ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ TÚ UYÊN

ĐẠI DIỆN CỦA CHA MẸ CHO CON CHƢA THÀNH NIÊN TRONG GIAO DỊCH DÂN SỰ

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2019

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ TÚ UYÊN

ĐẠI DIỆN CỦA CHA MẸ CHO CON CHƢA THÀNH NIÊN TRONG GIAO DỊCH DÂN SỰ

Chuyên ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự

Mã số: 8380101.04

Người hướng dẫn khoa học: TS. LÊ VĂN BÍNH

Hà Nội – 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết

quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và

trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các

nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.

Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo

vệ Luận văn.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƢỜI CAM ĐOAN

NGUYỄN THỊ TÚ UYÊN

BẢNG TỪ VIẾT TẮT

BLDS: Bộ luật dân sự

BLTTDS: Bộ luật tố tụng dân sự

TTDS: Tố tụng dân sự

TAND: Tòa án nhân dân

UBND: Ủy ban nhân dân

MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1

CHƢƠNG I

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VIỆC ĐẠI DIỆN CHO CON CHƢA THÀNH NIÊN TRONG GIAO DỊCH DÂN SỰ .................................................. 7

1.1. Khái niệm con chƣa thành niên ................................................................... 7

1.2. Giao dịch dân sự do ngƣời chƣa thành niên xác lập .................................. 11

1.2.1. Giao dịch dân sự ........................................................................................ 11

1.2.2. Cơ sở hình thành giao dịch dân sự của ngƣời chƣa thành niên ................. 18

1.2.3. Các mức năng lực hành vi dân sự của ngƣời chƣa thành niên .................. 19

1.3. Đại diện của cha mẹ cho con chƣa thành niên........................................... 23

1.3.1. Khái niệm đại diện của cha mẹ cho con chƣa thành niên .......................... 23

1.3.2. Đặc điểm của chế định đại diện của cha mẹ cho con chƣa thành niên ...... 26

1.3.3. Ý nghĩa của chế định đại diện của cha mẹ cho con chƣa thành niên ........ 29

1.3.4. Phạm vi đại diện......................................................................................... 31

1.3.5. Hậu quả pháp lý trong trƣờng hợp cha mẹ không có thẩm quyền đại diện hoặc vƣợt quá phạm vi thẩm quyền đại diện ....................................................... 36

CHƢƠNG II

PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ ĐẠI DIỆN CỦA CHA MẸ CHO CON CHƢA THÀNH NIÊN TRONG GIAO DỊCH DÂN SỰ VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN. .................................................................................................................... 41

2.1. Pháp luật về đại diện của cha mẹ cho con chƣa thành niên ....................... 43

2.1.1 Hình thức đại diện của cha mẹ cho con chƣa thành niên .......................... 43

2.1.2 Thực hiện quyền đại diện của cha mẹ đối với con chƣa thành niên .......... 46

2.1.3 Quyền và nghĩa vụ của cha mẹ với vai trò đại diện cho con trong giao dịch dân sự ................................................................................................................. 47

2.2. Nguyên tắc thực hiện quyền đại diện ......................................................... 50

2.2.1. Cha mẹ chỉ xác lập và thực hiện giao dịch trong phạm vi đại diện ........... 50

2.2.2. Thực hiện quyền đại diện trong việc định đoạt tài sản của con phải vì lợi ích của con và có xem xét nguyện vọng của con từ đủ 9 tuổi. ............................ 52

2.3. Đại diện của cha mẹ cho con chƣa thành niên trong một số trƣờng hợp cụ .................................................................................................................... 53 thể

2.3.1. Hợp đồng mua bán tài sản ......................................................................... 53

2.3.2. Hợp đồng tặng cho tài sản ......................................................................... 62

2.3.3. Thừa kế ...................................................................................................... 66

CHƢƠNG III

ĐỀ XUẤT HOÀN THIỆN CƠ CHẾ ĐẠI DIỆN CỦA CHA MẸ BẢO ĐẢM QUYỀN LỢI CHO CON CHƢA THÀNH NIÊN TRONG QUÁ TRÌNH THAM GIA GIAO DỊCH DÂN SỰ ................................................................................. 74

3.1 Quy định về thẩm quyền đại diện trong trƣờng hợp cha mẹ không thống nhất ý kiến ............................................................................................................ 75

3.2 Quy định về thực hiện quyền đại diện của cha mẹ ..................................... 76

3.3 Định đoạt tài sản vì lợi ích của con chƣa thành niên .................................. 78

3.4 Giao dịch của con chƣa thành niên trong việc tặng cho tài sản. ................ 81

3.5 Từ chối nhận di sản đƣợc hƣởng thừa kế của con ...................................... 83

ẾT LUẬN .......................................................................................................... 86

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM HẢO ............................................................. 88

LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài:

Trong quan hệ pháp luật dân sự, đặc biệt là giao dịch dân sự việc xác định

tƣ cách chủ thể và năng lực chủ thể, nhất là của cá nhân có ý nghĩa lý luận và

thực tiễn quan trọng. Mỗi ngƣời khi sinh ra đều có năng lực pháp luật nhƣ nhau.

Tuy nhiên, năng lực hành vi của mỗi cá nhân còn phụ thuộc vào nhiều điều kiện,

yếu tố ví dụ nhƣ sức khỏe tâm sinh lý và độ tuổi của cá nhân đó. Theo quy định

của pháp luật Việt Nam, ngƣời từ đủ mƣời tám tuổi trở lên không thuộc các

trƣờng hợp bị mất, hạn chế năng lực hành vi dân sự, ngƣời có khó khăn trong

nhận thức, làm chủ hành vi là ngƣời có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, còn

những ngƣời ngƣợc lại đó là ngƣời có năng lực hành vi dân sự không đầy đủ.

Một trong những thành phần có năng lực hành vi dân sự không đầy đủ đó là

ngƣời chƣa thành niên.

Dƣới góc độ tâm lý và thể chất, ngƣời chƣa thành niên là ngƣời chƣa phát

triển đầy đủ, chƣa hoàn thiện về thể chất, trí tuệ, tinh thần và tâm sinh lý, do đó

chƣa đủ nhận thức và năng lực để thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo pháp luật

của mình. Vì vậy cần có sự hƣớng dẫn, quan tâm, chăm sóc, bảo vệ của gia đình,

Nhà nƣớc và xã hội để những ngƣời chƣa thành niên đƣợc chăm sóc phát triển

toàn diện và đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp chính họ tránh trƣờng hợp bị

lạm dụng.

Để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của ngƣời chƣa thành niên khi tham

gia vào các quan hệ dân sự, góp phần bảo đảm sự ổn định pháp lý của các giao

dịch dân sự nói chung và quyền lợi của những ngƣời chƣa thành niên nói riêng

1

thì pháp luật cần thiết và đặt ra nhiều biện pháp để bảo về quyền lợi của ngƣời

chƣa thành niên, đặc biệt là trong việc xác lập, thay đổi, chấm dứt giao dịch dân

sự. Có rất nhiều những quy định trong nƣớc và trên thế giới ra đời để bảo về cho

quyền và lợi ích của họ. Tại lời mở đầu của Công ƣớc Liên Hợp Quốc về quyền

trẻ em năm 1989 xác định rằng gia đình, với ý nghĩa là tế bào xã hội cơ bản và

môi trƣờng tự nhiên cho sự phát triển và hạnh phúc của mọi thành viên, nhất là

trẻ em, cần đƣợc sự bảo vệ và giúp đỡ cần thiết để đảm đƣơng đƣợc đầy đủ trách

nhiệm của mình trong cộng đồng.

Xuất phát từ quan điểm, gia đình là nguồn gốc hình thành nên tính cách của

cá nhân và không ai có thể bảo vệ quyền lợi một cách vô điều kiện và tận tâm

nhất ngoài cha mẹ. Chính vì vậy để bảo đảm cho quyền lợi của ngƣời chƣa thành

niên nói riêng và sự cân bằng ổn định trong xã hội nói chung, pháp luật quy định

về chế định đại diện cho ngƣời chƣa thành niên mà chủ thể có nghĩa vụ trƣớc hết

là bố mẹ. Pháp luật Việt Nam quy định tại khoản 1 Điều 136 BLDS 2015: Cha,

mẹ là ngƣời đại diện theo pháp luật cho con chƣa thành niên.

Bởi các lý do nêu trên, luận văn lựa chọn đề tài “Đại diện của cha mẹ cho

con chƣa thành niên trong giao dịch dân sự” làm đề tài nghiên cứu để nghiên cứu

một cách toàn diện và hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn về đại diện của

cha mẹ cho con chƣa thành niên trong giao dịch dân sự, xem xét cụ thể các quy

định pháp luật Việt Nam về vấn đề này, từ đó đƣa ra cái nhìn toàn diện về những

hạn chế, thiếu xót của hệ thống pháp luật và đề xuất một một số giải pháp mang

tính hoàn thiện để phần nào giúp cho quá trình sửa đổi và bổ sung pháp luật Việt

Nam hiện nay.

2. Tình hình nghiên cứu

2

Trên thế giới cũng nhƣ trong nƣớc đã có những quy định đƣợc luật hóa

hoặc thỏa thuận thành quy tắc chung nhƣ: Công ƣớc Liên Hiệp Quốc về quyền

trẻ em năm 1989, chế định đại diện cho con chƣa thành niên trong BLDS các

năm 1995, 2005, 2015, luật hôn nhân và gia đình năm 2014 và luật trẻ em 2016.

Cũng có nhiều công trình nghiên cứu xoay quanh vấn đề năng lực chủ thể của

ngƣời chƣa thành niên, các giao dịch dân sự liên quan đến ngƣời chƣa thành niên

hay quan hệ giữa cha mẹ và con cái. Một số ví dụ nhƣ: bài viết “Đại diện bề

ngoài nhìn từ góc độ pháp luật dân sự Nhật Bản”, Nguyễn Thị Phƣơng Châm,

Tạp chí luật học số 6/2016; bài viết “Những quy định pháp luật về hạn chế quyền

của cha, mẹ đối với con chƣa thành niên và cá kiến nghị hoàn thiện”, Cao Minh

Vũ, Nguyễn Nhật Khanh, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 12(340) T6/2017; “bài

viết “Giám hộ và đại diện trong BLDS và tố tụng dân sự” – Ths. Nguyễn Việt

Cƣờng, năm 2010; luận văn thạc sĩ luật học “Năng lực hành vi dân sự của ngƣời

chƣa thành niên” – Nguyễn Thị Hiền, năm 2007; luận văn thạc sĩ luật học

“Quyền và nghĩa vụ của ngƣời chƣa thành niên trong giao dịch dân sự” – Hoàng

Thị Vân Anh, năm 2014; luận văn thạc sĩ “Quan hệ giữa cha mẹ và con trong gia

đình nông thôn hiện nay” – Nguyễn Thị Ánh Tuyết, năm 2009;…Tuy nhiên, vấn

đề đại diện của cha mẹ cho con trong giao dịch dân sự thì lại chƣa nhận đƣợc sự

quan tâm một cách đầy đủ.

Dƣới góc độ đời sống, với sự quan tâm của xã hội về các giao dịch dân sự

liên quan đến ngƣời chƣa thành niên và cách thức thực hiện quyền lợi đối với tài

sản của ngƣời chƣa thành niên đã đƣợc đăng tải ở các trang thông tin, sách báo,

các tạp chí. Chế định này đã đƣợc đƣa ra thảo luận trên các diễn đàn trên trang

dân luật của thƣ viện pháp luật, trang thông tin pháp luật dân sự, báo tuổi trẻ -bài

3

viết “Mẹ có quyền bán tài sản của con chƣa thành niên”, hay trên báo thanh niên

- bài viết “Quyền đại diện cho con” - Luật sƣ Huỳnh Minh Vũ,…

Qua các công trình nghiên cứu cũng nhƣ hệ thống các quy phạm pháp luật

điều chỉnh chế định đại diện của cha mẹ đối với con chƣa thành niên dƣới một

tổng thể sẽ thấy đƣợc mức độ quan tâm của nhà nƣớc và xã hội đối với một thế

hệ trẻ của đất nƣớc góp phần nâng cao nhận thức, hiểu sâu sắc về giá trị của họ,

đồng thời hoàn thiện hơn những chế định nhằm bảo vệ cho ngƣời chƣa thành

niên.

3. Mục đích, nhiệm vụ và ý nghĩa của nghiên cứu

Mục đích và ý nghĩa nghiên cứu đó là nghiên cứu một cách tƣơng đối toàn

diện về chế định đại diện, cụ thể là cha mẹ đại diện cho con chƣa thành niên.

Tìm hiểu một số khía cạnh cụ thể trong hoạt động thực tiễn. Những việc cha mẹ

đại diện cho con thực hiện nhằm bảo đảm quyền lợi cho con, từ đó đƣa ra đƣợc

những bất cập và hạn chế trong việc thực hiện, nêu ra phƣơng hƣớng, đề xuất

nhằm hoàn thiện hệ thống quy phạm đại diện đối với ngƣời chƣa thành niên.

Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài này là:

- Nêu ra đƣợc các lý luận và cơ sở của lý luận, các khái niệm về ngƣời chƣa

thành niên, giao dịch của con chƣa thành niên và đại diện cho con chƣa thành

niên.

- Phân tích chi tiết một số các giao dịch liên quan đến tài sản của con chƣa

thành niên và việc đại diện cho con tham gia vào các giao dịch đó dƣới góc độ lý

luận và thực tiễn.

4

- Đánh giá thực trạng và việc áp dụng chế định đó của pháp luật dân sự Việt

Nam và đƣa ra phƣơng hƣớng, đề xuất.

4. Phạm vi nghiên cứu

Để đạt đƣợc mục đích nghiên cứu cần tập trung vào các giao dịch của cha

mẹvới tƣ cách là đại diện cho con chƣa thành niên và những quy định của pháp

luật điều chỉnh quan hệ đó tại các BLDS năm 2005, 2015, luật hôn nhân và gia

đình năm 2014, Bộ luật lao động, Luật trẻ em và các văn bản dƣới luật khác quy

định về việc đại diện của cha mẹ cho con chƣa thành niên.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu dựa theo phƣơng pháp cốt lõi – phƣơng pháp luận duy

vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, phép biện chứng của chủ nghĩa Mác –

Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và pháp luật. Bên cạnh đó, vận dung phƣơng pháp

so sánh, đối chiếu, tổng hợp để phân tích và bình luận nội dung của một số chế

định.

6. Kết cấu luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung

chính của đề tài gồm 3 chƣơng sau đây:

Chƣơng 1. Những vấn đề lý luận về việc đại diện cho con chƣa thành niên

trong giao dịch dân sự.

Chƣơng 2. Pháp luật Việt Nam về đại diện của cha mẹ cho con chƣa thành

niên trong giao dịch dân sự và thực hiễn thực hiện.

5

Chƣơng 3. Đề xuất hoàn thiện cơ chế đại diện bảo đảm quyền lợi cho con

chƣa thành niên trong quá trình tham gia giao dịch dân sự.

6

CHƢƠNG I

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VIỆC ĐẠI DIỆN CHO CON CHƢA

THÀNH NIÊN TRONG GIAO DỊCH DÂN SỰ

1.1. Khái niệm con chƣa thành niên

Trong bất cứ một quan hệ pháp luật nào thì chủ thể luôn là yếu tố quan

trọng để hình thành nên một quan hệ pháp luật. Chủ thể của quan hệ pháp luật

dân sự bao gồm: Cá nhân (công dân nƣớc sở tại, ngƣời nƣớc ngoài, ngƣời không

quốc tịch), pháp nhân và trong nhiều trƣờng hợp Nhà nƣớc tham gia với tƣ cách

là chủ thể đặc biệt của quan hệ pháp luật dân sự.

Dƣới góc độ khoa học pháp lý, cá nhân, pháp nhân đáp ứng đƣợc các điều

kiện nhất định theo quy định của pháp luật là chủ thể của quan hệ pháp luật dân

sự. Tức là để tham gia vào một quan hệ pháp luật dân sự cụ thể, cá nhân, tổ chức

phải có đủ tƣ cách chủ thể. Tƣ cách chủ thể của cá nhân đƣợc thể hiện dƣới hai

yếu tố: Năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự. Năng lực pháp

luật dân sự của cá nhân chính là cơ sở pháp lý và khả năng để cá nhân có quyền

và nghĩa vụ dân sự. Mỗi cá nhân đều có năng lực pháp luật dân sự nhƣ nhau

đƣợc tính từ lúc cá nhân đó sinh ra cho đến khi chết. Năng lực hành vi hành vi

của dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập,

thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự. Nhƣ vậy năng lực hành vi dân sự chính là khả

năng để cá nhân tiến hành các hành vi nhằm thực hiện năng lực pháp luật của

mình.

Theo quy định của pháp luật hiện hành, cá nhân là ngƣời thành niên có độ

tuổi từ đủ mƣời tám tuổi trở lên còn ngƣời chƣa thành niên là ngƣời chƣa đủ

7

mƣời tám tuổi1. Nhƣ vậy, thông qua giới hạn về độ tuổi mà khoa học luật dân sự

chia cá nhân thành ngƣời thành niên và ngƣời chƣa thành niên. Ngƣời từ đủ

mƣời tám tuổi trở lên không thuộc các trƣờng hợp bị mất, hạn chế năng lực hành

vi dân sự, ngƣời có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi là ngƣời có năng

lực hành vi dân sự đầy đủ, có thể thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của

mình theo quy định của pháp luật, còn những ngƣời ngƣợc lại đó là ngƣời có

năng lực hành vi dân sự không đầy đủ. Một trong những thành phần có năng lực

hành vi dân sự không đầy đủ đó là ngƣời chƣa thành niên.

Cũng giống nhƣ các đối tƣợng khác quan hệ pháp luật, ngƣời chƣa thành

niên có năng lực pháp luật bình đẳng nhƣ mọi cá nhân. Tuy nhiên, khi tham gia

vào các giao dịch dân sự, năng lực hành vi của ngƣời chƣa thành niên lại không

đƣợc đánh giá ngang bằng với các đối tƣợng khác, thậm chí là có sự khác nhau

trong chính độ tuổi chƣa thành niên. Xuất phát từ thực tiễn nghiên cứu khoa học

dƣới nhiều góc độ mà một số văn bản pháp lý, công ƣớc, điều ƣớc quốc tế về trẻ

em đều ghi nhận trẻ em là một ngƣời có độ tuổi dƣới 18, trừ khi luật pháp ở từng

quốc gia cụ thể quy định tuổi thành niên sớm hơn. Cụ thể, trong các văn bản

quốc tế và các chƣơng trình của liên hiệp quốc (sau đây gọi tắt là LHQ) sử dụng

đồng thời cả hai khái niệm trẻ em và ngƣời chƣa thành niên. Ví dụ, điều 1 Công

ƣớc của LHQ về quyền trẻ em (United Nations Convention on the rights of the

child, CRC) năm 1989 quy định rằng trong phạm vi của CRC, trẻ em có nghĩa là

mọi ngƣời dƣới 18 tuổi, trừ trƣờng hợp luật pháp áp dụng với trẻ em đó quy định

tuổi thành niên sớm hơn; và tại điều 2 trong Công ƣớc số 182 (Công ƣớc nghiêm

cấm và hành động khẩn cấp xoá bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất),

1 Khoản 1 Điều 20 và Khoản 2 Điều 21 BLDS 2015

năm 1999 đã quy định thuật ngữ trẻ em sẽ áp dụng cho tất cả những ngƣời dƣới

8

18 tuổi. Nhƣ vậy, đã gần 30 năm từ ngày Việt Nam chính thức trở thành nƣớc

đầu tiên ở châu Á và nƣớc thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ƣớc quốc tế về

Quyền trẻ em, đến nay Việt Nam lại là nƣớc còn lại duy nhất trong khối các quốc

gia ASEAN, thứ 4 ở châu Á và thứ 11 trên thế giới chƣa nâng độ tuổi pháp lý của trẻ em lên 18 tuổi2. Bên cạnh đó Quy tắc tối thiểu phổ biến của LHQ về bảo

vệ ngƣời chƣa thành niên bị tƣớc tự do, năm 1990 cũng xác định ngƣời chƣa thành niên là ngƣời dƣới 18 tuổi3.

Tùy thuộc vào sự pháp triển tâm sinh lý và nhận thức của từng khu vực mà

pháp luật của các quốc gia có sự quy định khác nhau về độ tuổi của ngƣời chƣa

thành niên. Ví dụ nhƣ Thái Lan là dƣới 20 tuổi, Cộng hòa Liên bang Nga là dƣới

18 tuổi, nƣớc Anh là dƣới 16 tuổi. Tại Việt Nam, độ tuổi chƣa thành niên đƣợc

quy định thống nhất trong các văn bản từ trƣớc đến nay là dƣới 18 tuổi. Tuy

nhiên việc phân nhóm đối tƣợng dƣới 18 tuổi chỉ mang ý nghĩa tƣơng đối vì trên

thực tế chúng ta không thể tìm ra đƣợc một sự đồng nhất hoàn toàn giữa các lớp

lứa tuổi khác nhau trong nhóm chƣa thành niên. Do đó, mỗi ngành luật lại quy

định về ngƣời chƣa thành niên ở cách nhóm tuổi khác nhau phù hợp với đối

tƣợng điều chỉnh riêng:

Theo Luật trẻ em 2016 quy định thì trẻ em là ngƣời dƣới 16 tuổi4. Nhƣ

vậy, quy định về tuổi trẻ em trong Luật trẻ em đã có độ vênh tới 2 tuổi so với

2 Lê Văn Bính và Trƣơng Thành Trung, Quyền của trẻ em có bố mẹ là người nước ngoài trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam. Sách tham khảo “Quyền của ngƣời nƣớc ngoài”. Chủ biên: PGS.TS. Nguyễn Thị Quế Anh, PGS.TS. Vũ Công Giao, TS Ngô Minh Hƣơng và TS. Lã hánh Tùng. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự thật, 2018, tr.231-250. 3 Điểm a, Quy tắc 11 – các quy tắc tối thiểu phổ biến của Liên Hợp quốc về bảo vệ ngƣời chƣa thành niên bị tƣớc tự do, năm 1990 4Điều 1 Luật trẻ em 2016

Công ƣớc Quốc tế về Quyền trẻ em.

9

Theo Luật Thanh niên năm 2005 quy định: Thanh niên quy định trong

Luật này là công dân Việt Nam từ đủ 16 tuổi đến 30 tuổi5.

BLDS 2015 lại quy định: Ngƣời thành niên là ngƣời từ đủ 18 tuổi trở lên.

Ngƣời chƣa đủ 18 tuổi là ngƣời chƣa thành niên. Với quy định này, có thể hiểu

rằng, ngƣời chƣa đủ 18 tuổi là ngƣời chƣa trƣởng thành, tức cũng có nghĩa là

ngƣời chƣa đủ 18 tuổi vẫn còn là trẻ em.

Luật Lao động năm 2012 quy định về ngƣời lao động nhƣ sau: Ngƣời lao

động là ngƣời từ đủ 15 tuổi trở lên, có khả năng lao động, làm việc theo hợp

đồng lao động, đƣợc trả lƣơng và chịu sự quản lý, điều hành của ngƣời sử dụng lao động6.

Tóm lại, khái niệm ngƣời chƣa thành niên đƣợc xây dựng dựa trên sự phát

triển về mặt thể chất và tinh thần của con ngƣời và đƣợc cụ thể hoá bằng giới

hạn độ tuổi trong các văn bản pháp luật của từng quốc gia. Theo đó, ngƣời ta quy

định những quyền và nghĩa vụ cụ thể của ngƣời chƣa thành niên.

Con chƣa thành niên là khái niệm đƣợc nhắc đến trong ngành luật hôn nhân

và gia đình có nghĩa hẹp hơn khái niệm ngƣời chƣa thành niên, tuy nhiên chƣa

có văn bản pháp luật nào định nghĩa khái niệm này. Con chƣa thành niên bản

chất chính là ngƣời chƣa thành niên đặt trong mối quan hệ với cha mẹ hoặc với

những ngƣời thân trong gia đình nhƣ: cha mẹ nuôi, cha dƣợng, mẹ kế, anh chị

em ruột, ông bà nội, ông bà ngoại, …), ngƣời giám hộ (trong trƣờng hợp con

5 Điều 1 Luật thanh niên 2005 6 Khoản 1 Điều 3 Bộ luật lao động 2012

chƣa thành niên có ngƣời giám hộ theo quy định của pháp luật).

10

Nhƣ vậy, về khái niệm: Con chƣa thành niên là ngƣời dƣới 18 tuổi, chƣa

phát triển hoàn thiện về thể chất và tinh thần, chƣa có đầy đủ các quyền và nghĩa

vụ pháp lý nhƣ ngƣời đã thành niên và đƣợc đặt trong mối quan hệ với những

ngƣời thân trong gia đình.

1.2. Giao dịch dân sự do ngƣời chƣa thành niên xác lập

1.2.1. Giao dịch dân sự

Xã hội phát triển theo nền kinh tế thị trƣờng nhiều thành phần cùng với đó

sự phân công lao động rõ rệt dẫn tới tăng mạnh về khối lƣợng hàng hóa. Đời

sống xã hội tăng dẫn tới nhu cầu của con ngƣời ngày càng tăng. Do vậy, các chủ

thể phải tham gia các giao dịch dân sự khác nhau. Giao dịch dân sự xuất hiện với

vai trò hết sức quan trọng, nó không chỉ góp phần giúp con ngƣời thỏa mãn nhu

cầu vật chất, tinh thần mà còn góp phần khuyến khích, đẩy mạnh sản xuất phát

triển. Việc tham gia vào giao dịch dân sự nào là hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí

của mỗi chủ thể. Tuy nhiên, ý chí của chủ thể không đƣợc trái với ý chí của nhà

nƣớc. Ý chí đó chỉ trở thành hiện thực nếu đƣợc pháp luật ghi nhận. Trong pháp

luật dân sự Việt Nam, giao dịch dân sự là một chế định đóng vai trò quan trọng.

