LUẬN VĂN: Chất lượng bí thư Đảng uỷ xã ở tỉnh Hà Tĩnh giai đoạn hiện nay
lượt xem 36
download
Xã là cấp cơ sở trong hệ thống hành chính bốn cấp của Nhà nước ta. Tổ chức đảng ở xã là tổ chức cơ sở đảng (TCCSĐ), cũng là cấp cơ sở trong hệ thống tổ chức của Đảng. TCCSĐ là hạt nhân lãnh đạo toàn diện các mặt công tác ở cơ sở, có vị trí quyết định đến việc thực hiện thắng lợi mọi chủ trương đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước ở địa phương. Yêu cầu đối với TCCSĐ là phải nhận thức đúng và làm đúng vai trò hạt...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: LUẬN VĂN: Chất lượng bí thư Đảng uỷ xã ở tỉnh Hà Tĩnh giai đoạn hiện nay
- LUẬN VĂN: Chất lượng bí thư Đảng uỷ xã ở tỉnh Hà Tĩnh giai đoạn hiện nay
- Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Xã là cấp cơ sở trong hệ thống hành chính bốn cấp của Nhà nước ta. Tổ chức đảng ở xã là tổ chức cơ sở đảng (TCCSĐ), cũng là cấp cơ sở trong hệ thống tổ chức của Đảng. TCCSĐ là hạt nhân lãnh đạo toàn diện các mặt công tác ở cơ sở, có vị trí quyết định đến việc thực hiện thắng lợi mọi chủ trương đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước ở địa phương. Yêu cầu đối với TCCSĐ là phải nhận thức đúng và làm đúng vai trò hạt nhân chính trị trên địa bàn. Giữa hai kỳ đại hội, cơ quan lãnh đạo của TCCSĐ là Đảng uỷ (hoặc Chi uỷ). Trong đó bí thư Đảng uỷ (Chi uỷ) được coi là “linh hồn” của đảng bộ, chịu trách nhiệm chính trong những thành công hay hạn chế hiệu quả hoạt động của đảng bộ. Trong bất kỳ điều kiện hoàn cảnh nào, vấn đề cán bộ cũng là vấn đề có ý nghĩa quyết định đầu tiên trong xây dựng Đảng và Chính quyền. Lịch sử cách mạng nước ta chứng minh rằng: Đảng chỉ có thể làm tròn vai trò chiến sỹ tiên phong, lãnh tụ chính trị của quần chúng nếu Đảng biết lựa chọn, đào tạo một đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt có phẩm chất, năng lực đáp ứng đòi hỏi của nhiệm vụ trong mỗi thời kỳ cách mạng. Sống và làm việc cùng với dân, đội ngũ cán bộ cơ sở nói chung và đội ngũ bí thư Đảng uỷ nói riêng phải là những người nhiệt tình, có ý chí vươn lên, là những người ưu tú nhất tại cơ sở, được tổ chức Đảng, đảng viên và nhân dân tín nhiệm để giao nhiệm vụ. Song do nhiều điều kiện chủ quan và khách quan nên đội ngũ này hiện nay đang có những bất cập, khó khăn nhất định trong công tác. Nhận thấy rõ tầm quan trọng của đội ngũ cán bộ cấp cơ sở, những ưu khuyết điểm của đội ngũ này, những khó khăn mà họ gặp phải, Đảng ta rất quan tâm xây dựng cán bộ cơ sở, nhất là trong nhiệm kỳ của Đại hội IX. Ban Chấp hành Trung ương khoá IX đã ra nghị quyết chuyên đề về cán bộ cơ sở. Trong đó xác định rõ: “Xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở có năng lực tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, công tâm thạo việc, tận tuỵ với dân, biết phát huy sức dân, không tham nhũng, ức hiếp dân” [10, tr.167-167].
- Hà Tĩnh là một tỉnh nông nghiệp. Đa số nhân dân sống và làm việc trên địa bàn nông thôn. Sự ổn định và phát triển của tỉnh phụ thuộc vào sự ổn định của hệ thống các xã. Việc chăm lo cho sự phát triển của tỉnh phải đặc biệt chú ý tới sự ổn định và phát triển của hệ thống các xã, nhất là phải quan tâm tới tâm tư, nguyện vọng, việc làm, thu nhập, đời sống của nông dân. Đội ngũ bí thư Đảng uỷ xã ở Hà Tĩnh hiện nay nhìn chung được đảm bảo về chất lượng, đảm đương tốt nhiệm vụ. Những thành tựu của toàn tỉnh trong thời gian qua có sự đóng góp không nhỏ của đội ngũ này. Tuy nhiên để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới thì đội ngũ này đang gặp những khó khăn nhất định về trình độ, năng lực và nhất là sự điều hành để đảm bảo hoạt động “đều tay”, nhịp nhàng của tất cả các bộ phận trong hệ thống chính trị (HTCT). Để nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác của bộ phận cán bộ quan trọng này, cần thiết phải tiến hành nghiên cứu một cách có hệ thống, xác định rõ vị trí vai trò của họ trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị ở cơ sở, đánh giá đúng chất lượng của họ trong hiện tại, dự báo chất lượng của họ trong tương lai. Trên cơ sở đó đưa ra giải pháp hợp lý nhằm nâng cao chất lượng cho đội ngũ này để họ hoàn thành tốt nhiệm vụ người lãnh đạo cao nhất của Đảng ở địa bàn nông thôn. Với ý nghĩa đó, tác giả chọn đề tài: “Chất lượng bí thư Đảng uỷ xã ở tỉnh Hà Tĩnh giai đoạn hiện nay” làm luận văn tốt nghiệp cao học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Xuất phát từ tầm quan trọng của đội ngũ cán bộ cấp cơ sở và những bất cập giữa yêu cầu nhiệm vụ và khả năng đáp ứng của đội ngũ này trong điều kiện mới nên nhiều nhà khoa học, nhiều công trình nghiên cứu đã đề cập tới vấn đề cán bộ cơ sở nói chung và đội ngũ bí thư Đảng uỷ nói riêng, nhằm đưa ra giải pháp để đội ngũ này hoạt động có hiệu quả hơn. Mỗi một nhà khoa học, một công trình nghiên cứu đề cập đến một góc độ nhất định và trên một địa bàn cụ thể. - Nghiên cứu con đường hình thành đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở để có cái nhìn đầy đủ, toàn diện về đội ngũ này, về khả năng làm việc, môi trường làm việc, cũng như những vấn đề đặt ra từ con đường hình thành đội ngũ để chủ động trong tạo nguồn
- cán bộ kế cận và đề xuất những phương án, những chế độ chính sách nhằm tạo điều kiện cho đội ngũ cán bộ cơ sở làm việc hiệu quả hơn trong tương lai. Về vấn đề này có nghiên cứu của Lê Thu Hoà: Tiêu chuẩn và con đường hình thành đội ngũ bí thư, chủ tịch xã, phường ở Thừa Thiên Huế trong giai đoạn hiện nay. (Luận án Thạc sĩ khoa học lịch sử. Chuyên ngành Xây dựng Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội 1995). Đề tài nghiên cứu chung hai chức danh cán bộ quan trọng nhất của đơn vị hành chính cấp xã, đề ra những giải pháp phù hợp tình hình ở Thừa Thiên Huế giai đoạn 1995. Có thể dùng để tham khảo cho những địa phương có điều kiện tự nhiên, xã hội tương tự. - Nghiên cứu của Học viện chính trị Nguyễn ái Quốc, Đề tài khoa học cấp Bộ: Mẫu hình và con đường hình thành người cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở. Hà Nội 1992. Đề tài nghiên cứu làm nổi bật đặc điểm, mẫu hình và con đường hình thành cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở chủ yếu là từ thực tiễn. Đề tài đề cập đến thực tế công việc mà đội ngũ này phải đảm nhiệm là rất nhiều, nhưng trình độ “đầu vào” lại thấp hơn yêu cầu. Từ đó chỉ ra rằng: nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng đối với đội ngũ cán bộ này là rất lớn. Đặc biệt nhấn mạnh về lâu dài cần phải chủ động tạo nguồn cho cán bộ cơ sở và đề xuất các nguồn cho cán bộ cơ sở. - Về quá trình lãnh đạo của Đảng đối với đội ngũ cán bộ cấp cơ sở và các chế độ chính sách liên quan nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở có nghiên cứu của Bùi Thị Hồng Tiến: Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo quá trình xây dựng đội ngũ lãnh đạo chủ chốt trong hệ thống chính trị cấp cơ sở từ 1975-1983. (Luận án chuyên ngành lịch sử Đảng công sản Việt Nam, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 1994). Đề tài nghiên cứu sâu sắc quan điểm của Đảng và việc tổ chức thực hiện quan điểm đó ở giai đoạn cả nước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH). Nó là cơ sở để Đảng ta rút ra những bài học cho giai đoạn tiếp theo, giai đoạn đổi mới đất nước, thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá (CNH-HĐH). Đề tài cũng thể hiện quan điểm nhất quán về tầm quan trọng của công tác cán bộ nói chung và cán bộ chủ chốt cấp cơ sở nói riêng, đề ra những giải pháp để đảm bảo và tăng cường hiệu quả hoạt động của đội ngũ cán bộ quan trọng này.
- - Tỉnh uỷ Hà Tĩnh - trường Chính trị: Báo cáo kết quả đề tài khoa học “đổi mới công tác đào tạo bồi dưỡng và sử dụng cán bộ chủ chốt xã phường ở Hà Tĩnh”. (Đề tài khoa học cấp tỉnh. Hà Tĩnh 1999). Đề tài nghiên cứu tình hình đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã, chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ này, tình hình bố trí sử dụng cán bộ sau đào tạo và đề xuất những giải pháp khả thi. - Nghiên cứu riêng về đội ngũ bí thư Đảng uỷ xã ở một số tỉnh có nghiên cứu của Nguyễn Văn Phích: “Xây dựng đội ngũ bí thư Đảng uỷ xã ở Kiên Giang trong giai đoạn hiện nay”. (Luận án thạc sĩ chuyên ngành Xây dựng Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2000). Luận án đi sâu nghiên cứu những quan điểm, giải pháp để xây dựng đội ngũ thư Đảng uỷ xã ở một tỉnh phía Nam... Và nhiều bài đăng trên các báo, tạp chí xây dựng Đảng, tạp chí Cộng Sản. Các công trình nghiên cứu trên đều đã đề cập tới nhiều khía cạnh khác nhau của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở nói chung và chức danh bí thư Đảng uỷ nói riêng. Song chưa có công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện về chất lượng đội ngũ bí thư Đảng uỷ xã - một trong những chức danh quan trọng nhất của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở. Vì vậy việc đi sâu nghiên cứu đề tài: “Chất lượng bí thư Đảng uỷ xã ở tỉnh Hà Tĩnh giai đoạn hiện nay” là cần thiết và có ý nghĩa lý luận và thực tiễn. 3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu Mục đích: Làm rõ về mặt lý luận chất lượng của bí thư Đảng uỷ xã. Quan niệm và tiêu chí đánh giá chất lượng bí thư Đảng uỷ xã để từ đó đánh giá đúng thực trạng và xác định đúng phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quan trọng này ở Hà Tĩnh. Nhiệm vụ: Để đạt được mục đích trên, những vấn đề luận văn phải giải quyết là: - Từ vấn đề lý luận chung của cán bộ cấp cơ sở, làm rõ quan niệm về chất lượng đội ngũ bí thư Đảng uỷ xã. - Điều tra, phân tích, đánh giá chất lượng đội ngũ bí thư Đảng uỷ xã và công tác xây dựng, đánh giá, sử dụng đội ngũ này của các cấp uỷ đảng ở tỉnh Hà Tĩnh, chỉ ra nguyên nhân và rút ra kinh nghiệm.
- - Đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm góp phần đánh giá chất lượng đội ngũ bí thư Đảng uỷ xã chính xác và xây dựng đội ngũ này trong thời gian tới. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu chất lượng bí thư Đảng uỷ xã ở Hà Tĩnh từ năm 2001 đến năm 2010, thập niên đầu của thế kỷ XXI. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu - Luận văn được thực hiện trên cơ sở lí luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng về cán bộ và công tác cán bộ. Những quy định về chức năng nhiệm vụ của TCCSĐ, của bí thư Đảng uỷ xã. - Luận văn được thực hiện theo phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lê Nin, phương pháp lôgíc và lịch sử, điều tra, khảo sát, phân tích, tổng hợp. 5. Những đóng góp mới về khoa học của đề tài - Làm rõ quan niệm, tiêu chí đánh giá về chất lượng bí thư Đảng uỷ xã, làm cơ sở cho việc xây dựng đội ngũ này đáp ứng nhu cầu của thời kỳ mới. - Đánh giá đúng thực trạng chất lượng bí thư Đảng uỷ xã và công tác xây dựng đội ngũ này ở Hà Tĩnh. - Dự báo xu hướng phát triển và đề xuất giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng bí thư Đảng uỷ xã ở tỉnh Hà Tĩnh trong nhiệm kỳ tới. 6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài - Những kết quả nghiên cứu của luận văn giúp cho các cấp uỷ trong tỉnh thực hiện công tác cán bộ ở cơ sở, trực tiếp là bí thư Đảng uỷ xã. - Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo để các cấp uỷ đảng ở Hà Tĩnh đánh giá đúng chất lượng đội ngũ bí thư Đảng uỷ xã, từ đó có kế hoạch cho việc xây dựng đội ngũ này trong thời gian tới. - Luận văn được dùng làm tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy và học tập trong các lớp trung cấp chính trị (TCCT) tại trường chính trị tỉnh. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn 2 chương, 5 tiết.
- Chương 1 Chất lượng bí thư đảng uỷ xã ở tỉnh Hà Tĩnh giai đoạn hiện nay 1.1. Vị trí, vai trò, đặc điểm của đảng bộ xã và bí thư đảng uỷ xã ở Hà Tĩnh hiện nay 1.1.1. Vị trí, vai trò, đặc điểm của các đảng bộ xã ở Hà Tĩnh 1.1.1.1. Vị trí đảng bộ xã Hệ thống hành chính nước ta chia làm bốn cấp. Trong đó, cấp xã là cấp cơ sở được coi là tế bào của hệ thống đó. ở các nước khác cũng như lịch sử của nước ta đều coi trọng cấp cơ sở và tăng cường củng cố xây dựng cấp cơ sở. Lý luận và thực tiễn đều khẳng định rằng, cấp cơ sở có vững, có mạnh thì địa phương mới mạnh, quốc gia mới mạnh. Cấp cơ sở có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc tổ chức, lãnh đạo, quản lý các mặt kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, an ninh quốc phòng... của một đất nước. Xã là địa bàn sinh sống, lao động và học tập của nông dân và con em của họ. Hiện nay, tuy có sự đan xen ngành nghề giữa các vùng dân cư, sự chuyển đổi mạnh mẽ cơ cấu ngành nghề của quá trình CNH - HĐH nông nghiệp nông thôn, song người dân sống ở xã thì lao động nông nghiệp vẫn là chủ yếu. Theo Đảng làm cách mạng, người nông dân đã được tổ chức giáo dục rèn luyện, trình độ mọi mặt được nâng lên. Trong tổ chức xây dựng cuộc sống mới, người dân ý thức sâu sắc rằng, chỉ có con đường đi theo sự lãnh đạo của Đảng là con đường duy nhất đạt tới hạnh phúc bền vững cho hiện tại và tương lai. Việc theo Đảng làm cách mạng và dưới sự lãnh đạo của Đảng để xây dựng cuộc sống mới thì quan hệ trực tiếp là người dân sống và làm việc dưới sự lãnh đạo của đảng bộ xã mình. Điều lệ Đảng quy định: “Hệ thống tổ chức của Đảng được lập tương ứng với các hệ thống hành chính của Nhà nước” [13, tr.17]. “Tổ chức cơ sở đảng là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị tại cơ sở” [13, tr.31]. Hiện nay tất cả các xã ở Hà Tĩnh đều lập Đảng bộ cơ sở. Đảng bộ xã ở Hà Tĩnh chiếm tỷ lệ đa số trong các Đảng bộ cấp xã (241 xã/ 261 xã, phường, thị trấn = 92,34%). Đó là chưa kể các thị trấn, phường vốn là xã
- mới được nâng cấp, nhân dân ở đó vẫn mang đậm phong cách sống và làm việc của người nông dân và họ vẫn còn chủ yếu sống bằng sản xuất nông nghiệp. Do điều kiện tự nhiên và lịch sử để lại, người nông dân Hà Tĩnh chưa có được tâm lý, tác phong của người sản xuất hàng hoá. Họ vẫn chủ yếu sản xuất tự cung tự cấp và buôn bán nhỏ lẻ, có một số làng nghề truyền thống sản xuất tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng. Đi lên CNXH, bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH - HĐH đất nước, trực tiếp là CNH - HĐH nông nghiệp nông thôn, đối với nông dân làng quê Hà Tĩnh, sự lãnh đạo của các cấp uỷ đảng ở Hà Tĩnh (và đảng bộ xã nói riêng) vừa có thuận lợi, vừa có khó khăn. Hà Tĩnh có 11 huyện thị thì đã có tới 3 huyện và 1 thị xã miền núi, 5 huyện có biển, 4 huyện có đường biên giới với nước bạn Lào, tạo cho Hà Tĩnh những tiềm năng đa dạng trong phát triển kinh tế xã hội song cũng có những khó khăn xuất phát từ điều kiện đó. Cuộc sống đã tạo cho con người Hà Tĩnh những nét đặc thù về truyền thống văn hoá và truyền thống cách mạng. Sự gian nan vất vả trong cuộc mưu sinh và vẻ vang anh hùng trong đấu tranh giữ nước đã hun đúc nên bao thế hệ người Hà Tĩnh đức tính cần cù, thông minh, sáng tạo trong lao động; tinh thần chịu đựng gian khổ, khắc phục khó khăn, sống thanh cao, trọng nhân nghĩa, quý hiền tài, giàu lòng yêu quê hương, đất nước. Là tiêu biểu của quê hương cách mạng, cùng với những thành tích đã đạt được vô cùng to lớn trong sự nỗ lực chung của toàn đảng toàn dân trong đó có các đảng bộ xã đã làm đúng chức năng nhiệm vụ của mình. Đảng bộ xã là thành viên của HTCT ở xã đồng thời là hạt nhân chính trị giữ vai trò lãnh đạo hệ thống ấy. Đảng bộ xã ở Hà Tĩnh thực sự là nơi để nhân dân gửi gắm niềm tin, niềm hy vọng cho sự phát triển, thực sự là cầu nối giữa Đảng với dân. Sự tin tưởng của nhân dân đối với Đảng bộ xã đã thể hiện sự tin tưởng của dân đối với sự lãnh đạo đất nước của Đảng ta. Trong hệ thống bốn cấp của Đảng, các Đảng bộ xã ở Hà Tĩnh thực sự đảm đương tốt vị trí là cấp cuối cùng, cấp gần dân nhất, chăm lo trực tiếp cho dân nhất và thực hiện nghiêm chỉnh, quán triệt, tuyên truyền chỉ thị nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà
- nước đến với từng người dân, từng đơn vị kinh tế, từng tế bào của xã hội và tổ chức thực hiện, thực sự đưa nghị quyết vào cuộc sống. Về cơ bản các đảng bộ xã ở Hà Tĩnh đã chiếm được vị trí xứng đáng trong lòng nhân dân địa phương và đảm đương tốt vị trí là cấp cuối cùng trong hệ thống các cấp tổ chức của Đảng. 1.1.1.2. Vai trò của đảng bộ xã ở Hà Tĩnh - Là cấp cơ sở, các đảng bộ xã là cấp chấp hành nghị quyết của cấp trên; ra nghị quyết và tổ chức thực hiện nghị quyết cấp mình. Các đảng bộ đã chú ý sao cho nghị quyết của đảng bộ cũng là nghị quyết của nhân dân, phản ánh nguyện vọng của nhân dân. Nghị quyết đó phải thể hiện được những yêu cầu bức xúc của nhân dân. ý Đảng và lòng dân gặp nhau trong thực hiện nghị quyết của đảng bộ, công việc sẽ thuận lợi hơn và mới có ý nghĩa. - Là hạt nhân chính trị ở cơ sở, các Đảng bộ xã có vai trò lãnh đạo trực tiếp, toàn diện mọi hoạt động trên địa bàn bằng cách thực hiện nghiêm chỉnh chức năng, nhiệm vụ của mình theo quy định số 95 - QĐ/TW ngày 03/3/2004 của Ban bí thư về chức năng, nhiệm vụ của đảng bộ, chi bộ cơ sở xã. - Đảng bộ xác định nhiệm vụ chính trị của xã mình. Xác định những bức xúc nhất cần tập trung giải quyết trong nhiệm kỳ. Trong đó chú ý xác định mũi nhọn có tính đột phá để phát triển kinh tế, xác định cây con chủ lực và phương hướng chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi theo hướng CNH - HĐH. Đây đang là vấn đề bức xúc của nông thôn Hà Tĩnh. Trong suốt quá trình thực hiện sự nghiệp cách mạng và đường lối đổi mới của Đảng, các đảng bộ xã ở Hà Tĩnh đã “thực sự đóng vai trò nền tảng, là nơi đưa mọi đường lối, chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước từng bước đi vào cuộc sống” [40, tr.130]. Tỉnh uỷ đã đánh giá kết quả đó là: “nhìn chung không khí chính trị, xã hội tin tưởng, phấn khởi” [40, tr.130], trình độ dân trí được nâng lên một bước, nhân dân có cuộc sống tốt hơn, uy tín của cán bộ và đảng viên được thừa nhận. 1.1.1.3. Đặc điểm các đảng bộ xã ở Hà Tĩnh * Đặc điểm đảng viên.
- - Về số lượng: Hiện nay số đảng viên sinh hoạt ở Đảng bộ xã là 52.581 đồng chí. Trong đó chủ yếu là nông dân và người về hưu (Số đảng viên già yếu được miễn sinh hoạt và đánh giá chất lượng hàng năm là 5956 đồng chí = 11,33 %). Số đảng viên ở trường học và trạm y tế trên địa bàn chiếm tỷ lệ nhỏ. Số lượng đảng viên sinh hoạt ở đảng bộ xã đông. Trong đó, những người hưu trí đã trưởng thành và cống hiến nhiều qua các cuộc kháng chiến, họ vững vàng về tư tưởng chính trị, tâm huyết với Đảng, với cách mạng, gương mẫu trong lối sống, sinh hoạt lành mạnh. Số đảng viên trẻ xuất thân từ nông dân tha thiết yêu quê hương, có kiến thức, có sức khoẻ, năng động sáng tạo là nòng cốt trong các công tác của Đảng ở địa phương. Số đảng viên công tác trong các trường học, trạm y tế tuy ít nhưng họ thực sự là lực lượng tiên phong, thông qua hoạt động chuyên môn và phối hợp với việc nhận nhiệm vụ phân công công tác đảng viên, họ làm công tác tư tưởng rất tốt trong nhân dân. Nói chung số lượng đảng viên đông là một thuận lợi cho đảng bộ xã. Người lao động ở nông thôn Hà Tĩnh đi làm ăn xa nhiều, nhất là nam thanh niên. Hiện tượng lao động chính của gia đình đi làm ăn xa, về kinh tế gia đình, họ có điều kiện nâng cao, song về các vấn đề xã hội thì đó là một khó khăn, ảnh hưởng tới sự học hành, trưởng thành của con em đang ở tuổi học sinh và ảnh hưởng trực tiếp tới sự phát triển sản xuất, CNH - HĐH nông nghiệp nông thôn. Hiện tượng ấy cũng ảnh hưởng tới việc phát triển đảng viên, phân công công tác và quản lý đảng viên. Để phù hợp tình hình, Đảng bộ phải quản lý số đảng viên đi làm ăn xa bằng cách: 1lần/ năm về trình chi bộ và đóng đảng phí. Đó là một biện pháp tình thế, song thực sự là một khó khăn cho các đảng bộ. Có nhiều đảng viên không chấp hành những quy định của Đảng và buộc phải xóa tên trong danh sách đảng viên (năm 2004 có 07/ 14 đảng viên ở xã Cương Gián, huyện Nghi Xuân đi lao động xuất khẩu bị xoá tên). - Về chất lượng: Hầu hết các đảng viên đều đạt yêu cầu về phẩm chất chính trị, kiên định, vững vàng, tin tưởng vào con đường mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn, quyết tâm thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới đất nước, tích cực tham gia lao động làm giàu cho gia đình, cho quê hương. Có đạo đức trong sáng, lối sống trong sạch lành mạnh, thực sự là những người ưu tú có uy tín trong gia đình và trong cộng đồng. Không tham
- nhũng lãng phí, đồng tình cao với chủ trương chống tham nhũng lãng phí và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng lãng phí. Trình độ đảng viên được nâng lên trong những năm gần đây. Đảng viên có trình độ văn hoá cao hơn do nỗ lực cá nhân trong học tập, nhiều đảng viên có văn hoá thấp những năm qua đã phấn đấu tốt nghiệp bổ túc văn hoá trung học phổ thông (THPT). Số đảng viên mới hầu hết có trình độ 12/12. Trình độ lý luận của đảng viên được nâng lên do được các cấp uỷ đảng và các cơ quan chức năng đào tạo, bồi dưỡng, mở những lớp học nghị quyết, tổ chức các cuộc thi tìm hiểu kiến thức… Các trung tâm chính trị huyện đã làm tốt chức năng nhiệm vụ của mình trong việc bồi dưỡng lý luận chính trị cho đối tượng Đảng để họ đạt trình độ quy định khi gia nhập Đảng. Mở các lớp các học cho đảng viên mới. Các đảng bộ xã nghiêm túc trong quán triệt nghị quyết các cấp của Đảng. Những năm qua cùng với sự chú ý coi trọng việc nâng cao chất lượng đảng viên, đảng bộ đã có nhiều hình thức hoạt động để nâng cao nhận thức cho cán bộ đảng viên và nhân dân như: Thi bí thư chi bộ giỏi, thi tuyên truyền viên tư tưởng Hồ Chí Minh, thi nghiệp vụ công tác Đảng... Trình độ đảng viên được nâng cao là kết quả của sự quan tâm chỉ đạo của cấp trên trong việc tăng cường giáo dục lý luận, đường lối, chính sách, nghị quyết của Đảng. Trong sinh hoạt, đảng viên đã thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, trực tiếp thảo luận góp ý kiến cho việc ban hành nghị quyết của cấp mình. Tìm tòi sáng tạo những biện pháp thực hiện nghị quyết cấp trên trong hoàn cảnh cụ thể của địa phương. Về khả năng hoạt động thực tiễn: Trong sinh hoạt Đảng, các chi bộ đã thực hiện quy định “tất cả mọi đảng viên phải được phân công công tác”. Kiên quyết không để một đảng viên nào không được phân công nhiệm vụ. Quy định này làm cho mọi đảng viên đều phải ra sức học tập và rèn luyện tính tiên phong gương mẫu. Nhờ đó đảng viên không ngừng trưởng thành trong thực tiễn, được nhân dân thừa nhận, góp phần vào thành tích chung của toàn đảng bộ. Việc hoàn thành các nhiệm vụ được phân công là một căn cứ để đánh giá, phân tích chất lượng đảng viên, là mục tiêu để đảng viên phấn đấu, cống hiến cho Đảng, cho xã hội, tự khẳng định vai trò của mình trong cộng đồng làng xã
- Đội ngũ cán bộ đảng viên và tổ chức Đảng đã chủ động khắc phục khó khăn nỗ lực phấn đấu nâng cao phẩm chất, trình độ về mọi mặt, từng bước khắc phục tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào cấp trên hoặc bao biện làm thay công việc của chính quyền, các đoàn thể trong HTCT. Mỗi đồng chí đều phấn đấu vượt lên tâm lý của cộng đồng làng xã Việt Nam “dĩ hoà vi quý” để làm tròn chức năng, nhiệm vụ cán bộ xã. “Đại bộ phận đáp ứng yêu cầu của cuộc sống, là vốn quý trong đội ngũ cán bộ xã hiện nay” [39, tr.40]. - Về cơ cấu đảng viên: Cơ cấu đảng viên trong các đảng bộ xã tương đối hợp lý về chất lượng, số lượng, giới tính và độ tuổi. Trên địa bàn có đồng bào theo đạo thiên chúa (chiếm 10% dân số) nhưng cơ bản đồng bào đều kính chúa, yêu nước và đã kết nạp được nhiều đảng viên gốc giáo. Hiện nay toàn đảng bộ có 614 đảng viên gốc giáo (số lượng đảng viên gốc giáo được kết nạp các năm đều tăng, năm 2004 kết nạp mới được 40 đảng viên gốc giáo trong số 3536 đảng viên mới). Do sự chăm lo phát triển phong trào quần chúng, sự nhận thức có nhiều chuyển biến nên tỷ lệ đảng viên nữ và đảng viên trẻ có tăng so với trước làm cho cơ cấu đội ngũ đảng viên hợp lý hơn (năm 2004 số đảng viên nữ mới kết nạp là 1706/3536 = 48,25%). Sự hợp lý trong cơ cấu đảng viên đã phát huy sức mạnh lãnh đạo của Đảng bộ, bảo đảm ở các thôn xóm, các tổ chức, các phong trào đều có đảng viên làm nòng cốt. * Đặc điểm tổ chức Đảng. - Tất cả các xã ở Hà Tĩnh đều lập đảng bộ. Toàn tỉnh có 241 đảng bộ xã trong đó có 3053 chi bộ trực thuộc (năm 2004). Hầu hết các tổ chức Đảng tỏ rõ quyết tâm trong công tác lãnh đạo, xây dựng tổ chức Đảng TSVM (xem phụ lục 4 và 5). - Các đảng bộ xã thực sự là hạt nhân lãnh đạo chính trị ở cơ sở. Để tăng cường vai trò lãnh đạo của đảng bộ, các Đảng uỷ xã đã coi trọng công tác quy hoạch cán bộ, thực hiện đúng quy trình, có chất lượng không để xẩy ra tình trạng thiếu hụt cán bộ nguồn. Quy hoạch cán bộ đạt yêu cầu về chất lượng, bảo đảm “động” và “mở”. Một chức danh cán bộ chủ chốt có 2 - 3 cán bộ nguồn. Mỗi cán bộ dự kiến nguồn cho 2 - 3 chức danh. Quy hoạch cán bộ theo hướng: Đủ tiêu chuẩn, đảm bảo cơ cấu và trẻ hoá. Nhờ làm tốt công tác cán bộ, công tác tư tưởng mà kết quả trực tiếp nhất là trong bầu cử hội đồng nhân dân (HĐND) xã nhiệm kỳ 2004 - 2009 đa số cán bộ chủ chốt cấp xã được Đảng
- chọn đều hợp ý dân và tạo điều kiện thuận lợi cho bố trí cán bộ của nhiệm kỳ tới. Có một số đồng chí trong quy hoạch không trúng cử HĐND đã làm xáo động một số dự kiến ban đầu của kế hoạch cán bộ, nhưng do làm tốt công tác quy hoạch nên không bị bất ngờ và không bị hụt hẫng trong việc bố trí những chức danh cán bộ chủ chốt. Kết quả bầu cử những cán bộ chủ chốt đương chức ở xã không trúng cử HĐND cũng chứng tỏ: Một số cán bộ không đủ uy tín trong nhân dân do trình độ và ý thức chính trị về quyền và nghĩa vụ của dân đã cao hơn trước. Các cấp uỷ đảng hiểu rõ “việc đào thải những cán bộ lợi dụng chức quyền để làm những điều không đúng cũng tuỳ thuộc vào chỗ tổ chức ấy mạnh hay yếu và do nhân dân được làm chủ đến mức độ nào” [25, tr.18] và hết sức chú ý tạo điều kiện cho nhân dân tham gia nhận xét cán bộ đảng viên. - Việc bố trí sử dụng cán bộ cấp xã thường khó khăn, đa dạng và phức tạp hơn cán bộ trong biên chế Nhà nước. Nó là sự hài hoà giữa ý Đảng và lòng dân, giữa sự nỗ lực của cán bộ và định hướng của tổ chức. Là hạt nhân lãnh đạo ở cơ sở, đảng bộ xã cơ bản đã thực hiện đầy đủ yêu cầu về vị trí, vai trò, nhiệm vụ của đảng bộ cấp cơ sở. Các đảng bộ cấp cơ sở lập thành nền tảng của Đảng nối liền Đảng và cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng với quần chúng nhân dân. Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, việc chấp hành chủ trương đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của quần chúng, tổ chức thực hiện đường lối đổi mới... đều tuỳ thuộc vào năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của TCCSĐ. Những thành tựu đã đạt được, những kinh nghiệm thực tiễn của Đảng đều bắt đầu từ sự phấn đấu, nỗ lực của quần chúng ở cơ sở dưới sự lãnh đạo của TCCSĐ. Thành tích đạt được của các đảng bộ xã ở Hà Tĩnh là: Kinh tế phát triển, xã hội ổn định, an ninh quốc phòng được giữ vững, đời sống của nhân dân được nâng lên, bộ mặt nông thôn có sự chuyển biến rõ nét. TCCSĐ đạt TSVM hàng năm đều tăng. Chất lượng và tỷ lệ đều đạt ở mức năm sau cao hơn năm trước (xem phụ lục 4). - Những yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động của đảng bộ xã: Cuộc sống lao động của người nông dân gắn liền với phong tục tập quán của làng xã, người dân hiếu học và học giỏi, chiến đấu anh hùng bất khuất, lao động cần cù sáng tạo... Những truyền thống cách mạng, những giá trị tinh thần cao đẹp được gìn giữ,
- truyền đạt, giáo dục cho các thế hệ sau hết sức chu đáo và tỷ mỷ. Nổi lên trên hết là truyền thống tương thân tương ái, yêu quê hương đất nước, tin tưởng và hết lòng đi theo lãnh tụ của mình trong các cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước, kể cả trong cuộc mưu sinh. Đó là những thuận lợi để đảng bộ xã lãnh đạo nhân dân thực hiện tốt những chỉ tiêu kinh tế xã hội đặt ra, từng bước đưa Hà Tĩnh thoát khỏi tình trạng tỉnh nghèo và kém phát triển. Song cũng chính vì tâm lý quá coi trọng quá khứ của một bộ phận dân chúng đã cản trở không nhỏ tới sự phát triển của tỉnh trên con đường đi lên của thời kỳ mới. Khó khăn lớn nhất của đảng bộ và nhân dân Hà Tĩnh là đi lên từ một tỉnh nghèo, thuần nông. “Tư tưởng bảo thủ ỷ lại trong đảng bộ và nhân dân còn nặng, năng lực của đội ngũ cán bộ còn hạn chế, một số vụ việc tồn đọng kéo dài cần phải được tập trung giải quyết” [15, tr. 9]. Đảng bộ nhận thức rõ mối quan hệ giữa cán bộ chủ chốt với đội ngũ đảng viên và nhân dân nên đã tập trung xây dựng đội ngũ đảng viên và nâng cao trình độ dân trí. Các cấp uỷ đảng đã có nhiều nỗ lực để đưa phong trào tiến lên, tuy nhiên cũng nhận thức được rằng: “Nâng cao trình độ trí tuệ, bản lĩnh chính trị, năng lực tổ chức, tích luỹ kinh nghiệm cũng là một quá trình không thể một sớm một chiều” [43, tr.94]. Theo cách nói của V.I. Lênin: “Đảng ta phải làm việc, lãnh đạo bằng chính những cán bộ đảng viên do lịch sử để lại. Đòi hỏi có ngay, đầy đủ và đồng bộ những người lãnh đạo xứng đáng là một ảo tưởng và phi thực tế” [43, tr.94]. Những năm qua các đảng bộ xã đã quyết tâm và đạt được những thành tựu đáng kể trong việc “chăm lo công tác chính trị, tư tưởng và xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong đảng bộ, xem đây là yếu tố có tính quyết định cho sự ổn định và phát triển” [15, tr.15]. Tỉnh uỷ chỉ đạo: “Tăng cường cán bộ cho cấp huyện và cơ sở” [15, tr.18] và “quan tâm đúng mức đến việc xây dựng chi bộ, đảng bộ trong sạch vững mạnh, nâng cao vai trò, vị trí, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng” [15, tr.19]. Vì thế đã “từng bước trẻ hoá đội ngũ cán bộ, khắc phục dần sự hẫng hụt về cán bộ, nhất là cán bộ cơ sở” [15, tr.19]. Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đã đạt được, các đảng bộ xã cũng còn những vấn đề cần phải được quan tâm giải quyết có hiệu quả. Vẫn còn: “Những hiện tượng quan liêu
- tham nhũng tiêu cực, suy thoái đạo đức trong một bộ phận cán bộ đảng viên còn gây bất bình trong quần chúng nhân dân. Chất lượng công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị chưa cao” [15, tr.10]. Sự quan tâm chỉ đạo xây dựng làng xã, gia đình văn hoá của cấp uỷ đảng chính quyền và đoàn thể còn thiếu thường xuyên. Công tác đào tạo nghề, giải quyết việc làm trên địa bàn còn khó khăn. Cán bộ, đảng viên còn thiếu năng động trong sản xuất hàng hoá, hiểu biết về cơ chế thị trường còn hạn chế. “Dũng khí đấu tranh trong Đảng giảm sút” [15, tr.30]. “Việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt Đảng ở một số tổ chức đảng chưa thật tốt” [15, tr.31]. Còn có nhiều biểu hiện né tránh, thiếu kiên quyết. Đồng thời do đặc điểm nông thôn truyền thống, quan niệm gia trưởng còn nặng và sự vị nể những người lớn tuổi, những “bậc cha chú”, có lúc ảnh hưởng tới sinh hoạt Đảng. Cơ sở vật chất còn khó khăn, nhiều nơi trụ sở dùng để sinh hoạt Đảng cũng không có, nhất là trụ sở để sinh hoạt chi bộ. Thường các buổi sinh hoạt chi bộ được tổ chức vào một buổi tối tại nhà riêng của đảng viên, thậm chí có khi còn được tổ chức ngay tại nhà đồng chí bí thư chi bộ nên những vấn đề cần phát biểu trong nội bộ đảng, cần “kín” lại không thể “kín”. Do vậy tự phê bình và phê bình bị ảnh hưởng, nhất là đánh giá phân tích chất lượng đảng viên, khen thưởng và kỷ luật đảng viên bị hạn chế. (Trừ một số xã miền xuôi các thôn đều có nhà văn hoá thì điều kiện sinh hoạt Đảng có tốt hơn). Hiện nay, do nhu cầu của công cuộc mưu sinh nên một số đảng viên trẻ, lao động trẻ, bám đất, bám làng để làm giàu chưa thực hiện được. Số thanh niên quyết tâm làm giàu trên quê hương được tập trung ở các “làng thanh niên”. ở các đảng bộ xã, đảng viên thường có tuổi đời cao, tuổi đảng cao ảnh hưởng không nhỏ tới sự năng động sáng tạo, dám nghĩ dám làm. Trong quá trình CNH - HĐH nông nghiệp nông thôn, nhiều đảng bộ xã đã tập trung mọi nguồn lực, động viên và tạo điều kiện thực tế để người lao động có thể làm giàu tại quê hương. Xã ở Hà Tĩnh có đủ các đặc điểm của các vùng dân cư: Vùng ven biển, vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, vùng đồng bào có đạo... đều gây những khó khăn cho công tác Đảng. Hoạt động của các tổ chức đảng chưa đồng đều, chất lượng sinh hoạt chi bộ còn hạn chế, công tác phát triển đảng viên ở những vùng đặc biệt nêu trên còn khó khăn, 28
- xóm chưa có đảng viên hầu hết đều rơi vào những xóm công giáo toàn tòng. Bản thân nội bộ đảng vẫn còn “những hiện tượng tham nhũng, tiêu cực, suy thoái đạo đức trong một bộ phận cán bộ đảng viên còn gây bất bình trong nhân dân, chất lượng công tác xây dựng Đảng chưa cao” [15, tr.10]. * Đặc điểm nhiệm vụ của đảng bộ xã ở Hà Tĩnh. Đảng bộ xã ở Hà Tĩnh nghiêm túc thực hiện nhiệm vụ do Trung ương quy định ở số 95-QĐ/TW. - Đảng bộ xã lãnh đạo kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng. Về kinh tế. Trong sự phát triển của đời sống xã hội Đảng ta xác định: phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt. Sự xác định đó xuất phát từ quan điểm của V.I. Lênin: “Những lý tưởng cao cả nhất cũng không đáng giá một xu nhỏ chừng nào mà người ta không biết kết hợp chặt chẽ những lý tưởng đó với lợi ích vật chất của chính ngay những người đang tham gia cuộc đấu tranh kinh tế” [20, tr.150-151]. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng dạy rằng: Nước độc lập mà dân không no ấm thì độc lập đó không có ý nghĩa gì... Với sự đa dạng của địa bàn dân cư, tận dụng những lợi thế tự nhiên và xã hội, tuỳ điều kiện cụ thể, các đảng bộ xã đã ra nghị quyết lãnh đạo phát triển kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng cho địa phương mình một cách phù hợp. Hiện nay cùng với sự nỗ lực của các cấp các ngành liên quan, thực hiện CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn các đảng bộ xã ở Hà Tĩnh đã nhanh chóng nắm bắt và triển khai mô hình “cánh đồng 50 triệu” đến nay đã thí điểm thành công nhiều mô hình phù hợp. “Cánh đồng 50 triệu” đã khả thi trên quê hương Hà Tĩnh. Hà Tĩnh chú ý khôi phục, phát triển và tôn vinh những làng nghề truyền thống, phục vụ nhu cầu sản xuất và đời sống ngày càng tăng trên địa bàn, trước hết là trong tỉnh với gần 1,3 triệu dân sẽ là thị trường lớn cho sản phẩm của các làng nghề. Trong lãnh đạo phát triển kinh tế, các cấp uỷ đã biết khai thác những lợi thế từ truyền thống quê hương, khơi dậy tinh thần yêu quê hương đất nước, lao động cần cù, thông minh sáng tạo. Những con người kiên quyết, dũng cảm, sáng tạo trong chiến đấu sẽ là những con người có ý chí vươn lên thoát đói nghèo, vươn lên giàu có mà nòng cốt là đội
- ngũ cán bộ đảng viên. (Hiện nay Hà Tĩnh có 73852 đảng viên, chiếm 5,68% dân số. Trong đó, số đảng viên sinh hoạt ở các Đảng bộ xã là 52581 đảng viên, chiếm 71,20% số đảng viên của toàn Đảng bộ). Hiểu đặc điểm của người dân Hà Tĩnh: Chịu khó, cần cù, hay lam hay làm nhưng cũng dễ chấp nhận sự nghèo khó, chưa có được quyết tâm và một chút mạo hiểm của những vùng dân có truyền thống sản xuất hàng hoá trong lịch sử. Hiểu đặc điểm của người lao động, các đảng bộ xã đã tích cực tác động, tuyên truyền về “xoá đói giảm nghèo”, vươn lên làm giàu. Đó là sự thể hiện tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin: “Hãy để cho người nông dân suy nghĩ trên luống cày của họ”, các cấp uỷ đảng ở Hà Tĩnh đã tích cực xây dựng nhiều mô hình tiên tiến làm thực tế cho nhân dân nhìn thấy, suy nghĩ, tin và muốn làm theo. Trên thực tế, cách làm này đã thắng lợi thể hiện ở việc nắm bắt kịp thời mô hình “cánh đồng 50 triệu”, “làng thanh niên”. ở đây đảng bộ xã đã thể hiện tính tiên phong về lí luận, kiên trì thuyết phục, giải thích, kích thích, khơi dậy những nhu cầu chính đáng của người lao động. Đảng bộ thể hiện tính tiên phong trong thực tiễn, đã tập trung xây dựng điển hình, tuyên truyền điển hình và thực hiện “đảng viên đi trước, làng nước theo sau”. Hiện nay, Hà Tĩnh vẫn là một tỉnh nghèo, thuần nông. Trong quá trình đi lên từ nông nghiệp, các đảng bộ đang rất khó khăn trong việc xác định cơ cấu cây trồng vật nuôi của địa phương mình. Thực tế cho thấy, ở những xã điều kiện tương đối thuận lợi, dân trí cao, Ban Chấp hành đảng bộ có năng lực và bằng hiệu quả sản xuất thực tế, đã xác định được cây con chủ lực thì sự phát triển là tương đối thuận lợi. Tuy nhiên phần lớn các xã chưa xác định được mũi nhọn kinh tế của mình, nhân dân chủ yếu vẫn lao động theo kiểu truyền thống, tự phát. Điển hình ở những vùng bán sơn địa, điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, sản xuất của nông dân dù có nhiều cố gắng nhưng năng suất cũng không cao vì chủ yếu vẫn phụ thuộc vào tự nhiên. ở những đảng bộ đó, việc xác định cây con chủ lực trên thực tế còn nhiều khó khăn, thậm chí không thực hiện được. ở những vùng ven biển, ý tưởng và việc thực hiện đánh bắt xa bờ đã được triển khai, song vì thiếu đồng bộ nên hiệu quả thu được chưa tương xứng với tiềm năng và sự đầu tư. Thậm chí ngư dân còn dùng tiền đầu tư cho đánh bắt xa bờ để xây nhà, mua xe
- máy(!) Bài học rút ra ở đây là: Cùng với các dự án đầu tư bằng tiền, các đảng bộ phải tập trung chỉ đạo, làm công tác tư tưởng, tuyên truyền giải thích, nâng cao trình độ nhân dân, kết hợp với Ban quản lý dự án quản lý tốt, đảm bảo sử dụng vốn đúng mục đích và hiệu quả cao. Đảng bộ xã lãnh đạo văn hoá xã hội. Hà Tĩnh là tỉnh giàu truyền thống, nhân dân rất quý truyền thống. Truyền thống gia đình, dòng họ, quê hương được tôn vinh lưu giữ một cách chu đáo và được truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác. Nổi bật là truyền thống trọng nghĩa tình, trung hiếu, hiếu học và học giỏi. Đảng bộ xã đã chú ý phát huy những giá trị tốt đẹp ấy trong việc giáo dục các thế hệ thanh thiếu niên Hà Tĩnh. Các làng đã và đang khôi phục, xây dựng mới hương ước làng, quy ước của dòng họ, gia đình nhằm lưu giữ và phát huy truyền thống, của gia đình, quê hương, phù hợp với quy định của luật pháp và tiến kịp sự phát triển chung của đất nước. Bằng các công tác cụ thể của mình, đảng bộ xã ở Hà Tĩnh đã động viên quần chúng nhân dân vươn lên trên mọi lĩnh vực, động viên tinh thần, khơi dậy niềm tin và ý chí quyết tâm lao động sáng tạo. Đảng bộ và nhân dân đều hiểu rằng trong lao động và cuộc sống, sự nỗ lực của bản thân là cơ bản, sự giúp sức của bên ngoài là quan trọng. Thời gian qua, với chủ trương của Đảng và Nhà nước, sự lãnh đạo trực tiếp toàn diện của Đảng uỷ, sự nỗ lực của mọi người và sự giúp đỡ của cộng đồng nên đời sống của nông dân Hà Tĩnh được cải thiện đáng kể. Nổi bật nhất là phong trào “xoá nhà tranh tre dột nát”, xây dựng giao thông nông thôn, phụ nữ giúp nhau phát triển kinh tế... với phương châm “nhà nước và nhân dân cùng làm” đã thực sự đem lại sự khởi sắc cho một vùng quê vốn nghèo nhưng anh hùng. Cùng với sự bảo đảm và nâng cao đời sống kinh tế, cuộc sống văn hoá tinh thần của nhân dân cũng được cải thiện, bầu không khí tin tưởng phấn khởi trong các tầng lớp nhân dân ở các xã đã phản ánh thành tích của đảng bộ. Đảng bộ xã lãnh đạo bảo vệ an ninh quốc phòng. Với đặc điểm tự nhiên của mình, Hà Tĩnh có xã ven biển, có xã biên giới. Mật độ đường giao thông ở Hà Tĩnh thuộc loại cao nhất cả nước. Ngoài hệ thống tỉnh lộ, huyện lộ, liên xã, liên thôn, Hà Tĩnh có quốc lộ 1A, 15A, đường Hồ Chí Minh, đường sắt, đáng chú ý là quốc lộ 8A từ cửa khẩu Cầu
- Treo qua cảng nước sâu Vũng áng, là cảng biển được chính phủ Việt Nam tạo điều kiện cho Nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào sử dụng theo luật biển Quốc tế. Cùng với an ninh quốc phòng trên toàn quốc, Hà Tĩnh thông qua mỗi xã, phải phấn đấu bảo đảm an ninh quốc phòng và bảo đảm sự liên lạc thông suốt, chính xác, kịp thời. Đảng bộ lãnh đạo bảo đảm sự phối hợp giữa các lực lượng nhân dân với dân quân tự vệ, tạo nên thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân vững chắc, bảo vệ an toàn cho cuộc sống, cho sản xuất, bảo đảm an toàn xã hội và an ninh quốc gia. - Đảng bộ xã lãnh đạo công tác chính trị tư tưởng. Xác định tầm quan trọng của công tác chính trị tư tưởng, các đảng bộ xã đã quan tâm làm công tác chính trị tư tưởng và đã đạt được những thành tựu quan trọng bước đầu. Do làm tốt công tác chính trị tư tưởng nên ít xuất hiện những vấn đề tư tưởng bức xúc nảy sinh trên địa bàn. Đảng bộ xã thống nhất và quyết tâm thực hiện việc giải quyết những vấn đề tư tưởng ngay từ khi nó mới xuất hiện, không để nó có điều kiện phát triển và ảnh hưởng xấu tới nhiều người, gây bất lợi cho sự nghiệp chung. Biểu hiện cụ thể của kết quả công tác chính trị tư tưởng là các nghị quyết của Đảng được nhân dân đón nhận một cách vui vẻ tự giác và đạt hiệu quả cao trong quá trình thực hiện. Nhân dân phấn khởi tin tưởng vào Đảng, vào công cuộc đổi mới đất nước và ngày càng có nhiều quần chúng ưu tú xin gia nhập Đảng. Số quần chúng ưu tú ngày càng nhiều, nguồn kết nạp đảng viên mới ngày càng dồi dào. Đảng bộ đề cao các giá trị truyền thống về lao động, văn hoá và xã hội. Chú ý giáo dục thế hệ trẻ để họ có đủ năng lực đề kháng với các loại tệ nạn xã hội và vượt qua những khó khăn trong cuộc sống. Tình hình kinh tế xã hội trên địa bàn tốt đẹp có sự đóng góp không nhỏ của công tác chính trị tư tưởng, thông qua sự hoạt động hiệu quả của tất cả các lực lượng tham gia. - Đảng bộ xã lãnh đạo công tác tổ chức và cán bộ. Nhận thức được tầm quan trọng và tính khoa học của công tác tổ chức và cán bộ, được sự chỉ đạo sâu sát của Tỉnh uỷ, Huyện uỷ, Thị uỷ, các Đảng uỷ xã đã làm tốt công tác cán bộ, đưa công tác cán bộ vào nề nếp. Thực hiện quy hoạch cán bộ theo đúng nguyên tắc, quy trình. Quy hoạch “động” và “mở” nên đã chủ động trong việc bố trí cán
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn tốt nghiệp "Chất lượng sản phẩm công ty cổ phần Tràng An"
40 p | 701 | 249
-
Luận văn: Chất lượng dịch vụ hộ sản tại bệnh viện Phụ sản quốc tế Sài Gòn
72 p | 215 | 98
-
ĐỀ TÀI “ĐÁNH GIÁ VỀ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ TRONG MẠNG VOIP” CHƯƠNG III_1
15 p | 162 | 42
-
Luận văn Trang thiết bị điện tàu 12500T. Đi sâu nghiên cứu hệ thống truyền động điện neo. Xây dựng mô hình trạm từ điều khiển hệ thống truyền động điện tời neo
76 p | 158 | 38
-
Luận văn - Thực trạng chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội
85 p | 89 | 30
-
Đề tài tốt nghiệp: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn ở hệ thống ngân hàng thương mại nước ta
62 p | 99 | 20
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ: Tăng cường chất lượng ảnh vân tay cho kỹ thuật in
16 p | 139 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Đánh giá chất lượng nguồn nhân lực tại Công ty Than Uông Bí TKV
123 p | 71 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nâng cao chất lượng dịch vụ tại công ty Việt Khoa trong lĩnh vực thiết bị khoa học kỹ thuật
70 p | 24 | 6
-
Luận văn tốt nghiệp : Vấn đề lương thực thực phẩm - Mối quan trọng tối ưu cho cuộc sống phần 5
9 p | 49 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước về chất lượng trang bị kỹ thuật trong lực lượng Công an nhân dân
129 p | 31 | 5
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước về chất lượng trang bị kỹ thuật trong lực lượng Công an nhân dân
26 p | 57 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Vận dụng kế toán quản trị trong kiểm soát chất lượng toàn diện tại Công ty Dược - Trang thiết bị Y tế Bình Định
100 p | 23 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý giáo dục: Quản lý hoạt động giáo dục thể chất cho trẻ 5-6 tuổi tại các trường mẫu giáo thị xã Điện Bàn tỉnh Quảng Nam
134 p | 11 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Nghiên cứu sự hài lòng của khách hàng cá nhân về dịch vụ của Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Á, chi nhánh Bình Định
105 p | 6 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Nghiên cứu chất lượng dịch vụ thẻ ATM tại Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam - chi nhánh Bình Định
121 p | 3 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Nghiên cứu sự hài lòng của khách hàng đối với dịch vụ 3G của Mobifone trên địa bàn tỉnh Bình Định
109 p | 6 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn