyễn Duy Long Lê Thanh Hải
doanh: Nhìn từ tổng công ty than khoáng sản và thương mại Hà Tĩnh
PV Tháng 9 2-3
4. Tăng tốc cuối năm, chú trọng sắp xếp lại tập đoàn kinh tế 5. Xử lý nợ xấu: nên thực hiện Lan Phương 18-21 “nguyên tắc Hà Nội”
6. Các TĐ, TCT tiết kiệm 14.000 PV Tháng 10 5 tỷ đồng
7. DNNN- một số vấn đề, thực Phạm Đình Soạn 12-13-14 trạng và giải pháp
8. Tái cơ cấu DNNN: Các ông lớn Hải Dương 16-17 nhập cuộc thoái vốn
9. Dừng thí điểm tập đoàn: Đâu là Hoàng Hà 20-21 nguyên nhân cốt lõi
20 10. Tái cơ cấu DNNN: Sẽ có bước
22 PGS TS Trần Đình Thiên PV
Lan Phương 30-31 tiến trong thời gian tới 11. Hai phương án điều chỉnh lương, thưởng tại DNNN 12. Xử lý nợ gắn với tái cơ cấu
DNNN: Nên phát hành chứng thư bảo lãnh DATC
Bích Thủy Tháng 11 22-23
13. Tái cơ cấu DNNN: Chờ những cái cần nhưng chưa đủ thì không làm được gì
14. Minh bạch thông tin về nợ: Trang Lê 34-35 Xưa như diễm
Hạnh Trần Tháng 12 30-31
15. Chuyển đổi chủ sở hữu thông qua mua bán nợ: Thiếu chiến lược với nhà đầu tư chiến lược
16. Các TĐ, TCT quyết tâm vượt Hà Minh khó Tháng 1+2/2013 4-7 11-13
17. Nhiều con nợ khó đòi được Nguyễn Phượng 32-33 DATC cứu vớt
18. CPH đang phá tiến độ: Vẫn là Hà Minh Tháng 3 18-19 xác định giá trị đất
Trang Lê 28-29
19. Chứng khoán hóa các khoản nợ cần gắn với nhiệm vụ tái cơ cấu DN
20. CPH ở Đức: Vì lợi ích công Thu Hương 36
PV Tháng 4 2
21. Hoàn thiện dự thảo Luật quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất- kinh doanh
22. Xây dựng hệ thống bảng lương 20-23
theo chức danh công việc cho công chức Ths Hà Huy Hào- PGS TS Lê Thanh Hà
23. Hậu VAMC: Nợ xấu biến mất Trang Lê 32-33 hay biến chất
24. Thoái vốn không trốn, không Hạnh Trần Tháng 5 8-9 chờ
25. CPH DNNN: Định giá đang Hà Minh 23-24 phá tiến độ
26. Xử lý nợ xấu bất động sản: Trang Lê 28-29
DATC nên là nhà cung cấp bảo lãnh tín dụng
27. VAMC: Trái phiếu hay giấy nợ Ths Lê Hà Trang Tháng 6 28-29
28. Tái cơ cấu DNNN: Quy định PV Tháng 7 2 chung và trách nhiệm riêng
2-3 PV 29. Cục TCDN: tiếp tục xây dựng các đề án về tái cơ cấu DNNN
4-5 Hạnh Trần 30. Đầu tư vốn nhà nước vào DN: Điều đến đâu, chỉnh thế nào?
5 PV
31. Góp ý vào dự thảo Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào DN
6-7 32. Tái cơ cấu DNNN: Đã chậm lại Trần Hải xin lùi
8 33. Ban hành quy chế giám sát tài PV chính doanh nghiệp
34. Giám sát TCDN: Quan trọng là Hà Trâm 10-11 cơ chế, chính sách
35. Cổ tức nghìn tỷ: Bỏ quên có Trần Văn Hiền chủ ý 11-13 +32
Trần Văn Đạt 14-15
36. Xây dựng chiến lược kinh doanh cho công ty TNHH MTV cảng Nghệ Tĩnh giai đoạn 2012-2020
37. Để phân đúng loại DNNN 16-17
Ths Nguyễn Duy Long Đoàn Đức Hiếu
38. VAMC mua nợ xấu: trả giá hay Trang Lê 20-21 ép giá
39. Tài chính DN phải là lĩnh vực Mai Thanh Tháng 8 2-3 luôn đi tắt đón đầu
Vương Hồng Hà 8-9
40. Một số điểm mới khi đầu tư vốn nhà nước vào DN 41. Nợ của DNNN không được Thu Hương 22-23 tính vào nợ công
42. Mua bán và xử lý nợ: Nợ tăng, Phương Chi 24-25 xử lý giảm
43. Tái cơ cấu DATC: Nâng tầm cả Hà Trâm 26-27 mẹ lẫn con
Phụ lục 3
PHẦN PHỎNG VẤN SÂU CÁC THÀNH VIÊN BAN SOẠN THẢO ĐỀ ÁN TÁI CƠ CẤU DNNN, CƠ QUAN QUẢN LÝ VÀ NGƢỜI LÀM BÁO
Phụ lục 3.1
PHỎNG VẤN SÂU DÀNH CHO THÀNH VIÊN BAN SOẠN THẢO ĐỀ ÁN TÁI CƠ CẤU DNNN
Ngƣời đƣợc phỏng vấn: Ths Nguyễn Duy Long - Trưởng phòng sắp xếp đổi mới và Phát triển doanh nghiệp
Báo chí với quá trình tái cơ cấu DNNN
----------***----------
Câu 1: Là thành viên ban soạn thảo đề án Tái cơ cấu DNNN, theo ông
điểm nổi bật nhất của đề án là gì?
Đề án đã được Thủ tướng Chính phủ ký ban hành tại Quyết định số
929/QĐ-TTg ngày 17/7/2012 phê duyệt Đề án “Tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước,
trọng tâm là Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty nhà nước giai đoạn 2011- 2015” với
02 mục tiêu chính. Nhằm đạt được các mục tiêu đề ra, Thủ tướng Chính phủ đã đề
ra 05 nhiệm vụ trọng tâm, 06 nhóm giải pháp đồng bộ và thực hiện phân công cho
các cơ quan triển khai thực hiện.
Các nội dung của Đề án là cơ sở khung cho việc hoàn thiện cơ chế chính sách
và là khuôn mẫu để bản thâm mỗi TĐ, TCT xây dựng Đề án TCC cụ thể trình cấp
có thẩm quyền phê duyệt làm cơ sở triển khai trong giai đoạn 2011-2015, góp phần
hoàn thành mục tiêu TCC DNNN – một trong ba trụ cột của quá trình TCC nền
kinh tế.
Câu 2: Vấn đề có nhiều ý kiến trái chiều nhất trong quá trình soạn thảo
là gì?
Quá trình soạn thảo, xây dựng, thảo luận có nhiều ý kiến quan tâm đến việc
xác định vai trò, vị trí của DNNN trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
(nhất là trong bối cảnh khi chúng ta đang phải tập trung tái cơ cấu Vinashine).
Tuy nhiên, quan thảo luận đã thống nhất cao và báo cáo Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt tại Quyết đinh 929 theo đó:
(ii) DNNN có cơ cấu hợp lý hơn, tập trung vào ngành, lĩnh vực then chốt,
cung cấp sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu cho xã hội và quốc phòng, an ninh,
làm nòng cốt để kinh tế nhà nước thực hiện được vai trò chủ đạo, là lực lượng vật
chất quan trọng để Nhà nước định hướng, điều tiết nền kinh tế và ổn định kinh tế
vĩ mô;
(ii) nâng cao sức cạnh tranh, tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu đối với
doanh nghiệp kinh doanh; hoàn thành nhiệm vụ sản xuất, cung ứng các sản phẩm,
dịch vụ công ích thiết yếu cho xã hội, quốc phòng, an ninh đối với doanh nghiệp
hoạt động công ích.