BLDS 2015 đã có những quy định cụ thể về giao dịch dân sự nói chung và điều

kiện có hiệu lực của một giao dịch dân sự nói riêng.

Tại Điều 116 BLDS năm 2015 quy định: “Giao dịch dân sự là hợp đồng

hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền,

nghĩa vụ dân sự”.

Có rất nhiều căn cứ làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân

sự: hợp đồng, hành vi pháp lý đơn phƣơng, thực hiện một công việc không có ủy

quyền, gây thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật hay quyết định của một cơ

11

quan nhà nƣớc có thẩm quyền, … trong đó giao dịch dân sự là căn cứ phổ biến,

thông dụng nhất. Giao dịch dân sự là một sự kiện pháp lý chứa đựng hành vi

pháp lý. Hành vi pháp lý là một sự thể hiện ý chí nhằm làm phát sinh ra một hậu

quả pháp lý, có nghĩa là làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt một quyền lợi hay

nghĩa vụ. Sự thể hiện ý chí có thể là đơn phƣơng (nhƣ lập di chúc, thiết lập một

công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, đơn phƣơng chấm dứt một hợp

đồng, đề nghị giao kết hợp đồng, xác nhận lại một hợp đồng vô hiệu, …), hoặc

có thể là đa phƣơng, hay còn gọi là sự thống nhất ý chí, có nghĩa là sự thỏa

thuận, mà sự thỏa thuận có mục đích xác lập, thay đổi, chấm dứt một quyền lợi

gọi là hợp đồng.

Xem xét dƣới phƣơng diện khách quan thì hợp đồng là do các quy phạm

pháp luật của Nhà nƣớc ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh

trong quá trình dịch chuyển các lợi ích vật chất giữa các chủ thể với nhau. Theo

phƣơng diện chủ quan, hợp đồng là một giao dịch dân sự mà trong đó các bên tự

trao đổi ý chí với nhau nhằm đi đến sự thỏa thuận để cùng nhau làm phát sinh

các quyền và nghĩa vụ dân sự nhất định. Theo phƣơng diện này, hợp đồng vừa

đƣợc xem xét dƣới dạng cụ thể vừa đƣợc xem xét ở dạng khái quát. Nếu định

nghĩa đƣới dạng cụ thể thì “hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác

lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự” (Điều 385 BLDS 2015).

Nhƣ vậy, hợp đồng thƣờng đƣợc định nghĩa là sự thỏa thuận giữa hai hay nhiều

ngƣời nhằm xác lập, thay đổi hay chấm dứt quyền lợi (có nghĩa là nhằm làm phát

sinh, thay đổi hay chấm dứt quan hệ pháp luật hoặc quyền và nghĩa vụ giữa các

bên). Chính vì vậy, hợp đồng thật sự là luật giữa các bên. Khi giao kết hợp đồng,

các bên biểu lộ và thống nhất ý chí về một đối tƣợng cụ thể nào đó. Mặc dù trong

sự thỏa thuận đó, có thể họ không bày tỏ rõ các quy tắc xử sự, không tuyên bố

12

thu hẹp quyền tự do của mình cho lợi ích của ngƣời khác, hoặc không tuyên bố

tự cấm mình vi phạm hay tự cấm mình phớt lờ lời hứa đó, nhƣng với nhận thức

của một con ngƣời bình thƣờng ai ai cũng nhận thấy cần phải tôn trọng lời hứa,

nên phải xử sự thích hợp với lời hứa của mình và khi vi phạm cam kết hay lời

hứa thì việc phải gánh chịu một chế tài là hợp lẽ phải và thích đáng. Điều đó có

nghĩa là khi giao kết hợp đồng, các bên đã ngầm chấp nhận những lẽ thông

thƣờng đó. Có thể các lẽ thông thƣờng này đƣợc ghi nhận trong pháp luật hoặc trong tập quán.7

Hành vi pháp lý đơn phƣơng (còn gọi là giao dịch dân sự một chiều). Hành

vi pháp lý đơn phƣơng thể hiện ý chí của một bên chủ thể, do vậy hành vi pháp

lý đơn phƣơng không là hợp đồng. Ví dụ nhƣ cá nhân thể hiện ý chí trong việc

lập di chúc để lại tài sản cho ngƣời thừa kế đƣợc chỉ định theo ý chí của mình, ủy

quyền một bên hay thực hiện một công việc không có ủy quyền, .... Căn cứ vào

quy định và logic học thì mọi hợp đồng là giao dịch dân sự là nhƣng mọi giao

dịch dân sự không phải là hợp đồng vì bên cạnh đó còn hành vi pháp lý đơn

phƣơng. Cùng với đó, không phải mọi hành vi pháp lý đơn phƣơng là giao dịch

dân sự. Hành vi pháp lý đơn phƣơng để trở thành giao dịch dân sự thì hành vi đó

phải đƣợc tiến hành nhằm làm phát sinh một quyền hay nghĩa vụ dân sự của chủ

thể đƣợc xác định. Còn hành vi pháp lý đơn phƣơng đƣợc tiến hành không nhằm

làm phát sinh quyền, nghĩa vụ dân sự ở chủ thể đƣợc xác định thì hành vi pháp lý

đơn phƣơng này không phải là giao dịch dân sự (ví dụ: chủ sở hữu từ bỏ quyền sở hữu của mình đối với tài sản)8. Trong nhiều trƣờng hợp hành vi pháp lý đơn

7Ngô Huy Cƣơng, Giáo trình Luật hợp đồng (phần chung), NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2013, tr.17 8Nguyễn Văn Cừ -Trần Thị Huệ (đồng chủ biên), Bình luận khoa học BLDS 2015, NXB Công an nhân dân, năm 2017, tr.230

phƣơng chỉ phát sinh hậu quả pháp lý khi có những điều kiện nhất định do ngƣời

13

xác lập giao dịch đƣa ra cho ngƣời khác. Những ngƣời này phải đáp ứng đƣợc

những điều kiện đó mới làm phát sinh nghĩa vụ của ngƣời xác lập giao dịch dân

sự. Chẳng hạn nhƣ: Một nhà kinh doanh tuyên bố rằng anh ta sẽ chi trả toàn bộ

tiền ăn trƣa cho tất cả những ngƣời tham gia hội thảo với điều kiện những ngƣời

đó phải là học sinh, sinh viên.

Nhƣ nội dung và quy định tại điều luật trên thì giao dịch dân sự là “phƣơng

tiện pháp lý” để các chủ thể của pháp luật dân sự xác lập, thực hiện các quyền

dân sự, nghĩa vụ dân sự nhằm thỏa mãn các nhu cầu vật chất trong sinh hoạt, tiêu

dùng hoặc sản xuất, kinh doanh nên giao dịch dân sự luôn là hoạt động có ý thức

của chủ thể. Giao dịch dân sự là hành vi có ý thức của chủ thể, phản ánh ý chí và

sự mong muốn của chủ thể cùng với những mục đích và động cơ nhằm thu đƣợc

một kết quả nhất định và pháp luật tạo điều kiện cho kết quả đó trở thành hiện

thực. Trong một chừng mực nhất định, có thể hiểu ý chí của chủ thể đƣợc thể

hiện trong động cơ khi chủ thể xác lập giao dịch dân sự.

Trong thực tế, mục đích của giao dịch dân sự không hoàn toàn đồng nghĩa

với động cơ của chủ thể khi xác lập giao dịch dân sự. Động cơ xác lập giao dịch

dân sự là yếu tố có ý nghĩa quan trọng thúc đẩy các chủ thể xác lập các giao dịch

nhằm mục đích thỏa mãn các nhu cầu của chủ thể đó, còn mục đích là mục tiêu

mà chủ thể hƣớng tới, mong muốn đạt đƣợc. Có thể xem động cơ nhƣ là một

“tiền đề” cần thiết để các chủ thể xác lập với nhau một quan hệ dân sự. Nhƣng

nếu trong quá trình cam kết, thỏa thuận mục đích của một trong các bên tham gia

không đạt đƣợc thì giao dịch dân sự sẽ không đƣợc xác lập. Động cơ và mục

đích của các chủ thể trong quá trình xác lập giao dịch dân sự có thể đƣợc xem là

yếu tố “cần và đủ” nhƣng luôn hòa quyện thành một khi thỏa thuận để xác lập

14

giao dịch dân sự. Phân biệt thành động cơ và mục đích đối với mỗi chủ thể chỉ có tính chất tƣơng đối và có ý nghĩa trong những trƣờng hợp nhất định.9

Khi tham gia một giao dịch dân sự cụ thể, ý chí (thƣờng đƣợc thể hiện là

động cơ) của chủ thể bao giờ cũng phải thể hiện ra bên ngoài dƣới một hình thức

phù hợp nhất định để phía bên kia có thể nhận biết và hiểu đƣợc ý chí đó. Đối

với chủ thể bên kia, ý chí cũng phải đƣợc thể hiện dƣới một hình thức thích hợp

để các bên trong quan hệ dân sự có thể hiểu nhau. Trên cơ sở đó, các chủ thể mới

có thể thỏa thuận và thống nhất ý chí với nhau. Giao dịch dân sự chỉ đƣợc coi là

đã đƣợc xác lập khi các bên trong giao dịch dân sự đã thống nhất ý chí với nhau.

Nói một cách khác nếu các bên không đạt đƣợc sự thống nhất ý chí về quyền dân

sự và nghĩa vụ dân sự đối với nhau thì giao dịch dân sự cũng không thể đƣợc xác

lập. Trong giao dịch dân sự tiêu chí về “ý chí” của chủ thể có ý nghĩa rất quan

trọng. Trong nhiều trƣờng hợp nó còn là cơ sở để xác định quyền dân sự và

nghĩa vụ dân sự của từng chủ thể trong quan hệ dân sự đó.

Tuy nhiên, giao dịch không nhất thiết luôn tạo ra quyền và nghĩa vụ. Có

những trƣờng hợp ý chí đƣợc bày tỏ theo quy định của pháp luật, nhƣng không

tạo ra một quyền hay nghĩa vụ nào. Chẳng hạn, một ngƣời từ chối nhận di sản

theo Điều 620 BLDS 2015 rõ ràng đã thực hiện một giao dịch dân sự, đúng hơn

là một hành vi pháp lý đơn phƣơng. Nhƣng việc từ chối không tạo ra một quyền

9Đinh Văn Thanh (chủ biên), Giáo trình Luật dân sự Việt Nam (quyển 1), Viện đại học Mở Hà Nội, NXB Giáo dục Việt Nam, năm 2015, tr. 291 10Nguyễn Ngọc Điện (chủ biên), Giáo trình Luật dân sự Việt Nam (tập 1), Khoa Luật Viện đại học Mở thành phố Hồ Chí Minh, NXB Đại học Quốc gia TP.HCM, năm 2016, tr. 102

hay một nghĩa vụ nào cho ngƣời này mà chỉ đơn giản khiến ngƣời này trở thành ngƣời ngoài cuộc trong quan hệ thừa kế.10

15

Bên cạnh đó cũng cần phải thấy rằng, khi mong muốn xác lập với nhau một

giao dịch dân sự không có chủ thể nào lại không nhằm đạt đƣợc một mục đích

nhất định. Mục đích của giao dịch có thể xem là hệ quả của quá trình chủ thể

thực hiện động cơ. Vì vậy, mục đích là yếu tố không thể thiếu trong giao dịch

dân sự. Điều này còn có ý nghĩa quan trọng nếu trong quá trình thực hiện những

quyền và nghĩa cụ pháp lý phát sinh từ giao dịch dân sự cụ thể mà có tranh chấp

thì các cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền phải căn cứ vào ý muốn đích thực của

các bên để xác định quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự cụ thể trong từng giao dịch

đó hoặc khi phải giải thích giao dịch dân sự.

Để đạt đƣợc mục đích, động cơ cần phải đƣợc thực hiện bằng hành vi. Điều

kiện để hành vi đƣợc coi là sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt

giao dịch dân sự đó là sự bày tỏ ý chí của chủ thể. Ý chí là khả năng xác định

mục đích hành động và định hƣớng cho hành động đó để đạt đƣợc mục đích đã

xác định trƣớc. Ý chí đƣợc biểu hiện ra bên ngoài phải là ý chí hoàn toàn tự

nguyện, tự giác thì mới là cơ sở là phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt giao dịch

dân sự. Chủ thể giao dịch dân sự khi tiến hành bất cứ hành vi nào nhằm làm phát

sinh, thay đổi hoặc chấm dứt một giao dịch dân sự đều mong muốn đạt đƣợc một

hậu quả pháp lý nhất định (hƣởng một quyền lợi nhất định đồng thời gánh vác

một nghĩa vụ tƣơng xứng; thay đổi hay kết thúc các quyền và nghĩa vụ đang tồn

tại). Để thu đƣợc lợi ích theo mong muốn, các chủ thể cần biểu hiện ý chí ra bên

ngoài. Biểu hiện khách quan của ý chí ra bên ngoài nhằm làm phát sinh, thay đổi

hoặc chấm dứt một giao dịch dân sự đƣợc gọi là sự thể hiện ý chí.

Nhƣ vậy, sự thể hiện ý chí đó phải thỏa mãn hai điều kiện. Một là, ý chí của

chủ thể phải là ý chí xác định đƣợc cho chủ thể đó mục đích hành động rõ ràng

(đó là làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ dân sự nhất

16

định). Hai là, ý chí của chủ thể phải đƣợc biểu hiện ra bên ngoài bằng cách nào

đó (thông qua lời nói, chữ viết hay một hành động cụ thể) để những ngƣời xung

quanh có thể hiểu đƣợc). Các chủ thể tham gia phải có sự thống nhất giữa ý chí

và bày tỏ ý chí ra bên ngoài (yếu tố không thể thiếu). Nếu một giao dịch dân sự

thiếu sự thống nhất giữa ý chí hay bày tỏ ý chí ra bên ngoài thì có thể bị tuyên bố

vô hiệu. Đối với hợp đồng, sự bày tỏ ý chí của các chủ thể mà thiếu đi sự thống

nhất ý chí thì giao dịch dân sự đó cũng có thể bị tuyên bố vô hiệu. Đối với hành

vi pháp lý đơn phƣơng thì chỉ cần sự thể hiện ý chí của một bên, không cần sự

thống nhất ý chí giữa các bên tham gia nhƣ ở hợp đồng.

Nếu hành vi của chủ thể quan hệ pháp luật dân sự không phù hợp với pháp

luật, đạo đức xã hội thì đƣơng nhiên hành vi này sẽ không đƣợc Nhà nƣớc bảo

vệ và thừa nhận dẫn đến không thể phát sinh hậu quả pháp lý mà chủ thể đó

mong muốn đạt đƣợc.

Nhìn chung, giao dịch dân sự là hành vi pháp lý đơn phƣơng hay hợp đồng

đều có những đặc điểm sau: Là hành vi pháp lý; giao dịch dân sự đƣợc thực hiện

bởi hành vi hợp pháp thể hiện ý chí của chủ thể quan hệ pháp luật dân sự nhằm

đạt đƣợc một kết quả nhất định; có sự thống nhất giữa ý chí và bày tỏ ý chí của

chủ thể tham gia giao dịch dân sự; không vi phạm điều cấm của pháp luật và

không trái đạo đức xã hội; các giao dịch dân sự mang tính xác thực và có tính

khả thi; chế tài trong giao dịch dân sự mang tính chất bắt buộc nhƣng cũng rất

linh hoạt; hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự là làm phát sinh, thay đổi, chấm

dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.

Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, tác giả không đi sâu vào nghiên

cứu giao dịch dân sự mà tập trung khai thác các vấn đề liên quan đến giao dịch

17

dân sự của con chƣa thành niên mà có sự đại diện của cha mẹ, do vậy luận văn

chỉ nêu mà không đi sâu vào làm rõ đặc điểm của giao dịch dân sự nói chung.

1.2.2. Cơ sở hình thành giao dịch dân sự của ngƣời chƣa thành niên

Quan hệ pháp luật là những quan hệ xã hội đƣợc các quy phạm pháp luật

điều chỉnh. Trong hệ thống pháp luật, mỗi ngành luật điều chỉnh một nhóm quan

hệ khác nhau. Quan hệ pháp luật dân sự là một dạng quan hệ pháp luật, vì vậy nó

mang đầy đủ đặc tính của quan hệ pháp luật về bản chất xã hội, bản chất pháp lý,

tính cƣỡng chế nhà nƣớc.

Các yếu tố cấu thành nên một quan hệ pháp luật dân sự đó là: chủ thể tham

gia vào các quan hệ, đối tƣợng mà các chủ thể hƣớng tới khi tham gia vào quan

hệ pháp luật dân sự và đƣợc nhà nƣớc bảo vệ, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể

khi tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự đó.

Với tƣ cách là chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự, ngƣời chƣa thành niên

cũng có những nhu cầu cần thực hiện trong đời sống hàng ngày nhƣ ăn uống,

sinh hoạt, học tập, lao động, rèn luyện, … Để thực hiện các nhu cầu đó, ngƣời

chƣa thành niên cũng phải tham gia vào các quan hệ xã hội và tƣơng tác với các

chủ thể khác để mua bán, trao đổi, tặng cho nhằm đạt đƣợc mục đích sinh hoạt

hàng ngày. Do sự tác động của các quy phạm pháp luật lên các quan hệ xã hội

nên khi tham gia vào các quan hệ đó ngƣời chƣa thành niên có các quyền và

nghĩa vụ pháp lý tƣơng ứng. Các quyền và nghĩa vụ pháp lý này đƣợc nhà nƣớc

bảo đảm thực hiện.

Điểm đặc trƣng của một quan hệ pháp luật dân sự là địa vị pháp lý của các

chủ thể dựa trên cơ sở bình đẳng, không phụ thuộc vào các yếu tố xã hội khác và

lợi ích (trƣớc tiên là lợi ích kinh tế) là tiền đề trong phần lớn các quan hệ dân sự.

18

Tuy nhiên, ngƣời chƣa thành niên với tƣ cách là chủ thể khi tham gia vào quan

hệ pháp luật dân sự luôn là bên yếu thế hơn. Bởi họ là những ngƣời chƣa đủ

năng lực hành vi dân sự, còn hạn chế về nhận thức nên dễ bị lợi dụng. Chính vì

vậy cần có ngƣời đứng ra bảo vệ cho ngƣời chƣa thành niên, thay họ tham gia

vào các giao dịch dân sự để bảo vệ lợi ích của chính những ngƣời chƣa thành

niên đó, và đây là lúc chế định đại diện phát huy vai trò.

Đối với những ngƣời đủ 18 tuổi trở lên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ.

Họ có thể tự mình tham gia vào các quan hệ pháp luật dân sự, bằng hành vi của

chính mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự. Còn những ngƣời chƣa đủ

18 tuổi, việc tham gia vào các quan hệ pháp luật dân sự đƣợc thực hiện thông

qua ngƣời đại diện của họ là cha mẹ. Pháp luật phân năng lực hành vi dân sự của

ngƣời chƣa thành niên thành các mức khác nhau. Tùy vào độ tuổi để xác định

đƣợc quyền và nghĩa vụ của ngƣời chƣa thành niên cũng nhƣ phạm vi đại diện

của cha mẹ cho con chƣa thành niên khi tham gia giao dịch dân sự. Nội dung các

mức năng lực hành vi dân sự của ngƣời chƣa thành niên đƣợc trình bày cụ thể

dƣới đây.

1.2.3. Các mức năng lực hành vi dân sự của ngƣời chƣa thành niên

* Căn cứ xác định các mức năng lực hành vi dân sự của người chưa thành

niên

Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là bình đẳng, bởi vì pháp luật quy

định khả năng hƣởng quyền dân sự cho các cá nhân là nhƣ nhau không phân biệt

giới tính, độ tuổi, thành phần, …Cùng với năng lực pháp luật dân sự của cá

nhân, năng lực hành vi dân sự của cá nhân là bộ phận cấu thành năng lực chủ thể

của cá nhân. Tuy nhiên, ngƣợc lại năng lực pháp luật dân sự của cá nhân, năng

19

lực hành vi dân sự của cá nhân lại không giống nhau. Yếu tố quy định sự khác

nhau về năng lực hành vi dân sự của mỗi cá nhân chính là ở độ tuổi và thể chất

của cá nhân đó. Mọi cá nhân có năng lực pháp luật dân sự kể từ khi ngƣời đó

đƣợc sinh ra, nhƣng mỗi cá nhân chỉ có năng lực hành vi dân sự khi họ đã đạt

đến một độ tuổi nhất định và có sự phát triển bình thƣờng về thể chất và trí tuệ.

Mỗi cá nhân sinh ra và lớn lên trong những môi trƣờng sống, đƣợc nuôi

dƣỡng, chăm sóc và giáo dục trong những điều kiện vật chất và tinh thần khác

nhau. Có những đứa trẻ còn rất nhỏ nhƣng đã có những suy nghĩ, tâm tƣ, tình

cảm rất giống ngƣờn lớn, thậm chí có những đứa trẻ có khả năng lĩnh hội, cảm

thụ những tri thức nhân loại một cách đặc biệt mà chúng ta gọi đó là những “thần

đồng” hay “thiên tài”. Bên cạnh đó có những đứa trẻ, ngƣời đã thành niên nhƣng

sự nhận biết, diễn biến tâm lý hay cách xử sự lại không đƣợc nhƣ những ngƣời

phát triển bình thƣờng cùng lứa tuổi.

Mặt khác ta thấy rằng khả năng nhận thức của mỗi ngƣời còn phụ thuộc vào

yếu tố sinh học (di truyền từ thế hệ trƣớc), phụ thuộc vào các yếu tố xã hội (môi

trƣờng sống, điều kiện học tập, rèn luyện …). Do vậy, những ngƣời cùng lứa

tuổi nhƣng khả năng nhận thức lại rất khác nhau.

Chính vì sự đa dạng của các cá nhân về khả năng nhận thức và làm chủ

hành vi mà Nhà nƣớc đã luật hóa các mức độ năng lực hành vi dân sự của cá

nhân dựa trên độ tuổi. Theo đó, khả năng thực hiện hành vi đƣợc thừa nhận phân

thành các nhóm độ tuổi. Tuy nhiên việc xác định năng lực hành vi dân sự của cá

nhân dựa trên độ tuổi chỉ là điều kiện cần mà không phải là điều kiện đủ. Độ tuổi

20

để xác định ngƣời đó là ngƣời thành niên hay chƣa thành niên11. Cá nhân đã

thành niên thì có năng lực hành vi dân sự đầy đủ nếu không thuộc các trƣờng

hợp bị tuyên bố mất năng lực hành vi, hạn chế năng lực hành vi.

Nhƣ vậy, năng lực hành vi của cá nhân đƣợc xác định trên hai cơ sở:

- Độ tuổi và sự phát triển bình thƣờng hay không bình thƣờng về trí não và; - Thông qua quyết định của cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền (Tòa án).12

* Các mức năng lực hành vi dân sự của người chưa thành niên

Ngƣời chƣa thành niên khi tham gia vào giao dịch dân sự bất kỳ họ đóng

vai trò là chủ thể trong giao dịch dân sự đó. Giao dịch của con chƣa thành niên

đáp ứng mọi yêu cầu và điều kiện của một giao dịch dân sự thông thƣờng. Vì là

đối tƣợng đƣợc quan tâm đặc biệt nên pháp luật cũng có những quy định rất cụ

thể để một ngƣời chƣa thành niên tham gia vào giao lƣu dân sự. Cụ thể:

Đối với con chưa thành niên chưa đủ 6 tuổi. Việc tham gia giao dịch dân sự

của con chƣa thành niên chƣa đủ 6 tuổi đƣợc thực hiện theo khoản 2 Điều 21

BLDS 2015 nhƣ sau: “Giao dịch dân sự của người chưa đủ sáu tuổi do người

đại diện theo pháp luật của người đó xác lập, thực hiện”. Xét về năng lực pháp

luật dân sự, ngƣời chƣa đủ sáu tuổi hoàn toàn có thể trở thành chủ thể của giao

dịch dân sự. Tuy nhiên, năng lực hành vi dân sự chƣa đủ để có thể tự mình giao

kết giao dịch dân sự do vậy việc thực hiện giao dịch dân sự của ngƣời chƣa đủ

11 Trên thế giới, độ tuổi xác định một cá nhân thành niên hay chƣa thành niên phụ thuộc vào qui định của từng quốc gia. Việc quy định dựa trên nghiên cứu về mặt bằng phát triển thể chất và tâm sinh lý của trẻ em trên quốc gia đó. 12 Nguyễn Thị Hiền, Năng lực hành vi d n sự của người chưa thành niên, luận văn thạc sĩ luật học, Đại học luật Hà Nội

sáu tuổi sẽ thông qua ngƣời đại diện. Điều này đồng nghĩa với việc định đoạt tài

21

sản của ngƣời chƣa thành niên chƣa đủ 6 tuổi cũng đƣợc thực hiện thông qua

ngƣời đại diện hợp pháp.

Đối với con chưa thành niên từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 15 tuổi. Ở độ tuổi

này, khả năng thực hiện giao dịch dân sự của con chƣa thành niên đƣợc mở rộng

hơn. Cụ thể là lứa tuổi này, ngƣời chƣa thành niên có thể tự mình thực hiện giao

dịch dân sự dƣới sự kiểm soát của ngƣời đại diện, quy định tại khoản 3 Điều 21

BLDS 2015: “Người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười lăm tuổi khi xác lập, thực

hiện giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao

dịch dân sự phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi”. Có thể

thấy một cách rõ ràng, các nhà làm luật đã thu hẹp phạm vi đại diện của ngƣời

đại diện lại từ việc quy định cho họ trực tiếp tham gia các giao dịch định đoạt tài

sản của con chƣa thành niên chƣa đủ 6 tuổi thành việc chỉ cho phép đồng ý hay

không đồng ý cho con chƣa thành niên từ đủ 6 tuổi đến chƣa đủ 15 tuổi thực hiện

giao dịch. Một số giao dịch phục vụ cho nhu cầu thiết yếu của cá nhân nhƣ: ăn

uống, đồ dùng học tập, đồ các nhân, … không cần sự đồng ý của ngƣời đại điện.

