LUẬN VĂN:Cơ sở khoa học của quy hoạch sử dụng đất đai huyện Lộc Bình-
lượt xem 56
download
LUẬN VĂN: Cơ sở khoa học của quy hoạch sử dụng đất đai huyện Lộc Bình- Tỉnh Lạng Sơn thời kỳ 2001- 2010 .Lời nói đầu “ Đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá đối với mỗi quốc gia, là tư liệu sản xuất đặc biệt của tất cả các ngành sản xuất vật chất xã hội, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố các khu dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh quốc phòng...”- Trích luật đất đai năm 1993. Đất đai là...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: LUẬN VĂN:Cơ sở khoa học của quy hoạch sử dụng đất đai huyện Lộc Bình-
- LUẬN VĂN: Cơ sở khoa học của quy hoạch sử dụng đất đai huyện Lộc Bình- Tỉnh Lạng Sơn thời kỳ 2001- 2010
- Lời nói đầu “ Đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá đối với mỗi quốc gia, là tư liệu sản xuất đặc biệt của tất cả các ngành sản xuất vật chất xã hội, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố các khu dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh quốc phòng...”- Trích luật đất đai năm 1993. Đất đai là loại tài nguyên được sử dụng cho tất cả các ngành kinh tế - xã hội, nó là điều kiện tồn tại và phát triển của con người.Trong tiến trình lịch sử của xã hội loài người, con người và đất đai ngày càng có quan hệ chặt chẽ với nhau, đất đai trở thành nguồn của cải vô tận của con người, con người dựa vào đất đai để tạo ra sản phẩm để nuôi sống mình và gia đình mình. Khi xã hội càng phát triển thì quan hệ giữa con người và đất đai ngày càng cao, con người ngày càng tác động mạnh vào đất đai để khai thác, khám phá “kho báu” không những trên mặt đất mà cả trong lòng đất. Trong khi đó, đất đai lại là một tài nguyên có hạn, nó không thể sản sinh thông qua sản xuất nhưng nó lại có khả năng tái tạo được thông qua sự tác động khoa học của con người. Điều này nói lên rằng, cùng với sự tiến bộ xã hội thì con người càng cần phải có những tác động tích cực tới loại tài nguyên này một cách khoa học, hợp lý và tiết kiệm để không những đem lại hiệu quả kinh tế cao trong sử dụng đất mà còn đảm bảo an toàn quỹ đất đai, bảo vệ môi trường sống không những cho hiện tại mà cho cả tương lai. Hơn nữa trong giai đoạn hiện nay khi đất đai trở nên có giá thì việc hình thành thị trường “ngầm” về đất đai là một điều không thể tránh khỏi, nó đã tác động lớn tới việc phát triển kinh tế - xã hội đặc biệt nó kìm hãm mạnh tới sự hình thành và phát triển thị trường bất động sản ở nước ta. Chính vì vậy cần có sự quản lý của nhà nước đối với đất đai một cách nghiêm ngặt cho từng mục đích và ý đồ của mình. Một trong những nội dng đó là công tác lập qui hoạch sử dụng đất. Việc lập qui hoạch sử dụng đất là cơ sở pháp lý để nhà nước thống nhất qản lý quỹ đất đai, phân bổ việc sử dụng đất một cách hợp lý phù hợp với thực trạng phát triển kinh tế xã hội của từng địa
- phương cũng như trong cả nước trong một thời gian nhất định nhằm đem lại những điều kiện tốt nhất cho dân cư và góp phần nâng cao việc sử dụng đất. ở nước ta, công tác quy hoạch sử dụng đất đã và đang được Đảng và nhà nước hết sức quan tâm, công tác quy hoạch đất được lập theo lãnh thổ hành chính và theo ngành.Tuy nhiên việc lập quy hoạch theo lãnh thổ hành chính mới chỉ được chú trọng ở cấp quốc gia và cấp tỉnh (cấp vĩ mô), còn ở cấp vi mô (cấp xã) và cấp trung gian (quy hoạch cấp huyện) ở nhiều nơi còn chưa được chú trọng. Là một sinh viên thực tập tại trung tâm Triển khai và Thử nghiệm các dự án về quản lý đất đai, tôi nhận thấy việc lập quy hoạch đất đai ở cấp huyện là hết sức cần thiết nhằm cụ thể hoá qui hoạch sử dụng đất đai ở cấp tỉnh nhưng cũng đồng thời là căn cứ, định hướng cho qui hoạch sử dụng đất đai ở cấp xã. Đặc biệt đối với hững huyện miền núi, việc lập qui hoạch sử dụng đất đai góp phần trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn huyện và đảm bảo sự công bằng xã hội, thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Chính vì vậy tôi mạnh dạn chọn đề tài “ Cơ sở khoa học của quy hoạch sử dụng đất đai huyện Lộc Bình- Tỉnh Lạng Sơn thời kỳ 2001- 2010” làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình với mục đích: - Nghiên cứu khái niệm và sự cần thiết của quy hoạch - Nghiên cứu nội dung và căn cứ lập quy hoạch - Phân tích những căn cứ để lập qui hoạch sử dụng đất đai huyện Lộc Bình - Đề ra phương án qui hoạch sử dụng đất đai từ nay đến năm 2010 - Đề ra một số giải pháp để quy hoạch đi vào thực tiễn Đề tài này được nghiên cứu theo các phương pháp - Phương pháp kết hợp định tính và định lượng - Phương pháp thống kê, dự báo - Phương pháp bản đồ Bố cục bài viết gồm: Lời mở đầu Nội dung: Chương I: Cơ sở khoa học của qui hoạch sử dụng đất đai Chương II: Phương án qui hoạch sử dụng đất đai huyện Lộc Bình- tỉnh Lạng Sơn tời kỳ 2001 - 2010