Câu 3: Vấn đề gì ông còn băn khoăn và lấy làm tiếc vì nó quan trọng
song chưa đưa vào đề án?
Về thể chế, cơ chế quản lý của chủ sở hữu nhà nước đối với doanh nghiệp
nhà nước, trong Đề án đã nêu nhiệm vụ Thành lập cơ quan để thực hiện có hiệu
quả nhiệm vụ giám sát, kiểm tra, quản lý sử dụng, bảo toàn, phát triển vốn và đánh
giá hiệu quả vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp.
Tuy nhiên, đến nay việc triển khai nội dung này còn có nhiều quan điểm.
Theo Tôi việc thành lập Tổng cục Quản lý, giám sát tài chính doanh nghiệp thuộc
Bộ Tài chính trên cơ sở nâng cấp Cục Tài chính doanh nghiệp để thực hiện nhiệm
vụ này trong giai đoạn TCC hiện nay là hết sức cần thiết. Sau khi hoàn thành quá
trình TCC DNNN theo Quyết định 929, sang giai đoạn 2016-2020 sẽ nghiên cứu
để thành lập một tổ chức mới (có thể là cơ quan ngang Bộ trên cơ sở nâng cấp
Tổng cục Quản lý, giám sát tài chính doanh nghiệp thuộc Bộ Tài chính) để thực
hiện thống nhất chức năng địa diện CSH và giám sát vốn nhà nước tại DNNN.
Câu 4: Ông đánh giá thế nào về việc triển khai đề án đến nay? Đâu là
chuyển biến rõ nét nhất? Đâu là rào cản dẫn đến việc triển khai còn chậm?
Việc triển khai Đề án đã tạo được sự đồng thuận cao trong xã hội, Chính
phủ, Thủ tướng Chính phủ đến các Bộ, địa phương, TĐ, TCT.
Hệ thống cơ chế chính sách đã được ban hành đầy đủ, đồng bộ tạo thuận lợi
cho quá trình TCC, trọng tâm là CPH và thoái vốn đầu tư ngoài ngành.
Trong quá trình TCC, quyền và lợi ích của một số Lãnh đạo TĐ, TCT,
DNNN có thể thay đổi nên tại một số đơn vị triển khai còn chậm. Tuy nhiên,
Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đã có chỉ đọa rất cụ thể và kiên quyết xử lý
những cán bộ làm chầm tiến trình này. DNNN sau TCC cần phải có thay đổi về bộ
máy quản lý (nhân sự), quản trị nội bộ doanh nghiệp theo đúng mục tiêu đề ra.
Câu 5: Một trong những vấn đề quan trọng để triển khai đề án thành
công là công tác thông tin, tuyên truyền, ông nhìn nhận thế nào về vấn đề này?
Điểm nổi bật nhất? hạn chế nhất và giải pháp?
Công tác thông tin, tuyên truyền góp phần không nhỏ trong thành công của
quá trình TCC DNNN thời gian qua. Đã tạo được sự đồng thuận cao trong ã hội về
việc phải TCC, đổi mới nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN; đã tuyên truyền
kịp thời các cơ chế chính sách mới, các điển hình thực hiện tốt TCC cũng như nêu
ra những bất cập trong cơ chế và tổ chức thực hiện để các tổ chức cá nhân có liên
quan sửa đổi, khắc phụ kịp thời.
Bên cạnh đó việc tuyên truyền cần phải làm rõ trách nhiệm của từng cấp,
ngành, đơn vị trong quá trình triển khai vì các Bộ quản lý ngành, địa phương là cơ
quan đại diện chủ sở hữu theo phân cấp chịu trách nhiệm trước Chính phủ, Thủ
tướng CP triển khai công việc TCC, cổ phần hóa, thoái vốn theo kế hoạch và Đề
án được duyệt. Việc phản ánh các vấn đề vướng mắc nên thận trọng xem xét lấy
thêm ý kiến từ nhiều phía (cơ quan quản lý NN, đơn vị thực hiện…) để tránh việc
đưa tin một chiều làm ảnh hưởng chung đến tiến trình TCC chung, không lấy một
hiện tượng cụ thể và không mang tính điển hình để quy kết chung cho cả quá trình
này.
Phụ lục 3.2
CÂU HỎI PHỎNG VẤN SÂU DÀNH CHO THÀNH VIÊN BAN SOẠN THẢO ĐỀ ÁN TÁI CƠ CẤU DNNN
Ngƣời đƣợc phỏng vấn: Ths Đặng Quyết Tiến- Phó Cục trưởng, Cục Tài chính doanh nghiệp (Bộ Tài chính), Kiêm Tổng Biên tập Tạp chí Tài chính doanh nghiệp
Báo chí với quá trình tái cơ cấu DNNN
----------***----------
Câu 1: Xin ông đánh giá khái quát về công tác thông tin tuyên truyền về
Tái cơ cấu DNNN trên báo chí thời gian qua? Đâu là những ưu điểm và những
hạn chế?
Có thể nói công tác thông tin tuyên truyền về tái cơ cấu DNNN trên báo chí
trong thời gian qua đã chuyển tải kịp thời thông tin đến với đông đảo nhân dân và
cộng đồng trong xã hội. Từ đó, mọi người dân hiểu hơn về chủ trương tái cơ cấu
của Đảng và Nhà nước về lĩnh vực tái cơ cấu DNNN gắn với thúc đẩy kinh tế xã
hội, khai thông nguồn lực, thúc đẩy kinh tế dân doanh trong bối cảnh Việt Nam hội
nhập ngày càng sâu rộng. Mục tiêu cuối cùng là nâng cao hiệu quả đồng vốn nhà
nước đầu tư tại doanh nghiệp, thúc đẩy nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung. Có thể nói thông tin tuyên truyền qua
báo chí đều đã kịp thời, và đa phần báo chí thông tin đúng, đầy đủ những chỉ đạo,
những kết quả, thành tích và cả những thứ chưa đạt, nguyên nhân, tồn tại, yếu kém
trong quá trình thực hiện tái cơ cấu DNNN. Qua đó, đã tạo ra sự đồng thuận trong
quần chúng nhân dân với đường lối của Đảng. Bên cạnh đó, thông tin trên báo chí
còn tạo ra động lực, áp lực cho các nhà lãnh đạo doanh nghiệp và cơ quan chủ sở
hữu, trong việc thấy được trách nhiệm của mình trong việc thúc đẩy tiến trình tái
cơ cấu.
Bên cạnh đó còn có điểm chưa được là chưa tập trung nêu và phân tích rõ
nguyên nhân, chỉ ra được đâu là nguyên nhân khiến việc tái cơ cấu bị chậm. Hầu
hết, báo chí mới đưa tin mang tính “chụp lại hình ảnh”, biểu hiện bên ngoài. Gốc
rễ vấn đề ở đây của việc tái cơ cấu, cổ phần hóa bị chậm đó là do người đứng đầu
doanh nghiệp. Tính chủ động của lãnh đạo doanh nghiệp lẽ ra phải thay đổi để đáp
ứng yêu cầu mới của nền kinh tế. Tuy nhiên, nhiều lãnh đạo doanh nghiệp vẫn ở
trên hào quang đạt được của thời gian trước, chưa muốn cổ phần hóa.