Đối với con chưa thành niên từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi. Nếu ở độ

tuổi từ đủ 6 tuổi đến chƣa đủ 15 tuổi con chƣa thành niên đƣợc thực hiện một số

giao dịch cần có sự đồng ý của ngƣời đại diện thì ở độ tuổi từ đủ 15 tuổi đến

chƣa đủ 18 tuổi con chƣa thành niên đƣợc thực hiện hầu hết các giao dịch dân sự

mà không cần sự đồng ý của ngƣời đại diện, quy định tại khoản 4 Điều 21 BLDS

2015: “Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi tự mình xác lập,

thực hiện giao dịch dân sự, trừ giao dịch dân sự liên quan đến bất động sản,

động sản phải đăng ký và giao dịch dân sự khác theo quy định của luật phải

được người đại diện theo pháp luật đồng ý”. Ở độ tuổi gần hoàn thiện này,

ngƣời chƣa thành niên có khả năng tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự

22

và có quyền tự định đoạt tài sản riêng của mình. Tuy nhiên với một số giao dịch

đòi hỏi phải có sự đồng ý của ngƣời đại diện theo pháp luật liên quan đến bất

động sản, động sản phải đăng ký hoặc những giao dịch dân sự theo quy định của

pháp luật phải đƣợc ngƣời đại diện theo pháp luật đồng ý.

Bên cạnh việc quy định việc thực hiện giao dịch dân sự của ngƣời chƣa

thành niên theo độ tuổi thì cũng có những trƣờng hợp việc xác lập giao dịch dân

sự của ngƣời chƣa thành niên theo loại giao dịch. Chẳng hạn nhƣ, ngƣời chƣa

thành niên từ đủ 15 tuổi đến chƣa đủ 18 tuổi muốn lập di chúc, dù di sản để lại là

gì thì cũng đều phải có sự đồng ý của ngƣời đại diện: “Người từ đủ mười lăm

tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi được lập di chúc, nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc13”.

1.3. Đại diện của cha mẹ cho con chƣa thành niên

1.3.1. Khái niệm đại diện của cha mẹ cho con chƣa thành niên

Trong đời sống thƣờng nhật, mỗi con ngƣời đều phải tham gia vào các mối

quan hệ trong xã hội và hầu hết các nhu cầu sống của họ đều đƣợc đáp ứng thông

qua mối liên hệ với ngƣời khác nhƣ: hôn nhân, gia đình, quan hệ làm ăn buôn

bán, các nhu cầu thiết yếu của bản thân… Các nhu cầu này ngày càng đa dạng và

có chiều hƣớng tăng lên theo sự phát triển của xã hội. Nhƣng với nhịp sống ngày

càng hiện đại hóa, nhu cầu thì lớn mà thời gian thì có hạn hoặc nhiều nguyên

nhân khác nhƣ: trở ngại về sức khỏe, địa lý và hạn chế về chuyên môn mà các

chủ thể này không thể thực hiện hết các mong muốn của mình. Để có thể thỏa

mãn đƣợc những nhu cầu này các chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự cần có

13 Khoản 2 Điều 625 BLDS 2015

ngƣời khác thay mình thể hiện ý trí nhƣng vẫn mang tới sự ràng buộc cho chính

23

bản thân họ. Bên cạnh những cá nhân có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, có thể

tự mình hoặc bằng chính hành vi pháp lý của mình ủy quyền cho ngƣời khác xác

lập, thực hiện các giao dịch dân sự thì còn có các đối tƣợng mà pháp luật coi là

không có năng lực hành vi hoặc năng lực hành vi không đầy đủ nên không có

khả năng tự bản thân tiến hành các giao dịch dân sự. Cụ thể quy định trong

BLDS 2015 đối với ngƣời chƣa thành niên tại Điều 21, ngƣời bị mất năng lực

hành vi, ngƣời có khó khăn trong nhận thức làm chủ hành vi, ngƣời bị hạn chế

năng lực hành vi dân sự đƣợc quy định từ Điều 22 đến Điều 24. Đối với những

ngƣời này, họ cũng có nhu cầu rất lớn trong việc tham gia vào các hoạt động đời

sống xã hội thông qua các giao dịch dân sự cũng nhƣ việc bảo vệ quyền và lợi

ích hợp pháp của mình trƣớc ngƣời thứ ba, nhƣng do hạn chế về năng lực hành

vi hoặc năng lực hành vi dân sự không đầy đủ nên họ cần tới sự hành động của

ngƣời khác để xác lập, thực hiện và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Đối với pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác là những chủ thể quan trọng

trong nền kinh tế, xã hội, văn hóa…là thành phần góp phần quan trọng vào sự

phát triển của một đất nƣớc nên việc tham gia vào các giao dịch dân sự của các

chủ thể này ngày càng đa dạng và phức tạp hơn. Vì những chủ thể này là một tập

hợp gồm nhiều cá nhân khác nhau không thể xác lập thông qua tất cả mọi cá

nhân hơn nữa hoạt động của những chủ thể này lại nhiều và đa dạng nhƣ giao kết

nhiều giao dịch dân sự, tiến hành giao dịch ở nhiều địa điểm khác nhau, đòi hỏi

có chuyên môn hóa…nên để đảm bảo các giao dịch đƣợc xác lập một cách thuận

lợi và bảo đảm quyền lợi cho các chủ thể này cần có ngƣời đại diện để tiến hành

mọi hoạt động. Nắm bắt đƣợc thực tiễn của xã hội và trên nguyên tắc tự do ý trí,

pháp luật Việt Nam thừa nhận chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự có thể tự

mình xác lập và thực hiện giao dịch hoặc có thể biểu lộ ý trí thông qua ngƣời

24

khác. Và để điều chỉnh mối quan hệ xã hội này nhà nƣớc ta đã quy định chế định

đại diện trong BLDS nhằm phù hợp với xu thế tất yếu và khách quan của cuộc

sống.

Tại điều 134 BLDS 2015 quy định:

“1. Đại diện là việc cá nhân, pháp nhân (sau đ y gọi chung là người đại

diện) nhân danh và vì lợi ích của cá nhân hoặc pháp nh n khác (sau đ y gọi

chung là người được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự.

2. Cá nhân, pháp nhân có thể xác lập, thực hiện giao dịch dân sự thông

qua người đại diện. Cá nh n không được để người khác đại diện cho mình nếu

pháp luật quy định họ phải tự mình xác lập, thực hiện giao dịch đó.

3. Trường hợp pháp luật quy định thì người đại diện phải có năng lực pháp

luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập,

thực hiện.”

Đại diện là một quan hệ pháp luật dân sự bao gồm hai bên chủ thể là bên

đại diện và bên đƣợc đại diện. Quan hệ đại diện còn là căn cứ để làm phát sinh

thêm một quan hệ (giao dịch dân sự) tiếp theo là quan hệ giữa ngƣời đại diện với

ngƣời thứ ba theo ý chí của ngƣời đƣợc đại diện và vì lợi ích của ngƣời đƣợc đại

diện. Mọi cá nhân đều đƣợc pháp luật bảo vệ quyền tham gia xác lập và thực

hiện giao dịch dân sự có thể trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua ngƣời khác. Tuy

nhiên, cá nhân không đƣợc ngƣời khác đại diện cho mình nếu pháp luật quy định

họ phải tự mình xác lập thực hiện giao dịch đó. Ví dụ: Cá nhân không thể ủy

quyền cho ngƣời khác thay mình đi đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nƣớc có

thẩm quyền vì nó vi phạm nguyên tắc cơ bản của luật hôn nhân gia đình.

25

Nhƣ vậy, đại diện của cha mẹ cho con chƣa thành niên là việc cha, mẹ

nhân danh con chƣa thành niên của mình xác lập, thực hiên những giao dịch dân

sự vì lợi ích của con.

1.3.2. Đặc điểm của chế định đại diện của cha mẹ cho con chƣa thành

niên

Với tƣ cách là một chế định pháp lý, chế định đại diện mang đầy đủ đặc

điểm của quan hệ pháp luật nói chung. Ngoài ra chế định đại diện của cha mẹ

cho con chƣa thành niên còn mang đặc điểm riêng:

Là đại diện theo pháp luật.

Đại diện theo pháp luật hay còn gọi là đại diện đƣơng nhiên là đại diện

theo pháp luật quy định hoặc theo quyết định của cơ quan nhà nƣớc có thẩm

quyền. Quan hệ đại diện này đƣợc xác lập theo ý chí Nhà nƣớc, pháp luật quy

định mối quan hệ đại diện dựa trên các mối quan hệ tồn tại sẵn có chứ không phụ

thuộc vào ý chí hay sự định đoạt của các chủ thể. Đại diện đƣợc quy định theo

pháp luật chung là đại diện mặc nhiên, ổn định về ngƣời đại diện, về thẩm

quyền, phạm vi đại diện.

Căn cứ xác lập đại diện cho ngƣời chƣa thành niên dựa trên quan hệ huyết

thống giữ ngƣời đại diện và ngƣời đƣợc đại diện mà pháp luật quy định quan hệ

đại diện có tính chất đƣơng nhiên nhƣ cha mẹ với con chƣa thành niên.

Chế định đại diện có hai mối quan hệ pháp luật khác nhau song song tồn tại

là quan hệ giữa cha mẹ và con chƣa thành niên (còn gọi là quan hệ bên trong),

quan hệ giữa cha mẹ và ngƣời thứ ba (còn gọi là quan hệ bên ngoài).

26

Quan hệ bên trong đƣợc hình thành theo quy định của pháp luật. Ví dụ:

theo quy định tại khoản 2 Điều 21 BLDS 2015 thì mọi giao dịch dân sự của

ngƣời chƣa đủ 6 tuổi đều phải do ngƣời đại diện theo pháp luật xác lập thực hiện.

Điều này thể hiện mối quan hệ ở đây là giữa cha mẹ và con chƣa thành niên và

nó đƣợc xác lập theo pháp luật. Chính vì vậy, khi xác lập bất kỳ một giao dịch

dân sự cha mẹ phải chứng minh tƣ cách đại diện của mình thông qua giấy khai

sinh hoặc giấy tờ khác xác định quan hệ huyết thống.

Quan hệ bên ngoài chẳng hạn nhƣ việc bà D (mẹ của B) thay mặt B xác lập

hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất của B cho ông T. Nhƣ vậy trong việc giao

kết hợp đồng giữa bà D và ông T đã làm phát sinh mối quan hệ bên ngoài của

quan hệ đại diện giữa ngƣời đại diện theo pháp luật là bà D với ngƣời thứ ba là

ông T. Tuy đƣợc phân biệt nhƣng bản chất của việc đại diện là ngƣời đại diện

sẽ thay ngƣời đƣợc đại diện thể hiện ý chí với ngƣời thứ ba. Cho nên, ta thấy hai

mối quan hệ này cùng tồn tại song song và bổ trợ lẫn nhau, quan hệ bên trong là

tiền đề, là cơ sở cho sự xuất hiện và tồn tại của quan hệ bên ngoài. Quan hệ bên

ngoài thực hiện vì quan hệ bên trong, vì vậy các quyền và nghĩa vụ do ngƣời đại

diện thực hiện trong phạm vi thẩm quyền đại diện với ngƣời thứ ba đều thuộc về

ngƣời đƣợc đại diện. Ngƣời đại diện có thể đƣợc hƣởng những lợi ích nhất định

từ ngƣời đƣợc đại diện do thực hiện hành vi đại diện với ngƣời thứ ba.

Trên thực tế vẫn tồn tại mối quan hệ về lợi ích và trách nhiệm giữa con

chƣa thành niên và ngƣời thứ ba (còn gọi là mối quan hệ gián tiếp). Trong quan

hệ đại diện, ngƣời đại diện nhân danh ngƣời đƣợc đại diện để xác lập và thực

hiện giao dịch dân sự với ngƣời thứ ba. Ví dụ: Tuất (16 tuổi - chƣa thành niên),

là con của một gia đình giàu có tiếng. Từ bé Tuất đã đƣợc thừa kế và đứng tên

nhiều tài sản giá trị lớn. Một hôm Tuất lái xe trên đƣờng trong tình trạng có chất

27

cồn trong ngƣời và đã đâm vào chị Dậu – một lao công đang quét rác ria đƣờng

khiến cho chị Dậu bị thƣơng và phải nhập viện. Lúc này, mẹ của Tuất là bà Sửu

đã đứng ra thay mặt Tuất thăm hỏi và bồi thƣờng chi phí gây thƣơng tích cho chị

Dậu. Lúc này mối quan hệ bồi thƣờng thiệt hại giữ Tuất và chị Dậu đƣợc xác

định là mối quan hệ gián tiếp. Tại khoản 2 Điều 586 BLDS 2015 quy định:

Ngƣời từ đủ mƣời lăm tuổi đến chƣa đủ mƣời tám tuổi gây thiệt hại thì phải bồi

thƣờng bằng tài sản của mình; nếu không đủ tài sản để bồi thƣờng thì cha, mẹ

phải bồi thƣờng phần còn thiếu bằng tài sản của mình. Nhƣ vậy Tuất có trách

nhiệm bồi thƣờng cho chị Dậu bằng tài sản của chính mình còn bà Sửu hành

động vì lợi ích của Tuất. Hay nói cách khác trách nhiệm trong quan hệ với ngƣời

thứ ba thuộc về ngƣời đƣợc đại diện.

Cha mẹ tuy là nhân danh cho con chƣa thành niên và thẩm quyền của họ

đƣợc giới hạn trong phạm vi đại diện theo pháp luật nhƣng họ vẫn có sự chủ

động và độc lập trong việc thể hiện ý chí của mình với ngƣời thứ ba trong việc

xác lập, thực hiện giao dịch dân sự nhằm mang đến lợi ích cho ngƣời đƣợc đại

diện. Chẳng hạn nhƣ ví dụ trên: Bà D đại diện cho B chuyển nhƣợng quyền sử

dụng đất cho ông T. Khi xác lập giao dịch, bà D thoả thuận giá trị chuyển

nhƣợng với mức cao nhất có thể nhằm mang lại lợi ích tối đa cho B.

Cần phân biệt trƣờng hợp ngƣời chƣa thành niên còn cả cha mẹ và cha mẹ

đều có năng lực hành vi dân sự đầy đủ nhƣng lại có ngƣời khác giám hộ cho con

(theo điểm b khoản 1 Điều 47) – do cha mẹ không có điều kiện chăm sóc, giáo

dục con và có yêu cầu ngƣời khác giám hộ do đó cha mẹ đã chuyển giao quyền

đại diện cho ngƣời giám hộ của con chƣa thành niên. Căn cứ xác lập quan hệ đại

diện của cha mẹ cho con chƣa thành niên dựa trên quy định của pháp luật. Bên

cạnh đó, chế định giám hộ của ngƣời chƣa thành niên cũng mang ý nghĩa xã hội

28

tƣơng tự nhƣ chế định đại diện của cha mẹ cho con chƣa thành niên đó là chăm

sóc, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ngƣời đƣợc giám hộ hay con chƣa

thành niên. Tuy nhiên căn cứ xác lập quan hệ giám hộ cho con chƣa thành niên

đƣợc quy định rộng hơn, thông qua ba hình thức: (i) theo quy định của pháp luật14; (ii) theo việc cử của Ủy ban nhân dân cấp xã; (iii) theo sự chỉ định của Tòa án15.

Chủ thể của quan hệ được xác định rõ ràng là cha mẹ và con chưa thành

niên.

Chủ thể của quan hệ đƣợc thể hiện rõ bao gồm cha mẹ và con chƣa thành

niên. Cha mẹ có thể là cha mẹ đẻ, hoặc cha mẹ nuôi. Đối với những trƣờng hợp

con đƣợc nhận nuôi thì mối quan hệ giữ cha nuôi, mẹ nuôi, con nuôi có đầy đủ

quyền và nghĩa vụ nhƣ cha, mẹ đẻ với con. Còn chủ thể của quan hệ giám hộ cho

con chƣa thành niên thì bao gồm cả anh, chị, em ruột, ông bà nội, ông bà ngoại,

cô, dì, chú, bác, cậu ruột là những ngƣời có quan hệ huyết thống trực hệ với con

chƣa thành niên.

1.3.3. Ý nghĩa của chế định đại diện của cha mẹ cho con chƣa thành

niên

Cuộc sống của con ngƣời trong xã hội đƣợc điều chỉnh bằng các quan hệ

hợp đồng và hầu hết mối quan hệ của con ngƣời đƣợc đáp ứng thông quan mối

quan hệ với ngƣời khác. Việc trao đổi lợi ích với nhau ngày càng đƣợc chuyên

nghiệp hoá. Mỗi ngƣời có những kỹ năng và sự hiểu biết trong từng lĩnh vực

14 Quy định tại Điều 52 BLDS 2015 15 Quy định tại khoản 1 Điều 54 BLDS 2015

khác nhau. Để đáp ứng nhu cầu sống ngƣời này có thể nhờ ngƣời kia trong lĩnh

29

vực mà họ thành thạo. Trong khi đó, nhu cầu sống thì rất lớn, thời gian thì có

hạn, năng lực mỗi ngƣời thì khác nhau. Vì vậy vấn đề đại diện đƣợc đặt ra.

Bên cạnh đó, nếu không có chế định đại diện thì những ngƣời không có

năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự sẽ không còn cơ hội

tham gia đời sống giao lƣu dân sự. Con chƣa thành niên là một trong các đối

tƣợng chƣa có năng lực hành vi dân sự một cách đầy đủ và pháp luật đặt ra những quy định để hạn chế họ tự mình thiết lập các giao dịch16. Chính vì vậy, ý

nghĩa xã hội pháp lý của chế định đại diện đƣợc thể hiện chính là ở chỗ nhờ có

nó mà một ngƣời (ở đây đƣợc hiểu là con chƣa thành niên) có thể sử dụng tri

thức, khả năng, kinh nghiệm của ngƣời đại diện (đƣợc hiểu là cha mẹ của ngƣời

chƣa thành niên đó) và tiếp nhận kết quả từ hành vi pháp lý của ngƣời đại diện

đó. Quan hệ đại diện xuất phát từ nhu cầu thực tế nhất định, là một trong những

chế định pháp luật lớn, có ý nghĩa quan trọng trong đời sống kinh tế xã hội và

trong cơ cấu pháp lý. Đại diện là chế định có chức năng trợ giúp xã hội, là một

trong những thành quả của trí tuệ pháp lý của loài ngƣời, mang tính nhân văn,

nhân đạo. Đây cũng là một công cụ pháp lý hữu hiệu để các chủ thể trong quan

hệ pháp luật dân sự có thể thực hiện đƣợc tất cả các quyền và nghĩa vụ dân sự

của mình một cách linh hoạt và hiệu quả nhất. Thể hiện đƣợc tính mềm dẻo, linh

hoạt của pháp luật, bảo vệ những quyền lợi chính đáng cho ngƣời không có năng

lực hành vi dân sự, bị hạn chế về năng lực hành vi dân sự.

Để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của ngƣời chƣa thành niên khi tham

gia vào các quan hệ dân sự, góp phần bảo đảm sự ổn định pháp lý của các giao

dịch dân sự nói chung và quyền lợi của những ngƣời chƣa thành niên nói riêng 16 Ngƣời từ đủ mƣời lăm tuổi đến chƣa đủ mƣời tám tuổi tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự, trừ giao dịch dân sự liên quan đến bất động sản, động sản phải đăng ký và giao dịch dân sự khác theo quy định của luật phải đƣợc ngƣời đại diện theo pháp luật đồng ý (khoản 4 Điều 21 BLDS 2015)

30

thì pháp luật cần thiết và đặt ra nhiều biện pháp để bảo về quyền lợi của ngƣời

chƣa thành niên, đặc biệt là trong việc xác lập, thay đổi, chấm dứt giao dịch dân

sự. Có rất nhiều những quy định trong nƣớc và trên thế giới ra đời để bảo về cho

quyền và lợi ích của họ. Tại lời mở đầu của Công ƣớc Liên Hợp Quốc vệ quyền

trẻ em năm 1989 xác định: Tin tƣởng rằng, gia đình, với ý nghĩa là tế bào xã hội

cơ bản và môi trƣờng tự nhiên cho sự phát triển và hạnh phúc của mọi thành

viên, nhất là trẻ em, cần đƣợc sự bảo vệ và giúp đỡ cần thiết để đảm đƣơng đƣợc

đầy đủ trách nhiệm của mình trong cộng đồng. Công ƣớc đã nêu ra vai trò to lớn

của cha mẹ đối với trẻ em (thuộc đối tƣợng con chƣa thành niên). Chính sự non

nớt về thể chất, nhận thức và tâm sinh lý nên là đối tƣợng dễ bị lợi dụng trong xã

hội. Sự xuất hiện của cha mẹ là sự bảo đảm chắc chắn nhất cho lợi ích của con

chƣa thành niên. Xuất phát từ lý lẽ và thực tiễn cho thấy không ai có thể bảo vệ

quyền lợi một cách vô điều kiện và tận tâm nhất ngoài cha mẹ. Chính vì vậy để

bảo đảm cho quyền lợi của ngƣời chƣa thành niên nói riêng và sự cân bằng ổn

định trong xã hội nói chung, pháp luật quy định về chế định đại diện cho ngƣời

chƣa thành niên mà chủ thể có nghĩa vụ trƣớc hết là bố mẹ.

1.3.4. Phạm vi đại diện

Nhƣ đã phân tích tại các phần trƣớc, để bảo đảm cho ngƣời chƣa thành niên

tham giao đƣợc vào giao lƣu dân sự thì những giao dịch dân sự đó phải đƣợc đặt

dƣới cơ chế đại diện trƣớc tiên, tức là việc cha mẹ (ngƣời đại diện) nhân danh và

vì lợi ích của những ngƣời con chƣa thành niên (ngƣời đƣợc đại diện) xác lập,

thực hiện giao dịch với ngƣời thứ ba. Khi giao dịch đƣợc xác lập, thực hiện phù

hợp với phạm vi đại diện thì ngƣời đƣợc đại diện chịu sự ràng buộc của giao

dịch. Ngƣợc lại, nếu giao dịch đƣợc xác lập, thực hiện ngoài phạm vi đại diện

thì, về nguyên tắc, ngƣời đƣợc đại diện không chịu ràng buộc bởi giao dịch đƣợc

31

xác lập, thực hiện trên danh nghĩa của họ. Chính vì vậy, việc xác định phạm vi

đại diện của ngƣời đại diện rất quan trọng trong thực tế đời sống.

Ý nghĩa của việc xác định phạm vi đại diện: Việc xác định phạm vi đại diện

không chỉ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ngƣời đƣợc đại diện mà còn bảo

vệ quyền lợi cho ngƣời thứ ba xác lập giao dịch dân sự với ngƣời đại diện.

Quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của ngƣời đƣợc đại diện với ngƣời thứ ba chỉ

phát sinh khi ngƣời đại diện xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi

đại diện của mình. Ngoài ra đây còn là căn cứ để xem xét tính hiệu lực của một

số giao dịch do ngƣời đại diện xác lập, thực hiện.

Khác với thẩm quyền đại diện theo ủy quyền. Việc xác lập, thực hiện một

giao dịch dân sự theo ủy quyền đƣợc giới hạn trong phạm vi mà bên đƣợc đại

diện ủy quyền cho bên đại diện. Quyền và nghĩa vụ của ngƣời đại diện đƣợc xác

định rõ ràng theo nội dung ủy quyền. Còn thẩm quyền đại diện của ngƣời đại

diện theo pháp luật là thẩm quyền rộng. Ngƣời đại diện theo pháp luật đƣợc xác

lập mọi giao dịch làm phát sinh quyền, nghĩa vụ cho ngƣời đƣợc đại diện. Tiêu

chí để xem xét tính hợp pháp của việc thực hiện thẩm quyền đại diện này là giao

dịch do ngƣời đại diện xác lập có xuất phát từ lợi ích của ngƣời đƣợc đại diện

không? Có ảnh hƣởng đến lợi ích của ngƣời đó không?

Nghiên cứu phạm vi đại diện của cha mẹ cho con chƣa thành niên, pháp luật

cũng cân nhắc đến việc trao quyền đại diện cho cha mẹ nhƣ thế nào để đáp ứng

đƣợc mục đích duy nhất của quan hệ đại diện đó là bảo vệ cho ngƣời chƣa thành

niên, tuy nhiên cũng không xâm phạm đến quyền tự định đoạt của chính đứa trẻ.

Việc xác định phạm vi đại diện cho ý nghĩa quan trọng trong việc xác định thẩm

quyền đại diện của cha mẹ, hiệu lực của những giao dịch dân sự do cha mẹ đại

32

diện xác lập, thực hiện và trách nhiệm pháp lý mà cha mẹ phải gánh chịu khi

thực hiện giao dịch vƣợt quá thẩm quyền.

Phạm vi đại diện của cha mẹ đƣợc xác định tƣơng ứng với các mức năng

lực hành vi dân sự của con chƣa thành niên:

- Phạm vi đại diện của cha mẹ trong trường hợp con chưa thành niên chưa

đủ 6 tuổi:

Ở lứa tuổi này, trẻ em mới chỉ đang tìm hiểu về thế giới quan thông qua các

mối quan hệ thân cận nhƣ ông bà, bố mẹ, anh chị em thƣờng xuyên gặp. Những

nhu cầu của những đứa trẻ này đều đƣợc đáp ứng thông qua ngƣời khác chẳng

hạn nhƣ ăn uống, quần áo hay đồ chơi... Pháp luật dân sự coi những trẻ em chƣa

đủ 6 tuổi thì không có năng lực hành vi dân sự. Mọi quan hệ dân sự do ngƣời đại

diện theo pháp luật của ngƣời đó xác lập, thực hiện. Nhƣ vậy, với trƣờng hợp

con chƣa đủ 6 tuổi thì thẩm quyền đại diện của cha mẹ là lớn nhất. Cha mẹ sẽ có

toàn quyền quyết định, định đoạt khi xác lập, thực hiện mọi giao dịch dân sự với

tƣ cách là đại diện cho con, bao gồm cả những giao dịch dân sự phục vụ nhu cầu

thiết yếu của chính ngƣời con chƣa đủ 6 tuổi đó.

