ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

NGUYỄN VĂN QUANG

NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA KHỐI LƯỢNG

SƠ SINH VÀ BỔ SUNG PROBIOTIC ĐẾN NĂNG SUẤT

VÀ HIỆU QUẢ CHĂN NUÔI LỢN LAI

(LANDRACE x YORSHIRE) NUÔI TẠI HÒA BÌNH

Ngành: Chăn nuôi

Mã số ngành: 8 62 01 05

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHĂN NUÔI

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. Nguyễn Duy Hoan

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Thái Nguyên - 2019

i

Tôi xin cam đoan những số liệu, kết quả nghiên cứu trong luận văn này là

trung thực và chưa hề được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.

Tôi cũng cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này

đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn này đều đã được chỉ rõ

nguồn gốc./.

LỜI CAM ĐOAN

Tác giả luận văn

Nguyễn Văn Quang

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

ii

Trong quá trình học tập và nghiên cứu để hoàn thành luận văn tốt nghiệp ngoài

sự nỗ lực, cố gắng của bản thân, tôi đã nhận được sự giúp đỡ, hướng dẫn, chỉ bảo và

động viên của thầy cô, bạn bè và gia đinh.

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới GS.TS. Nguyễn Duy Hoan người đã trực

tiếp hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt thời gian thực hiện luận văn cũng như trong

quá trình hoàn chỉnh luận văn tốt nghiệp.

Tôi xin chân thành cảm ơn tới các thầy cô trong Khoa Chăn nuôi Thú y đã

hướng dẫn và hỗ trợ tôi trong suốt thời gian qua.

Tôi xin chân thành cảm ơn các kỹ thuật viên, công nhân của trại lợn Thành

Thúy xã Dân Hạ, huyện Kỳ Sơn, tỉnh Hòa Bình, đã tạo điều kiện để giúp đỡ tôi

học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn.

Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, người thân, bạn bè đã luôn động

viên, chia sẻ giúp đỡ tôi trong những lúc khó khăn trong quá trình học tập, nghiên

cứu và hoàn thành luận văn.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

Hòa Bình, ngày…..tháng…..năm 2019

LỜI CẢM ƠN

Học viên

Nguyễn Văn Quang

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

iii

BS:

Bổ sung

cs:

Cộng sự

D:

Duroc

DLW:

Duroc Large White

KPCS:

Khẩu phần cơ sở

KL:

Khối lượng

L:

Landrace

LW:

Large White

PSST:

Khối lượng sơ sinh thấp

PSSTB:

Khối lượng sơ sinh trung bình

PSSC:

Khối lượng sơ sinh cao

SS:

Sơ sinh

TN:

Thí nghiệm

TA:

Thức ăn

TB:

Trung bình

TC:

Tiêu chảy

TTTA:

Tiêu tốn thức ăn

Y:

Yorkshire

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

iv

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ...........................................................................................................i

LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................... ii

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ............................................................................. iii

MỤC LỤC ....................................................................................................................iv

DANH MỤC BẢNG .................................................................................................. vii

DANH MỤC HÌNH ......................................................................................................ix

MỞ ĐẦU ....................................................................................................................... 1

1. Tính cấp thiết của đề tài ............................................................................................. 1

2. Mục đích của đề tài .................................................................................................... 2

3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài ................................................................... 2

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU ........................................................................ 4

1.1. Cơ sở khoa học về sự sinh trưởng của lợn con ....................................................... 4

1.1.1. Đặc điểm sinh trưởng của lợn con ....................................................................... 4

1.1.2. Các chỉ tiêu đánh giá sinh trưởng của lợn ........................................................... 6

1.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh trưởng ................................................ 6

1.2. Đặc điểm bộ máy tiêu hóa và sinh lý tiêu hóa của lợn ......................................... 10

1.2.1. Đặc điểm cấu tạo bộ máy tiêu hóa dạ dày ......................................................... 10

1.2.2. Đặc điểm cấu tạo bộ máy tiêu hóa ruột ............................................................. 12

1.2.3. Sinh lý tiêu hóa của lợn ..................................................................................... 14

1.3. Tổng quan về probiotic ......................................................................................... 15

1.3.1. Khái niệm về probiotic ...................................................................................... 15

1.3.2. Cơ chế tác dụng của probiotic ........................................................................... 16

1.3.3. Các nhóm vi sinh của probiotic ......................................................................... 17

1.4. Một số nét chính về hội chứng tiêu chảy ở lợn con .............................................. 18

1.4.1. Hội chứng tiêu chảy ở lợn con và nguyên nhân gây tiêu chảy .......................... 18

1.4.2. Một số loại vi khuẩn thường gặp trong bệnh tiêu chảy ..................................... 20

1.5. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước ........................................................... 22

1.5.1. Tình hình nghiên cứu trong nước ...................................................................... 22

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

v

1.5.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nước ...................................................................... 28

CHƯƠNG 2. ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ..... 30

2.1. Đối tượng, địa điểm và thời gian nghiên cứu ....................................................... 30

2.2. Nội dung nghiên cứu ............................................................................................. 30

2.3. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................................... 30

2.3.1. Thiết kế thí nghiệm ............................................................................................ 30

2.3.2. Phương pháp trộn chế phẩm vào thức ăn........................................................... 34

2.3.3. Các chỉ tiêu theo dõi .......................................................................................... 34

2.3.4. Phương pháp tlợn dõi các chỉ tiêu ..................................................................... 34

2.4. Phương pháp xử lý số liệu .................................................................................... 36

CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN............................................................... 38

3.1. Ảnh hưởng của khối lượng sơ sinh và tác dụng của việc bổ sung chế phẩm

probiotic vào thức ăn đến khối lượng cai sữa của lợn (Landrace x Yorshire)

giai đoạn sơ sinh đến 30 ngày tuổi .............................................................................. 38

3.1.1. Tỷ lệ nuôi sống lợn con giai đoạn từ sơ sinh đến 30 ngày tuổi. ........................ 38

3.1.2. Sinh trưởng tích lũy của lợn con thí nghiệm giai đoạn từ sơ sinh

đến 30 ngày tuổi. .......................................................................................................... 39

3.1.3. Sinh trưởng tuyệt đối của lợn con thí nghiệm giai đoạn từ sơ sinh

đến 30 ngày tuổi. .......................................................................................................... 44

3.1.4. Sinh trưởng tương đối của lợn con thí nghiệm giai đoạn từ sơ sinh

đến 30 ngày tuổi. .......................................................................................................... 48

3.1.5. Tỷ lệ tiêu chảy lợn con giai đoạn sơ sinh đến 30 ngày tuổi .............................. 50

3.2. Ảnh hưởng của khối lượng sơ sinh và bổ sung chế phẩm probiotic đến khả năng

sản xuất và hiệu quả kinh tế của lợn thịt F1 (Landrace x Yorshire)

giai đoạn 30-150 ngày tuổi .......................................................................................... 53

3.2.1. Tỷ lệ nuôi sống lợn thí nghiệm giai đoạn từ 30 đến 150 ngày tuổi. .................. 53

3.2.2. Sinh trưởng tích lũy của lợn thịt thí nghiệm ...................................................... 54

3.2.3. Sinh trưởng tuyệt đối của lợn thịt thí nghiệm .................................................... 58

3.2.4. Sinh trưởng tương đối của lợn thịt thí nghiệm. ................................................. 62

3.2.5. Tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối lượng của lợn thí nghiệm .................................. 64

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

vi

3.2.6. Tiêu tốn năng lượng trao đổi và protein cho tăng khối lượng ........................... 66

3.2.7. Hiệu quả kinh tế của lợn thí nghiệm giai đoạn từ 30 – 150 ngày tuổi............... 68

KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ ......................................................................................... 73

1. Kết luận .................................................................................................................... 73

2. Đề nghị ..................................................................................................................... 74

TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................... 75

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

vii

Bảng 2.1. Sơ đồ bố trí thí nghiệm từ giai đoạn SS – 30 ngày tuổi .............................. 31

Bảng 2.2. Thành phần dinh dưỡng của thức ăn hỗn hợp cho lợn con

từ SS - 30 ngày tuổi .................................................................................................... 32

Bảng 2.3. Sơ đồ bố trí thí nghiệm từ giai đoạn 30 - 150 ngày tuổi ............................. 33

Bảng 2.4. Thành phần dinh dưỡng của thức ăn hỗn hợp cho lợn con

từ 30 đến 150 ngày tuổi ............................................................................................... 33

Bảng 3.1. Tỷ lệ nuôi sống của lợn thí nghiệm. ............................................................ 38

Bảng 3.2. Ảnh hưởng của khối lượng sơ sinh và bổ sung chế phẩm

probiotic đến sinh trưởng của lợn con giai đoạn tlợn mẹ. ........................................... 40

Bảng 3.3. Sinh trưởng tuyệt đối của lợn con giai đoạn tlợn mẹ .................................. 44

Bảng 3.4. Sinh trưởng tương đối của lợn con giai đoạn từ SS – 30 ngày tuổi ........... 48

Bảng 3.5. Tình hình mắc bệnh tiêu chảy của lợn con giai đoạn

từ sơ sinh – 30 ngày tuổi .............................................................................................. 51

Bảng 3.6. Tỷ lệ nuôi sống lợn thí nghiệm giai đoạn từ 30 đến 150 ngày tuổi ........... 53

Bảng 3.7. Sinh trưởng tích lũy của lợn thí nghiệm từ 30 đến 150 ngày tuổi . ............ 54

Bảng 3.8. Sinh trưởng tuyệt đối của lợn thí nghiệm từ 30 đến 150 ngày tuổi. ........... 58

Bảng 3.9. Sinh trưởng tương đối của lợn thí nghiệm từ 30 đến 150 ngày tuổi .......... 62

Bảng 3.10. Tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối lượng lợn thịt thí nghiệm .......................... 64

Bảng 3.11. Tiêu tốn năng lượng trao đổi cho tăng khối lượng (kcal/kg) ……………64

Bảng 3.12. Tiêu tốn protein cho tăng khối lượng (g/kg) ……………………………65

Bảng 3.13. Hiệu quả kinh tế của lợn thí nghiệm ......................................................... 70

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

DANH MỤC BẢNG

viii

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

ix

Hình 3.1. Đồ thị sinh trưởng tích lũy của lợn con giai đoạn từ SS - 30 ngày tuổi ...... 43

Hình 3.2. Biểu đồ sinh trưởng tuyệt đối của lợn thí nghiệm ....................................... 47

Hình 3.3. Đồ thị sinh trưởng tích lũy của lợn thí nghiệm giai đoạn 30-150 ngày tuổi

...................................................................................................................................... 58

Hình 3.4. Biểu đồ sinh trưởng tuyệt đối của lợn thí nghiệm giai đoạn 30-150 ngày

tuổi ............................................................................................................................... 62

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

DANH MỤC HÌNH

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Chăn nuôi là một trong hai lĩnh vực kinh tế quan trọng trong nền nông

nghiệp. Ðặc biệt nông nghiệp lại có ý nghĩa rất quan trọng đối với nước ta khi

có tới hơn 70 % dân cư sống dựa vào nông nghiệp. Lợn là loài vật nuôi có khả

năng sử dụng tốt các phụ phẩm công - nông nghiệp, khả năng sinh sản cao và

dễ nuôi. Vì vậy, chăn nuôi lợn đã trở thành nghề truyền thống của nông dân và

là ngành chăn nuôi chủ yếu ở nước ta. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê,

tổng đàn lợn của Việt Nam năm 2017 có khoảng 27,4 triệu con, được nuôi phổ

biến ở tất cả các vùng sinh thái nông nghiệp, đóng góp tới 70% lượng thịt tiêu

thụ so với tổng số lượng thực phẩm là thịt tiêu dùng ở nước ta hiện nay. Do đó,

thực tiễn đang đặt ra cho công tác khoa học kỹ thuật nhiều yêu cầu và mục tiêu

mới trong nghề chăn nuôi lợn.

Để nâng cao năng suất và hiệu quả trong chăn nuôi lợn, chúng ta đã nhập

các giống lợn cao sản từ nước ngoài để lai kinh tế và phục vụ cho các chương

trình nhân giống. Trong hơn 30 năm qua, lai kinh tế giữa lợn đực ngoại với lợn

nái nội, giữa đực ngoại và nái ngoại,… đã trở thành tiến bộ kỹ thuật quan trọng

và góp phần nâng cao năng suất chăn nuôi. Song song với công tác giống, việc

chăm sóc nuôi dưỡng trong đó có việc sử dụng một số chế phẩm sinh học như

kháng sinh, hocmon đã và đang được sử dụng ở những quy mô, mức độ khác

nhau và mang lại những hiệu quả nhất định. Tuy nhiên, trải qua thời gian, các

nhà khoa học đã phát hiện ra mặt trái của các chất bổ sung này như gây hiện

tượng kháng thuốc của vi khuẩn, để lại tồn dư trong sản phẩm gây ảnh hưởng

xấu tới sức khỏe con người. Để khắc phục những hạn chế này, khoa học đã

hướng tới nghiên cứu và sản xuất những chất thay thế nhằm đáp ứng đòi hỏi

cấp thiết của thực tế sản xuất.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ khoa học kỹ thuật đã tạo ra nhiều

2

chất kích thích, nhiều chế phẩm bổ sung cho thức ăn hoặc tiêm trực tiếp cho

gia súc. Trên thế giới, việc bổ sung các chế phẩm cho gia súc trong khẩu phần

ăn nhằm thay thế việc sử dụng kháng sinh đã và đang được sử dụng rộng rãi.

Probiotic một loại lợi khuẩn thuộc nhóm các vi khuẩn sống và là những vi sinh

vật sống, chủ yếu là vi khuẩn, tương tự các vi sinh vật có lợi tự nhiên được tìm

thấy trong ruột. Chúng còn được gọi là "vi khuẩn thân thiện" hay "vi khuẩn có

lợi", những vi khuẩn này được bổ sung vào chế độ ăn nhằm cân bằng hệ vi

khuẩn đường ruột để cải thiện sức khỏe. Đây là những vi sinh vật còn sống, khi

đưa vào cơ thể một lượng đầy đủ sẽ có lợi cho sức khỏe của ký chủ, hiện đang

được chú trọng nghiên cứu và ứng dụng trong chăn nuôi lợn.

Nhằm đánh giá một cách toàn diện vai trò và tác dụng của chế phẩm

probiotic đến sức khỏe và tăng khối lượng của lợn, chúng tôi tiến hành nghiên

cứu đề tài: “Nghiên cứu ảnh hưởng của khối lượng sơ sinh và bổ sung

probiotic đến năng suất, hiệu quả chăn nuôi lợn lai (Landrace x Yorshire)

nuôi tại Hoà Bình”.

2. Mục đích của đề tài

- Xác định được ảnh hưởng của khối lượng sơ sinh và tác dụng của việc bổ

sung chế phẩm probiotic vào thức ăn đến khối lượng cai sữa, khối lượng xuất

chuồng và hiệu quả chăn nuôi lợn thịt (Landrace x Yorshire) tại Hòa Bình.

- Từ các kết quả xác định được, đề xuất các giải pháp trong quá trình sử

dụng chế phẩm probiotic thay thế kháng sinh bổ sung nhằm nâng cao năng suất

trong chăn nuôi lợn.

3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

- Ý nghĩa khoa học: Đề tài cung cấp các số liệu, thông tin khoa học về ảnh

hưởng của khối lượng sơ sinh và tác dụng của việc bổ sung chế phẩm probiotic

vào thức ăn đến khối lượng cai sữa, khối lượng xuất chuồng và hiệu quả chăn

nuôi lợn lai (Landrace x Yorshire) nuôi tại Hòa Bình.

- Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả đề tài góp phần thúc đẩy sản xuất chăn nuôi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

và sản phẩm chăn nuôi lợn lai (Landrace x Yorshire) sử dụng probiotic không

3

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

dùng hoặc hạn chế thấp nhất việc sử dụng kháng sinh trong thức ăn.

4

Chương 1

TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Cơ sở khoa học về sự sinh trưởng của lợn con

1.1.1. Đặc điểm sinh trưởng của lợn con

Sinh trưởng là một quá trình sinh lý, sinh hoá phức tạp, duy trì từ khi phôi

thai được hình thành đến khi thành thục về tính.

Theo tác giả Chambers (1990) định nghĩa thì: Sinh trưởng là sự tổng hợp

quá trình tăng lên của các bộ phận trên cơ thể như thịt, da, xương. Tuy nhiên

có khi tăng khối lượng chưa phải là sinh trưởng, sự sinh trưởng thực sự phải là

tăng các tế bào của mô cơ, tăng thêm khối lượng, số lượng và các chiều của cơ

thể.

Theo Trần Đình Miên và Nguyễn Kim Đường (1992), sinh trưởng là quá

trình tích lũy các chất hữu cơ do đồng hóa và dị hóa, là sự tăng chiều cao,

chiều dài, bề ngang, khối lượng các bộ phận và toàn bộ cơ thể con vật trên cơ

sở di truyền của đời trước. Sinh trưởng chính là quá trình tích lũy dần dần các

chất (trong đó chủ yếu là protein). Ở đây tốc độ tích lũy của các chất cũng

chính là tốc độ hoạt động của các gen điều khiển sự sinh trưởng của cơ thể. Mà

sự hoạt động của các gen điều khiển này chịu ảnh hưởng của hệ thống tuyến

nội tiết (Đặc biệt là hormon Somato Tropin Hormon của thùy trước tuyến yên)

có tác dụng trong việc thúc đẩy quá trình sinh trưởng của sinh vật.

Dương Mạnh Hùng (2007) đã khái quát: Sinh trưởng là quá trình tích luỹ

các chất do đồng hoá và dị hoá, là sự tăng lên về chiều cao, chiều dài, chiều

ngang, khối lượng của các bộ phận và toàn bộ cơ thể của con vật trên cơ sở đặc

tính di truyền từ thế hệ trước. “Thực chất của sinh trưởng chính là sự tăng

trưởng và sự phân chia của các tế bào trong cơ thể”.

Về mặt sinh học, sinh trưởng được xem như quá trình tổng hợp protein, vì

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

thế người ta thường lấy chỉ tiêu tăng khối lượng để đánh giá quá trình sinh

5

trưởng của sinh vật. Trong quá trình sinh trưởng thì lợn con trong giai đoạn bú

sữa có khả năng sinh trưởng và phát dục nhanh. Lợn con có tốc độ sinh trưởng

phát dục rất nhanh nên khả năng tích lũy chất dinh dưỡng rất mạnh, lợn con ở

20 ngày tuổi mỗi ngày có thể tích lũy được 9 - 14g protein/kg khối lượng cơ

thể, lợn lớn chỉ tích lũy được 0,3 - 0,4g protein/kg khối lượng cơ thể. Để tăng

1kg khối lượng cơ thể, lợn con cần ít năng lượng hơn, nghĩa là tiêu tốn ít thức

ăn hơn lợn lớn vì tăng trọng của lợn con chủ yếu là tăng thịt nạc, mà để sản

xuất ra 1kg thịt nạc thì cần ít năng lượng hơn để sản xuất ra 1kg thịt mỡ (Võ

Trọng Hốt và cs, 2000).

Theo Trần Văn Phùng và cs (2004) cho biết: Sinh trưởng của lợn không

đều qua các giai đoạn, sinh trưởng nhanh trong 21 ngày đầu sau đó giảm. So

với khối lượng sơ sinh thì sau 10 ngày tuổi khối lượng lợn con tăng gấp 2 lần,

lúc 21 ngày tuổi gấp 4 lần, lúc 30 ngày tuổi tăng gấp 5 - 6 lần, lúc 40 ngày tuổi

tăng gấp 7 - 8 lần, lúc 50 ngày tuổi tăng gấp 10 lần và lúc 60 ngày tuổi tăng

gấp 12 - 14 lần. Sở dĩ như vậy là do nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu là do

lượng sữa mẹ bắt đầu giảm và hàm lượng hemoglobin trong máu lợn con thấp.

Do lợn sinh trưởng phát triển nhanh nên khả năng tích luỹ các chất dinh dưỡng

rất mạnh. Lợn con ở 21 ngày tuổi, mỗi ngày có thể tích luỹ được 9 - 14 g

protein/1kg khối lượng cơ thể. Trong khi đó lợn trưởng thành tích luỹ được 0,3

- 0,4 kg protein. Hơn nữa để tăng 1 kg khối lượng cơ thể, lợn con cần rất ít

năng lượng nghĩa là tiêu tốn thức ăn lớn. Vì tăng khối lượng chủ yếu của lợn

con là nạc, mà để sản xuất ra 1kg thịt nạc cần ít năng lượng hơn để sản xuất ra

1kg thịt mỡ.

Từ những kết quả nghiên cứu trên cho thấy, lợn là loài có khả năng sinh

trưởng phát triển nhanh, tuy nhiên để khai thác hết tiềm năng sản xuất của

chúng thì người chăn nuôi phải nắm vững đặc điểm cấu tạo bộ máy tiêu hóa và

sinh lý tiêu hoá của lợn để có các biện pháp tác động kịp thời và có hiệu quả

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

kinh tế cao.

6

1.1.2. Các chỉ tiêu đánh giá sinh trưởng của lợn

Để đánh giá năng suất thịt lợn người ta sử dụng các nhóm chỉ tiêu tăng

khối lượng ngày đêm và khối luợng đạt được lúc giết thịt, ngoài ra còn xem xét

sinh trưởng tương đối, cụ thể:

Sinh trưởng tích lũy: Là khối lượng, kích thước, thể tích của gia súc tích

lũy được trong một thời gian.

Sinh trưởng tuyệt đối: Là khối lượng, thể tích, kích thước cơ thể gia súc

tăng lên trong một đơn vị thời gian và được tính tlợn công thức sau đây:

W2 - W1 A= t2 - t1

Trong đó: A là sinh trưởng tuyệt đối (g/con/ngày)

W1 là khối lượng tích luỹ đo được ở thời điểm t1

W2 là khối lượng tích luỹ đo được ở thời điểm t2.

Sinh trưởng tương đối: là tỷ lệ phần trăm khối lượng, kích thước, thể tích

của cơ thể hay từng bộ phận cơ thể tăng thêm so với trung bình của hai thời

điểm sinh trưởng sau và trước. Độ sinh trưởng tương đối thường được biểu thị

bằng số phần trăm, công thức tính như sau:

W2 - W1 R (%) = x 100 (W2 + W1) / 2

Trong đó: R (%): độ sinh trưởng tương đối (%)

W2: khối lượng tích luỹ đo được tại thời điểm sau

W1: khối lượng tích luỹ đo được tại thời điểm trước

1.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh trưởng

Như đã đề cập ở trên, tất cả các tính trạng về khả năng sinh trưởng và cho

thịt ở lợn được gọi chung là tính trạng sản xuất và chúng hầu hết là tính trạng

số lượng và chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố di truyền và ngoại cảnh.

* Các yếu tố di truyền:

Các giống khác nhau có quá trình sinh trưởng khác nhau, tiềm năng di

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

truyền của quá trình sinh trưởng của các gia súc được thể hiện thông qua hệ số

7

di truyền. Hệ số di truyền đối với tính trạng khối lượng sơ sinh và sinh truởng

trong thời gian bú sữa dao động từ 0,05 - 0,21, hệ số di truyền này thấp hơn so

với hệ số di truyền của tính trạng này trong thời kỳ vỗ béo (từ 25 - 95 kg).

Tăng khối lượng và tiêu tốn thức ăn có mối tương quan di truyền nghịch và

khá chặt chẽ được nhiều tác giả nghiên cứu kết luận, đó là: 0,51 đến 0,56 và

0,715 và công bố con lai (DLW) D có mức tiêu tốn thức ăn là 3,55 kg/kg tăng

khối lượng, trong khi con lai LW chỉ tiêu này đạt 2,5 kg/kg tăng khối lượng.

Tính trạng này được quan tâm chọn lọc và có xu hướng ngày càng giảm.

* Các yếu tố ngoại cảnh:

Thời tiết khí hậu ảnh hưởng rất lớn đến sinh trưởng của lợn. Theo Trần

Cừ và Nguyễn Khắc Khôi (1985), nhiệt độ tối ưu chuồng nuôi khi lợn nái mới

đẻ là 30 - 320C, lợn có khối lượng 30 kg nhiệt độ tối ưu là 260C, lợn có khối

lượng 50 kg nhiệt độ tối ưu là 190C, lợn có khối lượng > 50 kg thì nhiệt độ <

190C. Chuồng trại, quản lý chăm sóc, nuôi dưỡng ảnh hưởng không nhỏ tới

sinh trưởng, phát triển của lợn ở bất kỳ giai đoạn nào.

* Ảnh hưởng của khối lượng sơ sinh/ổ

Là chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật quan trọng, nói lên trình độ kỹ thuật chăn nuôi,

đặc điểm của giống và khả năng nuôi thai của lợn nái. Khối lượng sơ sinh/ổ, là

khối lượng được cân sau khi lợn con đẻ ra cắt rốn, lau khô và chưa cho bú sữa

đầu. Khối lượng sơ sinh/ổ là khối lượng của tất cả lợn con sinh ra còn sống và

được phát dục hoàn toàn, khối lượng sơ sinh/ổ cao thì tốt, lợn sẽ tăng khối lượng

nhanh ở các giai đoạn phát triển sau (Nguyễn Thiện và cs, 1998).

Các giống lợn khác nhau cho khối lượng sơ sinh khác nhau. Các giống

lợn nội như Móng Cái: 0,5-0,7 kg/con, lợn Ỉ 0,45 kg/con. Lợn ngoại Yorshise

nuôi tại Việt Nam 1,24 kg/con, lợn Duroc 1,2-1,5 kg/con (Trần Văn Phùng và

cs, 2004).