Đến khi chiến lược giai đoạn 2011-2015 đưa ra thì mất 3 năm từ 2011-2013
loay hoay thông tin theo tiếng nói của doanh nghiệp là cơ chế chưa thông, thiếu cơ
chế, do cơ quan quản lý nhà nước chưa ban hành cơ chế…. Trong khi đó vẫn với
cơ chế đó nhưng ở những bộ, ngành doanh nghiệp có người đứng đầu quyết liệt thì
vẫn thực hiện tốt cổ phần hóa tốt. Ví dụ ở Bộ Giao Thông, ở Tập đoàn Than
khoáng sản Việt Nam.
Mãi đến khi Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo quyết liệt và khẳng định gắn
trách nhiệm người đứng đầu DN vào tái cơ cấu thì báo chí mới vào cuộc quyết liệt,
thúc đẩy được trách nhiệm người đứng đầu. Do vậy, tình trạng này đã từng bước
được khắc phục.
Câu 2: Có một số ý kiến cho rằng, báo chí vẫn chủ yếu thông tin về mặt
trái, mặt hạn chế của công tác này, ý kiến của ông thì sao?
Như trên đã nói thì có nhiều thông tin phản ánh khách quan. Vì là phản
biện, đa chiều nên có những thông tin phản ánh những mặt chưa được, hạn chế,
khiếm khuyết. Nhưng có khi báo chí chỉ mới đưa tin thiếu kiểm chứng, có thể
thông tin đó đúng tại một doanh nghiệp, một con người cụ thể song đó không phải
là tình trạng chung.
Hoặc cơ chế thoái vốn, khi chúng ta đang đẩy mạnh thoái vốn, thực ra các
cơ chế hiện hành từ cơ chế quản lý vốn nhà nước, đến cơ chế cổ phần hóa đều đã
có quy định việc thoái vốn, trong đó đã đề cập trường hợp giá thị trường thấp hơn
giá trị trị sổ sách thi quy trình như thế nào, ai là người quyết định... Nên báo chí
đưa tin là cơ chế thiếu, chưa thông là không đúng. Nhiều trường hợp áp dụng cơ
chế đó vẫn thoái vốn được.
Thế nhưng khi báo chí đưa tin đa chiều, nhiều khía cạch khác nhau thì
Chính phủ và các bộ ngành đã chỉ đạo ban hành Nghị quyết 15 và Quyết định 51
về thoái vốn đầu tư ngoài ngành đó là hệ thống lại, có quy trình và lộ trình về thoái
vốn, cụ thể hơn để tăng tính chủ động cho doanh nghiệp.
Giá như từ năm 2013, báo chí thông tin kịp thời, đầy đủ hơn là các cơ chế
này đã có và có sự hệ thống lại thì đã góp phần tạo dư luận, gây sức ép cho các ông
chủ doanh nghiệp, cơ quan quản lý đẩy nhanh tiến độ. Mặt khác, có chỉ ra những
bất cập các cơ chế hiện hành lúc đó thì đã giúp cơ quan quản lý ban hành được
Quyết định 51 sớm hơn, góp phần thúc đẩy doanh nghiệp thoái vốn đúng chủ
trương nhanh hơn.
Câu 3: Có những ý kiến được thông tin trên báo chí kêu gọi đẩy nhanh
cổ phần hóa, thoái vốn, thậm chí bán tất tần tật với giá nào, quan điểm của ông
thế nào về những thông tin này?
Thông tin trên báo chí phải đúng, đủ, chuẩn xác định hướng chủ trương,
mục tiêu của Đảng và nhà nước. Đảng và Chỉnh phủ luôn nhất quán: “việc tái cơ
cấu DNNN, trọng tâm là cổ phần hóa nhằm mục đích nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn nhà nước hay nói cách khác là đồng vốn của dân tại các doanh nghiệp, khơi
thông nguồn lực trong xã hội, thúc đẩy kinh tế dân doanh, các thành phần kinh tế
khác”.
Việc đẩy nhanh cổ phần hóa, thoái vốn là cũng nhằm mục tiêu như vậy,
nhưng có vấn đề cần lưu ý là đây là bán đồng vốn của người dân, mà nhà nước
được trao quyền quản lý, thì không thể bán bằng mọi giá được mà phải bán đúng
giá trị, đúng thị trường, đảm bảo tránh sự lợi dụng, tranh thủ việc bán này để mua
rẻ, chiếm đoạt tài sản nhân dân. Việc bán vốn đó phải công khai minh bạch, và
phải phân biệt chỉ bán ở lĩnh vực thành phần kinh tế khác làm được, sẵn sàng tiếp
nhận. Còn nếu ở lĩnh vực mà các thành phần kinh tế khác không làm được, hoặc
chưa sẵn sàng làm thì vô hình trung sẽ đẩy lĩnh vực kinh tế đó thành khoảng trống,
không có ai quản lý dẫn đến chất lượng phục vụ người dân sẽ xuống. Ví dụ, lĩnh
vực hạ tầng giao thông chi phí lớn, hay lĩnh vực bảo đảm an sinh xã hội....
Quan điểm của Chính phủ và các Bộ ngành không phải cổ phần hóa là bán
bằng mọi giá và việc tìm cổ đông chiến lược cần có thời gian”. Thực tế cổ phần
hóa một số công ty vật tư nông nghiệp địa phương thời gian qua cho thấy, khi nhà
đầu cơ mua cổ phần sẽ không giữ lại ngành nghề kinh doanh chính của doanh
nghiệp, đằng sau những đơn vị này là những lợi ích khác như nguồn lực đất đai, cơ
sở hạ tầng. Thay vì cung cấp phân bón, thuốc trừ sâu cho người nông dân họ
chuyển sang kinh doanh thương mại dẫn đến địa phương không thể chỉ đạo. Khi đã
cổ phần hóa, doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp nên ngành nghề kinh
doanh nào hiệu quả thì họ làm. Điều này cho thấy, người nông dân không được
hưởng lợi từ công tác này, để khắc phục hậu quả, các địa phương lại thành lập các
trung tâm khuyến nông cung cấp vật tư cho nông dân.
Đối với doanh nghiệp nhỏ, tác động không nhiều đến an ninh – quốc phòng,
việc bán cổ phần chi phối của nhà nước sẽ không phải là vấn đề lớn. Nhưng đối
với doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu, hay hàng không có ảnh hưởng đến nền
kinh tế, nếu nhà đầu tư không phục vụ nhân dân tốt như mong muốn của Chính
phủ có nghĩa là cổ phần hóa thất bại. Do vậy, mục tiêu cổ phần hóa các tập đoàn,
tổng công ty này cần thận trọng. Trước tiên, doanh nghiệp phải chuyển sang mô
hình công ty cổ phần. Khi đó, việc tìm cổ đông chiến lược do hội đồng quản trị,
đại hội đồng cổ đông quyết định. Giá bán cổ phần sẽ thực hiện theo thị trường và
theo Luật chứng khoán. Làm như vậy việc bán cổ phần lần 2 sẽ dễ hơn mô hình 1
chủ.
Việc cổ phần hóa của Vietnam Airline có khía cạnh tích cực là vốn nhà nước
không bán ào ào, vấn đề ở đây không phải là thiếu vốn. Nếu bán vì tiền, các nhà
đầu tư mạo hiểm, đầu cơ sẽ tìm mọi cách để mua nhưng mục tiêu của cổ phần hóa
là tìm cổ đông chiến lược. Cổ đông chiến lược phải là người bạn đồng hành cùng
doanh nghiệp, chứ không phải đối thủ cạnh tranh. Nếu Vietnam Airline không có
sự sàng lọc để chọn cổ đông chiến lược, các đối thủ sẽ sẵn sàng mua cổ phần, xóa
thương hiệu của doanh nghiệp trên thị trường. Do vậy, việc chọn cổ đông chiến
lược phải rất thận trọng, để tìm đúng bạn đồng hành.
Điển hình như năm 2013, Petrolimex chỉ bán 5% nhưng hiện doanh nghiệp
này đã tìm được cổ đông chiến lược là 1 tập đoàn tư nhân JX của Nhật Bản. Đặc
biệt, sau 02 năm nghiên cứu, tập đoàn này muốn mua tới 30% cổ phần của
Petrolimex. Nghĩa là họ muốn mua với mức có thể điều hành được doanh nghiệp.
Đây là cả quá trình dẫn đến sự thay đổi về “chất” của doanh nghiệp. Trong đó bản
thân doanh nghiệp phải thay đổi quản trị, minh bạch thông tin. Đồng thời, phải
thay đổi cách thức mời cổ đông chiến lược. Doanh nghiệp cần trí tuệ, công nghệ
phải tự tìm hiểu đối tác, có khi phải đến tận nơi giới thiệu, chào bán cổ phần. Cổ
phần hóa không phải như “cô gái ngủ trong rừng” nhà đầu tư tự tìm đến.
Việc bán ít cổ phần của Vinamotor 1 năm trước cũng vậy. Đây không thể
xem là thất bại, bởi sau khi thực hiện bán một phần vốn nhà nước, doanh nghiệp
thấy được thị trường thiếu gì và đã có những điều chỉnh phù hợp. Trên cơ sở đó,
tạo tiền đề để 1 năm sau cho việc bán bước 2 thành công. Sở dĩ, cổ phần của nhà
nước tại doanh nghiệp này được bán hết, vì hiện nay đã có một số doanh nghiệp
kinh doanh trong lĩnh vực này làm tốt hơn như Trường Hải. Nhưng nếu chưa có
doanh nghiệp đứng đầu, vẫn cần có một đơn vị cung cấp ô tô như Vinamotor thì rõ
ràng phải cân nhắc.
Như vậy, với mục tiêu giảm tỷ lệ vốn nhà nước, bán đạt kế hoạch theo
phương án đã được Chính phủ duyệt, nhiệm vụ của Ban chỉ đạo cổ phần hóa
không chỉ là chuyển đổi thành công ty cổ phần. Đơn vị này phải tiếp tục thực hiện
các bước tiếp theo để đảm bảo tỷ lệ vốn nhà nước giảm. Đồng thời, tìm được nhà
đầu tư để thay đổi được quản trị, chất lượng dịch vụ của doanh nghiệp. Còn những
doanh nghiệp Nhà nước không cần nắm giữ cổ phần chi phối sẽ bán hết, thu vốn
về để đầu tư vào những lĩnh vực trọng yếu, nhà nước phải làm, khai thông nguồn
lực cho người dân, các thành phần kinh tế ngoài nhà nước tiếp nhận, để thúc đẩy
phát triển sản xuất kinh doanh.
Câu 4: Qua trao đổi, một số cơ quan báo chí và phóng viên đều cho rằng
“nguyên nhân dẫn đến hạn chế là do họ khó tiếp cận thông tin”, với vai trò là
Phó cục trưởng của cơ quan quản lý nhà nước, soạn thảo ra đề án, xin ông cho
biết ý kiến của mình về vấn đề này?
Ở cơ quan nhà nước, Thủ tướng đã chỉ đạo phải có trách nhiệm phổ biến,
tuyên truyền những cơ chế chính sách, đường lối của Đảng, pháp luật của nhà
nước về lĩnh vực tái cơ cấu...có trách nhiệm giải đáp, làm rõ không chỉ cho các
phóng viên mà phải giải đáp cho tất cả mọi người dân và doanh nghiệp. Do đó,
không có lý do gì để hạn chế thông tin với báo chí. Chỉ có điều tiếp cận thông tin ở
thời điểm nào, và nội dung là gì, thì cơ quan nhà nước phải thấy được là cung cấp
được.
Nhưng nếu báo chí lấy một vấn đề cụ thể ở một doanh nghiệp và quy lên là
trách nhiệm của cơ quan này, cơ quan khác là thiếu hay không đầy đủ trong kiểm
tra giám sát để thất thoát... thì trước khi thông tin phải rà soát xem cơ chế chính
sách do bộ, ngành đó là ở điểm nào, thời điểm nào và trách nhiệm doanh nghiệp ở
đâu, phải phân tích một cách đa chiều.
Với chung tôi là cơ quan quản lý nhà nước ở bộ Tài chính thì hiện nay
chúng tôi có lập kế hoạch truyên truyền hàng tháng, năm và có đầu mối tuyên
truyền. Định kỳ tháng quý Bộ Tài chính tổ chức họp báo, và tại Cục Tài chính
doanh nghiệp cũng có buổi tọa đàm với báo chí để thông tin đầy đủ các cơ chế
chính sách tài chính về lĩnh vực mình quản lý, trả lời các câu hỏi liên quan đến
trách nhiệm của Cục Tài chính doanh nghiệp, Bộ Tài chính để thúc đẩy tái cơ cấu
DNNN. Đột xuất, chúng tôi cũng có đầu mối tiếp nhận và cung cấp thông tin, có
người phát ngôn. Tất nhiên, các câu hỏi, yêu cầu phải đúng chức năng nhiệm vụ
mới trả lời được.
Đối với doanh nghiệp, tôi nghĩ: Cũng từ một báo cáo tài chính của doanh
nghiệp, nhưng nếu báo chí khai thác các khía cạnh khác nhau sẽ tạo ra các cách
khiểu khác nhau. Chính vì vậy, chúng ta phải tôn trọng doanh nghiệp. Họ đưa ra
thông tin báo chí phải chuyển tải đầy đủ, thì chúng ta mới phân tích những gì hạn
chế, những cái chưa đúng, chưa chuẩn xác... để bạn đọc có điều kiện đối chiếu. Và
thông tin đó khách quan, không phải là một chiều, phiến diện. Vì DN còn phải đối
diện với thị trường, và các đối thủ cạnh tranh. Nếu thông tin không đúng, đủ làm
hiểu sai sẽ ảnh hưởng đến quá trình sản xuất kinh doanh.
Câu 5: Ông có đề xuất giải pháp nào để khắc phục những tồn tại, hạn
chế trong việc thông tin tuyên truyền về tái cơ cấu DNNN?
Đối với cơ quan quản lý nhà nước, doanh nghiệp phải có bộ phận truyền
thông, am hiểu báo chí và cách thức truyền tải và trả lời báo chí để đồng cảm với
phóng viên và cơ quan báo chí.
Báo chí cần đào tạo phóng viên am hiểu lĩnh vực mình phụ trách, am hiểu
về tài chính để đưa tin, hiểu các tính năng kỹ thuật ngành đó để đưa tin đúng, kiểm
chứng. Để không tạo ra sự ngộ nhận. Nếu đưa tin không đúng phải tuân thủ việc
cải chính.
Báo chí cần xác định rõ, việc thông tin tuyên truyền là để giúp doanh
nghiệp phát triển tốt hơn chứ không phải là để doanh nghiệp khó khăn hơn. Việc
thông tin cần vào thời điểm thích hợp để doanh nghiệp còn có thời gian tập trung
vào sản xuất, kinh doanh.
Với các báo: Báo Đầu Tư, Tuổi trẻ, Thời báo Kinh tế Sài gòn, Tạp chí Tài
chính doanh nghiệp, đây là cụm báo đưa tin cơ bản đầy đủ, chuẩn xác có đan xen
nhiều chiều. Các báo này thường có sự kết nối của tờ báo, phóng viên với cơ quan
quản lý nhà nước.