- Phạm vi đại diện của cha mẹ trong trường hợp con từ đủ 6 tuổi đến dưới

15 tuổi:

Những ngƣời từ đủ 6 tuổi đến chƣa đủ mƣời tám tuổi, không mắc các bệnh

tâm thần hoặc các bệnh lý khác dẫn đến tình trạng không nhận thức và làm chủ

đƣợc hành vi của mình hoặc không bị Tòa án tuyên bố mất hoặc hạn chế năng

lực hành vi dân sự là những ngƣời có năng lực hành vi dân sự nhƣng chƣa đầy

đủ. Trẻ em từ đủ 6 tuổi đến dƣới 15 tuổi, khả năng thực hiện giao dịch dân sự

của họ đƣợc mở rộng hơn. Pháp luật đã bắt đầu trao cho họ quyền đƣợc tham gia

33

vào các giao dịch dân sự hàng ngày, phục vụ những nhu cầu thiết yếu phù hợp

với lứa tuổi nhƣ mua sắm đồ dùng học tập, đồ ăn, thức uống hoặc đồ chơi, …

Ngoài những giao dịch phục vụ những nhu cầu thiết yếu thì trẻ em ở độ tuổi này

cũng đƣợc tham gia vào các quan hệ dân sự khác tuy nhiên phải đƣợc sự đồng ý

của cha mẹ. Có thể thấy, nhà làm luật đã thu hẹp phạm vi đại diện của cha mẹ từ

việc cho họ trực tiếp tham gia xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự thành việc

chỉ cho phép đồng ý hay không đồng ý cho con tham gia vào giao dịch dân sự. Ở

độ tuổi này, ngƣời chƣa thành niên gây thiệt hại đƣợc xác định là không có năng

lực chịu trách nhiệm bồi thƣờng, mặc dù có thể họ đã có một phần năng lực hành

vi dân sự. Hơn nữa, họ vẫn chịu sự giám sát, quản lý của cha mẹ nên khi gây ra

thiệt hại, cha mẹ đƣợc coi là có lỗi trong việc quản lý nên cha mẹ phải chịu trách

nhiệm bồi thƣờng toàn bộ thiệt hại. Nếu cha mẹ không đủ tài sản để bồi thƣờng

toàn bộ thì lấy tài sản của con để bồi thƣờng phần còn thiếu. Việc xác định bồi

thƣờng này không nhằm mục đích quy trách nhiệm cho con chƣa thành niên mà

hƣớng tới bảo vệ lợi ích chính đáng của ngƣời thứ ba ngay tình. Chính vì vậy, dù

phạm vi đại diện của cha mẹ cho con ở độ tuổi này đã đƣợc thu hẹp hơn nhƣng

trách nhiệm thì vẫn tƣơng đƣơng với trách nhiệm khi đại diện cho con chƣa đủ 6

tuổi.

- Phạm vi đại diện của cha mẹ trong trường hợp con từ đủ 15 tuổi đến dưới

18 tuổi:

Ở độ tuổi gần nhƣ phát triển toàn diện về thể chất lẫn tâm sinh lý này, con

chƣa thành niên đƣợc pháp luật trao cho quyền tự chủ rất lớn trong việc xác lập

và thực hiện các giao dịch dân sự đối với tài sản của mình mà không cần sự đồng

ý của cha mẹ. Với độ tuổi từ 15 tuổi đến dƣới 18 tuổi, con chƣa thành niên đã có

thể tham gia vào quan hệ lao động, có thể tạo ra thu nhập riêng đủ để thực hiện

34

nghĩa vụ thì có thể tự tham gia vào các giao dịch dân sự. Lúc này, phạm vi đại

diện của cha mẹ đƣợc thu hẹp một cách tối đa, không trực tiếp quyết định và

định đoạt nữa mà mang tính giám sát cho con chƣa thành niên. Việc quy định

phạm vi đại diện nhƣ vậy có ý nghĩa rất quan trọng trong việc thực hiện nguyên

tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của cá nhân, đây là một trong những nguyên tắc

cơ bản của ngành luật dân sự. Tuy nhiên, để cân bằng tính tự quyết và việc bảo

vệ chủ thể thì pháp luật vẫn cho phép cha mẹ có một phần quyền đại diện cho

con chƣa thành niên ở độ tuổi này bằng việc đồng ý hoặc không đồng ý cho con

thực hiện giao dịch nếu đối tƣợng của giao dịch là bất động sản hoặc động sản

phải đăng ký và một số giao dịch khác quy định phải đƣợc ngƣời đại diện đồng

ý. Trong trƣờng hợp ngƣời chƣa thành niên từ đủ 15 tuổi đến chƣa đủ 18 tuổi

gây thiệt hại mà có tài sản thì phải bồi thƣờng bằng tài sản của chính mình. Vì

ngƣời chƣa thành niên gây thiệt hại ở độ tuổi này đƣợc xác định là đã có một

phần năng lực chịu trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại, hơn nữa họ cũng có thể có

thu nhập riêng từ lao động. Nếu tài sản của ngƣời chƣa thành niên không đủ để

thực hiện nghĩa vụ thì cha mẹ phải lấy tài sản của mình ra để bồi thƣờng phần

còn thiếu. Điều này cũng không có nghĩa rằng, cha mẹ phải chịu trách nhiệm bồi

thƣờng thay cho con, mà quy định này nhằm hƣớng tới việc bảo vệ quyền lợi của

ngƣời bị thiệt hại, đồng thời bảo đảm nguyên tắc bồi thƣờng kịp thời đã đƣợc quy định tại khoản 1 Điều 586 BLDS 2015.17

Nếu nhƣ cha mẹ đƣợc đại diện cho con chƣa thành niên trong mọi giao dịch

dân sự vì lợi ích của con thì phạm vi đại diện của ngƣời giám hộ cho ngƣời đƣợc

17 Nguyễn Văn Cừ -Trần Thị Huệ (đồng chủ biên), Bình luận khoa học BLDS 2015, NXB Công an nhân dân, năm 2017, tr.882.

giám hộ chƣa đủ 18 tuổi lại đƣợc quy định cụ thể tại Điều 55 và Điều 56 BLDS

35

2015. Bản chất của việc giám hộ cho ngƣời chƣa thành niên chính là chăm sóc

và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của chính những ngƣời chƣa thành niên đó.

Ngƣời giám hộ có nghĩa vụ quản lý tài sản, đại diện cho ngƣời đƣợc giám hộ

trong các giao dịch dân sự tùy thuộc vào độ tuổi pháp luật quy định ngƣời chƣa

thành niên phải tự mình thực hiện. Bản chất của đại diện là nhân danh và vì lợi

ích của cá nhân hoặc pháp nhân khác xác lập, thực hiện giao dịch dân sự. Mặc dù

đại diện của cha mẹ cho con chƣa thành niên là một loại đại diện theo pháp luật,

theo đó cha mẹ thay mặt con thực hiện các giao dịch dân sự vì lợi ích của con

nhƣng phạm vi đại diện của cha mẹ cũng tƣơng đối giống phạm vi đại diện của

ngƣời giám hộ. Cha mẹ cũng có nghĩa vụ chăm sóc, giáo dục con chƣa thành

niên đƣợc quy định tại Luật hôn nhân và gia đình. Tuy nhiên trách nhiệm bồi

thƣờng thiệt hại của cha mẹ với ngƣời giám hộ cho ngƣời chƣa thành niên lại

khác nhau. Yếu tố lỗi không đƣợc đặt ra cho bố mẹ việc quản lý con chƣa thành

niên. Tức là dù cha mẹ có lỗi, hay không có lỗi dẫn đến việc con gây thiệt hại

cho ngƣời thứ ba thì cha mẹ vẫn phải dùng tài sản của mình để bồi thƣờng cho

thiệt hại đó tùy theo năng lực chịu trách nhiệm của con. Còn đối với giám hộ,

nếu ngƣời giám hộ chứng minh đƣợc mình không có lỗi trong trƣờng hợp giám

hộ thì không phải lấy tài sản của mình ra để bồi thƣờng.

1.3.5. Hậu quả pháp lý trong trƣờng hợp cha mẹ không có thẩm

quyền đại diện hoặc vƣợt quá phạm vi thẩm quyền đại diện

Nhƣ chúng ta đã biết, cha mẹ là chủ thể đầu tiên có quyền và nghĩa vụ đại

diện cho con chƣa thành niên. Tuy nhiên không phải trong mọi trƣờng hợp pháp

luật đều quy định cha mẹ cũng có quyền đại diện cho con. Một trong những

trƣờng hợp mà cha mẹ không đƣợc đại diện cho con chƣa thành niên thực hiện

giao dịch đó là khi cha mẹ không có thẩm quyền đại diện hoặc vƣợt quá phạm vi

36

đại diện. Theo quy định tại khoản 1 Điều 73 Luật hôn nhân và gia đình năm

2014 khẳng định "Cha mẹ là ngƣời đại diện theo pháp luật của con chƣa thành

niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự, trừ trƣờng hợp con có

ngƣời khác làm giám hộ hoặc có ngƣời khác đại diện theo pháp luật". Từ quy

định trên, ta thấy rằng không phải lúc nào cha mẹ cũng sẽ là ngƣời đại diện cho

con chƣa thành niên mà cũng có thể cha mẹ không có thẩm quyền đại diện cho

con chƣa thành niên khi cha mẹ thuộc vào trƣờng hợp con đã có ngƣời khác làm

giám hộ hoặc có ngƣời khác làm đại diện. Vậy pháp luật quy định cụ thể nhƣ thế

nào về các trƣờng hợp nói trên. Chẳng hạn nhƣ, trƣờng hợp cha mẹ bị Toà án

tuyên bố hạn chế quyền đối với con hoặc những giao dịch mà pháp luật quy định

con chƣa thành niên phải tự mình xác lập đƣợc quy định tại Điều 85 của Luật

hôn nhân và gia đình năm 2014 hay nhƣ theo quy định tại khoản 4 Điều 24 Luật

nuôi con nuôi năm 2010 quy định hệ quả của việc nuôi con nuôi nhƣ sau: "Trừ

trƣờng hợp giữa cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi có thỏa thuận khác, kể từ ngày giao

nhận con nuôi, cha mẹ đẻ không còn quyền, nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dƣỡng, cấp

dƣỡng, đại diện theo pháp luật, bồi thƣờng thiệt hại, quản lý, định đoạt tài sản

riêng đối với con đã cho làm con nuôi". Trong những trƣờng hợp này, cha mẹ

không có thẩm quyền đại diện cho con thực hiện các giao dịch. Nếu cha mẹ vẫn

thực hiện quyền đại diện cho con tham gia vào các giao dịch dân sự thì giao dịch

dân sự do ngƣời đại diện xác lập, thực hiện sẽ không làm phát sinh quyền và

nghĩa vụ đối với ngƣời đƣợc đại diện trong phạm vi đại diện trừ trƣờng hợp

ngƣời đƣợc đại diện biết hoặc phải biết về việc này mà không phản đối đƣợc quy

định tại khoản 3 Điều 139 BLDS 2015. Hậu quả của giao dịch dân sự do ngƣời

không có thẩm quyền đại diện xác lập, thực hiện hoặc vƣợt quá phạm vi đại diện

đƣợc quy định tại các Điều 142, Điều 143 BLDS 2015.

37

Giao dịch dân sự do ngƣời đại diện không có thẩm quyền đại diện xác lập,

thực hiện hay giao dịch dân sự do ngƣời đại diện vƣợt quá phạm vi đại diện

không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của ngƣời đƣợc đại diện với những giao

dịch đã xác lập hay phần giao dịch đƣợc thực hiện vƣợt quá phạm vi đại diện, trừ

trƣờng hợp ngƣời đại diện hoặc ngƣời đƣợc đại diện đồng ý. Ngƣời đã giao dịch

với ngƣời không có quyền đại diện, vƣợt quá phạm vi đại diện phải thông báo

cho ngƣời đƣợc đại diện hoặc ngƣời đại diện của ngƣời đó để trả lời trong thời

gian ấn định. Nếu hết thời hạn này mà không trả lời thì giao dịch đó không làm

phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với ngƣời đƣợc đại diện. Hậu quả pháp lý đối với

giao dịch dân sự do cha mẹ đại diện cho con chƣa thành niên xác lập và thực

hiện khi không có thẩm quyền hay vƣợt quá phạm vi đại diện cũng tùy thuộc vào

mức năng lực hành vi dân sự của con chƣa thành niên. Với con chƣa thành niên

chƣa đủ 6 tuổi thì toàn bộ giao dịch dân sự do cha mẹ là ngƣời toàn quyền quyết

định. Do vậy, trƣờng hợp hợp thức hóa giao dịch là con chƣa thành niên công

nhận giao dịch, con chƣa thành niên biết mà không phản đối trong thời gian hợp

lý hoặc có lỗi dẫn đến việc ngƣời giao dịch không biết hoặc không thể biết về

việc cha mẹ không có thẩm quyền đại diện không đƣợc đặt ra.

Về nguyên tắc, hậu quả pháp lý do cha mẹ không có thẩm quyền đại diện,

cha mẹ vƣợt quá phạm vi đại diện xác lập, thực hiện không ràng buộc trách

nhiệm cho con chƣa thành niên. Tuy nhiên để đảm bảo tính an toàn của giao dịch

hay bảo vệ niềm tin của ngƣời thứ ba ngay tình thì pháp luật cho phép ngƣời thứ

ba ngay tình yêu cầu con chƣa thành niên là ngƣời đƣợc đại diện phải tiếp nhận

hậu quả pháp lý từ hành vi của cha mẹ không có thẩm quyền đại diện, vƣợt quá

phạm vi đại diện thực hiện khi ngƣời thứ ba ngay tình có căn cứ tin rằng ngƣời

đã xác lập giao dịch với mình có thẩm quyền đại diện. Khoa học pháp lý gọi

38

trƣờng hợp này là đại diện bề ngoài. Đại diện bề ngoài là quy định khi pháp luật

cân nhắc lợi ích của ngƣời đƣợc đại diện (nguyên tắc tôn trọng tính tự định đoạt

cá nhận) và lợi ích của ngƣời thứ ba (niềm tin của ngƣời thứ ba ngay tình vào

giao dịch mà họ cho đó là thật). Điều kiện để hình thành đại diện bề ngoài phải

luôn tồn tại hai yếu tố cơ bản đó là lý do quy trách nhiệm đối với ngƣời đƣợc đại diện và điều kiện chủ quan của ngƣời thứ ba18. Đối với yếu tố tồn tại lý do quy

trách nhiệm đƣợc xác định dựa trên yếu tố lỗi. Lỗi có thể là của ngƣời đƣợc đại

diện khi tạo ra bề ngoài khác sự thật khiến cho ngƣời thứ ba tin lầm (không biết

hoặc không thể biết). Đối với ngƣời thứ ba yếu tố lỗi đặt ra khi họ biết hoặc phải

biết về việc không có quyền đại diện mà vẫn tiến hành giao dịch. Lúc này buộc

ngƣời thứ ba phải tiếp nhận hậu quả pháp lý từ giao dịch do họ xác lập, thực

hiện. Trong trƣờng hợp này, nếu ngƣời đã giao dịch biết hoặc phải biết về việc

cha mẹ không có quyền đại diện, vƣợt quá thẩm quyền đại diện mà vẫn xác lập

giao dịch thì giao dịch đó vẫn có hiệu lực. Còn nếu ngƣời đã giao dịch không

biết hoặc không thể biết về cha mẹ việc không có thẩm quyền đại diện, vƣợt quá

thẩm quyền đại diện thì: Ngƣời đã giao dịch có quyền yêu cầu cha mẹ của con

chƣa thành niên thực hiện nghĩa vụ đối với mình. Cha mẹ vẫn phải chịu trách

nhiệm đối với giao dịch mà mình đã xác lập. Hoặc ngƣời đã giao dịch có quyền

đơn phƣơng chấm dứt thực hiện hoặc hủy bỏ giao dịch đã xác lập và yêu cầu cha

mẹ không có thẩm quyền đại diện, vƣợt quá phạm vi đại diện bồi thƣờng thiệt

18 Nguyễn Thị Phƣơng Châm, bài viết “Đại diện bề ngoài nhìn từ góc độ pháp luật dân sự Nhật Bản”, Tạp chí luật học số 6/2016.

hại cho mình.

39

Trƣờng hợp cha mẹ không có thẩm quyền đại diện, vƣợt quá phạm vi đại

diện và ngƣời đã giao dịch cố ý xác lập, thực hiện giao dịch mà gây thiệt hại cho

con chƣa thành niên thì phải liên đới chịu trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại.

Tiểu kết Chƣơng 1

Giao dịch dân sự là phƣơng thức hữu hiệu để giúp con chƣa thành niên thực

hiện đƣợc những nhu cầu về dịch chuyển tài sản, cung ứng dịch vụ hay những

nhu cầu thiết yếu hàng ngày. Cũng giống nhƣ các giao dịch dân sự nói chung thì

giao dịch dân sự của con chƣa thành niên vẫn phải đáp ứng những điều kiệu cơ

bản về chủ thể, nội dung, hình thức và ý chí chủ thể. Là một chủ thể trong giao

lƣu dân sự tuy nhiên do chƣa pháp triển đầy đủ về nhận thức, thể chất, tâm sinh

lý nên tùy vào từng độ tuổi pháp luật quy định con chƣa thành niên có thể tham

giao vào từng loại giao dịch khác nhau với những đối tƣợng tài sản khác nhau.

Chính vì vậy cha mẹ - đấng sinh thành là ngƣời trƣớc hết có quyền đại diện cho

con chƣa thành niên với mục đích bảo đảm quyền và lợi ích tối đa cho con. Cũng

tùy thuộc vào từng độ tuổi nhất định của con để xác định phạm vi đại diện của

cha mẹ khi đại diện cho con trong giao lƣu dân sự từ đó giải quyết đƣợc hậu quả

pháp lý của những giao dịch do cha mẹ là ngƣời đại diện xác lập.

40

CHƢƠNG II PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ ĐẠI DIỆN CỦA CHA MẸ CHO CON CHƢA THÀNH NIÊN TRONG GIAO DỊCH DÂN SỰ VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN

Trong giao lƣu dân sự, theo nguyên tắc thì ngƣời thành niên có thể tự mình

xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự và tự mình thực hiện các nghĩa vụ của

mình. Còn trong một số trƣờng hợp, khi chủ thể là ngƣời chƣa thành niên không

thể tự mình tham gia vào các quan hệ pháp luật dân sự do có những hạn chế về

mặt pháp lý, đòi hỏi việc xác lập và thực hiện giao dịch dân sự thông qua hành vi

của ngƣời khác – ngƣời đại diện theo pháp luật. Một trong số những trƣờng hợp

đó là cha mẹ sẽ là ngƣời đại diện theo pháp luật cho con chƣa thành niên.

Đại diện của cha mẹ cho con chƣa thành niên đƣợc hiểu là một quan hệ

pháp luật, một mối liên hệ pháp lý. Đó là mối liên hệ giữa cha mẹ với con chƣa

thành niên. Chủ thể của quan hệ đại diện này bao gồm ngƣời đại diện (là cha mẹ)

với ngƣời đƣợc đại diện (là con chƣa thành niên). Cha mẹ là ngƣời nhân danh

con chƣa thành niên xác lập quan hệ với ngƣời thứ ba vì lợi ích của con. Con

chƣa thành niên sẽ là ngƣời tiếp nhận những hậu quả pháp lý từ quan hệ đại diện

do cha mẹ xác lập, thực hiện trong phạm vi, thẩm quyền đại diện.

Cha, mẹ là từ đƣợc dùng rất nhiều trong đời sống và đƣợc nhắc đến trong

các văn bản luật khác nhau nhƣ: BLDS 2015, Luật trẻ em năm 2016, Luật hôn

nhân gia đình 2014, ... Tuy nhiên, chƣa có văn bản nào đƣa ra một định nghĩa

mang tính quy phạm cho khái niệm “cha, mẹ”, nhƣng lại đƣa ra cách thức nhận

diện quan hệ cha mẹ, con nhƣ:

Khoản 2 và 3 Điều 68 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014:

41

“2. Con sinh ra không phụ thuộc vào tình trạng hôn nhân của cha mẹ đều

có quyền và nghĩa vụ như nhau đối với cha mẹ của mình được quy định tại Luật

này, Bộ luật dâm sự và các luật khác có liên quan.

3. Giữa con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi có các quyền và nghĩa vụ của cha

mẹ và con được quy định tại Luật này, Luật nuôi con nuôi, Bộ luật dâm sự và

các luật khác có liên quan”.

Điều 88 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, quy định về việc xác định

cha, mẹ:

“1. Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời

kỳ hôn nhân là con chung của vợ chồng.

Con được sinh ra trong thời hạn 300 ngày kể từ thời điểm chấm dứt hôn

nh n được coi là con do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân.

Con sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn và được cha mẹ thừa nhận là con

chung của vợ chồng.

2. Trong trường hợp cha, mẹ không thừa nhận con thì phải có chứng cứ và

phải được Tòa án xác định”.

Nhƣ vậy cha mẹ đƣợc nhận diện thông qua quan hệ huyết thống, quan hệ

nuôi dƣỡng và đƣợc thể hiện thông quan các giấy tờ chứng minh quan hệ bao

gồm giấy khai sinh của con và giấy tờ nhận nuôi con nuôi.

Việc đại diện của cha mẹ cho con chƣa thành niên đƣợc đƣơng nhiên xác

lập khi con đƣợc sinh ra hoặc hoàn tất việc nhận nuôi con nuôi và chấm dứt khi

con đã thành niên hoặc cha mẹ ngƣời chƣa thành niên chết hoặc chấm dứt việc

nuôi con nuôi. Pháp luật cũng quy định cụ thể về phạm vi đại diện của cha mẹ

đối với con chƣa thành niên.

42

Việc quy định địa vị pháp lý của cha mẹ với tƣ cách là ngƣời đại diện có ý

nghĩa quan trọng và đƣợc áp dụng rộng rãi nhằm bảo đảm cho ngƣời chƣa thành

niên đƣợc thỏa mãn những nhu cầu đa dạng và phong phú của mình trong cuộc

sống, tạo khả năng để các chủ thể thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình.

2.1. Pháp luật về đại diện của cha mẹ cho con chƣa thành niên

2.1.1 Hình thức đại diện của cha mẹ cho con chƣa thành niên

Căn cứ vào quy định của pháp luật thì đại diện của cha mẹ cho con chƣa

thành niên thuộc loại đại diện theo pháp luật (hay còn gọi là đại diện đƣơng

nhiên). Xuất pháp từ việc khẳng định khả năng nhận thức và làm chủ hành vi của

ngƣời chƣa thành niên: chƣa có khả năng nhận thức và làm chủ hành vi (ngƣời

dƣới 6 tuổi) hoặc có khả năng nhận thức và làm chủ hành vi nhƣng mức độ của

sự nhận thức, làm chủ hành vi còn hạn chế (ngƣời từ đủ 6 tuổi đến dƣới 18 tuổi)

nên ngƣời chƣa thành niên cần có ngƣời đại diện. Pháp luật quy định chủ thể đầu

tiên có quyền đại diện là cha mẹ. Tuy nhiên pháp luật cũng dự trù những trƣờng

hợp mà cha mẹ không thể đại diện cho con xác lập và thực hiện giao dịch dân sự:

Một là, cha mẹ bị hạn chế quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 85 Luật

hôn nhân và gia đình:

- Cha mẹ bị hạn chế quyền đối với con chƣa thành niên khi có hành vi vi

phạm nghiêm trong nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dƣỡng, giáo

dục con. Quy định này phụ thuộc vào mức độ nghiêm trọng của hành vi

vi phạm để xác định việc hạn chế của cha mẹ với con chƣa thành niên.

Tuy nhiên hiện này chƣa có văn bản quy phạm nào đƣa ra một giới hạn

chính xác cho việc vi phạm đến mức nào đƣợc coi là nghiêm trọng.

- Cha mẹ bị hạn chế quyền đối với con chƣa thành niên khi có hành vi

phá tán tài sản của con. Đây là quy định xác định cụ thể cha mẹ sẽ

43

không đƣợc đại diện cho con tham gia vào các giao dịch dân sự vì lợi

ích của con.

- Cha, mẹ bị hạn chế quyền đối với con chƣa thành niên khi cha, mẹ có

lối sống đồi trụy. Việc có lối sống không lành mạnh của cha mẹ sẽ tạo

ra một môi trƣờng sống không lành mạnh do vậy sẽ ảnh hƣởng xấu tới

sự pháp triển bình thƣờng của con, nhất là về đạo đức, tinh thần.

- Cha, mẹ bị hạn chế quyền đối với con chƣa thành niên khi cha mẹ xúi

giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội.

Hai là, cha mẹ không đủ điều kiện để đại diện, chăm sóc, giáo dục cho con:

cha, mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự; hoặc có khó khăn trong nhận thức, làm

chủ hành vi; hoặc đều không có điều kiện chăm sóc, giáo dục con và có yêu cầu ngƣời giám hộ19.

Ba là, do tính chất của quan hệ dân sự, đồng thời để bảo vệ lợi ích của

ngƣời chƣa thành niên, pháp luật không cho phép bất kỳ một chủ thể nào có thể

thay mặt ngƣời chƣa thành niên tham gia giao dịch dân sự mà bắt buộc chính họ

phải tự thực hiện. Chẳng hạn, ngƣời lập lập di chúc định đoạt tài sản của mình

cho ngƣời khác sau khi chết chỉ có thể là ngƣời có tài sản đã thành niên hoặc là

ngƣời từ đủ mƣời lăm tuổi đến chƣa đủ mƣời tám tuổi (đƣợc sự đồng ý của cha

mẹ). Điều cần chú ý trong trƣờng hợp này đó là cha mẹ đồng ý về việc có cho

con lập di chúc hay không chứ hoàn toàn không có quyền tham gia vào nội dung

cũng nhƣ ý nguyện của con trong di chúc.