- ChươngIII: Tính hiệu quả và biện pháp thực hiện qui hoạch sử dụng đất đai Kết luận . Chuyên đề này được thực hiện tại trung tâm Triển khai và Thử nghiệm các dự án về quản lý đất đai. Do thời gian và trình độ lý luận có hạn nên chuyên đề này không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo và bạn đọc để bài viết này được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn ! Chương I Cơ sở khoa học của qui hoạch sử dụng đất đai I.Khái niệm và sự cần thiết của qui hoạch sử dụng đất đai . 1. Khái niệm: Về mặt thuật ngữ, "Quy hoạch” là việc xác định môt trật tự nhất định bằng những hoạt động như: phân bố, bố trí, sắp xếp, tổ chức... Đất đai là một phần lãnh thổ nhất định (vùng đất, khoanh đất, vạc đất, mảnh đất, miếng đất ...) có vị trí, hình thể, diện tích với những tính chất tự nhiên hoặc mới tạo thành (đặc tính thổ nhưỡng, điều kiện địa hình, địa chất thuỷ văn, chế độ nước, nhiệt độ, ánh sáng, thảm thực vật, các tính chất lý hoá tính ...), tạo ra những điều kiện nhất định cho việc sử dụng theo các mục đích khác nhau. Vì vậy, để sử dụng đất đạt hiệu quả cao cho các mục đích kác nhau, phù hợp với những điều kiện nhất định đem lại lợi ích cả về kinh tế, xã hội và môi trường của mỗi vùng, mỗi lãnh thổ, mỗi đơn vị hành chính thì cần phải có quá trình nghiên cứu, lao động sáng tạo nhằm xác định ý nghĩa, mục đích của từng phần lãnh thổ và đề xuất một trật tự sử dụng đất nhất định. Xét về mặt bản chất, đất đai là đối tượng của các mối quan hệ sản xuất trong lĩnh vực sử dụng đất đai (người ta gọi đó là các mối quan hệ đất đai: quan hệ giữa con người với đất đai, quan hệ giữa đất đai với phương thức sản xuất xã hội, quan hệ giữa đất đai với điều kiện kinh tế - xã hội. Như vậy, qui hoạch sử dụng đất đai là một hiện tượng kinh tế xã hội, là một môn khoa học tổng hợp của rất nhiều chủ thể khác nhau thể hiện được đồng thời cả ba tính chất: kinh tế (bằng hiệu quả sử dụng đất); kỹ thuật ( các tác nghiệp chuyên môn kỹ thuật như điều tra, khảo sát, xây dựng bản đồ, khoanh
- định, xử lý số liệu ... ) và thể hiện tính pháp chế cao (xác định tính pháp lý về mục đích và quyền sử dụng đất nhằm quản lý và sử dụng đất đai theo pháp luật). Vì vậy, có thể định nghĩa “Qui hoạch sử dụng đất đai là hệ thống các biện pháp của Nhà nước để tổ chức quản lý và sử dụng đất đai một cách đấy đủ, hợp lý, khoa học, và có hiệu quả nhất thông qua việc phân bố quỹ đất đai nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất của xã hội, tạo điều kiện bảo vệ đất đai và môi trường” Tính đầy đủ, hợp lý và khoa học của qui hoạch sử dụng đất đai được thể hiện mọi loại đất đều được đưa vào khai thác sử dụng cho các mục đích khác nhau phù hợp với đặc điểm tự nhiên và điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của từng vùng. Đặc biệt trên cơ sở tiềm năng đất đai để khai thác thế mạnh, phát huy thế mạnh của từng khu vực, bố trí việc sử dụng đất đai phù hợp với nhu cầu và mụch đích sử dụng của các cấp các ngành và phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Tuy nhiên, bên cạnh việc khai thác và sử dụng tiềm năng đất đai còn phải đi đôi với việc bảo vệ và cải tạo loại tài nguyên này thông qua việc áp dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật và các biện pháp tiên tiến nhằm đạt được hiệu quả cao nhất trên cả ba lợi ích kinh tế, xã hội và môi trường. Quy hoạch sử dụng đất đai là quá trình hình thành các quyết định, các phương án tổ chức và tổ chức lại việc sử dụng đất đai theo pháp luật và pháp lệnh của Nhà nước bằng các phương pháp phân tích tổng hợp, phân bố địa lý các điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội với những đặc trưng của tính phân dị giữa các cấp, các vùng lãnh thổ theo quan điểm tiếp cận hệ thống nhằm tạo điều kiện đưa đất đai vào sử dụng hiêu quả và bền vững để đem lại lựi ích cao nhất. Qui hoạch sử dụng đất đai được nghiên cứu theo các chu kỳ phù hợp với yêu cầu và nhiệm vụ phát triển của đất nước. Theo đó tự nó có tính chất riêng của mình như là một biện pháp để khôn ngừng phát triển, sử dụng quỹ đất đai theo nghĩa tạo ra giá trị sử dụng ngày càng cao của đất đai. Quy hoạch sử dụng đất đai theo các chu kỳ tiếp nối và xen nhau về thời gian, tôn trọng nguyên tắc kế thừa, tích tụ và phát triển. Qui hoạch sử dụng đất đai được xây dựng vì mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội và ổn định chính trị, nó được lập cho các mục đích sử dụng đất đai trong một thời gian tương đối dài: 5-10 năm cho cấp huyện và cấp tỉnh. Chính vì vậy, quy hoạch sử dụng đất đai mang một hình thái động. Vì vậy nó phải được cụ thể hoá bằng các kế hoạch 5
- năm và kế hoạch hàng năm nhằm điều chỉnh nội dung về điều kiện tự nhiên, kinh tế- xã hội của vùng trong giai đoạn quy hoạch. 2. Sự cần thiết phải quy hoạch sử dụng đất Đất đai là một loại tài nguyên thiên nhiên thiên có trước lao động, là điều kiện tự nhiên của lao động. Đất đai là địa điểm, là cơ sở của các thành phố, làng mạc, công trình công nghiệp, giao thông, thuỷ lợi, các công trình phúc lợi khác, các cánh đồng để con người trồng trọt chăn nuôi... Con người đã tác động vào đất đai để tạo ra của cải để nuôi sống mình và cộng đồng mình. Không những thế nhờ có đất đai mà con người đã thể hiện được vị trí to lớn của mình trong xã hội. Sự tác động qua lại giữa con người và đất đai thể hiện mối quan hệ qua lại giữ người và đất. Mối quan hệ này được thể hiện rõ nét trong tiến trình lịch sử của xã hội loài người . Trong giai đoạn đầu phát triển kinh tế xã hội. Khi mức sống của con người còn thấp, công năng chủ yếu của đất đai là tập trung vào sản xuất vật chất, đặc biệt trong sản xuất nông nghiệp. Thời kỳ cuộc sống phát triển ở mức cao, công năng của đất đai từng bước được mở rộng, vấn đề sử dụng đất cũng phức tạp hơn vừa là căn cứ của khu vực 1, vừ là không gian, địa bàn của khu vực 2. Điều này có nghĩa đất đai đã cung cấp cho con người tư liệu vật chất để sinh tồn và phát triển, cũng như cung cấp điều kiện cần thiết về hưởng thụ và đáp ứng nhu cầu của cuộc sống nhân loại. Mục đích sử dụng đất nêu trên được biểu lội càng rõ nét trong các khu vực kinh tế phát triển. Khi nền kinh tế- xã hội phát triển mạnh, cùng sự bùng nổ dân số đã làm cho mối quan hệ giữa người và đất ngày càng căng thẳng, những sai lầm liên tục của con người trong quá trình sử dụng đất (có ý thức hoạc vô thức) dẫn đến huỷ hoại môi trường đất, một số công năng nào đó của đất đai bị yếu đi, vấn đề sử dụng đất đai càng trở nên quan trọng và mang tính toàn cầu. Trong những thập kỷ qua, nhiều tổ chức quốc tế và các nước trên thế giới (kể cả các nước có diện tích tự nhiên rất lớn) đã ngày càng chú ý đến việc sử dụng đất hợp lý, tiết kiệm, khoa học và có hiệu quả. Còn ở Việt Nam, theo số liệu thống kê năm 1998 có tổng diện tích tự nhiên 33.104.218 ha.Có quy mô trung bình nhưng có quy mô vào hàng thứ 13 trên thế giớ (78,4 triệu người) nên bình quân đất đai tính theo đầu người chỉ có 0,45ha/người. Thấp bằng 1/7 mước bình quân thế giới (3ha/người) tương đương với các nước Anh, Đức, Philipppin, đứng hàng thứ 9 trong 10 nước Đông Nam á và