Ngoài ra, khối lượng sơ sinh có liên quan và tỷ lệ thuận với khối lượng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

của lợn nái. Vì thế trong giai đoạn lợn nái chửa và nhất là thời gian 20 ngày

8

trước khi đẻ cần chăm sóc nuôi dưỡng cho lợn nái tốt, thức ăn đầy đủ các chất

dinh dưỡng như: Protein, vitamin, khoáng để cho thai phát triển tốt. Khi khối

lượng con sơ sinh cao thì lợn có khả năng sinh trưởng, phát triển nhanh, khối

lượng con cai sữa sẽ cao và khối lượng xuất chuồng lớn.

* Ảnh hưởng của khối lượng cai sữa/ổ

Trong chăn nuôi lợn con từ khi sơ sinh đến khi cai sữa có một ý nghĩa rất

quan trọng vì đó chính là cơ sở vật chất để phát triển đàn lợn nái sinh sản và

nâng cao năng suất chăn nuôi. Khối lượng toàn ổ khi cai sữa ảnh hưởng rất lớn

tới khối lượng xuất chuồng. Khối lượng cai sữa/ổ của các giống lợn khác nhau

cho khối lượng không giống nhau. Lợn móng cái có khối lượng cai sữa/ổ lúc 2

tháng tuổi là 58,20 - 60,88 kg; lợn F1 (Đại bạch x Móng cái) có khối lượng 60

ngày/ổ là 63,80 kg (Nguyễn Thiện và cs, 1998).

Khối lượng cai sữa của lợn con cao hay thấp, sức khoẻ tốt hay xấu, sinh

trưởng phát dục nhanh hay chậm, đều có ảnh hưởng trực tiếp đến phẩm chất đàn

giống và khả năng nuôi thịt của lợn sau này. Nuôi dưỡng tốt lợn con còn là cơ

sở thuận lợi cho công tác chọn giống, chọn phối, là cơ sở tốt để con vật có thể di

truyền khả năng sinh sản cho đời sau. Khối lượng cai sữa có liên quan chặt chẽ

tới khối lượng sơ sinh, làm nền tảng và điểm xuất phát cho khối lượng xuất

chuồng. Vì vậy, để có khối lượng cai sữa/ổ cao ta phải chăm sóc, nuôi dưỡng tốt

lợn có chửa và lợn con bú sữa, đặc biệt là bổ sung thức ăn sớm cho lợn con,

giúp cho lợn con sinh trưởng phát triển mạnh, giảm sự hao mòn của lợn mẹ,

đồng thời làm giảm tỷ lệ lợn con mắc bệnh và chết xuống mức thấp nhất.

* Ảnh hưởng của tính biệt:

Lợn cái, lợn đực hay lợn đực thiến đều có tốc độ phát triển và cấu thành của

cơ thể khác nhau. Tuy nhiên, nhu cầu về năng lượng cho duy trì của lợn đực cũng

cao hơn lợn cái và lợn đực thiến. Một số công trình nghiên cứu khác lại cho rằng

lợn đực thiến có mức độ tăng khối lượng cao hơn, tiêu tốn thức ăn thấp hơn

(Campell cs, 1983). Tính biệt có ảnh hưởng rõ rệt đối với tăng khối lượng.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

* Ảnh hưởng của cơ sở chăn nuôi và chuồng trại:

9

Cơ sở chăn nuôi và chuồng trại cũng ảnh hưởng đến khả năng sản xuất.

Cơ sở chăn nuôi biểu thị tổng hợp chế độ quản lý, chăm sóc nuôi dưỡng đàn

lợn. Thông thường, lợn bị nuôi chật hẹp thì khả năng tăng khối lượng thấp hơn

lợn được nuôi trong điều kiện chuồng trại riêng rẽ.

Lợn nuôi đàn thì ăn nhanh hơn, lượng thức ăn trong một bữa được

nhiều hơn nhưng số bữa ăn trong ngày lại giảm và lượng thức ăn thu nhận

hàng ngày lại ít hơn so với lợn nuôi nhốt riêng từng ô chuồng. Các tác nhân

stress có ảnh hưởng xấu đến quá trình trao đổi chất và sức sản xuất của lợn,

đó là: điều kiện tiểu khí hậu chuồng nuôi, khẩu phần ăn không đảm bảo, chế

độ nuôi dưỡng, chăm sóc kém, vận chuyển, phân đàn, tiêm chủng, điều trị,

thay đổi khẩu phần...

* Ảnh hưởng của dinh dưỡng:

Dinh dưỡng là một trong những nhân tố quan trọng nhất trong các nhân tố

ngoại cảnh, ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng sinh trưởng và cho thịt ở lợn.

Mối quan hệ năng lượng và protein trong khẩu phần là yếu tố ảnh hưởng trực

tiếp đến tốc độ tăng khối lượng. Phương thức cho ăn và giá trị dinh dưỡng

trong khẩu phần ăn là chìa khóa ảnh hưởng lên tăng khối lượng (Nguyễn Nghi

và cs, 1996).

Đảm bảo cân đối dinh dưỡng thì con vật mới phát huy được tiềm năng di

truyền của nó. Thức ăn và giá trị dinh dưỡng là các nhân tố ảnh hưởng lớn đến

khả năng sản xuất và chất lượng thịt của con vật.

Ngoài ra, phương thức nuôi dưỡng cũng có ảnh hưởng đến khả năng sản

xuất của con vật. Khi cho lợn ăn khẩu phần ăn tự do, khả năng tăng khối lượng

nhanh hơn, tiêu tốn thức ăn thấp hơn nhưng dày mỡ lưng lại cao hơn khi lợn

được ăn khẩu phần ăn hạn chế (Nguyễn Nghi và cs, 1996).

Lợn cho ăn khẩu phần thức ăn hạn chế có tỷ lệ nạc cao hơn lợn cho ăn

khẩu phần thức ăn tự do.

* Ảnh hưởng của năm và mùa vụ:

Có nhiều tác giả nghiên cứu về năm và mùa vụ trong chăn nuôi cho biết Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

10

chúng gây ảnh hưởng đến khả năng tăng khối lượng của lợn; sự khác nhau

giữa năm và mùa ảnh hưởng đến tăng khối lượng và dày mỡ lưng là rõ rệt.

Khi nghiên cứu về sự ảnh hưởng của nhiệt độ đến khả năng tăng khối

lượng của lợn. Các tác giả cho biết, nếu nuôi lợn từ 20 kg đến 90 kg ở nhiệt độ từ 8oC đến 22oC thì khả năng tăng khối lượng tăng và nhu cầu về thức ăn cũng tăng lên.

Trần Thị Minh Hoàng và cs (2006) cũng cho biết, tăng khối lượng chịu

ảnh hưởng lớn của yếu tố mùa vụ và năm thí nghiệm.

* Ảnh hưởng của tuổi và khối lượng giết mổ:

Khả năng sản xuất cũng phụ thuộc vào tuổi và khối lượng lúc giết thịt.

Tính từ khi sinh ra đến 7 tháng tuổi khối lượng lợn tăng khoảng 100 lần, trong

đó mô xương chỉ tăng khoảng 30 lần, mô cơ tăng 81 lần còn mô mỡ tăng tới

675 lần.

1.2. Đặc điểm bộ máy tiêu hóa và sinh lý tiêu hóa của lợn

Quá trình sinh trưởng phát triển của vật nuôi bao gồm sự tăng lên của

khối lượng cơ thể đồng thời phát triển và hoàn thiện các cơ quan trong cơ thể,

trong đó cơ quan tiêu hoá của lợn con phát triển nhanh và hoàn thiện dần về

chức năng. Hệ cơ quan của lợn có sự phát triển theo tuổi một cách rõ rệt nhưng

vẫn chưa hoàn thiện. Khi còn trong bào thai cơ quan tiêu hoá của lợn đã hình

thành đầy đủ nhưng mang dung tích bé. Trong thời gian bú sữa cơ quan tiêu

hoá phát triển và phát dục nhanh.

1.2.1. Đặc điểm cấu tạo bộ máy tiêu hóa dạ dày

Đặc điểm cơ quan tiêu hoá lợn con giai đoạn theo mẹ, phát triển nhanh về

cấu tạo và hoàn thiện dần về chức năng tiêu hoá. Dung tích dạ dày lợn con lúc

10 ngày tuổi tăng gấp 3 lần lúc sơ sinh, lúc 21 ngày tuổi tăng gấp 8 lần, lúc 60

ngày tuổi tăng gấp 60 lần (dung tích lúc sơ sinh khoảng 0,03 lít).

Đối với lợn con, sự tiết dịch có những đặc điểm khác biệt so với lợn lớn.

Theo Trương Lăng (2004), lợn con 20 ngày tuổi có phản xạ tiết dịch còn chưa

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

rõ, ban đêm lợn mẹ tiết nhiều sữa kích thích sự tiết dịch vị ở lợn con. Khi cai

11

sữa lượng dịch vị tiết ra ngày và đêm gần bằng nhau, độ axit của dịch vị lợn

con thấp nên hoạt hoá pepsin kém, khả năng diệt khuẩn kém. Hàm lượng axit

biến đổi theo lứa tuổi của lợn con, axit HCl tự do xuất hiện ở 25 - 30 ngày tuổi

và diệt khuẩn rõ nhất ở 40- 50 ngày tuổi. Theo Hoàng Toàn Thắng và cs

(2006) cho biết, chức năng tiêu hoá của lợn con sơ sinh chưa hoàn thiện. Trong

giai đoạn theo mẹ, chức năng của bộ máy tiêu hoá lợn con được hoàn thiện dần

thể hiện sự thay đổi hoạt tính các men trong dịch vị. Tác giả cũng cho biết

thêm dạ dày lợn là dạ dày trung gian giữa dạ dày đơn và dạ dày kép bao gồm 5

phần như: dạ dày đơn vùng thực quản (nhỏ), vùng manh nang, vùng thượng vị,

vùng thân vị và vùng hạ vị. Vùng thực quản không có tuyến, vùng manh nang

và thượng vị có tuyến tiết ra dịch nhầy không có pepsin và HCl.

Men pepsin: lợn con dưới 1 tháng tuổi, men pepsin trong dạ dày lợn con

chưa có khả năng tiêu hoá protein của thức ăn, vì lúc này dịch vị dạ dày lợn

con không có HCl tự do, lượng axit tiết ra rất ít và nhanh chóng liên kết với

dịch nhầy, gây ra hiện tượng thiếu axit hay còn gọi là “Hypoclohydric”. Sau 3

tuần tuổi, lượng HCl tự do trong dịch vị mới tăng dần. Đây là một đặc điểm

quan trọng trong tiêu hoá dạ dày ở lợn con. Khi có HCl tự do sẽ kích hoạt để

pepsinogen chuyển thành dạng pepsin hoạt động và men này mới có khả năng

tiêu hoá đầy đủ. Vì thiếu HCl tự do nên dịch vị không có tính sát trùng, vi sinh

vật xâm nhập vào dạ dày dễ sinh sôi nảy nở và phát triển gây bệnh về đường

tiêu hoá ở lợn con đặc biệt là bệnh lợn con phân trắng.

Có thể kích thích tế bào vách dạ dày lợn con tiết ra HCl tự do sớm hơn,

bằng cách bổ sung thức ăn sớm cho lợn con. Nếu tập cho lợn con ăn sớm vào

lúc 5 - 7 ngày tuổi thì HCl tự do có thể được tiết ra từ ngày tuổi thứ 14. Còn

trong dạ dày của loài ăn tạp, pepsin chỉ hoạt động tốt trong môi trường pH =

2,5 - 3 với nồng độ HCl tự do từ 0,1 - 0,5%.

Men catepsin: Là men tiêu hoá protein trong sữa có tác dụng giống men

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

pepsin, thuỷ phân protein và các mạch peptit thành amino axit, hoạt động thích

12

hợp trong khoảng pH = 4 - 5. Vì thích hợp với pH cao nên catepsin hoạt động

mạnh ở động vật non bú sữa khi mà HCl tự do hình thành chưa nhiều. Ở động

vật trưởng thành catepsin hầu như không hoạt động, khi vật nuôi chết catepsin

hoạt động phân giải protein dạ dày.

Men chymosin (hay rennin) có hoạt tính mạnh trong 3 tuần đầu và sau

giảm dần. Men này có tác dụng làm ngưng đặc sữa, hoạt động tốt ở pH = 4 - 5.

Dưới tác dụng của chymosin và Ca2+, protein trong sữa là caseinogen ở dạng

hoà tan chuyển thành caseinatcalci (dạng đông vón), có thể lưu lâu trong dạ

dày tạo điều kiện cho pepsin hoạt động, phần nhũ thanh (dịch trong còn lại)

của sữa được chuyển xuống ruột non để tiêu hoá.

1.2.2. Đặc điểm cấu tạo bộ máy tiêu hóa ruột

Theo Nguyễn Thiện và cs (1998), ruột non của lợn dài gấp 14 lần chiều

dài cơ thể, gồm 4 phần: Phần tá tràng, không tràng và hồi tràng. Ruột già dài

khoảng 4 - 5 m gồm 3 đoạn: Manh tràng, kết tràng và trực tràng.

Theo Trương Lăng (2004), thì dung tích ruột non ở lợn con sơ sinh là

100ml, 20 ngày tuổi tăng 7 lần, tháng thứ 3 đạt 6 lít, 12 tháng đạt 20 lít. Ruột

già ở lợn sơ sinh dung tích 40 – 50 ml, 20 ngày 100 ml, tháng thứ 3 khoảng 2,1

lít, tháng thứ 4 là 7 lít, tháng thứ 7 là 11 - 12 lít.

Tiêu hoá ở ruột nhờ tuyến tuỵ, tuyến tuỵ tiết ra dịch tuỵ theo ống dẫn tuỵ

Wirsung đổ vào tá tràng (chức năng ngoại tiết). Dịch tuỵ có ý nghĩa rất quan

trọng đối với sự tiêu hoá: Dịch tuỵ có tác dụng phân giải từ 60 - 80% protein,

gluxit và lipit của thức ăn. Trong dịch tuỵ có chứa các men phân giải protein,

phân giải bột đường và men phân giải mỡ. Hoạt tính của các men thay đổi từ

sơ sinh đến trưởng thành.

* Nhóm men phân giải protein

Men trypsine: Là men chính của dịch tuỵ được tiết ra dưới dạng

tripsinogen không hoạt động rồi được enterokinase của tá tràng hoạt hoá trở

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

thành dạng trypsin hoạt động sau đó là quá trình hoạt hoá trypsinogen.

13

Là men tiêu hoá protein của thức ăn, ở trong thai 2 tháng tuổi chất chiết

đã có men trypsine, thai càng lớn hoạt tính của men trypsine càng cao. Khi lợn

con mới đẻ ra, hoạt tính của men trypsine dịch tuỵ rất cao để bù đắp lại khả

năng tiêu hoá kém của men pepsin dạ dày.

Trypsin có hoạt lực cao nhất ở pH = 8, tác dụng tương tự như pepsin

nhưng hoạt lực mạnh và triệt để hơn. Ngoài ra trypsin còn phân giải protein

thành polipeptid và amino axit.

Chimotripsin cũng được tiết ra dưới dạng không hoạt động là

Chimotripsinogen sau đó được trypsin hoạt hoá chuyển thành Chimotripsin

hoạt động, pHtối ưu = 8, tác dụng tương tự trypsin.

Alastase phân giải alastin (gân, bạc nhạc) thành peptid và amino axit.

Carboxipolipeptidase tác dụng phân giải peptid ở đầu có nhóm COO- tự

do và tách amino axit ra khỏi phân tử peptid.

Dipeptidase phân giải đipeptit thành 2 axit amin.

Protaminase phân giải protamin thành peptid và amino axit.

Nuclease phân giải axit nucleic thành mono nucleotid.

* Nhóm men thuỷ phân glucid:

Amylase và mantase: Hai men này có trong nước bọt và trong dịch tuỵ, khi

lợn con mới đẻ ra nhưng dưới 3 tuần hoạt tính còn thấp, do đó khả năng tiêu hoá

tinh bột còn kém, chỉ tiêu hoá được 50% lượng tinh bột ăn vào. Đối với tinh bột

sống, lợn con tiêu hoá càng kém. Sau 3 tuần tuổi, men amylase và mantase có

hoạt tính mạnh nên khả năng tiêu hoá tinh bột của lợn con tốt hơn. Amylase hoạt

động tối ưu trong pH = 7,1. Nó cắt liên kết 1 - 4α glucozit của cả tinh bột sống và

chín cho ra maltose. Maltase phân giải đường maltose thành glucose.

Saccarase: Đối với lợn con dưới 2 tuần tuổi, men saccarase hoạt tính còn

thấp, nếu cho lợn con ăn đường saccarase thì rất dễ bị ỉa chảy.

Lipase: Hoạt động tối ưu ở pH = 6,8. Lipase cắt các liên kết este giữa

glycerol và axit béo, do đó phân giải glycerid đã được nhũ hoá bằng dịch ruột

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

để tạo ra mono glycerid, axit béo và glycerol.

14

Lactase: Có tác dụng tiêu hoá đường lactose trong sữa. Men này có hoạt

tính mạnh ngay từ khi lợn con sinh ra và tăng cao nhất ở tuần tuổi thứ 2, sau đó

hoạt tính của men này giảm dần.

Qua nghiên cứu về quá trình phân tiết của men amylase, maltase và

protease, chúng ta thấy sự phân tiết và hoạt động của các men này tăng dần

theo sự tăng lên của ngày tuổi, men lipase tăng dần đến khi cai sữa sau đó

giảm dần. Riêng men lactase tăng cao nhất ở giai đoạn 2 tuần tuổi sau đó giảm

dần tlợn sự tăng lên của ngày tuổi. Đây chính là điểm cần lưu ý khi bổ sung

thức ăn cho lợn con.

Như vậy, để tăng tỷ lệ tiêu hoá và giảm tỷ lệ tiêu chảy ở lợn con cũng

như để phù hợp với khả năng tiêu hoá của lợn thì trong sản xuất thức ăn cho

lợn con giai đoạn tập ăn và sau cai sữa chúng ta nên sử dụng các loại thức ăn

dễ tiêu hoá như: bột sữa, đường lactose,... thức ăn cần được rang chín và

nghiền nhỏ đồng thời bổ sung thêm một số axit vô cơ như axit lactic.

1.2.3. Sinh lý tiêu hóa của lợn

Tiêu hóa là quá trình phân giải thức ăn từ miệng đến ruột già, biến đổi

những hợp chất hữu cơ phức tạp của thức ăn thành những chất đơn giản nhất

mà cơ thể động vật có thể hấp thụ được. Cơ quan tiêu hóa của lợn con phát

triển nhanh, nhưng chưa hoàn thiện so với lợn trưởng thành.

Để nâng cao khả năng sinh trưởng, năng suất và hiệu quả chăn nuôi lợn thịt,

bên cạnh các biện pháp chọn giống, lai tạo giống thì việc nắm bắt các đặc điểm

sinh lý tiêu hóa của lợn để tác động các biện pháp kỹ thuật chăm sóc nuôi dưỡng,

chế biến thức ăn,… là một vấn đề quan trọng. Ta biết rằng, lợn là loài gia súc ăn

tạp, dạ dày chúng có cấu tạo trung gian giữa dạ dày đơn và dạ dày kép.

Trong quá trình phát triển các đặc điểm cấu tạo và chức năng của dạ dày

lợn, hoàn thiện dần ngay từ trong bào thai và phát triển dần cho đến ra ngoài

môi trường.

Cơ quan tiêu hóa của lợn phát triển hơn các cơ quan khác, khi còn ở trong

bào thai bộ máy tiêu hóa đã hình thành đầy đủ nhưng dung tích còn nhỏ bé.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Bộ máy tiêu hóa của lợn gồm: Miệng, hầu, thực quản, dạ dày, ruột non,

15

ruột già.

Tiêu hóa ở miệng: Tiêu hóa ở miệng gồm ba giai đoạn là nhai, tẩm thức

ăn với nước bọt và nuốt. Tiêu hóa diễn ra do hai quá trình: Tiêu hóa cơ học do

nhai và tiêu hóa hóa học do các men có trong nước bọt.

Tiêu hóa ở dạ dày: Dạ dày tiết ra dịch vị, các men tiêu hóa, khi thức ăn

xuống dạ dày cơ trơn nhào trộn thức ăn, cùng với đó là các men tiêu hóa thấm

vào thức ăn. Hàm lượng HCl trong dịch vị tăng dần để đạt tới sự ổn định gắn

liền với sự hoàn chỉnh về cấu tạo và chức năng của dạ dày lợn. Ở lợn con hàm

lượng HCl là 0,05 - 0,15 %, lợn 90 ngày tuổi là 0,2 - 0,25 % còn lợn trưởng

thành hàm lượng HCl là 0,35 - 0,4 % (Nguyễn Thiện và cs, 1998).

Chúng ta có thể kích thích tế bào vách dạ dày lợn con tiết ra HCl ở dạng

tự do sớm hơn bằng cách bổ sung thức ăn sớm cho lợn con. Nếu tập cho lợn

con ăn sớm từ 7 - 10 ngày tuổi thì HCl ở dạng tự do có thể được tiết ra từ 14

ngày tuổi (Võ Trọng Hốt và cs, 2000).

Tiêu hóa ở ruột: Dung tích ruột non của lợn lúc 10 ngày tuổi gấp 3 lần lúc

sơ sinh, lúc 20 ngày tuổi gấp 6 lần và lúc 60 ngày tuổi gấp 50 lần (dung tích

ruột non lúc sơ sinh khoảng 0,11 lít). Dung tích ruột già của lợn con lúc 10

ngày tuổi gấp 1,5 lần lúc sơ sinh, lúc 20 ngày tuổi gấp 2,5 lần và lúc 60 ngày

tuổi gấp 50 lần (dung tích ruột già lúc sơ sinh khoảng 0,04 lít). Hoạt tính của

các men thay đổi từ sơ sinh đến trưởng thành.

Từ khi sơ sinh đến 5 tuần tuổi hàm lượng và hoạt tính các men tiêu hóa ở

lợn con khác nhiều so với lợn trưởng thành. Vì vậy, khi nuôi lợn cần chú ý cho

lợn con tập ăn sớm nhằm cai sữa sớm, để lợn có khả năng hấp thu thức ăn cao

nhất và khả năng sinh trưởng tốt nhất.

1.3. Tổng quan về probiotic

1.3.1. Khái niệm về probiotic

Thuật ngữ probiotic được nhắc tới đầu tiên bởi Lilly và Stillwell (1965)

để miêu tả những yếu tố kích thích sinh trưởng được sản sinh bởi vi sinh vật.

Probiotic được bắt nguồn từ gốc Hy Lạp với nghĩa trợ sinh (Prolife). Fuller

(1989), định nghĩa probiotic như một loại thức ăn bổ sung vi sinh vật sống, có Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

16

tác động có lợi đến động vật chủ nhờ khả năng duy trì sự cân bằng hệ vi sinh

vật đường ruột. Năm 1989, US FDA (Food and Drug Administriation) đã yêu

cầu những nhà sản xuất dùng thuật ngữ vi sinh vật được cho ăn trực tiếp là

DFM (Direct Fed Microbials) hơn là dùng probiotic. FDA định nghĩa DFM

như một nguồn vi sinh vật sống tìm thấy trong tự nhiên, nó bao gồm cả vi

khuẩn, nấm mốc, nấm men (trích dẫn bởi Lã Văn Kính, 1998).

1.3.2. Cơ chế tác dụng của probiotic

Trong quy chuẩn thức ăn, probiotic thuộc nhóm phụ gia thức ăn chăn nuôi

có vai trò làm ổn định hệ vi sinh vật trong đường tiêu hoá của động vật dạ dày

đơn và động vật nhai lại. Trong ống tiêu hóa có hàng trăm nghìn tỷ vi khuẩn, số

lượng vi khuẩn có lợi đường ruột thường được duy trì ở một tỷ lệ cân bằng so với

vi khuẩn có hại, tỷ lệ này vào khoảng 85/15 (85% vi khuẩn có lợi và 15% vi

khuẩn có hại). Nếu tỷ lệ cân bằng này nghiêng về phía vi khuẩn có hại thì xuất

hiện rối loạn tiêu hóa, suy giảm khả năng miễn dịch niêm mạc ruột, dẫn đến suy

giảm sức kháng bệnh của toàn cơ thể. Sự suy giảm vi khuẩn có ích thường xẩy ra

khi sử dụng kháng sinh, tiếp xúc với hóa chất nông nghiệp hoặc do ô nhiễm. Bổ

sung probiotic là gieo lại vi khuẩn có ích bị tổn hại do các yếu tố trên.

Theo tài liệu của Han Poong industry Co., Ltd., (2002), Fuller (1989), Lã

Văn Kính (1998), cơ chế tác dụng của probiotic như sau:

Duy trì hệ vi sinh vật có lợi trong đường ruột bằng cách loại trừ cạnh

tranh và hoạt động đối kháng.

Cạnh tranh bao gồm: Cạnh tranh về vị trí bám dính trên nhung mao ruột,

cạnh tranh chất dinh dưỡng, cạnh tranh về khối lượng các chất sinh ra bởi vi

sinh vật. Nhiều nghiên cứu chứng minh probiotic ức chế bám dính trên nhung

mao của vi sinh vật gây bệnh như: E.coli, sallmonella, tryphimurium (Barnes

cs, 1997). Việc ức chế khả năng bám dính của vi sinh vật gây bệnh sẽ ngăn

ngừa sự phát triển và gây bệnh của chúng, từ đó các probiotic được coi là giải

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

pháp phòng ngừa bệnh đường ruột.

17

Tăng khả năng tiêu hóa thức ăn: Kích thích tính thèm ăn, làm tăng tích

lũy mỡ, nitrogen, Ca, P, Cu, Mn (Nahason cs, 1992 - 1996; trích dẫn bởi Lã

Văn Kính, 1998).

Làm giảm urease trong chất chứa ruột non, ngăn chặn tổng hợp những

amin độc, giảm nồng độ NH3 trong phân gia súc, gia cầm, do đó ảnh hưởng có

lợi đối với môi trường.

Tổng hợp vitamin nhóm B như: B1, B2, B6, B12.

Trung hòa và khử độc tố trong đường ruột. Ảnh hưởng có lợi của

probiotic trong thức ăn là sự sản xuất các chất kháng khuẩn có tác dụng trung

hòa độc tố tiêu chảy của vi khuẩn E.coli.

Kích thích hệ thống miễn dịch: Yếu tố được xác định có vai trò kích thích

hệ thống miễn dịch là thành phần của vách tế bào vi khuẩn (peptidoglycan). Sự

phân hủy peptidoglycan tạo ra chất muramin peptid có tác dụng kích thích hoạt

động của đại thực bào. Khả năng bám vào niêm mạc ruột của probiotic tạo lên

sự tương tác giúp probiotic tiếp xúc với hệ thống lympho đường ruột và hệ

thống miễn dịch, nhờ đó thúc đẩy hiệu quả miễn dịch và tạo nên sự ổn định của

hàng rào bảo vệ của ruột.

1.3.3. Các nhóm vi sinh của probiotic

Những vi sinh probiotic sử dụng trong thức ăn chăn nuôi bao gồm: Vi khuẩn

lactic, bào tử bacillus và nấm men. Cơ chế tác động của từng nhóm như sau:

* Vi khuẩn lactic

Vi khuẩn này chiếm vị trí quan trọng trong nhóm vi khuẩn đường tiêu hoá

của người và động vật, chúng có khả năng lên men một số loại đường để hình

thành axit lactic. Vi khuẩn lactic quan trọng trong probiotic thuộc tộc

Lactobacilli, Pediococci, Bifidobacteria và Enterococci. Enterococcus faecium

(trước đây gọi là Streptococcus faecium) là chủng quan trọng nhất được sử

dụng trong dinh dưỡng động vật. Các nhóm vi khuẩn này sản xuất axit lactic

cùng với các chất có tính kháng khuẩn và tạo ra màng mucopolysaccharide có

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

tác dụng bảo vệ biểu mô niêm mạc ruột.

18

* Bào tử Bacillus

Khả năng tự nhiên của vi khuẩn Bacillus trong probiotic là hình thành bào

tử, khi bào tử đi vào đường tiêu hoá cùng với thức ăn chúng nảy mầm và tăng

trưởng. So với sự nảy mầm của hạt, sự nảy mầm của bào tử Bacillus có sự thay

đổi rất sâu sắc về chuyển hoá. Các chất chuyển hoá trong quá trình nảy mầm,

thải vào môi trường ruột và gây ảnh hưởng xấu cho sự phát triển của vi khuẩn

bệnh. Bào tử Bacillus cũng có khả năng kích thích hệ miễn dịch của ruột. Bào

tử probiotic phải được nảy mầm ở phần trên của ruột, để thể hiện tất cả các

hoạt tính của chúng.

* Nấm men

Nấm men sử dụng trong dinh dưỡng động vật chủ yếu là các dòng của

chủng Saccharomyces cerevisiae.

Loài Sacchoramyces cerevisae hiện đang được sử dụng như một công cụ

đắc lực để mang các DNA tái tổ hợp phục vụ cho việc sản xuất các sản phẩm

thế hệ mới của kỹ thuật di truyền (Nguyễn Lân Dũng, 1998).

Tác dụng: Tạo sinh khối chứa axit amin và vitamin nhóm B. Vách tế bào

chứa mannan và glucan có tác dụng hoạt hoá đại thực bào, do đó giúp tăng

cường miễn dịch. Hấp phụ độc tố và thải ra ngoài. Chuyển hoá glucose thành

axit pyruvic, là cơ chất giúp các vi sinh vật có lợi hoạt động và sinh sản. Sản

xuất các enzym tiêu hoá: amylase, cellulase, lipase, protease. Sản xuất các axit

lactic, axit acetic, axit pyruvic, axit propionic, đưa pH ruột xuống 4 - 5.

1.4. Một số nét chính về hội chứng tiêu chảy ở lợn con

1.4.1. Hội chứng tiêu chảy ở lợn con và nguyên nhân gây tiêu chảy

Tiêu chảy, là một hội chứng lâm sàng đặc thù của nhiều bệnh đường tiêu

hoá gây ra bởi vi trùng, nấm, kí sinh trùng. Hiện tượng lâm sàng xuất phát từ

nguyên nhân, triệu chứng, đặc điểm và tính chất của bệnh và được gọi với

nhiều tên khác nhau.

Tiêu chảy gây thiệt hại đáng kể cho nghành chăn nuôi, xuất hiện ở 3 giai

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

đoạn chính (chia theo lứa tuổi) là thời kỳ sơ sinh, giai đoạn bú sữa mẹ và thời

19

kỳ lợn con sau cai sữa. Ở nước ta, bệnh tiêu chảy xảy ra quanh năm, đặc biệt

vào vụ Đông xuân khi thời tiết thay đổi đột ngột và vào những giai đoạn

chuyển mùa trong năm.

* Các nguyên nhân gây tiêu chảy

Nguyên nhân gây tiêu chảy ở từng nơi và từng giai đoạn khác nhau cũng

thu được những kết quả khác nhau.

Theo Nguyễn Hữu Vũ và cs (1999), có rất nhiều nguyên nhân gây tiêu

chảy như: vi khuẩn, virus, kí sinh trùng, độc tố thức ăn gây nên các bệnh khác

nhau đều dẫn đến tiêu chảy.

Những nguyên nhân chính:

Ảnh hưởng của môi trường, quản lý, chăm sóc: Thời tiết thay đổi đột

ngột, chuồng trại không đảm bảo thông thoáng, không hợp vệ sinh...

Di virus: Trong phạm vi nghiên cứu của mình, một số tác giả xác định, có

nhiều loại virus là tác nhân gây tiêu chảy. Ở lợn, người ta thống kê được hơn 10

loại virus gây tiêu chảy: Adenovirus typ IV, Enterovirus... các virus này tác động

làm tổn thương đường tiêu hoá gây viêm ruột ỉa chảy (Khootenghuat, 1995).

Bolh cs (1979), nghiên cứu bệnh viêm ruột, ỉa chảy ở lợn con cũng tìm

thấy rotavirus. Cũng vào thời gian này, người ta còn tìm thấy nguyên nhân gây

tiêu chảy truyền nhiễm ở lợn là một loại virus giống như coronsvirus. Dùng

virus phân lập được gây bệnh thực nghiệm thấy virus không chỉ gây bệnh cho

lợn con mà cả lợn nuôi thịt, và cũng từ đó virus này được gọi là virus gây tiêu

chảy truyền nhiễm của lợn là (PEDV), (trích theo Đào Trọng Đạt và cs, 1995).

Do vi khuẩn: Đa số các tác giả đều cho rằng nguyên nhân gây tiêu chảy ở

lợn là vi khuẩn, đặc biệt là E.coli và Salmonella.

E.coli là nguyên nhân gây nên các bệnh tiêu chảy thường gặp, người ta

chứng minh vai trò của E.coli trong bệnh lợn con phân trắng. Vai trò gây bệnh

của E.coli gồm các Sezotype: 08; 0139; 0141; 0145; 0147; 0149 (Glawisching Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

20

cs, 1992).

Theo Hồ Văn Nam và cs (1996), khi nghiên cứu về vi khuẩn nhận thấy:

Vi khuẩn E.coli không chỉ là vi khuẩn có mặt thường xuyên trong ruột lợn

đang bú sữa và bội nhiễm khi ỉa phân trắng, mà nó còn được tìm thấy trong

100% mẫu phân lợn ở những lứa tuổi lớn hơn. Ngay ở lợn khoẻ mạnh, E.coli

cũng bội nhiễm tlợn lứa tuổi: Trong 1g phân lợn ở 1- 21 ngày tuổi, số lượng

E.coli là 55,4 triệu con. Con số đó tăng dần tlợn lứa tuổi, ở lợn 22- 60 gày tuổi

là 90,9 triệu con và 150 triệu vi khuẩn trong 1g phân lợn nái. Khi lợn viêm ruột

ỉa chảy, kết quả nghiên cứu cho thấy, E.coli không chỉ bội nhiễm ở lợn con 2

tháng tuổi, mà ở lợn lớn hơn và cả lợn nái cũng có tình trạng tương tự. Kết quả

này phù hợp với kết quả nghiên cứu tương tự của (Cù Hữu Phú và cs, 1999).

Các tác giả này cho thấy 70% mẫu bệnh phẩm của lợn con mắc bệnh tiêu chảy

ở các lứa tuổi khác nhau, đã phân lập được 60 chủng E.coli, chiếm 85,75% và

Salmonella chiếm 80%. Từ kết quả này đã khẳng định, hai loại vi khuẩn E.coli

và Salmonella đóng vai trò chính gây chứng tiêu chảy.

1.4.2. Một số loại vi khuẩn thường gặp trong bệnh tiêu chảy

* Vi khuẩn E.coli.

Tên gọi đầy đủ của vi khuẩn E.coli là Escherichia coli thuộc họ

Enterobacteriaceae, nhóm Eschericheae, loài Escherichia.

Đặc điểm hình thái: Trực khuẩn E.coli có dạng hình gậy ngắn, kích

thước 0,6µm x 2 - 3µm, 2 đầu tròn, khi trong cơ thể có hình cầu. Trực khuẩn

đứng riêng lẻ đôi khi xếp thành chuỗi ngắn, xung quanh thân có lông nên có

thể di động được. Khi nhuộm bắt màu Gram (-) không hình thành nha bào.

Trong tổ chức và dịch thể ngâm ra từ bệnh tích thỉnh thoảng thấy hiện tượng

bắt màu sẫm ở 2 đầu. Tuy nhiên, cũng có khi gặp những biến chủng không di

động và không có lông.

Đặc tính nuôi cấy: Theo Nguyễn Quang Tuyên (2008), trực khuẩn E.coli

hiếu khí và yếm khí tùy tiện, mọc trên môi trường dinh dưỡng bình thường.

Chúng có khả năng sinh sản trong nước sinh lý, mọc ở nhiệt độ 150C - 240C, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

21

nhưng thích hợp nhất là 370C, độ pH thích hợp nhất là 7,4. Vi khuẩn E. Coli

phát triển dễ dàng trên các môi trường nuôi cấy thông thường như môi trường

nước thịt, môi trường thạch thường...

Đặc tính sinh hóa: Trực khuẩn E.coli lên men và sinh hơi đường

glucoza, galactoza, mantoza, arabinoza, lactoza, xyloza, ramnoza, mannitol,

fructoza. Có thể lên men hay không lên men: Saccaroza, rafinoza, salixin,

esculin, dunxit, glyxerol. Chủng Bacterium colicommune không lên men

saccaroza, trái lại ba chủng khác là B. Coli communior, B lactis và B. Cloacae

lên men saccaroza. Không lên men dextrin, amindin, glycozen, xenlobio.

Sức đề kháng của mầm bệnh: Trực khuẩn E.coli không chịu được nhiệt

độ cao, chúng bị tiêu diệt ở 600C trong vòng 15 - 30 phút, 1000C chết ngay.

Các chất sát trùng thông thường như formon 1%, crezin 5%, nước vôi 20%...

có thể tiêu diệt E.coli trong vòng từ 5 phút. E.coli đề kháng với sự sấy khô,

chúng có độ nhạy cảm cao với nhiều loại kháng sinh.

Các chủng E.coli gây bệnh: Bệnh ỉa chảy của lợn con gây ra chủ yếu do

4 type: O8; O138; O147; O(1,117).

Đường nhiễm bệnh: Đường nhiễm bệnh chủ yếu do ăn uống. Khi bị

nhiễm bệnh E.coli phát triển nhanh trong đường ruột. Chúng tự hủy hoại và

giải phóng ra các độc tố, độc tố này xâm nhập vào dòng lympho, do đó máu

nhiễm độc và con vật sẽ chết.

* Vi khuẩn Salmonella.

Nguồn bệnh của vi khuẩn: Giống Salmonella gồm trên 600 chủng vi

khuẩn, chủng đại diện của giống này là Salmonella cholerae suis, trực khuẩn

phó thương hàn lợn, do Salmon và Smith phân lập vào năm 1885 trên lợn mắc

bệnh dịch tả.

Đặc điểm hình thái và đặc tính nuôi cấy: Salmonella là một vi khuẩn

hình gậy, hai đầu tròn, kích thước 0,4 - 0,6µm x 1 - 3µm. Không hình thành

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

giáp mô và nha bào, phần lớn có từ 7 - 12 lông nên có khả năng di động được.

22

Bắt màu gram âm, dễ nhuộm với các thuốc nhuộm thông thường, sống được ở

điều kiện hiếu khí và yếm khí, nhiệt độ thích hợp 370C, pH = 7,2 - 7,6.

Salmonella gây bệnh cho động vật sinh trưởng tốt ở môi trường hiếu khí hơn ở

môi trưởng yếm khí.

Đặc tính sinh hóa: Trực khuẩn Salmonella phần lớn lên men sinh hơi

đường glucoza, mantoza, levuloza, galactoza,… trừ một số Salmonella sau chỉ

lên men nhưng không sinh ra hơi như: Salmonella abortus equi, Salmonella

abotus bovis, Salmonella typhisuis, Sal. gallinarum và Sal. Enteritidis dublin.

Salmonella pullorum không lên men đường maltoza và Salmonella cholerae

suis không lên men arabinoza.

Đa số Salmonella không làm tan chảy genlatin, không thủy hóa ure,

không sản sinh Indol, sinh H2S. Có thể dùng các môi trường đặc biệt để phân

lập vi khuẩn Salmonella như thạch E.M.B (Eosin methylen blue), môi trường

kauffman, môi trường S.S (Shigella - Salmonella).

Sức đề kháng của Salmonella: Có sức đề kháng cao đối với tác động của

môi trường bên ngoài, trong phân sống được 4 năm, Salmonella chết trong

canh trùng ở nhiệt độ 600C trong vòng 60 phút, 700C trong vòng 25 phút, 750C

trong vòng 5 phút. Vô hoạt trong vòng 10 phút ở nhiệt độ 800C và 2 - 3h trong

vòng 600C. Đặc biệt Salmonella chịu được nhiệt độ thấp, 100C trong vòng 115

ngày, ở nhiệt độ đông lạnh Salmonella tồn tại được 7 tháng.

Đường nhiễm và khả năng truyền bệnh: Chủ yếu qua đường tiêu hóa và

đường hô hấp.

1.5. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước

1.5.1. Tình hình nghiên cứu trong nước

Trong đường ruột của động vật, hệ vi sinh vật luôn luôn ổn định, đảm bảo

trạng thái thăng bằng cho hoạt động của đường ruột. Khi hệ vi sinh vật cân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

bằng, thì những vi sinh vật có lợi, phần lớn là vi khuẩn lactic, chiếm 90% sẽ

23

hoạt động hữu ích cho đường ruột. Nếu sự cân bằng này bị phá vỡ, thì vi khuẩn

có hại cạnh tranh phát triển, gây rối loạn đường tiêu hoá đẫn tới tiêu chảy.

Xuất phát từ cơ sở trên, nhiều nhà nghiên cứu đã tạo các dạng chế phẩm khác

nhau của vi khuẩn hữu ích để đưa vào đường ruột tạo sự cân bằng hệ vi sinh

vật đường ruột. Một số các nghiên cứu về chế phầm pobiotic đã nghiên cứu ở

Việt Nam như sau:

Nguyễn Như Viên (1976) (dẫn qua Chu Đức Thắng, 1997), đã sản xuất

thành công chế phẩm Bacillus subtilis bằng cách cấy vi khuẩn Bacillus subtilis

vào môi trường đậu tương, nước cám gạo, thậm chí trong cả nước râu ngô.

Theo tác giả, trong hàm lượng subtilis có thể hạn chế được vi khuẩn gram âm

và gram dương. Có thể dùng chế phẩm để điều trị viêm ruột, ỉa chảy ở lợn các

lứa tuổi khác nhau.

Vũ Văn Quang (1999), dùng chế phẩm vi sinh vật Lactobacillus

axitophilus bổ sung cho lợn con thì tỷ lệ nhiễm bệnh tiêu chảy giảm từ 58,33%

xuống còn 25%. Đồng thời chế phẩm vi sinh vật này có tác dụng làm cho vi

khuẩn E.coli giảm đi như sau: Lô ĐC E.coli 68 ± 1,79 triệu vi khuẩn/1g phân

Salmonella 27,75 ± 0,81 triệu vi khuẩn/ 1g phân. Còn lô TN E.coli 61,18 ±

0,92 triệu vi khuẩn /1g phân, Salmonella 26,17 ± 1,81 triệu vi khuẩn/ 1g phân.

Lê Thanh Bình và cs (1999), đã sản xuất chế phẩm PRO99 gồm hai

chủng vi khuẩn lactic và nuôi thử nghiệm trên gà broiler cho thấy quần thể vi

sinh vật đường ruột thay đổi theo chiều hướng tích cực, các vi khuẩn lactic

tăng, E.coli giảm rõ rệt ở nhóm gà được ăn thức ăn có bổ sung PRO99. Khối

lượng cơ thể lúc 50 ngày tuổi của gà ở nhóm được ăn thức ăn có bổ sung

PRO99 cao hơn so với đối chứng 10,6%.

Lưu Thị Uyên (1999), đã sử dụng chế phẩm EM (Effective

Microorganisms) của Nhật Bản cho thấy số lượng vi khuẩn E.coli trong 1g

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

phân giảm từ 31,1 - 80,9 triệu vi khuẩn.

24

Đậu Ngọc Hào và cs (2000), đã tiến hành bổ sung chế phẩm

Saccharomyces cerevisiae cho lợn con sau cai sữa, kết quả cho thấy, sau 14

ngày thí nghiệm, lô thí nghiệm tăng trọng so với lô đối chứng là 103%, sau 21

ngày là 102%, sau 35 ngày là 102%. Như vậy, khi bổ sung 1% chế phẩm nấm

men Saccharomyces cerevisiae thì khối lượng trung bình của lợn con sau cai

sữa ở lô thí nghiệm cao hơn so với lô đối chứng. Ngoài việc giúp cho tăng

trọng của lợn con thì việc sử dụng chế phẩm Saccharomyces cerevisiae còn

giảm được phần nào lượng thức ăn tiêu tốn. Ở lô có bổ sung 1% chế phẩm vào

thức ăn, thì lượng thức ăn tiêu tốn cho một lợn trong 17 ngày ít hơn so với lô

đối chứng 1,5 kg thức ăn và trong 25 ngày ít hơn 1,1 kg.

Nguyễn Quang Tuyên và cs (2000), khi nghiên cứu sử dụng chế phẩm vi

sinh vật Probiotic - Lactobacillus axitophilus trong việc phòng và điều trị bệnh

tiêu chảy ở lợn con từ 21 - 60 ngày tuổi tại trường Đại học Nông lâm Thái

Nguyên cho kết quả như sau: Lợn ở 45 ngày tuổi lô TN đạt 9,96 kg, lô ĐC chỉ

đạt 9,49 kg. Sang đến giai đoạn 60 ngày tuổi, lô TN đạt 17,19 kg, lô ĐC chỉ

đạt 14,89 kg. Tỷ lệ lợn mắc bệnh tiêu chảy ở lô TN chỉ có 13,3% trong khi lô

ĐC lên đến 41,1%.

Đỗ Trung Cứ (2000), dùng EM với tỷ lệ 0,2% bổ sung cho lợn con trước

và sau cai sữa thấy vi khuẩn có hại như E.coli và Salmonella giảm đi rõ rệt từ

20,92 x 106 vi khuẩn/g phân trước khi thí nghiệm xuống 16,99 x 106 vi

khuẩn/g phân sau thí nghiệm, đồng thời giảm tỷ lệ tiêu chảy 30,0%.

Phạm Ngọc Kính (2001), sử dụng chế phẩm EM trong chăn nuôi lợn thịt

cho thấy chênh lệch tăng trọng so với đối chứng tăng từ 20 - 34% và tỷ lệ thịt

nạc tăng 4,5%.

Phạm Khắc Hiếu và cs (2002), nghiên cứu thức ăn vi sinh vật dạng

kháng khuẩn của chế phẩm EM1 đã cho thấy chế phẩm EM1 có tác dụng ức

chế với E.coli, Samonella, Klebsiella, Shigella, Staphylococcus, Steptococcus,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Clostridium perfringen, Sarcina lutae. Kết quả điều tra số lượng vi khuẩn

25

E.coli trong 1g phân lợn sau khi dùng EM1 cho thấy, giảm 7% ở lợn 1 - 21

ngày tuổi, giảm 5,3% ở lợn 22 - 60 ngày tuổi (phòng bệnh) và giảm 93% ở lợn

1- 21 ngày tuổi, giảm 53,6% ở lợn 22 - 66 ngày tuổi (điều trị tiêu chảy).

Tạ Thị Vịnh và cs (2002), sử dụng chế phẩm VETOM3 và VETOM1.1

(có chứa vi khuẩn Bacillus subtilis) trong phòng, trị bệnh đường tiêu hóa trên

lợn con. Kết quả cho thấy tăng trọng tăng 6%, tỷ lệ tiêu chảy phân trắng giảm

11%, tỷ lệ khỏi bệnh đạt 100% và không có tái phát.

Nguyễn Như Pho và Trần Thị Thu Thủy (2003), bước đầu thông báo các

kết quả sử dụng chế phẩm các probiotic (Organic green) trong phòng ngừa tiêu

chảy trên lợn con giai đoạn theo mẹ và giai đoạn sau cai sữa cho thấy tỷ lệ tiêu

chảy giảm 1,5 - 3% trên lợn con theo mẹ và giảm 1,5 - 5,7 % trên lợn con cai

sữa; Tỷ lệ chết giảm 2 – 6 % trên lợn con theo mẹ và trên lợn con cai sữa tỷ lệ

chết là 0%.

Nguyễn Thị Hồng Hà và cs (2003) đã sử dụng hai chủng

Bifidobacterium bifidum và Lactobacillus axitophilus để sản xuất chế phẩm

probiotic, bước đầu đã nghiên cứu được công nghệ sản xuất bằng phương pháp

sấy phun. Chế phẩm sau 6 tháng vẫn có số tế bào vi khuẩn sống ở mức 106

CFU/g và có khả năng ức chế vi khuẩn Salmonella.

Nguyễn Lan Anh và cs (2003), đã phân lập được chủng vi khuẩn lactic

BC5.1 từ nước bắp cải muối chua và đã xác định được rằng, chủng vi khuẩn này

có tính chất probiotic và có thể sử dụng trong chế biến thực phẩm Biochi dạng

dung dịch, (từ vi khuẩn Bacillus và Lactobacillus) với mật độ 108 CFU/ml có

tác dụng cải thiện môi trường nước nuôi tôm, cá.

Lê Tấn Hưng, Võ Thị Hạnh và cs (2003), đã nghiên cứu sản xuất hai chế

phẩm probiotic Bio I và Bio II. Chế phẩm Bio II gồm các nhóm vi sinh vật

Lactobacillus, Bacillus và Sacharomyces phối hợp với các men α-amylase và

protease dùng trong xử lý môi trường nước nuôi tôm, cá và chế phẩm Bio I

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

dùng trong chăn nuôi.

26

Ngô Thị Hồng Thịnh (2008), sử dụng chế phẩm BIOSAF (probiotic).

BIOSAF được sản xuất từ chủng nấm men Saccharomyces cerevisiae. Trong

khẩu phần lợn nái nuôi con và lợn con giống ngoại từ tập ăn đến cai sữa kết

luận rằng:

Đối với lợn nái: việc bổ sung Biosaf trong thức ăn của lợn nái với 2 mức

0,1% và 0,16% không ảnh hưởng rõ rệt đến tỷ lệ hao mòn và thời gian động

dục trở lại của lợn nái. Tuy nhiên, lại có ảnh hưởng tích cực đến khả năng tiết

sữa của lợn nái.

Đối với lợn con: ảnh hưởng tích cực đến khả năng thu nhận và chuyển

hoá thức ăn. Tăng dần từ lô ĐC, TN1, TN2 là 10,4; 10,65; 10,80 g/con/ngày.

Tăng khối lượng lợn con cai sữa/ổ. Lô ĐC là 45,23kg, tăng dần ở lô TN1 là

52,93kg và TN2 là 61,98kg. Giảm tỷ lệ tiêu chảy 22% ở TN2 so với ĐC, giảm

chết với ĐC là 9,02%, ở TN2 so với ĐC là 12,73%.

Trần Quốc Việt (2006 - 2009), kết quả nghiên cứu hết năm 2008 đã phân

lập được 64 chủng vi sinh vật từ các nguồn khác nhau, trong đó có 27 chủng vi

khuẩn lactic và 39 chủng nấm men. Các chủng trên lại tiếp tục được sàng lọc,

đánh giá các đặc điểm hình thái, trao đổi chất, phân loại sơ bộ và các lựa chọn

được 4 chủng (hai chủng vi khuẩn lactic và hai chủng nấm men). Các chủng

này đã được đánh giá là có các đặc tính các probiotic, sau đó đã được định

danh bằng phân tích trình tự 16S ARN. Kết quả phân loại và định dạnh cho

thấy, 2 chủng vi khuẩn lactic là: Lactobacillus fermantum và lactobacillus

casei. Hai chủng nấm men là Saccharomyces cerevisiae và saccharomyces

boulardi. Đã nghiên cứu tính tương thích của các chủng vi sinh vật các

probiotic. Các kết quả nghiên cứu cho thấy, tất cả các chủng vi sinh vật các

probiotic đều có tính chất tương thích cao và có thể tổ hợp theo nhiều cách

khác nhau.

Đã tạo được môi trường lên men thích hợp, để tạo chế phẩm các

probiotic dạng lỏng (môi trường MT0). Xác định được thời gian lên men thích

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

hợp (48 giờ đối với vi khuẩn Bacillus và nấm men và 56 giờ đối với vi khuẩn

27

Lactic). Chọn được chất mang thích hợp để sản xuất các probiotic dạng bột

tlợn phương pháp sấy phun và đưa ra được qui trình kỹ thuật sản xuất chế

phẩm các probiotic dạng lỏng và bột. Đã sản xuất được chế phẩm các probiotic

dạng lỏng (mật độ vi sinh vật hữu ích đạt 108 - 109 cfu/g) và dạng bột (mật độ

vi sinh vật hữu ích đạt 107 - 108 cfu/g).

Những kết quả nghiên cứu trên lợn cho thấy, lợn ở các lô được ăn khẩu

phần có bổ sung chế phẩm các probiotic đa chủng (Bacillus subtilis (H4);

Saccharomyces boulardi - (SB); Enterococcus faecium - 6H2; Lactobacillus

axitophilus - C3; Pediococcus pentosaceus - Đ7 và Lactobacillus fermentum -

NC1) dạng bột có tốc độ sinh trưởng cao hơn, so với lô đối chứng (không bổ

sung kháng sinh và các probiotic) 16,4%.

Trần Quốc Việt và cs (2007), khi bổ sung chế phẩm probiotic được sản

xuất từ 2 chủng vi khuẩn lactic (Enterococcus faecium - 6H2; Lactobacillus

axitophilus - C3) và một chủng Bacillus (Bacillus subtilis - H4) có hiệu quả rõ

rệt với lợn con giai đoạn từ sau cai sữa 21 đến 60 ngày tuổi cả về khả năng tiêu

hoá thức ăn (tỷ lệ tiêu hoá tăng từ 3,4 - 6%) tốc độ sinh trưởng tăng (11,9%),

hiệu quả chuyển hoá thức ăn (giảm tiêu tốn thức ăn 5,3%).

Trần Thị Thu Hồng và cs (2009), tiến hành bổ sung Lactobacillus

fermentum với liều 109 CFU/ngày (10ml x 108 CFU/ml) trên lợn con sau cai

sữa đã làm tăng khả năng ăn vào của lợn tại tuần thứ 5 - 6 của thí nghiệm (tăng

1,04%); giảm tiêu tốn thức ăn/kg tăng trọng và khối lượng cơ thể tăng 1,07%

so với lô đối chứng.

Bạch Quốc Thắng và cs (2010), đã khảo sát ba chủng vi khuẩn lactic

(Lactobacillus axitophilus, Lactobacillus kefir và Lactobacillus sporogenes)

cho thấy cả ba nghiên cứu có khả năng sống và sinh trưởng tốt trong điều kiện

pH = 4 và muối mật ở các nồng độ 0,3 - 1%. Đây chính là những chủng tiềm

năng, để chế tạo probiotic sử dụng cho gia súc, gia cầm phòng và điều trị hội

chứng tiêu chảy.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Đặng Minh Phước và cs (2010), đã sử dụng Bacillus subtilis,

28

Lactobacillus spp và Saccharomyces cerevisiae bổ sung vào thức ăn cho lợn

con cai sữa thấy cải thiện 5,95% tăng trọng; giảm 18,57% tỷ lệ lợn tiêu chảy và

mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn 10,93% so với lô bổ sung kháng sinh.

Phạm Tất Thắng (2011), bổ sung probiotic với các chủng Lactobacillus

axitophilus và Streptococcus faecium vào thức ăn có tác dụng tốt trong việc

kích thích tăng trưởng cho lợn thịt. Mức bổ sung từ 0,03% - 0,04% probiotic

có tác dụng làm giảm lượng E.coli trong phân từ 1,95 - 2,63x106 CFU/g; cải

thiện tăng trọng 1,82%; tiêu tốn thức ăn giảm 2,13% và chi phí thức ăn giảm từ

0,88% - 1,91%.

1.5.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nước

Từ lâu trên thế giới việc sử dụng probiotic đã được biết đến, nhưng việc

nghiên cứu hệ vi sinh vật đường ruột và sử dụng probiotic mới thực sự phát

triển từ những năm 80 của thế kỷ 20

Scheuemann (1993), bổ sung probiotic trong thức ăn của lợn con sẽ cải

thiện được tỷ lệ tiêu hoá protein 5 - 6%.

Kiriakis cs (1999), nghiên cứu ảnh hưởng của Các probiotic LSP - 122

đến việc phòng ngừa bệnh tiêu chảy ở lợn con giai đoạn 28 ngày tuổi. Thí

nghiệm được tiến hành trên 4 lô: lô 1 không dùng probiotic, lô 2 sử dụng vi

khuẩn Bacillus toyoi với liều 106 bào tử/g TA, lô 3 và lô 4 sử dụng Bacillus

licheniformis với liều 106 và 107 bào tử/g TA. Kết quả cho thấy, các lô thí

nghiệm (lô 2,3 và 4) đều có tỷ lệ tiêu chảy và tình trạng tiêu chảy ít nghiêm

trọng hơn so với lô đối chứng (P < 0,05). Ngoài ra, tăng trọng/ngày, tiêu tốn

thức ăn cũng cải thiện hơn so với lô đối chứng. Trong đó lô sử dụng 107 bào tử

Bacillus lichenniformis kết quả tốt nhất.

Kyrikis cs (1999), đã nghiên cứu ảnh hưởng của probitic LSP 122 đến

phòng ngừa bệnh tiêu chảy ở lợn con giai đoạn 28 ngày tuổi. Thí nghiệm được

tiến hành trên 4 lô: lô 1 không dùng probitic, lô 2 sử dụng vi khuẩn Bacillus

toyoi với liều 106 bào tử/g TA, lô 3 và lô 4 sử dụng Bacillus licheniformis với

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

liều 106 và 107 bào tử/g TA. Kết quả thí nghiệm cho thấy, các thí nghiệm ở lô

29

2,3 và 4 đều có tỷ lệ tiêu chảy và tình trạng tiêu chảy ít nghiêm trọng hơn so

với lô đối chứng (P < 0,05). Ngoài ra, tăng trọng/ ngày, tiêu tốn thức ăn cũng

cải thiện hơn lô đối chứng.

Những kết quả nghiên cứu về Các probiotic trên lợn đã được E.Doyle

(2001), Viện nghiên cứu thực phẩm thuộc Trường Đại Học Wisconsin -

Madison tập hợp như sau:

Lactobacillus và Bifidobacteria giúp lợn con tăng trưởng và giảm tỷ lệ

tử vong.

Lactobacillus casei cải thiện tăng trưởng lợn con và giảm tiêu chảy có

hiệu quả hơn so với kháng sinh liều thấp.

Hadani cs (2002), sử dụng chế phẩm probactric (probitic dạng lỏng,

chứa vi khuẩn hoại sinh E.coli dòng ATCC 202226) cho lợn con, với liều

3ml/con vào ngày thứ nhất và ngày thứ 3 sau khi sinh để phòng ngừa tiêu chảy.

Kết quả cho thấy, tỷ lệ tiêu chảy giảm 6,6%, tăng trọng/ ngày là 11g và tỷ lệ

chết giảm 5,4% so với đối chứng.

Henrich cs (2006), đã chỉ ra rằng khi bổ sung chế phẩm probiotic trên

lợn và gà cho thấy, có đáp ứng tích cực như: tăng cường khả năng miễn dịch ở

lợn con, tỷ lệ tiêu hóa các chất dinh dưỡng và hiệu quả sử dụng thức ăn.

Tlợn Wang cs (2009), thì khi bổ sung Lactobacillus fermentum vào khẩu

phần ăn cho lợn con đã làm tăng lượng thức ăn ăn vào, trọng lượng của lợn,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

khả năng tiêu hóa và giảm tiêu tốn thức ăn/kg tăng trọng.

30

Chương 2

ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Đối tượng, địa điểm và thời gian nghiên cứu

* Đối tượng nghiên cứu

- Lợn thương phẩm giống ngoại, Lợn lai F1(♂ Landrance x ♀ Yorkshire).

- Chế phẩm Probiotic Lactobacillus men do công ty Biospring sản xuất.

* Địa điểm và thời gian nghiên cứu

Tại trại lợn Thành Thúy xã Dân Hạ, huyện Kỳ Sơn, tỉnh Hòa Bình.

* Thời gian nghiên cứu : Từ tháng 7/2018 đến tháng 7/2019

2.2. Nội dung nghiên cứu

- Đánh giá ảnh hưởng của khối lượng sơ sinh và bổ sung probiotic đến

sức sống và sinh trưởng của lợn con (Landrace x Yorshire) giai đoạn sơ sinh

đến 30 ngày tuổi.

- Đánh giá ảnh hưởng của khối lượng sơ sinh và bổ sung chế phẩm

probiotic đến khả năng sản xuất và hiệu quả kinh tế của lợn thịt lai F1

(Landrace x Yorshire) giai đoạn 30 - 150 ngày tuổi.

2.3. Phương pháp nghiên cứu

2.3.1. Thiết kế thí nghiệm

Thí nghiệm được thực hiện trên 30 ổ lợn nái (lợn nái đẻ tập trung, có ngày

đẻ tương đối gần nhau), có số lứa đẻ từ 2 đến lứa 4. Lợn con sinh ra được bấm

số tai để theo dõi từng cá thể, tổng số lợn con là 300 con.

Thí nghiệm được bố trí tlợn kiểu thí nghiệm 2 nhân tố: Bổ sung và không

bổ sung chế phẩm probiotic với các mức khối lượng sơ sinh (thấp, trung bình,

cao), tổng số 2 x 3 = 6 nghiệm thức, và được chia làm 2 giai đoạn: giai đoạn từ

SS - 30 ngày và từ 30 đến 150 ngày tuổi.

Thí nghiệm 1: Đánh giá ảnh hưởng của khối lượng sơ sinh và bổ sung

probiotic đến sức sống và sinh trưởng của lợn con F1 (Landrace x

Yorshire) giai đoạn sơ sinh đến 30 ngày tuổi.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Chọn 30 lợn nái lứa đẻ từ lứa thứ 2 – 4, giống Yorkshire đã được giao

31

phối với lợn đực Landrace nuôi theo dõi 1 tuần trước khi đẻ để làm quen với

môi trường chuồng nuôi thí nghiệm. Sau khi đẻ (trung bình là 10 - 14 lợn

con/nái) tiến hành cân lợn con rồi lựa chọn các nái có đàn con sơ sinh có sự

phân bố khối lượng ở các mức thấp, trung bình, cao tương đối đồng đều nhau,

loại những cá thể khác biệt hoặc số lượng quá dư thừa làm mất sự cân đối để

sao cho tổng số lợn mỗi nhóm là 100 con (3 nhóm x 100 =300 con, của 30 lợn

nái). Căn cứ vào số lợn mẹ và lợn con đã được chọn chia làm 2 nghiệm thức đó

là bổ sung và không bổ sung chế phẩm probiotic, mỗi nghiệm thức lợn mẹ sẽ

được theo dõi cá thể, cùng với lợn con có khối lượng ở cả 3 mức thấp, trung

bình và cao. Mỗi lô thí nghiệm gồm 5 lợn nái. Các nái đồng đều về số lứa đẻ

và tương đồng về ngày đẻ.

Bảng 2.1. Sơ đồ bố trí thí nghiệm 1

Nghiệm thức 1 (Không BS probiotic)

Nghiệm thức 2 (BS probiotic)

Diễn giải

Lô 1 (PSST)

Lô 2 (PSSTB)

Lô 3 (PSSC)

Lô 4 (PSST)

Lô 5 (PSSTB)

Lô 6 (PSSC)

(Landrace x Yorshire)

50 5

50 5

50 5

50 5

50 5

50 5

2 - 4

5

5

5

5

5

5

Loại lợn ∑Số lợn con TN (con) ∑Số lượng lợn mẹ (con) Lứa đẻ Số lần lặp lại Thời gian thí nghiệm

SS - 30 ngày tuổi

Thức ăn TN

Không bổ sung chế phẩm probiotic

Bổ sung chế phẩm probiotic

Ghi chú: Lô 1 và lô 4: PSST là khối lượng sơ sinh thấp (từ 1,20 – 1,40 kg/con);

Lô 2 và lô 5: PSSTB là khối lượng sơ sinh trung bình (từ 1,41 đến 1,60 kg/con);

Lô 3 và 6: PSSC là khối lượng sơ sinh cao (trên 1,60 kg/con).

Lợn thí nghiệm được nuôi theo quy trình nuôi dưỡng và chăm sóc của

trại lợn Thành Thúy. Lợn con được nuôi nhốt, mỗi đàn một ô sàn bằng nhựa.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Các chuồng có núm uống tự động cho lợn con. Trong chuồng có hệ thống đèn

32

sưởi, hệ thống làm mát. Lợn con được tiêm phòng vaccine đầy đủ theo quy

trình của trại.

Khẩu phần cơ sở là thức ăn hỗn hợp dạng viên cho lợn con tập ăn giai

đoạn từ SS - 30 ngày tuổi của Công ty cổ phần chăn nuôi C.P Việt Nam sản

xuất. Nghiệm thức 1 sử dụng khẩu phần cơ sở (KPCS) không bổ sung chế

phẩm probiotic. Nghiệm thức 2 sử dụng KPCS có bổ sung 0,5 g chế phẩm

probiotic/ 1 kg thức ăn.

Thành phần dinh dưỡng của thức ăn hỗn hợp cho lợn con giai đoạn từ

tập ăn đến 30 ngày tuổi được trình bày ở bảng 2.2:

Bảng 2.2. Thành phần dinh dưỡng của thức ăn hỗn hợp bổ sung cho lợn

con từ SS - 30 ngày tuổi (550 của công ty CP chăn nuôi Việt Nam)

Thành phần dinh dưỡng

Mức chất lượng công bố

Độ ẩm, %

14

Năng lượng trao đổi tối thiểu (Kcal ME/kg)

3.300

Protein thô (tối thiểu) (%)

20

Xơ thô (tối đa) (%)

8

Canxi (tối thiểu - tối đa) (%)

0,6 - 1,2

Photpho tổng số (tối thiểu) (%)

0,4 – 0,9

Cát sạn (tối đa) (%)

1

Lysine (tối thiểu) (%)

1,3

Methionine + cystin (tối thiểu) (%)

0,7

Dược liệu hoặc kháng sinh

Không có

Côn trùng sống

Không có

Thí nghiệm 2: Đánh giá ảnh hưởng của khối lượng sơ sinh và bổ

sung chế phẩm probiotic đến khả năng sản xuất và hiệu quả kinh tế của

lợn thịt lai (Landrace x Yorshire) giai đoạn 30 - 150 ngày tuổi.

Trên cơ sở kết quả thí nghiệm 1, tiếp tục theo dõi đàn lợn thí nghiệm ở

thí nghiệm 2. Thí nghiệm 2 gồm có hai nghiệm thức mỗi nghiệm thức gồm 3 lô

thí nghiệm, mỗi lô thí nghiệm gồm 45 lợn (15 con/lô x 3 lần lặp lại) với khối

lượng trung bình của nhóm tương đương với khối lượng trung bình của lô khi Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

33

kết thúc thí nghiệm 1. Khẩu phần cơ sở là thức ăn hỗn hợp dạng viên do Công

ty cổ phần chăn nuôi C.P Việt Nam sản xuất. Nghiệm thức 1 sử dụng KPCS

không bổ sung chế phẩm probiotic, nghiệm thức 2 sử dụng KPCS với có bổ

sung chế phẩm probiotic với mức bổ sung 0,5 g cho 1 kg thức ăn. Lợn được

nuôi dưỡng và tiêm phòng theo quy trình chăn nuôi lợn con sau cai sữa và lợn

thịt.

Bảng 2.3. Sơ đồ bố trí thí nghiệm từ giai đoạn 30 - 150 ngày tuổi

Diễn giải

Nghiệm thức 1 (Không BS probiotic) Lô 2 (PSSTB)

Lô 3 (PSSC)

Lô 1 (PSST)

Nghiệm thức 2 (BS probiotic) Lô 5 (PSSTB)

Lô 4 (PSST)

Lô 6 (PSSC)

(Landrace x Yorshire)

Loại lợn ∑ Số lợn TN (con) Số lần lặp lại KL trung bình (kg/con)

45 3 6,220

45 3 6,726

45 3 7,179

45 3 7,795

Thời gian thí nghiệm

45 45 3 3 6,639 7,330 30 - 150 ngày tuổi

Thức ăn TN

Không bổ sung chế phẩm probiotic

Bổ sung chế phẩm probiotic

Thành phần dinh dưỡng của thức ăn hỗn hợp cho lợn con giai đoạn từ 30

ngày đến 150 ngày tuổi được trình bày ở bảng 2.4:

Bảng 2.4. Thành phần dinh dưỡng của thức ăn hỗn hợp

TT553 cho lợn con từ 30 đến 150 ngày tuổi

Thành phần dinh dưỡng

Mức chất lượng công bố

Độ ẩm (%)

14

Năng lượng trao đổi (tối thiểu) (Kcal ME/kg)

3.000

Protein thô (tối thiểu) (%)

18

Xơ thô (tối đa) (%)

8

Canxi (tối thiểu - tối đa) (%)

0,5 - 1,2

Photpho tổng số (tối thiểu) (%)

0,5 - 1,0

Cát sạn (tối đa) (%)

1

Lysine (tối thiểu) (%)

1,0

Methionine + cystin (tối thiểu) (%)

0,5

Dược liệu hoặc kháng sinh

Không có

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

34

Côn trùng sống

Không có

2.3.2. Phương pháp trộn chế phẩm vào thức ăn

Chế phẩm probiotic được trộn vào thức ăn dưới dạng hòa tan vào nước.

(Tỷ lệ chế phẩm probiotic được trộn vào thức ăn như sau: 0,5 g chế phẩm

probiotic hòa tan vào 20 ml nước để phối trộn cho 1 kg thức ăn hỗn hợp). Sau

khi hòa tan chế phẩm probiotic vào nước sẽ cho vào bình xịt dạng xương để xịt

vào thức ăn hỗn hợp dạng viên của Công ty cổ phần chăn nuôi C.P Việt Nam,

chế phẩm được phun đều lên thức ăn vừa phun vừa trộn thủ công bằng tay.

Toàn bộ thức ăn được trộn vào buổi sáng trước khi cho lợn ăn để đảm bảo

không ảnh hưởng đến chất lượng thức ăn. Sau đó cân khối lượng thức ăn trước

khi đổ vào máng ăn tự động đến cuối ngày tiến hành cân lại thức ăn thừa còn

lại trong máng tự động.

2.3.3. Các chỉ tiêu theo dõi

- Tỷ lệ nuôi sống lợn con theo mẹ: Sơ sinh, 7 ngày, 14, 21; và 30 ngày

tuổi. Tỷ lệ nuôi sống giai đoạn sau cai sữa 60, 90, 120 và 150 ngày tuổi.

- Sinh trưởng tích lũy của lợn con theo mẹ: Khối lượng sinh, 7, 14, 21 và

30 ngày tuổi (kg). Sinh trưởng tích lũy của lợn giai đoạn sau cai sữa 60, 90,

120 và 150 ngày tuổi

- Sinh trưởng tuyệt đối và tương đối ở giai đoạn nuôi từ sơ sinh đến 30

ngày tuổi và từ 30 đến 150 ngày tuổi

- Tỷ lệ mắc bệnh tiêu chảy của lợn con (%).

- Tiêu thụ và tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối lượng giai đoạn từ 30 đến 150

ngày tuổi.

- Các chỉ tiêu kinh tế.

2.3.4. Phương pháp tlợn dõi các chỉ tiêu

- Tỷ lệ nuôi sống (%): Hàng ngày ghi chép số con chết và số con còn lại

trong từng đàn lợn con.

Tỷ lệ nuôi sống (%) =  100 Số con sống đến cuối kỳ (con) Số con đầu kỳ (con)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

- Sinh trưởng tích lũy: Cân khối lượng lợn thịt khi bắt đầu thí nghiệm, sau

35

mỗi thời điểm đánh giá sinh trưởng (7, 14, 21, 30, 60, 90, 120, 150 ngày tuổi)

của thí nghiệm chúng tôi tiến hành cân lợn để xác định khối lượng. Tiến hành

cân lợn vào buổi sáng trước khi cho lợn ăn (Sử dụng cân lợn thí nghiệm bằng

cân đồng hồ có độ chính xác 0,1 kg).

- Sinh trưởng tuyệt đối: Tính theo công thức sau:

W2 - W1 A = T2 - T1

A: Sinh trưởng tuyệt đối (g/con/ngày)

W1: Khối lượng ở thời điểm bắt đầu khảo sát

W2: Khối lượng ở thời điểm kết thúc.

T1: Thời gian ở thời điểm bắt đầu khảo sát

T2: Thời gian ở thời điểm kết thúc.

- Sinh trưởng tương đối: Sinh trưởng tương đối của lợn được tính theo

công thức sau.

W2 - W1 R (%) = x 100 W2 + W1

2

Trong đó: (R %) là độ sinh trưởng lương đối.

W2 khối lượng kích thước, thể tích tại thời điểm sau.

Wl khối lượng kích thước, thể tích lại thời điểm trước.

- Tỷ lệ mắc bệnh tiêu chảy của lợn con (%): Hàng ngày kiểm tra, đánh

dấu và ghi chép những con bị tiêu chảy trong đàn.

Số con bị tiêu chảy trong đàn (con) Tỷ lệ mắc tiêu chảy (%) =  100 Tổng số lợn con trong đàn (con)

- Tỷ lệ chết do tiêu chảy (%): Hàng ngày kiểm tra số lợn con trong từng

đàn lợn thí nghiệm và theo dõi số con chết do tiêu chảy.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Tỷ lệ chết do tiêu chảy (%) = Số lợn con chết do tiêu chảy (con)  100

36

Tổng số lợn con trong đàn (con)

- Tỷ lệ khỏi bệnh tiêu chảy (%): Hàng ngày kiểm tra số lợn con mắc

bệnh tiêu chảy trong từng đàn, theo dõi số con mắc, số con khỏi.

Số con điều trị khỏi (con) Tỷ lệ khỏi bệnh (%) =  100 Tổng số lợn con mắc tiêu chảy (con)

- Tiêu thụ và tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối lượng.

+ Lượng thức ăn thu nhận hàng ngày (kg/con/ngày): Cân lượng thức ăn

cho ăn và thức ăn còn thừa hàng ngày của từng lô vào một giờ nhất định vào

buổi sáng. Cộng dồn lượng thức ăn thu nhận trong kỳ của từng lô. Tiêu thụ

thức ăn (TTTĂ) bình quân (kg/con/ngày) được tính tlợn công thức sau:

Tiêu thụ thức ăn trong kỳ/lô (kg) TTTĂ (kg/con/ngày) = Số lợn con/lô x Số ngày trong kỳ (ngày)

+ Hiệu quả sử dụng thức ăn của lợn con (FCR) hay tiêu tốn thức ăn cho

1kg lợn tăng trong giai đoạn thí nghiệm.

Lượng thức ăn sử dụng (kg) Hiệu quả sử dụng thức ăn = Tăng khối lượng (kg)

- Hiệu quả của việc bổ sung chế phẩm probiotic:

A (đồng) Chi phí thức ăn/kg tăng khối lượng (đồng/kg) =  100 B (kg)

Trong đó:

A (đồng): Số tiền chi mua thức ăn hỗn hợp + số tiền mua chế phẩm

probiotic + tiền thuốc thú y

B (khối lượng tăng) kg

2.4. Phương pháp xử lý số liệu

Các số liệu được xử lý thống kê sinh học và phân tích phương sai

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

(ANOVA) tlợn mô hình thí nghiệm một nhân tố hoàn toàn ngẫu nhiên (CRD)

37

trên Excel 2010 và phần mềm Minitab 18.0.

Khối lượng lợn trung bình tại từng thời điểm cân được tính theo công

thức sau:

= =

Độ lệch chuẩn (S ):

S =

Sai số trung bình mẫu (m ):

m = (n 30)

Hệ số biến dị (Cv):

x 100 Cv (%) =

Trong đó:

: Số trung bình.

n: Dung lượng mẫu.

xi: Giá trị trung bình biến số.

S : Độ lệch tiêu chuẩn.

m : Sai số trung bình.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Cv: Hệ số biến dị (%)

38

Chương 3

KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN

3.1. Ảnh hưởng của khối lượng sơ sinh và tác dụng của việc bổ sung chế

phẩm probiotic vào thức ăn đến khối lượng cai sữa của lợn (Landrace x

Yorshire) giai đoạn sơ sinh đến 30 ngày tuổi

3.1.1. Tỷ lệ nuôi sống lợn con giai đoạn từ sơ sinh đến 30 ngày tuổi.

Giai đoạn từ sơ sinh đến 30 ngày tuổi, lợn con phải tự lấy dinh dưỡng từ

sữa lợn mẹ để nuôi cơ thể, trong khi sức đề kháng của lợn con kém, nhạy cảm

với ngoại cảnh, dễ nhiễm bệnh tật, nhất là bệnh đường tiêu hóa. Đây là giai

đoạn hết sức quan trọng để đảm bảo tỉ lệ sống của lợn con cao. Kết quả theo

dõi tỷ lệ nuôi sống của lợn con qua kết quả thí nghiệm được trình bày tại bảng

3.1:

Bảng 3.1. Tỷ lệ nuôi sống của lợn con từ sơ sinh đến 30 ngày tuổi (%).

Nghiệm thức 1

Nghiệm thức 2

Ngày

SEM

P

tuổi

Lô 1

Lô 2

Lô 3

Lô 4

Lô 5

Lô 6

94,0

94,0

96,0

96,0

96,0

96,0

5,477 0,968

SS - 7

92,0

92,0

96,0

94,0

96,0

96,0

6,583 0,812

8 - 14

92,0

92,0

96,0

94,0

94,0

96,0

6,582 0,865

15 - 21

90,0

92,0

94,0

94,0

94,0

96,0

6,952 0,815

22 – 30

1,366 0,001

SS - 30

92,4c

93,2bc

96,0a

94,8abc

95,2ab

96,4a

Ghi chú: Các giá trị trong cùng một hàng có mang các chữ cái khác nhau thì sai

khác có ý nghĩa thống kê (P<0,05).

Giai đoạn từ SS – 7 ngày tuổi lợn chưa được ăn thức ăn bổ sung chế

phẩm probiotic nên tỷ lệ nuôi sống ở nghiệm thức 1 và nghiệm thức 2 là tương

đương nhau. Với các mức khối lượng sơ sinh khác nhau thì tỷ lệ nuôi sống

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

cũng khác nhau lô 1 và lô 4 có khối lượng sơ sinh ở mức thấp nên sức khỏe

39

cũng kém hơn so với mức trung bình và cao dẫn đến tỷ lệ nuôi sống chỉ đạt 94

%; Các lô thí nghiệm còn lại có mức khối lượng sơ sinh từ trung bình đến cao

nên sức khỏe cũng tốt hơn dẫn đến tỷ lệ nuôi sống đạt từ 96 %.

Giai đoạn từ 8 – 14 ngày tuổi lợn bắt đầu được bổ sung chế phầm

probiotic thì tỷ lệ nuôi sống tăng đáng kể từ 94 – 96 % còn lợn không được bổ

sung chế phẩm probiotic chỉ đạt từ 92 – 96%. Ở các giai đoạn tiếp theo tỷ lệ

nuôi sống của lợn không được bổ sung chế phẩm probiotic giảm xuống còn 90

– 94% trong khi lợn được ăn khẩu phần có bổ sung chế phẩm probiotic đạt cao

hơn từ 94 – 96%.

Tính trung bình cho toàn giai đoạn từ SS – 30 ngày tuổi thì: Lợn được ăn

khẩu phần không bổ sung chế phẩm probiotic có chênh lệch rõ rệt ở các mức

khối lượng khác nhau. Mức khối lượng cao đạt tỷ lệ nuôi sống cao nhất 96,0%.

Mức khối lượng trung bình đạt thấp hơn là 93,2% và mức khối lượng thấp chỉ

đạt 92,4 %. Kết quả so sánh thống kê thì tỷ lệ nuôi sống ở mức khối lượng sơ

sinh cao có sai khác rõ rệt với mức khối lượng sơ sinh thấp (P < 0,05). Ở thí

nghiệm lợn ăn khẩu phần có bổ sung chế phẩm probiotic đạt tỷ lệ nuôi sống là

94,2; 95,2% và 96,4 % tương ứng với ba mức khối lượng thấp, trung bình và

cao. Kết quả so sánh thống kê cả ba mức khối lượng này không sai khác nhau

rõ rệt (P > 0,05).

Tỷ lệ nuôi sống của lợn không được bổ sung chế phẩm probiotic đạt

92,4 – 96,0% trong khi lợn được ăn khẩu phần có bổ sung chế phẩm probiotic

đạt cao hơn từ 94,8 – 96,4%.

3.1.2. Sinh trưởng tích lũy của lợn con thí nghiệm giai đoạn từ sơ sinh đến

30 ngày tuổi.

Trong giai đoạn phát triển của lợn con thì có nhiều yếu tố ảnh hưởng

đến sinh trưởng của lợn như: giống, lứa đẻ, tuổi, tính biệt,… ngoài những yếu

tố này thì còn một yếu tố rất quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến sinh trưởng

của lợn con đó là thức ăn, chất lượng thức ăn có bổ sung các chế phẩm sinh Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

40

học khác nhau sẽ ảnh hưởng tới khả năng sinh trưởng khác nhau của lợn con.

Thí nghiệm được tiến hành với 6 lô thí nghiệm tương ứng với 2 nghiệm

thức. Mỗi nghiệm thức được bố trí với 3 lô thí nghiệm tương ứng với ba mức

khối lượng sơ sinh là thấp, trung bình và cao. Để đánh giá mức độ sinh trưởng

tích lũy của các lô thí nghiệm, chúng tôi đã tiến hành cân lợn con tại các thời

điểm sơ sinh, 7 ngày tuổi, 14 ngày tuổi, 21 ngày tuổi và 30 ngày tuổi. Kết quả

sinh trưởng tích lũy của lợn được trình bày tại bảng 3.2.

Bảng 3.2. Ảnh hưởng của khối lượng sơ sinh và bổ sung chế phẩm

probiotic đến sinh trưởng của lợn con giai đoạn sơ sinh đến 30 ngày tuổi.

Lô TN

Nghiệm thức 1

Nghiệm thức 2

SEM

P

Lô 1

Lô 2

Lô 3

Lô 4

Lô 5

Lô 6

Chỉ tiêu

KL sơ sinh

1,450c 1,548b 1,652a 1,452c 1,554b 1,648a 0,018 0,001

KL 7 ngày

2,264c 2,428b 2,592a 2,252c 2,440b 2,592a 0,024 0,001

KL 14 ngày

3,128f 3,384d 3,624b 3,182e 3,463c 3,692a 0,023 0,001

KL 21 ngày

4,782f 5,184d 5,608b 5,022e 5,459c 5,880a 0,032 0,001

KL 30 ngày

6,220e 6,726d 7,330b 6,639d 7,179c 7,795a 0,050 0,001

100,0

108,1

117,8

106,7

115,4

125,3

-

-

So sánh, (%)

Ghi chú: Các giá trị trong cùng một hàng có mang các chữ cái khác nhau thì sai khác có ý

nghĩa thống kê (P<0,05).

Kết quả bảng 3.2 cho thấy, khối lượng của đàn lợn con trong thí nghiệm

đều tuân theo quy luật sinh trưởng chung của gia súc, tăng dần qua các tuần

tuổi. Tuy nhiên, mức độ tăng khối lượng của lợn không đồng đều giữa các lô

thí nghiệm. Mức độ tăng khối lượng lợn của các lô không đồng đều là do ảnh

hưởng của khối lượng sơ sinh không đồng đều giữa các lô và ảnh hưởng của

của khẩu phần có bổ sung và không bổ sung chế phẩm probiotic vào khẩu phần

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

thức ăn cho lợn.

41

* Ảnh hưởng của các mức khối lượng sơ sinh khác nhau đến sinh trưởng

tích lũy của lợn thí nghiệm

Ở giai đoạn sơ sinh đến khi cai sữa chúng tôi tiến hành thí nghiệm với 2

nghiệm thức (Nghiệm thức 1 không bổ sung chế phẩm probiotic và nghiệm

thức 2 có bổ sung chế phẩm probiotic). Trong 2 nghiệm thức được bố trí thành

3 lô thí nghiệm tương ứng với ba mức khối lượng sơ sinh là thấp, trung bình và

cao thí nghiệm được chọn lọc bố trí tương đối đồng đều theo tiêu chuẩn của

nghiên cứu sinh vật học. Kết quả theo dõi khối lượng sơ sinh của các lô thí

nghiệm cho thấy, ở cả nghiệm thức 1 và nghiệm thức 2 với các mức khối

lượng sơ sinh khác nhau cho sinh trưởng tích lũy cũng khác nhau.

Ở nghiệm thức 1, khối lượng sơ sinh của 3 lô thí nghiệm tương ứng là

1,450; 1,548 và 1,652 kg/con tương ứng với ba mức khối lượng thấp, trung

bình và cao. Ở nghiệm thức 2, khối lượng sơ sinh tương ứng là 1,452; 1,554 và

1,648 kg/con tương ứng vơi ba mức khối lượng thấp, trung bình và cao. Kết

quả so sánh thống kê ở giai đoạn này đã có sai khác giữa ba mức khối lượng (P

< 0,001). Ở 14; 21 và 30 ngày thì mức khối lượng cao cho sinh trưởng tích lũy

cao nhất sau đó đến mức khối lượng trung bình và mức khối lượng thấp cho

sinh trưởng thấp nhất. Kết quả so sánh thống kê ở cả mức khối lượng đều sai

khác nhau rõ rệt. So sánh theo tỷ lệ phần trăm ở giai đoạn 30 ngày tuổi thì mức

khối lượng cao có mức sinh trưởng cao hơn so với mức sinh trưởng trung bình

và thấp lần lượt là 8 % và 17,8 %. Mức khối lượng trung bình cao có sinh

trưởng cao hơn mức khối lượng thấp khoảng 10 %. Điều này chứng tỏ, mức

khối lượng sơ sinh có ảnh hưởng tới sinh trưởng tích lũy của lợn qua các giai

đoạn. Lợn có khối lượng sơ sinh lớn thì tốc độ sinh trưởng cũng lớn điều này

phù hợp với quy luật tự nhiên.

* Ảnh hưởng của chế phẩm probiotic đến sinh trưởng tích lũy của lợn con

Kết quả theo dõi cho thấy, từ sơ sinh đến 7 ngày tuổi sinh trưởng tích

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

lũy ở cùng một mức khối lượng là tương đương nhau. Do giai đoạn này, lợn

42

con chủ yếu lấy chất dinh dưỡng từ sữa mẹ, lượng thức ăn lấy từ bên ngoài còn

ít nên ảnh hưởng của chế phẩm probiotic lên sinh trưởng của lợn không rõ rệt.

Tại thời điểm 14 ngày tuổi lợn con ở nghiệm thức 2 có sinh trưởng cao

hơn so với nghiệm thức 1 từ 0,054 – 0,068% với sai khác có ý nghĩa thống kê

(P < 0,001). Như vậy, giai đoạn tập ăn cho lợn con chế phẩm probiotic có vai

trò nâng cao sức đề kháng và tỷ lệ tiêu hóa của lợn giúp chúng sinh trưởng tốt

hơn ở giai đoạn này.

Tại thời điểm 21 ngày tuổi lợn được bổ sung chế phẩm probiotic cho mức

sinh trưởng cao hơn so với lợn không được bổ sung chế phẩm probiotic là

0,240; 0,275 và 0,272 kg/con tương ứng với ba mức khối lượng thấp, trung

bình và cao. Kết quả so sánh thống kê cho thấy chỉ có sai khác rõ rệt ở hai mức

khối lượng trung bình và cao với P < 0,001.

Kết quả nghiên cứu của chúng tôi, là thấp hơn so với các tác giả Phan

Xuân Hảo (2006), khối lượng 21 ngày/con nái lai F1(L x Y) qua các lứa đẻ từ 1

đến 6 lần lượt là 5,71; 5,84; 5,53; 5,52; 5,76 và 5,72. So với công bố của Phạm

Văn Hùng và Đặng Vũ Bình (2008) đó là, khối lượng 21 ngày tuổi/con của tổ

hợp lai D x F1(L xY), D x F1(Y x L), L19 x F1(L xY) và L19 x F1(Y x L) lần

lượt là: 5,24; 5,18; 5,21 và 5,13 kg thì kết quả của chúng tôi tương đương vào

cao hơn.

Tại thời điểm 30 ngày tuổi lợn được bổ sung chế phẩm probiotic cho mức

sinh trưởng cao hơn so với lợn không được bổ sung chế phẩm probiotic là 6,7; 7,3

và 7,5 % tương ứng với ba mức khối lượng thấp, trung bình và cao với sai khác rõ

rệt (P < 0,001). Sinh trưởng tích lũy ở mức khối lượng thấp của lợn được ăn khẩu

phần có probiotic thấp hơn so với mức khối lượng trung bình của lợn không được

ăn khẩu phần có probiotic nhưng không có sai khác rõ rệt ( P > 0,05).

So với kết quả nghiên cứu của Đặng Vũ Bình và Nguyễn Văn Thắng

(2005), cho biết tổ hợp lai Pietrain x F1 (LY) có khối lượng cai sữa/con là 7,44

kg ở 28,85 ngày tuổi và Duroc x F1 (LY) là 9,6 kg ở 32,05 ngày tuổi; tổ hợp lai

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

[(Large White x Pietrain) x (Large White x Landrace)] là 8,22 kg lúc 27 ngày

43

tuổi (Gondreta và cs, 2005); Phan Xuân Hảo và Hoàng Thị Thúy (2009), cho

biết, khối lượng cai sữa/con ở tổ hợp lai PiDu x Yorkshire, PiDu x F1(LY), PiDu

x Landrace là: 8,34; 8,42 kg và 8,44 kg ở 32 ngày tuổi. Kết quả của chúng tôi

thấp hơn là do tuổi cai sữa của lợn con sớm hơn (30 ngày so với 32 ngày).

Như vậy, bổ sung chế phẩm probiotic vào khẩu phần thức ăn cho lợn mẹ

và lợn con đã ảnh hưởng đến sinh trưởng tích lũy của lợn cao hơn so với khẩu

phần không bổ sung chế phẩm probiotic. Kết quả của chúng tôi phù hợp với

nghiên cứu của tác giả Nguyễn Như Pho và Trần Thị Thu Thuỷ (2003), đó là

khi bổ sung chế phẩm Organic green (probiotic) cho lợn con tlợn mẹ với liều

từ 0,8 - 1,2x108 CFU/kg trọng lượng cơ thể đã có tác dụng kích thích tăng

trọng ở lợn con, đồng thời cải thiện mức tăng trọng từ 6,4 - 8,5% so với lô ĐC.

Khối lượng của lợn con thí nghiệm giai đoạn từ SS – 30 ngày tuổi trong

đề tài này được thể hiện rõ hơn qua đồ thị hình 3.1.

Hình 3.1. Đồ thị sinh trưởng tích lũy của lợn con

giai đoạn từ SS - 30 ngày tuổi (kg/con)

Hình 3.1. cho thấy, bổ sung chế phẩm probiotic vào thức ăn đã có ảnh

hưởng rõ rệt đến khối lượng lợn con tập ăn ở 14 và 30 ngày tuổi. Đồ thị cũng

chỉ ra rõ, ảnh hưởng của các mức khối lượng sơ sinh khác nhau đến sinh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

trưởng của lợn.

44

3.1.3. Sinh trưởng tuyệt đối của lợn con thí nghiệm giai đoạn từ sơ sinh đến

30 ngày tuổi.

Sinh trưởng tuyệt đối là sự tăng lên về khối lượng, kích thước và thể tích

của cơ thể gia súc trong một đơn vị thời gian. Trên cơ sở xác định khối lượng

cơ thể của lợn con qua các giai đoạn, chúng tôi đã tính được tốc độ sinh trưởng

tuyệt đối của các lô giai đoạn từ sơ sinh đến 30 ngày tuổi, kết quả được trình

bày ở bảng 3.3:

Bảng 3.3. Sinh trưởng tuyệt đối

của lợn con từ sơ sinh đến 30 ngày tuổi (g/con/ngày)

Lô TN

Nghiệm thức 1

Nghiệm thức 2

SEM P

Chỉ tiêu

Lô 1

Lô 2

Lô 3

Lô 4

Lô 5

Lô 6

SS - 7 ngày 116,29c 125,71b 134,29a 114,29c 126,57b 134,86a 3,614 0,001

7 - 14 ngày 123,43d 136,57bc 147,43ab 132,86cd 146,14b 157,14a 5,575 0,001

14 - 21 ngày 236,29d 257,14c 283,43b 262,86c 285,14b 312,57a 5,705 0,001

21 - 30 ngày 159,78d 171,33cd 191,33b 179,67bc 191,11b 212,78a 4,018 0,001

SS - 30 ngày 159,00d 172,60c 189,27b 172,90c 187,50b 204,90a 1,844 0,001

100,00 108,55 119,04 108,74 117,92 128,87

-

-

So sánh

Ghi chú: Các giá trị trong cùng một hàng có mang các chữ cái khác nhau thì sai khác có ý

nghĩa thống kê (P<0,001).

* Ảnh hưởng của các mức khối lượng sơ sinh khác nhau đến sinh trưởng

tuyệt đối của lợn thí nghiệm

Kết quả bảng 3.3 cho thấy, ở các giai đoạn khác nhau thì sinh trưởng

tuyệt đối của các lô thí nghiệm cũng khác nhau, trong đó lô thí nghiệm có mức

khối lượng sơ sinh cao cho sinh trưởng tuyệt đối cao nhất, sau đó đến lô thí

nghiệm có mức khối lượng sơ sinh trung bình và lô thí nghiệm có mức khối

lượng sơ sinh thấp cho sinh trưởng tuyệt đối thấp nhất. Giai đoạn từ sơ sinh – 7

ngày tuổi sinh trưởng tuyệt đối của lợn con là: 116,29 – 114,29; 125,71 –

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

126,57 và 134,29 – 134,86 g/con/ngày tương ứng với ba mức khối lượng sơ

45

sinh thấp, trung bình và cao. Kết quả so sánh thống kê cả ba lô đều sai khác

nhau rõ rệt (P < 0,001).

Giai đoạn từ 7 – 14 ngày tuổi ở nghiệm thức 1 (khẩu phần không bổ

sung chế phầm probiotic) thì sinh trưởng tuyệt đối của mức khối lượng sơ sinh

trung bình vào cao là 136,57 và 147,43 g/con/ngày cao hơn so với mức khối

lượng sơ sinh thấp (123,43 g/con/ngày) với sai khác rõ rệt (P < 0,001). Ở

nghiệm thức 2 (khẩu phần bổ sung chế phầm probiotic) thì sinh trưởng tuyệt

đối của lợn là 132,86; 146,14 và 157,14 g/con/ngày tương ứng mức khối lượng

sơ sinh thấp, trung bình vào cao. Kết quả so sánh thống kê cả ba mức khối

lượng đều có sinh trưởng tương đối sai khác nhau rõ rệt (P < 0,001).

Giai đoạn từ 14 – 21 ngày tuổi sinh trưởng tuyệt đối của lợn con là:

236,29 – 262,86; 257,14 – 285,14 và 283,43 – 312,57 g/con/ngày tương ứng

với ba mức khối lượng sơ sinh thấp, trung bình và cao. Kết quả so sánh thống

kê cả ba lô đều sai khác nhau rõ rệt (P < 0,001).

Giai đoạn từ 21 – 30 ngày tuổi, ở cả hai nghiệm thức mức khối lượng sơ

sinh cao có sinh trưởng tuyệt đối đạt cao nhất 191,33 – 212,78 g/con/ngày cao

hơn so với mức khối lượng sơ sinh thấp và trung bình với sai khác rõ rệt (P <

0,001). Còn hai mức khối lượng sơ sinh thấp và trung bình thì không sai khác

nhau (P > 0,05).

Tính chung cho cả giai đoạn từ SS – 30 ngày tuổi, thì lô thí nghiệm có

mức khối lượng sơ sinh thấp cho sinh trưởng tuyệt đối dao động từ 159,00 –

172,90 g/con/ngày. Lô thí nghiệm có mức khối lượng sơ sinh trung bình cho

sinh trưởng tuyệt đối dao động từ 172,60 – 187,50 g/con/ngày cao hơn khoảng

8,7 – 9,2 % so với mức khối lượng thấp. Lô thí nghiệm có mức khối lượng sơ

sinh cao cho sinh trưởng tuyệt đối dao động từ 189,27 – 204,90 g/con/ngày cao

hơn khoảng 19,0 – 20,0 % so với mức khối lượng thấp và cao hơn 10,5 – 10,9

% so với mức khối lượng trung bình. Kết quả so sánh thống kê cho thấy, cả ba

mức khối lượng sơ sinh này đều sai khác nhau rõ rệt (P < 0,001). Như vậy,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

sinh trưởng tuyệt đối của lợn được xếp từ cao xuống thấp theo mức khối lượng

46

là: Sinh trưởng tuyệt đối ở mức khối lượng cao > mức khối lượng trung bình >

mức khối lượng thấp với sai khác có ý nghĩa thống kê.

* Ảnh hưởng của chế phẩm probiotic đến sinh trưởng tuyệt đối của lợn con

Giai đoạn từ SS – 7 ngày tuổi do lợn con chủ yếu sử dụng sữa mẹ nên

việc bổ sung chế phẩm probiotic và thức ăn cho lợn con chưa có hiệu quả vì

thế sinh trưởng tuyệt đối ở cả hai nghiệm thức gần tương đương nhau ở cùng

một mức khối lượng sơ sinh. Giai đoạn SS – 7 ngày tuổi là 116,29 – 114,29;

125,71 – 126,57 và 134,29 – 134,86 g/con/ngày tương ứng với ba mức khối

lượng sơ sinh thấp, trung bình và cao.

Giai đoạn từ 7 – 14 ngày tuổi sinh trưởng tuyệt đối của lợn con không sử

dụng chế phầm probiotic là 123,43; 136,57 và 147,43 g/con/ngày tương ứng

với ba mức khối lượng sơ sinh thấp, trung bình và cao sinh trưởng này thấp

hơn so với lợn con được ăn khẩu phần có bổ sung chế phẩm probiotic từ 9 – 10

g/con nhưng không có sai khác rõ rệt (P > 0,05). Tuy nhiên, sinh trưởng tuyệt

đối của lô thí nghiệm có mức khối lượng thấp của khẩu phần có bổ sung chế

phẩm probiotic cao ngang bằng với sinh trưởng tuyệt đối của lô thí nghiệm có

mức khối lượng trung bình của khẩu phần không bổ sung chế phẩm probiotic

và mức khối lượng trung bình của khẩu phần có bổ sung chế phầm probiotic

cao ngang bằng với mức khối lượng cao của khẩu phần không bổ sung chế

phẩm probiotic. Như vậy, chế phẩm probiotic đã có ảnh hưởng tốt đến sinh

trưởng của lợn con.

Giai đoạn từ 14 – 21 ngày tuổi và 21 – 30 ngày tuổi lợn con ở nghiệm

thức 2 (khẩu phần có chế phẩm probiotic) cho sinh trưởng tuyệt đối cao hơn so

với lợn con ở nghiệm thức 1 (khẩu phần không có chế phần probiotic). Kết quả

so sánh thống kê giữa hai nghiệm thức cho thấy ở cùng mức khối lượng sơ

sinh thì sai khác nhau rõ rệt (P < 0,001). Khác mức khối lượng sơ sinh thì sinh

trưởng tuyệt đối của lô thí nghiệm có mức khối lượng thấp của khẩu phần có

bổ sung chế phẩm probiotic cao hơn so với mức khối lượng trung bình của

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

khẩu phần không bổ sung chế phẩm probiotic. Tương tự mức khối lượng trung

47

bình của khẩu phần có bổ sung chế phẩm probiotic cao hơn, so với mức khối

lượng cao của khẩu phần không bổ sung chế phẩm probiotic nhưng không có

sai khác rõ rệt. Như vậy, chế phẩm probiotic vẫn cho kết quả sinh trưởng tốt ở

giai đoạn này.

Tính chung cho toàn giai đoạn từ SS – 30 ngày tuổi thì sinh trưởng tuyệt

đối của lợn con ở nghiệm thức 2 (khẩu phần có bổ sung proiotic) cao hơn so

với nghiệm thức 1 (khẩu phần không bổ sung probiotic) từ 8,7 – 9,8 % với sai

khác rõ rệt (P < 0,001).

Nguyễn Như Pho và Trần Thị Thu Thuỷ (2003), cho biết khi bổ sung

chế phẩm Organic green (probiotic) cho lợn con tlợn mẹ với liều từ 0,8 -

1,2x108 CFU/kg trọng lượng cơ thể đã có tác dụng kích thích tăng khối lượng

ở lợn con từ 10,64 - 14,56% so với lô ĐC. Như vậy, kết quả nghiên cứu của

chúng tôi tương đương với các kết quả nghiên cứu của tác giả trước đó. Điều

này chứng tỏ rằng việc bổ sung chế phẩm probiotic vào trong khẩu phần ăn của

lợn con tập ăn đã nâng cao được tốc độ tăng trọng của lợn con.

Kết quả nghiên cứu về sinh trưởng tuyệt đối được thể hiện qua hình 3.2.

Hình 3.2. Biểu đồ sinh trưởng tuyệt đối của lợn thí nghiệm

giai đoạn ss-30 ngày tuổi

Biểu đồ hình 3.2 cho thấy, sinh trưởng tuyệt đối của lợn thí nghiệm tăng

dần từ SS – 14 ngày tuổi sau đó giảm ở 21 – 30 ngày tuổi (giai đoạn lợn cai

sữa chuyển sang thức ăn hỗn hợp). Trong đó sinh trưởng tuyệt đối của lợn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

48

được bổ sung chế phẩm probiotic cho kết quả cao hơn so với lợn không bổ

sung chế phẩm probiotic.

3.1.4. Sinh trưởng tương đối của lợn con thí nghiệm giai đoạn từ sơ sinh

đến 30 ngày tuổi.

Sinh trưởng tương đối là tỷ lệ phần trăm tăng lên của khối lượng cơ thể

với bình quân khối lượng giữa 2 lần khảo sát. Căn cứ vào khối lượng lợn con ở

các kỳ cân, chúng tôi đã tính được sinh trưởng tương đối của các lô lợn con thí

nghiệm ở các giai đoạn nuôi, kết quả được trình bày ở bảng 3.4.

Bảng 3.4. Sinh trưởng tương đối của lợn con

giai đoạn từ SS – 30 ngày tuổi (%)

Lô TN Nghiệm thức 1 Nghiệm thức 2 SEM P Chỉ tiêu Lô 1 Lô 2 Lô 3 Lô 4 Lô 5 Lô 6

43,83a 44,27a 44,30a 43,20a 44,36a 44,53a 1,223 0,566 SS - 7 ngày

32,05b 32,90ab 33,20ab 34,23ab 34,66a 35,01a 1,329 0,013 7- 14 ngày

41,82b 42,02b 42,98b 44,85a 44,74a 45,72a 0,858 0,001 14 - 21 ngày

* Ảnh hưởng của các mức khối lượng sơ sinh khác nhau đến sinh trưởng

26,14ab 25,89b 26,62ab 27,73ab 27,22ab 28,00a 0,977 0,011 21 - 30 ngày

tương đối của lợn thí nghiệm

Số liệu ở bảng 3.4 cho thấy, trong cùng một nghiệm thức thì giai đoạn từ

sơ sinh – 7 ngày tuổi giữa các lô thí nghiệm chênh lệch nhau không nhiều dao

động từ 43,83 – 44,30 % ở nghiệm thức 1 và từ 43,20 – 44,53 % ở nghiệm

thức 2. Giai đoạn từ 7 – 14 ngày tuổi, sinh trưởng tương đối của các lô thí

nghiệm ở nghiệm thức 1 dao động từ 32,05 – 33,20 % và ở nghiệm thức 2 là

34,23 – 35,01 %. Ở cả hai giai đoạn này trong cùng 1 nghiệm thức không có

sai khác nhau rõ rệt ở các mức khối lượng sơ sinh khác nhau.

Giai đoạn từ 14 – 21 ngày và 21 – 30 ngày tuổi cũng cho kết quả tương

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

tự như ở giai đoạn trước đó là trong cùng 1 nghiệm thức không có sai khác

49

nhau rõ rệt ở các mức khối lượng sơ sinh khác nhau. Tuy nhiên, tính chung cho

toàn giai đoạn từ SS – 30 ngày tuổi lại cho kết quả khác. Lô thí nghiệm có mức

khối lượng sơ sinh cao cho sinh trưởng tương đối cao hơn so với mức khối

lượng sơ sinh thấp từ 1,98 – 2,05% với sai khác có ý nghĩa thống kê (P <

0,001). Còn hai mức khối lượng thấp và trung bình thì gần tương đương nhau

không có sai khác rõ rệt (P > 0,05).

Như vậy, mức khối lượng sơ sinh của lợn con không ảnh hưởng đến sinh

trưởng tương đối ở từng giai đoạn nhưng xét tổng thể thì mức khối lượng sơ

sinh có ảnh hưởng rõ ở mức khối lượng thấp và khối lượng cao.

* Ảnh hưởng của chế phẩm probiotic đến sinh trưởng tương đối của lợn con

Kết quả bảng 3.4 cho thấy, giai đoạn từ SS – 7 ngày tuổi và từ 7 – 14

ngày tuổi sinh trưởng tương đối của các lô thí nghiệm ở nghiệm thức 2 (khẩu

phần có bổ sung chế phẩm probiotic) cao hơn so với sinh trưởng tương đối của

các lô thí nghiệm ở nghiệm thức 1 (khẩu phần không bổ sung chế phẩm

probiotic). Tuy nhiên, kết quả so sánh thống kê giữa các nghiệm thức này chỉ

có mức khối lượng trung bình và khối lượng cao của nghiệm thức 2 là có sai

khác rõ rệt với mức khối lượng thấp của nghiệm thức 1 với sai khác có ý nghĩa

thống kê (P < 0,001).

Giai đoạn từ 14 – 21 ngày tuổi sinh trưởng tương đối của các lô thí

nghiệm ở nghiệm thức 2 (khẩu phần có bổ sung chế phẩm probiotic) cao hơn

so với sinh trưởng tương đối của các lô thí nghiệm ở nghiệm thức 1 (khẩu phần

không bổ sung chế phẩm probiotic) với sai khác có ý nghĩa thống kê (P <

0,001). Ở giai đoạn này lợn con bắt đầu tập ăn trong khi sữa mẹ giảm dẫn đến

ảnh hưởng đến sinh trưởng của lợn. Chế phẩm probiotic đóng vai trò hỗ trợ hệ

tiêu hóa của lợn đồng thời tăng sức đề kháng cho lợn con.

Giai đoạn từ 21 – 30 ngày tuổi lợn con ở giai đoạn này bắt đầu sử dụng

tốt thức ăn hỗn hợp, đồng thời hệ tiêu hóa của lợn ổn đinh. Tuy nhiên, sinh

trưởng tương đối của các lô thí nghiệm ở nghiệm thức 2 (khẩu phần có bổ sung

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

chế phẩm probiotic) vẫn cao hơn so với sinh trưởng tương đối của các lô thí

50

nghiệm ở nghiệm thức 1 (khẩu phần không bổ sung chế phẩm probiotic) nhưng

không có sai khác rõ rệt (P > 0,05).

Tính chung cho toàn giai đoạn từ SS – 30 ngày tuổi, sinh trưởng tương

đối của nghiệm thức 1 là 124,38; 125,16 và 126,43 % tương ứng với các mức

khối lượng là thấp, trung bình và cao so với sinh trưởng tương đối của nghiệm

thức 2 là 128,22; 128,82 và 130,19 % thì thấp hơn với sai khác có ý nghĩa

thống kê (P < 0,001).

3.1.5. Tỷ lệ tiêu chảy lợn con giai đoạn sơ sinh đến 30 ngày tuổi

Nguyên nhân gây tiêu chảy ở lợn con giai đoạn ss - 30 ngày tuổi là do

thay đổi đột ngột về môi trường sống, do thức ăn, do virus, vi khuẩn, độc tố

nấm, thời tiết khí hậu, stress... Nhưng dù là nguyên nhân nào đi nữa nhiễm

khuẩn vẫn là nguyên nhân chủ yếu trong đó vi khuẩn E.coli và Samonella

chiếm vai trò chủ đạo. Lợn con khi bị tiêu chảy thì khả năng tiêu hoá, hấp thu

chất dinh dưỡng kém, giảm khối lượng cơ thể nhanh chóng do mất nước và rất

dễ bị chết nếu không có phác đồ điều trị thích hợp và kịp thời. Mặt khác sau

khi điều trị khỏi tốc độ sinh trưởng của lợn con cũng sẽ bị giảm hơn, so với

những con không bị tiêu chảy do chức năng sinh lý của niêm mạc ruột non bị

tổn thương, khả năng hấp thu chất dinh dưỡng ít nhiều cũng bị hạn chế. Tất cả

những điều này, đã làm tăng giá thành sản phẩm chăn nuôi do phải tăng chi phí

thức ăn, chi phí thuốc thú y.

Kết quả nghiên cứu về tình hình mắc tiêu chảy của lợn con được trình

bày tại bảng 3.5.

Kết quả bảng 3.5 cho thấy, khối lượng lợn sơ sinh có ảnh hưởng đến tỷ

lệ mắc bệnh tiêu chảy ở lợn. Lợn có mức khối lượng sơ sinh cao có tỷ lệ mắc

tiêu chảy ít hơn, so với lợn có mức khối lượng sơ sinh thấp. Cụ thể ở nghiệm

thức 1 tỷ lệ mắc tiêu chảy xếp từ cao xuống thấp là 48; 44 và 42 % tương

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

đương với ba mức khối lượng sơ sinh thấp, trung bình và cao. Ở nghiệm thức 2

51

tỷ lệ mắc tiêu chảy xếp từ cao xuống thấp là 36; 30 và 24 % tương đương với

ba mức khối lượng sơ sinh thấp, trung bình và cao.

Bảng 3.5. Tình hình mắc bệnh tiêu chảy của lợn con giai đoạn

từ sơ sinh – 30 ngày tuổi (%)

Số lợn chết

Số lợn

Số lợn

Tỷ lệ lợn

Tỷ lệ lợn chết

do TC

thí nghiệm

TN (Con)

bị TC (Con)

bị TC (%)

do TC (%)

(Con)

50

24

48

8

Lô 1

4

Nghiệm

50

22

44

6

Lô 2

3

thức 1

50

21

42

4

Lô 3

2

50

18

36

4

Lô 4

2

Nghiệm

50

15

30

4

Lô 5

2

thức 2

50

12

24

2

Lô 6

1

* Ảnh hưởng của các mức khối lượng sơ sinh khác nhau đến tỷ lệ mắc

bệnh tiêu chảy của lợn thí nghiệm

Kết quả theo dõi tỷ lệ lợn con chết do mắc bệnh tiêu chảy cũng giống

như tỷ lệ lợn mắc tiêu chảy đó là: lợn có mức khối lượng thấp thì tỷ lệ lợn chết

cũng cao hơn so với lợn có mức khối lượng cao; Như vậy, khối lượng lợn cao

cho sức khỏe, sức đề kháng tốt hơn giúp lợn giảm tỷ lệ mắc bệnh tiêu chảy.

* Ảnh hưởng của chế phẩm probiotic đến tỷ lệ mắc bệnh tiêu chảy của

lợn con

Kết quả so sánh tỷ lệ lợn mắc tiêu chảy ở hai nghiệm thức (có bổ sung

chế phẩm probiotic và không bổ sung chế phẩm probiotic) cho thấy: Sử dụng

khẩu phần có bổ sung chế phẩm probiotic đã làm giảm tỷ lệ mắc tiêu chảy ở

lợn thấp hơn từ 12 – 18 % so với việc không bổ sung chế phẩm probiotic vào

khẩu phần. Sự sai khác này là do các vi khuẩn có trong thành phần hỗn hợp vi

khuẩn probiotic đã phát huy tác dụng, một mặt tạo nên sự cân bằng về hệ vi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

sinh vật đường ruột góp phần ức chế sự phát triển của các vi sinh vật có hại,

52

mặt khác đã sản sinh ra một số chất có tác dụng diệt khuẩn gây bệnh như lactin

B, H2O2 từ đó có tác dụng diệt vi sinh vật có hại, khử độc tố đường ruột do vậy

đã giảm tỷ lệ mắc tiêu chảy ở lợn con.

Các nghiên cứu về vấn đề này chưa được công bố nhiều, tuy nhiên vấn

đề hạn chế tiêu chảy của lợn con giai đoạn sau cai sữa đã được nhiều tác giả đề

cập đến dưới một khía cạnh khác. Trần Thị Thu Thuỷ (2003), khi bổ sung chế

phẩm Organic green với liều 0,08 - 0,12 tỷ CFU/kg khối lượng đã góp phần

làm giảm đáng kể tỷ lệ lợn con mắc bệnh tiêu chảy từ đó giảm tỷ lệ chết. Tỷ lệ

mắc bệnh tiêu chảy và tỷ lệ lợn con chết do mắc bệnh tiêu chảy của tác giả có

phần cao hơn kết quả nghiên cứu của chúng tôi có thể là do chế phẩm của tác

giả sử dụng trong thí nghiệm (Organic green) thành phần bao gồm 2 loại vi

khuẩn có lợi là Lactobaccillus axitophilus và Bacilus subtilis, một loại nấm

men Saccharomyces cerevisiae, một loại nấm mốc Aspergillus oryzae; trong

thí nghiệm của chúng tôi trong mỗi hỗn hợp 1 và hỗn hợp 2 chỉ sử dụng 1 loại

nấm men.

Theo Đỗ Trung Cứ và cs (2000), khi sử dụng chế phẩm Biosubtyl để

phòng bệnh tiêu chảy trên lợn con từ sơ sinh đến 60 ngày tuổi, tỷ lệ mắc bệnh

chỉ còn 25% (trong đó lô ĐC là 75%).

Từ kết quả nghiên cứu trên có thể khẳng định: Việc bổ sung một số hỗn

hợp vi khuẩn probiotic vào khẩu phần ăn đã có tác động tích cực trong việc

phòng ngừa tiêu chảy ở lợn con giai đoạn lợn con từ SS – cai sữa. Như vậy

việc sử dụng chế phẩm probiotic trong khẩu phần đã bước đầu hạn chế việc

dùng kháng sinh trong điều trị. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong vấn đề

nâng cao sức khỏe vật nuôi, làm tăng hiệu quả chăn nuôi và vệ sinh an toàn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

thực phẩm.

53

3.2. Ảnh hưởng của khối lượng sơ sinh và bổ sung chế phẩm probiotic đến

khả năng sản xuất và hiệu quả kinh tế của lợn thịt F1 (Landrace x

Yorshire) giai đoạn 30-150 ngày tuổi

Sau khi kết thúc thí nghiệm 1 chúng tôi tiến hành theo dõi tiếp đàn lợn ở

giai đoạn từ 30 – 150 ngày tuổi để đánh giá ảnh hưởng của chế phẩm probiotic

đến tỷ lệ nuôi sống, sinh trưởng và phát triển của lợn thí nghiệm. Trên cơ sở số

tai đã được đánh số lúc sơ sinh, đàn lợn được bố trí vào 6 lô tại thí nghiệm 2

đảm bảo các cá thể còn sống sau thí nghiệm 1 của mỗi lô được chuyển lên lô

kế tiếp của thí nghiệm 2 nhằm mục đích theo dõi được ảnh hưởng của khối

lượng sơ sinh đến khi xuất chuồng, kết quả theo dõi như sau:

3.2.1. Tỷ lệ nuôi sống lợn thí nghiệm giai đoạn từ 30 đến 150 ngày tuổi.

Bảng 3.6. Tỷ lệ nuôi sống lợn thí nghiệm giai đoạn

từ 30 đến 150 ngày tuổi (%).

Lô TN

Nghiệm thức 1

Nghiệm thức 2

SEM

P

Chỉ tiêu

Lô 1

Lô 2

Lô 3

Lô 4

Lô 5

Lô 6

-

-

30 – 60 ngày

100,0a 100,0a 100,0a 100,0a 100,0a 100,0a

60 – 90 ngày

97,8a

97,8a

100,0a 100,0a 100,0a 100,0a 2,869 0,561

90 – 120 ngày

97,8a

97,8a

100,0a 100,0a 100,0a 100,0a 2,869 0,561

120 – 150 ngày

97,8a

97,8a

100,0a 100,0a 100,0a 100,0a 2,869 0,561

30- 150 ngày

97,8a

97,8a

100,0a 100,0a 100,0a 100,0a

Ghi chú: Các giá trị trong cùng một hàng có mang các chữ cái khác nhau thì sai khác

có ý nghĩa thống kê (P<0,05)

Kết quả bảng 3.6 cho thấy, tỷ lệ sống của lợn ở giai đoạn 30 – 60 ngày

tuổi là tương đương nhau đều bằng 100 % không có lợn bị chết. Giai đoạn từ

60 – 90 ngày tuổi thì lô thí nghiệm 1 và 2 của nghiệm thức 1 (khẩu phần không

bổ sung chế phẩm probiotic có tỷ lệ nuôi sống giảm chỉ còn 97,8 % còn lô thí

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

nghiệm 3 vẫn đạt 100 % (lợn ở lô thí nghiệm 3 có mức khối lượng sơ sinh cao

54

nên sức khỏe của lợn tốt tỷ lệ chết cũng giảm. Ở nghiệm thức 2, thì lợn được

ăn khẩu phần có chế phẩm probiotic nên sức đề kháng của lợn được cải thiện

đáng kể dẫn đến tỷ lệ nuôi sống đạt cao 100%. Từ giai đoạn 90 ngày tuổi trở

lên, tỷ lệ nuôi sống của các lô thí nghiệm giữ ổn định, không có lợn chết. Kết

quả so sánh thống kê, không có sai khác nhau giữa tỷ lệ nuôi sống của các lô

thí nghiệm với P > 0,05.

3.2.2. Sinh trưởng tích lũy của lợn thịt thí nghiệm

Đặc điểm cơ bản của lợn con giai đoạn sau cai sữa là, khả năng sinh

trưởng nhanh, trong khi cơ quan tiêu hóa chưa thực sự hoàn chỉnh. Khả năng

tiêu hóa thức ăn do con người cung cấp còn nhiều hạn chế, dễ xảy ra tình trạng

tiêu chảy, ảnh hưởng đến sinh trưởng của lợn. Việc bổ sung các hỗn hợp vi

khuẩn probiotic vào khẩu phần ăn nhằm tạo sự cân bằng về hệ vi sinh vật trong

đường tiêu hóa, vừa hạn chế tiêu chảy vừa nâng cao sinh trưởng của lợn con.

Kết quả nghiên cứu về ảnh hưởng của việc bổ sung hỗn hợp vi khuẩn

probiotic đến sinh trưởng của lợn con được trình bày tại bảng 3.7.

Bảng 3.7. Sinh trưởng tích lũy của lợn thí nghiệm

từ 30 đến 150 ngày tuổi (kg/con, n =3 lần lặp lại).

Lô TN

Nghiệm thức 1

Nghiệm thức 2

SEM

P

Chỉ tiêu

Lô 1

Lô 2

Lô 3

Lô 4

Lô 5

Lô 6

0,061 0,001

30 ngày

6,222e

6,729d

7,339b

6,630d

7,185c

7,801a

60 ngày

19,804f 21,616d 24,902b 20,853e 22,762c

26,042a 0,349 0,001

90 ngày

42,138f 46,288d 53,323b 44,976e 49,344c

56,485a 0,096 0,001

64,864e 71,334c 77,034b 70,135d 76,975b

84,282a 0,131 0,001

120 ngày

87,120e 94,734d 98,610c 95,039d 103,276b 110,681a 0,251 0,001

150 ngày

-

-

So sánh

100,00

108,74 113,19 109,09

118,54

127,04

Ghi chú: Các giá trị trong cùng một hàng có mang các chữ cái khác nhau thì sai khác

có ý nghĩa thống kê (P<0,05)

* Phân tích ảnh hưởng của các mức khối lượng sơ sinh khác nhau đến

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

sinh trưởng tuyệt đối của lợn thí nghiệm

55

Kết quả theo dõi sinh trưởng của lợn giai đoạn từ SS – 30 ngày tuổi, thì

ảnh hưởng của mức khối lượng sơ sinh khác nhau có ảnh hưởng đến sinh

trưởng tích lũy của lợn. Ở thời điểm 30 ngày tuổi sinh trưởng tích lũy của các

lô thí nghiệm trong cùng một nghiệm thức (khẩu phần có bổ sung hoặc không

bổ sung chế phẩm probiotic), được sắp xếp theo mức khối lượng sơ sinh như

sau: Mức khối lượng cao có sinh trưởng tích lũy cao nhất sau đó đến mức khối

lượng trung bình và thấp nhất là mức khối lượng thấp.

Ở thời điểm 60, 90, 120 và 150 ngày tuổi cũng cho kết quả tương tự như

tại thời điểm 30 ngày tuổi đó là: Mức khối lượng cao có sinh trưởng tích lũy

cao nhất, sau đó đến mức khối lượng trung bình và thấp nhất là mức khối

lượng thấp.

Kết thúc thí nghiệm (Tại thời điểm 150 ngày), sinh trưởng tích lũy ở

nghiệm thức 1 là 87,120; 94,734 và 98,610 kg/con tương ứng với ba mức khối

lượng sơ sinh thấp, trung bình và cao. Ở nghiệm thức 2 là 95,039; 103,276 và

110,681 kg/con/ngày tương ứng với ba mức khối lượng sơ sinh thấp, trung

bình và cao. Kết quả so sánh thống kê cho thấy, trong cùng một nghiệm thức

các lô thí nghiệm khác nhau thì sai khác nhau rõ rệt (P < 0,001).

Như vậy, khối lượng của lợn giai đoạn sơ sinh sẽ quyết định mức tăng

trọng của lợn ở giai đoạn sau. Nếu khối lượng của lợn sơ sinh cao thì sinh

trưởng sẽ đạt mức cao và ngược lại, nếu khối lượng của lợn sơ sinh thấp thì

sinh trưởng ở giai đoạn sau cũng thấp. Chính vì lý do này, ngoài việc tăng số

con đẻ ra/lứa của lợn nái thì việc tăng khối lượng của lợn sơ sinh cũng rất quan

trọng và cần thiết trong công tác giống.

* Phân tích ảnh hưởng của chế phẩm probiotic đến sinh trưởng tích lũy

của lợn thí nghiệm.

Kết quả so sánh sinh trưởng tích lũy ở thời điểm 30 ngày tuổi cho thấy,

ở cùng một mức khối lượng thì sinh trưởng tích lũy của lợn được ăn khẩu phần

có chế phẩm probiotic cho sinh trưởng cao hơn hẳn so với lợn không được ăn

khẩu phần có chứa chế phẩm probiotic với sai khác có ý nghĩa thống kê (P <

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

0,001). Ở các mức khối lượng khác nhau thì sinh trưởng tích lũy giữa các lô thí

56

nghiệm cũng khác nhau, trong đó mức khối lượng sơ sinh thấp của lô thí

nghiệm được ăn khẩu phần có chế phẩm probiotic cho sinh trưởng tích lũy

tương đương với mức khối lượng trung bình của lô thí nghiệm không được ăn

khẩu phần có chế phẩm probiotic điều này chứng tỏ chế phẩm probiotic có vai

trò tăng tiêu hóa và hấp thu của lợn giúp hạn chế các bệnh về đường tiêu hóa

và làm tăng khả năng sinh trưởng của lợn tốt hơn so với khẩu phầm thức ăn

không có chế phẩm probiotic.

Ở thời điểm 60, 90, 120 và 150 ngày tuổi cho thấy cứ cùng một mức

khối lượng sơ sinh thì lô thí nghiệm nào sử dụng khẩu phần có chế phẩm

probiotic thì sinh trưởng tích lũy sẽ cao hơn so với lô thí nghiệm không sử

dụng khẩu phần có chế phẩm probiotic với sai khác có ý nghĩa thống kê (P <

0,001). Ở 150 ngày thì sinh trưởng tích lũy của mức khối lượng sơ sinh thấp

của khẩu phần có bổ sung chế phẩm probiotic cao hơn so với sinh trưởng tích

lũy của mức khối lượng sơ sinh trung bình của khẩu phần không bổ sung chế

phầm probiotic nhưng không có sai khác rõ rệt (P > 0,05). Còn mức khối

lượng trung bình của khẩu phần có bổ sung chế phẩm probiotic cũng cao hơn

so với mức khối lượng cao của khẩu phần không bổ sung chế phẩm probiotic

với sai khác có ý nghĩa thống kê (P < 0,001). Điều này cho thấy, việc bổ sung

chế phẩm probiotic đã có tác dụng cải thiện tốc độ sinh trưởng của lợn, thông

qua cải thiện khả năng tiêu hoá thức ăn của lợn thí nghiệm. Lợn được nuôi

bằng khẩu phần có bổ sung thêm hỗn hợp vi khuẩn probiotic đã làm tăng thêm

khả năng tiêu hóa thức ăn, từ đó góp phần làm tăng sinh trưởng. Ngoài ra, việc

bổ sung hỗn hợp vi khuẩn probiotic vào thức ăn đã có ảnh hưởng tích cực

trong việc cải thiện tốc độ tăng trưởng của lợn con giai đoạn sau cai sữa (30 -

150 ngày tuổi). Điều này, có thể do chế phẩm probiotic khi vào đường ruột làm

ức chế vi sinh vật có hại, phát triển vi sinh vật có lợi ở đường ruột

(Lactobacillus) từ đó hạn chế tiêu chảy. Vì vậy, làm giảm pH đường ruột tạo

điều kiện thuận lợi cho quá trình tiêu hoá protein và đường lactose ở lợn, tăng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

quá trình hấp thu các chất dinh dưỡng.

57

So sánh ở 150 ngày tuổi bổ sung chế phẩm probiotic vào khẩu phần thức

ăn cho lợn đã làm tăng sinh trưởng tích lũy cao hơn từ 9 – 13 % so với việc

không bổ sung chế phẩm probiotic vào khẩu phần thức ăn của lợn.

Theo nghiên cứu của Đậu Ngọc Hào (2000), thì bổ sung 1% chế phẩm

nấm men Saccharomyces cerevisiae thì khối lượng trung bình của lợn con sau

cai sữa ở lô thí nghiệm cao hơn lô đối chứng khoảng 3%. Tác giả Trần Thị Thu

Thuỷ (2003) cho biết, khi bổ sung liên tục Organic green cho lợn giai đoạn sau

cai sữa với liều từ 0,08- 0,12 tỷ CFU/kg thể trọng đã có tác dụng kích thích

tăng trọng ở lợn con đồng thời cải thiện mức tăng trọng từ 9 - 10% so với đối

chứng; như vậy, kết quả của chúng tôi tương đương và cao hơn so với nghiên

cứu trước đó.

Theo kết quả nghiên cứu của Phùng Thị Vân và cs (2000), thì lợn lai D

 (LY) đạt khối lượng 90 kg ở 178,5 ngày tuổi và lợn lai D  (Y  L) đạt khối

lượng 90 kg ở 180 ngày. Trương Hữu Dũng và cs (2004) cho biết, tuổi đạt

90kg khối lượng cơ thể đối với lợn lai D x (L x Y) và D x (Y x L) là 176 ngày

tuổi ở chế độ ăn tự do. Đặng Vũ Bình và cộng sự (2005) cho biết, cả hai lợn lai

D x (L x Y) và D x (Y x L) có khối lượng kết thúc nuôi là 81,78 kg và 76,24

kg ở 155,69 và 157,26 ngày. Tlợn Nguyễn Trung Chính (2016), khối lượng

trung bình trên con lúc 150 ngày của con lai các nái Landrace,Yorkshire, F1

L×Y lần lượt là 95,46 ; 95,23 ; 95,6 kg. Như vậy, kết quả nghiên cứu của

chúng tôi cao hơn công bố của các tác giả trên.

Kết quả sinh trưởng tích lũy của các lô thí nghiệm được biểu diễn bằng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

đồ thị hình 3.3.

58

Hình 3.3. Đồ thị sinh trưởng tích lũy của lợn thí nghiệm

Kết quả đồ thị sinh trưởng tích lũy của lợn thí nghiệm cho thấy giai đoạn

sau cai sữa sinh trưởng của lợn đạt ở mức thấp sau đó tăng mạnh từ giai đoạn

60 – 150 ngày tuổi. Đồ thị cho thấy, khối lượng lợn sơ sinh có ảnh hưởng lớn

đến sinh trưởng của lợn ở giai đoạn sau cai sữa. Khối lượng sơ sinh càng lớn

thì sinh trưởng càng mạnh. Đồ thị cũng chỉ ra rằng, bổ sung chế phẩm

probiotic cho lợn đã làm tăng sinh trưởng cao hơn so với việc không bổ sung

chế phẩm probiotic.

3.2.3. Sinh trưởng tuyệt đối của lợn thịt thí nghiệm

Kết quả sinh trưởng tuyệt đối của lợn thí nghiệm được trình bày qua bảng 3.8

Bảng 3.8. Sinh trưởng tuyệt đối của lợn thí nghiệm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

từ 30 đến 150 ngày tuổi (gam/con/ngày).

59

Lô TN Nghiệm thức 1 Nghiệm thức 2 SEM P Chỉ tiêu Lô 1 Lô 2 Lô 3 Lô 4 Lô 5 Lô 6

452,7e 496,2d 585,4b 474,1e 519,2c 608,0a 11,181 0,001 30- 60 ngày

744,5e 822,4d 947,4b 804,1d 886,1c 1014,8a 12,646 0,001 60-90 ngày

757,5d 834,9b 790,4c 838,7b 921,0a 926,6a 5,960 0,001 90-120 ngày

741,9d 780,0c 719,2e 830,1b 876,7a 879,9a 8,185 0,001 120-150 ngày

674,2e 733,4d 760,6c 736,7d 800,8b 857,3a 2,164 0,001 30- 150 ngày

Ghi chú: Các giá trị trong cùng một hàng có mang các chữ cái khác nhau thì sai khác

có ý nghĩa thống kê (P<0,05)

100,0 108,8 112,8 109,3 118,8 127,2 - - So sánh,%

* Ảnh hưởng của các mức khối lượng sơ sinh khác nhau đến sinh trưởng

tuyệt đối của lợn thí nghiệm

Kết quả bảng 3.8 cho thấy: sinh trưởng tuyệt đối của lợn thí nghiệm giai

đoạn từ 30 – 60 ngày tuổi và 60 – 90 ngày tuổi trong cùng một nghiệm thức thì

có sai khác nhau rõ rệt ở các mức khối lượng sơ sinh khác nhau với sai khác có

ý nghĩa thống kê (P < 0,001).

Giai đoạn từ 90 – 120 ngày tuổi, ở nghiệm thức 1 (khẩu phần không bổ

sung chế phẩm probiotic) thì sinh trưởng tuyệt đối của lợn ở các lô thí nghiệm

có sai khác nhau rõ rệt với P < 0,001. Ở nghiệm thức 2 (khẩu phần có bổ sung

chế phẩm probiotic) thì sinh trưởng tuyệt đối của lợn ở hai mức khối lượng sơ

sinh trung bình và cao gần tương đương nhau, hai mức này có sinh trưởng

tuyệt đối cao hơn so với mức khối lượng sơ sinh thấp với sai khác có ý nghĩa

thống kê (P < 0,001).

Giai đoạn từ 120 – 150 ngày, ở nghiệm thức 1 (khẩu phần không bổ

sung chế phẩm probiotic) thì sinh trưởng tuyệt đối của lợn ở các lô xếp thứ tự

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

từ thấp đến cao là 741,9; 780,0 và 719,2 g/con/ngày tương ứng với ba mức

60

khối lượng sơ sinh là thấp, trung bình và cao. Kết quả so sánh thống kê cả ba

mức này đều sai khác nhau rõ rệt với P < 0,001. Ở nghiệm thức 2 (khẩu phần

có bổ sung chế phẩm probiotic) thì sinh trưởng tuyệt đối của lợn ở các lô xếp

thứ tự từ thấp đến cao là 830,1; 876,7 và 879,9 g/con/ngày tương ứng với ba

mức khối lượng sơ sinh là thấp, trung bình và cao. Kết quả so sánh thống kê ở

giai đoạn này, chỉ có sinh trưởng tuyệt đối của mức khối lượng trung bình và

cao là không sai khác nhau rõ rệt (P > 0,05).

Tính trung cho toàn giai đoạn từ 30 – 150 ngày tuổi, ở nghiệm thức 1

(khẩu phần không bổ sung chế phẩm probiotic) thì sinh trưởng tuyệt đối của

lợn ở mức khối lượng thấp là 674,2 g/con/ngày, mức khối lượng sơ sinh trung

bình là 733,4 kg/con/ngày cao hơn 8,8% so với mức khối lượng thấp và mức

khối lượng cao có sinh trưởng tuyệt đối là 760,6 g/con/ngày cao hơn 4,0% so

với mức khối lượng trung bình và 12,8 % so với mức khối lượng thấp. Sinh

trưởng tuyệt đối của cả ba mức này đều sai khác nhau rõ rệt (P < 0,001). Ở

nghiệm thức 2 (khẩu phần có bổ sung chế phẩm probiotic) thì sinh trưởng tuyệt

đối của lợn có mức khối lượng thấp là 736,7 g/con/ngày so với mức khối lượng

sơ sinh trung bình (800,8 g/con/ngày) thì thấp hơn 9,5 % và so với mức khối

lương cao (857,3 g/con/ngày) thì thấp hơn 17,9 %. Kết quả so sánh thống kê cả

ba mức khối lượng đều sai khác nhau rõ rệt (P < 0,001).

* Ảnh hưởng của chế phẩm probiotic đến sinh trưởng tuyệt đối của lợn

thí nghiệm

Kết quả bảng 3.8 cho thấy, ở cùng một mức khối lượng sơ sinh thì lợn

được ăn khẩu phần lợn được ăn khẩu phần có bổ sung chế phẩm probiotic cho

sinh trưởng tuyệt đối cao hơn so với lợn được ăn khẩu phần không có chế phẩm

probiotic với sai khác có ý nghĩa thống kê (P < 0,001). Ở các mức khối lượng

sơ sinh khác nhau thì kết quả mỗi giai đoạn lại có thay đổi cụ thể như sau:

Giai đoạn từ 61 – 90 ngày tuổi, mức khối lượng trung bình của nghiệm

thức 1 đạt 882,4 g/con/ngày so với mức khối lượng thấp của nghiệm thức 2

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

(804,1 g/con/ngày) thì cao hơn nhưng không có sai khác rõ rệt (P > 0,05).

61

Giai đoạn 91 – 120 ngày tuổi, mức khối lượng trung bình của nghiệm

thức 1 đạt 834,9 g/con/ngày so với mức khối lượng thấp của nghiệm thức 2

(838,7 g/con/ngày) thì thấp hơn nhưng không có sai khác rõ rệt (P > 0,05).

Còn mức khối lượng cao của nghiệm thức 1 đạt 790,4 g/con/ngày so với mức

khối lượng trung bình của nghiệm thức 2 (921,0 g/con/ngày) thì thấp hơn với

sai khác rõ rệt (P > 0,05)

Giai đoạn từ 121 – 150 ngày tuổi, sinh trưởng tuyệt đối của lợn có mức

khối lượng thấp được ăn khẩu phần có chế phẩm probiotic đạt cao hơn so với

mức khối lượng trung bình và mức khối lượng cao của lợn không được ăn

khẩu phần có chế phẩm probiotic với sai khác rõ rệt (P < 0,001).

Để đánh giá toàn giai đoạn thí nghiệm từ 30 – 150 ngày tuổi, thì chúng

tôi thấy khẩu phần có bổ sung chế phẩm probiotic đã là tăng sinh trưởng tuyệt

đối của lợn từ 9,3 – 14,3 % so với lợn không được ăn khẩu phần có bổ sung

chế phẩm probiotic.

So sánh với kết quả nghiên cứu của Nguyễn Văn Thắng và Vũ Đình Tôn

(2010), tốc độ tăng khối lượng của lợn lai Duroc x F1(LxY) và Duroc x F1(L x

Y) tương ứng là 723 và 735 g/con/ngày. Nguyễn Tiến Mạnh (2012), thì khả

năng tăng khối lượng của lợn lai Duroc x (L x Y) là 613 g/con/ngày và công

thức lai Pidu x YL là 611 g/con/ngày; 540 g/con/ngày ở hai giống lợn F1(L x

Y) và F1(Y x L) giai đoạn từ 25 - 100 kg (Phùng Thị Vân và cs, 2000); 564,00

g/con/ngày ở Yorkshire (Ba Lan) và 583,00 g/con/ngày ở Landrace (Ba Lan)

(Eckert and Zak, 1997). Thì kết quả nghiên cứu của tôi cao hơn so với kết quả

của các tác giả trên.

Để thấy rõ hơn ảnh hưởng của chế phẩm probiotic đến sinh trưởng tuyệt

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

đối của lợn thí nghiệm thể hiện bằng biểu đồ hình 3.4.

62

Hình 3.4. Biểu đồ sinh trưởng tuyệt đối của lợn thí nghiệm

giai đoạn 30-150 ngày

Biểu đồ hình 3.4 cho thấy, sinh trưởng tuyệt đối của lợn có khối lượng

sơ sinh cao đạt cao nhất sau đó đến mức trung bình và cuối mức thấp cho sinh

trưởng tuyệt đối thấp nhất. Đồ thị cũng chỉ ra rằng bổ sung chế phẩm probiotic

đã làm sinh trưởng tuyệt đối cao hơn so với không bổ sung chế phẩm probiotic.

3.2.4. Sinh trưởng tương đối của lợn thịt thí nghiệm.

Kết quả theo dõi sinh trưởng tương đối của lợn thí nghiệm được trình

bày tại bảng 3.9.

* Ảnh hưởng của các mức khối lượng sơ sinh khác nhau đến sinh trưởng

tuyệt đối của lợn thí nghiệm

Kết quả bảng 3.9 cho thấy, giai đoạn từ 30 – 60 ngày tuổi trong cùng

một nghiệm thức thì sinh trưởng tương đối của lợn ở mức khối lượng thấp và

trung bình là tương đương nhau không có sai khác rõ rệt (P > 0,05). Hai mức

khối lượng thấp và trung bình có sinh trưởng tương đối thấp hơn, so với mức

khối lượng cao với sai khác có ý nghĩa thống kê (P < 0,001).

Bảng 3.9. Sinh trưởng tương đối của lợn thí nghiệm

từ 30 đến 150 ngày tuổi (%) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

63

Lô TN Nghiệm thức 1 Nghiệm thức 2 SEM P Chỉ tiêu Lô 1 Lô 2 Lô 3 Lô 4 Lô 5 Lô 6

104,4b 105,0b 108,9a 103,5b 104,0b 107,8a 0,981 0,001 30- 60

72,1a 72,7a 72,7a 73,3a 73,7a 73,8a 1,253 0,258 60-90

42,5b 42,6b 36,4d 43,7a 43,7a 39,5c 0,278 0,001 90-120

Ghi chú: Các giá trị trong cùng một hàng có mang các chữ cái khác nhau thì sai khác

có ý nghĩa thống kê (P<0,05)

29,3b 28,2c 24,6e 30,2a 29,2b 27,1d 0,251 0,001 120-150

Giai đoạn từ 60 – 90 ngày tuổi sinh trưởng tương đối ở các mức khối

lượng khác nhau đều tương đương nhau không có sai khác rõ rệt.

Giai đoạn từ 90 – 120 ngày tuổi trong cùng một nghiệm thức thì sinh

trưởng tương đối của lợn ở mức khối lượng thấp và trung bình là tương đương

nhau không có sai khác rõ rệt (P > 0,05). Hai mức khối lượng thấp và trung

bình có sinh trưởng tương đối thấp hơn, so với mức khối lượng cao với sai

khác có ý nghĩa thống kê (P < 0,001).

Giai đoạn từ 120 – 150 ngày tuổi lại có sự sai khác đó là mức khối lượng

sơ sinh thấp lại có sinh trưởng tương đối cao nhất sau đó đến mức khối lượng

trung bình và cuối cùng là mức khối lượng cao với sai khác giữa các mức khối

lượng là rõ rệt (P < 0,001). Điều này, có thể giải thích do sinh trưởng của mức

khối lượng trung bình và cao đã đạt mức tối đa nên phầm trăm khối lượng tăng

lên giảm theo quy luật sinh trưởng. Còn mức khối lượng thấp vẫn chưa đạt

mức sinh trưởng tối đa nên phầm trăm khối lượng vẫn chưa giảm mạnh điều

này phù hợp với quy luật sinh trưởng của vật nuôi.

* Ảnh hưởng của chế phẩm probiotic đến sinh trưởng tương đối của lợn

thí nghiệm

So sánh hai nghiệm thức 1 và nghiệm thức 2 thì giai đoạn từ 30 – 60

ngày tuổi và 60 – 90 ngày tuổi sinh trưởng tương đối của hai nghiệm thức này

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

là tương đương nhau không có sai khác rõ rệt (P > 0,05).

64

Giai đoạn từ 90 – 120 ngày tuổi và 120 – 150 ngày tuổi thì lợn ở nghiệm

thức 2 (khẩu phần có bổ sung chế phẩm probiotic) có sinh trưởng tương đối

cao hơn so với lợn ở nghiệm thức 1 (khẩu phần không bổ sung chế phẩm

probiotic) với sai khác rõ rệt (P < 0,001).

3.2.5. Tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối lượng của lợn thí nghiệm

Chúng tôi tiến hành tlợn dõi lượng thức ăn thu nhận hàng ngày của lợn

giai đoạn từ 30 – 150 ngày tuổi để tính toán hiệu tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối

lượng của lợn thí nghiệm. Kết quả trình bày tại bảng 3.10.

Bảng 3.10. Tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối lượng lợn thịt thí nghiệm (kg)

Lô TN

Nghiệm thức 1

Nghiệm thức 2

Đơn vị SEM P

Chỉ tiêu

Lô 1 Lô 2 Lô 3 Lô 4 Lô 5 Lô 6

Kg/con - -

∑TĂ tiêu thụ

200,5 204,5 206,5 208,5 210,5 211,1

100

102,0 103,0 104,0 105,0 105,3

%

So sánh

TTTĂ bình

1,671 1,704 1,721 1,738 1,754 1,760

Kg/con/ngày - -

quân

%

So sánh

100,0 102,0 103,0 104,0 105,0 105,30

-

-

Kg/con

∑ KL tăng

80,90 88,01 91,27 88,41 96,09 102,88

-

-

%

So sánh

100,00 108,78 112,82 109,28 118,78 127,17

0,006 0,001

2,478a 2,324c 2,263d 2,359b 2,191e 2,052f

-

-

TTTĂ/kg tăng kg KL

100,00 93,78 91,31 95,18 88,41 82,82

Ghi chú: Các giá trị trong cùng một hàng có mang các chữ cái khác nhau thì sai khác

có ý nghĩa thống kê (P<0,05)

% So sánh

Đối với lợn con giai đoạn sau cai sữa, mục tiêu chủ yếu là lợn sinh

trưởng nhanh. Vì vậy, lượng thức ăn tiêu thụ là một tiêu chí quan trọng để

đánh giá khả năng ăn vào của lợn, từ đó tác động đến sinh trưởng của lợn. Kết

quả bảng 3.10 cho thấy lợn có mức khối lượng sơ sinh cao thì lượng thức ăn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

tiêu thụ cũng cao và lợn có mức khối lượng sơ sinh thấp thì mức tiêu thụ thức

65

ăn cũng thấp. Trong hai nghiệm thức thì nghiệm thức 2 cho thấy, lợn có sinh

trưởng tốt hơn so với nghiệm thức 1 nên tổng lượng thức ăn tiêu thụ kg/con và

tiêu thụ thức ăn bình quân kg/con/ngày cũng cao hơn so với nghiệm thức 1 từ

2,3 – 4,0 %. Trong cùng một nghiệm thức, thì tổng lượng thức ăn tiêu thụ và

tiêu thụ thức ăn bình quân kg/con/ngày của lợn thí nghiệm được xếp thứ tự từ

cao xuống thấp tlợn mức khối lượng sơ sinh như sau. Mức khối lượng sơ sinh

cao > mức khối lượng sơ sinh trung bình > mức khối lượng sơ sinh thấp.

Theo kết quả tính toán ở bảng 3.10, thì mức khối lượng sơ sinh có ảnh

hưởng đến tổng khối lượng tăng lên của lợn. Mức khối lượng sơ sinh thấp sẽ

có khối lượng tăng thấp hơn, so với mức khối lượng sơ sinh trung bình và mức

khối lượng sơ sinh càng cao thì khối lượng tăng lên càng cao. Tuy nhiên, khi

bổ sung chế phẩm probiotic đã làm tăng khả năng tăng trọng của lợn cao hơn

từ 9,3 – 14,4 % so với khẩu phần không bổ sung chế phẩm probiotic.

Trong chăn nuôi lợn, chi phí thức ăn chiếm tới 70% - 75% tổng giá

thành sản phẩm. Việc nghiên cứu về TTTA/kg tăng khối lượng có ý nghĩa rất

lớn về mặt kinh tế, đó là cơ sở để nâng cao năng suất chăn nuôi, hạ giá thành

sản phẩm. Kết quả theo dõi về tiêu tốn thức ăn của lợn con thí nghiệm cho

thấy: Lợn có mức khối lượng cao cho tiêu tốn thức ăn cao nhất sau đó đến lợn

ở mức khối lượng trung bình và cuối cùng là lợn ở mức khối lượng thấp. Tuy

nhiên, việc sử dụng chế phẩm probiotic vào khẩu phần đã làm giảm lượng tiêu

thụ thức ăn của lợn thấp hơn so với khẩu phần không sử dụng chế phẩm

probiotic. Kết quả so sánh cho thấy, sử dụng chế phẩm probiotic cho lợn sẽ

làm giảm từ 4,82 – 8,49 % so với việc không bổ sung chế phẩm probiotic.

Kết quả nghiên cứu về tiêu tốn thức ăn cho 1 kg tăng khối lượng của các tác

giả: Đoàn Văn Soạn và Đặng Vũ Bình (2011) cho biết, trên công thức lai Du x

(LY đạt thấp nhất) và Du x (YL) là 2,69 và 2,73 kg; 2,68 kg. Nguyễn Văn Thắng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

và Vũ Đình Tôn (2010) công bố, tăng khối lượng trên công thức lai F1(LY) và

66

F1(YL) lần lượt là 3,67 và 3,76 kg thức ăn/kg. So với các kết quả trên thì tiêu tốn

TĂ/kg tăng khối lượng trong thí nghiệm của chúng tôi thấp hơn.

3.2.6. Tiêu tốn năng lượng trao đổi và protein cho tăng khối lượng

Lượng thức ăn tiêu tốn chịu sự chi phối của nhiều yếu tố: khí hậu, nhiệt độ

môi trường, sức khoẻ của đàn lợn. Nhưng quan trọng nhất là mức năng lượng trao

đổi và protein trong khẩu phần. Nếu tỷ lệ ME/CP cao thì đàn lợn sẽ chậm lớn,

ngược lại tỷ lệ ME/CP thấp thì tiêu tốn protein sẽ lớn và làm cho giá thành sản

phẩm cao. Để cụ thể hơn tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối lượng của lợn thí nghiệm ở

các tuần tuổi, chúng tôi tính tiêu tốn Kcal năng lượng trao đổi (ME) và tiêu tốn

protein thô (CP) cho 1 kg tăng khối lượng nhằm xem xét hiệu quả chuyển hoá

dinh dưỡng của lợn thí nghiệm. Kết quả được trình bày ở bảng 3.11 và 3.12.

Bảng 3.11. Tiêu tốn năng lượng trao đổi cho tăng khối lượng (kcal/kg)

Lô TN Nghiệm thức 1 Nghiệm thức 2 SEM P Chỉ tiêu Lô 1 Lô 2 Lô 3 Lô 4 Lô 5 Lô 6

3645a 3392b 2908c 3620a 3337b 2852c 34,000 0,001 30- 60

4836a 4465c 3917e 4656b 4266d 3732f 35,500 0,001 60-90

8581a 7942d 8471b 8061c 7410e 7387e 35,300 0,001 90-120

11189a 10854c 11889b 10399d 9942e 9943e 69,900 0,001 120-150

7435a 6972c 6788d 7076b 6573e 6157f 12,300 0,001 30-150

Kết quả bảng 3.11 cho thấy, ở nghiệm thức 1 tiêu tốn năng lượng trao

đổi cho tăng khối lượng của cả ba lô đều sai khác nhau rõ rệt trong đó lô 1 có

mức khối lượng sơ sinh thấp nhất thì tiêu tốn năng lượng trao đổi cho 1kg tăng

khối lượng là cao nhất (trung bình 30 – 150 ngày tuổi là 7435 kcal/kg tăng

khối lượng). Lô 2 có mức khối lượng sơ sinh trung bình thì tiêu tốn năng lượng

trao đổi cho 1kg tăng khối lượng thấp hơn so với mức sơ sinh có khối lượng

thấp (trung bình 30 – 150 ngày tuổi là 6972 kcal/kg tăng khối lượng). Lô 3 có

mức khối lượng sơ sinh cao thì tiêu tốn năng lượng trao đổi cho 1kg tăng khối

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

lượng thấp hơn so với mức sơ sinh có khối lượng thấp và trung bình (trung

67

bình 30 – 150 ngày tuổi là 6788 kcal/kg tăng khối lượng). Kết quả so sánh

thống kê cả ba lô thí nghiệm đều có sai khác rõ rõ rệt (P < 0,001). Điều này,

chứng tỏ ảnh hưởng của mức khối lượng sơ sinh có ảnh hưởng đến tiêu tốn

năng lượng trao đổi cho tăng khối lượng của lợn. Ở nghiệm thức 2 cũng cho

kết quả tương tự.

So sánh hai nghiệm thức 1 và nghiệm thức 2, thì giai đoạn từ 30 – 60

ngày tuổi thì tiêu tốn năng lượng trao đổi cho tăng khối lượng của lợn của hai

nghiệm thức này là tương đương nhau không có sai khác rõ rệt (P > 0,05).

Giai đoạn từ 60 – 90; 90 – 120 ngày tuổi và 120 – 150 ngày tuổi thì lợn ở

nghiệm thức 2 (khẩu phần có bổ sung chế phẩm probiotic) có mức tiêu tốn

năng lượng trao đổi cho tăng khối lượng của lợn thấp hơn so với ở nghiệm

thức 1 (khẩu phần không bổ sung chế phẩm probiotic) với sai khác rõ rệt (P <

0,001). Điều này chứng tỏ bổ sung chế phầm probiotic có ảnh hưởng lớn đến

tiêu tốn năng lượng trao đổi cho tăng khối lượng của lợn.

Bảng 3.12. Tiêu tốn protein cho tăng khối lượng (g/kg)

Lô TN Nghiệm thức 1 Nghiệm thức 2 SEM P Chỉ tiêu Lô 1 Lô 2 Lô 3 Lô 4 Lô 5 Lô 6

219a 203b 174c 217a 200b 171c 2,040 0,001 30- 60

290a 268c 235e 279b 256d 224f 2,130 0,001 60-90

515a 476d 508b 484c 445e 443e 2,120 0,001 90-120

671b 651c 713a 624d 596e 597e 4,200 0,001 120-150

446a 418c 407d 425b 394e 369f 2,736 0,001 30-150

Kết quả bảng 3.12 cho thấy, ở nghiệm thức 1 tiêu tốn protein cho tăng

khối lượng của cả ba lô đều sai khác nhau rõ rệt trong đó lô 1 có mức khối

lượng sơ sinh thấp nhất thì tiêu tốn protein cho 1kg tăng khối lượng là cao nhất

(trung bình 30 – 150 ngày tuổi là 446 g/kg tăng khối lượng). Lô 2 có mức khối

lượng sơ sinh trung bình thì tiêu tốn protein cho 1kg tăng khối lượng thấp hơn

so với mức sơ sinh có khối lượng thấp (trung bình 30 – 150 ngày tuổi là 418 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

68

g/kg tăng khối lượng). Lô 3 có mức khối lượng sơ sinh cao thì tiêu tốn protein

cho 1kg tăng khối lượng thấp hơn so với mức sơ sinh có khối lượng thấp và

trung bình (trung bình 30 – 150 ngày tuổi là 407 g/kg tăng khối lượng). Kết

quả so sánh thống kê cả ba lô thí nghiệm đều có sai khác rõ rõ rệt (P < 0,001).

Điều này, chứng tỏ ảnh hưởng của mức khối lượng sơ sinh có ảnh hưởng đến

tiêu tốn protein cho tăng khối lượng của lợn. Ở nghiệm thức 2 cũng cho kết

quả tương tự.

So sánh hai nghiệm thức 1 và nghiệm thức 2, thì giai đoạn từ 30 – 60

ngày tuổi thì tiêu tốn protein cho tăng khối lượng của lợn của hai nghiệm

thức này là tương đương nhau không có sai khác rõ rệt (P > 0,05). Giai đoạn

từ 60 – 90; 90 – 120 ngày tuổi và 120 – 150 ngày tuổi thì lợn ở nghiệm thức 2

(khẩu phần có bổ sung chế phẩm probiotic) có mức tiêu tốn protein cho tăng

khối lượng của lợn thấp hơn so với ở nghiệm thức 1 (khẩu phần không bổ

sung chế phẩm probiotic) với sai khác rõ rệt (P < 0,001). Điều này chứng tỏ

bổ sung chế phầm probiotic có ảnh hưởng lớn đến tiêu tốn protein cho tăng

khối lượng của lợn.

3.2.7. Hiệu quả kinh tế của lợn thí nghiệm giai đoạn từ 30 – 150 ngày tuổi

Kết quả tính hiệu quả kinh tế trên 1 đầu lợn giai đoạn từ 30 – 150 ngày

tuổi được trình bày tại bảng 3.13

Bảng 3.13 cho thấy, chi phí thức ăn cho 1 lợn giai đoạn từ 30 – 150 ngày

tuổi trong cùng một nghiệm thức thì chi phí được xếp theo thứ tự từ cao xuống

thấp tương đương với mức khối lượng sơ sinh là mức khối lượng cao > mức

khối lượng trung bình > mức khối lượng thấp. So sánh giữa hai nghiệm thức có

bổ sung chế phẩm probiotic và không bổ sung chế phẩm probiotic thì lợn được

ăn khẩu phần có bổ sung chế phẩm probiotic cho chi phí cao hơn, so với lợn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

không ăn khẩu phần có chế phẩm probiotic. Nguyên nhân, là do mức khối

69

lượng sơ sinh càng cao thì lượng thức ăn tiêu tốn càng nhiều dẫn đến chi phí

thức ăn cũng tăng theo. Việc bổ sung chế phẩm probiotic đã tăng cường hệ vi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

sinh vật đường ruột giúp lợn ăn ngon hơn, tiêu hóa thức ăn được tốt hơn.

70

Bảng 3.13. Hiệu quả kinh tế của lợn trung bình cho 1 đầu lợn thí nghiệm giai đoạn từ 30 – 150 ngày tuổi

Chỉ tiêu Đơn vị Lô 1 Lô 2 Lô 3 Lô 4 Lô 5 Lô 6

3.408.500

3.476.500

3.510.500

3.544.500

3.578.500

3.588.700

A. chi phí trực tiếp cho 1 lợn giai đoạn từ 30 – 150 ngày tuổi

0

0

0

6.776

6.841

6.861

Thức ăn Đồng

20.000

18.500

16.000

15.000

12.000

9.500

Chế phầm probiotic Đồng

30.000

30.000

30.000

30.000

30.000

30.000

Thuốc thú y, Đồng

66.667

66.667

66.667

66.667

66.667

66.667

Vaxin, Đồng

29.630

29.630

29.630

29.630

29.630

29.630

Nhân công Đồng

Điện nước Đồng

Đồng Tổng chi

3.554.796

3.621.296

3.652.796

3.692.572

3.723.637

3.731.357

102,88

80,9

88,01

91,27

88,41

96,09

B. Tổng thu (1.000đ)

57.000

57.000

57.000

57.000

57.000

57.000

KL lợn hơi trung bình Kg/con

4.530.400

4.928.560

5.111.120

4.950.960

5.381.040

5.761.280

Đồng Giá bán/1kg thịt lợn hơi

Tổng thu Đồng

C. Hiệu quả kinh tế

975.604

1.307.264

1.458.324

1.258.388

1.657.403

2.029.923

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Thu - chi (B-A) Đồng

71

Ghi chú: Giá 1 kg thức ăn hỗn hợp là 17.000 đồng. Giá 1 kg chế phầm probiotic là 65.000 đồng, ∑KL thịt lợi hơi tăng tính từ

giai đoạn 30 – 150 ngày tuổi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

72

Vì giá lợn là tương đương nhau nhưng khối lượng thịt lợn hơi ở các mức

khối lượng sơ sinh khác nhau và lợn được ăn khẩu phần có chế phẩm probiotic

có khối lượng thịt lợn hơi cao hơn so với lợn không được ăn khầu phần có chế

phẩm probiotic nên ở cùng một nghiệm thức thì tổng thu được xếp theo thứ tự

từ cao xuống thấp tương đương với mức khối lượng sơ sinh là mức khối lượng

cao > mức khối lượng trung bình > mức khối lượng thấp. So sánh giữa hai

nghiệm thức có bổ sung chế phẩm probiotic và không bổ sung chế phẩ̀m

probiotic thì lợn được ăn khẩu phần có bổ sung chế phẩm probiotic cho tổng

thu cao hơn so với lợn không ăn khẩu phần có chế phẩm probiotic do có khối

lượng thịt lợn hơi cao hơn.

Xét về mặt kinh tế thì mức khối lượng cao sẽ cho hiệu quả kinh tế cao

nhất từ 1.458.324 – 2.029.923 đồng/con sau đó đến mức khối lượng trung bình

từ 1.307.264 – 1.657.403 đồng/con và thấp nhất là mức khối lượng sơ sinh thấp

từ 975.604 – 1.258.388 đồng/con. Tuy nhiên, trong chăn nuôi không thể chỉ

chọn nuôi lợn có khối lượng trung bình và cao mà loại bỏ lợn có khối lượng

thấp mà phải tăng năng suất sinh sản của lợn nái nhằm tăng khối lượng sơ sinh

của lợn con mới mang lại hiệu quả kinh tế tốt nhất. Ngoài ra, nếu sử dụng chế

phẩm probiotic cho lợn sẽ làm tăng hiệu quả kinh tế từ 282.784 – 571.599

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

đồng/con

73

KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ

1. Kết luận

Từ kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của mức khối lượng sơ sinh và bổ sung

chế phẩm probiotic với mức 0,5g/1 kg thức ăn cho lợn con giai đoạn SS - 30

và 30 - 150 ngày tuổi chúng tôi đưa ra một số kết luận sau:

* Đối với lợn con giai đoạn SS- 30 ngày tuôi:

Khối lượng sơ sinh ảnh hưởng rõ rệt tới tốc độ sinh trưởng của lợn con,

lợn có khối lượng sơ sinh mức trung bình (1,41-1,6kg/con) và cao (trên 1,6

kg/con) tốc độ sinh trưởng cao hơn tương ứng 8,7 – 9,2 % và 19,0 – 20,0 % so

với mức khối lượng lợn sơ sinh thấp (1,2-1,4kg/con). Đồng thời giảm tỷ lệ mắc

tiêu chảy từ 4 – 6% và 6 – 12 %; giảm tỷ lệ lợn chết do tiêu chảy từ 2,2 – 3,1

% và 2,8 – 7,2 % so với mức khối lượng lợn sơ sinh thấp.

Sử dụng khẩu phần có bổ sung chế phẩm probiotic đã làm tăng khối

lượng của lợn cao hơn từ 8,7 – 9,8 %; giảm tỷ lệ lợn con mắc tiêu chảy từ 12 -

18 %; giảm tỷ lệ lợn chết do tiêu chảy từ 0,3 – 5,6 % so với lợn không được ăn

khẩu phần có chế phẩm probiotic.

* Đối với lợn con giai đoạn từ 30 - 150 ngày tuổi:

Lợn có khối lượng sơ sinh trung bình và cao đã có tốc độ sinh trưởng cao

hơn 8,8 – 9,5 % và 12,8 – 17,9 % so với lợn có khối lượng sơ sinh thấp; tiêu

tốn thức ăn/kg tăng khối lượng thấp hơn từ 6,2 – 6,7 % và 8,6 – 12,3 %; hiệu

quả kinh tế cao hơn từ 331.660 – 399.015 đồng/con và 482.720 – 771.535

đồng/con tương ứng so với mức khối lượng lợn sơ sinh thấp.

Sử dụng khẩu phần có bổ sung chế phẩm probiotic đã làm tăng khối

lượng của lợn cao hơn từ 9,3 – 14,4 %; làm giảm tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối

lượng từ 4,8 – 8,4 %; làm tăng hiệu quả kinh tế từ 282.784 – 571.599 đồng so

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

với lợn không được ăn khẩu phần có chế phẩm probiotic.

74

2. Đề nghị

Để đạt được hiệu quả cao trong chăn nuôi lợn thì cần phải chọn lọc lợn bố

mẹ để đời con có khối lượng sơ sinh đạt cao nhất ngoài ra nên bổ sung chế

phẩm probiotic với mức 0,5g/ 1 kg thức ăn cho lợn để tăng cường hệ thống tiêu

hóa giảm tỷ lệ mắc bệnh đường ruột cho lợn con.

Việc bổ sung chế phẩm probiotic vào trong thức ăn của lợn con giai đoạn

tập ăn và giai đoạn sau cai sữa cần được tiếp tục nghiên để rút ra kết luận đầy

đủ hơn.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Bổ sung chế phẩm probiotic cần được tiến hành trên nhiều giống lợn khác nhau.

75

TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. Tài liệu tham khảo tiếng Việt

1. Nguyễn Lan Anh, Đinh Mỹ Hằng, Vũ Quỳnh Hương, Nguyễn Hương

Giang, Nguyễn Thị Lộc (2003), “Đặc điểm chủng vi khuẩn Lactobacillus

plantarum có ứng dụng trong công nghệ sản xuất nước CVAS”, Tuyển tập

báo cáo tại Hội nghị Công nghệ sinh học toàn quốc năm 2003, tr. 159-161.

2. Lê Thanh Bình, Phạm Thị Ngọc Lan, Yoshimi Benno (1999), “Tác dụng

tăng trưởng đối với gia cầm của chế phẩm vi sinh vật PRO 99”, Tuyển tập

báo cáo tại Hội nghị Công nghệ sinh học toàn quốc năm 1999, tr. 139-144.

3. Nguyễn Trung Chính (2016), Đánh giá khả năng sản xuất của một số tổ

hợp lai giữa 4 giống lợn Yorkshire Landrace, Duroc, Pietrain nuôi tại hợp

tác xã dịch vụ tổng hợp Hòa Mỹ, Ứng Hòa, Hà Nội, Luận án thạc sĩ Nông

nghiệp Trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên

4. Đỗ Trung Cứ, Trần Thị Hạnh và Nguyễn Quang Tuyên (2000), “Sử dụng

chế phẩm sinh học BioSubtyl để phòng và trị bệnh tiêu chảy ở lợn con

trước và sau cai sữa”, Tạp chí khoa học kỹ thuật thú y, Hội thú y Việt Nam

(số 1) tr 19.

5. Trần Cừ, Nguyễn Khắc Khôi (1985), Cơ sở khoa học và biện pháp nâng

cao năng suất của lợn, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.

6. Đào Trọng Đạt, Phan Thanh Phượng, Lê Ngọc Mỹ (1995), Bệnh đường

tiêu hóa ở lợn, Nxb Nông nghiệp - Hà Nội.

7. Nguyên Lân Dũng, Trần Đình Quyến và Phạm Văn Ty (1998), Vi sinh vật

học, Nxb Giáo dục.

8. Nguyễn Thị Hồng Hà, Lê Thiên Minh, Nguyễn Thùy Châu (2003),

“Nghiên cứu công nghệ sản xuất chế phẩm vi khuẩn lactic probiotic”,

Tuyển tập báo cáo tại Hội nghị Công nghệ sinh học toàn quốc năm 2003,

tr. 251-255.

9. Đậu Ngọc Hào, Phạm Minh Hằng (2000), “Ảnh hưởng của chế phẩm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Saccharomyces cervisiae đối với lợn con đang bú mẹ và lợn con sau cai

76

sữa”, Tạp chí khoa học kỹ thuật thú y (7).

10. Phạm Khắc Hiếu, Trương Quang và Hoàng Văn Kỳ (2002), “Nghiên cứu

tập IX (1), tr. 50.

tác dụng kháng khuẩn của chế phẩm EM1”, Tạp chí Khoa học kỹ thuật thú y,

11. Trần Thị Thu Hồng, Phạm Hồng Sơn, Trần Quang Vui, Đỗ Thị Lợi, Hoàng

Anh Tuấn (2009), “Hiệu quả sinh trưởng của lợn con sau cai sữa khi sử

dụng khẩu phần ăn có bổ sung vi khuẩn Lactobacillus fermentum”, Tạp chí

Khoa học, ĐH Huế, tr.55.

12. Võ Trọng Hốt, Trần Đình Miên, Võ văn Sự, Vũ Đình Tôn (2000), Giáo

trình chăn nuôi lợn, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.

13. Võ Trọng Hốt, Trần Đình Miên, Võ Văn Sự, Võ Đình Tôn, Nguyễn Khắc

Tích, Đinh Thị Nông (2000), Giáo trình Chăn nuôi lợn, Nxb Nông nghiệp,

Hà Nội.

14. Dương Mạnh Hùng (2007), Giáo trình giống vật nuôi, Trường Đại học

Nông Lâm, Đại học Thái Nguyên.

15. Lê Tấn Hưng, Võ Thị Hạnh, Lê Thị Bích Phượng, Trương Thị Hồng Vân,

Võ Minh Sơn (2003), “Nghiên cứu sản xuất chế phẩm probiotic BIO II và

kết quả thử nghiệm trên ao nuôi tôm”, Tuyển tập báo cáo tại Hội nghị

Công nghệ sinh học toàn quốc năm 2003, tr. 75-79.

16. Han Poong Industry Co.Ltd và công ty Thành Nhơn (2002), “Probiotic sử

dụng trong chăn nuôi gia súc, gia cầm”, Tài liệu hội thảo tại TPHCM.

17. Lã Văn Kính (1998), “Những tiến bộ khoa học kỹ thuật trong công nghệ

sản xuất thức ăn gia súc và vai trò của Probiotic đối với động vật”, Báo cáo

khoa học - Trung tâm thông tin khoa học và công nghệ, Sở Khoa học công

nghệ và môi trường TP. Hồ Chí Minh.

18. Phạm Ngọc Kính (2001), “Sử dụng chế phẩm vi sinh vật hữu hiệu (EM)

trong chăn nuôi lơn thịt”, Tạp chí Chăn nuôi, (4), tr. 5-7.

19. Khootenghuat (1995), “Những bệnh tiêu hoá và hô hấp ở lợn”, hội thảo Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

77

khoa học Hà Nội 10 - 11/3, 1995, cục thú y, tr 2 - 13.

20. Trương Lăng (2004), Cai sữa sớm lợn con, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.

21. Hồ Văn Nam, Trương Quang, Nguyễn Thị Đào Nguyên, Chu Đức Thắng,

Phạm Ngọc Thạch, Phùng Quốc Chướng, (1996) “Báo cáo viêm ruột lợn

con, đề tài cấp bộ”.

22. Nguyễn Tiến Mạnh (2012), Đánh giá khả năng sinh sản, sinh trưởng của 2

công thức lai giữa lợn nái F1(LxY) và F1(YxL) phối với đực PiDu nuôi

trong một số trang trại ở Ninh Bình, Luận văn thạc sĩ Nông nghiệp, Hà

Nội. – tên Mạnh

23. Trần Đình Miên, Nguyễn Kim Đường (1992), Chọn và nhân giống gia

cầm, Nxb Nông nghiệp, tr. 40 - 46.

24. Nguyễn Nghi, Nguyễn Kim Vũ, Nguyễn Thu Hà, Phạm Bích Hiền (1996),

“Nghiên cứu sử dụng vi sinh vật làm thức ăn bổ sung nhằm nâng cao hiệu

quả chăn nuôi gia súc gia cầm”, Hội thảo quốc gia về khoa học và phát

triển chăn nuôi đến năm 2000.

25. Nguyễn Như Pho và Trần Thu Thủy (2003), “Tác dụng của Các probiotic

đến bệnh tiêu chảy trên lợn con”, Hội nghị khoa học chăn nuôi thú y lần

IV, Đại học Nông Lâm TPHCM.

26. Trần Văn Phùng, Từ Quang Hiển, Trần Thanh Vân, Hà Thị Hảo, (2004),

Giáo trình Chăn nuôi lợn, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.

27. Đặng Minh Phước, Dương Thanh Liêm và Dương Duy Đồng (2010),

Nghiên cứu ứng dụng một số chế phẩm axit hữu cơ, probiotic, thảo dược

thay thế kháng sinh trong thức ăn lợn con cai sữa, Luận án Tiến sĩ Nông

nghiệp, chuyên ngành Chăn nuôi động vật Nông nghiệp, Trường ĐH Nông

Lâm TP. Hồ Chí Minh.

28. Cù Hữu Phú, nguyễn Ngọc Thiện, Vũ Bình Minh, Đỗ Ngọc Thuý (1999),

“Kết quả phân lập vi khuẩn E.coli và Salmonella ở lợn con mắc bệnh tiêu

chảy, xác định một số đặc tính sinh lý sinh hoá của các chủng vi khuẩn

phân lập được và biện pháp phòng trị”, Kết quả nghiên cứu khoa học kĩ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

78

thuật thú y, 1999, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.

29. Đoàn Văn Soạn và Đặng Vũ Bình (2011), “Khả năng sinh sản của các công

thức lai giữa nái lai F1 (LxY), F1(YxL) với đực Du và L19”, Tạp chí Khoa

học và Phát triển, 9 (4), tr. 614 - 621.

30. Bạch Quốc Thắng, Đỗ Ngọc Thúy, Cù Hữu Phú, Nguyễn Ngọc Thiện

(2010), “Khảo sát một số đặc tính của vi khuẩn Lactobacillus trong điều

kiện in vitro”, Tạp chí Khoa học kỹ thuật thú y, XVII (6).

31. Phạm Tất Thắng, Lã Văn Kính và Nguyễn Như Pho (2011), Nghiên cứu sử

dụng probiotic, axit hữu cơ, chế phẩm thảo dược làm chất bổ sung thay thế

kháng sinh trong thức ăn cho lợn thịt, Luận án Tiến sĩ Nông nghiệp,

chuyên ngành Chăn nuôi động vật Nông nghiệp, Viện Khoa học Kỹ thuật

Nông nghiệp miền Nam.

32. Nguyễn Quang Tuyên (2000), “Sử dụng chế phẩm vi sinh vật Probiotic -

Lacto Bacillus axitophilus trong việc phòng và điều trị bệnh tiêu chảy ở lợn

con từ 21 - 60 ngày tuổi tại Trại thực tập Trường Đại học Nông lâm Thái

Nguyên”, kết quả nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ, Nxb

Nông Nghiệp, Hà Nội, tr 267- tr 271.

33. Nguyễn Quang Tuyên (2008), Giáo trình vi sinh vật thú y, Nxb Nông

nghiệp, Hà Nội.

34. Hoàng Toàn Thắng, Cao Văn (2006), Giáo trình sinh lý học vật nuôi, Nxb

Nông nghiệp, Hà Nội.

35. Nguyễn Văn Thắng, Vũ Đình Tôn (2010), “Năng suất sinh sản, sinh

trưởng, thân thịt và chất lượng thịt của các tổ hợp lai giữa lợn nái

F1(Landrace x Yorkshire) với đực giống Landrace, Duroc và (Pietrain x

Duroc)”, Tạp chí Khoa học và Phát triển 2010, Trường Đại học Nông

nghiệp, Hà Nội, 8(1), tr. 98-105

36. Chu Đức Thắng (1997), Một số chỉ tiêu sinh lý, sinh hoá, lâm sàng trong

bệnh viêm ruột lợn con sau cai sữa, Luận án PTS khoa học Nông nghiệp Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

79

Hà Nội, tr 10.

37. Nguyễn Thiện, Võ Trọng Hốt, Nguyễn Khánh Quắc, Nguyễn Duy Hoan

(1998), Giáo trình Chăn nuôi lợn dùng cho sau đại học, Nxb Nông nghiệp,

Hà Nội.

38. Ngô Thị Hồng Thịnh (2008), Sử dụng chế phẩm BIOSAF (Probiotic) trong

khẩu phần lợn nái nuôi con và lợn con giống ngoại từ tập ăn đến cai sữa,

Luận văn thạc sĩ khoa học nông nghiệp chuyên nghành chăn nuôi thú y,

Trường ĐHNNI- Hà Nội.

39. Trần Thị Thu Thuỷ (2003), Khảo sát tác dụng thay thế kháng sinh của

Probiotic trong phòng ngừa tiêu chảy do E.coli trên lợn con, Luận văn thạc

sĩ nông nghiệp, Trường ĐHNL- TPHCM.

40. Lưu Thị Uyên (1999), Sự biến động của một số loại vi khuẩn hiếu khí

thường gặp trong đường ruột của lợn bình thường và lợn mắc hội chứng

tiêu chảy dưới ảnh hưởng của chế phẩm EM (Effective Microorganisms).

Luận văn Thạc sĩ Khoa học Nông nghiệp, chuyên ngành Thú y, Trường

ĐH Nông nghiệp I Hà Nội, tr. 30, 31, 68, 82.

41. Phùng Thị Vân, Trần Thị Hồng, Hoàng Thị Phi Phượng và Lê Thế Tuấn

(2000), “Nghiên cứu khả năng sinh sản của lợn nái L và Y phối chéo

giống, đặc điểm sinh trưởng, khả năng sinh sản của lợn nái lai F1(LY) và

F1(YL) x đực D”, Báo cáo khoa học Chăn nuôi thú y năm1999 - 2000

(Phần chăn nuôi gia súc), TP. Hồ Chí Minh 10 - 12 tháng 4/2001.

42. Trần Quốc Việt (2006 - 2009), Nghiên cứu sản xuất Các probiotic và

enzym tiêu hóa dùng trong chăn nuôi, Báo cáo tại hội nghị đoàn thể.

Agrobiotech.gov.vn.

43. Trần Quốc Việt, Bùi Thị Thu Huyền, Ninh Thị Len, Nguyễn Thị Nhung,

Lê Văn Huyên, Đào Đức Kiên (2007), “Ảnh hưởng của việc bổ sung

probiotic vào khẩu phần đến khả năng tiêu hoá thức ăn, tốc độ sinh

trưởng, hiệu quả sử dụng thức ăn và tỷ lệ mắc bệnh tiêu chảy của lợn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

con và lợn thịt”, Báo cáo khoa học năm 2006, phần thức ăn dinh dưỡng.

80

Viện chăn nuôi.

44. Tạ Thị Vịnh và Đặng Thị Hoè (2002), “Một số kết quả sử dụng các chế

phẩm sinh học để phòng trị bệnh tiêu chảy ở lợn con”. Tạp chí khoa học kỹ

thuật thú y.

45. Nguyễn Hữu Vũ, Nguyễn Đức Lưu, Nguyễn Văn Chí (1999), Một số bệnh

quan trọng ở lợn, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.

II. Tài liệu tiếng Anh

46. Bohl. E. H, “Rotavital diarhorea in pig”. Briefrevieue. J. Amer vett.

Med. (1979), Assoc. 613 - 615.

47. Barnes D.M, SorensenKD (1997), “Salmonellosis Diseases of swine 4th”.

Edition Lowastate Unversity press.

48. Campell R. G. and Dunkin (1983), "The efect of energy intake and

dietaryprotein on nitrogen retention growth performace body composition

and some aspect of energy metabolims of baby pig", Br. J. Nutr. 49, pp. 21.

49. Chambers J. R. (1990), “Genetic of growth and meat production in

chicken”, Part IV - Poultry breeding and genetic, Edited by R. D.

Crawford - Elsevier - Amsterdam - Oxford - Newyork - Tokyo (second

edited), pp. 599, 627 - 628.

50. Doyle Ellin M: (2001), Alternatives to Antibiotic Use for Growth

promotion in Animal Husbandry. Food Research Institute.

51. Fuller, R. (1989), “Probiotic in man and animal. Journal of Applied

Bcteriology”.

52. Glawisching E, BaccherH (1992), The Effecciency Ecostat on E.coli in

feeted weaning pigs 12th IPVS congress, August.

53. Hadani, A. and Ratner, D. (2002), “Probactrix probiotic in the prevention

diarrhoea of piglet”. Israel Veterinary Madical Association.

54. Henrich. S (2006), “Acute pancreatitis: ABCs”, Ann Surg, 243, pp.154-168.

55. Kiriakis SC, Tsiloyiannis, V.K., Vlemmas, J., (1999). “The effect of

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

probiotic LSP 122 on the control of post- weaning diarrhoea syndrome of

81

piglets”. Research in Veterinary Science 67 (3): 223- 228.

56. Scheuemann S.E (1993), “Effeet of the probiotic paciflo (CIP 5832) on

energy and protein metabolism in growing pigs”. Anim feed Sci. Tech

57. Wang, A.N., Yu, H.F, Gao, X., Li., X.J., Qiao, S.Y.(2009), “Influence of

Lactobacillus fermentum I5007 on the intestinal and systemic immune

responses of health and E.coli challenged piglet”, Antonie van

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Leeuwenhoek, (96), pp. 89-98.

MỘT SỐ HÌNH ẢNH NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI

Ảnh 1: Tiến hành cân lợn giai đoạn 14 ngày tuổi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Ảnh 2: Lô đối chứng (lô 2) giai đoạn 60 ngày tuổi