Việc thông tin giữa các tờ báo lớn, báo chính trị xã hội, báo chuyên ngành
và tạp chí chuyên sâu là cần thiết, đảm bảo đa dạng bạn đọc. Nhưng nhắc lại cần
thông tin đầy đủ, trách chụp giật, trích dẫn không đúng.
Để làm được như vậy, cần nâng cao trình độ, năng lực của độ ngũ người
làm báo. Ở vai Tổng Biên tập Tạp chí chuyên về kinh tế, lại là người có chuyên
môn về kinh tế, tôi vẫn thích tuyển phóng viên được đào tạo từ các trường kinh tế,
sau đó sẽ cho đi học các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ báo chí. Như vậy tòa soạn vừa
có được một phóng viên chuyên sâu vừa đỡ tốn kém hơn rất nhiều trong việc đào
tạo. Tuy nhiên, tôi cũng ủng hộ nét mới trong chương trình đào tạo cử nhân báo
chí của Khoa Báo chí – Truyền thông, trường ĐHKHXH&NV Hà Nội. Bởi khác
với trước kia, Khoa Báo chí chỉ tuyển chọn đầu vào của khối C, khối D thì hai ba
năm gần đây, Khoa đã mạnh dạn tuyển thêm khối A với mục tiêu đa dạng hóa đầu
vào cho chuyên ngành báo chí. Đó là một hướng đi khá phù hợp. Tôi cho rằng, các
trường đào tạo báo chí nên tăng cường số giờ học về kinh tế cho sinh viên theo
hình thức môn học tự chọn (dành cho những người thích viết về kinh tế), đồng thời
đẩy mạnh việc liên kết với các náp, các hội để sinh viên có những bài học ngoại
khóa qua hình thức thực tập và tham gia các CLB nhà báo kinh tế. Chúng tôi sẵn
sàng tham gia, hoặc cử người ở toàn soạn tham gia các chương trình này. Như vậy
sẽ định hướng cho sinh viên ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường hướng đi sau
này của mình.
Một trong những hướng đi đã và đang được lãnh đạo các cơ quan báo chí
nói chung, báo chí kinh tế nói riêng là tích cực tham gia và cử phóng viên, biên tập
viên chuyên trách tham gia các lớp đào tạo, hội nghị, hội thảo tập huấn, bồi dưỡng
kiến thức về tài chính, tiền tệ… Gần đây, khi xây dựng các chính sách về tái cơ
cấu DNNN chúng tôi thường xuyên tổ chức hội thảo lấy ý kiến đóng góp. Ở đây
thực sự là một diễn đàn mở, nếu các phóng viên tham gia, ngoài việc đưa tin sẽ
còn có điều kiện học hỏi được nhiều điều từ những tranh luận đó. Từ đó sẽ rõ ngọn
ngành. Tránh tình trạng sau khi văn bản được ban hành lại thông tin về những
tranh cãi trước đó mà đã không được tiếp thu.
Phụ lục 3.3
CÂU HỎI PHỎNG VẤN SÂU DÀNH CHO NGƢỜI LÀM BÁO
Ngƣời đƣợc phỏng vấn: Ông Hoàng Tư Giang- Phóng viên Thời báo Kinh tế Sài gòn
Báo chí với quá trình tái cơ cấu DNNN
----------***----------
Câu 1: Vấn đề thông tin tuyên truyền về chủ đề tái cơ cấu DNNN được
Thời báo Kinh tế Sài Gòn rất quan tâm và đã mở chuyên mục riêng, anh (chị)
có thể cho biết cụ thể hơn về việc tổ chức, phân công cho phóng viên thực hiện
như thế nào?
Thời báo kinh tế Sài gòn không phân công cụ thể cho phóng viên theo dõi
riêng vấn đề tái cơ cấu DNNN. Nhưng là tờ báo kinh tế, Ban Biên tập xác định đây
là vấn đề kinh tế rất đáng quan tâm, nên đã mở chuyên mục cũng như khuyến
khích phóng viên theo đuổi đề tài này để tăng tần suất xuất hiện tin bài đối với lĩnh
vực này.
Cải cách DNNN diễn ra chậm chạp, số lượng DNNN giảm đi, nhưng số vốn
nhà nước tại các DN vẫn còn lớn.
Câu 2: Theo đánh giá của anh (chị) đâu là điểm nổi bật nhất và đâu là
hạn chế trong việc thông tin về tái cơ cấu DNNN trên Thời báo Kinh tế Sài gòn?
Điểm nổi bật ở Thời báo Kinh tế Sài gòn trong công tác thông tin, tuyên
truyền về vấn đề này là Ban Biên tập luôn xác định rõ mục tiêu của việc tuyên
truyền trên báo là : “Thúc đẩy cải cải cách DNNN theo hướng cổ phần hóa để tạo
điều kiện thúc đẩy kinh tế tư nhân”. Từ đó, phóng viên rất dễ định hình để triển
khai thực hiện.
Ngoài ra, như bạn vừa đề cập ở trên, là Thời báo Kinh tế Sài gòn rất chú
trọng thông tin mảng này nên lượng tin bài khá lớn. Đồng thời mở hẳn chuyên mục
nên nhìn bài bản hơn, trang trọng hơn và phóng viên chú tâm hơn.
Hạn chế lớn nhất của Thời báo Kinh tế Sài gòn nói riêng và hầu hết các cơ
quan báo chí khác nói chung là: Không có nhiều thông tin thực sự hấp dẫn, thu hút
bạn đọc. Chẳng hạn, không có mấy tin bài về việc một số nhân vật giàu lên một
cách bất thường nhờ “lộc” từ CPH doanh nghiệp. Vì các phóng viên không tiếp
cận được thông tin, không có chứng cứ để viết, mặc dù việc đó là có.
Không đưa được thông tin về một doanh nghiệp cụ thể, do bản thân doanh
nghiệp đó không có nhu cầu thông tin. Ví dụ gần đây anh có phỏng vấn một ông
phó ban đổi mới DNNN của Văn phòng chính phủ nói về số liệu tỉ lệ bán cho nhà
đầu tư nước ngoài. Ông ý cho biết, là đưa tên một DN vào danh sách phải đẩy
mạnh bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài. Với tỷ lệ bán nhiều thì sẽ hấp dẫn
thu hút được nhà đầu tư nước ngoài vào mua. Tuy nhiên, doanh nghiệp đó cứ xin
rút tên ra, vì vẫn muốn nhà nước giữ chi phối. Ngoài ra, các DN cũng không muốn
tiếp xúc báo chí để thông tin.
Điều này cũng một phần vì bản thân lãnh đạo DNNN là người nhà nước nên
nếu nói lỡ miệng sẽ bị liên lụy, bị cơ quan chủ quản khiển trách, kỷ luật.
Gần đây có nhiều đơn vị sự nghiệp quản lý nghĩa trang ở Hải Phòng làm tốt,
nhưng dù nỗ lực chúng tôi cũng không tiếp xúc được. “Vốn nhà nước âm thầm
chảy vào tay một số người, nhưng không tiếp cận được”.
Câu 3: Nguyên nhân dẫn đến các hạn chế nói trên là gì? Khó khăn lớn
nhất của anh (chị) trong quá trình thực hiện?
Như trên đã nói nguyên nhân chính là việc khó tiếp cận thông tin. Chẳng
hạn, một sự kiện lớn về DNNN thường do Ban Đổi mới sắp xếp doanh nghiệp
(thuộc Văn phòng Chính phủ) đứng ra tổ chức. Và Ban này thông thường cũng chỉ
mời 3-5 báo. Còn lại các phóng viên báo khác không được vào, không có cơ hội
tiếp cận thông tin thì không thể viết hay được.
Câu 4: So với các báo khác, theo anh (chị) đâu là nét khác biệt của Thời
báo Kinh tế Sài Gòn trong việc thông tin tuyên truyền về chủ đề tái cơ cấu
DNNN?
Thời báo Kinh tế Sài gòn là báo tuần và chuyên về lĩnh vực kinh tế, nên
thông thường chuyên sâu hơn. Ngoại trừ các bài viết của phóng viên thông thường
về cơ chế chính sách, đưa tin hoạt động… thì còn có đông đảo đội ngũ chuyên gia
chắp bút. Chúng ta đã thấy các chuyên gia phân tích rất sâu về một số doanh
nghiệp cụ thể khi tiến hành tái cơ cấu. Chẳng hạn, chuyện lỗ lãi tại Tổng công ty
Xăng Dầu Việt Nam.
Câu 5: Theo anh (chị) cần có giải pháp như thế nào để nâng cao hơn
nữa công tác thông tin tuyên truyền về chủ đề tái cơ cấu DNNN?
Đây là đề tài khó, dễ nhàm chán. Còn vấn đề thu hút, hấp dẫn thì không làm
được vì không có thông tin. Hay vấn đề như: Vinatex có đất nhiều, có doanh
nghiệp quan tâm nhưng không vì nghề chính mà vì mua đất. Đây là mối chằng chịt
thông tin, mù mờ khó tiếp cận. Do vậy, muốn hấp dẫn, thay đổi được quá trình
tuyên truyền thì phải khắc phục được tình trạng này.
Đối với Chính phủ, cần mở hơn với báo chí, tạo điều kiện để phóng viên có
thông tin để thông tin đầy đủ hơn, toàn diện hơn.
Đối với phóng viên, phải yêu nghề, và yêu thích lĩnh vực mình theo đuổi,
tích cực, phải tự thân vận động, kiên trì, bám trụ, tăng cường quan hệ. Ví dụ, như ở
các cuộc hội thảo mà họ không cho vào phải quan hệ được với người có chức có
quyền ở đó để xin vào, trường hợp không vào được thì gửi máy ghi âm. Kiểu gì
cũng phải có tài liệu để viết.
Phụ lục 3.4
CÂU HỎI PHỎNG VẤN SÂU DÀNH CHO NGƢỜI LÀM BÁO
Ngƣời đƣợc phỏng vấn: Ông Bùi Đức Hải- Phó Tổng biên tập Báo Đầu tư
Báo chí với quá trình tái cơ cấu DNNN
----------***----------
Câu 1: Thưa ông, tái cơ cấu DNNN là một trong ba vấn đề trọng tâm của
tái cơ cấu nền kinh tế, là tờ báo kinh tế, Ban Biên tập báo Đầu tư đã nhìn nhận
thế nào về việc thông tin tuyên truyền chủ đề này?
Đây là một trong những chủ đề chính của báo Đầu tư với cả hai tư cách, là
một trong những tờ báo kinh tế hàng đầu và với tư cách là cơ quan ngôn luận của
Bộ Kế hoạch và Đầu tư – nhạc trưởng trong xây dựng và triển khai đề án tái cơ cấu
nền kinh tế.
Riêng nội dung liên quan đến tái cơ cấu DNNN, đây là nội dung đã được
thực hiện liên tục trong 20 năm qua, kể từ khi tiến hành cổ phần hóa DNNN đầu
tiên được thực hiện vào những năm 93. Có thể nói, Báo Đầu tư là một trong những
tờ báo tham gia vào tuyên truyền chủ đề này ngay từ những ngày đầu tiên, theo sát
và nắm chắc yêu cầu của tiến trình tái cơ cấu DNNN trong từng giai đoạn của nền
kinh tế.
Chính vì vậy, việc xây dựng các tuyến bài về chủ đề tài cơ cấu nền kinh tế,
trong đó có tái cơ cấu DNNN, không chỉ dựa trên các vấn đề được đặt ra hiện tại,
mà được thực hiện dựa trên những phân tích chuyên sâu qua từng giai đoạn, gắn
với yêu cầu mới của nền kinh tế.
Đây cũng là cơ sở để các bài viết đưa ra những nội dung mới, quan điểm
mới…
Câu 2: Ông có thể chia sẻ đôi nét về việc tổ chức thực hiện thông tin về
chủ đề tái cơ cấu DNNN ở báo Đầu tư?
Ngay từ năm 2008, khi đề án tái cơ cấu nền kinh tế được khởi động, Bộ Kế
hoạch và Đầu tư khi đó là cơ quan được Chính phủ giao nhiệm vụ nghiên cứu,
chắp bút, Báo Đầu tư đã bắt đầu triển khai các chuỗi bài liên quan đến các nội
dung được thảo luận.
Có thể điểm đến những vấn đề được đặt ra trong các bài viết hiệu quả đầu
tư công, hoạt động doanh nghiệ nhà nước, hệ thống ngân hàng, môi trường kinh
doanh, sức khỏe doanh nghiệp tư nhân, vai trò của khu vực doanh nghiệp FDI…
Cũng phải nói thêm, đây là giai đoạn nền kinh tế Việt Nam bắt đầu có
những dấu hiệu chịu tác động tiêu cực từ khủng hoảng kinh tế toàn cầu cũng như
những vấn đề từ nội tại nền kinh tế sau giai đoạn phát triển nóng.
Chính bởi vậy, các nội dung liên quan để tái cơ cấu nền kinh tế thực chất
chính là các vấn đề nổi cộm của nền kinh tế hiện tại.
Là tờ báo kinh tế, đời sống kinh tế Việt Nam chính là đối tượng mà báo Đầu
tư quan tâm phản ánh. Song hành với đó, với lợi thế là cơ quan ngôn luận của Bộ
KH&ĐT, được tiếp cận sớm với các nội dung của Đề án tái cơ cấu ngay từ những
bản dự thảo đầu tiên, nên báo Đầu tư đã xây dựng diễn đàn để thu hút các ý kiến
tham gia của cộng đồng, đặc biệt là giới nghiên cứu kinh tế, các nhà đầu tư tham
gia vào dự thảo đề án. Khá nhiều quan điểm mới được các chuyên gia đặt ra trong
các ý kiến thảo luận trên báo Đầu tư.
Cho đến khi Đề án được phê duyệt vào năm 2013, Báo Đầu tư đã không chỉ
có các tuyến bài viết, chuyên mục dành riêng mà còn tổ chức các hội thảo, tọa đàm
xung quanh các vấn đề còn tranh luận của dự thảo Đề án tái cơ cấu nền kinh tế.
Từ đó đến giờ, sau 3 năm thực hiện Đề án, báo Đầu tư vẫn coi đây là một
tuyến đề tài quan trọng, có sự chỉ đạo trực tiếp của BBT.
Câu 3: Theo ông, đâu là điểm khác biệt giữa báo Đầu tư và các báo khác
trong việc triển khai thông tin tuyên truyền về vấn đề này?
Như đã trao đổi, báo Đầu tư thực hiện truyền thông về nội dung này không
chỉ với vị trí là một tờ báo kinh tế mà còn là cơ quan ngôn luận của Bộ KH-ĐT,
đơn vi chắp bút cho Đề án này.
Chính vì vậy, các vấn đề được đặt ra trên báo Đầu tư không dừng lại ở mức
phản ánh, thông tin các vấn đề đang đươc bàn thảo, mà còn chủ động tham gia vào
quá trình phản biện, góp ý vào Đề án thông qua các chuyên mục chuyên biệt, các
buổi hội thảo, tọa đàm…
Câu 4: Xin ông chia sẻ nhận định của mình về những ưu điểm, và những
điểm chưa thực sự hài lòng về công tác thông tin tuyên truyền về đề án tái cơ
cấu DNNN trên báo chí nói chung và báo Đầu tư nói riêng?
Ưu điểm là bám sát tình hình triển khai tái cơ cấu DNNN, đặc biệt là các
hoạt động liên quan đến hoàn thiện hệ thống chính sách, các quan điểm chỉ đạo
trong thực hiện tái cơ cấu, các phương án cổ phần hóa …
Điểm chưa thực sự hài lòng là dường như những tồn tại trong hoạt động này
được đưa đậm nét hơn những điều làm được. Có một phần lý do là tồn tại còn quá
lớn và cần phải được cải thiện nhanh, mà tiếng nói từ truyền thông có sức nặng
đáng kể, nhưng những bài học thành công có lẽ cũng cần phải được đề cập một
cách đầy đủ. Trong quá trình các DN đang vào giai đoạn rốt ráo thực hiện các
phương án tái cấu, bài học thành công cũng cần như bài học thất bại.
Đây là điều mà báo Đầu tư và nhiều báo khác chưa thực sự coi trọng.
Câu 5: Đâu là những khó khăn trong quá trình thực hiện?
Thứ nhất, đây là vấn đề phức tạp, liên quan đến cả quan điểm, tư duy từ các
cấp lãnh đạo. Trong 3 năm thực hiện đề án tái cơ cấu nền kinh tế, tái cơ cấu
DNNN, có không ít nội dung có sự thay đổi mạnh mẽ, như liên quan đến thoái vốn
trong DNNN, cách thức tiến hành CPH…
Thứ hai, các DNNN trong giai đoạn này phần lớn là các DN quy mô lớn,
nên có những phức tạp trong thực hiện tái cơ cấu. Việc tiếp cận thông tin không
dễ.
Thứ ba, năng lực của phóng viên trên các lĩnh vực chưa đồng đều, chưa
phối hợp tốt…
Câu 6: Đâu là giải pháp để việc thông tin tuyên truyền trên báo chí nói
chung và báo Đầu tư nói riêng ngày càng hiệu quả hơn?
Báo chí đang có nhiều thuận lợi hơn trong việc truyền thông về vấn đè này.
Có nhiều lý do để nói như vậy.
Thứ nhất, các quy định mới về tái cơ cấu DNNN buộc các DNNN phải công
khai thông tin về lộ trình CPH, thoái vốn…
Thứ hai, Chính phủ đã xác định trách nhiệm rõ ràng của người đứng đầu
trong thực hiện CPH. Các bộ, ngành địa phương đều được yêu cầu thông tin về
việc thực hiện công việc này.
Thứ ba, sau 3 năm tuyền truyền về vấn đề này, báo chí đã có kinh nghiệm
hơn trong thực hiện các đề tài liên quan đến CPH DNNN.
Để tận dụng cơ hội này, báo chí cần hỗ trợ cả về đào tạo, tài chính…
Đặc biệt, truyền thông về yêu cầu thực hiện nghiêm túc quy định về công
khai cần được thực hiện quyết liệt.
Phụ lục 3.5
CÂU HỎI PHỎNG VẤN SÂU DÀNH CHO NGƢỜI LÀM BÁO
Ngƣời đƣợc phỏng vấn: Ths Tạ Thị Thu Hằng- Phóng viên Tạp chí Tài chính doanh nghiệp
Báo chí với quá trình tái cơ cấu DNNN
----------***----------
Câu 1: Chị có thể cho biết việc tổ chức, phân công phóng viên thực hiện
tin, bài về chủ đề tái cơ cấu DNNN ở Tạp chí?
Hiện đơn vị chúng tôi đã bố trí một nhóm phóng viên gồm 3 người chuyên
thực hiện các tin, bài về vấn đề này. Trong đó 1 phóng viên phụ trách cập nhật các
cơ chế, chính sách mới về tái cơ cấu DNNN, 1 phóng viên theo dõi mảng nợ của
DNNN, 1 phóng viên kiêm trưởng nhóm chịu trách nhiệm tuyên truyền về quá
trình tái cơ cấu các tập đoàn, tổng công ty nhà nước.
Trên cơ sở nhiệm vụ được giao, nhóm phóng viên này chủ động xây dựng đề
cương chi tiết cho cả năm và mỗi số báo, đảm bảo các thông tin tái cơ cấu DNNN
được cập nhật thường xuyên, liên tục. Đặc biệt, trong 12 số báo/năm có ít nhất 03
số thực hiện chuyên đề sâu về vấn đề này.
Câu 2: Điểm khác biệt thông tin về tái cơ cấu DNNN trên Tạp chí Tài
chính doanh nghiệp và các báo khác?
Với đặc trưng là cơ quan ngôn luận của Cục Tài chính doanh nghiệp – Bộ Tài
chính – đơn vị chủ trì soạn thảo, ban hành nhiều cơ chế, chính sách quan trọng về
tái cơ cấu DNNN, các thông tin về vấn đề này trên Tạp chí có sự khác biệt lớn so
với các báo khác. Điều này thể hiện rõ ở 3 khía cạnh do nhóm phóng viên được
phân công thực hiện. Cụ thể:
Thứ nhất, cùng với việc đăng tải các cơ chế, chính sách liên quan đến tái cơ
cấu DNNN, Tạp chí còn thu thập ý kiến phân tích, đánh giá của các Bộ, ngành,
đơn vị liên quan và các chuyên gia đối với các cơ chế, chính sách đã được ban
hành hoặc đang trong thời gian dự thảo. Các thông tin này giúp độc giả hiểu rõ hơn
về những kết quả, hạn chế của chính sách, những khó khăn, vướng mắc trong quá
trình triển khai tại doanh nghiệp.
Thứ hai, hành lang pháp lý cùng các vấn đề liên quan đến hoạt động mua,
bán xử lý nợ DNNN được phân tích sâu, có hệ thống. Hàng tháng Tạp chí có từ 1-
2 bài viết chuyên sâu về thị trường mua bán nợ và các vướng mắc của đơn vị trụ
cột chính đảm được nhiệm vụ xử lý nợ gắn với tái cơ cấu DNNN là Công ty
TNHH Mua bán nợ Việt Nam (DATC). Qua đó, truyền tải thông điệp của doanh
nghiệp, các chuyên gia được xem như gợi ý một số giải pháp tháo khó khăn trong
lĩnh vực này.
Thứ ba, kịp thời thông tin các đề án và quá trình tái cơ cấu các tập đoàn kinh
tế, tổng công ty nhà nước, góp phần thể hiện quyết tâm tái cơ cấu của các đơn vị
này. Trong đó, thông tin cụ thể các nội dung tái cơ cấu doanh nghiệp đã làm được,
những nhiệm vụ trong thời gian tới, khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực
hiện và giải pháp để đẩy nhanh tiến độ tái cơ cấu.
Tuy nhiên, do đặc thù là tạp chí khoa học, 1 số/tháng nên tính thời sự của
thông tin chưa cao. Cùng với đó các thông tin hầu như chỉ mang tinh chất một
chiều, phản ánh quan điểm của các nhà hoạch định chính sách, chưa có những bài
viết sâu phản ánh thực tế tái cơ cấu tại doanh nghiệp. Ngoài ra, hình thức trình bày
còn theo khuôn mẫu, chưa thực sự bắt mắt.
Câu 3: Khó khăn lớn nhất của phóng viên tạp chí trong quá trình thực
hiện?
Hiện tôi được giao nhiệm vụ theo dõi mảng nợ DNNN trong quá trình tái cơ
cấu, khó khăn lớn nhất là tiếp cận với doanh nghiệp. Kể từ khi triển khai Quyết
định 929/2012/QĐ-TTg, việc công bố thông tin về các khoản nợ của DNNN đã
được cải thiện. Tuy nhiên, để có được báo cáo cơ cấu nợ của doanh nghiệp cụ thể
nào đó là vô cùng khó khăn.
Mặt khác, mặc dù số lượng các doanh nghiệp đã được DATC xử lý nợ tái cơ
cấu tương đối lớn, nhưng việc tiếp xúc để làm rõ quá trình đơn vị này tham gia xử
lý nợ cũng rất hạn chế.
Câu 4: Theo chị tần suất thông tin về chủ đề này trên Tạp chí chuyên
ngành hiện nay là nhiều hay ít? Cần có sự điều chỉnh thế nào để nâng cao hơn
nữa chất lượng thông tin về chủ đề này?
Tôi cho rằng tần suất thông tin về chủ đề này trên Tạp chí chưa thực sự nhiều
nhưng tương đối ổn định. Trung bình mỗi số báo có khoảng 2 – 3 tin, bài phản ánh
sự “vận động” của các DNNN trong quá trình tái cơ cấu.
Với lượng thông tin như vậy, tuy độc giả không thể cập nhật được những tin
tức “nóng” nhất trên Tạp chí nhưng có thể nhận diện được các điểm nhấn quan
trọng của quá trình tái cơ cấu DNNN. Qua đó phân tích, đánh giá quá trình tái cơ
cấu DNNN đã làm được gì? đang diễn ra như thế nào?
Để nâng cao chất lượng thông tin về vấn đề này trên Tạp chí Tài chính
doanh nghiệp, theo tôi nhóm phóng viên đã được phân công cần có sự chọn lọc
thông tin. Nghĩa là phải xác định được đối tượng người đọc là ai, họ cần những
thông tin như thế nào. Trên cơ sở đó định hướng tin, bài, phân công công việc cụ
thể cho phóng viên, đảm bảo thông tin được đăng tải có dẫn chứng sinh động và
sát với nhu cầu thực tế của doanh nghiệp. Bên cạnh báo in cần phát triển báo điện
tử và nhiều công cụ truyền thông trên internet khác để cập nhật thường xuyên các
sự vụ về hoạt động tái cơ cấu DNNN. Đây được xem là xu hướng phát triển tất
yếu. Mặt khác, người làm nhiệm vụ thiết kế cũng cần có kiến thức về mỹ thuật để
có thể thu hút được nhiều độc giả đối với các tin, bài về vấn đề này.
Phụ lục 3.6
CÂU HỎI PHỎNG VẤN SÂU DÀNH CHO NGƢỜI LÀM BÁO
Ngƣời đƣợc phỏng vấn: Lê Thanh- Phóng viên báo Tuổi trẻ
Báo chí với quá trình tái cơ cấu DNNN
----------***----------
Câu 1: Thống kê cho thấy, lượng tin bài về chủ đề tái cơ cấu DNNN trên
tuổi trẻ không nhiều, chị có thể cho biết, việc tổ chức thực hiện thông tin tuyên
truyền trên báo Tuổi trẻ về vấn đề này?
Trên Tuổi trẻ, tin bài về chủ đề tái cơ cấu DNNN không có những tuyến bài
dài về chủ đề này. Tuổi trẻ thường đưa thông tin thời sự như CPH của Vinatex,
Vietnam Airline… hay kế hoạch IPO BIDV, Tổng công ty thép… Thông tin về
hạn chế khi triển khai quá trình cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước mà các Tập đoàn
tổng công ty thực hiện chậm hoặc chưa đúng với chỉ đạo của Chính phủ.
Tái cơ cấu DNNN là chủ trương lớn, tuy nhiên, đây là vấn đề khá vĩ mô,
bạn đọc ở Tuổi trẻ không quan tâm nhiều so với những thông tin về thị trường.
Đấy là một trong những lý do chính mà Tuổi trẻ khó làm đậm chủ đề tái cơ cấu
DNNN.
Câu 2: Ban Biên tập báo Tuổi trẻ có phân công cụ thể phóng viên theo
dõi riêng mảng này không?
Tuổi trẻ không phân công phóng viên theo dõi riêng cho mảng này. Mỗi
phóng viên phụ trách thông tin của ngành, địa phương sẽ theo dõi và đưa thông tin
về lĩnh vực mà mình phụ trách. Như phóng viên theo Bộ Giao thông Vận tải sẽ
nắm thông tin tái cơ cấu DNNN ngành giao thông; Phóng viên theo Bộ Xây dựng,
Nông nghiệp Phát triển Nông thôn cũng vậy.
Câu 3: Một trong những tiêu chí của Tuổi trẻ là hạn chế tối đa thông tin
vĩ mô, phải chăng đây là khó khăn cho phóng viên trong quá trình thực hiện
chủ đề này?
Như trao đổi ở trên, thông tin về tái cơ cấu DNNN là khá vĩ mô, thường là
chủ trương, chính sách của cơ quan quản lý chứ ít có những thông tin cụ thể về
một đơn vị nào. Thông thường chỉ nhà đầu tư quan tâm đến thông tin này khi DN
thực hiện IPO. Do vậy, bạn đọc Tuổi trẻ cũng rất kén với những thông tin vĩ mô
trong lĩnh vực kinh tế.
Câu 4: Chị có thể đánh giá đôi nét sự khác biệt thông tin về tái cơ cấu
DNNN trên Tuổi trẻ và các báo khác?
Với thông tin chỉ đạo định hướng thì Tuổi trẻ đưa rất ngắn, chỉ là mang tính
chất thông tin. Còn đối với những bài có vấn đề, Tuổi trẻ thông thường tập trung
mổ xẻ, phân tích, phản biện để xoáy những mặt hạn chế, tồn tại chưa làm được và
tìm giải pháp.
Câu 5: Theo chị tuần suất thông tin về chủ đề này ở trên báo chính trị -
xã hội như Tuổi trẻ hiện nay là nhiều hay ít? Cần có sự điều chỉnh thế nào?
Vấn đề cốt yếu nhất là thông tin mà tờ báo đem đến cái mới, hấp dẫn bạn
đọc. Nếu có những vụ việc cụ thể như tập đoàn A định giá trị doanh nghiệp thiếu
hàng ngàn tỷ đồng… trong quá trình cổ phần hóa thì vẫn hút được bạn đọc.
Câu 6: Đánh giá của anh (chị) về chất lượng thông tin tái cơ cấu DNNN
trên báo Tuổi trẻ nói riêng và các tờ báo khác nói chung? Giải pháp nào để
nâng cao hơn nữa chất lượng thông tin chủ trương quan trọng này?
Nhiều thông tin tái cơ cấu DNNN trên báo chí nói chung thường chỉ phán
ảnh, thông báo hoặc cao hơn một chút là phản biện của các chuyên gia chứ chưa
có ý kiến, phản hồi của các cơ quan chức năng. Để nâng cao hơn nữa chất lượng
thông tin về chủ trương quan trọng này thì phía các bộ quản lý ngành, các địa
phương phải tích cực chủ động thông tin về quá trình thực tái cơ cấu DNNN do
mình phụ trách. Ngay cả Bộ Tài chính, thông tin cần công khai, kịp thời cho báo
chí về mặt làm được, chưa làm được trong quá trình triển khai tái cơ cấu DNNN.
Đặc biệt, công khai những đơn vị có sai sót, chậm trễ trong quá trình thực hiện.
Đối với các cơ quan báo chí, tích cực hơn trao đổi với các bộ ngành, chủ
động chất vấn bộ ngành quản lý về quá trình tái cơ cấu DNNN. Nên đi vào những
vấn đề cụ thể thay vì chỉ nêu những chủ trương, định hướng chỉ đạo chung chung.