- đứng thứ 135 trong số 2000 nước trên thế giớ . Hơn nữa, Việt Nam còn là một nước nông nghiệp với 80% dân số sống ở nông thôn và bình quân đất nông nghiệp là 1074 m2/người, 3446m2/một lao động nông nghiệp. Như vậy, Việt Nam được xếp vào loại đất chật người đông. Vì vậy, vấn đề sử dụng đất đai khoa học, hợp lý, tiết kiệm trong giai đoạn hiện nay ở nước ta là nhiệm vụ mang tính cấp bách và lâu dài. Một trong hững biện pháp quan trọng và có hiệu quả để quản lý đất đai là tiến hành quy hoạch sử dụng đất đai ở cả các cấp và các ngành trên cả nước cũng như từng địa phương. Sau khi luật đất đai 1993 được ban hành, ngay từ đầu năm 1994. Tổng cục địa chính đã triển khai xây dựng quy hoạch sử dụng đất đai toàn quốc đến năm 2000. Đây là một bước tiến lớn trong việc quản lý và sử dụng đất đai. Thông qua quy hoạch sử dụng đất, các mối quan hệ đất đai được điều chỉnh đồng thời đã tạo điều kiện để quan hệ đất đai được tiếp cận với cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa. Đặc biệt đã tạo một bước cho yêu cầu cân đối giữa nhiệm vụ an toàn lương thực với nhu cầu hiện đại hoá và đô thị hoá. Không những thế, quy hoạch sử dụng đất đai cả nước là căn cứ cho quy hoạch sử dụng đất đai ở các địa phương (Tỉnh, Huyện , Xã). Quy hoạch sử dụng đất đai cả nước chỉ đạo việc dây dựng quy hoạch cấp tỉnh, quy hoạch cấp huyện xây dựng trên cơ sở quy hoạch cấp tỉnh nhằm giải quyết các mâu thuẫn về quan hệ đất đai căn cứ vào đặc tính đặc tính nguồn tài nguyên đất, mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội và các điều kiện cụ thể khác của huyện để từ đó đề suất các giải pháp và phân bố sử dụng các loại đất đồng thời xác các chỉ tiêu khống chế về đất đai đối với quy hoạch ngành, xã phường trên phạm vi toàn huyện. Quy hoạch và được xây dựng dựa trên khung chung các chỉ tiêu định hướng sử dụng đất đai của huyện. Quy hoạch sử dụng đất đai là một hệ thống quy hoạch 4 cấp: cấp cả nước, cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã được thực hiện theo nguyên tắc kết hợp xây dựng từ trên xuống dưới và từ dươí lên trên. Quy hoạch cấp trên là cơ sở và chỗ dựa của quy hoạch sử dụng đất đai của cấp dưới, quy hoạch của cấp dưới là phải tiếp theo, cụ thể hoá quy hoạch của cấp trên và là căn cứ để điều chỉnh cao quy hoạch vĩ mô. Với hệ thống quy hoạch 4 cấp này đã tạo ra sự thống nhất trong việc quản lý nước đối với đất đai, giúp nhà nước nắm chắc quỹ đất đai trên cả nước về loại đất, chất đất và những đặt trưng, thế mạnh của từng vùng để từ đó có nhứng biện pháp, chính sách thích đáng để phát huy được tính năng của đất đặc biệt là việc phát huy lợi thế
- của từng vùng tạo nên sự chuyên môn hoá sản xuất. Tuy nhiên việc phát huy một cách hiệu quả, tối đa và khoa học tính năng của đất được đồng nghĩa với quy hoạch sử dụng đất đai xác lập cơ cấu sử dụng đất đai các ngành nghề phù hợp với cơ cấu kinh tế để từ đó tạo sự cân đối trong phát triển kinhtế xã hội và môi trường tạo cho những bước đi vững chắc tránh phụ thuộc vào bên ngoài và góp phần thúc đẩy sự công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trên cơ sở phân tích, đánh giá điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội để thấy được mức độ sử dụng đất đai một cách khoa học, hợp lý ở giai đoạn hiện tại của vùng quy hoạch từ đó đề ra phương án quy hoạch sử dụng đất phát huy mặt tích cực và hạn chế những tồn tại yếu kém trong vấn đề sử dụng đất. Quy hoạch sử dụng đất đai đề ra phương án phân bổ qua đất đai các mục đích sử dụng nhằm khai thác lợi thế của từng vùng tạo ra vùng sản xuất chuyên canh, vùng sản xuất hàng hoá lớn nhưng phải đảm bảo cho sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế đúng hướng theo nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Trong giai đoạn hiện nay khi kinh tế nước ta đang chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ đồng thời giàm tỷ trọng ngành nông nghiệp thì sự phân bố quỹ đất đai cho các ngành luôn đáp ứng được các nhu cầu tối thiểu đảm bảo sự phát triển toàn diện cho ngành. Cùng với quá trình khai thác và sử dụng hợp lý quỹ đất đai, phương án trong quy hoạch sử dụng đất luôn chú ý đến vấn đề bảo vệ và cải tạo quỹ đất làm tăng khả năng sinh lợi của đất, tránh hiện tượng hoang hoá, xói mòn... Quy hạch sử dụng đất đai mang tính pháp lý cao, nó được lập cho việc sử dụng đất đai trước mắt và định hướng nhu cầu sử dụng đất đai dài hạn. Đó là cơ sở quan trọng để người sử dụng đất có định hướng sử dụng đất lâu dài trên mảnh đất mình được giao, được thuê, từ đó họ yên tâm đầu tư vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật để khai thác địa tô chênh lệch I ,địa tô chênh lệch II và địa tô tuyệt đối Hơn nữa, quy hoạch sử dụng đất đai là một trong 7 nội nung của quản lý nhà nước về đất đai, nó là điều kiện, là căn cứ để thực hiện việc giao cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất... và là căn cứ pháp lý để các nhà quản lý điều chỉnh các hành vi của người sử dụng đất theo đúng mục đích và yêu cầu, tránh các hiện tượng sử dụng đất gây lãng phí hay huỷ hoại tài nguyên này.
- Quy hoạch sử dụng đất đai được xây dựng theo một hệ thống 4 cấp đã tạo nên sự thống nhất để Nhà nước quản lý đất đai, xây dựng hoàn thiện các chính sách về quản lý và sử dụng đất đai ngăn chặn các hiện tượng chuyển đổi mục đích sử dụng đất một cách trái pháp luật, giảm hiện tượng tranh chấp, lấn chiếm và những hiện tượng tiêu cực khác có liên quan đến đất đai. Bên cạnh đó, nó còn tạo điều kiện thuận lợi cho sự hình thành và phát triển thị trường bất động sản ở nước ta. Như vậy, quy hoạch sử dụng đất đai xây dựng lên phương án sử dụng đất đai một cách tiết kiệm, hiệu quả và hợp lý quỹ đất đai của các bộ, các ngành, góp phần to lớn cho sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội. Chính vì vậy, việc xây dựng quy hoạch sử dụng đất đai là một tất yếu khách quan. II. Những căn cứ để lập quy hoạch sử dụng đất Để xây dựng được bản quy hoạch sử dụng đất của một cấp hay một ngành nào đó thì cần phải có sự tham gia của rất nhiều nghành, nhiều lĩnh vực có liên quan, trên cơ sở đó thu thập những thông tin cần thiết đối với việc quy hoạch về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, tình hình quản lý và sử dụng đất tại địa phương để thấy được cơ cấu sử dụng đất của các ngành đặc biệt làm rõ sự tác động của các ngành đối với đất đai và ngược lại trên cơ sở khai thác thế mạnh của từng vùng, phát triển một nền kinh tế bền vững... Cùng với dự báo nhu cầu sử dụng đất đai của các cấp, các ngành sẽ lên cân đối nhu cầu sử dụng đất phù hợp cho từng địa bàn. Trên cơ sở đó xây dựng phương án quy hoạch sử dụng đất. Tuy nhiên, để phương án quy hoạch đạt được 3 nhóm mục tiêu là hiệu quả, cân bằng và khả năng duy trì sự sống thì công tác quy hoạch phải được xây dựng trên những căn cứ về mặt phap lý, căn cứ vào quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế hã hội của vùng quy hoạch, căn cứ vào quy định sử dụng đất của cấp quản lí vùng quy hoạch và căn cứ vào hiện trạng vùng quy hoạch. 1. Căn cứ pháp lý để xây dựng kế hoạch Hiến pháp nuớc cộng hoà xã hội chủ nghĩa việt nam quy định “Nhà nước thống nhất quản lý đất đai theo quy hoạch và pháp luật, đảm bảo đúng mục đích và có hiệu quả” (điều 18). Luật đất đai năm 1993 quy định rõ nội dung, trách nhiệm, thẩm quyền lập và xét duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất (điều 16, 17, 18), căn cứ giao đất và thẩm
- quyền giao đát là phải dựa vào quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất (điều 19, 23), đồng thời tiến hành lập quy hoạch kế hoạch sử dụng đất ở cả 4 cấp: cả nước, tỉnh, huyện và xã trong đó cấp cả nước có xét tới các vùng sinh thái, các vùng kinh tế trọng điểm. Ngoài các văn bản có tính pháp lý ở mức độ cao (hiến pháp và luật hiện đại) còn có các văn bản dưới luật cũng như các văn bản ngành trực tiếp hoặc gián tiếp đề cập đến vai trò, ý nghĩa, nội dung và hướng dẫn phương pháp lập quy hoạch sử dụng đất đai như việc ban hành công văn số 1814/CV - TCĐC ngày 12/10/1998 về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai và các hướng dẫn kèm theo: Hướng dẫn công tác quản lý Nhà nước về quy hoạch sử dụng đất đai; Hướng dẫn trình tự các bước tiến hành lập kế hoạch sử dụng đất đai cấp tỉnh, huyện, xã. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, để đảm bảo mục tiêu an toàn lương thực và vấn đề bảo vệ môi trường thì việc ra định hướng lập, thẩm định, xét duyệt kế hoạch sử dụng đất nông nghiệp, lâm nghiệp có rừng để sử dụng vào mục đích khác (kèm theo công văn số 1814/CV- TCĐC) đã đem lại hiệu qủa cao trong việc xét duyệt chuyển đổi mục đích sử dụng đất này. Ngoài ra còn ban hành các văn bản: nghị định 404/CP ngày 7/11/1979; nghị định 34/CP ngày 23/4/1994); chỉ thị 247/TTG ngày 28/4/1995; thông tư số 106/qhkh/rđ ngày 15/4/1994... 2. Căn cứ vào quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội của vùng quy hoạch. Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội là hình thức đưa ra định hướng phát triển kinh tế xã hội, định hướng phát triển các ngành kinh tế chuyên ngành nông - lâm nghiệp; ngành công nghiệp, ngành thương mại - du lịch và định hướng phát triển về xã hội, về cơ sở hạ tầng, phát triển đô thị... một cách khoa học phù hợp với khả năng phát triển của vùng và đưa vùng quy hoạch có cơ cấu kinh tế hợp lý phù hợp với sự phát triển chung của cả nước trong từng giai đoạn. trên cơ sở đặt ra các mục tiêu về kinh tế (thể hiện qua các chỉ tiêu GDP, GDP/người, cơ cấu kinh tế đến năm quy hoạch, khả năng huy động vốn từ các nguồn để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội và tỷ lệ tích luỹ); về xã hội (tỉ lệ sinh, tử, trình độ dân trí, tỷ lệ đói nghèo...) để từ đó đưa ra các phương án phát triển kinh tế xã hội trong giai đoạn quy hoạch. Cân nhắc các nguồn lực hiện có về vốn, lao động, các cơ sở hiện có... để chọn phương án quy hoạch hoặc tổng hợp một phương án quy hoạch phát triển kinh tế xã hội hợp lý nhất cho tương lai đảm bảo có sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế đúng hướng không những phát
- huy được tiềm năng, thế mạnh của mình mà còn có sự đầu tư thích đáng đem lại hiệu quả kinh tế cao góp phần thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Bên cạnh đó, việc quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội của vùng quy hoạch luôn luôn chú trọng đến mối qan hệ của vùng với các vùng lân cận và xu h ướng phát triển của vùng với xu hướng phát triển của thời đại, điều đó đã tạo ra cho địa phương phát huy được thế mạnh về vị trí, gắn kết sự phát triển của mình với các vùng đó để cùng hội nhập . Trên cơ sở quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội người ta sẽ phân bổ quỹ đất đai cho các ngành nghề, các chủ thể kinh tế phù hợp với xu thế phát triển của nó. Để đảm bảo lợi ích về kinh tế xã hội và môi trường thì trên cơ sở dự báo khả năng sử dụng đất một cách khoa học người ta phân bố đất cho từng ngành nghề với số lượng bao nhiêu, phân bố ở đâu và chỉ ra khu vực này chất đất như thế nào thích hợp với hình thức sử dụng gì, phương pháp khai thác sử dụng chúng đem lại hiệu quả không những cho hiện tại mà cho cả ttưiơng lai. Sự phân bố các hìmh thức sử dụng đất phải đảm bảo khai thác được thế mạnh củ vùng và xây dựng một cách đồng bộ cơ sở vật chất kỹ thuật của vùng: điện, đường, trường, trạm...Tạo ra sự giao lưu giữa các tiểu vùng trong vùng, giữa các tiểu vùng với vùng trung tâm của vùng quy hoạch và sự giao lưu của vùng với các khu vực khác. Như vậy, quy hoạch sử dụng đất đai là quy hoạch chuyên ngành, cụ thể hoá quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, nhưng nội dung của nó phải được điều hoà thống nhất với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội . 3. Căn cứ quy hoạch sử dụng đất của cấp quản lý vùng quy hoạch . Dự báo sử dụng đất đai là một bộ phận dự báo dài hạn về phát triển nền kinh tế xã hội của đất nước phù hợp với trình độ phát triển lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Trong quy hoạch sử dụng đất của các cấp ( vùng, tỉnh, huyện, xã) đều giải quyết chung một nhiệm vụ là sử dụng hợp lý quỹ đất gắn với phân bổ lực lượng sản xuất theo nguyên tắc từ trên xuống dưới và ngược lại sẽ chỉnh lý hoàn thiện từ dưới lên. Vì vậy để xây dựng phương án quy hoạch sử dụng đất đai ở các cấp vi mô ( huyện, Xã) trong một thời gian trước mắt (từ 5-10 năm) trước hết phải xác định được định hướng và nhu câù sử dụng đất dài hạn (dự báo cho 15-20 năm) trên phạm vi lãnh thổ lớn hơn (vĩ mô:Tỉnh, vùng, cả nước ). Quy hoạch tổng thể sử dụng đất đai trên phạm vi lãnh thổ lớn hơn này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng mang tính tổng hợp cao trong đó đề cập
- đến rất nhiều ngành, từ đó đưa ra định hướng phân bố và tạo điều kiện thuận lợi về mặt không gian để thực hiên các quyết định về mặt sử dụng đất cho giai đoạn trước mắt cũng như lâu dài, đồng thời có được hướng xây dựng quy hoạch chuyên ngành đối với các công trình cơ sở hạ tầng gắn liền với đất như: hệ thống giao thông, mạng lưới thuỷ lợi, hệ thống các điểm dân cư... Đặc biệt là các khu chức năng mang tính kinh tế - chính trị - văn hoá...của vùng lãnh thổ, các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu đô thị... Đảm bảo phục vụ một cách tốt nhất về tài nguyên, về nguồn lực lao động, về vốn cho các ngành phát triển. Tuy nhiên quy hoạch sử dụng đất đai ở cấp vĩ mô phần lớn mang tính định hướng, chỉ đạo. Trên cơ sở đó, xây dựng quy hoạch sử dụng đất cấp vi mô với nội dung: Phân bổ đất đai phù hợp với quá trình dịch chuyển cơ cấu kinh tế trên cơ sở hiện trạng điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và tiềm năng đất đai của vùng gắn với phân công lại lao động, cho các mục đích phát triển nông lâm nghiệp, công nghiệp - xây dựng và các ngành dịch vụ. Với mục đích sử dụng đất mà quy hoạch cấp vĩ mô đã vạch ra cho vùng trong việc sử dụng quỹ đất đai để phân bổ cho các loại hình sử dụng với mục tiêu phát huy thế mạnh của vùng, tạo lợi thế tuyệt đối, quy hoạch sử dụng đất đai cấp vĩ mô này sẽ đi vào quy hoạch chi tiết vấn đề sử dụng cho các ngành nghề với diện tích bao nhiêu? phân bổ ở đâu? sự chuyển dịch cơ cấu các loại đất sẽ được thực hiện như thế nào? xác định cụ thể vị trí phân bố, hình thể, diện tích và cơ cấu sử dụng đất cho mục đích nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, khu dân cư, hệ thống cơ sở hạ tầng như đường giao thông, kênh mương thuỷ lợi, bưu chính viễn thông, y tế, văn hoá - giáo dục tạo mối quan hệ mật thiết giữa chúng. Có như vậy mới nâng cao được hiệu quả sử dụng đất, mới tạo được sự phối hợp đồng bộ giữa các nghành, giữa trung ương với địa phương trong quá trình quản lý và sử dụng đất, đồng thời đảm bảo tính thống nhất trong việc quản lý đất nước đối với đấ đai . 4. Căn cứ vào hiện trạng sử dụng và tiềm năng vùng quy hoach. Hiện trạng vùng quy hoạch thể hiện rõ ở điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội và hiện trạng sử dụng đất. Trên cơ sở phân tích, đánh giá các yếu tố về điều kiện tự nhiên, tài nguyên, cảnh quan môi trường để xác định được các lợi thế, hạn chế trong việc sử dụng đất đai và phát triển kinh tế - xã hội, từ đó đưa ra phương án quy hoạch sử dụng để phát huy được các lợi thế và hạn chế các khó khăn như việc nghiên cứu đặc điểm
- địa hình, địa mạo, khí hậu, chế độ thuỷ văn... liên quan chặt chẽ đến vấn đề phát triển nông nghiệp của vùng thể hiện ở vị trí phân bố sản xuất nông nghiệp cho các loại cây trồng, vật nuôi nào là thích hợp sẽ đem lại hiệu quả kinh tế cao; hay việc đánh giá tài nguyên đất, tài nguyên khoáng sản... liên quan đến vấn đề phát triển nghành công nghiệp của vùng. Tuy nhiên, nghiên cứu điều kiện tự nhiên mới chỉ có cảm nhận ban đầu chuẩn bị cho việc xây dựng phương án quy hoạch. Bên cạnh đó phải đánh giá thực trạng phát triển kinh tế - xã hội cùng với sự gia tăng dân số, lao độn , thực trạng phát triển các đô thị, các khu dân cư, các nghành, các vùng kinh tế trọng điểm trên địa bàn quy hoạch để thấy được quy mô, tốc độ phát triển đã phù hợp với các nguồn lực kinh tế - xã hội của địa bàn hay chưa. Nguồn lực kinh tế - xã hội bao gồm nguồn lao động, nguồn nguyên liệu, cơ sở hạ tầng kỹ thuật. Đây là những yếu tố đầu vào không thể thiếu được của quá trình sản xuất, nó quyết định rất lớn đến kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh: Nguồn lao động địa phương và trình độ lao động nói lên khả năng áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất và nguồn lao động tham gia vào hoạt động của các ngành... Từ thực trạng của vùng quy hoạch, dự báo được nhu cầu sử dụng đất của các ngành nghề trong tương lai và xu thế phát triển của chúng. III. Nội dung của quy hoạch sử dụng đất. Nội dung của quy hoach sử dụng đất đai của một quốc gia cũng như từng vùng trong mọt nước ở các giai đoạn lịch sử khác nhau là khác nhau do quy hoạch sử dụng đất đai mang tính lịch sử và nó chi phối mạnh mẽ bởi điều kiện tự nhiên , kinh tế xã hội của từng vùng địa lý . Tuy nhiên trong giai đoạn hiện nay ,quy hoạch sử dụng đất đai có nội dung bao gồm : 1. Điều tra và thu thạp số liệu . 2. Đánh giá điều kện tự nhiên - kinh tế xã hội . 3. Đánh giá tình hình quản lý và sử dụng đất đai. 4. Xây dựng phương án quy hoạch sử dụng đất đai. 5.Tổng hợp phương án quy hoạch .
- 1. Công tác điều tra và thu thập số liệu. Để xây dựng được một phương án quy hoạch có luận chứng khoa học, có tác dụng thực tiễn và đem lại hiệu quả cao trong việc sử dụng đất trên lãnh thổ của vùng quy hoạch, công tác điều tra và thu thập số liệu đóng một vai trò quan trọng nhằm thu thập cac thông tin, tư liệu, tài liệu và bản đồ có liên quan đến địa bàn tuỳ thuộc vào tình hình và điều kiện cụ thể của từng địa phươn, các số liệu, tài liệu cần điều tra bao gồm: Các số liệu về điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên và cảnh quan môi trường sinh thái; Tài liệu về tình hình phát triển kinh tế xã hội và hiện trạng sử dụn g đất đai trong những năm qua; các tài liệu, số liệu về nông hoá, thổ nhưỡng, về giá cả và phân hạng đất đai trên địa bàn. Bên cạnh đó còn phải kể đến các chỉ tiêu phát triển kinh tế xã hội trong giai đoạn tới và định mức sử dụng đất đai tại địa bàn. Đây là căn cứ để phân bổ quỹ đất đai cho các hộ gia đình, các cá nhân và các tổ chức kinh tế xã hội. Ngoài ra để xây dựng được bản đồ quy hoạch sử dụng đất trong thời gian tới thì cần phải thu thập các tài liệu bản đồ hiện có: Bản đồ nông hoá, thổ nhưỡng, bản đồ nền địa hình, bản đồ cấp dộ dốc, bản đồ hiện trạng sử dụng đất và các bản đồ khác có liên quan . Trên cơ sở các thông tin, tư liệu thu thập được người ta tiến hành sử lý tổng hợp chúng để xây dựng lên đề cương sơ bộ của công tác quy hoạch. Cùng với công tác ngoại nghiệp sẽ chỉnh lý bổ xung tài liệu để giải quyết cụ thể từng nội dung tiếp theo của quy hoạch sử dụng đất đai . 2. Đánh giá điều kiện tự nhiên kinh tế xã hội . Như chúng ta đã biết, đất đai trong phạm vi lãnh thổ một vùng, một địa phương rất khác nhau về điều kiện tự nhiên và vấn đề kinh tế - xã hội chi phối một cách mạnh mẽ tới việc sử dụng đất đai tại địa bàn, việc đánh giá điều kiện tự nhiên - kinh tế xã hội là một tất yếu khách quan. Phân tích điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên trên các mặt vị trí địa lý của vùng so với các trục giao thông chính, các trung tâm chính trị, kinh tế văn hoá quan trọng trong khu vực từ đó thấy được những lợi thế và hạn chế trong việc phát triển kinh tế xã hội do vị trí địa lý đem lại. Bên cạch đó, đặc điểm địa hình, khí hậu và chế độ thuỷ văn được đánh giá một cách cụ thể trên cơ sở phân tích
- xu hướng địa hình, cấp độ dốc, quan điểm phân tiểu vùng theo yếu tố độ cao; phân tích đặc điểm vùng khí hậu, các mùa trong năm, lưu lượng nước trong hệ thống sông ngòi. Từ đó thấy được các ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên đến vấn đề phát triển sản xuất và sử dụng đất đai. Khi xây dựng phương án quy hoạch phải phát triển lợi thế do điều kiện tự nhiên mang lại. 3. Đánh giá tình hình quản lý và sử dụng đất đai Đất đai có nhiều công dụng khác nhau nhưng khi sử dụng đất đai cần căn cứ vào các tính chất của đất đai để lựa chọn mục đích sử dụng tốt nhất và có lợi nhất. Việc đánh giá tình hình quản lý và sử dụng đất đai cho thấy hiện trạng sử dụng đất đai đem lại hiệu quả như thế nào, phát hiện những tồn tại, đề xuất các giải pháp khắc phục làm cơ sở cho quy hoạch sử dụng đất. Trên cơ sở phân tích hiệu quả sử dụng đất đai (biểu hiện ở mức độ khai thác thông qua các chỉ số; tỷ lệ sử dụng đất đai, tỷ lệ sử dụng loại đất, hệ số sử dụng đất), và hiệu quả sản xuất của đất đai biểu hiện bằng giá trị sản lượng của các nghành... Từ đó đánh giá mức độ phù hợp trong sử dụng đất đai biểu hiện ở tính hợp lý về cơ cấu sử dụng đất so với vùng, mức độ thích hợp so với yêu cầu phát triển kinh tế xã hội ở hiện tại và tương lai của đất khu dân cư, đất xây dựng công nghiệp, đất cho phát triển cơ sở hạ tầng...Quan hệ giữa đầu tư và hiệu quả thu được trong sử dụng đất đai... 4. Xây dựng các phương án quy hoạch Mục đích phải đạt được trong phương án quy hoạch sử dụng đất đai là cần tạo ra cơ sở không gian, điều kiện lãnh thổ ban đầu nhằm sử dụng đất đúng mục đích được cấp, thực hiện các biện pháp cải tạo, bảo vệ và bồi bổ (nâng cao độ màu mỡ và chống xói mòn) tạo điều kiện bảo vệ thiên nhiên cảnh quan môi trường sinh thái Theo luật đất đai năm 1993, đất đai được chia thành 6 loại: + Đất nông nghiệp + Đất lâm nghiệp + Đất chuyên dùng + Đất ở đô thị + Đất khu dân cư nông thôn
- + Đất chưa sử dụng Xét thên góc độ nào đó, các loại đất này có ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh như: khối lượng sản phẩm, chất lượng sản phẩm và giá thành. Do đó cần giải quyết đồng bộ và hợp lý việc phân bổ tất cả các loại đất trên tạo nên nội dung chính của phương án quy hoạch sử dụng đất 4.1 Phân bổ đất nông-lâm nghiệp Đất nông, lâm nghiệp tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất và làm ra sản phẩm cần thiết cho xã hội và cho bản thân những người lao động trên mảnh đất đó. Vì vậy, phân bổ hợp lý đất nông - lâm nghiệp có ý nghĩa quan trọng nhất là trong giai đoạn hiện nay khi mà vấn đề an toàn lương thực là một trong 3 mục tiêu đặt lên hàng đầu Việc phân bổ kết hợp giữa đất nông, lâm nghiệp với các loại đất khu dân cư, đất chuyên dùng trong một thể thống nhất là yếu tố quyết định hiệu quả sử dụng đất Để phân bổ hợp lý đất nông, lâm nghiệp trước hết là cần dựa vào tính năng đất đai và khả năng áp dụng các biện pháp khai hoang, phục hoá, bảo vệ đất, trống các quá trình xói mòn, ô nhiễm... Từ đó giải quyết đồng thời ba vấn đề: - Thực hiện các biện pháp chuyển loại và cải tạo đất trên cơ sở đánh giá tiềm năng đất đai - Dự báo nhu cầu sử dụng đất nông - lâm nghiệp. - Xác định vị trí phân bổ của từng loại đất trên lãnh thỗ Ba nội dung này tạo thành một thể thống nhất và được biểu hiện qua sơ đồ sau: Cơ cấu đất Cơ cấu đất đai và vị trí Biện pháp chu chuyển đai và vị trí phân bố cải tạo bảo vệ đất theo phân bố theo quy tiềm năng đất hiện tại hoạch Việc đánh giá tiềm năng đất đai là căn cứ quan trọng để lập kế hoạch phân bổ đất đai với nội dung: + Xác định khả năng mở rộng diện tích đất nông - lâm nghiệp + Xác định khả năng thâm canh tăng vụ trên đất nông nghiệp hiện có