Tại Điều 136 BLDS 2015 quy định cha, mẹ là ngƣời đại diện của con chƣa

19 Điều 47 BLDS năm 2015

thành niên. Đây chính là quan hệ đại diện “đƣơng nhiên” đƣợc xác định theo quy

44

định của pháp luật. Nhƣ vậy, quan hệ đại diện của cha mẹ với con chƣa thành

niên đƣợc xác định:

- Con chƣa thành niên là con dƣới 18 tuổi;

- Cha, mẹ của con chƣa thành niên có thể là cha, mẹ đẻ hoặc cha, mẹ

nuôi.

Con chƣa thành niên có thể là con trong giá thú, con ngoài giá thú, con đẻ

hay con nuôi, con trai hay con gái và ngƣời con đó dƣới 18 tuổi thì ngƣời đại

diện của họ sẽ là cha, mẹ.

Quan hệ đại diện của cha, mẹ đối với con chƣa thành niên theo quy định của

pháp luật không cần phải tuân theo bất cứ một thủ tục pháp lý về mặt hình thức

nào giống nhƣ quan hệ đại diện của ngƣời giám hộ với ngƣời chƣa thành niên

mà chỉ cần xác định đƣợc cha, mẹ của con chƣa thành niên là ai. Tuy nhiên, trên

thực tế còn có những trƣờng hợp ngƣời chƣa thành niên làm con nuôi của ngƣời

khác nhƣng vẫn còn cha đẻ, mẹ đẻ, trong trƣờng hợp này ai sẽ là ngƣời đại diện

đƣơng nhiên cho con chƣa thành niên? Cha, mẹ đẻ hay cha, mẹ nuôi? Về mặt

pháp lý, một ngƣời khi đang là con nuôi của ngƣời khác thì quan hệ giữa ngƣời

con này với cha mẹ đẻ của họ cũng không mặc nhiên chấm dứt hoàn toàn vì trên

thực tế dù cha mẹ đẻ có không nuôi dƣỡng ngƣời con đó ngày nào cũng không

thể phủ nhận huyết thống. Tuy nhiên, khi ngƣời chƣa thành niên làm con nuôi

ngƣời khác thì họ không chung sống cùng cha mẹ đẻ mà chung sống cùng cha

mẹ nuôi, do đó kể từ ngày giao nhận con nuôi, cha mẹ đẻ không còn quyền,

nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dƣỡng, cấp dƣỡng, đại diện theo pháp luật, bồi thƣờng

20 Khoản 4 Điều 24 Luật nuôi con nuôi 2010.

thiệt hại, quản lý, định đoạt tài sản riêng đối với con đã cho làm con nuôi, trừ trƣờng hợp giữa cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi có thỏa thuận khác20. Việc xác định

45

này có ý nghĩa rất lớn liên quan đến việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của ngƣời

đại diện vì lợi ích của ngƣời chƣa thành niên.

2.1.2 Thực hiện quyền đại diện của cha mẹ đối với con chƣa thành

niên

Việc đại diện theo pháp luật của cha, mẹ đối với con chƣa thành niên đƣợc

chi phối chủ yếu bởi các quy định trong BLDS 2015 và trong Luật hôn nhân và

gia đình 2014. Nói chung, sự đại diện của cha, mẹ đối với con chƣa thành niên

cũng giống nhƣ sự đại diện của ngƣời giám hộ đối với ngƣời đƣợc giám hộ: việc

đại diện mang tính chất toàn phần hay từng phần tuỳ theo độ tuổi của con. Trong

những điều kiện bình thƣờng thì cha mẹ là ngƣời đại diện cho con. Chỉ khi nào

cha, mẹ không thể hoặc không đƣợc phép đảm nhận vai trò của ngƣời đại diện vì

lý do gì đó thì ngƣời đại diện cho con chƣa thành niên mới là một ngƣời khác.

Trong trƣờng hợp cả cha, mẹ đều không đại diện đƣợc cho con thì con sẽ đƣợc đặt dƣới chế độ giám hộ chứ không có một chế độ đại diện nào khác21.

Cha mẹ cùng nhau thực hiện quyền đại diện đối với con và đều có sự ngang

bằng nhau trong việc đƣa ra quyết định. Theo quy định tại khoản 3 Điều 73 Luật

hôn nhân và gia đình 2014 thì cha mẹ phải có sự đồng thuận khi định đoạt tài sản

quan trọng của con nhƣ: bất động sản, động sản có đăng ký quyền sở hữu, quyền

sử dụng, tài sản đƣa vào kinh doanh của con chƣa thành niên. Có thể suy luận

rằng với những tài sản khác thì cha hoặc mẹ có thể đại diện xác lập giao dịch mà

không cần sự đồng thuận của ngƣời còn lại. Tuy nhiên, cha mẹ vẫn phải liên đới

cùng nhau trong việc thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản của con chƣa

21 Khoản 2 Điều 87 luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

thành niên.

46

Trên thực tế, Luật chƣa dự liệu vai trò của Toà án trong trƣờng hợp cha và

mẹ không thống nhất ý kiến. Và nếu nhƣ vậy, cha mẹ không thống nhất ý kiến,

thì hoặc cha hoặc mẹ đại diện cho con trong các giao dịch thông thƣờng; còn các

giao dịch quan trọng sẽ rơi vào chỗ bế tắc. Thêm nữa, Luật cũng không nói rõ

liệu trong trƣờng hợp cha hoặc mẹ vì lý do gì đó mà không có khả năng thực

hiện quyền đại diện (chẳng hạn nhƣ: chết, mất tích, mất năng lực hành vi….) thì

ngƣời còn lại có toàn quyền đối với con hay không. Tuy nhiên, theo Luật hôn

nhân và gia đình thìtrong trƣờng hợp cha hoặc mẹ bị Tòa án hạn chế quyền đối

với con chƣa thành niên thì ngƣời kia thực hiện quyền trông nom, nuôi dƣỡng,

chăm sóc, giáo dục con, quản lý tài sản riêng của con và đại diện theo pháp luật cho con22. Điều này cho thấy pháp luật có xu hƣớng dành trọn quyền đại diện

cho cha hoặc mẹ trong trƣờng hợp ngƣời còn lại không thể thực hiện quyền đại

diện cho con mình.

Bên cạnh đó, luật không ghi nhận vai trò giám sát của UBND địa phƣơng

đối với việc thực hiện quyền của cha, mẹ đại diện cho con chƣa thành niên, nhƣ

trong trƣờng hợp giám hộ ngƣời chƣa thành niên. Con chƣa thành niên từ đủ 15

tuổi trở lên chỉ có thể lập di chúc với sự đồng ý của cha, mẹ (khoản 2Ðiều 625

BLDS 2015). Nhƣng con chƣa thành niên đủ 15 tuổi có quyền tự mình quản lý

tài sản riêng hoặc nhờ cha mẹ quản lý (theo quy định của Luật hôn nhân và gia

đình). Nói chung, khi con chƣa thành niên đủ 15 tuổi, thì vai trò đại diện của cha

mẹ, cũng nhƣ vai trò của ngƣời giám hộ, mất dần tính chất bảo hộ và mang nhiều

hơn tính chất hỗ trợ, hƣớng dẫn.

2.1.3 Quyền và nghĩa vụ của cha mẹ với vai trò đại diện cho con

22khoản 1 Điều 87 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014

trong giao dịch dân sự

47

Từ thời xã hội vẫn còn chịu ảnh hƣởng nặng nề của tƣ tƣởng phong kiến

nhƣng vẫn có những quy định hƣớng tới việc bảo vệ quyền lợi của trẻ em trong

một số trƣờng hợp cụ thể nhƣ trong Quốc triều hình luật. Khi chồng chết, con

còn nhỏ, mẹ đi cải giá, mà lại đem bán điền sản của con, thì xử phạt 50 roi, trả

lại ngƣời mua, trả lại ruộng cho con. Nếu có lý do đã trình bày với họ hàng bằng

lòng cho bán, cũng phải trình quan để xem xét cần tiên hết bao nhiêu, thì chỉ cho

bán bấy nhiêu thôi. Nếu ngƣời chồng sau mạo tên con ngƣời chồng trƣớc mà

bán, thì ngƣời chồng sau, ngƣời viết thay văn tự và ngƣời chứng kiến đều xử

phạt 60 trƣợng, biếm hai tƣ. Ngƣời biết sự việc mà cứ mua thì xử phạt 80 trƣợng

và mất số tiền mua, ruộng phải trả cho con. Vợ sau mà bán điền sản của con vợ trƣớc thì cũng xử tội nhƣ thế23, hoặc là: Ông bà, cha mẹ chết cả, mà ngƣời

trƣởng họ bán điền sản của cháu không có lý do chính đáng thì bị xử phạt 60

trƣợng, biếm hai tƣ, trả lại tiền cho ngƣời mua và lại phải trả thêm một lần tiền

mua nữa để chia cho ngƣời mua và con cháu mỗi bên một nửa; điền sản thì phải

trả cho con cháu. Ngƣời biết mà cứ mua thì mất tiền mua; nếu có nợ cũ, thì cho ngƣời trƣởng họ đứng ra bảo đảm để bán mà trả nợ24. Con còn nhỏ chẳng may

mồ côi cha thì mẹ, hay họ hàng không đƣợc có những hành vi xâm phạm quyền

lợi của con. Quy định bảo vệ điền sản cho con nhỏ là một biện pháp nhằm giới hạn tối đa sự xâm phạm quyền lợi của trẻ em trong Quốc Triều hình luật25.

Hiện nay, các quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ trong việc đại diện theo luật

cho con chƣa thành niên đƣợc quy định trong các văn bản luật chủ yếu là các

quyền và nghĩa vụ về tài sản. Lúc này, tuỳ thuộc vào độ trƣởng thành trong nhận

thức của con chƣa thành niên mà xác định quyền và nghĩa vụ của cha mẹ. 23 Điều 377 Quốc triều hình luật, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật tái bản năm 2017 24 Điều 379 Quốc triều hình luật, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật tái bản năm 2017 25 Lƣơng Văn Tuấn, Các giá trị nhân văn, tiến bộ của Quốc triều hình luật, NXB Chính trị Quốc gia sự thật, năm 2016.

48

Đối với con chƣa đủ 6 tuổi cha mẹ có quyền gần nhƣ tuyệt đối, con hoàn

toàn không có năng lực hành vi dân sự theo pháp luật thừa nhận và mọi giao dịch

của con đều do cha mẹ thực hiện. hông có quy định nào cho thấy cha mẹ có

quyền tự đề ra và xác lập giao dịch thay cho con trong mọi trƣờng hợp hay

không. Nhƣng có một điều chắc chắn rằng yếu tố lợi ích của con phải đƣợc đặt

lên hàng đầu trong những tiêu chí đánh giá việc làm của cha mẹ có liên quan đến

con, nhất là trong trƣờng hợp định đoạt tài sản. Theo Luật hôn nhân và gia đình,

trong trƣờng hợp cha mẹ quản lý tài sản riêng của con, thì có quyền định đoạt tài

sản đó vì lợi ích của con, có tính đến nguyện vọng của con, nếu con từ đủ 9 tuổi

trở lên.

Đối với quan hệ đại diện giữa cha, mẹ với con chƣa thành niên thì phạm vi

quyền và nghĩa vụ của cha mẹ tƣơng đối rộng. Cha mẹ có thể xác lập các quyền

vì lợi ích của con chƣa thành niên, cho phép con chƣa thành niên từ đủ 6 tuổi đến

dƣới 18 tuổi đƣợc tham gia một số giao dịch nhất định.... Ngoài ra nếu con chƣa

thành niên gây thiệt hại cho ngƣời khác thì cha mẹ phải chịu trách nhiệm tài sản

về hành vi gây thiệt hại này (Điều 586 BLDS 2015).

Đối với cha, mẹ là đại diện của con chƣa thành niên, khi con chƣa thành

niên gây thiệt hại mà không có tài sản thì cha mẹ phải bồi thƣờng thiệt hại bằng

tài sản của mình, bất luận cha mẹ có lỗi hay không có lỗi với việc con chƣa

thành niên gây thiệt hại. Nhƣ vậy, pháp luật không quy định là cha mẹ sẽ đƣợc

miễn trách nhiệm bồi thƣờng trong trƣờng hợp con chƣa thành niên gây ra, dù

cha mẹ chứng minh đƣợc mình không có lỗi. Trách nhiệm của cha, mẹ trong

trƣờng hợp này, các nhà làm luật đã suy đoán lỗi của cha, mẹ trong cả quá trình

dạy dỗ con chứ không chỉ trong trƣờng hợp con gây thiệt hại.

49

Theo quy định của pháp luật, có thể thấy rằng nhƣ ngƣời giám hộ không có

quyền tặng cho tài sản của ngƣời đƣợc giám hộ thì cha, mẹ cũng không có quyền

tặng cho tài sản của con chƣa thành niên. Thế nhƣng, cha, mẹ có quyền bán, cầm

cố tài sản của con mà không cần xin phép UBND địa phƣơng nơi cƣ trú nhƣ

ngƣời giám hộ bán, cầm cố tài sản của ngƣời đƣợc giám hộ. Có thể mở rộng giải

pháp này cho tất cả các trƣờng hợp định đoạt có đền bù (có hoặc không có điều

kiện) đối với tài sản của con chƣa thành niên, nhƣ trao đổi, thế chấp bất động

sản, ... cũng nhƣ các trƣờng hợp các giao dịch quan trọng có tính chất quản trị tài

sản, nhƣ cho thuê, cho vay, ... tài sản.

Trong trƣờng hợp con chƣa thành niên đủ 15 tuổi tự mình quản lý tài sản,

thì có quyền tự mình định đoạt tài sản. Lúc này vai trò đại diện của cha mẹ chƣa

chấm dứt nhƣng chỉ dừng lại ở mức độ giám sát. Tuy nhiên, trƣờng hợp tài sản là

bất động sản, động sản có đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng hoặc dùng tài

sản để kinh doanh thì phải có sự đồng ý bằng văn bản của cha mẹ (khoản 2 Điều

77 Luật hôn nhân và gia đình 2014).

2.2. Nguyên tắc thực hiện quyền đại diện

2.2.1. Cha mẹ chỉ xác lập và thực hiện giao dịch trong phạm vi đại diện

Theo nguyên tắc cha mẹ đểu có quyền đối với con cái nên việc đại diện cho

con chƣa thành niên sẽ đƣợc thực hiện chung và trực tiếp. Tại khoản 1 điều 71

quy định: “Cha, mẹ có nghĩa vụ và quyền ngang nhau, cùng nhau chăm sóc, nuôi

dƣỡng con chƣa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc

không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình”. Dù không có

quy định rõ ràng cha mẹ có quyền ngang nhau trong việc đại diện cho con chƣa

thành niên tham gia giao dịch dân sự nhƣng vẫn có thể khẳng định rằng trong

khung cảnh của luật thực định Việt Nam có thể suy đoán tƣơng tự là cha mẹ

50

cũng có quyền ngang nhau trong việc đại diện cho con chƣa thành niên tham gia

giao dịch dân sự và phải cùng nhau thực hiện quyền này. Ngang quyền, cha mẹ,

trên nguyên tắc, phải thống nhất ý chí trong hoạt động đại diện. Trong trƣờng

hợp ngƣợc lại, thì về mặt lý thuyết việc đại diện sẽ sa vào chỗ bế tắc.

Đối với những giao dịch pháp luật quy định cha, mẹ không thể đại diện cho

con thực hiện hay định đoạt thì cha, mẹ chỉ có thể đồng ý hoặc không đồng ý cho

con thực hiện giao dịch đó mà thôi.

Một số trƣờng hợp đặc biệt mà chỉ có một bên cha hoặc mẹ có quyền

đại diện cho con:

(1) Trƣờng hợp cha hoặc mẹ bị hạn chế quyền của cha mẹ đối với con chƣa

thành niên. Theo Luật hôn nhân và gia đình, trong trƣờng hợp một trong hai

ngƣời là cha mẹ bị Toà án hạn chế một số quyền của cha mẹ đối với con chƣa

thành niên, thì ngƣời kia thực hiện quyền trông nom, nuôi dƣỡng, chăm sóc, giáo

dục con, quản lý tài sản riêng của con và đại diện theo pháp luật cho con. Không

có văn bản nào chi phối việc thực hiện quyền cha mẹ trong trƣờng hợp này; bởi

vậy, có thể thừa nhận rằng ngƣời còn lại có toàn quyền của cha mẹ.

(2) Trƣờng hợp cha hoặc mẹ chết. Khi giải quyết vấn đề đại diện cho con

chƣa thành niên, luật không dự kiến tình huống cha hoặc mẹ chết. Tuy nhiên,

việc đại diện cho con chƣa thành niên chỉ đƣợc thực hiện theo một trong hai chế

độ: đại diện theo pháp luật của cha mẹ hoặc giám hộ. Pháp luật chủ động dự kiến

các trƣờng hợp cần đặt ngƣời chƣa thành niên dƣới chế độ giám hộ; trong các

trƣờng hợp ấy không có tình huống cha hoặc mẹ của ngƣời chƣa thành niên chết.

Dùng phƣơng pháp loại suy, ta xác định rằng khi cha hoặc mẹ chết, thì quyền đại

diện cho con thuộc về ngƣời còn lại.

51

(3) Trƣờng hợp cha mẹ ly hôn. Trong trƣờng này thì con chƣa thành niên sẽ

đƣợc giao cho một trong hai ngƣời trông nom, nuôi dƣỡng. Luật hôn nhân và gia

đình, khi giải quyết vấn đề giao con chƣa thành niên cho cha hoặc mẹ trông nom,

chăm sóc, giáo dục, nuôi dƣỡng, không đề cập đến việc đại diện cho con. Thực

tế thì ngƣời đại diện toàn quyền của con phải là ngƣời trực tiếp nuôi con; ngƣời

còn lại chỉ có quyền giám sát.

2.2.2. Thực hiện quyền đại diện trong việc định đoạt tài sản của con

phải vì lợi ích của con và có xem xét nguyện vọng của con từ đủ 9 tuổi.

Lợi ích của con chƣa thành niên luôn là yếu tố nền tảng đƣợc nhắc đến nhƣ

một điều kiện bắt buộc khi cha mẹ xác lập, thực hiện giao dịch liên quan đến tài

sản của con chƣa thành niên. Việc định đoạt tài sản riêng của con phải đảm bảo

đƣợc quyền và lợi ích hợp pháp của con đối với tài sản đó. Đây là một quy định

hoàn toàn mang tính ƣớc lệ vì luật chƣa quy định rõ nhƣ thế nào là vì lợi ích của

con chƣa thành niên hoặc có những quy định định hƣớng để có thể xác định

đƣợc điều này. Đối với những giao dịch dân sự là căn cứ để xác lập quyền sở

hữu tài sản của con nhƣ: nhận tặng cho, nhận chuyển nhƣợng, nhận thừa kế, …

thì hoàn toàn có thể xác định đƣợc việc xác lập giao dịch vì lợi ích của con.

Nhƣng khi định đoạt tài sản của con thì điều kiện này có thể khó xác định một

cách rõ ràng. Đối với việc xem xét nguyện vọng của con từ đủ 9 tuổi thì có thể

xác định dễ dàng hơn vì đã có quy định cụ thể về độ tuổi. Tuy nhiên, việc sử

dụng thuật ngữ “xem xét” làm cho nguyện vọng của con chỉ mang tính tham

26 Nguyễn Thái Hà, Công chứng hợp đồng giao dịch về tài sản của con chưa thành niên, luận vă thạc sĩ luật học, Đại học luật Hà Nội

khảo chứ cha mẹ không bắt buộc phải làm theo nguyện vọng của con từ đủ 9 tuổi.26

52

2.3. Đại diện của cha mẹ cho con chƣa thành niên trong một số trƣờng

hợp cụ thể

2.3.1. Hợp đồng mua bán tài sản

2.3.1.1. Khái niệm hợp đồng mua bán tài sản

Mua bán tài sản là hoạt động thƣờng xuyên trong đời sống của con ngƣời,

theo đó, bên bán có nghĩa vụ giao tài sản, chuyển quyền sở hữu tài sản đó cho

bên mua và nhận lại một phần lợi ích; bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên

bán, nhận tài sản và quyền sở hữu tài sản theo thỏa thuận. Hợp đồng mua bán tài

sản có bản chất chung của hợp đồng, nó là sự thỏa thuận trao đổi các vật qua

mua bán mà các chủ thể thỏa mãn đƣợc nhƣ cầu, mong muốn của mình nhằm

xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ trong quan hệ mua bán.

Tài sản theo quy định tại BLDS 2015 là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản.

Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tƣơng lai27.

Theo Điều 430 BLDS 2015 đƣa ra khái niệm “Hợp đồng mua bán tài sản là

sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên bán chuyển quyền sở hữu tài sản cho

bên mua và bên mua trả tiền cho bên bán.”

2.3.1.2. Nội dung của hợp đồng mua bán tài sản

Hợp đồng mua bán tài sản là một trong các loại hợp đồng dân sự thông

dụng, ở đó chứa đựng các đặc điểm chung của các giao dịch dân sự thông

thƣờng. Tại Điều 430 BLDS 2015 định nghĩa:

“Hợp đồng mua bán tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên bán

27 Điều 105 BLDS 2015

chuyển quyền sở hữu tài sản cho bên mua và bên mua trả tiền cho bên bán.

53

Hợp đồng mua bán nhà ở, mua bán nhà để sử dụng vào mục đích khác

được thực hiện theo quy định của Bộ luật này, Luật nhà ở và luật khác có liên

quan”.

Từ khái niệm về hợp đồng mua bán tài sản đƣợc quy định nhƣ trên thì hợp

đồng mua bán tài sản có một số đặc điểm cơ bản sau:

Về chủ thể. Chủ thể của hợp đồng mua bán tài sản có thể là tổ chức, pháp

nhân, cá nhân, hộ gia đình… (các chủ thể khác nhau của quan hệ dân sự) có năng

lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự. Theo đó, bên bán là ngƣời có tài

sản đem bán, là chủ sở hữu tài sản hoặc là ngƣời đƣợc ủy quyền bán hoặc cũng

có thể là ngƣời đại diện hợp pháp theo quy định của pháp luật, còn bên mua là

bất kỳ chủ thể nào có nhu cầu sở hữu và có tiền mua tài sản đó. Trong một số

trƣờng hợp pháp luật có quy định các điều kiện riêng khác thì phải đáp ứng nhƣ:

phải có giấy phép sử dụng khi mua tài sản là súng săn, súng thể thao, phƣơng

tiện giao thông, ...

Trong hợp đồng mua bán tài sản, nội dung chủ thể của hợp đồng đƣợc xây

dựng thông qua các thông tin về nhân thân của các chủ thể nhƣ: tên, năm sinh, số

chứng minh nhân dân hoặc hộ chiếu, nơi cấp chứng minh nhân dân hoặc hộ

chiếu, nơi đăng ký hộ khẩu thƣờng trú…

Trong trƣờng hợp tài sản đƣợc bán qua ủy quyền hoặc mua qua ủy quyền

thì ngoài việc phải ghi nhận đầy đủ thông tin của ngƣời bán, ngƣời mua còn phải

thể hiện rõ thông tin của ngƣời thực hiện công việc ủy quyền và ghi rõ ngƣời

thực hiện công việc ủy quyền cho ngƣời bán cho ngƣời mua.

Trong trƣờng hợp tài sản đƣợc bán qua tổ chức bán đấu giá thì nội dung chủ

thể trong hợp đồng thể hiện nhƣ sau: bên bán là tổ chức bán đấu giá nào, có trụ

54

sở tại đâu và do đấu giá viên nào tổ chức bán; bên có tài sản là chủ sở hữu tài sản

và bên mua.

Về hình thức. Hợp đồng mua bán tài sản có thể đƣợc lập dƣới hình thức

miệng, văn bản hoặc hành vi cụ thể. Một số hình thức thông điệp dữ liệu nhƣ:

thƣ điện tử, fax, ...cũng đƣợc xem nhƣ giao kết dƣới hình thức bằng văn bản.

Tuy nhiên, muốn giao kết dƣới hình thức này thì chủ thể phải đăng ký chữ ký

điện tử qua mạng internet. Nếu đối tƣợng mua bán là tài sản có đăng ký quyền sở

hữu thì các bên phải lập hợp đồng bằng văn bản có công chứng, chứng thực.

Về các điều khoản cơ bản của hợp đồng mua bán tài sản. Điều khoản cơ

bản của hợp đồng mua bán tài sản bao gồm điều khoản về đối tƣợng, giá cả của

tài sản mua bán và phƣơng thức thực hiện hợp đồng. Ngoài ra, các chủ thể có thể

thảo thuận các điều khoản khác là điều khoản cơ bản. Trong đó có thể có các

điều khoản về quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng, thời điểm chuyển

quyền sở hữu đối với vật mua bán, trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại, các trƣờng

hợp chấm dứt, hiệu lực của hợp đồng...

Đối với những giao dịch liên quan con chƣa thành niên do chính ngƣời

chƣa thành niên đó thực hiện hay do cha mẹ đại diện thì cũng phải tuân thủ các

điều kiện để một giao dịch dân sự có hiệu lực pháp luật, tôn trọng các nguyên tắc

thực hiện hợp đồng, các nội dung của một giao dịch, ... thì giao dịch đó mới có

giá trị thực hiện trong thực tiễn.

2.3.1.3. Đại diện của cha mẹ con chƣa thành niên trong hợp đồng mua

bán tài sản

Một cá nhân có đầy đủ năng lực chủ thể khi tham gia giao dịch dân sự đều

có thể tự mình thực hiện những quyền và nghĩa vụ cụ thể. Còn đối tƣợng là

ngƣời chƣa thành niên họ cũng có thể tham gia vào giao dịch dân sự hoặc có thể

55

tự thực hiện quyền và nghĩa vụ đối với giao dịch đó nhƣng chỉ trong giới hạn

pháp luật cho phép và phải có sự tham gia của ngƣời đại diện tuỳ theo mức độ.

Chủ thể đại diện tập trung phân tích ở đây là cha mẹ. Cha mẹ đại diện cho con

tham gia vào hợp đồng mua bán tài sản sẽ mang quyền và nghĩa vụ tƣơng đƣơng

nhƣ con chƣa thành niên. Do hợp đồng mua bán tài sản là hợp đồng song vụ,

quyền và nghĩa vụ của các bên tƣơng ứng với nhau nên việc phân tích quyền và

nghĩa vụ của một bên con chƣa thành niên sẽ suy đoán ra quyền và nghĩa vụ của

bên còn lại.

Quyền và nghĩa vụ của cha mẹ với tư cách đại diện cho con là bên mua:

- Quyền nhận bàn giao tài sản mua bán đúng chủng loại, số lƣợng đã cam

kết và trả tiền: Tài sản mua bán là đối tƣợng của giao dịch nên nó đóng vai trò

rất quan trọng trong việc thực hiện giao dịch. Một trong những mong muốn khi

giao kết hợp đồng là bên mua mong muốn nhận đƣợc đúng loại hàng và số lƣợng

nhƣ đã yêu cầu. Trên thực tế ngƣời chƣa thành niên ở độ tuổi từ đủ 15 đến chƣa

đủ 18 hoàn toàn có thể thực hiện việc này mà không cần thông qua cha mẹ. Tuy

nhiên không phải bất cứ loại tài sản nào ngƣời chƣa thành niên cũng có thể đánh

giá một cách đúng đắn về loại tài sản giao dịch. Chỉ những tài sản thông dụng

mà họ đã từng đƣợc biết đến và không quá phức tạp thì có thể tự mình thực hiện.

Chẳng hạn nhƣ mua một chiếc xe đạp. Ngƣời chƣa thành niên chỉ biết đƣợc cấu

tạo của một chiếc xe đạp, đơn giản là có hai bánh xe đƣợc ráp vào khung gồm có

càng lái, bàn đạp, xích líp, … Tuy nhiên với sự hiểu biết rộng hơn, cha mẹ có thể

lựa chọn cho con một chiếc xe đạp tốt. Chẳng hạn nhƣ, loại lốp xe, vành bánh

đƣợc làm bằng sắt hay nhựa cứng, loại khung xe đƣợc thiết kế nhƣ thế nào, …

Do đó, khi giao kết hợp đồng cha mẹ có nghĩa vụ tìm hiểu và yêu cầu về chủng

loại, số lƣợng của tài sản dựa vào mong muốn của con chƣa thành niên. Khi bên

56

bán bàn giao tài sản, hàng hoá mà cha mẹ hoặc ngƣời chƣa thành niên nhận thấy

không đúng chủng loại, số lƣợng nhƣ đã thoả thuận thì có quyền trả lại hàng hoá

và nhận lại số tiền đã trả. Thông thƣờng việc trả lại hàng hoá và nhận lại tiền sẽ

do cha mẹ thực hiện. Ngƣời chƣa thành niên chỉ có năng lực thực hiện hành vi

nhận hàng hoá còn việc đánh giá chủng loại thì có thể vẫn phải cần đến sự can

thiệp của cha mẹ.

Nhận bàn giao tài sản là quyền nhƣng cũng đồng thời là nghĩa vụ. Khi bên

bán bàn giao tài sản cho bên mua (ở đây có thể trực tiếp là con chƣa thành niên

hoặc là cha mẹ) có nghĩa vụ nhận bàn giao đúng thời gian, địa điểm, phƣơng

thức nhƣ đã thoả thuận. Nếu chậm nhận tài sản mua bán thì bên mua phải chịu

rủi ro xảy ra đối với tài sản cũng nhƣ phải chịu các chi phí liên quan đến việc

bảo quản, giữ gìn tài sản. Đối với tài sản là động sản thì việc nhận bàn giao sẽ

hoàn thành khi bên mua ký vào xác nhận đã kiểm tra và nhận tài sản. Đối với tài

sản mua bán là bất động sản thì việc nhận bàn giao đƣợc xác định khi hai bên ký

vào đầy đủ các giấy tờ pháp lý liên quan đến tài sản. Ngƣời chƣa thành niên có

thể thực hiện việc nhận bàn giao trong một số trƣờng hợp nếu tài sản đó có giá

trị nhỏ, phục vụ cho nhu cầu học tập, vui chơi, giải trí, sinh hoạt hàng ngày còn

đối với những tài sản có giá trị lớn và phải có giấy xác nhận về chủ sở hữu thì

thƣờng do cha mẹ họ thực hiện.

- Đƣợc bảo đảm quyền sở hữu đối với tài sản mua – bán. Quyền sở hữu

phát sinh với đối với ngƣời chƣa thành niên kể từ khi họ hoặc cha mẹ đại diện

trực tiếp nhận đƣợc tài sản đó từ bên bán. Việc ngƣời chƣa thành niên mua tài

sản, hàng hoá này thƣờng gắn với mục đích sử dụng sản phẩm, do đó, những yêu

cầu bên ngoài cũng nhƣ tính chấp pháp lý của sản phẩm họ ít quan tâm và cũng

không hiểu biết nhiều sản phẩm cũng nhƣ các quyền yêu cầu bồi thƣờng thiệt

57

hại. Bên bán sẽ là ngƣời chịu rủi ro đối với tài sản cho đến khi giao tài sản cho

ngƣời chƣa thành niên hoặc bố mẹ. Đối với tài sản phải đăng ký quyền sở hữu

thì xác định theo thời điểm đăng ký quyền sở hữu đối với cơ quan nhà nƣớc có

thẩm quyền. Để chuyển quyền đƣợc thì bên bán phải là chủ sở hữu tài sản hoặc

là ngƣời có quyền bán, đƣợc uỷ quyền bán theo quy định của pháp luật. Nếu có

ngƣời thứ ba đòi thu hồi lại tài sản và chứng minh quyền sở hữu của mình đối

với tài sản đã bán. Trong trƣờng hợp ngƣời thứ ba đòi thu hồi lại tài sản thì bên

bán phải trả lại số tiền đã nhận khi bán tài sản và cha mẹ sẽ thay con nhận lại số

tiền đó. Trong trƣờng hợp việc trả lại tài sản gây thiệt hại cho con chƣa thành

niên thì cha mẹ có quyền yêu cầu bên bán bồi thƣờng thiệt hại cho con. Nếu cha

mẹ biết hoặc phải biết về tài sản đó không thuộc sở hữu của bên bán mà vẫn mua

thì phải trả lại tài sản mua bán và không có quyền yêu cầu bồi thƣờng thiệt hại

đồng thời dùng tài sản của mình để trả lại phần thiệt hại đó cho con. Nhƣ vậy,

cha mẹ phải lấy tài sản riêng của mình để thực hiện nghĩa vụ đó mà không đƣợc

ảnh hƣởng đến tài sản hay quyền lợi của con.

- Cha mẹ cũng có quyền yêu cầu bên bán cung cấp các thông tin và hƣớng

dẫn cách sử dụng tài sản mua bán, quyền đƣợc bảo hành đối với tài sản mua bán,

quyền yêu cầu bồi thƣờng thiệt hại trong thời gian bảo hành, quyền đƣợc trả

hoặc đổi tài sản khác trong thƣờng hợp tài sản bị lỗi hoặc hƣ hỏng không sử

dụng đƣợc trong thời hạn bảo hành… Đối với ngƣời chƣa thành niên việc tìm

hiểu thông tin và cách sử đụng sản phẩm không dễ dàng nhƣ ngƣời đã thành

niên. Họ có thể thuộc đối tƣợng chƣa biết đọc, biết viết hoặc chƣa đủ khả năng

để hiểu một cách phức tạp về việc sử dụng sản phẩm. Chính vì vậy cha mẹ có

trách nhiệm tìm hiểu và hƣớng dẫn con bằng các thao tác để giúp con hiểu và có

thể sử dụng tài sản, hàng hoá đó. Thông thƣờng bên bán sẽ chủ động cung cấp

58

những thông tin về tài sản mua bán và hƣớng dẫn sử dụng cho ngƣời mua. Nếu

bên bán không thực hiện nghĩa vụ này thì cha mẹ có quyền yêu cầu bên bán phải

thực hiện; nếu bên bán vẫn không thực hiện thì cha mẹ có quyền huỷ hợp đồng

với lý do không đảm bảo đƣợc việc sử dụng một cách thông thƣờng cho con và

yêu cầu bên bán bồi thƣờng thiệt hại.

Trong thời gian bảo hành, nếu phát hiện ra khuyết tật của tài sản mua bán

thì ngƣời chƣa thành niên có quyền yêu cầu bảo hành. Tuy nhiên, ngƣời chƣa

thành niên họ chỉ quan tâm đến công dụng của sản phẩm còn quyền yêu cầu sẽ

do cha mẹ thực hiện. Cha mẹ có quyền yêu cầu bên bán sửa chữa mà không phải

trả tiền, giảm giá, đổi tài sản mua bán lấy một tài sản khác hoặc trả lại tài sản và

lấy lại tiền đồng thời yêu cầu bồi thƣờng nếu có thiệt hại xảy ra. Tuy nhiên cha

mẹ không có quyền yêu cầu bồi thƣờng thiệt hại nếu do lỗi của chính họ gây ra

hoặc lỗi do con chƣa thành niên gây ra khi không đƣợc hƣớng dẫn sử dụng hoặc

cảnh báo từ cha mẹ. Ngoài ra, cha mẹ còn phải giảm mức bồi thƣờng thiệt hại

cho ngƣời bán (tuỳ từng mức độ) nếu cha mẹ không áp dụng những biện pháp

cần thiết mà có khả năng thực hiện để ngăn chặn thiệt hai xả ra. Trong trƣờng

hợp đó thì cha mẹ phải chịu trách nhiệm trong phạm vi đại diện và lỗi của mình

mà không đƣợc ảnh hƣởng đến quyền lợi của con.

- Quyền yêu cầu bảo đảm chất lƣợng vật mua bán mà hai bên đã thoả thuận

và phải bảo đảm giá trị sử dụng hoặc các đặc tính của sản phẩm mua bán. Nếu

sau khi ngƣời chƣa thành niên nhận tài sản mà phát hiện khuyết tật làm mất giá

trị hoặc giảm sút giá trị sử dụng của tài sản đã mua thì có thể thông báo trực tiếp

hoặc thông qua cha mẹ mình để thông báo cho bên bán ngay khi phát hiện ra

khuyết tật để có biện pháp khắc phục. Thông thƣờng ngƣời thực hiện quyền này

là cha mẹ của ngƣời chƣa thành niên.

59

Quyền và nghĩa vụ của cha mẹ với tư cách đại diện cho con là bên bán:

- Cha mẹ có quyền yêu cầu bên mua thanh toán đủ số tiền mua bán tài sản

vào thời điểm, địa điểm theo thoả thuận, nếu không có thoả thuận thì trả tiền vào

thời điểm và địa điểm giao tài sản. Nếu chậm thanh toán, cha mẹ có quyền yêu

cầu bên mua thanh toán thêm số tiền lãi chậm trả theo lãi suất cơ bản do Ngân

hàng Nhà nƣớc quy định tƣơng ứng với thời giam chậm trả và chịu trách nhiệm

bồi thƣờng thiệt hại nếu có. Việc này nảy sinh một vấn đề là: tài sản của con

chƣa thành niên không thể tự nhiên bán đi mà luôn đi kèm với một mục đích đó

là vì quyền lợi của con chƣa thành niên. Tại khoản 1 Điều 77 Luật hôn nhân và

gia đình năm 2014: “Trường hợp cha mẹ hoặc người giám hộ quản lý tài sản

riêng của con dưới 15 tuổi thì có quyền định đoạt tài sản đó vì lợi ích của con,

nếu con từ đủ 09 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con”. Điều này

có nghĩa là số tiền thu đƣợc từ việc bán tài sản của con chƣa thành niên phải

nhằm mục đích mang lại lợi ích cho con nhƣ: đảm bảo đời sống sinh hoạt ăn, ở,

mặc; đảm bảo nhu cầu học tập nhƣ mua sách mở, đóng tiền học, đồ dùng học

tập; mua xe đạp điện, đàn piano, … Ngoài ra thì những mục đích khác không

đem lại lợi ích trực tiếp cho con chƣa thành niên thì cha mẹ đều không đƣợc

phép bán tài sản của con.

Đối với con chƣa thành niên từ đủ 15 tuổi đến dƣới 18 tuổi có quyền định

đoạt tài sản của mình mà không cần sự tham gia của cha mẹ, ngoại trừ tài sản là

bất động sản, động sản có đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng hoặc dùng tài

sản để kinh doanh. Trong trƣờng hợp này thì quyền và nghĩa vụ của cha mẹ sẽ

dừng lại ở việc đồng ý hoặc không đồng ý cho con bán tài sản của mình bằng

văn bản.

60

Nhƣ vậy số tiền thu đƣợc từ việc bán tài sản có thể do con quản lý hoặc do

bố mẹ quản lý nhƣng việc bán tài sản của con phải chứng minh là đem lại lợi ích

cho con. Trên thực tế, pháp luật cũng chƣa có cơ chế giám sát việc đại diện của

bố mẹ cho con. Chính vì vậy, luật định là thế nhƣng lại rất khó để xác định đƣợc

mục đích thật sự đằng sau việc mua bán tài sản của con liệu có phải hoàn toàn vì

con hay không.

- Cha mẹ có nghĩa vụ bàn giao tài sản mua bán. Ngƣợc lại với bên mua, con

chƣa thành niên hoặc cha mẹ với tƣ cách đại diện cho con có nghĩa vụ bàn giao

tài sản mua bán theo đúng thoả thuận. Trong trƣờng hợp chậm bàn giao và gây

thiệt hại cho bên mua mà do lỗi của cha mẹ thì cha mẹ phải có nghĩa vụ bồi

thƣờng thiệt hại cho bên mua bằng chính tài sản của mình. Và cũng tƣơng tự nhƣ

trên, con chƣa thành niên có thể tự thực hiện bàn giao tài sản trong một số

trƣờng hợp tài sản là vật có khối lƣợng, giá trị nhỏ, còn lại thì phải do cha mẹ

thực hiện thay.

- Một số nghĩa vụ khác tƣơng tự với quyền của bên mua là đảm bảo quyền

sở hữu của con với tài sản đem bán, đảm bảo chất lƣợng, số lƣợng, cung cấp

thông tin về tài sản khi giao kết hợp đồng. Một điều chắc chắn là tài sản đem bán

chỉ gồm tài sản thuộc quyền sở hữu, sử dụng trực tiếp của con mà không phải là

uỷ quyền hay cấp phép. Việc đảm bảo chất lƣợng, số lƣợng thì đa phần sẽ do cha

mẹ thực hiện thay cho con vì có thể ngoài tầm hiểu biết của con. Chẳng hạn nhƣ

cha mẹ bán một mảnh đất thuộc quyền sử dụng hợp pháp của con. Có thể ngƣời

con chƣa thành niên cũng không thể nắm rõ về thông tin thửa đất nhƣ diện tích,

số tờ, số thửa, thời gian cấp phép, thời gian đƣợc quyền sử dụng, … Trong tình

huống này thì cha mẹ sẽ luôn là ngƣời đứng ra đảm bảo quyền sở hữu tài sản,

chất lƣợng hay số lƣợng tài sản với bên mua.

61

2.3.2. Hợp đồng tặng cho tài sản

2.3.2.1. Khái niệm

Việt Nam cũng nhƣ một số nƣớc trên thế giới đều quy định tặng cho tài sản

là một loại hợp đồng, trong đó có sự thỏa thuận giữa các bên. Bên tặng cho giao

tài sản của mình và chuyển quyền sở hữu cho bên đƣợc tặng cho, mà không yêu

cầu đền bù, còn bên đƣợc tặng cho đồng ý nhận tài sản. Cụ thể, tại Điều 457

BLDS năm 2015 quy định: Hợp đồng tặng cho tài sản là sự thỏa thuận giữa các

bên, theo đó bên tặng cho giao tài sản của mình và chuyển quyền sở hữu cho bên

đƣợc tặng cho mà không yêu cầu đền bù, bên đƣợc tặng cho đồng ý nhận. Mặc

dù hợp đồng tặng cho tài sản đƣợc hình thành trên cơ sở thoả thuận giữa các bên.

Tuy nhiên, trong nhiều trƣờng hợp, các nội dung của hợp đồng tặng cho tài sản

là do bên tặng cho nêu ra, bên đƣợc tặng cho thƣờng không thể hiện đƣợc ý chí

trong việc xác định đối tƣợng tặng cho là gì, giá trị lớn hay nhỏ,… Về thực chất,

ý chí của bên đƣợc tặng cho tài sản đã đƣợc bên tặng cho xác định trƣớc. Do đó,

không ít nhà nghiên cứu đã thể hiện quan điểm cho rằng tặng cho tài sản giống với bản chất của hành vi pháp lý đơn phƣơng hơn là hợp đồng28.

2.3.2.2. Đối tƣợng, hình thức của hợp đồng tặng cho tài sản

Đối tƣợng của tài sản tặng cho có thể là động sản hay bất động sản. Hình

thức và hiệu lực của hợp đồng tặng cho phụ thuộc vào đối tƣợng tài sản tặng cho.

Nếu đối tƣợng tài sản tặng cho là động sản thì hình thức của hợp đồng có thể

bằng miệng hay bằng văn bản. Hiệu lực của hợp đồng này có thể phát sinh khi

bên đƣợc tặng cho nhận tài sản hay cũng có thể chỉ phát sinh (dù đã nhận tài sản)

khi hoàn tất thủ tục đăng ký quyền sở hữu, nếu pháp luật quy định tài sản đó phải

28 Nguyễn Minh Tuấn (chủ biên), Bình luận khoa học BLDS, NXB Tư pháp, năm 2006, tr. 672.

đăng ký nhƣ ô tô, xe máy… Nếu đối tƣợng của tặng cho tài sản là bất động sản

62

thì hình thức của hợp đồng phải lập thành văn bản, có công chứng, chứng thực.

Đồng thời, nếu bất động sản đó phải đăng ký quyền sở hữu thì hợp đồng tặng

cho đó còn phải đăng ký quyền sở hữu theo quy định của pháp luật. Hợp đồng

chỉ đƣợc coi là có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký và làm thủ tục sang tên nhƣ

tặng cho nhà, đất.

2.3.2.3. Đại diện của cha mẹ con chƣa thành niên trong hợp đồng tặng

cho tài sản

Việc thực hiện đại diện của cha mẹ cho con chƣa thành niên trong hợp đồng

tặng cho về cơ bản tƣơng tự nhƣ hợp đồng mua bán, ngoại trừ một số điểm khác

biệt:

- Đối với hợp đồng tặng cho tài sản, nghĩa vụ của ngƣời tặng cho tài sản

không chỉ dừng lại ở việc ngƣời tặng cho phải bàn giao tài sản cho bên đƣợc tặng

cho mà ngƣời tặng cho còn có nghĩa vụ chuyển giao quyền sở hữu tài sản đó cho

ngƣời đƣợc tặng cho (ở đây là con chƣa thành niên). Đối tƣợng của hợp đồng

tặng cho là tài sản – quyền sở hữu tài sản chứ không đơn thuần là quyền chiếm

hữu hoặc quyền sử dụng tài sản – giao tài sản. Hợp đồng tặng cho cũng là căn cứ

làm phát sinh quyền của một ngƣời với tài sản (khoản 2 Điều 221 và Điều 223

BLDS 2015). Không chỉ có vậy, hợp đồng tặng cho tài sản còn là căn cứ làm

phát sinh quyền sở hữu riêng của con chƣa thành niên với tài sản (khoản 1 Điều

75 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014) khi con đƣợc tặng cho riêng tài sản; từ

đó là căn cứ pháp lý để cho con chƣa thành niên xác lập quyền định đoạt riêng

đối với một tài sản.

- Trƣờng hợp tặng cho tài sản của con chƣa thành niên từ dƣới 15 tuổi.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 21 BLDS 2015 thì giao dịch dân sự của

ngƣời chƣa đủ sáu tuổi do ngƣời đại diện theo pháp luật của ngƣời đó xác lập,

63

thực hiện. Điều này có nghĩa là mọi giao dịch của con chƣa đủ 6 tuổi hoàn toàn

do cha mẹ định đoạt mà không cần sự đồng ý của con.

Đối với ngƣời từ đủ 6 tuổi đến dƣới 15 tuổi thìngƣời từ đủ sáu tuổi đến

chƣa đủ mƣời lăm tuổi khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải đƣợc ngƣời

đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch dân sự phục vụ nhu cầu sinh hoạt

hàng ngày phù hợp với lứa tuổi (khoản 3 Điều 21 BLDS 2015).

Tuy nhiên, tại khoản 1 Điều 134 BLDS lại quy định: Đại diện là việc cá

nhân, pháp nhân (sau đây gọi chung là ngƣời đại diện) nhân danh và vì lợi ích

của cá nhân hoặc pháp nhân khác (sau đây gọi chung là ngƣời đƣợc đại diện) xác

lập, thực hiện giao dịch dân sự. Bên cạnh đó, khoản 1 Điều 77 Luật hôn nhân và

gia đình quy định: Trƣờng hợp cha mẹ hoặc ngƣời giám hộ quản lý tài sản riêng

của con dƣới 15 tuổi thì có quyền định đoạt tài sản đó vì lợi ích của con, nếu con

từ đủ 9 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.

Nhƣ vậy có thể khẳng định những giao dịch dân sự của con chƣa thành niên

đều do cha mẹ thực hiện. Tuy nhiên, dù cha mẹ có quyền “xác lập, thực hiện các

giao dịch dân sự” thì cũng phải đảm bảo một nguyên tắc tối cao là “vì lợi ích của

con chƣa thành niên”. Hiểu một cách đơn giản, vì lợi ích của con chƣa thành

niên có nghĩa là không làm giảm sút, thâm hụt đi tài sản của con chƣa thành niên

(ngoại trừ những giao dịch phục vụ nhu cầu thiết yếu của con chƣa thành niên).

Thế nhƣng, hợp đồng tặng cho tài sản lại là hợp đồng nhằm chuyển giao quyền

sở hữu tài sản mà không có sự đền bù. Tác giả cho rằng nếu cha mẹ đƣa tài sản

của con chƣa thành niên vào hợp đồng cho tặng tài sản với một bên thứ ba, cha

mẹ không thể chứng minh rằng mình thực hiện quyền đại diện cho con chƣa

thành niên là “vì lợi ích của con”. Nói nhƣ vậy có nghĩa là lợi ích của con chƣa

64

thành niên không đƣợc đảm bảo đúng với tinh thần của pháp luật. Việc thực hiện

quyền đại diện này của cha mẹ sẽ dẫn tới giao dịch bị tuyên vô hiệu.

- Đối với con chƣa thành niên từ đủ 15 tuổi đến dƣới 18 tuổi có thể tự mình

định đoạt tài sản riêng của mình, trừ giao dịch tặng cho đối với tài sản là bất

động sản, động sản phải đăng ký thì cần có sự đồng ý của cha mẹ. Sự kiểm soát

này của cha mẹ nhằm bảo đảm tài sản có giá trị lớn cho con tránh bị lợi dụng.

Nếu con chƣa thành niên mà bỗng nhiên đem một tài sản rất lớn hoặc có thể toàn

bộ tài sản của mình tặng cho một đối tƣợng khác thì vai trò của cha mẹ lúc này là

đảm bảo quyền lợi cho con. Việc đánh giá và xác định của cha mẹ phải đƣợc thể

hiện bằng văn bản đồng ý hay không đồng ý cho con thực hiện việc tặng cho đó.

Trên thực tế, quy định này cũng chƣa thực sự chặt chẽ. Pháp luật chỉ quy

định phải có sự đồng ý của cha mẹ nếu tài sản là bất động sản hoặc động sản

phải đăng ký quyền sở hữu, sử dụng. Vậy tình huống đặt ra nếu tài sản tặng cho

là tiền mặt thì sao? Không có một quy định nào giới hạn việc con chƣa thành

niên ở lứa tuổi này tặng cho bao nhiêu thì phải cần có sự đồng ý của cha mẹ. Đặt

một giả thiết, con chƣa thành niên đƣợc thừa hƣởng một sổ tiết kiệm với số tiền

tƣơng đối lớn là 1 tỷ. Nhƣ vậy nếu con dùng số tiền đó tặng cho một ngƣời khác

thì có cần sự đồng ý của cha mẹ hay không?

- Con chƣa thành niên trực tiếp tham gia hợp đồng tặng cho với tƣ cách là

bên tặng cho chỉ khi trong độ tuổi từ đủ 15 đến dƣới 18 nhƣ đã phân tích ở trên.

Còn đối với hợp đồng tặng cho mà con chƣa thành niên tham gia với tƣ cách là

bên đƣợc tặng cho thì không có giới hạn nào về độ tuổi cũng nhƣ năng lực chủ

thể. Tại khoản 1 Điều 75 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: Con có

quyền có tài sản riêng. Tài sản riêng của con bao gồm tài sản đƣợc thừa kế riêng,

đƣợc tặng cho riêng, thu nhập do lao động của con, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ

65

tài sản riêng của con và thu nhập hợp pháp khác. Tài sản đƣợc hình thành từ tài

sản riêng của con cũng là tài sản riêng của con. Con có quyền nhận tặng cho tài

sản không phụ thuộc vào độ tuổi, tuy nhiên việc nhận tặng cho và hình thức nhận

tặng cho phụ thuộc vào đối tƣợng của hợp đồng tặng cho.

Hợp đồng tặng cho là hợp đồng thực tế, do vậy, việc tặng cho tài sản đƣợc

thực hiện lúc chuyển giao tài sản tặng cho. Con chƣa thành niên có thể tự mình

nhận tài sản tặng cho hoặc thông qua cha mẹ của mình. Với đối tƣợng tài sản là

động sản phải đăng ký quyền sở hữu hay bất động sản thì việc tặng cho phải

đƣợc lập thành văn bản theo quy định của pháp luật và có sự đồng ý của cha mẹ.

Có thể thấy, việc nhận tặng cho mang lại lợi ích cho ngƣời đƣợc tặng cho

nên sẽ không có nhiều hạn chế của pháp luật. Tuy nhiên, hợp đồng tặng cho tài

sản là hợp đồng liên quan đến việc chuyển giao quyền sở hữu nên đòi hỏi tất yếu

đối với ngƣời chƣa thành niên là họ có đủ điều kiện để trở thành chủ sở hữu tài

sản hay không? Chẳng hạn nhƣ, ông bà muốn tặng cho cháu (tức là con chƣa

thành niên) quyền sử dụng đất nông nghiệp. Tuy nhiên, pháp luật có quy định cá

nhân không trực tiếp sản xuất nông nghiệp không đƣợc nhận chuyển nhƣợng,

nhận tặng cho quyền sử dụng đất trồng lúa (khoản 3 Điều 191 Luật đất đai

2013). Do vậy, ngƣời chƣa thành niên không thuộc đối tƣợng đƣợc nhận tặng

cho quyền sử dụng đất nông nghiệp.

2.3.3. Thừa kế

2.3.3.1. Khái niệm thừa kế và quyền thừa kế

Thừa kế là một loại quan hệ xã hội hình thành từ việc một ngƣời chết có để

lại tài sản và quá trình dịch chuyển tài sản đó cho những ngƣời khác, xuất hiện

đồng thời với quan hệ sở hữu, tồn tại và phát triển cùng với xã hội loài ngƣời.

Nơi nào có sở hữu nơi đó có thừa kế, hay nói cách khác, sở và thừa kế song song

66

tồn tại trong mọi hình thái kinh tế - xã hội và có quan hệ biện chứng với nhau,

trong đó, nếu sở hữu là cơ sở làm xuất hiện vấn đề thừa kế thì thừa kế lại là cách

thức để duy trì và củng cố vấn đề sở hữu. Trải qua quá trình phát triển của các

hình thái kinh tế - xã hội, thừa kế càng ngày đƣợc ghi nhận và bảo đảm thực

hiện.

Trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ, khi các quan hệ về sở hữu dần hình

thành, thừa kế về bản chất chính là sự kế thừa mang tính tự nhiên, đảm bảo cho

sự tồn tại và phát triển của các thị tộc, bộ lạc đối với khu vực sinh sống, sản vật,

công cụ lao động… Nếu một ngƣời trong thị tộc, bộ lạc chết đi, việc dịch chuyển

tài sản của ngƣời chết cho những ngƣời còn sống đƣợc thực hiện theo những tập

tục của từng thị tộc, bộ lạc, nhiều khi là sự quyết định của ngƣời đứng đầu thị

tộc, bộ lạc đó. Ở giai đoạn này, sự xuất hiện chế độ hôn nhân với hình thái kinh

tế gia đình đối ngẫu làm cho nền kinh tế gia đình trở thành một đơn vị kinh tế

độc lập trong thị tộc, không phụ thuộc vào thị tôc và cuối cùng làm tan rã thị tộc.

Dần dần, hôn nhân chuyển hẳn sang chế độ một vợ một chồng với quyền lực

kinh tế nằm trong tay ngƣời chồng. Sự phân công lao động tại thời kỳ này diễn

ra sâu sắc. Chế độ tƣ hữu xuất hiện và từ đó chế độ thị tộc, chế độ cộng sản

nguyên thuỷ hoàn toàn tan rã nhƣờng chỗ cho một chế độ xã hội có sự phân hoá

giai cấp. Trong xã hội có sự phân hoá giai cấp, các phe có quyền lực đối lập

nhau, luôn mâu thuẫn và đấu tranh gay gắt với nhau để bảo đảm quyền lợi của

giai cấp mình thì đƣơng nhiên giai cấp thị tộc trở thành bất lực với xã hội, không

còn phù hợp nữa. Từ đó xã hội đòi hỏi phải có một tổ chức mới và Nhà nƣớc đã

ra đời.

hi Nhà nƣớc xuất hiện, có pháp luật, dƣới sự tác động của pháp luật vào

các quan hệ thừa kế làm cho các quan hệ này trở thành quan hệ pháp luật về thừa

67

kế. Bằng việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, Nhà nƣớc quy định

quyền và nghĩa vụ của chủ thể trong thừa kế, quy định phƣơng thức, trình tự,

điều kiện dịch chuyển tài sản từ ngƣời chết sang ngƣời còn sống và bảo đảm

thực hiện bằng các biện pháp cƣỡng chế. Nghĩa là từ đó, khái niệm quyền thừa

kế mới xuất hiện, vì vậy, bên cạnh nội dung kinh tế thì quyền thừa kế còn bao

hàm ý chỉ của nhà nƣớc, nghĩa là trong quan hệ pháp luật về thừa kế, sự dịch

chuyển tài sản nhƣ thế nào phải tuân theo quy định của pháp luật.

Từ trên có thể đƣa ra các khái niệm nhƣ sau:

Thừa kế là một hiện tƣợng xã hội tất yếu xuất hiện đồng thời với quan hệ sở

hữu mà nội dung kinh tế của nó chính là sự phản ánh quá trình dịch chuyển tài

sản từ ngƣời chết sang cho ngƣời còn sống khác.

Quyền thừa kế là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh việc chuyển

dịch tài sản của ngƣời chết cho ngƣời khác theo di chúc hoặc theo một trình tự

nhất định, đồng thời quy định phạm vi, quyền nghĩa vụ và phƣơng thức bảo vệ

các quyền nghĩa vụ của ngƣời thừa kế. Hiểu theo một nghĩa hẹp hơn thì quyền

thừa kế là việccá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại

tài sản của mình cho ngƣời thừa kế theo pháp luật; hƣởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật29.

2.3.3.2. Các nguyên tắc của quyền thừa kế

- Mọi cá nh n đều bình đẳng về quyền thừa kế

Điều này xuất phát từ hiến định tại khoản 1 Điều 16 Hiến pháp năm 2013:

“Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật”. Nguyên tắc này đƣợc BLDS cụ thể

hoá tại Điều 610: “Mọi cá nh n đều bình đẳng về quyền để lại tài sản của mình

29 Điều 609 BLDS 2015

cho người khác và quyền hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật”. Đó là

68

sự bình đẳng trƣớc pháp luật trong quan hệ thừa kế khi cá nhân để lại di sản và

nhận di sản thừa kế từ ngƣời khác. Quyền bình đẳng đƣợc thể hiện nhƣ sau: Mọi

cá nhân không phân biệt nam, nữ, tuổi tác, thành phần, tôn giáo, địa vị chính trị

xã hội, … đều có quyền để lại tài sản của mình cho ngƣời khác và quyền hƣởng

di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật. Vợ, chồng đều đƣợc hƣởng di sản thừa

kế của nhau; phụ nữ và nam giới đều hƣởng thừa kế ngang nhau theo quy định

của pháp luật; con trong giá thú, con ngoài giá thú đều đƣợc thừa kế bằng nhau

nếu chia di sản theo pháp luật, ngƣời có tên trong di chúc đƣợc hƣởng kỷ phần

theo di chúc bất kể họ là ai vv…

- Tôn trọng ý chí của người để lại di sản thừa kế, người hưởng di sản thừa

kế

Theo nguyên tắc này, ngƣời để lại di sản có quyền thể hiện ý chí của mình

bằng việc lập di chúc để định đoạt tài sản cho ai, cho mỗi ngƣời bao nhiêu, loại

tài sản là gì, có để lại di tặng hoặc di sản thờ cúng hay không hoặc có thể thay

đổi việc định đoạt bằng việc sửa đổi, bổ sung, huỷ bỏ hay thay thế di chúc. Tuy

nhiên, ngƣời để lại di sản cũng bị hạn chế trong một số trƣờng hợp nhất định,

chẳng hạn theo Điều 644 BLDS. Bên cạnh đó ngƣời hƣởng di sản có quyền từ

chối nhận di sản mình đƣợc hƣởng. Việc từ chối không đƣợc nhằm trốn tránh

nghĩa vụ tài sản của mình với ngƣời khác (Điều 620 BLDS).

- Bảo đảm quyền thừa kế hợp pháp của một số người thừa kế theo quy

định của pháp luật.

Hƣớng tới sự cân bằng trong xã hội, một mặt pháp luật tôn trọng quyền

định đoạt của ngƣời để lại di sản thừa kế, nhƣng mặt khác cũng hƣớng tới bảo vệ

quyền lợi thiết thực của một số ngƣời thừa kế theo pháp luật. Những ngƣời này

là cha mẹ, vợ chồng, con chƣa thành niên, con đã thành niên mà không có khả

69

năng lao động. Để đảm bảo đạo đức xã hội hay bảo vệ ngƣời ngƣời thân không

có khả năng tự nuôi sống bản thân pháp luật đã hạn chế quyền định đoạt của

ngƣời để lại di sản khi định đoạt toàn bộ di sản cho ngƣời khác mà dành lại cho

mỗi đối tƣợng nêu trên một phần di sản ít nhất bằng 2/3 của một xuất nếu thừa

kế theo pháp luật.

2.3.3.3. Đại diện của cha mẹ cho con chƣa thành niên trong quan hệ

thừa kế

Đại diện của cha mẹ cho con chưa thành niên trong việc để lại tài sản

Xuất phát từ nguyên tắc bình đẳng, ngƣời chƣa thành niên cũng có quyền

để lại tài sản của mình cho ngƣời khác. Việc để lại di sản của con chƣa thành

niên cũng có thể đƣợc thực hiện dƣới hai hình thức: để lại di sản chia thừa kế

theo pháp luật hoặc di chúc. Con chƣa thành niên có tài sản nhƣng vì một lý do

nào đó mà qua đời tuy nhiên lại không để lại di chúc hoặc chƣa đến tuổi lập di

chúc thì thông thƣờng toàn bộ di sản của con sẽ đƣợc cha mẹ quản lý cho đến

thời điểm mở thừa kế và đƣợc chia theo quy định của pháp luật. Bên cạnh đó,

con chƣa thành niên ý thức đƣợc việc họ không còn sống đƣợc lâu và có mong

mốn để lại tài sản của mình cho đối tƣợng nhất định thì họ có thể lập di chúc

theo quy định của pháp luật. Tại khoản 2 Điều 625 BLDS 2015 quy định:

“Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi được lập di chúc, nếu

được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc”. Đây là sự phù

hợp với quy định tại khoản 4 Điểu 21 BLDS 2015: “Người từ đủ mười lăm tuổi

đến chưa đủ mười tám tuổi tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự, trừ giao

dịch dân sự liên quan đến bất động sản, động sản phải đăng ký và giao dịch dân

sự khác theo quy định của luật phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý”;

Khoản 1 Điều 3 Bộ luật lao động 2012: “Người lao động là người từ đủ 15 tuổi

70

trở lên, có khả năng lao động, làm việc theo hợp đồng lao động, được trả lương

và chịu sự quản lý, điều hành của người sử dụng lao động” trong trƣờng hợp

ngƣời lao động từ đủ 15 tuổi đến dƣới 18 tuổi, thì “việc giao kết hợp đồng lao

động phải được sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật của người lao

động”. Tuy nhiên tại khoản 2 Điều 625 thì sự đồng ý của cha mẹ cho giao dịch

của con chƣa thành niên không bị giới hạn bởi loại tài sản. Di sản để lại có thể là

động sản hay bất động sản, là tài sản thuộc sở hữu riêng hay tài sản thuộc sở hữu

chung hợp nhất. Pháp luật quy định nhƣ vậy bởi lẽ những ngƣời ở độ tuổi này

chƣa có nhận thức đầy đủ hậu quả của hành vi lập di chúc nên pháp luật quy định

cần phải có sự kiểm soát của ngƣời đại diện, cụ thể là cha mẹ. Mặt khác, con

chƣa thành niên phải hoàn toàn tự nguyện, minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di

chúc; không bị lừa dối, đe dọa, cƣỡng ép bởi bản chất của di chúc là sự tự

nguyện thể hiện ý chí của ngƣời lập di chúc mà sự cƣỡng ép, đe dọa đã phá vỡ

sự thống nhất giữa mong muốn bên trong và thể hiện ra bên ngoài làm mất đi

tính tự nguyện của ngƣời lập di chúc. Trƣớc đây quy định tại khoản 2 Điều 647

BLDS 2005 nêu: “Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có thể

lập di chúc, nếu được cha mẹ hoặc người giám hộ đồng ý”. BLDS 2015 ra đời

với quy định tại điều 625 đã khắc phục đƣợc sự băn khoăn về việc cha mẹ hoặc

ngƣời giám hộ đồng ý về vấn đề gì. Đồng ý về việc cho lập hay đồng ý về nội

dung định đoạt tài sản trong di chúc của con chƣa thành niên.

Sau khi đƣợc sự đồng ý lập di chúc của cha mẹ thì con chƣa thành niên có

toàn bộ quyền của một ngƣời lập di chúc thông thƣờng:

- Con chƣa thành niên có quyền chỉ định ngƣời thừa kế; truất quyền

hƣởng di sản của ngƣời thừa kế.

71

- Con chƣa thành niên có quyền phân định phần di sản cho từng ngƣời

thừa kế.

- Con chƣa thành niên có quyền dành một phần tài sản trong khối tài sản

để di tặng, thờ cúng.

- Con chƣa thành niên có quyền giao nghĩa vụ cho ngƣời thừa kế.

- Con chƣa thành niên có quyền chỉ định ngƣời giữ di chúc, ngƣời quản

lý di sản, ngƣời phân chia di sản.

- Di chúc của con chƣa thành niên có thể đƣợc sửa đổi, bổ sung, thay thế

huỷ bỏ theo ý chí của họ.

Nhằm đảm bảo nguyên vẹn ý chỉ của con chƣa thành niên trong việc để lại

di sản của mình, pháp luật quy định hình thức của di chúc bắt buộc phải bằng

văn bản, hình thức khác nhƣ di chúc miệng sẽ không đƣợc chấp nhận, coi nhƣ vi

phạm điều kiện để một di chúc hợp pháp và không có hiệu lực.

Đại diện của cha mẹ cho con chưa thành niên trong việc nhận thừa kế

Ngƣời thừa kế theo quy định tại Điều 613 BLDS 2015 thì ngƣời thừa kế là

cá nhân phải là ngƣời còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn

sống sau thời điểm mở thừa kế nhƣng đã thành thai trƣớc khi ngƣời để lại di sản

chết. Nhƣ vậy ngƣời chƣa thành niên nhận thừa kế phải là ngƣời còn sống vào

thời điểm mở thừa kế hoặc đã thành thai trƣớc khi ngƣời để lại di sản chết sau đó

sinh ra và còn sống. Ngƣời chƣa thành niên hoàn toàn có quyền hƣởng di sản

thừa kế nhƣ những ngƣời thừa kế khác theo di chúc hoặc theo pháp luật. Với

những ngƣời chƣa thành niên dƣới 15 tuổi hoàn toàn do cha mẹ là ngƣời đại diện

cho con trong giao dịch về thừa kế. Tuy nhiên, với nguyên tắc bảo đảm quyền lợi

cho ngƣời chƣa thành niên, cha mẹ chỉ có thể nhận thừa kế chứ không thể

nhƣờng lại hay tặng cho kỉ phần mà con đƣợc hƣởng cho ngƣời khác đƣợc. Còn

72

những đối tƣợng từ đủ 15 đến dƣới 18 thì họ có thể tự mình quyết định nhận di

sản hoặc từ chối nhận di sản nếu có sự đồng ý của cha mẹ.

Tiểu kết Chƣơng 2

Nội dung tổng quan của chƣơng 2 là những vấn đề pháp lý về quyền và

nghĩa vụ đại diện của cha mẹ và cách thức thực hiện quyền đó. Các quyền và

nghĩa vụ của cha, mẹ trong việc đại diện theo luật cho con chƣa thành niên đƣợc

quy định trong các văn bản luật chủ yếu là các quyền và nghĩa vụ về tài sản.

Thông qua chế định đại diện của cha mẹ, con chƣa thành niên có thể trực tiếp

hoặc gián tiếp tham gia vào những giao dịch dân sự mà mình là một bên chủ thể

có quyền lợi và nghĩa vụ. Tuy nhiên để đảm bảo tối đa lợi ích của con chƣa

thành niên pháp luật đã thiết lập nên cách thức và nguyên tắc để thực hiện quyền

đại diện của cha mẹ cũng nhƣ việc tham gia giao dịch của con. Qua phân tích

một số giao dịch cụ thể để nhận định và đánh giá thực tiễn thực hiện, xác định

những vấn đề tồn tại trong quá trình áp dụng pháp luật trên cơ sở đó ngƣời viết

đƣa ra những đề xuất hoàn thiện cơ chế đại diện bảo đảm quyền lợi cho con chƣa

thành niên khi tham gia vào giao dịch dân sự tại chƣơng 3.

73

CHƢƠNG III ĐỀ XUẤT HOÀN THIỆN CƠ CHẾ ĐẠI DIỆN CỦA CHA MẸ BẢO ĐẢM QUYỀN LỢI CHO CON CHƢA THÀNH NIÊN TRONG QUÁ TRÌNH THAM GIA GIAO DỊCH DÂN SỰ

Ngày nay số lƣợng các hợp đồng, giao dịch có sự tham gia của ngƣời chƣa

thành niên là tƣơng đối lớn và đang tăng nhanh một cách chóng mặt. Trong đó,

nhóm giao dịch phổ biến nhất là thừa kế di sản, mua bán, tặng cho bất động sản,

động sản. Với những độ tuổi khác nhau con chƣa thành niên có thể tham gia vào

các giao dịch dân sự ở một mức độ khác nhau. Ở những độ tuổi chƣa hoàn thiện

về thể chất cũng nhƣ tâm sinh lý, là đối tƣợng có tỉ lệ bị lạm dụng lớn trong xã

hội. Chính vì vậy pháp luật quy định chủ thể có quyền đại diện để bảo về quyền

lợi cho ngƣời chƣa thành niên là cha, mẹ. Cha, mẹ và con cái có mối quan thiêng

liêng. Cha, mẹ với tƣ cách là bậc sinh thành – đƣợc pháp luật trao cho nhiều

quyền và nghĩa vụ nhằm thực hiện việc trông nom, nuôi dƣỡng, giáo dục và bảo

đảm quyền lợi cho con. Tuy nhiên, với sự pháp triển đa dạng của xã hội, việc

tham gia giao dịch dân sự của ngƣời chƣa thành niên cần đƣợc đề cao hơn nữa

và cần có những quy định chi tiết, cụ thể hơn nhằm đảm bảo quyền và lợi ích

hợp pháp của họ.

Quy định của BLDS nói riêng và pháp luật nói chung là cơ sở pháp lý để

Toà án, cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền và các tổ chức khác bảo vệ quyền lợi

ích của ngƣời chƣa thành niên. Tuy nhiên, qua những phân tích quy định và thực

tiễn thực hiện ở chƣơng II, việc thực hiện quyền đại diện của cha mẹ và việc

thực hiện giao dịch của con chƣa thành niên với những bỏ ngỏ của quy định

pháp luật dẫn đến những bất cập nhất định. Chính những bất cập trong quy định

và bế tắc trong quá trình thực hiện đã phần nào ảnh hƣởng không nhỏ đến quyền

lợi của ngƣời chƣa thành niên khi tham gia giao dịch dân sự. Dƣới đây là một vài

74

kiến nghị của ngƣời viết với mục đích hoàn thiện phần nào quy định của pháp

luật và hạn chế những bế tắc trong quá trình thực hiện quy định.

3.1 Quy định về thẩm quyền đại diện trong trƣờng hợp cha mẹ không

thống nhất ý kiến

Việc đại diện theo pháp luật của cha, mẹ đối với con chƣa thành niên đƣợc

chi phối chủ yếu bởi các quy định trong BLDS (Ðiều 21 và nằm rải rác trong các

quy định về đại diện, giao dịch dân sự, thừa kế) và trong Luật hôn nhân và gia

đình. Nói chung, việc đại diện của cha, mẹ đối với con chƣa thành niên cũng

giống nhƣ việc đại diện của ngƣời giám hộ đối với ngƣời đƣợc giám hộ: việc đại

diện mang tính chất toàn phần hay từng phần tuỳ theo từng khung độ tuổi của

con. Mặt khác, nếu con có đủ cha và mẹ nhƣng một trong hai ngƣời không có

năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc bị Toà án hạn

chế quyền của cha, mẹ, thì ngƣời còn lại là ngƣời có đầy đủ quyền đại diện cho

con chƣa thành niên. Tuy nhiên, nếu cha và mẹ cùng đại diện cho con, thì mọi

giao dịch xác lập dƣới danh nghĩa và vì lợi ích của con đều phải đƣợc sự đồng ý

của cả cha và mẹ. Luật chƣa dự liệu vai trò của Toà án trong trƣờng hợp cha và

mẹ không thống nhất ý kiến. Có vẻ nhƣ nếu cha, mẹ không thống nhất ý kiến, thì

hoặc cha hoặc mẹ đại diện cho con trong các giao dịch thông thƣờng; còn các

giao dịch liên quan đến bất động sản hay động sản phải đăng ký quyền sở hữu,

quyền sử dụng (theo khoản 3 Điều 73 Luật hôn nhân và gia đình 2014) sẽ rơi vào

chỗ bế tắc.

Do đó, ngƣời viết đề xuất bổ sung quy định làm rõ trong trƣờng hợp này

nhƣ sau: Đối với những giao dịch bắt buộc có sự đồng ý của cha mẹ và một

trong hai bên không thống nhất ý kiến thì bên kia có quyền yêu cầu Toà án xem

xét đến quyền lợi của người chưa thành niên ra quyết định cho phép mình cha

75

hoặc mẹ tham gia giao dịch cụ thể mà không cần sự đồng ý và nhất trí của bên

còn lại.

Bên cạnh đó, luật không ghi nhận vai trò giám sát của UBND địa phƣơng

đối với việc thực hiện quyền của cha, mẹ đại diện cho con chƣa thành niên, nhƣ

trong trƣờng hợp giám hộ ngƣời chƣa thành niên. Nhằm bảo đảm cha mẹ không

phá tán tài sản của con làm ảnh hƣởng nghiêm trọng đến quyền lợi của con chƣa

thành niên pháp luật nên có quy định về việc cử ngƣời giám sát đại diện của cha

mẹ. Với những trƣờng hợp đặc biệt liên quan đến bất động sản, động sản phải

đăng ký hay một số lƣợng lớn trong tổng số tài sản của con chƣa thành niên cần

có ngƣời giám sát để theo dõi và kịp thời phát hiện những hành vi gây ảnh hƣởng

nghiêm trọng đến quyền lợi của con.

3.2 Quy định về thực hiện quyền đại diện của cha mẹ

Quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ trong việc đại diện theo luật cho con chƣa

thành niên đƣợc quy định trong các văn bản luật chủ yếu là các quyền và nghĩa

vụ về tài sản. Nhƣ phân tích tại chƣơng 2, con chƣa thành niên đủ 15 tuổi thì

toàn bộ giao dịch của con sẽ do cha mẹ đại diện thực hiện, trừ giao dịch phụ vụ

nhu cầu thiết yếu. Trên thực tế có nhiều giao dịch mà cha mẹ định đoạt tài sản

của con chƣa thành niên với lý do là để lấy tiền nuôi dƣỡng, chăm sóc con, mang

lại lợi ích tinh thần cho con. Tuy nhiên, tại Điều 69 và 71 Luật hôn nhân và gia

đình năm 2014 khẳng định cha mẹ có nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dƣỡng con chƣa

thành niên. Phải chăng việc đem tài sản của con ra để thực hiện nghĩa vụ của cha

mẹ là không hợp lý? Ở đây cũng phải xét đến tình hình tài chính của cha mẹ.

Nếu nguồn tài chính của cha mẹ chỉ để duy trì một cuộc sống vừa đủ của gia

đình thì việc phục vụ cho những nhu cầu cao hơn của con sẽ phải sử dụng đến tài

sản của chính con. Điều này cũng hoàn toàn hợp lý. Thế nhƣng, cũng chính vì

76

vậy mà có những cha mẹ lợi dụng để phá tán tài sản của con. Đây cũng là điều

khó kiểm soát trong xã hội trong khi chúng ta chƣa có cơ chế nào để giám sát

việc đại diện của cha mẹ đối với con. Pháp luật ta từ thời phong kiến cũng đã có

những quy định cơ bản để hạn chế, giám sát việc thực hiện quyền đại diện của

cha mẹ chẳng hạn nhƣ: khi chồng chết, con còn nhỏ, mẹ đi cải giá, mà lại đem

bán điền sản của con, thì xử phạt 50 roi, trả lại ngƣời mua, trả lại ruộng cho con.

Nếu có lý do đã trình bày với họ hàng bằng lòng cho bán, cũng phải trình quan

để xem xét cần tiên hết bao nhiêu, thì chỉ cho bán bấy nhiêu thôi. Nếu ngƣời

chồng sau mạo tên con ngƣời chồng trƣớc mà bán, thì ngƣời chồng sau, ngƣời

viết thay văn tự và ngƣời chứng kiến đều xử phạt 60 trƣợng, biếm hai tƣ. Ngƣời

biết sự việc mà cứ mua thì xử phạt 80 trƣợng và mất số tiền mua, ruộng phải trả cho con. Vợ sau mà bán điền sản của con vợ trƣớc thì cũng xử tội nhƣ thế30.

Ngày nay có thể thấy pháp luật cho cha mẹ có quyền ngang nhau trong việc đại

diện cho con chƣa thành niên và phải cùng nhau thực hiện quyền này. Tuy nhiên

trong một số số trƣờng hợp đặc biệt chỉ có bố hoặc mẹ là ngƣời toàn quyền đại

diện cho con mà không có một cơ chế kiểm soát việc đại diện đó. Chẳng hạn

nhƣ:

- Trƣờng hợp cha hoặc mẹ bị hạn chế quyền của cha mẹ đối với con chƣa

thành niên. Theo Luật hôn nhân và gia đình, trong trƣờng hợp một trong hai

ngƣời là cha mẹ bị Toà án hạn chế một số quyền của cha mẹ đối với con chƣa

thành niên, thì ngƣời kia thực hiện quyền trông nom, nuôi dƣỡng, chăm sóc, giáo

dục con, quản lý tài sản riêng của con và đại diện theo pháp luật cho con. Không

có văn bản nào chi phối việc thực hiện quyền cha mẹ trong trƣờng hợp này; bởi

30 Điều 377 Quốc triều hình luật, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật tái bản năm 2017.

vậy, có thể thừa nhận rằng ngƣời còn lại có toàn quyền của cha mẹ.

77

- Trƣờng hợp cha hoặc mẹ chết. Khi giải quyết vấn đề đại diện cho con

chƣa thành niên, luật không dự kiến tình huống cha hoặc mẹ chết. Tuy nhiên,

việc đại diện cho con chƣa thành niên chỉ đƣợc thực hiện theo một trong hai chế

độ: đại diện theo pháp luật của cha mẹ hoặc giám hộ. Thế mà, luật chủ động dự

kiến các trƣờng hợp cần đặt ngƣời chƣa thành niên dƣới chế độ giám hộ; trong

các trƣờng hợp ấy không có tình huống cha hoặc mẹ của ngƣời chƣa thành niên

chết. Qua đó, ta xác định rằng khi cha hoặc mẹ chết, thì quyền đại diện cho con

thuộc về ngƣời còn lại.

- Trƣờng hợp cha mẹ ly hôn. Trong trƣờng hợp cha và mẹ ly hôn, thì con

chƣa thành niên sẽ đƣợc giao cho một trong hai ngƣời trông nom, nuôi dƣỡng.

Luật hôn nhân và gia đình, khi giải quyết vấn đề giao con chƣa thành niên cho

cha hoặc mẹ trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dƣỡng, không đề cập đến việc

đại diện cho con. Tuy nhiên, có thể tin rằng ngƣời đại diện toàn quyền của con

phải là ngƣời trực tiếp nuôi con; ngƣời còn lại chỉ có quyền thăm nom và giám

sát nhƣng không mang tính bắt buộc.

Từ thực tiễn trên, ngƣời viết đề xuất nên có cơ chế giám sát việc thực hiện

quyền đại diện cho con trong những giao dịch liên quan đến tài sản có giá trị lớn,

tài sản là bất động sản hoặc động sản phải đăng ký. Có nghĩa là với những giao

dịch mà cần phải có sự đồng ý của cả cha mẹ hoặc thuộc những trƣờng hợp đặc

biệt nêu trên thì cần có thêm sự đồng ý của ngƣời giám sát và nguyện vọng của

con.

3.3 Định đoạt tài sản vì lợi ích của con chƣa thành niên

Theo Luật hôn nhân và gia đình, trong trƣờng hợp cha mẹ quản lý tài sản

riêng của con, thì có quyền định đoạt tài sản đó vì lợi ích của con, có tính đến

nguyện vọng của con, nếu con từ đủ 9 tuổi trở lên. Đây là một trong những

78

nguyên tắc thực hiện quyền đại diện của cha mẹ. Tuy nhiên, để hiểu nhƣ thế nào

là “lợi ích của con” thì chƣa có một văn bản nào đề cập đến.

Ví dụ: Hộ gia đình ông T là chủ sử dụng quyền sử dụng đất do UBND xã D

giao năm 2007. Trong hộ gia đình ông T tại thời điểm cấp giấy chứng nhận

quyền sử dụng đất có một thành viên chƣa đến tuổi thành niên là cháu B (sinh

năm 2004 – là con đẻ của ông T). Đến ngày 24/5/2017 ông T làm thủ tục thế

chấp quyền sử dụng đất nêu trên để bảo đảm cho công ty cổ phần X vay vốn. Tại

thời điểm làm thủ tục B mới đƣợc 13 tuổi. Nhƣ vậy việc thực hiện thủ tục thế

chấp bảo đảm cho côn ty X vay vốn đó có đảm bảo quyền lợi cho B hay không?

Phân tích tình huống giả định trên có thể thấy những vấn đề cốt lõi sau:

(1) Quyền sử dụng đất của hộ gia đình ông T đƣợc cấp sau khi cháu B đƣợc

sinh ra (lúc đó B đƣợc 3 tuổi), tức là B là một trong những ngƣời có quyền đối

với đất. Tại thời điểm làm thủ tục thế chấp B mới đƣợc 13 tuổi. Theo quy định

tại khoản 1 Điều 77 Luật hôn nhân và gia đình thì cha mẹ sẽ là ngƣời quản lý

định đoạt tài sản của con đƣới 15 tuổi. Trong tình huống này thì vợ chồng ông T

sẽ là ngƣời đại diện cho cháu B để thực hiện giao dịch này. Tuy nhiên cháu B đã

hơn 9 tuổi, theo quy định thì việc thế chấp phải xem xét đến nguyện vọng của

cháu B.

(2) Quyền sử dụng đất thế chấp nhằm bảo đảm cho công ty cổ phần X vay

vốn để hoạt động kinh doanh. Thế chấp là một hình thức bảo đảm thực hiện

nghĩa vụ tín dụng của chủ thể vay vốn đối với tổ chức tín dụng. Nhƣ vậy việc thế

chấp không hƣớng tới mục đích đem lại quyền lợi cho cháu B. Trong trƣờng hợp

xấu, bên vay vi phạm nghĩa vụ trả nợ thì tổ chức tín dụng có quyền xử lý tài sản

bảo đảm để thu hồi nợ. Nhƣ vậy, quyền lợi của cháu B đối với phần tài sản thuộc

79

quyền sử dụng của mình nằm trong khối tài sản chung của gia đình sẽ không

đƣợc bảo đảm.

(3) Một giả thiết khác đƣợc đặt ra là công ty cổ phần X có cổ phần của ông

T. Với tƣ cách là một cổ đông, đóng góp vào sự phát triển kinh doanh của công

ty nên ông T đã đem quyền sử dụng đất của hộ gia đình ra để thế chấp. Có hai

cách hiểu khác nhau trong tình huống này. Cách hiểu thứ nhất đó là vợ chồng

ông T đem tài sản đi thế chấp nhƣng chẳng may công ty hoạt động không tốt và

bị xử lý tài sản làm ảnh hƣởng đến quyền lợi của con do vậy không thể thế chấp

đƣợc. Theo cách hiểu thứ hai thì đây là hoạt động đầu tƣ thu lời. Công ty có

thêm vốn để thực hiện việc kinh doanh thì khoản lợi nhuận mà ông T thu đƣợc sẽ

đƣợc dùng một phần để bảo đảm nhu cầu sống cho cháu B và cả gia đình. Do

vậy vẫn có khả năng thực hiện việc thế chấp. Vấn đề này vẫn đang nằm ở quan

điểm.

Về mặt lập pháp, các nhà làm luật đƣa ra rất nhiều cơ chế để bảo về quyền

lợi cho con chƣa thành niên, đặc biệt là những lợi ích về tài sản. Trong khi đó,

lợi ích có thể đƣợc hiểu là điều có ích, đáp ứng nhu cầu nào đó về mặt lợi ích

bao gồm cả lợi ích về tinh thần lẫn vật chất. Với những lợi ích về vật chất có thể

thấy đƣợc một cách dễ dàng, còn lợi ích tinh thần phải do chính con chƣa thành

niên nhận biết. Việc này mang tính ƣớc đoán. Ví dụ: A 16 tuổi đƣợc ông nội tặng

một chiếc xe máy nhƣng do không có nhu cầu sử dụng, bên cạnh đó thì mẹ của

A lại đang bị bệnh. A muốn bán chiếc xe đó đi để lấy khoản tiền chữa bệnh cho

mẹ. Đối với trƣờng hợp này, việc bán chiếc xe đi không mang lại lợi ích vật chất

nào cho A. Tuy nhiên, là một ngƣời con A mong muốn mẹ có thể khỏi bệnh và

khoẻ mạnh. Đó là một dạng lợi ích tinh thần. Chiếc xe là động sản phải đăng ký

do vậy việc định đoạt chiếc xe phải cần có sự đồng ý của cha mẹ. Nếu trƣờng

80

hợp này cha mẹ không đồng ý cho A bán chiếc xe này vì sẽ ảnh hƣởng đến lợi

ích vật chất của A thì A hoàn toàn không thể bán chiếc xe đó. Nhƣ vậy, lợi ích

tinh thần của A lại không thể thực hiện đƣợc.

Nhƣ vậy, lợi ích vật chất có thể xác định một cách dễ dàng còn lợi ích vật

chất thì phải do chính con chƣa thành niên mới có thể xác định đƣợc. Chính vì

vậy việc tôn trọng ý kiến của con chƣa thành niên trong việc xác lập và thực hiện

giao dịch liên quan đến tài sản của con là cần thiết. Thay vì quy định “xem xét

nguyện vọng của con” nhƣ quy định hiện tại có thể thay bằng cụm từ “tôn trọng

nguyện vọng của con” để có tính đề cao hơn ý chí của con trong việc tham gia

giao dịch.

3.4 Giao dịch của con chƣa thành niên trong việc tặng cho tài sản.

Tài sản dùng trong giao dịch gồm hai loại là động sản và bất động sản. Bất

động sản bao gồm: đất đai, nhà cửa, công trình, cây cối gắn liền với đất đai, …

còn lại là động sản. Phần lớn các tranh chấp tập trung vào bất động sản. Do đó,

pháp luật có những quy định về giao dịch bất động sản chặt chẽ hơn so với giao

dịch động sản. Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định: Con từ đủ 15 tuổi đến

dƣới 18 tuổi có quyền định đoạt tài sản riêng, trừ trƣờng hợp tài sản là bất động

sản, động sản có đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng hoặc dùng tài sản để kinh

doanh thì phải có sự đồng ý bằng văn bản của cha mẹ hoặc ngƣời giám hộ

(khoản 2 Điều 77). Có thể thấy tại quy định này có sự phân biệt giữa động sản và

bất động sản. Đối với con chƣa thành niên từ đủ 15 tuổi đến dƣới 18 tuổi có thể

tự mình định đoạt tài sản riêng của mình, trừ giao dịch tặng cho đối với tài sản là

bất động sản, động sản phải đăng ký thì cần có sự đồng ý của cha mẹ. Sự kiểm

soát này của cha mẹ nhằm bảo đảm tài sản có giá trị lớn cho con tránh bị lợi

dụng. Tuy nhiên quy định này cũng chƣa thực sự chặt chẽ. Pháp luật chỉ quy

81

định phải có sự đồng ý của cha mẹ nếu tài sản là bất động sản hoặc động sản

phải đăng ký quyền sở hữu, sử dụng. Điều 107 Bộ luât dân sự 2015 quy định:

“1. Bất động sản bao gồm:

a) Đất đai;

b) Nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất đai;

c) Tài sản khác gắn liền với đất đai, nhà, công trình x y dựng;

d) Tài sản khác theo quy định của pháp luật.

2. Động sản là những tài sản không phải là bất động sản.”

Nhƣ vậy tiền đƣợc xếp vào loại động sản mà động sản thì con chƣa thành

niên từ đủ 15 tuổi đến dƣới 18 tuổi có thể tự mình định đoạt mà không cần sự

đồng ý của cha mẹ. Xem xét qua ví dụ thực tế sau: Trƣơng Văn Thắng, 16 tuổi

đƣợc thừa kế từ cha đẻ một sổ tiết kiệm 100 triệu. Sau đó, Thắng đƣợc một

ngƣời chú vay số tiền đó để làm ăn và hứa có trả thêm lãi. Sau khi biết chuyện

mẹ của Thắng không đồng ý và đòi lại số tiền. Tuy Nhiên ngƣời vay tiền không

đồng ý vì cho rằng giao dịch của mình hợp pháp vì Thắng đã 16 tuổi và có quyền

định đoạt tài sản của mình mà không cần sự đồng ý của mẹ. Nhƣ vậy trong

trƣờng hợp này, căn cứ nào để ngƣời mẹ có thể phản đối giao dịch đó của con.

Tình huống xấu nhất xảy ra là ngƣời vay tiền không trả lại nhƣ đã hứa hẹn thì

cũng rất khó để có thể đòi.

Một ví dụ khác: Phạm Văn Bằng, 15 tuổi đƣợc ông bà tặng cho quyền sử dụng

đất. Tuy nhiên khi thực hiện thủ tục công chứng tặng cho quyền sử dụng đất thì

mẹ của Bằng lại không đồng ý cho con nhận đất. Con chƣa thành niên trực tiếp

tham gia hợp đồng tặng cho với tƣ cách là bên tặng cho chỉ khi trong độ tuổi từ

đủ 15 đến dƣới 18 nhƣ đã phân tích ở trên. Còn đối với hợp đồng tặng cho mà

con chƣa thành niên tham gia với tƣ cách là bên đƣợc tặng cho thì không có giới

82

hạn nào về độ tuổi cũng nhƣ năng lực chủ thể. Tức là con kể cả mới chào đời

cũng có quyền có tài sản. Con chƣa thành niên có thể tự mình nhận tài sản tặng

cho hoặc thông qua cha mẹ của mình. Với đối tƣợng tài sản là động sản phải

đăng ký quyền sở hữu hay bất động sản thì việc tặng cho phải đƣợc lập thành

văn bản theo quy định của pháp luật và có sự đồng ý của cha mẹ. Trong ví dụ

trên, nếu mẹ Bằng không đồng ý thì không thể thực hiện giao dịch tặng cho

đƣợc. Phân tích về ý nghĩa của việc hạn chế các giao dịch của con chƣa thành

niên và quyền thực hiện giao dịch của ngƣời đại diện thì những giao dịch không

mang lại lợi ích cho con chƣa thành niên thì không đƣợc thực hiện. Tuy nhiên,

việc nhận tặng cho của con chƣa thành niên có thể thấy là đã làm gia tăng tài sản

của con chƣa thành niên, mang lại lợi ích cho con chƣa thành niên nhƣ vậy việc

không đồng ý cho nhận đất của mẹ Bằng có đƣợc coi là ảnh hƣởng đến lợi ích

của con hay không, pháp luật chƣa có quy định cụ thể.

Từ thực tiễn trên, ngƣời viết đề xuất với trƣờng hợp giao dịch của con chƣa

thành niên với tƣ cách là bên chuyển quyền cần thêm quy định hoặc hƣớng dẫn

cụ thể nhƣ: đối với giao dịch động sản của con chưa thành niên từ đủ 15 tuổi

đến chưa đủ 18 tuổi mà có giá trị lớn hơn hoặc bằng 50 phần trăm giá trị tài sản

của con thì cần phải có sự đồng ý của cha mẹ. Đối với những giao dịch của con

chƣa thành niên với tƣ cách là bên nhận chuyển quyền (cụ thể là bên nhận tặng

cho) thì cần quy định: Cha mẹ không được từ chối những giao dịch mình thực

hiện với tư cách là người đại diện mà mang lại lợi ích cho con.

3.5 Từ chối nhận di sản đƣợc hƣởng thừa kế của con

Pháp luật về thừa kế luôn tôn trọng ý chí tự do của ngƣời thừa kế trong việc

nhận di sản thừa kế của ngƣời chết để lại. Pháp luật không bắt buộc ngƣời hƣởng

di sản phải nhận di sản thừa kế nếu bản thân họ không muốn nhận phần di sản đó

83

(Quy định tại Điều 620 BLDS 2015). Từ chối quyền hƣởng di sản là một trong

những quyền của ngƣời hƣởng di sản thừa kế. Đặt trong mối quan hệ đại diện

của cha mẹ cho con chƣa thành niên, khi tham gia vào quan hệ thừa kế cha mẹ

có quyền tƣơng tự nhƣ ngƣời hƣởng di sản thừa kế, thay mặt cho con quyết định

các vấn đề trong quan hệ thừa kế đó vì lợi ích của con.

Ví dụ trong một quan hệ thừa kế, bố chồng mất, chồng mất trƣớc bố chồng,

vợ còn sống với con của họ 6 tuổi. Theo quy định của pháp luật, con của họ sẽ

đƣợc quyền hƣởng thừa kế thế vị suất của bố đã mất (mẹ không đƣợc quyền

hƣởng). Giả sử gia đình này ra Văn phòng công chứng phân chia tài sản thừa kế

của ông nội (bố của bố đứa trẻ). Vì đứa trẻ này chƣa thành niên nên mẹ của đứa

trẻ này (là ngƣời đại diện theo pháp luật) đại diện cho con thỏa thuận phân chia

tài sản thừa kế với những ngƣời thừa kế khác. Nếu trƣờng hợp ngƣời mẹ lại

không đồng ý nhận thừa kế tài sản mà lẽ ra con của mình đƣợc nhận theo quy

định của pháp luật mà để lại cho chú bác hƣởng, mặc dù chú, bác vẫn muốn cho

cháu hƣởng. Trong trƣờng hợp cụ thể này ngƣời mẹ đại diện theo pháp luật cho

con chƣa thành niên có quyền từ chối nhận tài sản mà con đƣợc hƣởng thừa kế

hay không, pháp luật chƣa có quy định cụ thể về vấn đề này. Mặc dù theo quy

định của BLDS thì ngƣời chƣa đủ sáu tuổi không có năng lực hành vi dân sự nên

giao dịch dân sự của ngƣời chƣa đủ sáu tuổi phải do ngƣời đại diện theo pháp

luật xác lập, thực hiện. Theo tình huống thì ngƣời mẹ là đại diện theo pháp luật

của con vì thế có toàn quyền quyết định các giao dịch liên quan đến quyền, nghĩa

vụ của con. Nhƣng trƣờng hợp này ngƣời mẹ từ chối tài sản mà con đƣợc nhận

nhƣ vậy là không đảm bảo lợi ích của con theo quy định tại khoản 1 điều 144

BLDS 2005 trƣớc đây và khoản 2 điều 141 BLDS hiện hành năm 2015, mặc dù

vấn đề ngƣời chƣa thành niên đƣợc BLDS 2015 quy định tại Điều 21 BLDS năm

84

2015 (khoản 2 - giao dịch dân sự của ngƣời chƣa đủ sáu tuổi do ngƣời đại diện

theo pháp luật của ngƣời đó xác lập, thực hiện). Vậy việc ngƣời mẹ từ chối nhận

tài sản có vi phạm quy định pháp luật hay không, pháp luật hiện hành chƣa có

quy định cụ thể.

Từ thực tiễn trên, ngƣời viết nhận thấy trong trƣờng hợp cha mẹ đại diện

cho con tham gia vào quan hệ thừa kế mà cụ thể là nhận di sản thừa kế phải đặt

quyền lợi của con lên trên hết. Do vậy, đề xuất bổ sung thêm quy định: Cha mẹ

với tư cách là người đại diện không được phép từ chối di sản thừa kế do con

chưa thành niên được nhận, trừ trường hợp cha mẹ chứng minh được việc từ

chối nhận di sản thừa kế vì lợi ích của con chưa thành niên, trừ khi chứng minh

được việc cha mẹ từ chối nhận di sản thà kế vì lợi ích của con chưa thành niên.

Tiểu kết Chƣơng 3

Trong thực tiễn thực hiện các giao dịch dân sự của con chƣa thành niên, có

không ít những bất cập trong quy định về việc thực hiện quyền đại diện quyền

đại diện của cha mẹ cho con chƣa thành niên. Chính những bất cập trong quy

định và bế tắc trong quá trình thực hiện đã phần nào ảnh hƣởng không nhỏ đến

quyền lợi của ngƣời chƣa thành niên khi tham gia giao dịch dân sự. Tại Chƣơng

3 luận văn đƣa ra một số những kiến nghị trong trƣờng hợp cụ thể, phân tích

nguyên nhân dẫn đến việc không đảm bảo lợi ích cho con chƣa thành niên để có

những đề xuất hoàn thiện hơn chế định đại diện của cha mẹ cho con chƣa thành

niên trong giao dịch dân sự. Việc hoàn thiện pháp luật là cơ sở để cha mẹ thực

hiện tốt hơn việc đại diện của mình và bảo đảm lợi ích tối đa cho con chƣa thành

niên khi tham gia vào các giao dịch dân sự.

85

KẾT LUẬN

Giao dịch dân sự ngày càng đóng vai trò quan trọng trong giao lƣu dân sự,

đặc biệt là những giao dịch dân sự liên quan đến con chƣa thành niên. Là một đối

tƣợng đƣợc bảo vệ trong xã hội do chƣa phát triển đầy đủ, chƣa hoàn thiện về thể

chất, trí tuệ, tinh thần và tâm sinh lý, do đó chƣa đủ nhận thức và năng lực để

thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo pháp luật của mình. Để bảo vệ quyền và lợi

ích chính đáng của ngƣời chƣa thành niên khi tham gia vào các quan hệ dân sự,

góp phần bảo đảm sự ổn định pháp lý của các giao dịch dân sự nói chung và

quyền lợi của những ngƣời chƣa thành niên nói riêng thì pháp luật đã đặt ra chế

định đại diện cho con chƣa thành niên và chủ thể có quyền đại diện trƣớc hết là

cha mẹ. Do vậy, việc đại diện của cha mẹ có ý nghĩa rất lớn đối với việc thực

hiện giao dịch của con chƣa thành niên.

Trên cơ sở thực hiện các giao dịch dân sự của con chƣa thành niên và việc

thực hiện quyền đại diện của cha mẹ đối với con theo quy định của Bộ luật dân

sự 2015, luật hôn nhân và gia đình 2014 và các luật chuyên ngành khác, luận văn

đã chỉ ra những vấn đề bất cập trong các quy định của pháp luật về việc thực

hiện quyền đại diện của cha mẹ cho con chƣa thành niên cũng nhƣ việc tham gia

giao dịch dân sự của con chƣa thành niên.

Hiện nay, pháp luật đã chú trọng hơn về việc xây dựng các cơ chế để bảo về

quyền lợi cho con chƣa thành niên, các quy định của pháp luật cũng tƣơng đối

đầy đủ. Tuy nhiên vẫn còn những quy định chƣa đƣợc quy định cụ thể và việc áp

dụng vẫn còn nhiều lúng túng không biết xử lý nhƣ thế nào. Do đó, nghĩa vụ

đƣợc đặt ra là cần phải xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Dân sự nói

86

chung, các quy phạm chuyên ngành nói riêng để bảo đảm cho việc thực thi các

quyền và lợi ích hợp pháp của ngƣời chƣa thành niên trong thực tiễn đƣợc hiệu

quả góp phần hoàn thiện các quy định của hệ thống pháp luật, đảm bảo những

quyền cơ bản của công dân, quyền của ngƣời chƣa thành niên.

87

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Văn ản pháp luật

1. Hiến pháp năm 2013

2. Bộ luật dân sự năm 2005

3. Bộ luật dân sự năm 2015

4. Luật hôn nhân và gia đình năm 2014

5. Bộ luật lao động năm 2012

6. Luật đất đai năm 2013

7. Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 1991

8. Luật trẻ em 2016

9. Luật thanh niên 2005

10. Luật nuôi con nuôi 2010

11. Công ƣớc Liên Hiệp quốc về quyền trẻ em năm 1989

12. Công ƣớc số 182 - Công ƣớc Nghiêm cấm và hành động khẩn cấp xoá bỏ

các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất, năm 1999

13. quy tắc tối thiểu phổ biến của Liên Hợp quốc về bảo vệ ngƣời chƣa thành

niên bị tƣớc quyền tự do năm 1990

14. Quốc triều hình luật, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật tái bản năm

2017

Sách, áo, luận văn, h a luận tốt nghiệp

15. Sách tham khảo. Quyền của người nước ngoài. Khoa Luật Đại học Quốc gia

Hà Nội. Chủ biên: PGS.TS. Nguyễn Thị Quế Anh, PGS.TS. Vũ Công Giao,

TS. Ngô Minh Hƣơng và TS. Lã Khánh Tùng, 2018.

16. Lƣơng Văn Tuấn, Các giá trị nh n văn, tiến bộ của uốc triều hình luật,

NXB Chính trị Quốc gia sự thật, năm 2016.

88

17. Hoàng Thị Vân Anh, uyền và nghĩa vụ của người chưa thành niên trong

việc thực hiện các giao dịch d n sự, Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học luật

Hà Nội, năm 2014.

18. Nguyễn Thị Hiền, Năng lực hành vi d n sự của người chưa thành niên, luận

văn thạc sĩ luật học, Đại học luật Hà Nội, năm 2007.

19. Nguyễn Thái Hà, Công chứng hợp đồng giao dịch về tài sản của con chưa

thành niên, luận vă thạc sĩ luật học, Đại học luật Hà Nội, năm 2017.

20. Nguyễn Văn Cừ và Trần Thị Huệ (đồng chủ biên), Bình luận khoa học Bộ

luật dân sự 2015, NXB Công an Nhân dân, năm 2017.

21. Nguyễn Minh Tuấn (chủ biên), Bình luận khoa học bộ luật dân sự, NXB Tƣ

pháp, năm 2016.

22. Giáo trình luật dân sự tập 1, tập 2, trƣờng đại học Luật Hà Nội, nhà xuất bản

công an nhân dân, năm 2017.

23. Giáo trình luật dân sự tập 1, tập 2, Viện đại học Mở Hà Nội, NXB Giáo dục

Việt Nam, năm 2015.

24. Giáo trình kỹ năng hành nghề công chứng tập 2, NXB Tƣ pháp, năm 2017.

25. Vân Hà (1999), Quyền về tài sản và quyền thừa kế của người chưa thành

niên, Tạp chí Tòa án nhân dân, (Số 4 1999), tr. 12-14.

26. Nguyễn Thị Phƣơng Châm, bài viết “Đại diện bề ngoài nhìn từ góc độ pháp

luật dân sự Nhật Bản”, Tạp chí luật học số 6/2016.

Cơ sở d liệu điện t

27. Quy định của pháp luật về tặng cho tài sản ở một số quốc gia trên thế giới

và ở Việt Nam

http://tcdcpl.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/thi-hanh-phap-

luat.aspx?ItemID=195

89

28. Một số điểm mới về giao dịch dân sự của BLDS năm 2015

http://khpl.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx?ItemID=27

29. Một số điểm mới về giám hộ và đại diện trong BLDS năm 2015

http://khpl.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx?ItemID=28

30. Hạn chế quyền của cha mẹ đối với con chƣa thành niên – Thực tiễn và giải

pháp.

http://moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx?ItemID=1742

90