ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

PHẠM VĂN MINH

ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG SINH SẢN CỦA LỢN NÁI

LAI [♂ (RỪNG x MƯỜNG) x ♀ (ĐEN HÒA BÌNH)]

VÀ KHẢ NĂNG SINH TRƯỞNG CỦA CON LAI

GIAI ĐOẠN SAU CAI SỮA NUÔI TẠI

HUYỆN LẠC SƠN, TỈNH HÒA BÌNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHĂN NUÔI

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

THÁI NGUYÊN - 2019

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

PHẠM VĂN MINH

ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG SINH SẢN CỦA LỢN NÁI

LAI [♂ (RỪNG x MƯỜNG) x ♀ (ĐEN HÒA BÌNH)]

VÀ KHẢ NĂNG SINH TRƯỞNG CỦA CON LAI

GIAI ĐOẠN SAU CAI SỮA NUÔI TẠI

HUYỆN LẠC SƠN, TỈNH HÒA BÌNH

Chuyên ngành : Chăn nuôi

Mã số: 8.62.01.05 LUẬN VĂN THẠC SĨ CHĂN NUÔI

Người hướng dẫn khoa học: TS. HÀ VĂN DOANH

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

THÁI NGUYÊN - 2019

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan những số liệu, kết quả nghiên cứu trong luận văn này

là trung thực và chưa hề được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.

Tôi cũng cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn

này đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn này đều đã được

chỉ rõ nguồn gốc./.

Tác giả luận văn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Phạm Văn Minh

ii

Trong quá trình học tập và nghiên cứu để hoàn thành luận văn tốt nghiệp ngoài

sự nỗ lực, cố gắng của bản thân, tôi đã nhận được sự giúp đỡ, hướng dẫn, chỉ bảo và

động viên của thầy cô, bạn bè và gia đinh.

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Hà Văn Doanh người đã trực tiếp

hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt thời gian thực hiện đề tài cũng như trong quá

trình hoàn chỉnh luận văn tốt nghiệp.

Tôi xin chân thành cảm ơn tới các thầy cô trong Khoa Chăn nuôi thú y đã hướng

dẫn và hỗ trợ tôi trong suốt thời gian qua.

Tôi xin chân thành cảm ơn gia đình anh Bùi Ngọc Đủi, xã Bình Chân huyện

Lạc Sơn tỉnh Hòa Bình đã tạo điều kiện để giúp đỡ tôi học tập, nghiên cứu và hoàn

thành luận văn.

Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, người thân, bạn bè đã luôn động

viên, chia sẻ giúp đỡ tôi trong những lúc khó khăn trong quá trình học tập, nghiên

cứu và hoàn thành luận văn.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

Thái Nguyên, ngày 26 tháng 9 năm 2019

LỜI CẢM ƠN

Học viên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Phạm Văn Minh

iii

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................. i

LỜI CẢM ƠN .................................................................................................. ii

MỤC LỤC ....................................................................................................... iii

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ................................................................ v

DANH MỤC CÁC BẢNG ............................................................................. vi

DANH MỤC CÁC HÌNH ............................................................................. vii

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................ 1

2. Mục tiêu của đề tài ........................................................................................ 2

3. Ý nghĩa khoa học và ứng dụng của đề tài ..................................................... 2

Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU ............................................................ 3

1.1. Cơ sở khoa học của vấn đề nghiên cứu ...................................................... 3

1.1.1. Cơ sở của sự lai tạo giống và ưu thế lai .................................................. 3

1.1.2. Cơ sở sinh lý của sự sinh sản, yếu tố ảnh hưởng đến năng suất

sinh sản ở lợn cái ............................................................................................... 5

1.1.3. Cơ sở sinh lý của sự sinh trưởng và các yếu tố ảnh hưởng

tới khả năng sinh trưởng.................................................................................. 16

1.1.4. Vai trò thức ăn dinh dưỡng đối với chăn nuôi lợn rừng ....................... 24

1.2. Đặc điểm và tính năng sản xuất của đối tượng nghiên cứu ..................... 27

1.3. Tình hình nghiên cứu ở ngoài nước và trong nước: ................................. 30

1.3.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước ......................................................... 30

1.3.2. Tình hình nghiên cứu trong nước .......................................................... 31

Chương 2. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, NỘI DUNG

VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ......................................................... 35

2.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................ 35

2.1.1. Đối tượng nghiên cứu: .......................................................................... 35 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

iv

2.1.2. Phạm vi nghiên cứu: Chỉ trong một trang trại ...................................... 35

2.1.3. Địa điểm và thời gian nghiên cứu ......................................................... 35

2.2. Nội dung nghiên cứu ................................................................................ 35

2.3. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................... 36

2.3.1. Mô tả thí nghiệm lợn khảo sát trong đề tài ........................................... 36

2.3.2. Các chỉ tiêu theo dõi lợn nái và công thức tính .................................... 37

2.3.3. Các chỉ tiêu đánh giá lợn thương phẩm và công thức tính ................... 38

2.3.4. Phương pháp xử lý số liệu ..................................................................... 39

Chương 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN ................................................... 40

3.1. Kết quả theo dõi về sinh lý sinh dục và khả năng sinh sản

của lợn nái lai (RMĐ) ..................................................................................... 40

3.1.1. Kết quả theo dõi về sinh lý sinh dục của lợn nái lai (RMĐ) ................ 40

3.1.2. Kết quả theo dõi khả năng sinh sản của lợn nái (RMĐ) ....................... 42

3.1.2.2. Kết quả theo dõi ở lứa 2 ..................................................................... 44

3.1.3. Kết quả xác định hệ số tương quan giữa các chỉ tiêu sinh sản

của lợn nái lai (RMĐ) ..................................................................................... 48

3.2. Kết quả theo dõi khả năng sinh trưởng của lợn con giai đoạn

sau cai sữa của lợn thương phẩm .................................................................... 51

3.2.1. Khả năng sinh trưởng tích lũy của lợn thương phẩm ........................... 52

3.2.2. Sinh trưởng tuyệt đối của lợn thương phẩm ......................................... 54

3.2.3. Sinh trưởng tương đối của lợn thương phầm ........................................ 56

3.2.4. Tiêu tốn thức ăn của lợn con sau cai sữa .............................................. 57

3.2.5. Sơ bộ tính hiệu quả kinh tế trong chăn nuôi lợn con ............................ 59

KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ ........................................................................... 60

1. Kết luận ....................................................................................................... 60

2. Đề nghị ........................................................................................................ 60

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 61

v

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Cai sữa CS:

Đơn vị tính ĐVT:

Grand Parents GP:

Great Grand Parents GGP:

Hòa Bình HB:

Khối lượng KL:

Khối lượng cai sữa KLCS:

Khối lượng sơ sinh KLSS:

Landrace L:

Large White LW:

Lợn Mường M:

Parents P:

Lợn rừng R:

RM: Lai lợn rừng với lợn Mường (1/2 R + 1/2 M)

RMĐ: Lai 3 máu Rừng, mường, đen Hòa Bình

SS: Sơ sinh

TLNS: Tỷ lệ nuôi sống đến cai sữa

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

TTTĂ: Tiêu tốn thức ăn

vi

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 1.1. Một số chỉ tiêu về sinh lý sinh sản của lợn rừng Thái Lan và

Việt Nam ............................................................................................... 33

Bảng 3.1: Một số chỉ tiêu sinh lý sinh dục của lợn nái lai ................... 40

Bảng 3.2. Kết quả theo dõi ở lứa 1........................................................ 42

Bảng 3.3. Khả năng sinh sản của lợn nái lai (RMĐ) đẻ lứa thứ 2 ......... 44

Bảng 3.4. Khả năng sinh sản của lợn nái lai (RMĐ) qua 2 lứa đẻ ........ 47

Bảng 3.5. Hệ số tương quan giữa các chỉ tiêu sinh sản của lợn nái ...... 49

Bảng 3.6. Khả năng sinh trưởng tích lũy của lợn thương phẩm .......... 53

Bảng 3.7. Khả năng sinh trưởng tuyệt đối của lợn thương phẩm ......... 55

Bảng 3.8. Khả năng sinh trưởng tương đối của lợn thương phẩm ........ 56

Bảng 3.9. Tiêu tốn thức ăn của lợn con sau cai sữa .............................. 58

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Bảng 3.10: Sơ bộ tính hiệu quả kinh tế ................................................ 59

vii

DANH MỤC CÁC HÌNH

Hình 3.1: Đồ thị sinh trưởng tích lũy của lợn thí nghiệm .................................... 54

Hình 3.2: Biểu đồ sinh trưởng tuyệt đối của lợn thí nghiệm ................................ 56

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Hình 3.3: Biểu đồ sinh trưởng tương đối của lợn thí nghiệm .............................. 57

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Hiện nay chăn nuôi lợn ở nước ta đã đạt được những bước tiến vượt bậc, nhờ

phát triển nhanh về khoa học và kỹ thuật nên sản lượng thịt không ngừng tăng cao,

thậm chí đôi lúc cung còn vượt hơn cầu. Chính từ đó, người ta đã chú trọng đến chất

lượng thịt phải ngon, đặc sản hơn so với thịt lợn nuôi thông thường.

Để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng, nhiều cơ sở chăn

nuôi đã đưa giống lợn rừng vào sản xuất tại các trang trại và đã thành công lớn, tuy

nhiên yếu tố đưa đến thành công là lợn rừng đã được nghiên cứu, lai tạo với một số

giống lợn địa phương hay các giống lợn khác nhằm nâng cao được khả năng sinh

sản, hạ giá thành nhưng vẫn giữ được phẩm chất thịt của lợn rừng.

Các địa phương đều có thế mạnh riêng về các giống lợn bản địa, riêng

huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình có giống lợn Mường địa phương, lợn đen Hòa

Bình với nhiều ưu điểm phẩm chất thịt khá tốt, khả năng sinh sản khá hơn lợn

rừng, do vậy nếu kết hợp được các đặc tính tốt về chất lượng thịt của lợn rừng

và khả năng sinh sản của lợn Mường, lợn đen Hòa Bình thì khả năng sẽ có hiệu

quả cao hơn.

Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có các nghiên cứu nhằm đánh giá một

cách cơ bản và toàn diện về lợn Rừng lai với lợn Mường, lợn đen Hòa Bình. Các

nghiên cứu nhằm quản lý và khai thác tiềm năng của lợn Mường, lợn đen Hòa

Bình vào việc phát triển đa dạng hệ thống giống trong chăn nuôi, phù hợp với

sinh thái và trình độ sản xuất của từng vùng cũng chưa được thực hiện. Từ những

lý do nêu trên, để có các số liệu khoa học phục vụ cho công tác bảo tồn, khai

thác nguồn gen lợn Mường, lợn đen Hòa Bình cũng như tư vấn cho các cơ sở

chăn nuôi, chúng tôi đã hợp tác với Trang trại chăn nuôi lợn Ngọc Đủi tại xã

Bình Chân, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình tiến hành lai tạo và xem xét đánh giá

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

hiệu quả của một số công thức lai giữa lợn Rừng và lợn Mường, lợn đen Hòa

2

Bình tại địa phương để rút ra kết luận tốt nhất.

Xuất phát từ thực tiễn đó chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: "Đánh

giá khả năng sinh sản của lợn nái lai [♂ (Rừng x Mường) x ♀ (Đen Hòa

Bình)] và khả năng sinh trưởng của con lai giai đoạn sau cai sữa nuôi tại

huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình”

2. Mục tiêu của đề tài

- Đánh giá khả năng sinh sản của lợn nái lai 3 máu nuôi tại huyện Lạc Sơn,

tỉnh Hòa Bình” nhằm nâng cao năng xuất sinh sản cho đàn nái của trại.

- Xác định khả năng sinh trưởng và tiêu tốn thức ăn của con lai thương

phẩm giai đoạn sau cai sữa.

3. Ý nghĩa khoa học và ứng dụng của đề tài

- Tư vấn cho các hộ chăn nuôi để định hướng sản xuất.

- Kết quả nghiên cứu của đề tài làm tài liệu tham khảo cho các nghiên cứu

khoa học tiếp theo về các giống lợn.

- Tạo cơ sở cho nghành chăn nuôi lợn của huyện nhà phát triển.

- Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ cung cấp các thông tin về khả năng thích

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

nghi, khả năng sản xuất của lợn mường nuôi tại huyện Lạc Sơn tỉnh Hòa Bình.

3

Chương 1

TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Cơ sở khoa học của vấn đề nghiên cứu

Bản chất sinh học của mỗi giống vật nuôi được thể hiện qua kiểu hình đặc

trưng riêng của nó. Kiểu gen, dưới tác động của môi trường sẽ biểu hiện thành

kiểu hình tương ứng của vật nuôi đó. Để công tác chọn lọc giống vật nuôi đạt

kết quả tốt, trước hết cần có những kiến thức cơ bản về di truyền, đặc biệt là bản

chất của di truyền và ưu thế lai của từng tính trạng.

1.1.1. Cơ sở của sự lai tạo giống và ưu thế lai

1.1.1.1. Bản chất di truyền của ưu thế lai

Lai giống là phương pháp nhân giống bằng cách cho đực giống và cái

giống thuộc hai quần thể khác nhau phối giống với nhau, hai quần thể này có

thể là hai dòng, hai giống, hai loài khác nhau. Do đó đời con của chúng mang

đặc tính của bố mẹ nó. Lai giống có tác dụng mang lại ưu thế lai ở đời con

một số tính trạng nhất định.

Mức độ ưu thế lai của một tính trạng năng suất được xác định như sau:

1/2 (AB + BA) - 1/2 (A + B) H (%) = x 100 1/2 (A + B)

Trong đó: 1/2 (AB) là trung bình của con, A là bố, B là mẹ.

1/2 (BA) là trung bình của con, B là bố, A là mẹ.

1/2 (A + B) là trung bình bố mẹ.

Như vậy sẽ không có ưu thế lai khi năng suất của con lai chỉ bằng năng

suất của chính bố mẹ chúng.

Bản chất hiện tuợng ưu thế lai được Nguyễn Văn Thiện (1995) giải thích

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

bởi ba thuyết đó là thuyết trội, thuyết siêu trội và thuyết át gen.

4

- Thuyết trội: Các gen có lợi phần lớn là gen trội, con lai tập hợp được

nhiều gen trội hơn bố mẹ, các tính trạng về năng suất sinh sản, sinh trưởng và

cho thịt là những tính trạng số lượng do nhiều kiểu gen điều khiển vì vậy ít khi

có đồng hợp tử, thế hệ con lai tạo ra giữa hai cá thể được biểu hiện do các gen

trội của bố và mẹ.

- Thuyết siêu trội: Hiệu quả của một alen trạng thái dị hợp tử sẽ khác với

hiệu quả từng alen ở trạng thái đồng hợp tử và các alen di hợp tử có tác động lớn

hơn các cặp alen đồng hợp tử Aa > AA > aa. (Theo Shull, 1952)

- Thuyết át gen cho rằng hai giống đã hình thành nên các công thức gen

mới trong đó có tác động tương hỗ giữa các alen không cùng locut là nguyên

nhân tạo ra ưu thế lai.

1.1.1.2. Ưu thế lai trong chăn nuôi lợn

Nhiều kết quả nghiên cứu và thực tế chăn nuôi lợn cho thấy việc lai giống đã

mang lại hiệu quả kinh tế cho ngành chăn nuôi lợn. Hiện nay trên thế giới những

nước phát triển chăn nuôi lợn có tới 90 % con giống thương phẩm là con lai. Tuy

nhiên việc kết hợp giữa hai giống nào có ưu thế cao phụ thuộc vào sự chọn lựa, xác

định ưu thế lai của công thức lai dựa trên giá trị giống.

Theo nghiên cứu của William (1997) ở lợn có ba loại ưu thế lai:

- Ưu thế lai ở lợn mẹ có lợi cho các cá thể đời con, là ưu thế lai quan trọng

nhất bởi vì năng suất sinh sản phụ thuộc vào số đầu con cai sữa/lứa, đây là chỉ

tiêu kinh tế quan trọng nhất.

- Ưu thế lai của con có lợi cho chính bản thân chúng, thể hiện ở sự tăng

khối lượng, sức sống, đặc biệt là sau cai sữa.

- Ưu thế lai về đực giống được tạo thành từ bố thể hiện thông qua con đực

từ kết quả giao phối, ưu thế lai của đực giống được thể hiện rất hạn chế. So sánh

về năng suất sinh sản của lợn cái lai (L x LW) phối với đực thuần và đực lai,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Gineva và cs (1999) cho thấy kiểu gen của lợn đực giống không ảnh hưởng đến

5

chỉ tiêu số con đẻ ra và số lượng con sống đến 21 ngày tuổi, song khối lượng lợn

con sơ sinh của đực giống lai cao hơn đực giống thuần.

Ưu thế lai đạt được ở các chỉ tiêu năng suất là khác nhau phụ thuộc vào

phương pháp lai, giữa các cặp lai ưu thế lai thể hiện cao đối với các chỉ tiêu

sinh sản, thể hiện trung bình đối với các chỉ tiêu vỗ béo và thấp đối với các

chỉ tiêu giết thịt.

Để lợn lai nuôi thịt có khả năng sinh trưởng cao và tiêu tốn thức ăn thấp, tỷ

lệ nạc cao, hiện nay hệ thống sản xuất con lai được tổ chức theo sơ đồ hình tháp

nhằm thực hiện các công thức lai giữa nhiều dòng, giống khác nhau, hệ thống

sản xuất con lai được tổ chức như sau:

- Đàn cụ, kỵ (GGP) có nhiệm vụ nhân các dòng, giống thuần.

- Đàn ông, bà (GP) lai giữa hai dòng, giống thuần với nhau tạo ra đời ông

bà. Nếu dùng công thức lai giữa bốn dòng giống khác nhau, cần có hai đàn ông

bà khác nhau, một đàn ông bà tạo ra đàn bố, còn đàn kia tạo ra đàn mẹ. Nếu sử

dụng công thức lai giữa ba dòng khác nhau, chỉ cần một đàn ông bà, đàn này

thường dùng để tạo ra đàn mẹ, còn đàn bố thường là dòng, giống thuần trong

đàn cụ, kỵ.

- Đàn bố, mẹ (P) lai giữa hai đàn bố mẹ tạo ra đời con là con lai giữa ba

hay bốn dòng giống khác nhau.

- Đàn thương phẩm các con lai giữa ba hay bốn dòng giống khác nhau được

nuôi để sản xuất thịt.

Năng suất chăn nuôi lợn phụ thuộc rất nhiều vào công tác giống, để có năng

suất cao chất lượng sản phẩm tốt công tác giống phải là vấn đề then chốt. Để có

công thức lai tốt, nguyên liệu lai chính là các con giống thuần ở đàn hạt nhân,

do đó chọn giống trong đàn hạt nhân sẽ quyết định cho năng suất chăn nuôi lợn.

1.1.2. Cơ sở sinh lý của sự sinh sản, yếu tố ảnh hưởng đến năng suất sinh sản

ở lợn cái

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

1.1.2.1. Những đặc điểm sinh lý sinh sản của lợn cái

6

* Đặc điểm cấu tạo bộ máy sinh dục lợn cái

Cấu tạo cơ quan sinh dục của lợn cái bao gồm: Buồng trứng, ống dẫn

trứng, tử cung (cổ, thân và sừng tử cung), âm đạo và các cơ quan bên ngoài.

- Buồng trứng: Khác với dịch hoàn, buồng trứng nằm trong xoang bụng,

phát triển thành một cặp. Buồng trứng lợn cái có dạng chùm nho, khối lượng

một buồng trứng là 4 - 7 g. Ở lợn trưởng thành, buồng trứng có 10 - 25 nang

trứng thành thục, đường kính nang là 8 - 12 mm, thể vàng thành thục có hình

cầu hoặc hình trứng đường kính 5 - 10 mm.

- Ống dẫn trứng: Được chia thành 4 đoạn: Tua diềm, phễu, phồng ống dẫn

trứng và eo. Ống dẫn trứng có một chức năng duy nhất là vận chuyển trứng và

tinh trùng theo một hướng ngược chiều nhau, hầu hết là đồng thời. Phồng ống dẫn

trứng là nơi xảy ra sự thụ tinh. Ống dẫn trứng cung cấp điều kiện ngoại cảnh thuận

lợi nhất của các giao tử và cho sự phát triển ban đầu của phôi.

- Tử cung: Gồm có 2 sừng, một thân và một cổ tử cung. Tử cung lợn thuộc

loại 2 sừng, các sừng gấp nếp hoặc quấn loại và có độ dài đến hơn 1m. Độ dài

này thích hợp cho việc mang thai nhiều. Ở lợn trưởng thành, trung bình các sừng

tử cung dài 40 - 45 cm, thân tử cung 5cm, cổ tử cung dài 10cm và có đường kính

ngoài 2 - 3 cm. Tử cung có nhiều chức năng. Nội mạc tử cung và các dịch tử cung

giữ vai trò chủ chốt trong quá trình sản xuất bao gồm các chức năng sau: Vận

chuyển tinh trùng, điều hòa chức năng của thể vàng, là nơi làm tổ của phôi, thực

hiện các chức năng chửa đẻ.

- Âm đạo: Có cấu tạo như một ống cơ có thành dầy, dài 10 - 12 cm. Đây

là cơ quan giao cấu của lợn cái, là ống thải của dịch cổ tử cung, nội mạc tử cung

và ống dẫn trứng, đồng thời cũng là đường cho thai ra ngoài khi đẻ.

- Bộ phận sinh dục bên ngoài: Là phần có thể sờ thấy và quan sát được,

bao gồm: Âm môn, âm vật và tiền đình.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

* Đặc điểm sinh lý của lợn nái hậu bị

7

Gia súc phát triển đến một giai đoạn nhất định thì có biểu hiện về tính

dục. Lợn nái khi thành thục về tính sẽ xuất hiện các triệu chứng động dục và

kèm theo quá trình rụng trứng. Đồng thời lợn nái hậu bị vẫn tiếp tục sinh trưởng

đề thành thục về thể vóc. Tuy nhiên trong giai đoạn xảy ra chu kì động dục lợn

nái hậu bị thường bị giảm mức tăng trọng so với bình thường.

Chu kì động dục của lợn nái được chia thành 4 giai đoạn khác nhau:

- Giai đoạn trước động dục: Lúc này buồng trứng của lợn nái bắt đầu có

các noãn phát triển, đồng thời buồng trứng tăng cường tiết Oestrogen, bầu vú

cũng dần phát triển. Giai đoạn này kéo dài từ 2 - 3 ngày.

- Giai đoạn động dục: Buồng trứng có các noãn bao, bắt đầu chín và chuẩn

bị rụng. Đồng thời kèm theo các triệu chứng bên ngoài như lợn bắt đầu kêu la,

phá chuồng, bỏ ăn và đi tìm con đực. Âm hộ dần dần sưng lên và xuất hiện màu

cà chua chín và chuyển sang màu mận chín và lúc này trứng chín rụng xuống

loa kèn. Lợn ở vào trạng thái mê ì. Thời gian này thường kéo dài từ 3 - 5 ngày.

- Giai đoạn sau động dục: Lợn bắt đầu trở lại bình thường, các triệu chứng

động dục giảm dần và hết động dục. Thời gian kéo dài từ 1 - 2 ngày.

- Giai đoạn yên tĩnh: Đây là giai đoạn lợn chuẩn bị cho một chu kì tiếp

theo. Thời gian khoảng từ 8 - 9 ngày.

* Đặc điểm chu kỳ động dục:

Lợn nái khi thành thục về tính, chúng có chu kỳ động dục và mỗi chu kỳ

trung bình là 21 ngày (biến động từ 18 - 25 ngày). Chu kỳ của lợn nái phụ thuộc

vào các yếu tố khác nhau:

- Ảnh hưởng của giống: Giống khác nhau có chu kỳ động dục khác nhau:

Lợn ỉ, từ 19 - 21 ngày lợn Móng Cái từ 18 - 25 ngày.

- Ảnh hưởng của tuổi: Nái tơ thì có chu kỳ tính thường ngắn hơn lợn nái

trưởng thành. Lợn nái ở lứa đẻ thứ 2, thứ 3 thì chu kỳ tính trung bình là 20,8

ngày, lứa 6 - 7 là 21,5 ngày; lứa 8 - 9 là 22,4 ngày. Khi theo dõi sinh sản trên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

lợn ỉ thấy ở lứa thứ nhất chu kỳ tính 19 ngày, lứa thứ 2 là 20 ngày (Phạm Hữu

8

Doanh, Lưu Kỷ, 1996). Thời gian động dục lần đầu thường ngắn hơn những lần

sau, đồng thời thường không có trứng rụng hoặc trứng rụng rất ít, kích thước tế

bào trứng nhỏ hơn những lần sau. Đường kính của tế bào trứng lợn nái 6 tháng

tuổi là 146 µm, 10 tháng tuổi là 157µm, 4 năm tuổi là 166 µm.

- Ảnh hưởng của dinh dưỡng: Nếu dinh dưỡng tốt thì chu kỳ tính ổn định

và ngược lại.

- Trong thời gian động dục lợn nái có sự rụng trứng, từ đó liên quan đến

sự thụ thai, chửa và đẻ.

Thời gian của động dục được chia làm 3 giai đoạn:

Giai đoạn 1: Từ khi bắt đầu động dục đến lúc chịu đực (T1), đây là giai

đoạn các triệu chứng động dục bắt đầu xuất hiện, dưới tác động của các hormone

sinh dục cái tế bào trứng phát triển và chuẩn bị chín và rụng. Lợn nái ở giai đoạn

này thường hoạt động mạnh, tìm kiếm con đực, bỏ ăn phá chuồng và kêu la. Giai

đoạn này kéo dài từ 1 - 2 ngày.

Giai đoạn 2: Từ khi chịu đực đến lúc hết chịu đực (T2).

Giai đoạn 3: Từ khi hết chịu đực đến khi hết biểu hiện động dục (T3).

Từ đặc điểm động dục trên đây của lợn nái, chúng ta có thể xác định thời

điểm phối tinh thích hợp cho chúng. Biểu hiện của chu kỳ động dục: Khi động

dục lợn nái biểu hiện không yên tĩnh: kêu la, phá chuồng, tìm đực, nhảy lên lưng

con khác, âm hộ xung huyết đỏ tươi, thích gần con đực. Nếu ta ấn tay lên lưng

thì nó đứng yên, đuôi cong lên thích giao phối. Nhưng cũng có lợn nái dbiểu

hiện động dục không rõ nét. Đối với những trường hợp này phải theo dõi để

quyết định thời điểm phối thích hợp hoặc dùng lợn đực thí tình hay sử dụng con

đực để phát hiện thời điểm phối thích hợp, tránh nhỡ thời điểm phối giống, để

nâng cao khả năng sinh sản. Qua hình biểu diễn các hàm lượng hormone ở dưới

đây cho chúng ta thấy sự thay đổi của các hormone khác nhau qua các ngày

trong chu kì động dục của lợn nái. Trong thời kì động dục, hàm lượng hormone

của lợn nái thay đổi, oestrogen tăng mạnh từ ngày thứ 10 và cao nhất ở ngày 20 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

9

- 21 (29 - 30 pg/ml trong huyết thanh), sau đó giảm dần xuống 7 - 8 ở ngày thứ

8 sau động dục. Hàm lượng prostaglandin trong tĩnh mạch tử cung thay đổi và

đột nhiên tăng cao ở ngày 15 (6 ng/ml), trong khi bình thường tỷ lệ này 0,3 - 0,5

ng/ml. Hormone progesterone tăng tiết từ ngày 1 đến 13 (32 ng/ml) trong huyết

thanh và giảm dần và xuống tỷ lệ thấp nhất ở ngày thứ 20, chỉ còn 0,8 - 1 ng/ml.

Hàm lượng prolactin huyết thanh thay đổi liên tục từ ngày 13 đến ngày thứ 5 sau

chu kì động dục biến động lên đến 15 ng/ml và sau 1 ngày xuống lại 1,5 - 1,8

ng/ml, cứ thay đổi lên xuống theo chu kì 2 - 3 ngày nhưng ở ngày đầu chu kì từ

2 - 13 có hàm lượng thấp 1,8 ng/ml. FSH và LH thay đổi và khi động dục tỷ lệ

FSH/LH = 1/3.

Sau khi phối tinh được 15 phút, tinh trùng vận động đến tử cung lợn cái,

sau 1 - 2 h tinh trùng sẽ vận chuyển đến vị trí thụ tinh thích hợp (1/3 phía trên

của ống dẫn trứng). Thời gian sống của tinh trùng trong đường sinh dục của con

cái khoảng 12 - 20 h. Số tinh trùng cần cho lần phối tinh để có tỷ lệ thụ thai cao

là 3 tỷ. Tế bào trứng, sau khi xuất hiện triệu chứng động dục đầu tiên khoảng 40

- 48 h thì tế bào trứng bắt đầu rụng (cuối giai đoạn T1, đầu T2) lúc lợn cái biểu

hiện "mê ì". Thời gian rụng trứng của lợn nái kéo dài 8 - 12 h. Sau khi trứng

rụng xuống loa kèn, chúng theo ống dẫn trứng di chuyển đến vị trí thụ tinh thích

hợp mất khoảng 1 - 2 h tương ứng sau 24 - 36 h kể từ lúc xuất hiện hiện tượng

chịu đực. (Hoàng Toàn Thắng và Cao Văn, 2006). Số lượng tế bào trứng rụng

trong 1 chu kỳ động dục phụ thuộc vào giống, tuổi, và chế độ nuôi dưỡng, chăm

sóc. Qua một số nghiên cứu cho biết, lợn nái Móng Cái có 15 - 30 tế bào.

Số lượng tế bào trứng rụng phụ thuộc vào chế độ nuôi dưỡng. Vì vậy,

người ta thường tăng cường nuôi dưỡng lợn nái trước khi phối giống để tăng số

tế bào trứng rụng nhưng đến lúc gần động dục cho giảm tiêu chuẩn ăn, (Kiều

Minh Lực, 1976). Trong thực tế sản xuất để xác định thời điểm phối tinh thích

hợp, thì khi lợn nái động dục phải tăng cường theo dõi để biết giờ xuất hiện triệu

chứng động dục đầu tiên, vì vậy, cần theo dõi ngày 2 lần (sáng sớm và chiều Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

10

tối). Thời gian kéo dài động dục của lợn là 3 - 5 ngày tùy theo giống, thời gian

phối thích hợp là cuối ngày thứ 2, đầu ngày thứ 3. Thời gian này lợn nái biểu

hiện động dục cao độ nhất: "mê ì", âm hộ chuyển từ màu đỏ hồng (cà chua chín),

sang màu thâm tái (màu mận chín), lợn có thể ít ăn hoặc bỏ ăn hoàn toàn, thích

nhảy lên lưng con khác, nếu ta ấn mạnh vào vùng hông khum của lợn thì thấy

lợn đứng yên, cong đuôi và thích giao phối. Đây là thời điểm phối tinh thích hợp

nhất cho lợn nái.

* Ảnh hưởng của các yếu tố đến sự phát dục của lợn cái:

Sinh sản là một quá trình sinh học hết sức phức tạp của cơ thể động vật

đồng thời là chức năng duy trì giống nòi và tái sản xuất của vật nuôi. Sinh sản

hữu tính là hình thức sinh sản cao nhất và phổ biến nhất ở cơ thể động vật, đó là

quá trình có sự tham gia của hai cơ thể đực và cái, là một quá trình mà ở đó con

đực sản sinh ra tinh trùng, con cái sản sinh ra trứng, thụ tinh giữa tinh trùng và

trứng hình thành hợp tử, hợp tử phát triển trong tử cung của con cái và sinh ra

đời con. Quá trình sinh sản đối với con cái xẩy ra bắt đầu bằng sự xuất hiện chu

kỳ tính và được điều khiển bởi một hệ thống thần kinh, thể dịch hết sức phức

tạp. Tất cả các kích thích bên ngoài và trong cơ thể như khí hậu, nhiệt độ, ánh

sáng, chế độ nuôi dưỡng, quản lý, tác động xoa bóp, mùi vị con đực, tình trạng

cơ quan sinh dục và các bộ phận khác của cơ thể đều ảnh hưởng trực tiếp đến

chu kỳ tính một cách phản xạ theo phương thức thần kinh, thể dịch.

Trong quá trình sinh trưởng phát triển, lợn cái sẽ dần đi tới thành thục về

tính. Tuy nhiên sự thành thục về tính của lợn phụ thuộc vào các yếu tố sau:

- Giống: Giống là yếu tố quyết định đến sức sản xuất của lợn nái. Giống

có ảnh hưởng rõ rệt đến tính trạng số con sơ sinh sống, số con cai sữa, tuổi đẻ

lứa đầu và khoảng cách giữa 2 lứa đẻ. Các giống lợn khác nhau cho năng suất

sinh sản khác nhau. Lợn nái Móng Cái thành thục về tính lúc 4 tháng 12 ngày,

trọng lượng đạt 12 kg. Tuổi thành thục sinh dục ở lợn lai luôn muộn hơn so với

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

lợn nái nội thuần chủng (Móng Cái, Ỉ, Mường Khương,…) thường ở tháng thứ

11

4 đến tháng thứ 5 (120 - 150 ngày) (Phạm Hữu Doanh và cs, 1996). Trong cùng

một giống nhưng khi phối đồng huyết thì thành thục về tính muộn hơn.

Chọn lọc là phương pháp đơn giản và được sử dụng sớm nhất để nâng cao

chất lượng đàn giống vật nuôi. Chọn lọc cũng là động lực đầu tiên để đạt tới sự

tiến bộ di truyền, chọn lọc có thể tăng số lượng gen tốt và giảm số lượng gen

xấu thông qua quan sát kiểu hình.

1.1.2.2. Các yếu tố ảnh hưởng tới sức sinh sản của lợn nái.

- Ảnh hưởng của giống: Giống khác nhau thì sự thành thục về tính khác

nhau. Gia súc có tầm vóc nhỏ thì sự thành thục về tính thường sớm hơn gia súc

có tầm vóc lớn. Lợn nội thành thục về tính thường sớm hơn lợn ngoại. Ở các

giống lợn khác nhau thì năng suất sinh sản cũng khác nhau. Giống lợn Meishan

(Trung Quốc) được coi là một kiểu mẫu di truyền về sức sinh sản cao, đạt 14 -

18 lợn sơ sinh, trên 12 con lợn cai sữa/ổ ở lứa đẻ 3 đến lứa đẻ 10 (Vũ Kính

Trực, 1998).

- Số trứng rụng: Số trứng rụng trong một chu kỳ động dục là giới hạn cao

nhất của số con đẻ ra/lứa, trong thực tế mỗi lợn nái đẻ trên dưới 10 con. Như

vậy trứng rụng bao giờ cũng nhiều hơn số con đẻ ra. Sự chênh lệch này có thể

do một số trứng được thụ tinh nhưng không phát triển thành hợp tử. Haines và

cs (1959) cho biết số trứng rụng ở chu kỳ động dục lần đầu là 11,3 trứng, ở chu

kỳ động dục lần hai là 12,3 trứng. Theo Perry (1954), số trứng rụng của nái tơ

là 13,5 và nái trưởng thành là 21,4. Số trứng rụng trung bình của lợn nái là 15 -

20 (Vangen, 1981; Haines, 1959). Số trứng rụng ở các chu kỳ động dục 1, 2, 3

có ảnh hưởng đến số con đẻ ra/lứa ở lợn cái hậu bị (Hughes và cs, 1980). Do số

trứng rụng ở chu kì động dục lần đầu ít, nên khi phối giống cho lợn ngoại thường

tiến hành ở chu kỳ động dục lần thứ hai hoặc thứ ba. Trần Cừ và cs (1975) cho

biết ở lợn nái mỗi chu kỳ động dục có thể rụng 15 - 20 trứng, có khi đến 40

trứng, và số trứng rụng ở buồng trứng bên trái thường nhiều hơn bên phải. Trong

kỹ thuật nuôi dưỡng lợn nái hậu bị trước ngày dự kiến phối giống 11 - 14 ngày, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

12

tập trung mức năng lượng cao sẽ làm tăng số lượng trứng rụng. Kỹ thuật này đã

được áp dụng rộng rãi trong qui trình chăn nuôi lợn nái hậu bị, được gọi là

phương pháp Flushing. Theo Phạm Hữu Doanh (1995) đối với lợn, áp dụng

phương pháp phối kép có thể làm thời gian thải trứng sớm hơn và tăng số lượng

trứng rụng. Hughes và Varley (1980) cho rằng nếu lợn nái được ăn với mức dinh

dưỡng cao trong vòng 0 - 1 ngày (trước động dục) thì số trứng rụng tăng 0,4

trứng, trong vòng 2 - 7 ngày (trước động dục) số trứng rụng tăng 1,6 trứng và

trong vòng 21 ngày (trước động dục) thì số trứng rụng tăng 3,1 trứng.

- Tỷ lệ thụ thai: Xác định thời điểm phối giống thích hợp sẽ quyết định tỷ

lệ thụ thai của các trứng rụng trong một chu kỳ động dục của lợn nái. Trong điều

kiện bình thường tỷ lệ thụ thai có thể đạt 90 - 100 %, điều này phù hợp với

kết quả nghiên cứu của Hancock (1961), Self và cs (1955). Phương thức thụ

tinh cũng ảnh hưởng tới tỷ lệ thụ thai, nếu cho phối giống trực tiếp thì tỷ lệ

thụ thai thường cao hơn từ 10 - 20 % so với phối giống nhân tạo. Trong kỹ

thuật phối giống nhân tạo thì môi trường pha loãng để bảo tồn tinh dịch có ảnh

hưởng trực tiếp đến tỷ lệ thụ thai (Nguyễn Tấn Anh và cs, 1998; Nguyễn Văn

Thưởng, 1998).

Tỷ lệ thụ thai còn phụ thuộc vào mùa vụ phối giống, nếu cho lợn nái phối

giống vào các tháng 6 - 8 thì tỷ lệ thụ tinh giảm 10 % so với phối giống ở các

tháng 11, 12 (Akina Ogasa, 1992).

Tỷ lệ chết phôi và thai: Perry (1954) và Joakimsen (1977) cho biết phôi bị

chết vào ngày 13 - 18 sau khi thụ tinh. Tỷ lệ thai chết tỉ lệ thuận với số phôi còn

sống ở đầu thời kỳ bào thai (Đặng Vũ Bình, 1995).

- Thời gian mang thai: Theo Trần Cừ và cs (1975), thời gian mang thai

của lợn dao động từ 110 - 120 ngày và tuỳ thuộc vào giống, tuổi, các yếu tố

khí hậu, thời tiết và điều kiện dinh dưỡng. Brand và cs (1954) lại cho rằng thời

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

gian mang thai của các giống lợn trắng ở Anh là 114 ngày với phạm vi biến

13

động là 110 - 120 ngày. Nhìn chung nếu xét trong phạm vi các giống lợn thì

thời gian mang thai có sự sai khác không đáng kể và dao động trong khoảng

113 - 115 ngày.

- Số lợn con được sinh ra trong ổ thường được đánh giá theo ba loại lợn con

+ Loại đẻ ra còn sống, trong số này có một số con chết trong vòng 24 giờ,

như vậy số con sơ sinh sống đến 24 giờ được tính là số con đẻ ra trừ đi số con

chết trong 24 giờ.

+ Loại thai non: Là loại thai phát triển không hoàn toàn, chết trong thời

gian có chửa và trước khi sinh ra. Nguyên nhân có thể do lợn mẹ nhiễm bệnh

hoặc do thiếu dinh dưỡng trong thời gian mang thai.

+ Loại thai gỗ: Là loại thai đã chết trong tử cung lúc 35 - 90 ngày tuổi thai

chết trong giai đoạn này thường không gây xảy thai mà các bào thai chết thường

khô cứng lại. Nguyên nhân có thể các thai này không được cung cấp dinh dưỡng

đầy đủ làm cho thai phát triển không bình thường, thai dị dạng, hoặc do nhiễm vi

rút Pavovirus. Lợn nái chửa nhiễm vi rút Pavovirus lúc 70 ngày có chửa trở về

trước thì mới gây ra thai gỗ. Số con chết lúc sơ sinh, số thai non, số thai gỗ sẽ là

nguyên nhân làm giảm số lượng lợn con sơ sinh sống đến 24 giờ cho một lứa đẻ.

Hughes và cs (1980) cho rằng năng suất của đàn lợn giống được xác định bởi chỉ

tiêu số con bán được khi cai sữa/nái/năm. Do đó, số con trong ổ là tính trạng năng

suất rất quan trọng. Giới hạn cao nhất của số con trong ổ là số trứng rụng. Từ giới

hạn này, số con trong ổ bị giảm đi là do:

+ Một số trứng không được thụ tinh.

+ Một số thai chết khi đẻ.

+ Một số lợn con chết từ sơ sinh đến cai sữa.

Khá nhiều nghiên cứu đã tập trung vào vấn đề lợn con chết từ sơ sinh đến cai

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

sữa. Người ta đã thống kê được khoảng 3 - 5 % lợn con chết khi sơ sinh bao gồm cả

14

lợn con chết do đẻ khó và lợn con chết ở giai đoạn chửa. Các nguyên nhân chủ yếu

làm lợn con chết trong quá trình từ sơ sinh đến cai sữa:

+ Bị mẹ đè và bỏ đói: 50 %

+ Nhiễm khuẩn: 11,5 %

+ Dinh dưỡng kém: 8 %

+ Di truyền: 4,5 %

+ Các nguyên nhân khác: 26 %

Dennis (2000) nghiên cứu thấy 65 % số lợn con chết sau khi sinh xảy ra vào

lúc lợn con 4 ngày tuổi. Theo Lê Thanh Hải và cs (1998), lợn nái được nuôi dưỡng

bằng chuồng lồng đã làm tăng số lợn con 60 ngày tuổi bình quân/ổ thêm 18,51

% hay tăng tỷ lệ nuôi sống từ sơ sinh đến 60 ngày tuổi lên 23,19 % so với nuôi

chuồng nền.

- Thời gian nuôi con của lợn mẹ: Thời gian nuôi con của lợn mẹ có ảnh

hưởng tới khoảng cách giữa 2 lứa đẻ và qua đó ảnh hưởng tới số lợn con/nái/năm.

Hughes và cs (1980) nhận định rằng mặc dù cai sữa ở 8 tuần tuổi là tốt nhất cho

cả mẹ và con nhưng nó sẽ ảnh hưởng đến số lứa đẻ/nái/năm. Trong trường hợp

này số lứa đẻ chỉ đạt 1,8 - 2 lứa, nhưng nếu cai sữa ở 3 tuần tuổi có thể đạt 2,5

lứa/nái/năm với chi phí thấp. Để rút ngắn thời gian nuôi con của lợn mẹ không

còn con đường sinh học nào khác ngoài biện pháp cai sữa sớm lợn con. Muốn

vậy vấn đề quan trọng là phải tập cho lợn con ăn sớm từ 7 ngày tuổi để đến ngày

thứ 30 lợn con có thể sống độc lập không cần sữa mẹ (Lê Thanh Hải, 1998).

Hiện nay trên thế giới, lợn con được cai sữa ở 23 - 28 ngày tuổi. Ở Úc thời gian

cai sữa trung bình hiện nay 23,6 ngày tuổi (Hilda và Gordon, 1997).

- Thời gian động dục trở lại sau cai sữa một trong những giải pháp có thể rút

ngắn chu kỳ sinh sản là cai sữa sớm lợn con. Nhưng cai sữa sớm lợn con không đi

liền với sớm động dục lại, cai sữa càng sớm thì khoảng cách từ ngày cai sữa đến

ngày động dục lại càng dài, trứng rụng càng ít. Hamond (1994) đã tiến hành cai sữa

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

sớm lợn con ở các ngày tuổi: 10, 21 và 56 ngày. Kết quả là thời gian nuôi con của

15

lợn mẹ càng dài thì chu kỳ động dục lại của lợn mẹ càng ngắn và số lượng trứng

rụng trong một lần động dục càng cao. Cụ thể thời gian cai sữa lợn con là 10,

21, và 56 ngày thì thời gian động dục trở lại sau cai sữa đạt tương ứng là 6,4;

9,4 và 16,6 trứng/lần động dục. Đồng thời tác giả cũng cho biết thời gian chờ

phối ngắn hay dài không chỉ phụ thuộc thời gian cái sữa lợn con mà còn phụ

thuộc vào chế độ nuôi dưỡng lợn nái trong thời gian nuôi con và sau cai sữa,

cũng như độ hao mòn của lợn mẹ. Lê Thanh Hải và cs (1998) cho rằng khối

lượng của lợn mẹ bị hao hụt tăng dần từ lứa 1 đến lứa 5 và có giảm xuống ở

các lứa sau. Theo Nguyễn Tấn Anh (1998), mức năng lượng và khẩu phần ăn

có ảnh hưởng đến tỷ lệ động dục, tỷ lệ trứng rụng và thời gian phối sống trở lại,

với mức ăn 3 kg/ngày thì thời gian phối giống trở lại là 8 ngày, với mức ăn 5

kg/ngày thì thời gian phối sống trở lại là 5,5 ngày.

- Ảnh hưởng của nuôi dưỡng: Thức ăn là nguồn cung cấp dinh dưỡng,

năng lượng cho tất cả các hoạt động sống của cơ thể, nó đóng vai trò quan trọng

trong việc nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm. Protein mức độ protein

được cung cấp ảnh hưởng rất lớn tới thành tích sinh sản của lợn mẹ. Nếu nhu

cầu protein của lợn mẹ không được đáp ứng đầy đủ sẽ làm chậm động dục và

làm giảm số lứa đẻ/nái/năm. Ở giai đoạn chửa, nếu trong khẩu phần thiếu protein

thì lợn con khi sinh ra sẽ có khối lượng sơ sinh thấp, còn ở giai đoạn tiết sữa sẽ

làm giảm khả năng tiết sữa, vì thế mà ảnh hưởng xấu đến khả năng sinh trưởng

của lợn con.

+ Năng lượng: Là yếu tố cần thiết cho mọi hoạt động sống của cơ thể. Nếu

không đáp ứng đủ nhu cầu năng lượng sẽ ảnh hưởng tới hoạt động sống của lợn

nhất là lợn chửa và nuôi con. Điều này sẽ dẫn đến tình trạng suy dinh dưỡng, còi

cọc, sức kháng bệnh kém. Tuy nhiên nếu cung cấp quá thừa năng lượng trong

thời gian có chửa lại dẫn tới tình trạng chết phôi, đẻ khó, mặt khác năng lượng

thừa sẽ được dự trữ dưới dạng mỡ và lợn con sẽ bị mắc các bệnh đường ruột do

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

sữa mẹ có hàm lượng mỡ sữa cao.

16

+ Vitamin: Không phải là chất dinh dưỡng nhưng có vai trò quan trọng

trong việc điều hoà các hoạt động sinh lý của cơ thể. Thiếu vitamin A và E sẽ

dẫn đến khả năng sinh sản kém, thiếu vitamin B sẽ dẫn đến khả năng tiêu hoá

tinh bột giảm, ảnh hưởng tới thần kinh. Thiếu vitamin D dẫn tới hiện tượng còi

xương, xốp xương, mềm xương, rối loạn chuyển hoá và hấp thu can xi, phốt pho.

Reddy và cs (1958), Haines và cs (1959) cho biết nếu thiếu trầm trọng vitamin

và khoáng có thể gây chết toàn bộ phôi.

+ Khoáng: Được chia làm 2 loại gồm khoáng đa lượng và vi lượng. Trong

khẩu phần ăn của lợn khoáng chỉ chiếm một lượng nhỏ, nhưng có tác dụng quan

trọng trong việc hình thành xương, tạo máu và cân bằng nội môi. Do đó trong

quá trình nuôi dưỡng cần cung cấp đủ với hàm lượng thích hợp và tỷ lệ giữa các

chất trên phải cân đối.

Ngoài các yếu tố trên, còn nhiều yếu tố khác như tuổi phối giống lứa đầu,

khoảng cách giữa 2 lứa đẻ, phẩm chất tinh dịch, kỹ thuật phối giống, khí hậu,

bệnh tật,... đều có ảnh hưởng đến năng suất sinh sản của lợn nái.

1.1.3. Cơ sở sinh lý của sự sinh trưởng và các yếu tố ảnh hưởng tới khả năng

sinh trưởng

1.1.3.1. Cơ sở sinh lý của sinh trưởng

Sinh trưởng là một quá trình tích lũy các chất hữu cơ, là sự tăng lên về

chiều cao, chiều dài, bề ngang, khối lượng của các bộ phận và toàn cơ thể con

vật trên cơ sở bản chất di truyền của đời trước qui định.

Khi nghiên cứu về sinh trưởng của lợn người ta thường quan tâm đến độ

sinh trưởng tích lũy, độ sinh trưởng tuyệt đối.

- Độ sinh trưởng tích lũy: Là khối lượng, kích thước, thể tích của gia súc

tích lũy được trong một thời gian.

- Sinh trưởng tuyệt đối: Là khối lượng, thể tích, kích thước cơ thể gia súc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

tăng lên trong một đơn vị thời gian và được tính theo công thức sau đây:

17

W2 - W1 A= t2 - t1

Trong đó: A là sinh trưởng tuyệt đối (g/con/ngày)

W1 là khối lượng tích luỹ đo được ở thời điểm t1

W2 là khối lượng tích luỹ đo được ở thời điểm t2.

- Độ sinh trưởng tương đối là tỷ lệ phần trăm khối lượng, kích thước, thể

tích của cơ thể hay từng bộ phận cơ thể tăng thêm so với trung bình của hai thời

điểm sinh trưởng sau và trước. Độ sinh trưởng tương đối thường được biểu thị

bằng số phần trăm, công thức tính như sau:

W2 - W1

R (%) = x 100 (W2 + W1) / 2

Trong đó: R (%): độ sinh trưởng tương đối (%)

W2: khối lượng tích luỹ đo được tại thời điểm sau

W1: khối lượng tích luỹ đo được tại thời điểm trước

1.1.3.2. Các quy luật của quá trình sinh trưởng

Nắm được bản chất của quá trình sinh trưởng, đi sâu tìm hiểu các quy

luật của quá trình này, biết điều khiển quá trình sinh trưởng sẽ tạo ra nhiều sản

phẩm của gia súc. Quá trình sinh trưởng của sinh vật tuân theo những quy luật

nhất định.

* Quy luật sinh trưởng theo giai đoạn

Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng: Gia súc phát triển mạnh nhất vào thời kỳ

mới sinh, sau đó sự phát triển này giảm dần và đến tuổi trưởng thành thì hầu như

không còn phát triển nữa. Sinh trưởng theo giai đoạn không chỉ là đặc trưng của cơ

thể nói chung mà còn là của từng bộ phận, từng hệ thống cơ quan.

Sinh trưởng theo giai đoạn là một trong những vấn đề quan trọng trong

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

quá trình sinh trưởng của gia súc. Tính chất giai đoạn của sinh trưởng đã được

18

nhiều nhà nghiên cứu chú ý. Điều đó chứng tỏ đây là một hiện tượng được xác

định rõ ràng

Sinh trưởng của gia súc chia làm hai giai đoạn chính: giai đoạn trong bào

thai (trong cơ thể mẹ) và giai đoạn ngoài bào thai (ngoài cơ thể mẹ). Giai đoạn

ngoài bào thai có thể chia làm 2 thời kỳ: thời kỳ bú sữa và thời kỳ sau cai sữa.

Theo Trần Đình Miên và cs (1997), sự tăng trưởng ở giai đoạn bào thai chịu ảnh

hưởng nhiều của cơ thể mẹ, còn giai đoạn ngoài bào thai thì chịu ảnh hưởng của

tính di truyền đời trước nhiều hơn.

Tính chất giai đoạn được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau.

Nguyễn Ân và cs (1994) đã nhấn mạnh rằng: thời gian của từng giai đoạn dài

hay ngắn, số lượng giai đoạn, sự đột biến trong sinh trưởng của từng giai đoạn,

từng cá thể đều khác nhau trong phạm vi giống đó. Hơn nữa, tính giai đoạn

không những là đặc trưng của cả cơ thể nói chung mà còn là của từng bộ phận,

hệ thống. Theo quy luật này, sinh trưởng của gia súc được chia làm hai giai đoạn

rõ rệt: giai đoạn trong bào thai và giai đoạn ngoài bào thai.

- Giai đoạn trong bào thai: giai đoạn này được xác định từ lúc trứng được

thụ tinh (tạo thành hợp tử) cho đến khi con vật được sinh ra ngoài. Trong giai

đoạn này cả 2 quá trình sinh trưởng và phát dục đều rất mạnh mẽ. Bào thai ở giai

đoạn này được nuôi bằng dưỡng chất của mẹ thông qua hệ thống mạch máu nhau

thai. Đối với mỗi loài động vật khác nhau, giai đoạn trong bào thai cũng dài ngắn

khác nhau, nhưng quá trình sinh trưởng và phát dục của thai trải qua 3 thời kỳ:

thời kỳ phôi; thời kỳ tiền thai; thời kỳ thai nhi. Giai đoạn trong bào thai giữ một

vị trí quan trọng trong sự phát triển của cơ thể, vì chính giai đoạn này hình thành

tất cả các cơ quan, bộ phận, hệ thống, xác định cơ chế thích ứng của cơ thể với

các điều kiện ở giai đoạn sau. Do vậy, trong giai đoạn này, việc chăm sóc, nuôi

dưỡng gia súc mẹ cần được quan tâm đặc biệt. Từ đó tránh cho gia súc bị sẩy

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

thai, đẻ non, hoặc con đẻ ra có dị tật, còi cọc, chậm lớn.

19

- Giai đoạn ngoài bào thai: Giai đoạn này được tính bắt đầu từ khi gia súc

sinh ra đến khi già cỗi. Mỗi thời kỳ khác nhau gia súc có quá trình sinh trưởng,

phát dục khác nhau, nhu cầu dinh dưỡng từng thời kỳ cũng khác nhau. Nhìn

chung, sinh trưởng thời kỳ đầu vẫn còn khá mãnh liệt, đến giai đoạn trưởng

thành gia súc đi vào thế ổn định, thời gian dài ngắn khác nhau tùy thuộc loài,

giống gia súc. Tốc độ và cách thức sinh tổng hợp protein chính là phương thức

hoạt động của gen điều khiển sinh trưởng của cơ thể. Trong giai đoạn này, cơ

thể vẫn tiếp tục quá trình sinh trưởng, phát dục của nó. Ta có thể chia giai đoạn

này thành các thời kỳ: thời kỳ bú sữa; thời kỳ thành thục; thời kỳ trưởng thành

và thời kỳ già cỗi, hoặc có thể chia làm 2 thời kỳ: thời kỳ bú mẹ và thời kỳ sau

cai sữa.

+ Thời kỳ bú sữa: sự tăng trưởng của cơ thể gia súc non rất mãnh liệt,

nhiều cơ quan bộ phận trong cơ thể chưa phát triển hoàn thiện (cơ quan điều hòa

thân nhiệt, cơ quan tiêu hóa,...), nguồn dinh dưỡng cung cấp cho gia súc non

hoàn toàn phụ thuộc vào khả năng cho sữa của mẹ. Thời kỳ này gia súc có tốc

độ tăng khối lượng cao nhất, nếu nuôi dưỡng tốt chúng có thể đạt 1.000

g/con/ngày đêm.

+ Thời kỳ sau cai sữa: sự tăng trưởng của con vật biểu hiện rõ nét qua kiểu

hình, hệ số di truyền tính trạng sinh trưởng và khả năng cho thịt khá cao.

Tính giai đoạn trong sự phát triển không chỉ biểu hiện ở những đặc tính

chung như tăng sinh, tăng khối ở những đặc điểm riêng của từng thời kỳ mà còn

biểu hiện tăng tiến hoàn chỉnh dần, thời kỳ này nhất thiết nối tiếp thời kỳ kia,

không đi ngược lại.

* Quy luật sinh trưởng không đồng đều

Quy luật này thể hiện cường độ sinh trưởng và tốc độ sinh trưởng của con

vật thay đổi theo độ tuổi. Khi cơ thể còn non, tốc độ sinh trưởng rất nhanh và

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

chậm dần ở các tháng tuổi tiếp theo. Đồng thời, các cơ quan bộ phận trong cơ

20

thể cũng phát triển với tốc độ khác nhau ở các thời kỳ khác nhau. Với gia súc

non, nó thể hiện cụ thể ở cơ quan tiêu hóa.

Ngoài ra, sự phát triển không đồng đều còn thể hiện ở sự trao đổi chất và

quá trình tích lũy vật chất cũng không giống nhau. Trước khi sinh, mô xương có

cường độ phát triển mạnh nhất, xương ngoại vi phát triển mạnh hơn xương trục.

Sau khi sinh, sự phát triển của mô xương giảm xuống nhưng mô mỡ và mô cơ

lại tăng, xương trục phát triển mạnh làm cho cơ thể dài ra. Ở những cơ thể còn

non, cường độ tích lũy protein mạnh, tuổi càng tăng thì khả năng này càng giảm

xuống. Chính vì vậy, trong giai đoạn còn non, nếu được cung cấp đầy đủ dinh

dưỡng cần thiết, vật nuôi sẽ phát triển toàn diện về thể vóc. Ngược lại, khi độ

tuổi tăng lên, tốc độ sinh trưởng của con vật sẽ giảm dần.

Cơ thể gia súc không phải lúc nào, ở lứa tuổi nào cũng phát triển theo một

quy luật, tỷ lệ cân đối, giữ nguyên từ đầu đến cuối. Sinh trưởng phát dục của gia

súc trên toàn bộ cơ thể hay ở từng cơ quan, bộ phận nhất định có sự thay đổi

theo tuổi. Sự thay đổi này cũng khác nhau về mặt cường độ, tốc độ ở các lứa

tuổi khác nhau. Tính khác biệt đó chính là quy luật phát triển không đồng đều

của gia súc.

Sự không đồng đều về tăng trọng: lúc còn nhỏ gia súc tăng trọng ít,

nhưng sau đó tăng trọng nhanh hơn, đến thời kỳ trưởng thành tăng trọng chậm

lại rồi dần ổn định. Cuối cùng, nếu được nuôi dưỡng tốt cơ thể gia súc chỉ còn

tích luỹ mỡ hoặc không thì khối lượng sẽ giảm do cơ và mỡ không phát triển,

tích luỹ thêm.

So sánh trong cùng loài với nhau thì ở bất kỳ loài gia súc nào, hệ số sinh

trưởng ở thời kỳ trong thai đều cao hơn rất nhiều so với thời kỳ ngoài thai. ở lợn,

khối lượng hợp tử là 0,4 mg, khối lượng sơ sinh từ 0,8 đến 1,0 kg và khối lượng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

36 tháng tuổi là 200 kg. Như thế, ở giai đoạn trong bào thai, khối lượng tăng lên

21

2.500 lần trong vòng 114 ngày, nhưng ở giai đoạn ngoài bào thai phải mất 1.080

ngày để khối lượng tăng lên 200 lần. So với gia súc nhỏ, gia súc lớn có sự sinh

trưởng trong giai đoạn bào thai chiếm tỷ lệ lớn hơn so với toàn bộ sự sinh trưởng

của cá thể từ lúc đẻ cho đến lúc trưởng thành.

Tính không đồng đều còn thể hiện ở sự phát triển của hệ thống xương qua

các lứa tuổi khác nhau. Khi ra khỏi cơ thể mẹ, gia súc bắt đầu phát triển nhanh về

chiều dài, tiếp theo là chiều sâu, chiều rộng. Sự phát triển tuần tự chiều dài, sâu,

rộng cũng tuân theo quy luật nhất định và ở từng giai đoạn cũng khác nhau.

Các bộ phận, tổ chức khác nhau trong cơ thể cũng phát triển không đều.

Sự hình thành và phát triển của từng bộ phận phụ thuộc vào vị trí, chức năng và

vai trò của nó. Sự phát triển không đồng đều của các bộ phận dẫn đến sự phát

triển cân đối của cơ thể. Vì thế, có thể khẳng định sự cân đối của cơ thể thay đổi

theo sự phát triển.

* Quy luật sinh trưởng theo chu kỳ

Tính chu kỳ trong quá trình sinh trưởng không phải là một hiện tượng lạ.

Qua nghiên cứu người ta thấy rằng, tính chu kỳ có ngay trong sự tăng sinh của tế

bào: có thời kỳ phát triển mạnh, có thời kỳ yếu đi, sau đó có thời kỳ phát triển mạnh

lại. Sự lặp lại đó một cách nhịp nhàng tạo nên một sự phát dục có tính chu kỳ và có

thể chu kỳ nối tiếp chu kỳ.

Vì vậy, có thể nói sự phát triển của cơ thể gia súc không những chỉ tuân

theo hai quy luật: Quy luật phát triển theo giai đoạn và quy luật phát triển không

đồng đều mà còn tuân theo quy luật tính chu kỳ. Điều đó có thể thấy ở một số

mặt sau:

Tính chu kỳ trong hoạt động sinh lý của cơ thể: hoạt động của thần kinh

đi theo một nhịp độ và cường độ nhất định. Tính chu kỳ trong hoạt động của

hệ thần kinh biểu hiện ở trạng thái khi thì hưng phấn khi thì ức chế. Sự hưng

phấn và ức chế đó cũng liên quan đến quá trình đồng hoá và dị hoá của cơ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

22

thể. Trong chăn nuôi, việc hiểu rõ chu kỳ tính rất quan trọng, từ đó lên kế

hoạch thụ tinh cho gia súc, điều khiển được thời gian đẻ, tránh hiện tượng vô

sinh cho gia súc.

Tính chu kỳ trong quá trình tăng khối lượng của gia súc: tính chu kỳ

cũng được thể hiện rõ ràng và được minh hoạ trong các đồ thị về tăng khối

lượng của gia súc. Quá trình đồng hoá và dị hoá trong trao đổi chất, việc chuyển

hoá đường thành năng lượng,... là những ví dụ điển hình chứng minh tính chu

kỳ lặp lại không ngừng và tính chu kỳ ở sinh vật là một quy luật khách quan.

1.1.3.3. Các yếu tố ảnh hưởng tới khả năng sinh trưởng

Các tính trạng sản xuất của vật nuôi là các tính trạng số lượng do nhiều

gen điều khiển, mỗi gen đóng góp một mức độ khác nhau vào cấu thành năng

suất của con vật. Giá trị kiểu hình của các tính trạng sản xuất có sự phân bố liên

tục và chịu tác động nhiều bởi yếu tố ngoại cảnh. Giá trị kiểu hình (P) của bất

kỳ tính trạng số lượng nào cũng có thể phân chia thành giá trị kiểu gen (G) và

sai lệch môi trường (E). Giá trị kiểu hình (P) được biểu thị như sau:

P = G + E

Trong đó P: Giá trị kiểu hình (Phenotypic value).

G: Giá trị kiểu gen (Genotypic value).

E: Sai lệch môi trường (Enviromental deviation).

- Ảnh hưởng của yếu tố di truyền

Trong chăn nuôi lợn nái sinh sản, yếu tố dòng, giống ảnh hưởng rất lớn

đến năng suất sinh sản và sinh trưởng của lợn, các giống khác nhau có khả năng

sinh trưởng khác nhau, tiềm năng di truyền về sinh trưởng của gia súc thông qua

hệ số di truyền. Theo nghiên cứu của Hazen (1993) ở lợn bú sữa h2 = 0,15, thời

kỳ sau cai sữa h2 cao hơn. Một kết quả nghiên cứu khác của Triebler (1982) cho

rằng hệ số di truyền về khối lượng sơ sinh và sinh trưởng trong thời gian bú sữa

dao động từ 0,05 - 0,021 hệ số này thấp hơn so với sinh trưởng ở thời kỳ sau cai

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

sữa, vỗ béo. Hệ số di truyền về khả năng tăng khối lượng/ngày, tiêu tốn thức ăn,

23

đều phụ thuộc vào giống, quần thể, phương thức nuôi. Theo Busse và cs (1986)

hệ số di truyền về chỉ tiêu sinh trưởng trong thời gian kiểm tra ở giai đoạn từ 20

- 100 kg là 0,50, biến động 0,30 - 0,65. Đối với sinh trưởng tuyệt đối (g/ngày)

thì h2 = 0,15 (0,10 - 0,20). Tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối lượng từ 30 - 100kg

có h2 = 0,47. Kết quả nghiên cứu của Driox (1994) cho biết hệ số di truyền của

một số tính trạng năng suất sinh trưởng như sau:

+ Khả năng tăng khối lượng (g/ngày) có h2 = 0,3 - 0,4

+ Tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối lượng có h2 = 0,25 - 0,35 hệ số di truyền

càng cao thì thời gian chọn lọc càng ngắn và ngược lại.

- Ảnh hưởng của dinh dưỡng đến khả năng sinh trưởng

Trong chăn nuôi chi phí cho thức ăn chiếm 70 - 80 % giá thành sản phẩm,

do đó chỉ tiêu về tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối lượng càng thấp thì hiệu quả kinh

tế sẽ cao và ngược lại, qua nghiên cứu và thực tế cho thấy vật nuôi có khả năng

sinh trưởng tốt do khả năng đồng hóa cao, hiệu quả sử dụng thức ăn cao thì tiêu

tốn thức ăn thấp, do đó thời gian nuôi sẽ được rút ngắn tăng số lứa đẻ/nái/năm.

Tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối lượng chính là tỷ lệ chuyển hóa thức ăn của cơ

thể. Chỉ tiêu về tiêu tốn thức ăn và tăng khối lượng có mối tương quan nghịch

do đó khi nâng cao khả năng tăng khối lượng có thể sẽ giảm chi phí thức ăn.

- Ảnh hưởng của chăm sóc nuôi dưỡng, khí hậu, thời tiết

Thời tiết khí hậu ảnh hưởng rất lớn đến sinh trưởng của lợn. Theo Trần

Cừ và cs (1975) nhiệt độ tối ưu chuồng nuôi khi lợn nái mới đẻ là 30 - 320C, lợn

có khối lượng 30 kg nhiệt độ tối ưu là 260C, lợn có khối lượng 50 kg nhiệt độ

tối ưu là 190C, lợn có khối lượng > 50 kg thì nhiệt độ < 190C. Chuồng trại, quản

lý chăm sóc, nuôi dưỡng ảnh hưởng không nhỏ tới sinh trưởng, phát triển của

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

lợn ở bất kỳ giai đoạn nào.

24

1.1.4. Vai trò thức ăn dinh dưỡng đối với chăn nuôi lợn rừng

Thức ăn của lợn rừng chủ yếu là thực vật, không nên lạm dụng thức ăn

giàu dinh dưỡng để chăn nuôi lợn vì sẽ làm cho chất lượng của lợn rừng bị biến

đổi, đôi khi lợn lại bị tiêu chảy (làm mất năng suất chăn nuôi).

Thức ăn xanh chủ yếu là củ, quả, cỏ và các loại thức ăn thô xanh khác dễ

kiếm và rẻ tiền. Để cho lợn có thức ăn quanh năm và đủ chất dinh dưỡng ta có

một số phương pháp chế biến thức ăn cơ bản cho lợn rừng: như cho ăn tươi,

phương pháp làm bột cỏ (bột xanh), phương pháp làm cao rau. Chế biến và bảo

quản thức ăn từ một số phụ phẩm, có thể cho phối trộn với thức ăn tinh để cho

chăn nuôi lợn rừng đạt hiệu qủa cao.

Thức ăn thô: cây chuối, bẹ chuối, thân cây ngô non, rau muống, rau lấp,

bèo tây, các loại cỏ xanh. Các loại thức ăn thô xanh này rất quan trọng bởi

chúng hợp với khẩu vị, mức tiêu hoá và tập tính ăn uống của lợn rừng, nếu

chỉ cho ăn thức ăn tinh, lợn sẽ kém ăn do không quen miệng dẫn tới chất

lượng thịt giảm xuống.

Thức ăn thô xanh được sử dụng làm thức ăn cho lợn như: Dây khoai lang

sau thu củ, ngọn lá sắn,....

Thức ăn tinh là loại thức ăn ít chất xơ có thành phần dinh dưỡng cao như:

Gạo, cám gạo, ngô, đậu đỗ, khoai sắn, có thể pha trộn thức ăn tinh với thức ăn

thô xanh để tăng tính ngon miệng.

* Chất xơ:

Chất xơ bao gồm 02 loại: Xơ trung tính và xơ axit. Trong thành phần của

xơ trung tính có cellulose, hemicellulose và lignin, trong thành phần của xơ axit

có cellulose và lignin. Khả năng sử dụng xơ của lợn phụ thuộc và thành phần lý

- hóa học của thức ăn, tuổi và khối lượng của lợn. Nếu lượng chất xơ trong khẩu

phần vượt quá 8% sẽ làm giảm lượng thức ăn ăn vào của lợn, ảnh hưởng đến

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

khả năng sinh trưởng của lợn đặc biệt là lợn con (Trần Văn Phùng và cs, 2004).

25

Các thành phần chất xơ được tiêu hóa rất kém trong ruột non và chủ yếu

tạo cơ chất cho sự lên men trong ruột già. Các sản phẩm cuối cùng của sự lên

men trong ruột già là các axit béo bay hơi.

* Tinh bột:

Tinh bột là nguồn cung cấp năng lượng chính cho tất cả các loại lợn. Khả

năng tiêu hóa tinh bột của lợn lên đến 95 - 98%. Đối với lợn con theo mẹ chỉ có

thể tiêu hóa được tinh bột ở tuần tuổi thứ 3 trở đi. Trong thời kỳ trước 3 tuần

tuổi nguồn cung cấp năng lượng cho lợn con thích hợp là đường glucose và

lactose. Khả năng sử dụng tinh bột của lợn con phụ thuộc rất nhiều vào các men

tiêu hóa tinh bột.

* Lipit:

Lipit bao gồm mỡ và cá loại dầu. Lợn không thể tổng hợp các axit béo

chủ yếu là các axit béo không no như axit linoleic, được coi là yếu tố quan

trọng trong dinh dưỡng lợn. Lượng axit béo này trong khẩu phần cho lợn từ

1 - 15 g/kg tùy theo khối lượng cơ thể. Trần Văn Phùng và cs, 2004 cho biết

việc bổ sung chất béo vào khẩu phần cho lợn con sẽ làm giảm sự phát triển

và lượng thức ăn ăn vào nhưng lại làm tăng tăng khối lượng/thức ăn. Đối với

lợn thịt từ giai đoạn lợn choai - xuất chuồng khối lượng từ 20 - 100 kg, khi

bổ sung chất béo vào khẩu phần sẽ có tác dụng tăng khả năng sinh trưởng,

thức ăn ăn vào giảm xuống, tỷ lệ tăng khối lượng/ thức ăn tăng, nhưng độ dày

mỡ lưng tăng.

Theo nghiên cứu của Võ Văn Sự, (2009) thì khẩu phần và tiêu chuẩn thức

ăn của lợn rừng như sau:

Nguyên liệu Tỷ lệ (%) Thành phần trong 10kg TĂHH

75 75 Thức ăn viên

24 2,4 Cám gạo loại 1

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

0,5 0,05 Bột xương

26

0,5 0,05 Premix khoáng

100 Tổng cộng

3000 Năng lượng (Kcal/kg) 10kg thức ăn

14 Protein thô (%)

* Mức ăn: Khẩu phần ăn 1 kg/con/ngày, chia 0,5 kg/bữa cho ăn vào lúc 7

h sáng và 16 h chiều.

- Rau xanh, thức ăn củ quả được cho ăn tự do, đảm bảo 1 - 1,2 kg thức ăn

xanh trở lên.

- Trong những ngày phối giống, bổ sung cho con đực đi nhảy lợn nái 2

quả trứng, giá đỗ hoặc lúa nảy mầm 0,5 kg/con.

- Khoảng cách giữa 2 lần khai thác tinh phải phù hợp. Thời gian 3 tháng

đầu có thể khai thác 1-2 lần/tuần, thời gian sau khai thác 2-3 lần/tuần.

Theo nghiên cứu của Võ Văn Sự, (2009) thì khẩu phần và tiêu chuẩn thức

ăn của lợn rừng lai như sau:

Nguyên liệu Tỷ lệ (%) Thành phần trong 10kg TĂHH

Thức ăn viên 20 2,0

Cám gạo loại 1 79 7,9

Bột xương 0,5 0,05

Premix khoáng 0,5 0,05

Tổng cộng 100

Năng lượng (Kcal/kg) 2700 10 kg TĂHH

Protein thô (%) 12 - 13

* Thức ăn và cách cho ăn:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

- Thức ăn đảm bảo đầy đủ chất dinh dưỡng, không bị ôi thiu, mốc.

27

- Mức ăn trong ngày của lợn nái chửa còn phụ thuộc vào thể trạng của lợn

nái. Lợn nái gầy phải cho ăn tăng, lợn nái quá béo phải giảm thức ăn đã phối

trộn nhưng phải tăng thức ăn thô xanh.

- Mùa đông khi nhiệt độ trong chuồng nuôi < 150C lợn nái cần được

ăn tăng thêm (0,2 - 0,3 kg/ngày) để bù vào phần năng lượng mất đi do phải

chống lạnh.

1.2. Đặc điểm và tính năng sản xuất của đối tượng nghiên cứu

* Giống lợn Mường

Tầm vóc lớn, sức chống chịu tốt với điều kiện chăn thả ở các vùng núi cao

là đặc điểm nổi bật của giống lợn này. Lợn có màu sắc lông da đen tuyền hoặc

đen có đốm trắng ở đầu đuôi và ở chân, lông thưa và mềm. Đa số lợn có mõm

dài thẳng hoặc hơi cong, trán nhăn, tai to hơi cúp rũ về phía trước Lợn có tầm

vóc to, nhưng lép người, bốn chân to cao vững chắc. Lưng không thẳng nhưng

cũng không võng lắm, bụng to nhưng không sệ tới sát đất, mông hơi dốc. Lợn

có tỷ lệ mỡ nhiều do sống trên đỉnh núi cao.

Lợn Mường có tốc độ sinh trưởng chậm, khối lượng sơ sinh khá cao

(0,6 kg), từ sơ sinh đến 4 tháng tuổi lợn tăng trọng thấp (3 - 4 kg/tháng), giai

đoạn choai 5 - 6 tháng tuổi lợn bắt đầu cho tăng trọng khá hơn (5 - 6 kg/tháng).

Sau 12 tháng tuổi lợn vẫn còn phát triển và khối lượng trung bình trên 90 kg, có

những con dạt tới 121,5 kg ở 18 tháng tuổi. Lợn Mường cỏ tuổi động dục đầu

tiên muộn 6 - 7 tháng tuổi), tuổi đẻ lứa đầu là khoảng một năm tuổi, thời gian

động hớn dài (5 - 7 ngày), thời gian cỏ chửa 114 - 116 ngày, số con đẻ ra và nuôi

sống thấp (5 con/ lứa), khả năng nuôi con thấp do tập quán thả rông, thiếu dinh

dưỡng, số lứa đẻ trong năm khoảng 1,2 - 1,3 lứa.

Lợn giống lợn Mường là giống lợn quý hiếm với ưu điểm thích ứng tốt

trong điều kiện tự nhiên, đồng thời sinh trưởng phát triển nhanh, tăng đàn mạnh,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

tăng trọng hơn hẳn các giống lợn khác, rất phù hợp với khả năng người chăn

28

nuôi và thị hiếu người tiêu dùng, lợn Mường được chăm sóc cùng chế độ thì

cũng phát triển tương đương, thậm chí giống lợn đen này còn bán chạy và được

giá hơn bởi chất lượng thịt thơm ngon.

*Giống lợn Đen Hòa Bình

Lợn Đen Hòa Bình Là loại lợn được lai giữa lợn Mán (Mường) và lợn

khác, ăn rất khỏe, sức đề kháng tốt, nhanh lớn, tầm vóc khá to. Nếu nuôi đủ 6

tháng khối lượng đạt 150 kg/con, thịt khá thơm ngon, chúng không ăn nhiều chất

xơ như lợn mường mà thức ăn chính là cám gạo, ngô nghiền nấu cùng rau, cây,

quả,… Thả rông trong vườn. Thịt của chúng khi đạt độ tuổi giết thịt cũng cho

chất lượng thơm ngon, bì dầy, mỡ dầy hơn lợn mường. Giá thịt rẻ hơn lợn mường

rất nhiều, khả năng sinh sản tốt hơn nái mường. Màu lông đen toàn thân hoặc

mầu lông đen trên thân có đốm trắng đây là 2 kiểu ngoại hình chính thường thấy

ở lợn Đen Hòa Bình. Mặt nhọn hình tam giác, mõm dài nhọn, mắt nâu đỏ, thể

hình cứng cáp, bốn chân đứng thẳng đó là đặc điểm nổi bật của giống lợn này.

Đặc điểm này rất hiếm thấy trong các giống lợn nước ta. Con đực trưởng thành

có khối lượng tương đối lớn hơn con cái, phần bụng nhỏ và thon hơn con cái

trưởng thành. Vai tương đối nở, hông rộng, cao hơn vai. Lưng dài vừa phải.

Lưng, sườn và bụng kết hợp chắc chắn. Đùi sau phần trên tương đối đầy đặn, ít

nhăn, phần dưới nhỏ, mông và đùi sau kết hợp chắc chắn. Lợn cái có 2 dẫy vú,

mỗi dẫy có 5 núm vú (10 vú).

* Lợn Rừng Hòa Bình:

Hay còn gọi là lợn lòi, chúng có da và lông rất dày, mõm dài dũi rất khỏe,

con già có nanh hàm dài, cong là vũ khí tự vệ.

Theo Đào Lệ Hằng (2008): Lợn rừng, toàn thân được bao phủ bởi những

lông ngắn, giống tóc rễ tre, thường có mầu nâu đen. Đầu và chiều dài cơ thể lợn

trưởng thành khoảng 90 - 180 cm, chiều dài đuôi khoảng 30cm, chiều cao của

vai khoảng 55 - 110 cm. Đàn lợn rừng có thể di chuyển cùng nhau suốt hành

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

trình dài để tới khu vực định cư mới nhưng không di trú. Lợn rừng hoạt động

29

nhiều hơn vào ban đêm, lúc chạng vạng tối và lúc bình minh. Khi lợn đực trưởng

thành nó sẽ rời khỏi bầy đàn và sống độc lập khoảng 50 - 350 kg, có vài con

nuôi thuần dưỡng có khả năng lên đến 450 kg. Con đực thường lớn hơn con cái.

Lợn rừng có 4 đôi răng nanh, 6 cặp vú. Số lượng con mỗi lần sinh từ 1 - 12 con,

trung bình 4 -8 con/lần. Thời gian mang thai là 110 - 120 ngày, trung bình 115

ngày, thời gian cho con bú là 3 - 4 tháng. Thời gian để lợn con trưởng thành

trung bình 7 tháng.

Đào Lệ Hằng (2008) cũng cho rằng: Trong thiên nhiên hoang dã, lợn rừng

cái đẻ nhiều lần trong năm và mùa giao phối thay đổi tùy từng vùng địa lý và môi

trường sinh sống. Số lượng con mỗi lần sinh từ 1 - 12 con, trung bình 4 - 8 con/lần.

Thời gian mang thai là 110 - 120 ngày, trung bình 115 ngày, thời gian cho con bú

là 3 - 4 tháng. Thời gian để lợn con trưởng thành trung bình 7 tháng.

Tuổi được coi là trưởng thành về mặt sinh dục có thể giao phối ở con

cái là 8 - 10 tháng, trung bình là 9 tháng. Ở con đực tuổi trưởng thành về mặt

sinh dục có thể giao phối là 8 - 10 tháng, trung bình là 9 tháng. Thông thường,

lợn rừng cái đẻ vào mùa xuân và việc giao phối xảy ra suốt năm nhưng tập

trung vào mùa ẩm ướt, thông thường là 4 - 8 con. Những con cái trưởng thành

sau 8 - 10 tháng, nhưng thường cho đến 12 tháng tuổi mới giao phối và những

con đực thường không thích đụng đến những con lợn cái dưới 1 tuổi.

Lợn rừng cái sinh con trong 1 cái ổ bằng cỏ, lợn con sẽ ở lại ổ vài ngày.

Lợn con thường khỏe mạnh. Trái với vẻ khỏe mạnh ban đầu chỉ có khoảng một

nửa lợn rừng con sống đến trưởng thành, một vài con chết vì bệnh hay bị những

loài động vật khác ăn thịt. Lợn rừng còn bé được mẹ cho bú chăm sóc trong

vòng 3 - 4 tháng và dần dần trở nên độc lập.

Trong thiên nhiên hoang dã lợn rừng có thể sống đến 10 năm, đôi khi

chúng có thể sống đến 27 năm.

Lợn rừng hoang dã thường được phát hiện ở những khu vực rộng lớn,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

chúng sống thành bầy đàn, số lượng có thể lên đến 100 con, những đàn lợn rừng

30

này là những thế hệ con và những con chưa trưởng thành.

Đàn lợn rừng có thể di chuyển cùng nhau suốt hành trình dài để tới khu

vực định cư mới nhưng không di trú. lợn rừng hoạt động nhiều hơn vào ban đêm,

lúc chạng vạng tối và lúc bình minh. Khi lợn đực trưởng thành nó sẽ rời khỏi

bầy đàn và sống độc lập.

Lợn rừng là loài ăn tạp và đôi khi ăn bừa bãi. Thức ăn hàng ngày là nấm,

củ, thóc, lúa, trái cây, trứng, cà rốt, động vật có xương sống. Nhờ khả năng ăn

nhiều loại thức ăn khác nhau mà lợn rừng tồn tại ở nhiều môi trường khác nhau,

từ hoang mạc cho đến vùng đồi núi.

Thức ăn động vật là chim, động vật có vú, lưỡng cư, bò sát, xác chết, côn

trùng, động vật chân đốt sống trên mặt đất, động vật thân mềm.

Thức ăn thực vật là rễ cây, củ, vỏ cây, cỏ, thóc, trái cây. Những loại thức

ăn khác là phân, thú ăn thịt, nấm.

1.3. Tình hình nghiên cứu ở ngoài nước và trong nước:

1.3.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước

Các kết quả nghiên cứu của ARC (1981), Van de Ligt và cs (2002), Thong

và Liebert (2004),… đã chỉ ra rằng cân đối mức protein, năng lượng cho lợn rừng

lai để đánh giá khả năng sinh trưởng qua các giai đoạn, vừa để khai thác được khả

năng sinh trưởng của lợn rừng lai có chất lượng, vừa đảm bảo tính tự nhiên hoang

dã của chúng.

Sysa và cs, (1984) khi nghiên cứu về khả năng sinh sản và sinh trưởng của

giống lợn rừng Thái Lan “Sus scrofa jubatus” so với giống lợn rừng hoang dã

Sus scrofa ferus và lợn nhà tại Thái Lan Sus scrofa domestica cho kết luận lợn

rừng Thái Lan “Sus scrofa jubatus” có khả năng sinh trưởng và sinh sản cao hơn

lợn rừng hoang dã, do đây là giống đã được thuần hóa và chọn lọc. Chúng có

khả năng sinh sản trung bình 2,1 lứa/năm với số con sơ sinh trung bình 7,4

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

con/lứa. Giống lợn này cũng sinh trưởng nhanh hơn lợn rừng hoang dã.Khối

31

lượng lúc1năm tuổi có thể đạt 80 - 90 kg.

Theo tác giả Kuntongeg (1994) khi nghiên cứu lợn rừng Thái Lan và

lợn địa phương tại miền Đông bắc cho thấy giống lợn này được nuôi thuần

hóa lâu và có sức sống mãnh liệt như lợn rừng hoang dã. Chúng có khả năng

sinh sản và cho thịt tương đương với các giống lợn địa phương của vùng này.

Khối lượng lợn ở lúc sơ sinh khoảng 0,45 - 0,5 kg/con, sau 1 tháng tuổi khối

lượng đạt 4 - 4,5 kg con. Lợn cái có thể động dục vào lúc 6,5 tháng tuổi, số

con sơ sinh trong lứa đầu thấp khoảng 4 - 5 con, nhưng từ lứa thứ 2 trở đinh

có thể đạt 8 - 10 con/lứa.

Tác giả Kvisna và cs (2005) đã nghiên cứu quy trình nuôi heo rừng ở

Thái Lan đạt kết quả tốt. Bên cạnh đó được Litten và cs (2004); Kuhn và cs

(2004) cũng nghiên cứu việc bổ sung bột sắn vào khẩu phần ăn cho lợn rừng

có hiệu quả nhưng tăng tỷ lệ mỡ cao hơn so với việc bổ sung vào khẩu phần

chỉ có ngô.

1.3.2. Tình hình nghiên cứu trong nước

Theo Đỗ Xuân Tăng và Nguyễn Như Cương (1994) thì khả năng sản xuất

của lợn Ỉ Thanh Hoá có số con sơ sinh lứa 1 là 7,80 con, lứa 2: 8,8 con, lứa 9

cao nhất là 11,00 con và đến lứa 15 là 9,00 con; khối lượng sơ sinh 0,48 kg, 1

tháng tuổi đạt 2,30 kg, khối lượng 4 tháng tuổi là 42,70 kg; khối lượng giết mổ

46,10 kg, tỷ lệ móc hàm 34,10 kg, tỷ lệ móc hàm đạt 73,90 %.

Tác giả Trần Văn Do (2004) cho biết lợn Vân Pa được phát hiện lần đầu

tiên năm 1996, tại một số xã đồng bào dân tộc Vân Kiều, Pakô của huyện Hướng

Hoá và Đakrông của tỉnh Quảng Trị. Giai đoạn từ năm 1996 - 2004 được nuôi

thích nghi tại trường Trung cấp Nông Nghiệp & PTNT Quảng Trị. Lợn Vân Pa

đạt khối lượng 4,5 kgở 3 tháng tuổi và 12 tháng đạt 23,5 kg, tuổi động dục lần

đầu 235 ngày. Số con sơ sinh sống/lứa 8,5 con, khối lượng sơ sinh/con đạt 0,25

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

kg. Nghiên cứu của Nguyễn Văn Đức và cs, (2004) cho biết lợn Táp Ná có tuổi

32

đẻ lứa đầu là 13,60 tháng, số con đẻ ra sống/lứa là 7,91 con, khối lượng sơ

sinh/con là 0,63 kg,số co cai sữa/ổ là 6,83 con.

Theo Đỗ Kim Tuyên và cs (2007) khi theo dõi lợn rừng ở công ty Khánh

Giang - Bình Phước cho biết lợn rừng Thái Lan 7 - 8 tháng tuổi có thể trọng 40

- 60 kg (với lợn cái có thể cho phối giống). Thời gian mang thai giống lợn nhà

(khoảng 114 ngày). Thời gian đẻ (từ con đầu đến con cuối) 2 - 4 giờ. Quá trình

đẻ diễn ra theo tự nhiên, không cần sự giúp đỡ hoặc can thiệp của con người.

Lợn rừng đẻ 2 - 2,5 lứa/năm, lứa đầu (con so) đẻ 3 - 5 con, lứa rạ đẻ nhiều hơn

(7 - 12 con). Lợn rừng sơ sinh có tầm vóc nhỏ, khối lượng bình quân 0,5 - 0,9

kg/con. Lợn 1 - 2 tháng tuổi: 5 - 10 kg, 3 - 4 tháng tuổi: 15 - 20 kg, 8 - 12 tháng:

60 - 70 kg, khi trưởng thành: trên 100 kg.

Theo Lê Đình Cường (2008), về lợn Mường Khương thì số con sơ sinh

sống/ổ là 9 - 12 con, khối lượng sơ sinh/con là 0,35 - 0,50 kg, tuổi đẻ lứa đầu 10

- 12 tháng

Theo Võ Văn Sự và cs (2009) cho biết: Hiện nay, các loại lợn tạp giao

giữa lợn rừng Việt Nam hoặc lợn rừng Thái Lan với các loại lợn địa phương tại

Việt Nam như lợn Sóc Tây Nguyên, Lợn Vân Pa, lợn Ỉ, lợn Móng Cái, con lai

một nửa thiên về bố (lợn rừng) và nửa thiên về mẹ. Hiện nay theo các nguồn

thông tin và các cuộc khảo sát, thì tại các bản làng dọc miền núi phía Bắc (Lai

Châu, Hà Giang), dãy Trường Sơn (Thanh Hóa, Quảng Trị, Quảng Ngãi, Gia

Lai), vùng Bình Phước đều có nhiều ổ lợn lai loại này, do người dân nuôi thả

lợn vào rừng và xảy ra giao phối giữa lợn rừng và lợn nhà. Và giờ đây khi mà

phong trào nuôi lợn rừng đang nổi lên, thì một số đia phương đã đề xuất chương

trình nuôi loại lợn này

Theo Nguyễn Lân Hùng và Nguyễn Khắc Tích (2010) các loài heo rừng

có một số đặc điểm sinh học cơ bản như sau: Heo rừng khi mới sinh ra hầu hết

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

có màu lông nâu vàng và có những sọc vàng, hoặc trắng vàng dọc hai bên sườn

33

và lưng. Chúng trông giống sọc của quả dưa. Các vết sọc này mất dần khi heo

đạt từ 12 kg/con trở lên và mất hẳn khi 17 - 18 kg/con. Heo rừng thường có 8 -

10 vú, hiếm thấy có heo trên 12 vú. Thời gian mang thai cũng như heo nhà từ

112 - 116 ngày. Do sống hoang dã, mà heo rừng có tốc độ lớn chậm, có khi 1

năm tuổi chúng mới chỉ nặng được 30 - 40 kg. Khi heo đạt từ 30kg/con trở lên,

tốc độ lớn của heo rừng càng chậm lại. Nhiều con heo cái động dục và phối

giống lần đầu lúc 7 - 8 tháng tuổi và chỉ nặng trên dưới 20 kg. Vì vậy, heo rừng

thường có số con đẻ ra mỗi lứa thấp, từ 5 - 8 con.

Theo Phạm Hiếu Nhân (2010) thì đối với heo rừng lai con đực giống có

thể phối 5 - 10 con cái, trong khi đó con cái mắn đẻ. Đẻ nhiều con mỗi năm có

thể đẻ hai lứa, mỗi lứa 6 - 7 con, có lứa đẻ 8 - 10 con. Thời gian mang thai 3

tháng 3 tuần 3 ngày. Chọn giống và phối giống: chọn những con đầu thanh, ngực

sau, mình nở, hoạt bát, lưng thẳng, hông rộng, bộ phận sinh dục phát triển và

hoạt động tốt, chu kì động dục của heo là 21 ngày, thời gian dộng duc kéo dài 3

- 5 ngày

Theo Lê Đình Phùng và Hà Thị Nguyệt (2011), lợn rừng Thái Lan có số

con sơ sinh 5,87 con/lứa, số con còn sống đến cai sữa 4,43 con/lứa, khối lượng

sơ sinh đạt 0,37 kg/con, khối lượng cai sữa lúc 120 ngày tuối đạt 13,83 kg/con,

khoảng cách lứa đẻ là 229,3 ngày.

Tác giả Tăng Xuân Lưu và cs 2010 đã chỉ ra một số chỉ tiêu về sự thành thục

về tính của heo rừng Thái Lan và lợn Rừng Việt Nam thể hiện qua bảng 1.1.

Bảng 1.1. Một số chỉ tiêu về sinh lý sinh sản của

lợn rừng Thái Lan và Việt Nam

Đơn

Giới

N

Chỉ tiêu

Giống

Mean ± ME Max Min

vị

tính

(con)

186

Tuổi động hớn

Thái

73,5 ±6,65

108,0

35,0

Ngày

20

lần đầu

Việt

94,43± 5,4

127,0

64,0

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

34

Thái

320

187,53 ± 10,86

301,0

156,0

Việt

20

228,5 ± 8,5

320,0

204,0

Thái

78

229,5 ± 7,54

382,0

167,0

Tuổi phối

Ngày

Việt

20

251,5 ± 11,0

363,0

204,0

giống lần đầu

Thái

78

21,05 ± 1,5

24,0

18,0

Chu kỳ động

Ngày

Việt

20

21,05 ± 1,5

24,0

20,0

dục

Thái

78

2,50 ± 0,05

3,0

2,0

Thời gian

Ngày

Việt

20

-

-

-

động dục

Thái

64

114 ± 0,55

118,0

101,0

Thời gian

Ngày

Việt

20

113,5 ± 2,5

118,0

110,0

mang thai

Thái:

680

52,18

100,0

0,0

Tỉ lệ

%

♂/♀

Việt:

20

54,7

100,0

0,0

đực / cái

Thời gian

Thái:

53

74,37 ± 2,99

123

22

động dục lại

Ngày

Việt:

16

82,5 ± 4,85

142

73,0

sau khi đẻ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

35

Chương 2

ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, NỘI DUNG

VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

2.1.1. Đối tượng nghiên cứu:

- Lợn nái lai 3 máu: [♂ (Rừng x Mường) x ♀ (Đen Hòa Bình)] được tạo ra

từ công thức.

1. ♂ Rừng x ♀ Mường

2. ♂ F1 (RM) x ♀ Đen HB

3. ♀ Lai (¼ R, ¼ M, ½ Đ) x ♂ F1 (RM)

4. Con lai thương thẩm (3/8 R, 3/8 M, 2/8 Đ)

- Sử dụng lợn ♀ Lai (¼ R, ¼ M, ½ Đ) để khảo sát sức sinh sản

- Sử dụng lợn lai thương phẩm từ đàn con của ♀ Lai (¼ R, ¼ M, ½ Đ) x

♂ F1 (RM) ở giai đoạn từ sau cai sữa để khảo sát sức sinh trưởng và hiệu quả sử

dụng thức ăn.

2.1.2. Phạm vi nghiên cứu: Chỉ trong một trang trại

2.1.3. Địa điểm và thời gian nghiên cứu

- Địa điểm nghiên cứu:Tại trại lợn Ngọc Đủi, xã Bình Chân, huyện Lạc

Sơn, tỉnh Hòa Bình.

- Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 6/2018 đến tháng 8/2019.

2.2. Nội dung nghiên cứu

- Theo dõi một số chỉ tiêu về sinh lý sinh dục của nái lai 3 máu (RMĐ)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

- Đánh giá khả năng sinh sản của lợn nái lai 3 máu ( RMĐ) qua 2 lứa đẻ

36

- Đánh giá khả năng sinh trưởng và hiệu quả sử dụng thức ăn của con lai giai

đoạn sau cai sữa

2.3. Phương pháp nghiên cứu

2.3.1. Mô tả thí nghiệm lợn khảo sát trong đề tài

2.3.1.1. Thí nghiệm 1: nghiên cứu đặc điểm sinh lý sinh sản của lợn nái lai ba

máu giữa [♂ (Rừng x Mường) x ♀ (Đen Hòa Bình)]

Thí nghiệm được tiến hành theo dõi trên 11 lợn nái lai ba máu giữa

[♂ (Rừng x Mường) x ♀ (Đen Hòa Bình)] giai đoạn hậu bị và sinh sản (từ

lứa đẻ 1 - 2). Thời gian nuôi được tính từ giai đoạn hậu bị đến hết lứa đẻ thứ 2.

Kỹ thuật chăm sóc, nuôi dưỡng đàn lợn nái Lợn nái chửa được chăm sóc

và nuôi dưỡng theo chế độ riêng. Nái chửa được nhốt vào chuồng hạn chế ra sân

vận động. Chuồng trại luôn được dọn vệ sinh sạch sẽ. Lợn được nuôi theo khẩu

phần để đảm bảo duy trì hoạt động, nuôi thai và tiết sữa nuôi con. Một ngày lợn

được ăn 2 bữa vào gần trưa và chiều tối. Ngoài 2 bữa ăn chính lợn nái chửa được

cung cấp 1 bữa rau xanh trong ngày khoảng từ 1 - 2 kg. Trước khi lợn đẻ 3 - 5

ngày, chuồng lợn được sát trùng và cho đệm lót (rơm, lá chuối khô,…) vào

chuồng làm ổ đẻ, trong thời gian này chế độ ăn tăng về chất lượng giảm về số

lượng tránh thức ăn chèn ép thai. Sau khi đẻ lợn được ăn theo chế độ riêng dựa

vào khối lượng cơ thể và số lượng con để lại nuôi để duy trì hoạt động và tiết

sữa nuôi con. Sau khi cai sữa lợn được chăm sóc để hồi phục và chú ý theo dõi

động dục để phối giống sau đẻ.

Kỹ thuật chăm sóc đàn lợn con theo mẹ: Lợn con sinh ra được lau khô, cắt

nanh, cắt rốn, cho bú sữa đầu, mùa đông thắp bóng điện sưởi ấm cho lợn con.

Chuồng nuôi luôn được vệ sinh sạch sẽ nhằm hạn chế bệnh cho lợn con nhất là

bệnh lợn con phân trắng, lợn con được ra sân chơi tự do có dào ngăn cách với bên

ngoài. Tập ăn cho lợn con từ 21 ngày tuổi, cai sữa cho lợn ở độ tuổi 45 ngày.

2.3.1.1. Thí nghiệm 2: nghiên cứu sức sinh trưởng của con thương phẩm từ cai

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

sữa đến 75 ngày tuổi.

37

Thí nghiệm theo dõi trên đàn lợn nái lai sinh ra từ công thức lai giữa lợn

con của đàn nái đang khảo sát khi phối với ♂ F1 (RM). Sinh trưởng của lợn con

thương phẩm dựa trên kết quả theo dõi trực tiếp nuôi tại trại lợn Ngọc Đủi, xã

Bình Chân, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình.

Thời gian nuôi từ sau cai sữa 45 ngày đến 75 ngày tuổi. Số lượng nuôi là

30 lợn.

* Quy trình nuôi dưỡng: thực hiện theo chế độ nuôi dưỡng lợn rừng lai

với lợn địa phương mà trang trại đang áp dụng:

Đối với thức ăn tinh bao gồm: Cám gạo loại 1, ngô hạt được nghiền nhỏ,

bột cá và khô đỗ tương được rang chín nghiền nhỏ có mùi thơm hấp dẫn và bổ

sung thức ăn khác dưới dạng chế biến sẵn trên thị trường.

Đối với thức ăn xanh bao gồm nhiều loại rau xanh, thân cây ngô, cây chuối

tận dụng nguồn thức ăn có sẵn tại địa phương. Thức ăn xanh được thái nhỏ và bổ

sung hàng ngày cho ăn tự do nhưng theo dõi đánh giá định mức sử dụng thức ăn

xanh để có kế hoạch chủ động cung cấp thức ăn xanh cho các lô thí nghiệm.

- Về chăm sóc, nuôi dưỡng: Lợn được nuôi bán chăn thả, cho ăn theo bữa

(2-3 bữa/ngày tùy theo tuổi).

2.3.2. Các chỉ tiêu theo dõi lợn nái và công thức tính

* Chỉ tiêu về sinh lý sinh dục của nái lai (RMĐ)

- Tuổi động dục lần đầu (ngày)

- Khối lượng động dục lần đầu (kg /con)

- Tuổi phối giống lần đầu (ngày)

- Khối lượng phối giống lần đầu (kg /con)

- Chu kì động dục ( ngày )

- Thời gian động dục ( ngày )

- Tuổi đẻ lứa đầu (ngày)

* Các chỉ tiêu về khả năng sinh sản của nái lai (RMĐ

- Số con đẻ ra/ổ (con/ổ) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

38

- Số con đẻ ra còn sống đến 24 giờ/ổ (con)

- Khối lượng sơ sinh/ổ : (kg / ổ)

- Khối lượng lúc sơ sinh /con : (kg/con)

Khối lượng toàn ổ SS sống (kg) KLSS sống = Số lợn con còn sống trong ổ (con)

- Số con lúc cai sữa/ổ (con/ổ)

- Khối lượng cai sữa/con (kg/con)

Khối lượng lợn con toàn ổ khi cai sữa (kg) KLCS = Số con cai sữa (con)

- Thời gian động dục trở lại và phối giống có kết quả (ngày)

- Khoảng cách giữa hai lứa đẻ ( ngày)

- Tỷ lệ sống sau 24 giờ (%)

Số con còn sống sau 24 giờ Tỷ lệ sống (%) = 100 Số con đẻ ra

- Tỷ lệ nuôi sống đến cai sữa (%)

Số con cai sữa TLNSĐCS (%) = 100 Số con sơ sinh để nuôi

2.3.3. Các chỉ tiêu đánh giá lợn thương phẩm và công thức tính

* Chỉ tiêu đánh giá khả năng sinh trưởng :

- Sinh trưởng tích lũy : Thông qua các kỳ cân

Áp dụng phương pháp thường qui trong chăn nuôi, cân đúng qui định,

đúng thời gian ( 1 lần / tháng nuôi )

- Sinh trưởng tuyệt đối ( A ) ĐVT: gam / con / ngày, theo công thức

V2 - V1 A (g/con/ ngày) = T2 - T1

Sinh trưởng tương đối: Sinh trưởng tương đối của lợn được tính theo công

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

thức sau.

39

W2 - W1 R (%) = x 100 W2 + W1

2

Trong đó: (R %) là độ sinh trưởng lương đối.

W2 khối lượng kích thước, thể tích tại thời điểm sau.

Wl khối lượng kích thước, thể tích lại thời điểm trước.

* Các chỉ tiêu về tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối lượng

Tổng khối lượng thức ăn cho ăn (kg) - KL thức ăn thừa (kg)

TTTĂ (kg/kg) = Tổng khối lượng lợn tăng (kg)

2.3.4. Phương pháp xử lý số liệu

Số liệu được xử lý trên máy tính bằng phần mềm Minitab 18.0, một số tham

số được tính toán theo phương pháp thống kê sinh vật học của Nguyễn Văn Thiện

(2002) và chương trình Excel 2010 với các tham số thống kê như sau:

Số trung bình ( )

= =

Độ lệch chuẩn (S ):

S =

Sai số trung bình mẫu (m ):

m = (n 30)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Hệ số biến dị (Cv):

40

x 100 Cv (%) =

Chương 3

KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN

3.1. Kết quả theo dõi về sinh lý sinh dục và khả năng sinh sản của lợn nái

lai (RMĐ)

3.1.1. Kết quả theo dõi về sinh lý sinh dục của lợn nái lai (RMĐ)

Khả năng sinh sản của lợn nái chịu ảnh hưởng rất lớn bởi các chỉ tiêu sinh

lý sinh dục. Việc quyết định thời điểm đưa lợn nái vào khai thác là rất quan

trọng, vì nó ảnh hưởng đến số lượng và chất lượng đàn con sinh ra, quan trọng

hơn là độ bền của lợn nái. Theo dõi qua sổ ghi chép của 11 lợn nái lai [♂ F1

(Rừng x Mường) x ♀ (Đen Hòa Bình)] (RMĐ) về các chỉ tiêu sinh lý sinh dục

chúng tôi thu được kết quả và trình bày ở bảng 3.1:

Bảng 3.1: Một số chỉ tiêu sinh lý sinh dục của lợn nái lai

(RMĐ), (n = 11)

+ m TT Các chỉ tiêu theo dõi ĐVT Cv(%)

1 Tuổi động dục lần đầu ngày 197,18 + 0,20 0,31

2 Khối lượng động dục lần đầu Kg/con 21,66 + 0,11 1,75

3 Tuổi phối giống lần đầu ngày 224,60 + 0,72 1,06

4 Khối lượng phối giống lần đầu Kg/con 25,14 + 0,12 1,58

5 Chu kỳ động dục ngày 22,45 + 0,16 2,33

Thời gian động dục ngày 3,45+ 0,16 15,12 6

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Tuổi đẻ lứa đầu ngày 338,91 + 0,64 0,63 7

41

Kết quả bảng 3.1 cho thấy tuổi động dục lần đầu của lợn nái lai trung

bình khoảng 197,18 ngày tương đương khoảng 6,5 tháng tuổi. Theo nghiên

cứu của Trần Văn Do (2004), tuổi động dục lần đầu của lợn Vân Pa là 230,00

ngày. Nghiên cứu của Lê Đình Cường và cs, 2008 thì tuổi động dục lần đầu

của lợn Mường Khương là 225,00 ngày như vậy, kết quả của chúng tôi là cao

hơn. Tuy nhiên, theo Tăng Xuân Lưu và cs, (2010), lợn rừng Thái Lan nuôi

tại Nam trung bộ, Bắc Giang, Ba Vì có tuổi động dục lần đầu là 187,53 ngày

thì kết quả của chúng tôi cao hơn. So với kết quả nghiên cứu của Hoàng Văn Hùng

(2014) cũng nghiên cứu về lợn nái lai F1 (♂ rừng x ♀ địa phương) thì kết quả của

chúng tôi là tương đương (khoảng 196,23 ngày). Nhìn chung thì tuổi động dục

lần đầu của lợn rừng khoảng 6 - 7 tháng tuổi (Đào Lệ Hằng, 2008).

Khối lượng động dục lần đầu của lợn nái lai trong thí nghiệm của chúng

tôi là 21,66 kg. Kết quả này cao hơn so với khoảng nghiên cứu của Đào Lệ

Hằng (2008) thì trong lượng động dục lần đầu của lợn rừng dao động khoảng

18 - 20 kg và cao hơn với nghiên cứu của Hoàng Văn Hùng (2014) cũng

nghiên cứu về lợn nái lai F1(♂ rừng x ♀ địa phương) có khối lượng động dục

lần đầu là 18 - 19 kg.

Xác định tuổi phối giống lần đầu của lợn để đạt được khối lượng cơ thể

phù hợp bắt đầu cho cuộc đời sinh sản là hết sức quan trọng. Chỉ tiêu này phải

đảm bảo được hai yêu cầu là lợn đã trải qua một đến hai lần động dục, khối lượng

cơ thể phải đạt yêu cầu của giống. Kết quả theo dõi lợn nái lai ♂ F1 (Rừng x

Mường) x ♀ (Đen Hòa Bình) dao động trong khoảng 224,60 ngày. Theo Hoàng

Văn Hùng (2014) thì lợn rừng và lợn rừng lai cũng có tuổi phối giống lần đầu từ

211 - 226 ngày. Như vậy kết quả của chúng tôi nằm trong khoảng nghiên cứu này.

Theo nghiên cứu của Đào Lệ Hằng (2008); Lê Đình Cường và cs (2008);

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Tăng Xuân Lưu và cs (2010) và Hoàng Văn Hùng (2014) thì chu kỳ động dục của

42

lợn rừng do động từ 20 - 22 ngày. Kết quả của chúng tôi là 22,45 ngày như vậy

kết quả của chúng tôi cao hơn so với với các nghiên cứu trước đó.

Theo như các nghiên cứu trước đó thì thời gian động dục của lợn nái rừng là

3 - 4 ngày (Đào Lệ Hằng, 2008; Lê Đình Cường và cs, 2008; Tăng Xuân Lưu và

cs, 2010 và Hoàng Văn Hùng, 2014). Kết quả nghiên cứu thời gian động dục của

lợn nái lai (RMĐ) của chúng tôi là 3,45 ngày. So với kết quả nghiên cứu của Hoàng

Văn Hùng (2014) thì lợn rừng và lợn rừng lai có thời gian động dục từ 3,53 - 3,71

ngày như vậy, kết quả của chúng tôi nằm trong nghiên cứu này.

Tuổi đẻ lứa đầu phụ thuộc rất lớn vào tuổi phối giống lần đầu và tỷ lệ thụ

thai của lần phối giống đầu tiên. Kết quả khảo sát đàn lợn nái lai (RMĐ) cho thấy

tuổi đẻ lứa đầu dao động trong khoảng 338,91 ngày. Kết quả khảo sát của chúng

tôi cao hơn kết quả nghiên cứu của Nguyễn Văn Đức và cs (2004), trên lợn Táp Ná

có tuổi đẻ lứa đầu là 13,60 tháng và lợn Mường Khương là 11 tháng (330 ngày) Lê

Đình Cường (2008). Tương tự đối với lợn Sóc là 10 - 15 tháng (Lê Thị Biên và cs,

2006), nhưng thấp hơn so với kết quả của Tăng Xuân Lưu và cs (2010), lợn rừng

Thái Lan có tuổi đẻ lứa đầu là 343,5 ngày.

3.1.2. Kết quả theo dõi khả năng sinh sản của lợn nái (RMĐ)

3.1.2.1. Kết quả theo dõi ở lứa 1

Chúng tôi tiến hành theo dõi năng suất sinh sản trên 11 ổ đẻ của lợn nái

lai RMĐ tại các lứa đẻ 1 và 2 kết quả thu được như sau:

Bảng 3.2. Kết quả theo dõi ở lứa 1 (n=11)

+ m TT Các chỉ tiêu theo dõi ĐVT Cv(%)

Số con đẻ ra/ ổ 6,91 + 0,21 10,14 con 1

Số con sống sau 24 giờ /ổ 6,73 + 0,14 6,94 con 2

Tỷ lệ sơ sinh sống sau 24 giờ % 97,73 + 1,52 5,17 3

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Số con lúc cai sữa/ổ con 6,09 + 0,21 11,50 4

43

5 Tỷ lệ nuôi sống đến cai sữa % 90,48 + 2,29 8,40

6 Khối lượng sơ sinh /ổ Kg/ổ 2,90 + 0,09 9,79

7 Khối lượng sơ sinh/con Kg/con 0,42 + 0,00 2,84

8 Khối lượng cai sữa/ổ Kg/ổ 24,99 + 0,87 11,56

9 Khối lượng cai sữa/con Kg/con 4,10 + 0,01 0,51

Số con đẻ ra/ổ đánh giá sự sai con của lợn mẹ và phụ thuộc vào giống,

kỹ thuật phối giống, các giống thuần thường có đẻ sai hơn lợn rừng và giống

địa phương. Hiện nay các giống lợn ngoại tại Việt Nam đều có số con sơ sinh/ổ

trên 11 con, đối với một số giống lợn nội thì chỉ tiêu này dao động từ 7 đến 11

con. Kết quả khảo sát trên lợn nái lai (RMĐ) của chúng tôi bình quân khoảng

6,91 con/ổ. Kết quả này so lợn Vân Pa tại Trường trung cấp Nông Nghiệp &

PTNT Quảng Trị đạt 6,50 con/ổ Trần Văn Do (2004); so với lợn rừng Thái Lan

và con lai F1 có số con đẻ ra trên ổ lần lượt là: 6,36 và 6,78 con/ổ Hoàng Văn

Hùng (2014). So với thông báo của Lê Đình Phùng và cs (2011), lợn rừng Thái

Lan nuôi tại miền trung có số con sơ sinh đạt 5,87 con/ổ, thì kết quả của chúng

tôi là cao hơn.

Kết quả bảng 3.2 cho thấy số con còn sống sau 24 giờ/ổ của lợn nái lai

(RMĐ) là 6,73 con/ổ tương đương với 97,73 %. So với nghiên cứu về lợn rừng thì

tỷ lệ sơ sinh sống sau 24 giờ là dưới 90 % (Trần Văn Do, 2004; Đào Lệ Hằng,

2008; Lê Đình Cường và cs, 2008; Tăng Xuân Lưu và cs, 2010 và Hoàng Văn

Hùng, 2014). Như vậy kết quả của chúng tôi cao hơn, điều này chứng tỏ ưu thế lai

về tỷ lệ còn sống sau 24 giờ được thể hiện ở con lai (RMĐ).

Số con cai sữa của lợn nái lai là 6,09 con/ổ tương ứng với 90,48 % kết quả

này vẫn cao hơn so với nghiên cứu của Trần Văn Do (2004), Đào Lệ Hằng

(2008), Lê Đình Cường và cs (2008), Tăng Xuân Lưu và cs (2010), Hoàng Văn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Hùng (2014) về lợn rừng và lợn rừng lai. Như vậy, kết quả chăm sóc và nuôi

44

dưỡng ở và ưu thế lai của lợn nái nai đã cải thiện tỷ lệ số của đàn con cao hơn

so với các nghiên cứu trước đó.

Khối lượng sơ sinh của lợn nái lai (RMĐ) là 2,90 kg/ổ tương đương với

0,42 kg/con so với nghiên cứu của Trần Văn Do (2008), khối lượng sơ sinh/con

đối với lợn Vân Pa là 0,25 kg thì kết quả của chúng tôi cao hơn; so với nghiên

cứu của Lê Đình Cường (2008) khối lượng sơ sinh/con đối với lợn rừng Thái

Lan nuôi tại miền trung là 0,33 - 0,47 kg (Lê Đình Phùng và cs, 2011); lợn rừng

Tăng Xuân Lưu và cs (2010) thì kết quả của chúng tôi là tương đương. So với

một số giống lợn nội khác thì kết quả của chúng tôi thấp như lợn Táp Ná là

0,47 - 0,50 kg (Nguyễn Văn Đức và cs, 2008); lợn Sóc là 0,40 - 0,45 kg (Lê

Thị Biên và cs, 2006); lợn Ỉ Thanh Hoá là 0,49 kg (Nguyễn Như Cương và Lê

Thị Biên, 2008).

Khối lượng cai sữa/ổ ở (45 ngày) của lợn nái lai (RMĐ) là 24,99 kg/ổ

tương ứng với 4,10 kg/con kết quả này tương đương so với các nghiên cứu về

lợn rừng (3,77 - 4,01 kg/con) và lợn rừng lai (4,08 - 4,21 kg/con) (Đào Lệ Hằng,

2008; Lê Đình Cường và cs, 2008; Tăng Xuân Lưu và cs, 2010; Hoàng Văn

Hùng, 2014).

3.1.2.2. Kết quả theo dõi ở lứa 2

Kết thúc lứa đẻ thứ 1 chúng tôi tiến hành phối giống lại để đánh giá khả

năng sinh sản của lợn nái lai (RMĐ) ở lứa đẻ thứ 2. Kết quả được trình bày tại

bảng 3.3.

Bảng 3.3. Khả năng sinh sản của lợn nái lai (RMĐ) ở lứa thứ 2

+ m TT Các chỉ tiêu theo dõi ĐVT Cv(%)

Số con đẻ ra/ ổ con 7,36 + 0,20 9,16 1

Số con sống sau 24 giờ/ổ con 7,09 + 0,21 9,88 2

Tỷ lệ sơ sinh sống sau 24 giờ % 96,43 + 1,85 6,36 3

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Số con lúc cai sữa/ổ con 6,45 + 0,16 8,09 4

45

5 Tỷ lệ nuôi sống đến cai sữa % 91,40 + 2,07 7,51

6 Khối lượng sơ sinh /ổ Kg/ổ 3,94 + 0,11 9,33

7 Khối lượng sơ sinh/con Kg/con 0,53 + 0,00 1,22

8 Khối lượng cai sữa/ổ Kg/ổ 27,55 + 0,69 8,27

9 Khối lượng cai sữa/con Kg/con 4,27 + 0,01 0,60

10 Thời gian động dục lại sau cai sữa ngày 15,73 + 0,24 5,00

11 Khoảng cách lứa đẻ ngày 178,73 + 0,49 0,91

Số con đẻ ra/ổ của lợn nái (RMĐ) ở lứa đẻ thứ 2 là khoảng 7,36 con/ổ. Kết

quả này cao hơn so công bố của Nguyễn Thiện và cs (2005) về số con cai sữa của

lợn Móng Cái từ lứa 2 - 5 cao hơn 6,81 con/ổ. So với nghiên cứu của Hoàng Văn

Hùng, 2014 thì lợn lai F1 (♂ rừng x ♀ địa phương) là 7,36 con/ổvà so với một số

giống lợn rừng thì tỷ lệ đẻ của lứa 2 khoảng 5 - 6 con/ổ (Trần Văn Do, 2004; Đào

Lệ Hằng, 2008; Lê Đình Cường và cs, 2008; Tăng Xuân Lưu và cs, 2010; Hoàng

Văn Hùng, 2014) thì kết quả của chúng tôi là cao hơn

Số con sống sau 24 giờ/ổ của lứa đẻ 2 là 7,09 con/ổ tương ứng với 96,43 %.

Theo Trần Văn Do (2004); Đào Lệ Hằng (2008), Lê Đình Cường và cs (2008);

Tăng Xuân Lưu và cs (2010) và Hoàng Văn Hùng (2014) thì tỷ lệ sơ sinh sống sau

24 giờ/ổ của lợn địa phương là dưới 90 ở lứa đẻ 2. Như vậy, kết quả của chúng tôi

là cao hơn.

Số con sống đên khi cai sữa của lợn nái lai (RMĐ) là 6,45 con/ổ tương ứng

với 91,40%. Theo Lê Đình Cường và cs (2008) nghiên cứu trên đàn lợn Mường

Khương số con lứa 2 của chỉ tiêu này là 5,71 con/lứa thì kết quả của chúng tôi cao

hơn. Kết quả của chúng tôi thấp hơn so với công bố của Nguyễn Thiện và cs (2005)

về số con cai sữa của lợn Móng Cái lứa 2 là 6,81 con/ổ.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Khối lượng sơ sinh/ổ của lợn nái lai (RMĐ) ở lứa đẻ 2 là 3,94 kg/ổ tương

46

ứng với 0,53 kg/con. Khối lượng sơ sinh phụ thuộc vào giống và số con đẻ ra sống

nên so với giống lợn móng cái theo nghiên cứu của Nguyễn Văn Thiện và cs (1999)

lần lượt từ lứa 2 là 5,30 kg/ổ. Điều này là do số con sơ sinh sống/ổ và khối lượng

sơ sinh/con của lợn Móng Cái lớn hơn lợn lai (RMĐ). So sánh với lợn Mương

Khương (Lê Đình Cường và cs, 2008), chỉ tiêu này trung bình của lứa 2 là 2,87

kg/ổ thì kết quả của chúng tôi đạt cao hơn. So với lợn rừng thái lan của tác giả

Hoàng Văn Hùng (2014) thì khối lượng sơ sinh/ổ của lứa 2 là 2,10 kg/ổ thì kết quả

của chúng tôi là cao hơn.

Khối lượng cai sữa/ổ của lợn nái lai (RMĐ) là 26,27 kg/ổ tương ứng với

4,09 kg/con. So với lợn rừng thái lan thì khối lượng sơ sinh/ổ dao động từ 15,85

đến 19,4 kg/ổ (Hoàng Văn Hùng, 2014) thì kết quả của chúng tôi cao hơn. So với

các giống lợn địa phương của các tác giả Trần Văn Do (2004); Đào Lệ Hằng (2008);

Lê Đình Cường và cs (2004); Tăng Xuân Lưu và cs (2010) và Hoàng Văn Hùng

(2014) thì thấp hơn (khối lượng sơ sinh/ổ dao động từ 30 kg/ổ).

Thời gian phối giống có chửa hay thời gian động dục lại sau cai sữa hay là

thời gian chờ phối là khoảng thời gian từ cai sữa đến phối giống trở lại. Thời gian

phối giống có chửa khi cai sữa có ý nghĩa quan trọng, bởi thời gian phối giống trở

lại sau cai sữa càng nhanh thì khoảng cách lứa đẻ càng ngắn và sẽ làm tăng số lứa

đẻ/năm. Kết quả theo dõi thời gian động dục lại sau cai sữa của lợn nái lai (RMĐ)

là 15,73 ngày kết quả này so với giống lợn địa phương và giống lợn rừng dao động

từ 13 - 15 ngày (Trần Văn Do, 2004; Đào Lệ Hằng, 2008; Lê Đình Cường và cs,

2008; Tăng Xuân Lưu và cs, 2010; và Hoàng Văn Hùng, 2014) như vậy kết quả

của chúng tôi là tương đương.

Khoảng cách lứa đẻ là chỉ tiêu tổng quan nhất để đánh giá năng suất chăn

nuôi lợn nái. Đây là thời gian để lợn nái hoàn thành một chu kỳ sinh sản, bao gồm:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Thời gian chửa + thời gian nuôi con + thời gian động dục lại sau cai sữa và phối

47

giống có chửa. Trong 3 yếu tố này thì thời gian mang thai là không thể thay đổi

để rút ngắn khoảng cách giữa 2 lứa đẻ. Khoảng cách lứa đẻ ngắn sẽ làm tăng số

lứa đẻ của lợn nái/năm. Khoảng cách lứa đẻ của lợn nái (RMĐ) trong thí nghiệm

của chúng tôi là 178,73 ngày. Theo Nguyễn Văn Thiện và cs (1999) thì khoảng

cách lứa đẻ của lợn Móng Cái là 169,02 ngày như vậy kết quả của chúng tôi là

cao hơn. Theo Hoàng Văn Hùng (2014) thì lợn rừng Thái Lan, lợn địa phương và

F1 động dục lại sai cai sữa muộn hơn nhiều (khoảng 187 - 199 ngày). Nguyên

nhân dẫn đến hiện tượng trên là do đặc điểm về giống cũng như chế độ dinh dưỡng

và quy trình chăm sóc nuôi dưỡng khác nhau.

3.1.2.3. Khả năng sinh sản của lợn nái lai (RMĐ) qua 2 lứa đẻ

Kết quả theo dõi 2 lứa đẻ của lợn nái lai (RMĐ) được trình bày tại bảng 3.4.

Bảng 3.4. Khả năng sinh sản của lợn nái lai (RMĐ) qua 2 lứa đẻ

Lứa 1

Lứa 2

Trung bình

Chỉ tiêu

ĐVT

+ m Cv(%)

+ m Cv(%)

+ m Cv(%)

SC đẻ ra /ổ

con

6,91 + 0,21

10,14 7,36 + 0,20

9,16

7,14 + 0,14

6,34

SC sống sau 24h/ổ

con

6,73 + 0,14

6,94

7,09 + 0,21

9,88

6,91 + 0,11

5,43

TL sống sau 24h

%

97,73 + 1,52

5,17 96,43 + 1,85 6,36 97,08 + 1,60 5,46

SC lúc CS/ổ

con

6,09 + 0,21

11,50 6,45 + 0,16

8,09

6,27 + 0,12

6,54

TL sống đến CS

%

90,48 + 2,29

8,40 91,40 + 2,07 7,51 90,94 + 1,43 5,23

KL sơ sinh/ổ

kg

2,90 + 0,09

9,79

3,94 + 0,11

9,33

3,42 + 0,07

6,47

KL sơ sinh/con

kg

0,42 + 0,00

2,84

0,53 + 0,00

1,22

0,48 + 0,00

1,35

KL cai sữa/ổ

kg 24,99 + 0,87 11,56 27,55 + 0,69 8,27 26,27 + 0,54 6,81

KL cai sữa/con

kg

4,10 + 0,01

0,51

4,27 + 0,01

0,60

4,19 + 0,01

0,50

Số con đẻ ra/ổ phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong đó lứa là yếu tố quan trọng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

ảnh hưởng đến khả năng sinh sản của lợn nái vì có sự khác nhau về chức năng

48

theo tuổi của lợn nái. Khả năng sinh sản của lợn nái thường thấp nhất ở lứa đẻ thứ

nhất, đạt cao nhất ở lứa đẻ thứ 3, 4, 5 và sau đó gần như là ổn định hoặc hơi giảm

khi lứa đẻ tăng lên. Andersson và Melammy (1972); theo Ian Gordon (1997). Kết

quả theo dõi lợn nái lai cho thấy số con đẻ ra/ổ của lứa 1 là 6,91 con/ổ so với lứa

2 là cao hơn 0,45 con/ổ. Số con đẻ ra/ổ trung bình của 2 lứa đẻ là 7,14 con/ổ

Số con sống sau 24 giờ/ổ của lứa đẻ thứ nhất là 6,73 con/ổ thấp hơn so với

lứa đẻ hai (7,09 con/ổ). Tuy nhiên, tỷ lệ nuôi sống sau 24 giờ/ổ của lứa 1 là

97,73% cao hơn so với lứa 2 (96,43%). Số con sống sau 24 giờ/ổ trung bình của

2 lứa đẻ là 6,91 con/ổ tương ứng với 97,08%

Tương tự như số con sống sau 24 giờ/ổ thì số con cai sữa/ổ của lứa 1 là

6,09 con/ổ thấp hơn so với lứa 2 là 7,09 con/ổ nhưng tỷ lệ nuôi sống đến cai sữa

của lứa 1 là 90,48% cao hơn so với lứa 2 là 91,40%. Số con cai sữa/ổ trung bình

của 2 lứa đẻ là 6,27 con/ổ tương ứng với 90,94%

Khối lượng sơ sinh/ổ của lứa 1 là 2,90 kg/ổ tương ứng với 0,42 kg/con thấp

hơn so với lứa 2 là 3,94 kg/ổ và 0,53 kg/con. Khối lượng sơ sinh/ổ trung bình của

2 lứa đẻ là 3,42 kg/ổ tương ứng với 0,48 kg/con.

Khối lượng cai sữa/ổ của lứa 1 là 24,99 kg thấp hơn so với lứa 2 là

27,55 kg. Khối lượng cai sữa/con của lứa 1 là 4,10 kg thấp hơn so với lứa 2

(lứa 2 là 4,27 kg). Khối lượng cai sữa/ổ trung bình của 2 lứa đẻ là 26,27 kg

tương ứng với 4,19 kg/con.

3.1.3. Kết quả xác định hệ số tương quan giữa các chỉ tiêu sinh sản của lợn

nái lai (RMĐ)

Kết quả xác định hệ số tương quan giữa các chỉ tiêu sinh sản của lợn nái lai

[♂ F1 (Rừng x Mường) x ♀ (Đen Hòa Bình)] được trình bày tại bảng 3.5.

Kết quả bảng 3.5 Cho thấy các tính trạng số con đẻ ra/ổ có tương quan

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

thuận và rất chặt chẽ với nhau với độ tin cậy cao P < 0,001. Mức độ tương

49

quan giữa số con đẻ ra/ổ với các tính trạng số con còn lại giảm dần theo ngày

tuổi của lợn con: Mức độ tương quan của các tính trạng số con đẻ ra/ổ với số

con đẻ ra còn sống sau 24h/ổ và số con cai sữa/ổ lần lượt là 0,725 và 0,644.

Các tính trạng số con đẻ ra còn sống sau 24h/ổ với số con cai sữa/ổ đều thể

hiện khuynh hướng giống như chie tiêu số con đẻ ra (với mức độ tương quan

là 0,868).

Như vậy, chọn lọc và nâng cao số con đẻ ra còn sống/ổ sẽ nâng cao được

số con cai sữa trên/ổ.

Bảng 3.5. Hệ số tương quan giữa các chỉ tiêu sinh sản

của lợn nái (RMĐ) (n = 11)

Số con

KL

KL

Số con

KL

Số con

Chỉ tiêu

đẻ ra

cai

cai

đẻ ra/ổ

sống/ổ

sinh/ổ

sinh/con

sữa/ổ

sữa/ổ

0,725

Số con đẻ ra sống/ổ

0,000

0,950

0.554

KL sơ sinh/ổ

0,000

0.011

- 0,200

- 0.585

0.113

KL sơ sinh/con

0,399

0.007

0.636

0,644

0.868

0.459

- 0.625

Số con cai sữa/ổ

0.002

0.000

0.042

0.003

0,636

0.857

0.456

0.999

- 0.609

KL cai sữa/ổ

0,003

0.000

0.043

0.000

0.004

0.458

- 0,350

- 0.471

- 0.210

- 0.387

- 0.338

KL cai sữa/con

0.042

0,130

0.036

0.373

0.092

0.145

Ghi chú: Ở mỗi chỉ tiêu (Hàng thứ nhất là hệ số tương quan “r”; Hàng thứ hai là mức

tin cậy “P”)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

50

Các tính trạng số con đẻ ra/ổ có mối tương quan thuận với tính trạng khối

lượng toàn ổ ở các thời điểm tương ứng với mức P < 0,0001 và mối quan hệ

này rất chặt chẽ r = 0,950. Hệ số tương quan giữa số con cai sữa/ổ với khối

lượng toàn ổ cai sữa là r = 0,999. Như vậy, hệ số tương quan giữa các cặt tính

trạng số con/ổ với khối lượng toàn ổ có xu hướng giảm dần theo ngày tuổi

của lợn con.

Ngược lại với cặt tính trạng trên, cặt tính trạng số con đẻ ra/ổ có mối tương

quan nghịch với khối lượng trung bình 1 lợn con ở thời điểm tương ứng và ở

mức độ tương quan cao. Hệ số tương quan của cặt tính trạng này ở thời điểm

sơ sinh (khối lượng trung bình 1 lợn con sơ sinh với số con đẻ ra sống) r = -

0,585 (P < 0,05); ở thời điểm cai sữa r = - 0,471 (P < 0,05).

Tương quan giữa cặp tính trạng khối lượng sơ sinh/con với tính trạng

khối lượng cai sữa/con có mối tương quan dương, tương quan ở mức độ thấp.

Hệ số tương quan r = 0,458 với p < 0,05. Như vậy, ta có biện pháp chọn lọc

khối lượng sơ sinh của lợn con qua đó nâng cao được cường độ sinh trưởng

của lợn con.

Theo Wu (1982) hệ số tương quan giữa số con đẻ ra còn sống với khối

lượng toàn ổ sơ sinh là r = 0,72; Theo Blasco và cs, (1993) thì r = 0,82; Tác giả

Bereskin và cs (1981) hệ số tương quan kiểu hình giữa số con cai sữa với khối

lượng toàn ổ sau cai sữa là r = 0,87. Còn theo Strang và cs (1979) thì r = 0,80.

Cũng theo các tác giả nói trên hệ số tương quan kiểu hình giữa số con cai sữa

với khối lượng toàn ổ sau cai sữa là 0,999. Như vậy, trong thời kỳ lợn con sống

phụ thuộc chủ yếu bằng sữa mẹ thì mối tương quan giữa số con trong ổ và khối

lượng toàn ổ là rất chặt chẽ.

Từ kết quả phân tích về hệ số tương qan giữa các chỉ tiêu năng suất sinh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

sản của lợn nái lai ở trên ta có thể đưa ra một số nhận xết như sau:

51

Số con đẻ ra/ổ – số con/ổ ở các giai đoạn tiếp theo và số con/ổ – khối lượng

toàn ổ ở các giai đoạn tương ứng đều có mối tương quan thuận và rất chặt chẽ

với nhau, với mức tin cậy cao (P < 0,0001). Về mặt giá trị của hệ số tương quan

đều giảm theo ngày tuổi.

Ngược lại số con/ổ – khối lượng/con ở các giai đoạn tương ứng có mối

tương quan nghịch với nhau, với mức tương quan thấp.

Như vậy, việc chọn lọc nâng cao số con để nuôi/ổ. Số con cai sữa/ổ, khối

lượng cai sữa/ổ ta dựa vào các chỉ tiêu số con để ra còn sống/ổ sẽ hiệu quả cao.

Khối lượng/con – khối lượng/ổ ở các thời điểm tương ứng có mối tương

quan tuận nhưng không chặt chẽ, tương quan ở mức độ thấp

Khối lượng sơ sinh/con – khối lượng cai sữa/con có mối tương quan thuận

nhưng không chặt chẽ, tương quan ở mức độ thấp

Như vậy, tốc đọ phát triển của lợn con từ sơ sinh đến cai sữa ít bị ảnh hưởng

bởi khối lượng sơ sinh/con.

3.2. Kết quả theo dõi khả năng sinh trưởng của lợn con giai đoạn sau cai

sữa của lợn thương phẩm

Dựa vào đặc điểm của lợn đen Hòa Bình (ĐHB), chúng tôi tiến hành

cho lai với đực F1(RM) nhằm cải thiện về số con/lứa đẻ và khối lượng con

lúc sơ sinh và cai sữa, đồng thời tiến tới nâng cao năng suất chăn nuôi lợn thịt

mà không ảnh hưởng nhiều đến chất lượng lợn sản phẩm. Tuy nhiên, do điều

kiện về thời gian thí nghiệm, cũng như đặc điểm sản xuất của trại là không

nuôi lợn thịt, mà chỉ nuôi sau cai sữa đến 70 - 75 ngày rồi xuất bán theo giá

lợn con giống, nên tôi không thể theo dõi, khảo sát đàn lợn thương phẩm nuôi

thịt đến lúc giết mổ để đánh giá các chỉ tiêu của thịt lợn sau giết mổ. Để đánh

giá khả năng sinh trưởng của lợn thương phẩm chúng tôi tiến hành nuôi lợn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

con sau cai sữa (45 ngày) đến 75 ngày tuổi tức là nuôi thêm 30 ngày sau cai

52

sữa. Quá trình theo dõi sinh trưởng của thế hệ lợn con của nái 3 máu này

chúng tôi sẽ trình bày trên ba góc độ là: Sinh trưởng tích lũy, tuyệt đối và

tương đối qua ba giai đoạn tuổi 45 ngày (cai sữa); 60 ngày và 75 ngày. Kết

quả như sau:

3.2.1. Khả năng sinh trưởng tích lũy của lợn thương phẩm

Để đánh giá sinh trưởng của lợn chúng tôi tiến hành chọn lọc 30 lợn con sau

cai sữa để nuôi tiếp đến 75 ngày tuổi. Kết quả theo dõi sinh trưởng tích lũy qua 45;

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

60 và 75 ngày tuổi của đàn lợn thương phẩm được trình bày tại bảng 3.6

53

Bảng 3.6. Khả năng sinh trưởng tích lũy

của lợn thương phẩm ( n = 30 )

Kết quả Ngày tuổi + m n Cv%

Cai sữa 45 ngày 30 4,29 + 0,05 0,25

60 ngày 27 5,42 + 0,03 0,32

75 ngày 27 6,33 + 0,02 1,29

Khối lượng của lợn lúc bắt đầu thí nghiệm là 45 ngày tuổi tương ứng với

giai đoạn sau cai sữa. Khối lượng trung bình của đàn lợn là 4,29 kg/con. So với các

giống lợn lợn Ỉ pha là 5,15 kg/con (Nguyễn Như Cương và và Lê Thị Biên, 2008);

lợn Mường Khương nuôi thả kết hợp nhốt là 4,50 - 5,50 kg/con, nuôi nhốt hoàn

toàn là 6,60 - 6,80 kg/con (Lê Đình Cường, 2008); Lợn rừng F2 (♂ rừng Thái Lan

× ♀ F1 (♂ rừng Thái Lan ×♀ địa phương Ngân Sơn) là 4,11 kg/con (Hoàng Văn

Hùng, 2014) thì lợn thí nghiệm của chúng tôi là thấp hơn. Nhưng cao hơn so với

lợn Sóc nuôi thả là 3,85 kg/con (Lê Thị Biên và cs, 2006),

Giai đoạn 60 ngày tuổi khối lượng của lợn thương phầm tăng tương đối

thấp chỉ đạt 5,42 kg/con. Tuy nhiên, giai đoạn này do lợn mới cai sữa nên

chịu ảnh hưởng của yếu tố dinh dưỡng dẫn đến mức tăng khối lượng chậm.

Giai đoạn 60 - 75 ngày tuổi lợn thích nghi làm quen với chế độ dinh dưỡng

mới dẫn đến tăng khối lượng cũng đạt cao hơn kết thúc 75 ngày tuổi khối

lượng của lợn là 6,33 kg/con.

Như vậy, sử dụng lợn thương phẩm của con lai thương phầm đã làm

tăng khả năng sinh trưởng cao hơn so với lợn rừng mường đây là việc cần

thiết để cải thiện giống lợn rừng nhằm tăng khả năng sinh trưởng của giống

lợn này. Để có cái nhìn tổng thể hơn về sinh trưởng tích lũy của lợn rừng lai

chúng ta tìm hiểu đồ thị sinh trưởng tích lũy của lợn thí nghiệm được biểu thị

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

qua hình 3.1.

54

8 kg RMD Mường khương Rừng lai F2 Lợn sóc

7

6

5

4

3

CS (45) 60 70

Hình 3.1: Đồ thị sinh trưởng tích lũy của lợn thí nghiệm

Kết quả đồ thị hình 3.1 cho thấy sinh trưởng tích lũy của lợn thí nghiệm

tăng lên theo các giai đoạn tuổi khác nhau. Lợn lai thương phẩm có mức sinh

trưởng cao hơn so với lợn rừng lai và lợn sóc nhưng thấp hơn so với lợn mường

khương.

3.2.2. Sinh trưởng tuyệt đối của lợn thương phẩm

Qua theo dõi số liệu khối lượng của lợn của từng giai đoạn ngày tuổi, bằng

các thuật toán chúng ta tính được số liệu sinh trưởng tuyệt đối của đàn lợn thí

nghiệm. Kết quả được trình bày ở bảng 3.7 và hình 3.2.

Sinh trưởng tuyệt đối ở giai đoạn 45 - 60 ngày tuổi là 75,33 g/con/ngày

đến giai đoạn từ 60 - 75 ngày tuổi đạt thấp hơn là 60,83 g/con/ngày như vậy mức

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

tăng trong của lợn đạt tương đối tốt.

55

Bảng 3.7. Khả năng sinh trưởng tuyệt đối

của lợn thương phẩm (g/con/ngày )

Kết quả Ngày tuổi + m n Cv%

30 75,33 + 0,17 1,16 45 - 60 ngày

27 60,83 + 1,08 9,19 60 - 75 ngày

27 68,08 + 0,55 4,22 Toàn kỳ

Kết thúc giai đoạn thí nghiệm (45 - 75 ngày tuổi) sinh trưởng tương đối

của lợn thí nghiệm là 68,08 g/con/ngày. Kết quả này cao hơn so với một số giống

lợn bản địa và lợn rừng lai tại các vùng núi cao. Nguyễn Ngọc Phục và cs, (2010),

nghiên cứu về khả năng tăng trọng từ sau cai sữa của lợn lai F1 giữa lợn rừng với

lợn Khùa đạt trung bình 56,27 g/ngày (dao động từ 42,96 g/ngày đến 76,85

g/ngày).Theo Nguyễn Văn Đức và cs, (2008) nghiên cứu khả năng tăng trọng của

lợn đen Lúng Pù giai đoạn từ 22,90 kg đến 68,09 kg là 376,60 g/ngày. Điều này

cho thấy, ảnh hưởng của giống cũng như chế độ dinh dưỡng đến sinh trưởng của

lợn rất rõ ràng. Kết quả sinh trưởng tuyệt đối của lợn thương phầm được trình bày

tại biểu đồ hình 3.2.

g/con/ngày

80 75.33

75

68.08 70

65 60.83

60

55

50

45 - 60

Ngày tuổi

60 - 75

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

45 - 70

56

Hình 3.2: Biểu đồ sinh trưởng tuyệt đối của lợn thí nghiệm

Kết quả biểu đồ hình 3.2 cho thấy giai đoạn 45 - 60 ngày tuổi sinh trưởng

tuyệt đối của lợn là 75,33 g/con/ngày. Giai đoạn 60 - 75 ngày tuổi tăng mạnh

hơn là 60,83 g/con/ngày. Toàn kỳ thí nghiệm từ 45 - 75 ngày tuổi sinh trưởng

tuyệt đối của lợn là 68,08 g/con/ngày.

3.2.3. Sinh trưởng tương đối của lợn thương phầm

Kết quả tính toán về sinh trưởng tương đối của lợn thí nghiệm được trình

bày tại bảng 3.8 và hình 3.3

Bảng 3.8. Khả năng sinh trưởng tương đối

của lợn thương phẩm (%)

Kết quả

Ngày tuổi + m Cv% n

45 - 60 ngày 23,29 + 0,05 0,97 30

60 - 75 ngày 15,53 + 0,26 6,56 27

38,47 + 0,26 2,93 27 Toàn kỳ

Kết quả tính toán ở bảng 3.8 cho thấy sinh trưởng tương đối của lợn thí

nghiệm ở giai đoạn 45 - 60 ngày tuổi 23,29 %, giai đoạn 60 - 75 ngày tuổi

giảm xuống còn 15,53 %. Toàn kỳ thí nghiệm sinh trưởng tương đối của lợn

là 38,47 %.

Như vậy, sinh trưởng tương đối của lợn rừng thương phầm ở giai đoạn

từ sau cai sữa 45 ngày đến 75 ngày tuổi đang có xu hướng giảm dần phù hợp

với quy luật sinh trưởng. Kết quả sinh trưởng tương đối của lợn lai thương

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

phầm được trình bày tại biểu đồ hình 3.3.

57

38.47

% 40

35

30 23.29

25

15.53 20

15

10 Giai đoạn 45 - 60 60 - 75 45 - 70

Hình 3.3: Biểu đồ sinh trưởng tương đối của lợn thí nghiệm

Biểu đồ hình 3.3 cho thấy sinh trưởng tương đối của lợn tăng lên theo giai

đoạn tuổi. Giai đoạn từ 45 - 60 ngày tuổi sinh trưởng tương đối của lợn là 23,29

%; giai đoạn 60 - 75 ngày tuổi giảm xuống là 15,53 %; Kết quả toàn kỳ thí nghiệm

(giai đoạn 45 - 75 ngày tuổi) sinh trưởng tương đối của lợn là 38,47 %.

3.2.4. Tiêu tốn thức ăn của lợn con sau cai sữa

Để đánh giá kết quả về tiêu tốn thức ăn/kg lợn giai đoạn sau cai sữa đến 75

ngày tuổi, chúng tôi tiến hành cân khối lượng thức ăn lợn con và khối lượng lợn

con lúc 75 ngày tuổi, kết quả thể hiện dưới Bảng 3.9.

TTTĂ/kg tăng KL là một chỉ tiêu quan trọng đánh giá hiệu quả kinh tế

trong chăn nuôi. Về cơ bản, nếu lợn được cho ăn nhiều, khẩu phần đầy đủ và

cân đối các chất dinh dưỡng phù hợp với nhu cầu, thì sinh trưởng sẽ cao hơn.

Chúng tôi đã tiến hành theo dõi và đánh giá lượng thức ăn/ngày của lợn thí

nghiệm để tính tổng lượng thức ăn tiêu thụ trên 1 đầu lợn kết quả cho thấy tổng

lượng thức ăn tinh là 9,61 kg/con và tổng lượng thức ăn xanh là 19,84 kg/con. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

58

Như vậy, mặc dù được đánh giá là có tính ăn tạp cao, nhưng lượng thức ăn được

ăn/ngày của lợn rừng lai như vậy là thấp. Nói chung, do tốc độ sinh trưởng của

lợn rừng lai thấp, khả năng sử dụng thức ăn tinh của chúng không cao và lợn có

thiên hướng thích ăn thức ăn xanh và thức ăn củ quả cho nên tiêu tốn thức ăn/kg

tăng khối lượng của chúng khá cao.

Bảng 3.9. Tiêu tốn thức ăn của lợn con sau cai sữa (kg)

Thức ăn Thức ăn TT Chỉ tiêu ĐV tinh xanh

1 Tổng TĂ tiêu thụ Kg/con 9,61 19,84

2 Tổng KL thịt lợn tăng Kg/con 2,04 2,04

3 TTTĂ/kg tăng KL Kg/kg tăng KL 4,71 9,73

Tổng khối lượng tăng giai đoạn sau cai sữa đến 75 ngày tuổi là 2,04 kg

tương ứng với tăng khối lượng trung bình là 68,08 g/con/ngày.

Tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối lượng là một chỉ tiêu quan trọng trong chăn

nuôi lợn ở tất cả các giai đoạn sinh trưởng. Nhằm đánh giá hiệu quả kinh tế của

lợn thương phẩm, hàng ngày chúng tôi tiến hành cân khối lượng thức ăn lợn thí

nghiệm được ăn, từ đó tổng hợp và có được chỉ tiêu tiêu tốn thức ăn cho một kg

lợn thí nghiệm. Kết quả cho thấy tiêu tốn thức ăn/ kg tăng khối lượng của lợn lai

thương phầm là 4,71 kg thức ăn tinh/kg tăng khối lượng và 9,73 kg thức ăn xanh/

kg tăng khối lượng.

Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Thiện và cs (2005) cho biết lợn lai F1

(Đại bạch x Móng Cái) có tiêu tốn thức ăn là 3,61 kg thức ăn/kg tăng khối lượng,

lợn F1 (Landrace Cuba x Móng Cái) có tăng trọng hàng ngày trung bình là

554,0g/con/ngày thì tiêu tốn thức ăn là 4,26 kg thức ăn/ kg tăng khối lượng, và

lợn Móng Cái thuần chỉ tăng trọng 196,67 g/con/ngày thì tiêu tốn thức ăn lên

4,56 kg thức ăn. Đối với lợn rừng lai, là nhóm lợn chưa cải tiến, cho nên sinh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

trưởng chậm hơn và tiêu tốn thức ăn cũng thấp hơn.

59

3.2.5. Sơ bộ tính hiệu quả kinh tế trong chăn nuôi lợn con

Chỉ tiêu này đánh giá trực tiếp hiệu quả kinh tế trong chăn nuôi. Thông

thường, thức ăn chiếm 60 - 65% tổng giá thành sản phẩm của chăn nuôi lợn nái

thịt. Kết quả hạch toán kinh tế đàn lợn con giai đoạn từ cai sữa 45 ngày tuổi đến

75 ngày tuổi được trình bày tại bảng 3.10:

Bảng 3.10: Sơ bộ tính hiệu quả kinh tế (n = 30)

Đơn giá Thành tiền Chỉ tiêu Số lượng (VNĐ) (VNĐ)

A. Tổng chi

∑TĂ tinh giai đoạn sau cai sữa 259,44 9.500 2.464.680

∑TĂ xanh giai đoạn sau cai sữa 535,77 1.000 535.770

∑Thuốc thú y, vaccin 30 8.000 240.000

A. Tổng thu

Bán lợn lúc 75 ngày 42,63 150.000 6.393.750

A. Thu - chi 3.153.300

Kết quả bảng 3.10 cho thấy tổng thức ăn tinh giai đoạn sau cai sữa của 30

lợn con là 259,44 kg trong đó giá 1kg thức ăn là 9.500 đồng. Kết quả chi phí

thức ăn tinh giai đoạn sau cai sữa là 2.464.680 đồng.

Tổng thức ăn xanh giai đoạn sau cai sữa của 30 lợn con là 535,77 kg trong

đó giá 1kg thức ăn xanh là 1.000 đồng. Kết quả chi phí thức ăn xanh giai đoạn

sau cai sữa là 535.770 đồng.

Chi phí thú y, vaccin cho 30 lợn giai đoạn từ cai sữa 45 ngày tuổi đến 75

ngày tuổi là 240.000 đồng.

Tổng khối lượng lợn tăng giai đoạn từ cai sữa 45 ngày tuổi đến 75 ngày

tuổi là 42,63 kg/ 30 lợn, giá bán lợn tại thời điểm thí nghiệm là 150.000

đồng/1kg thịt lợn hơi, kết quả bán đàn lợn con giai đoạn 75 ngày tuổi thu được

6.393.750 đồng

Hạch toán thu chi giai đoạn từ cai sữa 45 ngày tuổi - 75 ngày tuổi thu được

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

3.153.300 đồng cho 30 lợn con.

60

KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ

1. Kết luận

Lợn nái lai [♂ F1 (Rừng x Mường) x ♀ (Đen Hòa Bình)] có tuổi động dục

lần đầu là 197,18 ngày; tuổi phối giống lần đầu là 224,60 ngày; thời gian động

dục là 3,45 ngày; chu kỳ động dục là 22,45 ngày; số con đẻ ra/ổ là 7,14 con; tỷ

lệ sơ sinh sống sau 24h là 97,08 %; tỷ lệ sống đến cai sữa là 90,94 %; Khối lượng

sơ sinh/ổ là 3,42 kg và khối lượng cai sữa/ổ là 26,27 kg.

Con lai thương phẩm có khối lượng lúc 75 ngày tuổi là 6,33 kg; Khả năng

tăng khối lượng từ 45- 75 ngày tuổi là 78,41 g/con/ngày; Tiêu tốn thức ăn tinh

và thức ăn thô/kg tăng khối lượng giai đoạn từ 45 - 75 ngày tuổi lần lượt là 4,09

kg và 8,45 kg

Hạch toán thu chi giai đoạn từ cai sữa 45 ngày tuổi - 75 ngày tuổi thu được

3.153.300 đồng cho 30 lợn con.

2. Đề nghị

- Tiếp tục tiến hành theo dõi lợn thương phẩm nuôi thịt giai đoạn sau 75

ngày tuổi để đánh giá khả năng sinh trưởng và năng suất chất lượng thịt.

- Lợn nái lai 3 máu [♂ F1(Rừng x Mường) x ♀ (Đen Hòa Bình)] có năng

suất sinh sản tốt, con lai thương phẩm của nó sau cai sữa cũng sinh trưởng đạt

kết quả tương đối tốt. Tuy nhiên, cần nâng cao năng suất hơn nữa bằng các biện

pháp chăm sóc nuôi dưỡng đồng thời tiếp tục cho lai tạo với các giống lợn địa

phương nhằm phát triển về năng suất cao hơn nữa.

- Tiếp tục theo dõi khả năng sinh sản của lợn nái lai 3 máu [♂ F1 (Rừng x

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Mường) x ♀ (Đen Hòa Bình)] từ lứa đẻ thứ 3 trở đi.

61

TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. Tài liệu tiếng Việt:

1. Nguyễn Tấn Anh (1998), “Dinh dưỡng tác động đến sinh sản ở lợn nái”,

chuyên san chăn nuôi lợn, Hội chăn nuôi Việt nam.

2. Nguyễn Ân, Hoàng Gián, Lê Viết Ly, Nguyễn Văn Thiện, Trần Xuân Thọ

(1994), Di truyền chọn giống động vật nuôi, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.

3. Lê Thị Biên, Võ Văn Sự và Phạm Sỹ Tiệp (2006),“Nuôi Lợn Sóc”, Kỹ thuật

chăn nuôi một số giống lợn quí hiếm, Nxb Lao động xã hội,tr.36-39.

4. Đặng Vũ Bình (1995), “Các tham số thống kê di truyền và chỉ số chọn lọc

năng suất sinh sản của lợn nái Yorkshire và Landrace”, Kỷ yếu kết quả

nghiên cứu khoa học chăn nuôi thú y (1991 - 1995) Trường Đại học nông

nghiệp I Hà Nội.

5. Trần Cừ, Cù Xuân Dần, Lê Thị Minh (1975), Sinh lý học gia súc, Nhà xuất

bản Nông thôn - Hà Nội.

6. Lê Đình Cường, Mai Thị Hoa và Giang Văn Sơn (2008), “Nghiên cứu chọn

lọc nâng cao năng suất sinh sản và cho thịt của giống lợn Mường Khương”,

Tạp chí Khoa học kỹ thuật Viện Chăn nuôi.

7. Lê Đình Cường (2008), Lợn Mường Khương - Kỹ thuật nuôi giữ quỹ gen

một số động vật quý hiếm, Nhà xuất bản Nông Nghiệp 2008, tr.40 - 50.

8. Nguyễn Như Cương, Lê Thị Biên (2008), “Lợn Ỉ”, Kỹ thuật nuôi giữ quỹ

gen một số động vật quý hiếm, Nhà xuất bản Nông Nghiệp 2008, tr. 18-33.

9. Dennis O. Liptrap (2000), “Quản lý lợn con từ sơ sinh đến cai sữa’’, Cẩm

nang chăn nuôi lợn công nghiệp, Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội, tr.

373 - 378.

10. Trần Văn Do, (2004), “Báo cáo tóm tắt khả năng sinh trưởng phát triển của

giống lợn Vân Pa ở tỉnh Quảng Trị”, Hội nghị bảo tồn quỹ gen vật nuôi

1990-2004,tr.230-233.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

11. Phạm Hữu Doanh (1995) “Kết quả nghiên cứu đặc điểm sinh vật học và

62

tính năng sản xuất của một số giống lợn ngoại’’, Tuyển tập công trình

nghiên cứu chăn nuôi (1969 - 1984), Viện chăn nuôi, Nhà xuất bản Nông

nghiệp, Hà Nội.

12. Phạm Hữu Doanh, Lưu Kỷ (1996), Kỹ thuật chăn nuôi lợn nái mắn đẻ sai

con, Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội, Tr35-51

13. Driox M (1994), Di truyền về lợn ở Pháp, France Porc ACTIM với sự cộng

tác của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam.

14. Nguyễn Văn Đức, Giang Hồng Tuyến và Đoàn Công Tuân (2004), “Một số

đặc điểm cơ bản của giống lợn Táp Ná”, Tạp chí Khoa học kỹ thuật Chăn

nuôi-Viện Chăn nuôi Quốc gia, Số 2-2004,tr.16-22.

15. Nguyễn Văn Đức, Đặng Đình Trung, Nguyễn Văn trung, Vi Chí Sáng, Phạm

Thị Huyền, Vũ Chí Cương và Jean Charles Maillard (2008), “Một số đặc

điểm ngoại hình, sinh sản, sinh trưởng, chất lượng thịt của giống lợn đen

Lũng Pù Hà Giang”, Tạp chí khoa học công nghệ Chăn nuôi, số 2, 2008, tr.

90

16. Hamond .M (1994), “Trình tự nuôi lợn tại Pháp”, Báo cáo tại Hội thảo hợp

tác nông nghiệp Việt Pháp.

17. Lê Thanh Hải, Vũ Thị Lan Phương và Chế Quang Tuyến (1998), “Hiệu quả

chăn nuôi heo sinh sản được nuôi ở kiểu chuồng lồng”, Chuyên san chăn

nuôi lợn, Hội chăn nuôi Việt Nam.

18. Đào Lệ Hằng (2008) (Cục Chăn nuôi). “Một số đặc điểm sinh học cơ bản

của Lợn rừng”, Tạp chí chăn nuôi 2-2008.

19. Nguyễn Lân Hùng, Nguyễn Khắc Tích, 2010, Nghề Nuôi Lơn Rừng, Nhà

xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội.

20. Hoàng Văn Hùng (2014), Khảo sát khả năng sản xuất của lợn rừng và lợn rừng

lai tại huyện Ngân Sơn, Bắc Kạn Luận văn thạc sĩ khoa học chăn nuôi.

21. Kvisna, Keosua, Phia Kraixeng Xrium - Thailan (2005), Quy trình kỹ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

thuật nhân giống và phát triển heo rừng, Bản dịch của Lê Văn Hiến và Lê

63

Tuấn Tú.

22. Kiều Minh Lực (1976), Chăn nuôi lợn nái sinh sản, Nhà xuất bản Nông

Nghiệp, Hà Nội.

23. Tăng Xuân Lưu, Trần Thị Loan, Võ Văn Sự, Nguyễn Văn Thành và Trịnh

Phú Ngọc (2010), “Một số đặc điểm sinh học của đàn lợn rừng Thái Lan

nhập nội và lợn rừng Việt Nam”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Viện

Chăn nuôi Quốc gia, 25 (2010), 12-19.

24. Trần Đình Miên, Nguyễn Hải Quân, Vũ Kính Trực (1997), Chọn giống và

nhân giống gia súc, Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà nội.

25. Phạm Hiếu Nhân, 2010. Một số đặc điểm cân lưu ý trong quá trình nuôi lơn

rừng lai sinh sản. Thông tin Khoa Học-Công Nghệ-Quảng Bình. Số 4.

26. Nguyễn Ngọc Phục, Nguyễn Quế Côi, Phan Xuân Hảo, Nguyễn Hữu Xa, Lê

Văn Sáng và Nguyễn Thị Bình, (2010), "Tốc độ sinh trưởng, năng suất và

chất lượng của lợn Khùa và lợn rừng lai F1 (Lợn rừng x lợn Khùa) tại vùng

núi Quảng Bình", Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Viện Chăn nuôi Quốc

gia, Số 27(2010).

27. Lê Đình Phùng, Hà Thị Nguyệt, (2011), “Nghiên cứu đặc điểm ngoại hình,

khả năng và tập tính sinh sản của lợn rừng Thái Lan nhập nội nuôi ở miền

Trung Việt Nam", Tạp chí Khoa học, Đại học Huế số 67, 2011.

28. Trần Văn Phùng, Từ Quang Hiển, Trần Thanh Vân, Hà Thị Hảo (2004),

Giáo trình chăn nuôi lợn, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.

29. Võ Văn Sự, 2009. Kỹ thuật chăn nuôi heo rừng, Bộ môn Động vật quý hiếm

và Đa dạng sinh học - Viện Chăn Nuôi, Hà Nội.

30. Đỗ Xuân Tăng, Nguyễn Như Cương (1994), “Kết quả bước đầu giữ quỹ gen

lợn Ỉ Thanh Hoá”, Kết quả nghiên cứu bảo tồn gen vật nuôi ở Việt Nam, Nhà

xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội,Tr 21-29.

31. Hoàng Toàn Thắng và Cao Văn (2006), Giáo trình sinh lý học vật nuôi, Nhà

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

xuất bản Nông Nghiệp, Hà Nội, tr 23-72.

64

32. Nguyễn Thiện, Trân Đình Miên, Võ Trọng Hốt (2005), Con lợn ở Việt Nam,

Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội.

33. Nguyễn Văn Thiện (1995), Di truyền học số lượng ứng dụng trong chăn

nuôi, Nhà xuất bản nông nghiệp Hà Nội.

34. Nguyễn Văn Thiện, Nguyễn Văn Đức, Tạ Bích Duyên (1999), “Đánh giá

khả năng sinh sản của đàn lợn Móng cái nuôi tại Thành Tô - Hải Phòng”.

Trung Tâm KHKT Chăn Nuôi. Số 3, tr. 15-23.

35. Nguyễn Văn Thiện, Nguyễn Khánh Quắc, Nguyễn Duy Hoan (2002), Giáo

trình Phương pháp nghiên cứu trong chăn nuôi. Nhà xuất bản Nông nghiệp,

Hà Nội.

36. Nguyễn Văn Thưởng (1998), Di truyền giống và thụ tinh nhân tạo, Hội chăn

nuôi Việt Nam, tr. 26.

37. Đỗ Kim Tuyên và cs (2007), Người nông dân làm giàu không khó, nuôi lợn

rừng, Nhà xuất bản Nông Nghiệp, Hà Nội.

38. Vũ Kính Trực (1998), “Tìm hiểu và trao đổi về nạc hoá đàn lợn Việt Nam”,

Chuyên san chăn nuôi lợn, Hội chăn nuôi Việt Nam , tr. 54.

39. William T.Ahlschwede (1997), “Hệ thống lai trong chăn nuôi thương

phẩm”, Cẩm nang chăn nuôi lợn, NXB Nông nghiệp, Hà Nội.

II. Tài liệu tiếng Anh:

40. Andersson - Eklund, L., L. Marklund, K. Lundstro, C. S. Haley, K.

Andersson, I. Hansson, M. Moller, and L. Andersson (1998), “Mapping

Quantitative Tdait Loci for Carcass and Meat Quality Tdaits in a Wild Boar

x Large White Intercross”, J. Anim. Sci., 76: 694 - 700.

41. Akina Ogasa (1992), Prolonged storage of boar semen in iquid form - nipon

veterinary and animal science university, Masaskino - shi 1980 Tokio, pp.

49 - 50.

42. ARC- Agricultural Research Council. (1981), “The nutrient Requirement of

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

pigs”, Commonwealth agricultural Bureaux, Slough, England, 124s.

65

43. Blasco A., Binadel J.P vu Halay C. S. and Santacrue M. A (1993) The

genetics of prenatal survival of pigs and rabbits: a reviw. Livestock

Production Science 37, pp 1-21.

44. Bereskin B., L. T. Frobish (1981). Some genetics and environmental effect

on sow productivity. Journal of Animal Science. Vol 53 (3). Pp 601 - 610.

45. Brand R., Clarke P.M., Mitchell K.G (1954), “Analysis of the breeding

record of herd of pig”, Journal of Arigriculturan scien 45, pp. 19 - 27.

46. Busse W. Groneveld E. (1986), Schaetzung von Population’s Parameternbei

Schweinen der deutschen Landrasse an Daten von den Mariensseer - Herbuch,

Information system: 1, Miteilungsschatzung der Geschwisterleistung auf

Station, Zuchtungskunde Stuttgart 58, pp. 175 - 193.

47. Gineva E.,Stojkov A. (1999),“Comparativestudyonreproductive performance

of hybrid sows (LandracexEnglish Large White) insemination by purebred

and hybrid boars, Zhivotnovdni - Nauki (Bilgaria) ”, Animal science. V. 36

(1). pp. 21 - 25.

48. Haines C.E., A.C Varnick., H.D Vallace (1959), “The effect of two levels of

energy intake on reproductive phenomena in Duroc, Jersey gilts”,

AmericanAnimal science 18.

49. Hazen L.N., Baker M.L., Reinmiler C.F., (1993), “Genetic and

environmental correlation between the growth rate of pigs at different ages”,

Journal ofAnimal Science, 2, pp. 118 - 128.

50. Hancock J.L (1961), “Fertilization in the pig”, Journal of reproductionand

Fertilization, 2. pp. 307 - 333.

51. Hilda Meo and Gordon (1997), Cleary Australian pig in dustry hand book,

March.

52. Hughes P.E.M., Varley (1980), Reproduction in the pig. Butten worthand

Co. (Publishers), L.t.d. pp. 2 - 3.

53. Ian Gordon (1997),Controlled reproduction in pigs, CaB international

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

54. Joakimsen O., R.L Barker (1977), Selection for litter size in mice, Acta. Agri.

66

Scand. Stockholm, pp. 27, 301 - 318.

55. Kuntongeg, A. 1994. “A study on raising systems and karyotype of native

pigs in the North-East area”. M.Sc. Thesis, Khon Kaen University, Khon

Kaen, Thailand.

56. Kuhn. G., Kanitz. E., Tuchuscherer. M., Nurnberg. G., Hartung. M., Ender.

K., Rehfeldt. C (2004), “Growth and carass quality of offspring in respose

to porcine somatotropin (pST) treatment of sows during early pregnancy”,

Livestock production Science 85, 103-112.

57. Litten J. C.; a. M. Corson, A. O. Hall; L. Clarke (2004) ″ The relationship

beetween growth performance, feed intake, endocrine profileand carcass quality

of different maternal and paternal of pig", Livest. Prod. Sci., pp. 33-39.

58. Perry J.S (1954), Fecundity and embryonic mortality in pigs, J.Embryol Exp.

Morphy. 2, pp. 308 - 322.

59. Reddy V.B., J.F Larley., D.T Mayer (1958), Genetic aspects of

reproductionin swine, Res. Bull. Mo Agri. Exp. Sta 1958.

60. Sysa, P.S.,Slawomirski, J. and Gromadzka, J. 1984. Cytogenetic studies of

crossing of the wild boar (Sus scrofa ferus) and the domestic pig (Sus scrofa

domestica). Pol. Arch. Water. 24(1): 89-95.

61. Self H.L., Grummer R.H., Casida L.E., (1955), “The effects of various

sequences of full and limited feeding on the repoductive phenomena in

Chester White and poland China gilt”, Journal of animal science, N. 14, pp.

572 - 529

62. Shull G.H. (1952), Beginning of the heterosis concept, Iowa state college pess.

63. Strang G. S., Smith (1979) A note on the heritability of litter traits in pigs,

Journal of Animal Production 28. Pp 403 - 406.

64. Vangen O (1981), “Problem and possbilites for selection from fecundity in

multiparious species”, pig news and information 2.3.1981

65. Van de Ligt C. P. A., Lindemann M. D and Cromwell G. L. (2002),

“Assessment of chromium tripicolinate supplementation and dietary protein Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

67

level on growth, carcass, and blood criteria in growing pigs”, J. Anim. Sci.

2002, 80, pp. 2412 - 2419.

66. Thong H. T and Liebert F. (2004), “Acid amin requirement of growing pigs

depending on acid amin efficiency and level of protein deposition”, 1st

communication: Lysine. Arch. Anim. Nutr., February 2004, Vol. 58(1), pp.

69- 87.

67. Triebler G. (1982), Geneticche Grundlagen des Wachstums Wiss, Symp,

Chweinezucht F, Leipzig, pp. 13 - 24.

68. Wu J. S. (1982) Genetic analysis of some Chinese breeds as resource for

world hog improvement. 2nd World Congress on genetic applied to livestock

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

productive SY-6-C20. Pp 593 - 600.

MỘT SỐ HÌNH ẢNH TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN ĐỀ TÀI

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Hình ảnh lợn Đen hòa Bình nuôi tại trại

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Hình ảnh lợn lai 3 máu (RMĐ)