- +Xây dựng biện pháp cải tạo, chuyển loại sử dụng và bảo vệ đất Để xác định được khả năng mở rộng diện tích của đất nông, lâm nghiệp thì phải đánh giá, thống kê thống kê diện tích đất hoang hoá hiện nay chưa sử dụng nhưng có khả năng áp dụng các biện pháp cải tạo, thuần hoá thích hợp để đưa vào sử dụng nông, lâm nghiệp trên cơ sở đánh giá đất hoang hoá về mặt đặc tính tự nhiên của đất (thổ nhưỡng, địa hình, độ dày tầng canh tác...) đặc điểm khí hậu, chế độ nước mối quan hệ sinh thái giữa đất và các yếu tố môi trường khác; hiệu quả kinh tế của việc sử dụng vào các mục đích nông lâm nghiệp và các biện pháp áp dụng. Qua đó ta sẽ phân loại các đặc tính đất theo khả năng sử dụng vào mục đích nông nghiệp hay lâm nghiệp theo mức độ thích hợp: +Đất chỉ thích hợp cho nông nghiệp (đất ngập nước thường xuyên, hoạc ngập thời guan dảitong năm) để nuôi trồng thuỷ sản . +Đất thích hợp cho nông và lâm nghiệp : Để xác định mục đích sử dụng loại đất này cần căn cứ vào nhiều yếu tố nhưng quan trọng nhất là hiệu quả kinh tế của việc sử dụng loại đất này và lượng vốn đầu tư để cải tạo, thuần hoá đất. +Đất chỉ thích hợp cho lâm nghiệp. Ngoài ra, để tăng diện tích gieo trồng, tăng sức sản xuất đất, tăng thu nhập ở những nơi đất chật người đông không còn khả năng khai thác mở rộng diện tích thì việc xác định khả năng thâm canh tăng vụ là một hướng quan trọng dựa trên các yếu tố : +Tính chất tự nhiên của đất và khả năng đầu tư để áp dụng các biện pháp cải tạo, nâng cao sức sản xuất của đất +Khả năng sử dụng của con người :Phụ thuộc vào trình độ canh tác, công cụ sản xuất, tập quán sản xuất . +Khả năng của cây trồng theo thời vụ, áp dụng chế độ luân phiênhợp lý và hiệu quả đem lại của chúng . Sau đó để tạo ra cơ cấu đất sử dụng hợp lý nâng cao hiệu quả sử dụng đất đai cần phải có những biện pháp chuyển đất từ loại hình sử dụng này sang loại hình sử dụng khác theo các hướng chính: + Khai hoang đất mới dựa vào mục đích sử dụng khác nhau . + Mở rộng diện tích đất nông nghiệp có giá trị kinh tế cao .
- + Cải tạo hình thể và vị trí phân bố đất đai, để đất sử dụng mang tính tập trung, tạo thuận lợi gần nguồn lao động và khả năng phân bố cơ sở hạ tầng trên vùng này là tốt phục vụ cho lưu thông hàng hoá và giao lưu giữa các vùng. Trong giai đoạn hiện nay , đất nông lâm nghiệp có thể bị giảm do nhiều nguyên nhân như: Chuyển vào mục đích chuyên dùng, do quá trình đô thị hoá, do nạn phá rừng hay cháy rừng... Bên cạnh đó, tốc độ tăng dân số lại quá nhanh gây áp lực lớn đói với đất đai nhất là đất nông lâm nghiệp . Việc dự báo nhu cầu đất đai nông nghiệp phải căn cứ vào dân số và mức tiêu dùng nông sản phẩm; căn cứ vào số lao động và năng suất lao động cùng mức trang bị kỹ thuật để tính khả năng đảm nhận và tổ chức sản xuất có hiệu quả trên diện tích đất nông nghiệp và căn cứ thứ ba để sự báo nhu cầu đất nông nghiệp là khả năng mở rộmg diện tích trên cả hai hướng: Thâm canh tăng vụ và khai hoang sử dụng đất mới. Khi đó diện tích đất nông nghiệp dự báo ở năm định hình quy hoạch được tính : SNQ = SNH - SNC + SNK Trong đó : SNQ: Đât nông nghiệp năm quy hoạch SNH: Đất nông nghiệp hiện có SNC: Đất nông nghiệp chuyển mục đích trong thời kỳ quy hoạch SNK: Đất khai hoang đưa vào sản xuất nông nghiệp trong thời kỳ Việc dự báo nhu cầu đất lâm nghiệp căn cứ vào nhu cầu và khả năng tận dụng đất đai các loại để trồng rừng nhằm bảo vệ đất đai, bảo vệ môi trường, và kinh doanh khai thác lâm sản. Diện tích rừng có thể dự báo được với từng loại rừng (rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất ) và được tính: SRD = SRH - SRC + SRT Trong đó : SRQ: Diện tích rừng năm quy hoạch SRH: Diện tích rừng hiện trạng SRC: Diên tích rừng chuyển mục đíchtrong thờ SRT: Diện tích rừng trồng mới và khoanh nuôi tái sinh trong thời kỳ
- Từ việc đánh giá tiềm năng đất nông lâm nghiệp và dự báo nhu cầu sử dụng đất của hai loại đất này tiến hành bố trí sử dụng đất từng loại vớ diện tích bao nhiêu, phân bố ở địa điểm nào và tính chất tự nhiên của đất phù hợp với mục đích sử dụng và loại cây trồng để đáp ứng nhu cầu công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn . 4.2 Phân bố đất chuyên dùng . Sự phát triển kinh tế, xã hội đòi hỏi phải xây dựng những công trình công cộng, giao thông vận tải, hệ thống thuỷ lợi, năng lượng và các công trình phi công nghiệp mới (như: giáo dục, y tế, dịch vụ...) các công trình phục vụ nhu cầu an ninh quốc phòng, các khu bảo tồn, di tích lịch sử và văn hoá các khu danh lam thắng cảnh... Quy hoạch phân bổ đất đai có nhiệm vụ đáp ứng nhu cấu đất đai cho các mục đích đó với nội dung + Xác định diện tích đất chuyên dùng cần cấp + Phân bố đất chuyên dùng + Xác định những hậu quả liên quan đến việc trưng dụng đất và các phương pháp khắc phục + Biện pháp sử dụng và bảo vệ lớp đất mầu và phục hoá đất chuyên dùng sau khi hết thời hạn khai thác sử dụng + Xác định điều kiện sử dụng đất chuyên dùng Căn cứ nhu cầu sử dụng đất vào mục đích phi nông nghiệp ghi trong dự án tiền khả thi đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp nhận, các ngành sẽ tự xác định nhu cầu diện tích đất cần thiết dựa vào định hướng sử dụng đất theo tiêu chuẩn nhà nước hiện hành đối với từng loại công trình và mật độ xây dựng đối với quy mô phát triển từng loại công trình. Hiện nay định mức sử dụng được tính: Mx(%) = Px/Pt*100% Trong đó: Px: Diện tích xây dựng m2 Pt: Tổng diện tích mặt bằng m2
- Đại lượng Mx càng lớn chứng tỏ việc sử dụng đất càng tiết kiệm. Trong nông nghiệp, Mx giao động từ 17-74%. Đối với đất giao thông, nhu cầu sử dụng đất để xây dựng đường sắt, đường bộ, sân bay, hải cảng... do các đơn vị chuyên ngành tự lập dựa trên căn cứ vào quy hoạch phát triển của ngành, chủ yếu là sử dụng các quy định về chỉ tiêu định mức chiếm đất của từng ngành. Diện tích đất cần cho phát triển giao thông cũng có thể được xác định căn cứ vào mối tương quan thuận giữa lưu lượng hàng hoá vận chuyển trong năm và diện tích chiếm đất của mạng lưới đường. Đối với đất thuỷ lợi, để dự báo nhu cầu sử dụng cần căn cứ vào quy hoạch và nhu cầu đất của ngành. Ngoài ra có thể tính dựa theo các số liệu thống kê bình quân tỷ lệ đất thuỷ lợi đặc trưng cho từng khu vực trong những năm, theo tiêu chuẩn, bố cục và diện tích chiếm đất của các công trình thuỷ lợi hiện có. Với việc dự báo nhu cầu sử dụng đất của các ngành công nghiệp, giao thông, thuỷ lợi... Quy hoạch sử dụng đất đai sẽ tiến hành tổng hợp các dự báo đó, kiểm tra theo định mức quy định, bổ sung, điều hoà và cân đối quỹ đất cho phát triển các ngành. Từ đó đưa ra được phương án phân bổ đất chuyên dùng bảo đảm sử dụng hợp lý, tiết kiệm và bảo vệ đất, không gây ô nhiễm môi trường. Việc phân bổ đất chuyên dùng thể hiện ở vị trí, số lượng, hình dáng khu đất được phân bố cho các mục đích sử dụng đất chuyên dùng khác nhau đảm bảo phù hợp với điều kiện tự nhiên của khu đất và đáp ứng yêu cầu hoạt động bình thường của công trình, đặc biệt các công trình này phải đảm bảo đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội, phục vụ tốt nhất cho cuộc sống dân cư trong vùng quy hoạch và các vùng lân cận. 4.3 Phân đất khu dân cư Đất khu dân cư bao gồm đất đô thị và đất khu dân cư nông thôn. Theo điều 55 Luật đất đai 1993: “đất đô thị là đất nội thành, nội thị xã, thị trấn được sử dụng để xây dựng nhà ở, trụ sở các cơ quan, tổ chức, các cơ sở sản xuất kinh doanh, cơ sở hạ tầng phục vụ lợi ích công cộng, quốc phòng , an ninh và mục đích khác.” Điều 52 Luật đất đai “Đất khu dân cư nông thôn là đất được xác định chủ yếu để xây dựng nhà ở và công trình phục vụ sinh hoạt ở nông thôn”
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học Kinh tế: Nâng cao chất lượng dịch vụ chuyển phát nhanh tại bưu điện tỉnh Quảng Trị
107 p | 294 | 50
-
Luận văn thạc sĩ khoa học: Nghiên cứu các cấu trúc hải dương phục vụ dự báo ngư trường vùng biên khơi miền Trung Việt Nam
69 p | 221 | 37
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học Kinh tế: Quản lý thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Chi cục Thuế huyện Minh Hoá, tỉnh Quảng Bình
120 p | 95 | 32
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học: Cơ sở khoa học ứng phó với biến đổi khí hậu trên địa bàn huyện Bắc Quang tỉnh Hà Giang
90 p | 122 | 30
-
LUẬN VĂN: Cơ sở khoa học của việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở cho hộ gia đình cá nhân đang sử dụng đất
27 p | 134 | 21
-
Luận văn: Cơ sở khoa học của việc cấp GCNQSDĐ ở cho hộ gia đình cá nhân đang
29 p | 115 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học giáo dục: Xã hội hóa hoạt động giáo dục tại tỉnh Ninh Thuận - Thực trạng và giải pháp
107 p | 49 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học kinh tế: Quản trị rủi ro hoạt động tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam - Chi nhánh tỉnh Quảng Trị
115 p | 34 | 12
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học kinh tế: Hoàn thiện công tác quản lý tài chính theo cơ chế tự chủ tài chính tại bệnh viện đa khoa thành phố Đồng Hới
112 p | 32 | 11
-
Luận Văn: “Cơ sở khoa học của việc cấp GCNQSDĐ ở cho hộ gia đình cá nhân đang sử dụng đất”
42 p | 96 | 11
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu tổng hợp một số (Tetra o acetyl β dglycopyranosyl) thiosemicarbazon của một số aldehyd và keton thiên nhiên
113 p | 96 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học giáo dục: Một số biện pháp nhằm tăng cường xã hội hóa công tác giáo dục ở quận 2 TP. Hồ Chí Minh
97 p | 97 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học Kinh tế: Tự do hóa thương mại những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam
89 p | 65 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học giáo dục: Vận dụng phương pháp nêu vấn đề trong dạy học môn quốc phòng, an ninh ở Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái nguyên
166 p | 18 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học Ngữ văn: Phép so sánh trong kí của Nguyễn Tuân
113 p | 18 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học Lâm nghiệp: Bước đầu nghiên cứu một số quá trình động trong rừng lá rộng thường xanh ở Kon Hà Nừng trên cơ sở phân tích các tài liệu thu thập được từ 10 ô tiêu chuẩn định vị từ năm 2004-2008
100 p | 24 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Nghiên cứu cơ sở khoa học lập quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng tại ban quản lý rừng phòng hộ Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai
96 p | 13 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn