ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN Nguyễn Thị Thu Hương Đảng bộ huyện Quỳnh Lưu - tỉnh Nghệ An lãnh đạo xây dựng lực lượng vũ trang từ 1986 đến 2004 Luận văn ThS. Lịch sử: 60.22.56 Nghd. : PGS.TS. Nguyễn Đình Lê

1

MỤC LỤC

Tran

g

MỞ ĐẦU 1

Chƣơng 1. Chủ trƣơng của Đảng bộ huyện Quỳnh Lƣu

về xây dựng lực lƣợng vũ trang. 6

1.1. Yêu cầu khách quan xây dựng lực lượng vũ trang trên

địa bàn huyện Quỳnh Lưu. 6

1.2. Chủ trương của Đảng bộ huyện Quỳnh Lưu về xây dựng

lực lượng vũ trang từ năm 1986 đến 2004. 17

Chƣơng 2. Đảng bộ huyện Quỳnh Lƣu chỉ đạo xây dựng

lực lƣợng vũ trang từ năm 1986 đến 2004. 33

2.1. Xây dựng chính trị, tư tưởng cho lực lượng vũ trang

huyện. 33

2.2. Xây dựng lực lượng bộ đội địa phương 37

2.3. Xây dựng lực lượng dân quân tự vệ 52

2.4. Xây dựng và huy động lực lượng dự bị động viên 61

Chƣơng 3. Kết quả và một số kinh nghiệm trong xây

dựng lực lƣợng vũ trang huyện Quỳnh Lƣu. 69

3.1. Những kết quả chủ yếu và khuyết điểm, yếu kém. 69

3.2. Một số kinh nghiệm trong xây dựng lực lượng vũ trang 76

huyện Quỳnh Lưu thời kỳ 1986 - 2004.

KẾT LUẬN 88

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 90

2

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Hiện nay, tình hình thế giới đang diễn biến nhanh chóng, phức tạp chứa

đựng nhiều yếu tố khó lường. Trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương

cũng đang tiềm ẩn một số nhân tố có thể gây mất ổn định. Những nhân tố đó

tác động trực tiếp đến công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ

quốc của nhân dân ta.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng khẳng định: “Tăng

cường quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ là nhiệm

vụ trọng yếu thường xuyên của Đảng, Nhà nước và của toàn dân, trong đó

Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là lực lượng nòng cốt…” [14, tr117].

Trong nhiệm vụ chung đó, Đảng ta hết sức quan tâm đến nhiệm vụ xây dựng

lực lượng vũ trang đặc biệt là xây dựng lực lượng vũ trang ở địa phương -

một trong những nhân tố quyết định thắng lợi trong các cuộc kháng chiến vừa

qua và còn có một vai trò quan trọng trong giai đoạn hiện nay.

Quỳnh Lưu là một trong những địa bàn quan trọng có vị trí chiến lược

của Quân khu IV và tỉnh Nghệ An, nằm ở thế “nam Thanh - bắc Nghệ” với

địa hình phong phú đa dạng, có các đường giao thông chiến lược chạy qua, có

địa thế thông ra biển đông và là bàn đạp ra bắc, vào nam, lên miền tây, có

vùng rừng núi khá rộng và liên hoàn; từng nằm trong những điểm hoạt động

chống phá cách mạng của các thế lực thù địch. Trong những năm qua, dưới sự

lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Đảng bộ huyện, lực lượng vũ trang Quỳnh Lưu

luôn luôn kiên định vững vàng, có trình độ sẵn sàng chiến đấu và sức chiến

3

đấu ngày càng cao, thường xuyên cảnh giác, kịp thời đập tan mọi âm mưu của

các thế lực thù địch, giữ gìn trật tự an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc địa

phương.

Tìm hiểu một cách đầy đủ quá trình trưởng thành của lực lượng vũ trang

Quỳnh Lưu dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện từ 1986 đến 2004, rút ra

những bài học kinh nghiệm thiết thực để vận dụng vào quá trình thực hiện

nhiệm vụ xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân hiện nay có ý nghĩa khoa học,

thiết thực.

Vì vậy, tôi đã chọn “Đảng bộ huyện Quỳnh Lưu - tỉnh Nghệ An lãnh đạo

xây dựng lực lượng vũ trang từ 1986 đến 2004” làm đề tài luận văn thạc sĩ

Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Vấn đề xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng đã được nhiều cơ quan

của Đảng, Nhà nước, các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu dưới các góc độ,

phạm vi khác nhau.

Nhiều nhà lãnh đạo của Đảng và Nhà nước đã có những bài viết quan

trọng đã được in thành sách như: Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Trường Chinh, Võ

Nguyên Giáp (1966), Bàn về chiến tranh nhân dân và lực lượng vũ trang

nhân dân ( Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội); Văn Tiến Dũng (1965), Bàn về

những kinh nghiệm xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng của Đảng ta (

Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội); Võ Nguyên Giáp (1967), Những kinh

nghiệm lớn của Đảng ta về lãnh đạo đấu tranh vũ trang và xây dựng lực

lượng vũ trang cách mạng ( Nxb sự thật, Hà Nội). Những công trình đó có

tính chất chỉ đạo.

4

Tuy nhiên, đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ

thống, trực tiếp vấn đề: “Đảng bộ huyện Quỳnh Lưu - tỉnh Nghệ An lãnh đạo

xây dựng lực lượng vũ trang từ 1986 đến 2004” dưới góc độ khoa học Lịch

sử Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhưng các công trình đã nghiên cứu trên là

những tài liệu quý, phong phú có thể kế thừa, vận dụng trong quá trình thực

hiện luận văn này.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích

Thông qua trình bày có hệ thống quan điểm, đường lối, kết quả của quá

trình lãnh đạo của Đảng bộ huyện Quỳnh Lưu về xây dựng lực lượng vũ trang

từ 1986 đến 2004, rút ra những kinh nghiệm cần thiết cho công cuộc xây dựng

và bảo vệ quê hương, đất nước hiện tại và qua đó làm nổi bật vai trò lãnh đạo

của Đảng bộ, góp phần củng cố lòng tin trong lực lượng vũ trang và nhân dân

ta vào sự lãnh đạo của Đảng.

3.2. Nhiệm vụ

Để đạt được mục đích trên, đề tài phải giải quyết những nhiệm vụ sau:

- Trình bày những yêu cầu khách quan xây dựng lực lượng lực lượng vũ

trang trên địa bàn huyện Quỳnh Lưu.

- Làm rõ những chủ trương và kết quả quá trình Đảng bộ huyện Quỳnh

Lưu lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng lực lượng vũ trang từ năm 1986 đến 2004.

- Nêu lên những kết quả, hạn chế và rút ra một số bài học kinh nghiệm

về xây dựng lực lượng vũ trang địa phương trong giai đoạn hiện nay.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

5

- Nghiên cứu yếu tố chủ quan, khách quan cần phải tăng cường xây dựng

lực lượng vũ trang trên địa bàn huyện Quỳnh Lưu.

- Nghiên cứu quá trình lãnh đạo và chỉ đạo của Đảng bộ Huyện Quỳnh

Lưu về xây dựng lực lượng vũ trang từ năm 1986 đến 2004.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Luận văn chỉ giới hạn trình bày về sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện

Quỳnh Lưu về xây dựng lực lượng vũ trang địa phương từ 1986 đến 2004.

5. Cơ sở lý luận, nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận

Cơ sở lý luận của luận văn là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí

Minh, quan điểm, đường lối của Đảng ta về xây dựng lực lượng vũ trang, nhất

là trong thời kỳ đổi mới.

5.2. Nguồn tài liệu

+ Một số tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin và Hồ Chí

Minh.

+ Các văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc, Nghị quyết Hội nghị Ban chấp

hành Trung ương Đảng, Bộ chính trị, Nghị quyết của Đảng uỷ Quân khu IV,

Đảng uỷ huyện Quỳnh Lưu và Đảng uỷ Quân sự huyện Quỳnh Lưu.

+ Các công trình khoa học của các cơ quan, các nhà khoa học trong và

ngoài nước có liên quan đến đề tài luận văn.

+ Kết quả khảo sát thực tế của tác giả tại địa phương.

5.3. Phương pháp nghiên cứu

6

Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu chủ yếu là phương pháp lịch

sử và phương pháp logíc, đồng thời còn sử dụng một số phương pháp khác

như phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê…

6. Đóng góp của luận văn

- Bước đầu trình bày một cách có hệ thống sự lãnh đạo của Đảng bộ

huyện Quỳnh Lưu về xây dựng lực lượng vũ trang từ 1986 đến 2004, rút ra

một số bài học kinh nghiệm về xây dựng lực lượng vũ trang trong thời kỳ này,

qua đó góp phần làm sáng tỏ sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng Cộng

sản Việt Nam nói chung và Đảng bộ huyện Quỳnh Lưu nói riêng trong quá

trình lãnh đạo xây dựng lực lượng vũ trang - lực lượng nòng cốt trong hai

cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và đang là một lực lượng chính trị, lực

lượng chiến đấu trung thành, tin cậy của Đảng.

- Thành công của luận văn góp phần tổng kết thực tiễn, cung cấp cơ sở lý

luận, cứ liệu, phục vụ công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và Đảng bộ ở các

địa phương trong việc xây dựng lực lượng vũ trang.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn

gồm có 3 chương, 8 tiết.

Chƣơng 1. Chủ trương của Đảng bộ huyện Quỳnh Lưu về xây dựng

lực lượng vũ trang.

Chƣơng 2. Đảng bộ huyện Quỳnh Lưu chỉ đạo xây dựng lực lượng vũ

trang từ năm 1986 đến 2004.

Chƣơng 3. Kết quả và một số kinh nghiệm trong xây dựng lực lượng

vũ trang huyện Quỳnh Lưu.

7

Chƣơng 1

CHỦ TRƢƠNG CỦA ĐẢNG BỘ HUYỆN QUỲNH LƢU VỀ XÂY

DỰNG LỰC LƢỢNG VŨ TRANG

1.1. Yêu cầu khách quan xây dựng lực lƣợng vũ trang trên địa bàn

huyện Quỳnh Lƣu

1.1.1. Đặc điểm về vị trí địa lý, kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội

huyện Quỳnh Lưu

* Vị trí địa lý

Quỳnh Lưu là một huyện thuộc phía bắc của tỉnh Nghệ An, cách thành

phố Vinh khoảng 60 km về phía bắc. Phía bắc huyện Quỳnh Lưu giáp huyện

Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hoá. Phía nam và tây nam Quỳnh Lưu giáp huyện Diễn

Châu và huyện Yên Thành với ranh giới khoảng 31 km. Phía tây, giáp huyện

Nghĩa Đàn với ranh giới khoảng 33 km. Phía đông, huyện Quỳnh Lưu giáp

biển đông với đường bờ biển dài 34 km.

Diện tích tự nhiên của huyện Quỳnh lưu là 586,4 km2 chiếm 3,58% diện

tích toàn tỉnh, đứng hàng thứ nhất các huyện đồng bằng, thành thị và đứng

hàng thứ 11 so với các huyện thị của tỉnh Nghệ An. Chiều dài huyện từ bắc

xuống nam là khoảng 26 km (tính theo chiều dài quốc lộ 1A chạy qua), chiều

rộng từ bờ biển đông đến điểm cực tây khoảng 22 km.

Địa hình Quỳnh Lưu thấp dần từ bắc xuống nam và từ tây sang đông. Đó

là địa hình rất đa dạng, đất đai tự nhiên được cấu tạo khác nhau. Có thể chia

địa hình của huyện ra làm 3 vùng tiêu biểu: vùng ven biển, vùng đồng bằng

và vùng đồi núi.

8

Sông ngòi, kênh đào, cửa biển Quỳnh Lưu đóng một vai trò khá quan

trọng trong cấu tạo hệ thống địa hình cũng như ảnh hưởng tới bộ mặt kinh tế -

xã hội của huyện, như Sông Giát, Sông Hoàng Mai, đặc biệt, có một con kênh

khá dài và rộng (dài hơn 20km) được gọi nhiều tên khác nhau tuỳ từng giai

đoạn nhưng phổ biến nhất và thành một tên chung là kênh nhà Lê. Theo Đại

Việt sử ký toàn thư thì kênh này được đào từ thời Bắc thuộc và được đào

thêm với quy mô lớn vào thời Tiền Lê năm thứ ba của Lê Đại Hành (982).

Qua nhiều thế kỷ, kênh đào này được gia cố, trở thành tuyến vận chuyển khá

quan trọng đáp ứng cho nhu cầu kinh tế và quốc phòng trong vùng.

Hệ thống giao thông ở Quỳnh Lưu phong phú và thuận tiện. Tuyến

đường sắt bắc - nam chạy qua huyện từ xã Quỳnh Thiện phía bắc đến xã

Quỳnh Giang phía nam dài hơn 30 km, có hai ga: Hoàng Mai và Cầu Giát.

Đây là hai ga được coi là trọng yếu trung chuyển hàng trong cuộc kháng chiến

chống Mỹ, cứu nước, ngày nay trở thành ga phụ trong tuyến vận chuyển

đuờng sắt bắc nam. Quỳnh Lưu còn một tuyến đường sắt nữa theo hướng tây

bắc, xuất phát từ ga Cầu Giát lên huyện Nghĩa Đàn dài 15 km. Tuyến đường

sắt này chủ yếu phục vụ cho việc vận chuyển hàng hoá, nông, lâm sản.

Trong các tuyến đường bộ, lớn nhất là quốc lộ 1A chạy qua địa bàn

huyện Quỳnh Lưu dài 26 km. Sau quốc lộ 1A là quốc lộ 48 chạy từ Yên Lý

lên Nghĩa Đàn, Quỳ Hợp, Quỳ Châu, Quế Phong, đoạn chạy qua Quỳnh Lưu

chỉ dài hơn 10 km, nhưng cũng là tuyến giao lưu rất quan trọng nối Quỳnh

Lưu với vùng núi của tỉnh Nghệ An.

Tỉnh lộ là đường 37 A dài 25 km từ Lạch Quèn qua Ngò, thị trấn Cầu

Giát lên ngã ba Tuần nối với quốc lộ 48. Huyện lộ có rất nhiều con đường có

ý nghĩa lớn đối với sự phát triển kinh tế, xã hội và an ninh, quốc phòng.

9

Như vậy là quanh trục quốc lộ 1A, đường Quỳnh Lưu đã tạo ra hệ thống

đường “xương cá”, từ hệ thống đường “xương cá” này lại tạo ra đường “bàn

cờ”, tức là đường liên xã, liên thôn.

Đường biển góp phần không nhỏ cho cư dân Quỳnh Lưu giao lưu với

các tỉnh phía bắc và phía nam.

Nhìn chung, Quỳnh Lưu có vị trí địa lý quan trọng đối với quốc phòng,

bởi vì nó nằm vào thế “nam Thanh bắc Nghệ” có các đường giao thông chiến

lược chạy qua, có địa thế thông ra biển đông và là bàn đạp ra bắc, vào nam,

lên miền tây. Có thể nói, Quỳnh lưu nhiều lần đã trở thành nơi chiến địa, do

vậy, được đánh giá rằng: “Quỳnh Lưu chiến địa, Mai giang huyết thống”.

[2,tr23]

* Kinh tế, xã hội và văn hoá

Hiện nay, Quỳnh Lưu có 42 đơn vị hành chính cơ sở (41 xã và một thị

trấn). Dân số Quỳnh Lưu 340.988 người, trong đó có 35.000 người theo đạo

thiên chúa nằm ở 21 xã (chiếm 12% dân số so với toàn huyện) và có gần 2000

người là đồng bào dân tộc thiểu số, chủ yếu dân tộc Thái thuộc nhóm Mãn

Thanh theo cách gọi của chính họ. Số hộ người Thái hiện nay chủ yếu sống ở

xã Quỳnh Thắng phía tây của huyện. Theo số liệu thống kê thì dân số Quỳnh

Lưu đông nhất so với các huyện, thị của tỉnh Nghệ An.

Kinh tế Quỳnh Lưu đa dạng, nhưng nét chung nhất nông nghiệp là chủ

yếu. Nông nghiệp nổi bất nhất là trồng lúa và màu.

Kinh tế biển cũng là một trong những lợi thế của Quỳnh Lưu do có hàng

chục km bờ biển và 3 cửa lạch. Hải sản không những cung cấp cho nhu cầu

của cư dân trong vùng mà còn cho cả những vùng lân cận. Ngoài ra, nhân dân

Quỳnh Lưu còn có thêm nghề làm muối với tổng diện tích đất có thể làm

10

đồng muối lên tới khoảng 1000 ha. Ngoài nghề làm muối còn có các nghề:

làm gạch ngói, nung vôi, đục đá, mộc, nuôi tằm, dệt lụa, làm nón, đóng

thuyền…

Từ năm 1986 đến 2004, trong công cuộc đổi mới đất nước, Đảng bộ

huyện Quỳnh Lưu đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo các cấp, các ngành, địa

phương phát huy nội lực, tranh thủ ngoại lực, khai thác mọi tiềm năng, lợi thế,

phát triển kinh tế toàn diện. Đến năm 2004 kinh tế của Quỳnh Lưu tăng

trưởng 13,1%. Thu nhập bình quân đầu người năm 2004 là 4.170.000

đồng/người một năm. Hộ nghèo đói giảm từ 28% năm 1990 xuống 10,07%

năm 2004. Sản xuất nông nghiệp có bước đi ổn định và khá vững chắc, sản

lượng lương thực năm 2004 đạt 105.551 tấn, tăng 45.551 tấn so với năm

1990.[48]

Nghề nuôi trồng, đánh bắt thuỷ hải sản phát triển mạnh, phong phú, phát

huy có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh kinh tế vùng biển và ven biển.

Công nghiệp xây dựng đạt mức tăng trưởng cao và từng bước tăng tỉ

trọng trong cơ cấu kinh tế, nhiều ngành nghề phát triển nhanh, mạnh như: Vật

liệu xây dựng, cơ khí, điện, sửa chữa đóng mới tàu thuyền, vừa bảo đảm phát

triển kinh tế, vừa bảo đảm yêu cầu phục vụ quốc phòng khi cần thiết.

Về cơ sở hạ tầng, Huyện uỷ đã huy động sức dân và tranh thủ mọi nguồn

vốn đầu tư xây dựng điện, đường, trường, trạm, với tổng đầu tư trong hơn 15

năm gần 1.200 tỷ đồng, trong đó nhân dân đóng góp 43%. Đến nay, 100% số

xã đã có điện lưới quốc gia. Hệ thống giao thông nông thôn (trong đó có 50%

đường nhựa), kênh mương, hồ đập được xây dựng.

Văn hoá huyện Quỳnh Lưu phát triển khá toàn diện. Hàng năm, huyện

đã tổ chức nhiều cuộc giao lưu văn hoá, văn nghệ. Đến năm 2004 toàn huyện

đã có 76% số gia đình đạt Gia đình văn hoá, có 203 xóm, cơ quan, trường học

11

được công nhận Làng văn hoá, đơn vị văn hoá, 8 đơn vị được tặng danh hiệu

Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, 123 bà mẹ được phong tặng danh hiệu

Mẹ Việt Nam anh hùng. [48]

Giáo dục - đào tạo có nhiều chuyển biến, tiến bộ rõ nét cả về số lượng và

chất lượng, là đơn vị nhiều năm đạt tiêu chuẩn tiên tiến xuất sắc của tỉnh. Tỷ

lệ huy động trẻ em đến trường đạt kế hoạch đề ra. Huyện đã chú trọng quan

tâm đầu tư cơ sở vật chất, đáp ứng ngày càng tốt hơn quá trình dạy và học.

Năm 2004, toàn huyện có 196 trường học (trong đó có 9 trường THPT) tăng

49 trường. Số học sinh các cấp học 112.613 em (trung bình 3 người dân có 1

người đi học) tăng 43.130 em so với năm 1989, chất lượng giáo dục ngày

càng được nâng cao, hàng năm học sinh giỏi các trường đều tăng, nhiều học

sinh đạt giải học sinh giỏi quốc gia, tỉnh và huyện, năm 2004 có 5.638 học

sinh giỏi huyện, tăng 3.750 em, học sinh giỏi tỉnh 663 em, tăng 602 em so với

năm 1996. Đến năm 2004 đã có 28 xã hoàn thành phổ cập THCS và 17

trường đạt tiêu chuẩn quốc gia, mở 6 trung tâm học tập cộng đồng bảo đảm

nhu cầu học tập thường xuyên cho nhân dân lao động.[48]

Công tác y tế có nhiều chuyển biến, chất lượng khám chữa bệnh ngày

càng được nâng lên; thực hiện tốt công tác y tế dự phòng và chương trình 12

quân dân y kết hợp, không có dịch bệnh lớn xảy ra. Thực hiện tốt công tác

tuyên truyền dân số, kế hoạch hoá gia đình, bảo vệ chăm sóc bà mẹ trẻ em.

Đến năm 2004 đã có 51,2% trạm trưởng y tế là bác sỹ, có 158 xóm không có

người sinh con thứ 3, tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng là 32,12%. Tỷ lệ tăng dân

số 1,04%.[48]

Việc thực hiện chính sách xã hội, chính sách hậu phương quân đội có

nhiều cố gắng. Đã cơ bản hoàn thành việc giải quyết những tồn đọng và khen

thưởng sau các cuộc chiến tranh, thực hiện chi trả chế độ cho các đối tượng

12

đầy đủ, kịp thời. Phong trào “đền ơn, đáp nghĩa”, “uống nước nhớ nguồn” đã

được đông đảo quần chúng nhân dân hưởng ứng bằng nhiều hình thức như:

phụng dưỡng Mẹ Việt Nam anh hùng, xây nhà tình nghĩa, tặng sổ tiết kiệm,

vườn tình nghĩa… đã góp phần nâng cao đời sống vật chất cũng như tinh thần

cho các đối tượng chính sách. Hàng năm đã tạo được việc làm cho khoảng

1.500 đến 2000 người lao động. Cuộc vận động “ngày vì người nghèo” đã

được các cấp, các ngành và mọi tầng lớp nhân dân đồng tình ủng hộ. Đến nay

đã thu được 1 tỷ 158 triệu đồng, làm được 170 nhà đại đoàn kết, sửa chữa 50

nhà, làm 5 nhà văn hoá cho 5 bản dân tộc.[48]

Những kết quả đó phản ánh trách nhiệm và năng lực lãnh đạo của Đảng

bộ huyện trong thời kỳ 1986 đến 2004 trên tất cả mọi phương diện về kinh tế,

chính trị, văn hoá, xã hội, góp phần từng bước nâng cao đời sống vật chất và

tinh thần của nhân dân huyện Quỳnh Lưu.

1.1.2. Truyền thống đấu tranh cách mạng của nhân dân Quỳnh Lưu.

Tổ chức đầu tiên của Đảng bộ huyện Quỳnh Lưu ra đời ngày 20/4/1930.

Dưới sự lãnh đạo của Huyện uỷ, trải qua 15 năm đấu tranh gian khổ Quỳnh

Lưu đã cùng với nhân dân cả nước giành được chính quyền về tay nhân dân,

mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc Việt Nam: kỷ nguyên độc lập, tự do

gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, do hình thái của

cuộc kháng chiến, các tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An và Hà Tĩnh trở thành một

trong những vùng tự do liên hoàn (thường được gọi là vùng tự do Thanh -

Nghệ - Tĩnh). Đây là vùng không có quân Pháp chiếm đóng, do vậy, đã trở

thành một trong những hậu phương, căn cứ địa của cuộc kháng chiến chống

thực dân Pháp xâm lược.

13

Do vị trí địa lý của mình, vùng tự do liên hoàn Thanh - Nghệ - Tĩnh có

vai trò quan trọng đối với cuộc kháng chiến toàn quốc. Đây là vùng đất tương đối rộng (khoảng hơn 34.000 km2), với dân số khoảng gần 5 triệu người, lại

có địa hình đa dạng, do đó, vùng này là nơi cung cấp sức người, sức của khá

quan trọng cho tiền tuyến (đóng góp lương thực, đi bộ đội, đi dân công).

Vùng tự do Thanh - Nghệ - Tĩnh là nơi đứng chân của lực lượng vũ trang

trong nhiều chiến dịch, có thể phát triển các chiến dịch đấu tranh vũ trang ra

các tỉnh phía bắc và cũng có thể phát triển tiến xuống phía nam (từ Quảng

Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên trở vào). Đồng thời, vùng này còn là căn cứ cho

lực lượng vũ trang của ta phối hợp chiến đấu trên các chiến trường Lào và

Cămpuchia. Đây là vùng có thể xây dựng các căn cứ cho kháng chiến, các cơ

sở hậu cần như các xưởng sản xuất vũ khí, kho tàng… Đây cũng là vùng tiếp

tục xây dựng chế độ mới trong điều kiện tương đối hoà bình. Nhiều cơ sở của

ngành giáo dục - đào tạo, ngành văn hoá của nước nhà được đặt ở vùng này.

Với vị trí và vai trò như vậy, cho nên vùng Thanh - Nghệ - Tĩnh luôn

luôn là mục tiêu để thực dân Pháp phá hoại về nhiều mặt: chính trị, quân sự,

kinh tế, tư tưởng, văn hoá… Chúng dùng mọi thủ đoạn, cả quân sự và chiến

tranh tâm lý phá hoại hậu phương của cuộc kháng chiến, tiêu hao sức mạnh

kháng chiến, thậm chí khi có điều kiện chúng còn tìm cách đổ quân vào chiếm

đóng lâu dài. Do vậy, việc tăng cường lực lượng về mọi mặt để chiến đấu bảo

vệ hậu phương Thanh - Nghệ - Tĩnh là nhiệm vụ chính trị quan trọng của

Đảng và nhân dân ta trong thời kỳ này.

Trong những điểm chung của vùng tự do Thanh - Nghệ - Tĩnh, huyện

Quỳnh Lưu có những đặc điểm riêng về vị trí địa lý. Quỳnh Lưu có nhiều cửa

biển, đồng thời nhiều đồi núi nhô ra biển, vì vậy địch có thể lợi dụng nhiều

địa hình để dễ dàng đóng quân, xâm nhập vào đất liền, theo các sông có thể

14

tiến vào các xã bán sơn địa phía tây. Với bờ biển dài cộng với địa hình đa

dạng, kẻ địch vừa có thể dùng tàu biển lớn, lại có thể dùng tàu, thuyền nhỏ để

gây ra những cuộc đổ bộ, phá hoại, quấy rối tập kích. Vùng rừng núi Quỳnh

Lưu khá rộng và liên hoàn kéo dài ra miền tây Thanh Hoá, nối liền dải rừng

núi miền tây Nghệ An cho nên là nơi mà bọn thổ phỉ, biệt kích, phản động lợi

dụng ẩn náu phá hoại các cơ sở kháng chiến của ta, đồng thời sẵn sàng phối

hợp với lính pháp khi bọn chúng đi bộ từ ngoài biển vào đất liền.

Quỳnh Lưu là một huyện có tỷ lệ không nhỏ số đồng bào theo đạo thiên

chúa, nói chung đồng bào đều tin vào chủ trương của Đảng về đoàn kết lương

giáo. Song, có một bộ phận chức sắc theo đạo thiên chúa ở huyện mắc mưu

địch, kích động giáo dân, tìm cách phá vỡ khối đoàn kết lương giáo. Do đó,

việc đoàn kết lương giáo giữ vững trật tự trị an, bảo vệ chính quyền cách

mạng, góp phần tích cực vào sự nghiệp kháng chiến chống thực dân Pháp

xâm lược và bọn tay sai có ý nghĩa rất quan trọng.

Đầu thời kỳ cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Đảng bộ

Quỳnh Lưu đã lãnh đạo việc xây dựng lực lượng để sẵn sàng đánh địch.

Lực lượng quân dân du kích có từ hồi khởi nghĩa giành chính quyền đã

được huyện chú ý củng cố tổ chức. Đó là những đơn vị trước đây chuẩn bị bổ

sung vào đội quân nam tiến, vào các đội quân báo, cứu thương… Đầu năm

1947, Huyện uỷ chủ trương lựa chọn trong số dân quân du kích ở các xã,

những người có điều kiện sức khoẻ trình độ giác ngộ để thành lập một đơn vị

mạnh, tập trung của dân quân du kích huyện.[2, tr118]

Giữa năm1947, cơ quan huyện đội của Quỳnh Lưu chính thức được

thành lập. Từ đây, công tác quân sự địa phương càng được chú trọng hơn để

chuẩn bị đối phó với mọi âm mưu và hành động của thực dân Pháp xâm lược

và bọn tay sai.

15

Cuối năm 1947, huyện đã xây dựng được một đại đội bộ đội địa phương

trên cơ sở các đội dân quân du kích (Gọi là C-120 bộ đội địa phương huyện).

Đại đội này gồm 3 trung đội độc lập trực thuộc Ban chỉ huy đại đội: một trung

đội đóng quân ở khu vực Hoàng Mai, một trung đội đóng ở vùng Thanh Viên

và một trung đội đóng ở vùng Phú Hậu.[2, tr119]

Trong năm 1947, sự ra đời của lực lượng dân quân du kích tập trung của

huyện và sau đó là việc thành lập chính thức cơ quan huyện đội cùng với sự ra

mắt của đại đội bộ đội địa phương gồm 3 trung đội đã đẩy tới một bước phát

triển phong trào luyện tập dân quân tự vệ và xây dựng, bố phòng… bảo vệ các

làng xã.

Các tổ chức Đảng và chính quyền cơ sở đã tích cực lãnh đạo dân quân

luyện tập, rào làng kháng chiến. Các cơ quan trong huyện đều có đội du kích.

Thực hiện chủ trương của Tỉnh uỷ Nghệ An, Quỳnh Lưu đã vận động những

người trong độ tuổi gia nhập dân quân. Lực lượng quân và dân ở Quỳnh Lưu

được nâng cao ý thức sẵn sàng chiến đấu, trang bị thêm nhiều vũ khí mới, tuy

vẫn chỉ là những vũ khí thô sơ. Đến tháng 10 năm 1949 quân và dân Quỳnh

Lưu đã giành được thắng lợi to lớn trong cuộc chiến đấu chống càn phá tan

âm mưu và hành động của thực dân Pháp nhằm phá hoại vùng tự do của ta.

Đây là một trận càn lớn nhất của địch vào vùng tự do Thanh - Nghệ - Tĩnh

trong suốt cả thời kỳ chống Pháp ở nước ta.

Trong suốt thời gian từ năm 1951 - 1953, thực dân Pháp luôn cho quân

biệt kích xâm nhập vào đất liền Quỳnh Lưu bằng hai đường hoặc từ biển vào

hoặc nhảy dù từ máy bay xuống móc nối với bọn phản động nội địa để phá

hoại cuộc sống của nhân dân. Dân quân du kích các xã đã chiến đấu gan dạ

buộc chúng phải nhanh chóng rút lui.

16

Như vậy, 9 năm trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, nhân dân

và lực lượng vũ trang Quỳnh Lưu đã giữ niềm tin sắt son với Đảng và Chủ

tịch Hồ Chí Minh kính yêu, đem hết sức người, sức của phục vụ bảo vệ thành

quả cách mạng Tháng Tám. Ngoài những thắng lợi to lớn trên quê hương

mình, Quỳnh Lưu còn là một trong những địa phương có phong trào mạnh về

phục vụ kháng chiến. Hàng ngàn người chủ yếu là lấy từ bộ đội địa phương

và dân quân du kích bổ sung cho quân chủ lực. Hàng ngàn con em trong

huyện đi dân công phục vụ các chiến trường. Có thể nói hầu hết các chiến

trường ở nước ta, nhất là ở Điện Biên Phủ, đồng bằng Bắc Bộ, Bình Trị

Thiên… đều có những con em ưu tú của Quỳnh Lưu tham gia góp phần quan

trọng vào thắng lợi của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống thực dân

Pháp xâm lược.

Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, miền Bắc được giải

phóng, miền Nam còn phải tiếp tục hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân

chủ nhân dân. Do đó, xây dựng lực lượng vũ trang lớn mạnh đảm đương hai

nhiệm vụ: bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa và đấu tranh giải phóng miền

Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai là nhiệm vụ vô cùng

quan trọng.

Trong thời kỳ (1954 - 1965) song song với nhiệm vụ khôi phục và phát

triển kinh tế thì công tác quân sự địa phương của huyện Quỳnh Lưu cũng đã

từng bước trưởng thành, lực lượng dân quân du kích phát triển nhanh về số

lượng và chất lượng.

Năm 1965, đế quốc Mỹ gây ra chiến tranh phá hoại bằng không quân và

hải quân đối với miền Bắc. Địa bàn tỉnh Nghệ An, trong đó có huyện Quỳnh

Lưu là địa bàn rất xung yếu trong toàn bộ cuộc chiến chống Mỹ, cứu nước. Cả

Quỳnh Lưu trở thành một “toạ độ lửa” khốc liệt và là một trong những “túi

17

bom” bị cày nát, nhất là các hệ thống giao thông huyết mạch của quốc gia

chạy qua địa bàn huyện.

Đứng trước tình hình đó, Huyện uỷ chú trọng tăng cường lãnh đạo việc

tổ chức và huấn luyện bộ đội địa phương, dân quân tự vệ, phòng không nhân

dân, tổ chức lưới lửa chiến tranh nhân dân, hạ máy bay giặc, sẵn sàng về mọi

mặt để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Vì vậy, trong thời kỳ này dân quân tự

vệ, bộ đội địa phương của huyện đã phát triển, hăng say luyện tập, được trang

bị súng trường, trung liên, đại liên (3/4 số xã được trang bị đại liên), có nhiều

xã được trang bị súng cao xạ 12,7 ly, hình thành tổ dân quân trực chiến. Như

vậy là trên địa bàn huyện đã hình thành lưới lửa các tầm để bắn máy bay địch.

Dân quân tự vệ ở các xã còn đóng vai trò to lớn trong việc bắt giặc lái máy

bay Mỹ ta bắn rơi. Hàng nghìn thanh niên Quỳnh Lưu nô nức lên đường đi bộ

đội. Trung bình hàng năm Quỳnh Lưu có khoảng 3000 thanh niên vào bộ đội,

đi thanh niên xung phong. Từ năm 1965 - 1975 Quỳnh Lưu đã có 17.406

thanh niên lên đường nhập ngũ. Lực lượng vũ trang địa phương, dân quân tự

vệ tích cực tham gia trên cả hai mặt: vừa tích cực luyện tập theo các phương

án tác chiến, bồi dưỡng cho gần 100 cán bộ trung đội đến xã đội những kiến

thức về chính trị, quân sự, vừa tổ chức sản xuất tốt, nhất là đóng vai trò xung

kích trong các chiến dịch thuỷ lợi. [2, tr 260,261]

Ngoài ra, Đảng bộ huyện Quỳnh Lưu đã tăng cường công tác lãnh đạo

nhân dân làm tốt công tác quốc phòng, an ninh, bảo đảm giao thông vận tải và

chi viện cho tiền tuyến. Trong không khí của cả nước sục sôi chống Mỹ, cứu

nước, Đảng bộ và nhân dân Quỳnh Lưu đã đóng góp sức mình, thể hiện bằng

các phong trào thi đua lao động, bảo đảm quốc phòng, an ninh, phục vụ cho

nhiệm vụ chi viện cho cách mạng miền Nam. Đảng bộ huyện đã chú trọng

lãnh đạo nhân dân phát huy tinh thần yêu nước, đề cao cảnh giác, sẵn sàng

18

chiến đấu, làm tròn nhiệm vụ chi viện cao nhất cho tiền tuyến. Huyện đã vượt

kế hoạch về huấn luyện quân sự cho dân quân tự vệ. Đảng bộ ở nhiều xã đã

lãnh đạo phát động phong trào toàn dân bảo vệ an ninh trật tự, xây dựng xã

vững mạnh về chính trị, bảo đảm trật tự, trị an…

Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thắng lợi, kết thúc 30 năm đấu

tranh giành độc lập, tự do, thống nhất Tổ quốc. Bước vào giai đoạn mới, quân

và dân huyện Quỳnh Lưu có những thuận lợi rất cơ bản đó là tinh thần phấn

khởi của toàn dân sau bao nhiêu năm dồn sức cho thắng lợi của sự nghiệp

chống Mỹ, cứu nước, đất nước được hoà bình và những thành quả và kinh

nghiệm sau 20 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Tuy nhiên, khó khăn vẫn còn rất lớn như hậu quả khốc liệt của chiến

tranh. Đế quốc mỹ và các thế lực phản động liên tiếp chống phá cách mạng

nước ta, chúng thi hành chính sách bao vây, cấm vận. Chiến tranh biên giới

phía tây nam và biên giới phía bắc nổ ra.

Nối tiếp truyền thống đấu tranh cách mạng và phát huy chủ nghĩa anh

hùng cách mạng, hàng nghìn thanh niên Quỳnh Lưu tiếp tục lên đường làm

nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và nhiệm vụ quốc tế.

Với niềm tự hào vào chiến thắng, niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng,

huyện Quỳnh Lưu ra sức khắc phục hậu quả chiến tranh, phát triển kinh tế, xã

hội, văn hoá, ổn định đời sống, giữ gìn trật tự trị an, xây dựng quê hương theo

những mục tiêu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Như vậy, những thắng lợi to lớn của quân và dân trên địa bàn huyện

Quỳnh Lưu trong cách mạng Tháng Tám, trong cuộc kháng chiến chống thực

dân Pháp, chống đế quốc Mỹ trước đây và trong thời kỳ 10 năm đầu cả nước

quá độ lên chủ nghĩa xã hội, càng làm sáng tỏ sức mạnh tổng hợp, sức mạnh ở

địa phương trong chiến tranh nhân bảo vệ Tổ quốc. Những thắng lợi đó khẳng

19

định vai trò chiến lược của lực lượng vũ trang địa phương trong đấu tranh

cách mạng, trong chiến tranh giải phóng trước đây và ngày nay, trong sự

nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, trong nhiệm vụ chống lại mọi âm mưu

của các thế lực thù địch.

1.2. Chủ trƣơng của Đảng bộ huyện Quỳnh Lƣu về xây dựng lực

lƣợng vũ trang từ năm 1986 đến 2004

Từ nửa cuối những năm 80 của thế kỷ XX cho đến nay trên thế giới và

khu vực có nhiều nhân tố tác động sâu sắc đến công cuộc bảo vệ Tổ quốc ở

nước ta. Tiêu biểu là:

Cuộc cách mạng khoa học công nghệ tiếp tục phát triển mạnh mẽ, tăng

nhanh lực lượng sản xuất, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu, cơ chế quản lý kinh

tế, chính sách, xã hội, tác động sâu sắc tới quốc phòng, an ninh. Các nước trên

thế giới đang ra sức tận dụng thành tựu khoa học công nghệ hiện đại để cải

cách quân sự nhằm xây dựng một lực lượng vũ trang tinh nhuệ, số lượng hợp

lý, chất lượng cao, đủ đáp ứng nhu cầu.

Cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại đã làm cho sức sản xuất

phát triển vượt bậc, vượt qua biên giới quốc gia, thúc đẩy quá trình quốc tế

hoá nền kinh tế thế giới phát triển lên một giai đoạn mới - giai đoạn toàn cầu

hoá. Đồng thời với xu thế toàn cầu hoá là xu thế khu vực hoá nổi lên. Khu

vực hoá vừa là một biểu hiện cụ thể của toàn cầu hoá trong một khu vực nhất

định, vừa là sự “phản ứng” đối với xu thế toàn cầu hoá, như một sự tập hợp

lực lượng để đối phó và tham gia vào sự cạnh tranh diễn ra mạnh mẽ trên toàn

thế giới. Toàn cầu hoá và khu vực hoá về kinh tế là cơ sở của sự phân hoá và

tập hợp lực lượng trên thế giới ngày nay. Mỹ muốn nắm toàn cầu hoá để kiến

tạo một “trật tự thế giới” kiểu Mỹ.

20

Cuộc cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 thành công đã đưa đến sự

ra đời của chủ nghĩa xã hội ở nước Nga Xô Viết và đặc biệt, sau chiến tranh

thế giới thứ II chủ nghĩa xã hội đã trở thành một hệ thống. Trong nhiều thập

kỷ tồn tại và phát triển các nước xã hội chủ nghĩa đã đạt được thành tựu rực

rỡ nhiều mặt, chinh phục niềm tin của hàng triệu người trên thế giới, khẳng

định sức sống mạnh mẽ của chế độ mới, chế độ xã hội chủ nghĩa, trở thành

yếu tố tích cực không thể thiếu được của tiến trình phát triển thế giới hiện đại.

Đó là điều không thể bác bỏ.

Song quá trình phát triển của chủ nghĩa xã hội ở các nước không đơn

giản. Bên cạnh những thành tựu to lớn đạt được đã nẩy sinh những khó khăn,

mâu thuẫn tích tụ dần dần thành yếu tố ngăn cản sự phát triển, lấn át những

thành tựu. Đồng thời các nước xã hội chủ nghĩa lại phải đương đầu với sự tác

động của các cuộc khủng hoảng từ bên ngoài, sự chống phá quyết liệt, liên tục

của các thế lực thù địch. Trong tư duy lý luận của các đảng cộng sản cầm

quyền có sự lạc hậu, không có chính sách thích hợp ứng dụng thành tựu khoa

học kỹ thuật hiện đại trong xây dựng xã hội chủ nghĩa, duy trì quá lâu cơ chế

tập trung quan liêu… dẫn đến sự khủng hoảng diễn ra ở các nước xã hội chủ

nghĩa từ cuối thập kỷ 70 của thế kỷ XX và ngày càng thêm trầm trọng, thực

sự trở thành thách thức to lớn của tất cả các nước xã hội chủ nghĩa trên thế

giới.

Tình hình trên thế giới đặt ra yêu cầu khách quan các nước xã hội chủ

nghĩa phải tiến hành cải cách, cải tổ, đổi mới, nhằm thoát ra khỏi khủng

hoảng kinh tế, xã hội, ổn định và phát triển. Tuy nhiên, trong quá trình cải tổ

một số đảng cầm quyền phạm phải sai lầm trong xác định đường lối, phương

pháp, vi phạm nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội cho nên càng lún sâu vào

khủng hoảng trì trệ. Những nước xã hội chủ nghĩa có đường lối và phương

21

pháp lãnh đạo đúng đắn của Đảng thì dần dần tháo gỡ được khó khăn, trụ

vững và phát triển đi lên.

Lợi dụng những khó khăn của các nước xã hội chủ nghĩa và những sai

lầm, khuyết điểm của các đảng cộng sản cầm quyền, chủ nghĩa đế quốc thực

hiện âm mưu “diễn biến hoà bình”, “bạo loạn lật đổ” và răn đe quân sự hòng

làm sụp đổ các nước xã hội chủ nghĩa.

Bước sang thập kỷ 90, một biến cố lịch sử đánh dấu bước ngoặt quan

trọng trong cục diện thế giới là sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông

Âu và Liên Xô. Đây là tổn thất chưa từng có trong lịch sử của chủ nghĩa xã

hội và phong trào cách mạng thế giới. Phạm vi chủ nghĩa xã hội thế giới bị

thu hẹp, các nước xã hội chủ nghĩa còn lại phải đương đầu với những thử

thách to lớn. Lực lượng so sánh thay đổi nghiêng về chủ nghĩa đế quốc, chúng

đẩy mạnh các hoạt động chống phá nhằm xoá bỏ các nước xã hội chủ nghĩa

còn lại, trong đó Việt Nam là một trọng điểm. Chính điều này đã tác động đến

tư tưởng quân và dân ta.

Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, các lực lượng cách mạng và hoà

bình tiếp tục lớn mạnh, các nước có chế độ chính trị khác nhau ở trong xu thế

chung là đấu tranh trong hình thái cùng tồn tại hoà bình. Tuy nhiên, khu vực

này diễn ra sự giao tranh lợi ích chiến lược của nhiều nước lớn, tiềm ẩn sự

bùng phát vấn đề dân tộc, sắc tộc, tôn giáo, tranh chấp lãnh thổ. Cho nên,

cùng với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, các nước đều quan tâm tới

chiến lược quốc phòng - an ninh, cố gắng hiện đại hoá quân đội và quốc

phòng.

Trước tình hình thế giới và khu vực có nhiều biến động, thách thức lớn,

đất nước đứng trước tình trạng khủng hoảng kinh tế, xã hội gay gắt, Đảng

Cộng sản Việt Nam tập trung cao trí tuệ, tư duy mới chuẩn bị Đại hội đại biểu

22

toàn quốc lần thứ VI, tìm con đường đi để trụ vững và phát triển. Đảng khẳng

định những nhân tố tích cực được phát triển từ Hội nghị Trung ương 6

(8/1979) và trong quá trình sắp xếp lại nền kinh tế theo nội dung Đại hội đại

biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng (3/1982) cùng những diễn biến tình hình

xu thế chung, định ra đường lối đổi mới, thể hiện đúng vai trò tiên phong

trước vận mệnh của dân tộc, của chế độ, tạo ra bước ngoặt hết sức quan trọng

trong lịch sử xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Tại thủ đô Hà Nội, từ ngày 15 đến ngày 18 tháng 12 năm 1986, Đại hội

đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã họp. Đại hội đã nêu lên đường lối

đổi mới toàn diện về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội… đặc biệt đổi mới về

kinh tế. Đại hội VI của Đảng đã đặt nền tảng cho công cuộc đổi mới đất nước,

mở ra bước ngoặt trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

Đại hội VI của Đảng xác định: đối với Đông Dương các thế lực thù địch

“chưa từ bỏ âm mưu lâu dài làm suy yếu hòng khuất phục ba nước. Các thế

lực ấy có thể tiếp tục kéo dài chính sách đối đầu, dùng uy hiếp quân sự và bao

vây, cô lập, hòng làm cho chúng ta chảy máu, không tập trung sức xây dựng

kinh tế cải thiện đời sống nhân dân”[9, tr37].

Chính vì vậy, Đại hội VI của Đảng đã nhấn mạnh nhiệm vụ củng cố

quốc phòng, xây dựng lực lượng vũ trang trong giai đoạn cách mạng mới là:

“… xây dựng Quân đội nhân dân chính quy, ngày càng hiện đại, có chất

lượng tổng hợp ngày càng cao, có tổ chức hợp lý, cân đối, gọn và mạnh, có kỷ

luật chặt chẽ, có trình độ sẵn sàng chiến đấu và sức chiến đấu cao. Tổ chức tốt

việc bảo vệ chủ quyền và giữ vững an ninh các tuyến biên giới, vùng trời,

vùng biển và hải đảo, xây dựng và củng cố bộ đội biên phòng vững mạnh.

Tiếp tục phát triển dân quân tự vệ với số lượng và chất lượng đáp ứng yêu cầu

của nhiệm vụ mới. Tăng cường xây dựng lực lượng dự bị… [9, tr 38,39]

23

Đảng Cộng sản Việt Nam nhấn mạnh tới yêu cầu xây dựng quân đội

nhân dân bảo đảm về chất lượng, trình độ, vừa xác định cơ cấu tổ chức và các

thứ quân phải cân đối. Xây dựng quân đội gọn và mạnh nhưng khi có nguy cơ

chiến tranh nổ ra phải có đủ lực lượng dự bị động viên để mở rộng các đơn vị

quân đội. Không chỉ tập trung xây dựng bộ đội chủ lực mà còn chú trọng xây

dựng bộ đội địa phương, lực lượng dân quân tự vệ và dự bị động viên, xây

dựng cân đối và đảm bảo chất lượng ba thứ quân.

Trên cơ sở đó, ngày 10 tháng 1 năm 1987, Đảng uỷ Quân khu IV ra Nghị

quyết xác định rõ nhiệm vụ tập trung của Đảng bộ vào lực lượng vũ trang,

công tác quốc phòng địa phương, đề ra ba nhiệm vụ để tiếp tục thực hiện tốt

Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân khu 4 lần thứ IV, chuyển hướng sự lãnh

đạo, chỉ đạo của thường vụ Đảng uỷ, Bộ tư lệnh Quân khu, cơ quan Quân

khu, cả tỉnh đối với công tác quân sự địa phương.[20]

Quán triệt Nghị quyết của Đại hội VI và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ

Quân khu 4 lần thứ IV, Nghị quyết số 01 về tăng cường lãnh đạo nhiệm vụ

quốc phòng - an ninh trong tình hình mới của Đảng bộ huyện Quỳnh Lưu năm

1987 đã triển khai thực hiện nhiệm vụ quân sự quốc phòng đồng bộ, toàn diện

và đổi mới trên các mặt: “Sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu, hiệp đồng chặt chẽ

giữa lực lượng chủ lực, địa phương với bộ đội biên phòng, công an nhân dân,

dân quân tự vệ đánh bại chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch. Tăng cường

giáo dục ý thức quốc phòng toàn dân, nâng cao chất lượng lực lượng vũ trang

địa phương. Thực hiện tốt gọi thanh niên nhập ngũ và công tác động

viên…”[43]

Dưới sự lãnh đạo của Huyện uỷ, lực lượng vũ trang huyện Quỳnh Lưu

bước vào công cuộc đổi mới với một khí thế sôi nổi, đẩy mạnh nhiệm vụ xây

dựng và phát triển lực lượng theo hướng nâng cao chất lượng tổng hợp, kết

24

hợp xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân rộng

khắp, để đáp ứng với yêu cầu tình hình nhiệm vụ mới.

Ngày 30/7/1987, Bộ chính trị ra Nghị quyết 02 về nhiệm vụ quốc phòng,

an ninh trong tình hình mới. Điểm nổi bật của Nghị quyết 02 Bộ chính trị là

căn cứ phân tích tình hình một cách toàn diện, đề ra các chủ trương, biện pháp

thực hiện nhiệm vụ xây dựng lực lượng, xây dựng thế trận, tăng cường khả

năng quốc phòng của đất nước, tạo sự chuyển hướng chiến lược phòng thủ đất

nước.

Nghị quyết xác định: “Các Tỉnh uỷ (Thành uỷ) được giao nhiệm vụ xây

dựng các tỉnh (thành) thành khu vực phòng thủ vững chắc của Tổ quốc theo

kế hoạch thống nhất của quân khu và của cả nước”. “Để xây dựng tỉnh thành

khu vực phòng thủ vững chắc phải ra sức xây dựng, củng cố hệ thống xã,

phường chiến đấu…”.[10]

Các khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố lấy các cụm chiến đấu của bộ đội

địa phương làm nòng cốt, lấy hệ thống làng xã, khu phố chiến đấu làm diện

rộng, tạo thành thế trận liên hoàn, phải thực sự có khả năng động viên toàn

dân, điều hành chiến tranh nhân dân tại địa phương, không trông chờ chủ lực

của Bộ, của quân khu tới bảo vệ địa phương mình. Đảng cũng đã quy định cơ

chế lãnh đạo, điều hành xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố, lãnh

đạo chỉ huy cuộc chiến đấu tại địa phương khi xảy ra chiến sự.

Các nhiệm vụ xây dựng tiềm lực quốc phòng, chuẩn bị đất nước sẵn sàng

chống xâm lược, chuyển đất nước từ thời bình sang thời chiến “phân cấp” cho

các tỉnh, thành phố trực tiếp đảm nhiệm toàn bộ sự nghiệp xây dựng quốc

phòng tại địa phương mình theo cơ chế: Đảng lãnh đạo, chính quyền điều

hành, các cơ quan, ban ngành làm tham mưu, cơ quan quân sự, công an, biên

phòng làm nòng cốt…[10]

25

Như vậy, quan điểm của Đại hội VI và Nghị quyết 02 của Bộ chính trị

(khóa VI) đặt cấp uỷ Đảng ở địa phương làm “chủ thể”, làm “trung tâm lãnh

đạo” xây dựng khu vực phòng thủ và tiến hành chiến tranh nhân dân tại địa

phương. Đó là một bước chuyển hướng chiến lược quan trọng của nhiệm vụ

xây dựng lực lượng vũ trang.

Ngày 30/11/1987, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra chỉ thị số 20 về

nhiệm vụ quốc phòng địa phương của các cấp uỷ, chính quyền, các ban

ngành, đoàn thể. Nghị quyết 02 của Bộ chính trị và Chỉ thị 20 của Ban Bí thư

là cơ sở cho Quân khu IV có căn cứ bàn bạc với các địa phương đẩy mạnh

công tác quân sự địa phương, thực hiện có hiệu qủa việc chuyển hướng chiến

lược bảo vệ Tổ quốc.

Quán triệt Nghị quyết 02 của Bộ chính trị, Chỉ thị của Ban Bí thư và

thực hiện những nhiệm vụ cấp bách mà Nghị quyết Đảng uỷ Quân khu 4 giữa

năm 1987 đề ra, Ngày 30/8/1989, Huyện uỷ Quỳnh Lưu đã ra Nghị quyết lãnh

đạo và xây dựng kế hoạch thực hiện trong đó chủ yếu là triển khai nội dung

xây dựng khu vực phòng thủ huyện, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an

ninh nhân dân vững mạnh, gắn xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân với thế

trận an ninh nhân dân trên cả địa bàn huyện và từng địa phương đáp ứng yêu

cầu bảo vệ tổ quốc.[44]

Từ năm 1986 đến năm 1990, những năm đầu trong quá trình đổi mới,

công tác quân sự địa phương ở huyện Quỳnh Lưu đã có những bước đi lên

vững chắc. Công tác xây dựng, huấn luyện và sẵn sàng chiến đấu được nâng

lên rõ rệt. Ý thức trách nhiệm về xây dựng nền quốc phòng toàn dân thể hiện

trong công tác quân sự địa phương ở cấp huyện và xã đã có nhiều chuyển biến

mang tính tích cực. Qua đó, trình độ chỉ huy, tham mưu công tác quân sự địa

26

phương của đội ngũ cán bộ huyện đội, xã đội, đã được nâng lên một bước đáp

ứng được nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu.

Những năm 1989, 1990, trước tình hình các nước xã hội chủ nghĩa ở

Đông Âu và Liên Xô khủng hoảng trầm trọng và tan rã, kinh tế, đời sống

trong nước, nhất là giá cả biến động lớn gây ảnh hưởng trực tiếp đến tư tưởng

tâm lý nhân dân ta, đế quốc Mỹ và các thế lực thù địch ráo riết thực hiện

chiến lược xoá bỏ chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Trong chiến lược phá hoại toàn

diện và mục tiêu tiến công của địch, địa bàn quân khu IV nói chung và Quỳnh

Lưu nói riêng là một trọng điểm trực tiếp, tập trung chống phá của các thế lực

thù địch trong và ngoài nước, trên các lĩnh vực nhằm xoá bỏ một trong những

trung tâm chính trị, văn hoá và giàu truyền thống cách mạng. Ngoài ra, Quỳnh

Lưu còn là một huyện dân đông, địa hình phức tạp, điểm xuất phát kinh tế,

đời sống nhân dân nhìn chung còn gặp nhiều khó khăn, nhất là một số xã ở

vùng biển, vùng bán sơn địa, vùng giáo. Lao động ở nông thôn thiếu việc làm,

tình hình an ninh nông thôn và vùng giáo diễn biến phức tạp. Đặc biệt, trong

thời gian này trên địa bàn huyện Quỳnh Lưu cùng với sự tác động của cơ chế

mới, đã bộc lộ những vấn đề làm phát sinh những mâu thuẫn, tranh chấp,

khiếu kiện trong nội bộ nhân dân do tranh chấp đất đai, nguồn lợi; mâu thuẫn

của một bộ phận quần chúng do bất bình với một số cán bộ ở cơ sở thực hiện

sai chính sách, chế độ, tham ô, mất dân chủ làm thất thoát tài sản diễn ra rất

nghiêm trọng. Mặt khác, một bộ phận nhân dân lợi dụng quy chế dân chủ, tư

tưởng cực đoan, khiếu kiện, tố cáo kéo dài, thậm chí còn vu khống làm mất

uy tín của cán bộ. Những biểu hiện đó làm cho sự ổn định ở một số xã không

cao.

Trong bối cảnh chung của đất nước và những diễn biến phức tạp diễn ra

trên địa bàn huyện, lực lượng vũ trang huyện Quỳnh Lưu kiên quyết thực hiện

27

các nhiệm vụ, mục tiêu đã xác định, ổn định tình hình, đồng thời phải kiên

định vững vàng về chính trị, đường lối, quan điểm của Đảng, vượt qua thách

thức đi lên.

Đầu năm 1991 Đảng uỷ Quân sự Trung ương ra Nghị quyết số 01 về

nhiệm vụ quốc phòng 5 năm (1991-1995) đánh giá tình hình những năm qua

và đề ra phương hướng nhiệm vụ trong 5 năm tới. Nghị quyết xác định:

“Trong các nhiệm vụ, nhiệm vụ chống diễn biến hoà bình, bạo loạn lật đổ và

nhiệm vụ chống chiến tranh xâm lược gắn bó chặt chẽ với nhau. Để chấp

hành và thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ đó, quân và dân ta tiếp tục xây dựng

nền quốc phòng toàn dân và các lực lượng vũ trang với chất lượng cao”[19].

Quán triệt Nghị quyết 01 của Đảng uỷ Quân sự Trung ương, ngày

18/1/1991, Đảng uỷ Quân khu IV ra Nghị quyết về nhiệm vụ quốc phòng

1991 và tổ chức thực hiện trong Hội nghị quân chính Quân khu với nhiệm vụ

của Quân khu: “xây dựng nâng cao chất lượng tổng hợp của các lực lượng vũ

trang và sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân, tạo thế và lực mới, thường

xuyên đề cao cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu, chủ động phòng

chống diễn biến hoà bình và bạo loạn lật đổ, giữ vững ổn định chính trị các

địa bàn trong mọi tình huống”. [23]

Tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (6/1991) khẳng

định: “… Xây dựng các lực lượng vũ trang với chất lượng ngày càng cao.

Xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính qui, từng bước hiện đại, tinh

nhuệ, với cơ cấu tổ chức và quân số hợp lý; nâng cao chất lượng tổng hợp và

sức mạnh chiến đấu. Xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu, được

huấn luyện và quản lý tốt, bảo đảm khi cần thiết có thể động viên được nhanh

chóng theo kế hoạch. Xây dựng lực lượng dân quân tự vệ rộng khắp, lấy chất

lượng làm chính…” [12, tr85,86]

28

Quán triệt Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng,

Nghị quyết Đảng uỷ Quân sự Trung ương, Đảng uỷ Quân khu 4, và căn cứ

vào hoàn cảnh cụ thể trên địa bàn huyện Quỳnh Lưu, Đại hội lần thứ XXII

của Đảng bộ huyện Quỳnh Lưu tháng 1/1992 ra Nghị quyết nhấn mạnh:

“Thường xuyên giáo dục và thực hiện hai nhiệm vụ kinh tế - xã hội và quốc

phòng - an ninh; giáo dục pháp luật, quyền và nghĩa vụ công dân, xây dựng

thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân. Tuyên truyền nâng cao ý

thức cảnh giác cách mạng cho quần chúng nhân dân về âm mưu “diễn biến

hoà bình” giữ vững an ninh, an toàn từ cơ sở, chủ động giải quyết có hiệu quả

các mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân”. “Coi trọng xây dựng lực lượng vũ

trang vững mạnh toàn diện, phối hợp hoạt động có hiệu quả giữa quân sự,

công an và các đoàn thể quần chúng. Gắn xây dựng thế trận phong trào quần

chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc, với việc nâng cao chất lượng lực lượng dân

quân, tự vệ, dự bị động viên, bổ sung hoàn thiện phương án ở cơ sở, địa bàn

trọng điểm, tổ chức diễn tập A2, khu vực phòng thủ. Hoàn thành tốt chỉ tiêu

quốc phòng an ninh trên giao”. [16, tr27]

Năm 1994, Quỳnh Lưu bùng nổ vụ xung đột gay gắt giữa hai xã Quỳnh

Vinh và Quỳnh Thiện.

Quỳnh Vinh, Quỳnh Thiện, Quỳnh Dy là ba xã được sát nhập vào xí

nghiệp Quỳnh Mai năm 1976, đến năm 1981 tách thành ba xã như cũ. Khi

tách, các đơn vị hành chính không có hồ sơ pháp lý theo hiện trạng sử dụng

đất. Từ năm 1982, mâu thuẫn tranh chấp xảy ra, huyện và tỉnh giải quyết

không dứt điểm. Những ngày cuối tháng 1 năm 1994, một số phần tử xấu ở

hai xã lợi dụng tình hình lộn xộn gây rối làm ách tắc tuyến đường quốc lộ 1A.

Trước tình hình đó tỉnh Nghệ An đã tổ chức lực lượng công an, quân đội tiến

hành giải toả nhưng phải mất 6 tiếng đồng hồ mới thông đường. Lực lượng vũ

29

trang của huyện cũng tham gia giải toả đường nối giữa hai xã, huy động dân

công xã Quỳnh Hồng đến bốc dỡ những ngôi nhà làm trái phép ở nơi tranh

chấp.

Nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn tranh chấp giữa nhân dân của hai xã là

do:

Thứ nhất, các văn bản hướng dẫn việc thực hiện những chủ trương,

chính sách phục vụ cho việc chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế, xã hội chưa

kịp thời, đầy đủ, sát thực tiễn. Đặc biệt, việc thực hiện một số chính sách liên

quan đến nông nghiệp, các quy định về đất đai, thuế có nhiều thiếu sót và bất

cập gây bức xúc trong quần chúng nhân dân.

Thứ hai, sự yếu kém trong lãnh đạo, quản lý ở cơ sở, một bộ phận cán

bộ, đảng viên tha hoá, biến chất, tham nhũng, vi phạm chính sách pháp luật,

vi phạm quyền làm chủ của nhân dân. Đây vừa là nguyên nhân trực tiếp gây

sự bất bình dẫn đến mâu thuẫn vừa là nguyên nhân làm cho việc giải quyết,

xử lý gặp khó khăn.

Thứ ba, do nhận thức và ý thức chấp hành chủ trương của Đảng, pháp

luật của Nhà nước ở các ngành, các cấp không nghiêm. Việc tổ chức thực

hiện quy chế dân chủ ở các xã còn nhiều hạn chế, cơ chế dân biết, dân bàn,

dân làm, dân kiểm tra chưa được thực hiện một cách nghiêm túc, thường

xuyên.

Thứ tư, khi có mâu thuẫn tranh chấp xẩy ra, tuy đã quan tâm chỉ đạo giải

quyết kịp thời ngay tại cơ sở nhưng thiếu phối hợp đồng bộ giữa các ban

ngành đoàn thể, lực lượng và chưa có biện pháp tổng hợp cho nên tính dứt

điểm chưa cao dẫn đến tình trạng khiếu kiện kéo dài và một số phần tử lợi

dụng sơ hở để kích động.[48]

30

Rút kinh nghiệm qua vụ xảy ra ở hai xã Quỳnh Vinh và Quỳnh Thiện,

Huyện uỷ Quỳnh Lưu đã chỉ đạo tăng cường phối hợp giữa lực lượng bộ đội

địa phương, dân quân tự vệ với công an, biên phòng, các cơ quan đoàn thể

tham mưu cho cấp uỷ, chính quyền, ban chỉ đạo xây dựng cơ sở địa phương,

tổ chức phối hợp các lực lượng tập trung giải quyết, loại trừ kẻ xấu, kẻ địch

lợi dụng chống phá, kiểm tra củng cố nắm chắc lực lượng dân quân tự vệ, dự

bị động viên, thu hồi vũ khí, chất nổ, tàng trữ trái phép.

Nghị quyết của Ban chấp hành Đảng bộ huyện Quỳnh Lưu về tăng

cường lãnh đạo nhiệm vụ quốc phòng - an ninh trong tình hình mới năm 1994

nhấn mạnh “Xây dựng củng cố thế trận quốc phòng - an ninh thật sự vững

chắc, xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, dự bị động viên, công an, quân đội

vững mạnh; tăng cường sự phối hợp các lực lượng vũ trang và các ban ngành,

đơn vị trên địa bàn đánh bại mọi âm mưu phá hoại của kẻ địch, bảo vệ vững

chắc địa bàn trong mọi tình huống. Giải quyết ổn thoả những mâu thuẫn trong

nội bộ nhân dân, kiên quyết không để xảy ra các vụ việc ảnh hưởng tới an

ninh trật tự trên địa bàn huyện, ngăn chặn và đẩy lùi các tệ nạn xã hội, xây

dựng Quỳnh Lưu thành một địa bàn an toàn, giàu mạnh”.[45]

Sang năm 1996, bối cảnh trong nước và quốc tế có những thuận lợi, song

công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước của nhân dân ta vẫn đứng trước thách

thức lớn. Các thế lực thù địch lợi dụng cơ chế thị trường tiếp tục chống phá ta.

Trước tình hình đó, yêu cầu nâng cao chất lượng của các lượng vũ trang sẵn

sàng chiến đấu và chiến đấu trở nên cấp bách.

Từ ngày 26 đến ngày 28 tháng 3 năm 1996, tại Đại hội Đảng bộ lần thứ

VI của Quân khu 4 xác định: “ Tập trung xây dựng nâng cao một cách cơ bản,

vững chắc chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu, trình độ sẵn sàng chiến

đấu của lực lượng vũ trang Quân khu theo hướng cách mạng, chính quy, tinh

31

nhuệ, từng bước hiện đại, xây dựng các đơn vị chủ lực và địa phương, cả bộ

đội biên phòng vững mạnh toàn diện, lực lượng dân quân tự vệ rộng khắp,

chất lượng cao, lực lượng dự bị động viên sẵn sàng động viên…”[24].

Đầu tháng 5 năm 1996, Đại hội Đảng bộ toàn quân lần thứ VI xác định

phương hướng, nhiệm vụ củng cố quốc phòng, xây dựng quân đội 5 năm

(1996 - 2000) là: “ Xây dựng được một nền quốc phòng toàn dân thực sự

vững mạnh; tập trung nâng cao chất lượng tổng hợp sức mạnh chiến đấu và

trình độ sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang, trước hết là của quân đội

nhân dân…”.[20]

Tháng 6 /1996, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng xác

định nhiệm vụ quốc phòng và an ninh trong những năm tới là: “Phát huy sức

mạnh tổng hợp của toàn dân, của cả hệ thống chính trị từng bước tăng cường

tiềm lực quốc phòng và an ninh của đất nước, xây dựng vững chắc nền quốc

phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với nền an ninh nhân dân

và thế trận an ninh nhân dân, nâng cao chất lượng các lực lượng vũ trang, bảo

vệ vững chắc độc lập, an ninh, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước,

bảo vệ nhân dân, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa và

làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động gây mất ổn định chính trị, xã hội, xâm

phạm độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, gây tổn hại cho công cuộc xây

dựng và phát triển đất nước, ngăn chặn và trừng trị có hiệu quả mọi loại tội

phạm, bảo đảm tốt trật tự, an toàn xã hội”.[13, tr118,119]

Triển khai thực hiện nhiệm vụ, mục tiêu Đại hội lần thứ VIII của Đảng,

Đại hội Đảng bộ toàn quân lần thứ VI và Đại hội Đảng bộ Quân khu 4 lần thứ

VI, Đảng bộ huyện Quỳnh Lưu chỉ đạo tiếp tục nâng cao chất lượng huấn

luyện cán bộ các cấp cả bộ đội địa phương, dân quân tự vệ, dự bị động viên.

Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Quỳnh Lưu lần thứ XXIII năm 1996 nhấn

32

mạnh: “Kiện toàn và nâng cao chất lượng lực lượng vũ trang, nhất là lực

lượng thường trực ở cơ sở, làm nòng cốt cho toàn dân thực hiện nhiệm vụ

quốc phòng an ninh…”. [17, tr34]

Trên cơ sở đó, Ban chỉ huy quân sự huyện Quỳnh Lưu đã quán triệt sâu

sắc và chấp hành Nghị quyết, Chỉ thị, mệnh lệnh của trên, nắm chắc tình hình,

nhiệm vụ của địa phương, đơn vị, tập trung xây dựng lực lượng vũ trang

huyện có bản lĩnh chính trị vững vàng, có trình độ năng lực đáp ứng yêu cầu,

chức trách, nhiệm vụ, thực sự làm nòng cốt trong xây dựng nền quốc phòng

toàn dân vững mạnh. Chủ động phát hiện và giải quyết kịp thời các yếu tố có

thể dẫn đến mâu thuẫn, tranh chấp, hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả xẩy ra.

Phòng ngừa phát hiện, đấu tranh với các thế lực thù địch trong và ngoài nước

lợi dụng các vấn đề phức tạp ở nông thôn để tuyên truyền, xuyên tạc, kích

động chống đối. Trấn áp kịp thời, xử lý nghiêm minh đối với những phần tử

tiêu cực. Tuyên truyền, giáo dục, động viên nhân dân không để họ bị bọn xấu

lôi kéo.

Từ năm 2001, nhân dân Việt Nam và thế giới bước vào thiên niên kỷ

mới - thế kỷ XXI, tình hình thế giới vẫn tiếp tục có những diễn biến phức tạp,

khó lường, đế quốc Mỹ và các thế lực hiếu chiến tiếp tục thực hiện chiến lược

“đánh đòn phủ đầu”, lợi dụng đòn tiến công chống lại “chủ nghĩa khủng bố”,

ra sức lộng hành, đe doạ hoà bình, ổn định chủ quyền các quốc gia, dân tộc.

Công cuộc đổi mới của đất nước tiếp tục phát triển đúng hướng và đạt

được những thành tựu quan trọng, tạo ra thế và lực mới cho sự nghiệp đẩy

mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên, những nguy cơ,

thách thức, khó khăn của đất nước đang tồn tại, tiếp tục tác động mạnh lên tất

cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Tình hình chính trị đất nước ổn định

33

nhưng về xã hội còn nhiều bức xúc, chưa thể giải quyết triệt để. Nhiệm vụ

xây dựng lực lượng vũ trang đang đứng trước yêu cầu mới.

Trong tình hình đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng

(4/2001) nhấn mạnh: “Xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân

cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có bản lĩnh chính trị

vững vàng; trung thành tuyệt đối với Tổ quốc, với Đảng và nhân dân; có trình

độ học vấn và chuyên môn nghiệp vụ ngày càng cao; quý trọng và hết lòng

phục vụ nhân dân; có phẩm chất đạo đức, lối sống lành mạnh, giản dị, kế thừa

và phát huy truyền thống vẻ vang; có năng lực chỉ huy và tác chiến thắng lợi

trong bất cứ tình huống nào; có trình độ sẵn sàng chiến đấu và sức chiến đấu

ngày càng cao; thường xuyên cảnh giác, kịp thời đập tan mọi âm mưu và hành

động xâm phạm độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc và an ninh

quốc gia; ngăn chặn và đẩy lùi các tội phạm nguy hiểm và các tệ nạn xã hội,

bảo đảm tốt trật tự an toàn xã hội”.[14, tr118]

Đặc biệt, quán triệt sâu sắc và tổ chức thực hiện nghiêm túc các chỉ thị

Nghị quyết của Đảng, nhất là Nghị quyết Trung ương 8 (khoá IX) về “Chiến

lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”, hướng mạnh về cơ sở, bám sát sự

phát triển về tình hình và nhiệm vụ, tiếp tục nâng cao trình độ chính trị của

cán bộ, chiến sĩ, phát huy bản chất “ Bộ đội cụ Hồ”, bảo đảm cho lực lượng

vũ trang mà nòng cốt là quân đội nhân dân luôn kiên định vững vàng về chính

trị, trình độ sẵn sàng chiến đấu và sức mạnh chiến đấu được nâng lên, đồng

thời chủ động đối phó thắng lợi mọi tình huống phức tạp có thể xảy ra. Tập

trung xây dựng tạo bước chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng tổng hợp và sức

mạnh chiến đấu của quân đội theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ,

từng bước hiện đại.

34

Trong thời gian này, trên địa bàn huyện Quỳnh Lưu, tình hình chính trị

cơ bản ổn định, quốc phòng - an ninh được giữ vững, các chỉ tiêu về kinh tế,

xã hội đều đạt và vượt kế hoạch đề ra, đời sống nhân dân ổn định và có bước

cải thiện. Tuy vậy, còn có những khó khăn cần giải quyết đó là: một bộ phận

lao động ở nông thôn thiếu việc làm; vấn đề buôn lậu, gian lận thương mại,

các tệ nạn xã hội ngày càng diễn biến phức tạp. An ninh nông thôn còn tiềm

ẩn những yếu tố dễ phát sinh như mâu thuẫn nội bộ, khiếu nại, tố cáo của

công dân giải quyết chưa dứt điểm, lấn chiếm đất đai ở các xã Quỳnh Bá,

Quỳnh Lộc, Quỳnh Long, Quỳnh Hồng, Quỳnh Ngọc. Ở vùng giáo và an ninh

tôn giáo ở các xã Quỳnh Yên, Quỳnh Vinh, Quỳnh Trang, Quỳnh Lâm và

Quỳnh Thanh nổi lên các vấn đề như truyền đạo trái phép, đóng góp xây dựng

cơi nới nhà thờ, mở rộng khuôn viên nhà thờ quá sức, nợ thuế và các loại quỹ

kéo dài, lấn lướt chính quyền…

Quán triệt Nghị quyết của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của

Đảng, Nghị quyết Trung ương lần thứ 8 ( khóa IX ), Báo cáo tổng kết 15 năm

xây dựng khu vực phòng thủ huyện Quỳnh Lưu năm 2004 của Huyện uỷ xác

định nhiệm vụ trong những năm tới là “tập trung xây dựng nền quốc phòng

toàn dân, an ninh nhân dân vững mạnh, gắn xây dựng thế trận quốc phòng

toàn dân với thế trận an ninh nhân dân trên toàn huyện và ở từng vùng, từng

địa phương. Xây dựng lực lượng quân sự, công an “tinh, gọn, mạnh”, xây

dựng lực lượng dân quân tự vệ vững mạnh, rộng khắp, lực lượng dự bị động

viên hùng hậu, xây dựng cơ sở cụm, tuyến an toàn làm chủ, sẵn sàng chiến

đấu, đi vào chiều sâu vững chắc, chuẩn bị sẵn sàng mọi điều kiện, chủ động

chuyển lực lượng vũ trang và địa phương sang trạng thái chiến đấu mới. Tạo

nên tiềm lực quốc phòng, an ninh của huyện, sẵn sàng huy động nhu cầu bảo

vệ an ninh quốc gia, bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ

35

vững chắc chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ

Đảng, chính quyền, nhân dân”.[48]

Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Huyện uỷ, lực lượng vũ trang huyện

Quỳnh Lưu tiếp tục phát huy truyền thống yêu nước, đấu tranh anh hùng bất

khuất trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, luôn nâng cao

tinh thần cảnh giác cách mạng, có những biện pháp ngăn chặn kịp thời những

âm mưu và hành động phá hoại của địch, tin tưởng vào thắng lợi của công

cuộc đổi mới đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo,

sát cánh cùng lực lượng công an và các ban ngành, đoàn thể thực hiện tốt

công tác quân sự, quốc phòng địa phương, góp phần tích cực giữ vững an

ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn huyện.

36

Chƣơng 2

ĐẢNG BỘ HUYỆN QUỲNH LƢU CHỈ ĐẠO XÂY DỰNG LỰC

LƢỢNG VŨ TRANG TỪ NĂM 1986 ĐẾN 2004

2.1. Xây dựng chính trị, tƣ tƣởng cho lực lƣợng vũ trang huyện

Từ nửa sau thập kỷ 80 của thế kỷ XX, đặc biệt sau sự sụp đổ của chế độ

xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù

địch tiến hành chống phá Việt Nam bằng chiến lược “diễn biến hoà bình”,

“bạo loạn lật đổ”, ngày càng thâm độc, trực tiếp, quyết liệt, trắng trợn hơn với

mục tiêu nhằm xoá bỏ các nước xã hội chủ nghĩa trên toàn thế giới, chống phá

phong trào độc lập dân tộc của các nước, thiết lập trật tự thế giới mới do chủ

nghĩa đế quốc chi phối lũng đoạn.

Trong chiến lược diễn biến hoà bình, chúng chống phá Việt Nam toàn

diện, tổng hợp trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hoá…

đặc biệt coi trọng và đi sâu chống phá nội bộ Đảng Cộng sản, chuyển hoá đội

ngũ cán bộ cấp cao của Đảng và Nhà nước, “phi chính trị hoá” quân đội và

công an.

37

Trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng chúng phá hoại nền tảng tư tưởng,

cương lĩnh của Đảng, nhằm phủ định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí

Minh, chế độ xã hội chủ nghĩa và sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Chúng coi đây là “linh hồn” của chiến lược diến biến hoà bình, hoạt động

chống phá ngày càng ráo riết cả lý luận và thực tiễn, với ý đồ gây hoài nghi về

mục tiêu con đường xã hội chủ nghĩa trong cán bộ, lực lượng vũ trang và

nhân dân làm mất phương hướng dẫn đến giảm sút lòng tin vào Đảng, vào chế

độ, chia rẽ quần chúng nhân dân với Đảng Cộng sản. Chúng sử dụng hệ thống

các phương tiện truyền thông đại chúng để tuyên truyền xuyên tạc, kích động

từ bên ngoài tập trung vào vấn đề “dân chủ” và “nhân quyền” đa nguyên

chính trị, đa đảng đối lập, đồng thời in ấn, tán phát tài liệu phản động và các

văn hoá phẩm độc hại, khuyến khích tư tưởng thực dụng, lối sống sa đọa, thị

hiếu thấp hèn và các tệ nạn xã hội vào trong mọi tầng lớp nhân dân; “rỉ tai”,

tuyên truyền, kích động các phần tử xấu quấy rối chống phá gây mất ổn định

về chính trị, xã hội, tạo ra những “vết dầu loang” để thực hiện ý đồ của chúng.

Mặt khác, chúng dùng các thủ đoạn hết sức thâm độc như mua chuộc, lôi

kéo cán bộ để cài cấm nội gián, kích động những phần tử biến chất, bất đồng

quan điểm chống Đảng và Nhà nước để chống phá ta từ bên trong. Chúng

thực hiện vô hiệu hoá lực lượng vũ trang nhân dân bằng hoạt động chủ yếu là

phá vỡ hệ tư tưởng tổ chức quân đội làm xa rời mất phương hướng. Xuyên tạc

bản chất quân đội, công an, chia rẽ quan hệ máu thịt quân - dân với Đảng.

Xuyên tạc vai trò, vị trí quân đội trong tình hình mới, đặt lợi ích kinh tế lên

trên quốc phòng. Phủ định vai trò quốc phòng, sự lãnh đạo của Đảng, dẫn đến

mục đích phi chính trị hoá quân đội, vô hiệu hoá lực lượng vũ trang.

Nhận thức được yêu cầu và nhiệm vụ của cách mạng nước ta trong giai

đoạn mới, Ban chỉ huy quân sự huyện Quỳnh Lưu đã tham mưu cho Đảng bộ

38

huyện tập trung lãnh đạo, chỉ đạo công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho lực

lượng vũ trang trên địa bàn huyện và coi đây là một mặt trận nóng bỏng được

đặt lên hàng đầu.

Quán triệt sâu sắc Nghị quyết của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI,

VII, VIII và IX của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết Ban chấp hành Trung ương

Đảng lần thứ 3 (khoá VII) về nhiệm vụ quốc phòng - an ninh, tập trung quán

triệt cho cán bộ, lực lượng vũ trang và nhân dân nhận rõ âm mưu thủ đoạn của

các thế lực phản động trong và ngoài nước, nêu cao cảnh giác cách mạng,

nhận thức đúng đắn yêu cầu nhiệm vụ quốc phòng - an ninh. Chăm lo giáo

dục truyền thống, lòng yêu nước, yêu chế độ xã hội chủ nghĩa, củng cố niềm

tin và kiên định con đường mà Đảng Cộng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch

Hồ Chí Minh đã lựa chọn. Kiên quyết đấu tranh chống các luận điệu chiến

tranh tâm lý chia rẽ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân; chống mọi biểu hiện

mơ hồ, ảo tưởng và các hoạt động chống phá của kẻ địch cũng như các hành

vi vi phạm pháp luật; giữ nghiêm phép nước và trật tự, an toàn xã hội ở địa

phương và từng cơ sở. Từ ngày 13 - 15/1/1992, tại thị trấn Cầu Giát, Đại hội

lần thứ XXII của Đảng bộ huyện Quỳnh Lưu nhấn mạnh: “Thường xuyên

giáo dục và thực hiện hai nhiệm vụ kinh tế - xã hội và quốc phòng - an ninh;

giáo dục pháp luật, quyền và nghĩa vụ công dân, xây dựng thế trận quốc

phòng toàn dân và an ninh nhân dân. Tuyên truyền nâng cao ý thức cảnh giác

cách mạng cho quần chúng nhân dân về âm mưu “diễn biến hoà bình”, giữ

vững an ninh, an toàn từ cơ sở, chủ động giải quyết có hiệu quả các mâu

thuẫn trong nội bộ nhân dân”.[16, tr 28]

Quán triệt chủ trương của Đảng và Nghị quyết của Đảng bộ huyện

Quỳnh Lưu, Ban chỉ huy quân sự huyện đã tăng cường giáo dục chủ nghĩa

Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh cho lực lượng thường trực ở cơ sở

39

cũng như lực lượng dân quân tự vệ và lực lượng dự bị động viên, quán triệt

sâu sắc các quan điểm Nghị quyết của Đảng, của Huyện uỷ về nhiệm vụ quốc

phòng - an ninh, công tác quân sự địa phương trên địa bàn huyện trong từng

giai đoạn nhằm nâng cao nhận thức cho lực lượng vũ trang để họ cảnh giác

cách mạng, đánh giá đúng, xác định rõ đối tượng, âm mưu thủ đoạn, bản chất

thâm độc của kẻ thù trong chiến lược “diễn biến hoà bình”, “bạo loạn lật đổ”.

Chủ động phòng chống tự diễn biến, không sơ hở để địch tạo cớ can thiệp.

Không ngừng bồi dưỡng trí tuệ, lập trường, quan điểm và phẩm chất đạo đức

cho lực lượng vũ trang, giữ vững niềm tin, kiên trì mục tiêu xây dựng chủ

nghĩa xã hội đưa sự nghiệp đổi mới giành thắng lợi. Chống mọi biểu hiện xa

rời mục tiêu, lý tưởng, suy thoái về đạo đức, lối sống, hoài nghi, dao động

trước những diễn biến của tình hình và khó khăn của huyện nhà.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện Quỳnh Lưu, Ban chỉ huy quân sự

huyện thường xuyên đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục chính trị cho

lực lượng vũ trang ở cơ sở, tạo chuyển biến tốt về chất lượng hiệu quả trong

giáo dục chính trị. Bảo đảm 100% cán bộ, quân nhân chuyên nghiệp, công

nhân viên quốc phòng, phân đội nòng cốt, dân quân tự vệ, dự bị động viên

được giáo dục, qua kiểm tra đạt 100% yêu cầu, trong đó 75% khá giỏi.[48]

Tăng cường nội dung, nâng cao chất lượng thông tin tuyên truyền về

quốc phòng - an ninh trên các phương tiện thông tin đại chúng của địa

phương, thực hiện có chiều sâu phong trào thi đua trong lực lượng vũ trang

huyện với sự phối hợp với các cuộc vận động trong và ngoài quân đội tạo

động lực để xây dựng cơ quan quân sự của huyện vững mạnh toàn diện.

Công tác Đảng, công tác chính trị trong lực lượng vũ trang được chú

trọng. Căn cứ vào tình hình nhiệm vụ chính trị của từng cấp, Nghị quyết của

Đảng từ Trung ương đến chi bộ thường xuyên được quán triệt sâu sắc theo

40

định kỳ đến hầu hết lực lượng vũ trang của huyện. Chăm lo xây dựng Đảng

bộ vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, giữ vững và tăng cường bản

chất giai cấp công nhân, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất năng lực của

lực lượng vũ trang huyện nhà. Các chi bộ trong lực lượng vũ trang huyện luôn

được kiện toàn kịp thời. Thường xuyên duy trì sinh hoạt có nền nếp, không

ngừng phát huy vai trò tiền phong gương mẫu của đảng viên, xây dựng đoàn

kết thống nhất trong Đảng bộ, thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ,

thường xuyên phê bình và tự phê bình, phấn đấu 100% cấp uỷ, tổ chức cơ sở

Đảng trong sạch, vững mạnh. Đảm bảo sự lãnh đạo có hiệu quả trong thực

hiện nhiệm vụ chính trị. 100% cán bộ, đảng viên hoàn thành nhiệm vụ, trong

đó 90% trở lên là đảng viên đủ tư cách mức 1, không có đảng viên mức 3[48].

Công tác phát triển đảng viên và chế độ sinh hoạt Đảng ngày càng đi vào nền

nếp, có chất lượng.

Ban chỉ huy quân sự huyện tham mưu cho Huyện uỷ, Uỷ ban nhân dân

huyện tổ chức kỷ niệm các ngày lễ lớn, các ngày lịch sử trọng đại của đất

nước, dân tộc và phát động các phong trào thi đua thiết thực, bằng hành động

cụ thể lập thành tích kỷ niệm các ngày lễ trọng đại (3/2; 30/4; 1/5; 19/5; 27/7;

2/9…). Thiết thực kỷ niệm ngày thành lập lực lượng vũ trang nhân dân tỉnh

Nghệ An (21/8) và 50 năm ngày quân và dân Quỳnh Lưu chiến thắng trận càn

của thực dân Pháp (5/10/1949 - 5/10/1999), Ban chỉ huy quân sự huyện

Quỳnh Lưu đã phát động phong trào thi đua quyết thắng với nhiều nội dung

như: xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện, cơ sở Đảng trong sạch vững

mạnh, xây dựng nền nếp chính quy, xây dựng môi trường văn hoá lành

mạnh…, các phong trào thi đua quyết thắng được dấy lên ở nhiều đơn vị tạo

sự chuyển biến thiết thực để xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện.

41

Hàng năm, Ban chỉ huy quân sự huyện đã tổ chức các lớp học tập chính

trị quân sự cho hàng ngàn học sinh phổ thông trung học, tổ chức nói chuyện

chuyên đề cho khối học sinh. Tổ chức cho đối tượng lớp 12 học luật nghĩa vụ

quân sự, luật sĩ quan, chế độ tuyển sinh vào các trường quân đội, từ đó nâng

cao ý thức trách nhiệm của các em đối với nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ

quốc trong giai đoạn cách mạng mới.

Do đó, trước những diễn biến phức tạp của thế giới, khu vực, trong nước,

lực lượng vũ trang huyện Quỳnh Lưu vẫn kiên định vững vàng, tin tưởng

tuyệt đối vào đường lối đổi mới của đất nước, sự lãnh đạo của Đảng trong

thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước

mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt

nhiệm vụ, giữ vững niềm tin yêu của cấp uỷ Đảng, chính quyền và nhân dân.

2.2. Xây dựng lực lƣợng bộ đội địa phƣơng

Trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp đấu tranh và xây dựng lực lượng vũ

trang cách mạng của nhân dân ta, Đảng ta luôn luôn chỉ rõ rằng: Do cuộc đấu

tranh cách mạng của chúng ta là một cuộc chiến tranh nhân dân, do toàn dân

tiến hành, bởi vậy lực lượng vũ trang cách mạng của chúng ta phải bao gồm

ba thứ quân là dân quân du kích, bộ đội địa phương và bộ đội chủ lực.

Bộ đội địa phương, bao gồm các tiểu đoàn của tỉnh và các đại đội của

huyện, là lực lượng nòng cốt của đấu tranh vũ trang ở các địa phương. Bộ đội

địa phương do Đảng uỷ địa phương trực tiếp lãnh đạo, do cơ quan quân sự địa

phương trực tiếp chỉ huy. Nhiệm vụ của bộ đội địa phương là chiến đấu để

tiêu hao và tiêu diệt sinh lực địch, giữ gìn và giải phóng đất đai ở địa phương

mình, dìu dắt dân quân tự vệ trong xây dựng và chiến đấu, đồng thời phối hợp

tác chiến với bộ đội chủ lực và bổ sung cho bộ đội chủ lực.

42

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954), cuộc kháng

chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975) và thời kỳ 10 năm đầu cả nước quá

độ lên chủ nghĩa xã hội (1975 - 1985), dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện

lực lượng bộ đội địa phương huyện Quỳnh Lưu đã lập được những thành tích

xuất sắc và góp một phần lớn vào những thắng lợi của quân và dân cả nước

nói chung và của Quân khu IV nói riêng. Ngày nay, trong công cuộc đổi mới

đất nước, Đảng bộ huyện Quỳnh Lưu tiếp tục chỉ đạo xây dựng lực lượng bộ

đội địa phương toàn diện, vững mạnh, hiệu quả nhằm đáp ứng yêu cầu và

nhiệm vụ quốc phòng - an ninh trong giai đoạn mới.

Từ năm 1986, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta tập trung thực hiện

đường lối đổi mới toàn diện đất nước do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI

của Đảng khởi xướng lãnh đạo. Đối với nhiệm vụ củng cố quốc phòng, Đảng

ta đã thực hiện cuộc điều chỉnh chiến lược lớn về bố trí lại lực lượng và thế

trận, rút hết quân tình nguyện ở Cămpuchia và Lào về nước, giảm mạnh quân

thường trực, xây dựng tăng cường khả năng và sức chiến đấu các khu vực

phòng thủ tỉnh, thành phố, tập trung xây dựng, nâng cao chất lượng tổng hợp

của lực lượng vũ trang ba thứ quân bảo đảm sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu

thắng lợi, góp phần vào thành tựu đổi mới của cả nước.

Nghị quyết của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng nhấn

mạnh: “… Xây dựng Quân đội nhân dân ngày càng chính quy, ngày càng hiện

đại, có chất lượng tổng hợp ngày càng cao, có tổ chức hợp lý, cân đối, gọn và

mạnh, có kỷ luật chặt chẽ, có trình độ sẵn sàng chiến đấu và sức chiến đấu

cao”. [9, tr38]

Nhận thức được vai trò, vị trí của bộ đội địa phương là lực lượng nòng

cốt, cơ động, chủ lực của địa phương, cùng với bộ đội biên phòng và dân

quân tự vệ, bộ đội địa phương là một lực lượng tác chiến tại chỗ, sẵn sàng

43

đánh thắng mọi kẻ thù tại địa phương, trong mọi tình huống, giữ gìn an ninh

trật tự trên địa bàn huyện và là khâu nối liền giữa các lực lượng tiến hành

chiến tranh nhân dân tại cơ sở với bộ đội chủ lực tác chiến tập trung. Vì vậy,

trong quá trình chỉ đạo xây dựng bộ đội địa phương, Đảng bộ huyện Quỳnh

Lưu đã chú trọng nâng cao chất lượng tổng hợp, trước hết là về mặt chính trị,

bảo đảm bộ đội địa phương vững vàng trước tình hình phức tạp ở trong nước

và trên thế giới, kiên định mục tiêu, lý tưởng xã hội chủ nghĩa; có sức chiến

đấu lớn, vừa là đơn vị chiến đấu giỏi, công tác giỏi, vừa là đơn vị sản xuất

giỏi, phải là một nguồn bổ sung cho bộ đội chủ lực những cán bộ, những

chiến sĩ ưu tú, giúp bộ đội chủ lực ngày càng phát huy vai trò quan trọng là

lực lượng nòng cốt của lực lượng vũ trang nhân dân.

Đảng bộ huyện đã xác định nhiệm vụ then chốt của lực lượng vũ trang

huyện là phấn đấu nâng cao sức mạnh chiến đấu của nền quốc phòng toàn

dân, xây dựng vững chắc thế trận quốc phòng - an ninh nhân dân và nâng cao

sức mạnh tổng hợp của lực lượng vũ trang huyện. Phòng chống có hiệu quả

âm mưu “diễn biến hoà bình”, “bạo loạn lật đổ”, chủ động tiến công làm thất

bại mọi thủ đoạn phá hoại của các thế lực trong và ngoài nước. Giữ vững ổn

định chính trị, trật tự an toàn trên địa bàn huyện, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ

bảo vệ độc lập, an ninh chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ nhân dân, bảo

vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, sẵn sàng ứng phó với mọi tình

huống phức tạp có thể xảy ra. Vừa đảm bảo sẵn sàng chiến đấu, vừa huy động

các lực lượng tham gia lao động sản xuất, xây dựng kinh tế có hiệu quả thiết

thực góp phần nâng cao trình độ sẵn sàng chiến đấu và cải thiện nâng cao đời

sống lực lượng vũ trang của huyện, đồng thời góp phần phát triển kinh tế, xã

hội của đất nước.

44

Quán triệt các Nghị quyết của Đảng, của Quân khu IV, Bộ chỉ huy quân

sự tỉnh, kế hoạch an ninh quốc phòng của Huyện uỷ, từ năm 1986 đến 1990,

Ban chỉ huy quân sự huyện Quỳnh Lưu đã từng bước thực hiện quy hoạch

quân số, biên chế lực lượng bộ đội địa phương theo quy định của Quân khu,

phù hợp với tình hình thực tế của địa phương. Đến năm 1990 lực lượng

thường trực ổn định tổ chức biên chế quân số 39 đồng chí gồm các ban tham

mưu, ban chính trị, ban hậu cần, kỹ thuật và động viên tuyển quân.

Thực hiện nhiệm vụ huấn luyện của quân khu IV và Bộ chỉ huy quân sự

tỉnh, Huyện uỷ đã ban hành Nghị quyết số 01-NQ/HU ngày 21/5/1987 của

Ban chấp hành Đảng bộ huyện Quỳnh Lưu về tăng cường lãnh đạo nhiệm vụ

quốc phòng - an ninh trong tình hình mới. Ngay từ đầu năm 1988, Ban chỉ

huy quân sự huyện đã xây dựng kế hoạch huấn luyện, cử một số cán bộ, chiến

sĩ đi tập huấn tại Quân khu IV và Tỉnh đồng thời mở các lớp tập huấn cho cán

bộ dân quân tự vệ xã và các cơ quan xí nghiệp. Tính từ năm 1986 đến 2004,

số cán bộ được gửi đi tập huấn, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng ở quân khu,

tỉnh 268 đồng chí, tập huấn ở huyện 1785 đồng chí chủ chốt của huyện và xã

[48]. Nội dung huấn luyện tập trung vào các môn kỹ thuật, chiến thuật chiến

đấu. Sau mỗi đợt điễn tập, Ban chỉ huy quân sự huyện đã bổ sung xây dựng

kịp thời toàn bộ phương án tác chiến, thường xuyên kiểm tra đôn đốc nhắc

nhở các đồng chí thực hiện tốt nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu.

Ngày 30/8/1989, Huyện uỷ đã ra Nghị quyết lãnh đạo về công tác quốc

phòng - an ninh trong tình hình mới, trong đó chủ yếu là triển khai nội dung

xây dựng khu vực phòng thủ huyện bao gồm xây dựng tiềm lực chính trị, kinh

tế, văn hoá, xã hội và các mục tiêu công trình khu vực phòng thủ, xây dựng

nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân vững mạnh, gắn xây dựng thế trận

quốc phòng toàn dân với thế trận an ninh nhân dân trên cả địa bàn huyện và

45

từng địa phương đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc. Nội dung này từng bước

được quán triệt, truyên truyền sâu rộng đến lực lượng vũ trang và mọi tầng

lớp nhân dân trên địa bàn huyện.

Mặt khác, trong thời gian này, công tác sẵn sàng chiến đấu vẫn thường

xuyên được xác định là nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu. Dưới sự lãnh đạo của

Huyện uỷ, hàng năm Ban chỉ huy quân sự huyện căn cứ vào tình hình nhiệm

vụ mới tiến hành rà xét, bổ sung phương án tác chiến phòng thủ khu vực, góp

phần bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, thắt chặt mối quan hệ

quân với dân một ý chí. Thường xuyên duy trì chế độ sẵn sàng chiến đấu từ

huyện đến cơ sở, các quy định trực ban, trực chỉ huy, trực chiến liên tục được

đẩy mạnh, chủ động xây dựng, bổ sung hoàn chỉnh và tổ chức huấn luyện

thuần thục các phương án, kế hoạch A (kế hoạch quyết tâm phòng thủ bảo vệ

địa bàn huyện; bảo đảm pháo binh, thông tin, phòng không, công binh, trinh

sát, hoá học, hậu cần, kỹ thuật), A2 (kế hoạch quyết tâm bảo vệ an ninh chính

trị trên địa bàn huyện, phòng chống âm mưu “diễn biến hoà bình”, “bạo loạn

lật đổ” của các thế lực thù địch), A3 (kế hoạch bảo vệ vùng trời, chống địch

tập kích đường không), A4 (kế hoạch bảo vệ biên giới, hải đảo), kế hoạch B

(kế hoạch của các cấp uỷ Đảng, chính quyền, ban ngành bảo đảm quyết tâm

phòng thủ, đặc biệt cho năm đầu tiên có chiến tranh)… Theo dõi nắm chắc

mọi diễn biến tình hình, giải quyết kịp thời có hiệu quả các vụ việc nảy sinh

trên địa bàn huyện, không để lây lan kéo dài.

Bước sang năm 1991, tình hình thế giới đang xảy ra những diễn biến

phức tạp, chủ nghĩa đế quốc thực hiện chiến lược “diễn biến hoà bình”, “bạo

loạn lật đổ” hòng xoá bỏ hoàn toàn chủ nghĩa xã hội trên thế giới trong đó có

Việt Nam.

46

Trong chiến lược phá hoại toàn diện và mục tiêu tiến công của địch, địa

bàn Quân khu IV là một trọng điểm chiến lược tập trung phá hoại của địch.

Các thế lực thù địch tìm mọi biện pháp hòng vô hiệu hoá lực lượng vũ trang.

Đặc biệt, trong thời gian này trên địa bàn huyện Quỳnh Lưu phát sinh

những mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân về tranh chấp đất đai, quyền lợi dân

sự diễn ra phức tạp, chậm được giải quyết.

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (6/1991) nhấn

mạnh: “ Xây dựng quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, từng bước hiện

đại, tinh nhuệ, với cơ cấu tổ chức và quân số hợp lý; nâng cao chất lượng tổng

hợp và sức mạnh chiến đấu…”[12, 86].

Quan điểm của Đảng ta là xây dựng quân đội theo hướng nâng cao chất

lượng tổng hợp, sức chiến đấu để lực lượng vũ trang thực sự là lực lượng

chính trị trong sạch, vững mạnh, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng,

Nhà nước và nhân dân; được dân yêu mến. Mặt khác, phải đổi mới tổ chức,

nội dung, phương pháp huấn luyện trong lực lượng vũ trang đi đôi với cải

tiến, đổi mới vũ khí, trang bị, phương tiện phù hợp yêu cầu tác chiến mới;

phát triển khoa học quân sự, nghệ thuật chiến tranh nhân dân.

Nhiệm vụ mới đã đặt ra đối với lực lượng vũ trang của tỉnh Nghệ An nói

chung và lực lượng vũ trang huyện Quỳnh Lưu nói riêng là xây dựng, nâng

cao chất lượng tổng hợp của các lực lượng vũ trang đặc biệt là của bộ đội địa

phương và sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân, tạo thế và lực mới,

thường xuyên đề cao cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu, chủ động

phòng chống “diễn biến hoà bình”, “bạo loạn lật đổ”, giữ vững ổn định chính

trị ở địa bàn trong mọi tình huống. Trong những năm 1991 - 1995, Huyện uỷ

Quỳnh Lưu đã chỉ đạo cho Ban chỉ huy quân sự huyện thường xuyên duy trì

nghiêm túc chế độ sẵn sàng chiến đấu 24/24, đặc biệt là ở ba xã trung tâm

47

Quỳnh Hồng, Quỳnh Mỹ, Quỳnh Giang và thị trấn Cầu Giát, đây là những xã

nằm quanh khu vực thị trấn, trung tâm chính trị của huyện, được coi là khu

vực phòng thủ then chốt, nếu để mất khu vực này thì khu vực phòng thủ của

huyện sẽ bị mất; theo dõi nắm chắc mọi diễn biến tình hình, giải quyết kịp

thời có hiệu quả các vụ việc nảy sinh trên địa bàn, không để lây lan kéo dài

như các vụ: Quỳnh Đôi - Quỳnh Yên, Cầu Giát trong năm 1992; vụ Quỳnh

Vinh - Quỳnh Thiện trong năm 1994. Thường xuyên trực chỉ huy, trực ban, tổ

chức kiểm tra các xã hướng chủ yếu và trọng điểm, phối hợp với lực lượng

công an giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tiến hành các biện

pháp củng cố, bổ sung phương án tác chiến phòng thủ, xây dựng bộ đội địa

phương vững mạnh, luôn trong tư thế sẵn sàng chiến đấu bảo vệ quê hương,

bảo vệ Tổ quốc.

Mặt khác, xuất phát từ tình hình thế giới, trong nước và đặc biệt là tình

hình của huyện Quỳnh Lưu trong giai đoạn này, thực hiện chủ trương của

Huyện uỷ và sự chỉ đạo của Bộ chỉ huy quân sự tỉnh, Nghị quyết số 05 về

nhiệm vụ quốc phòng - quân sự địa phương năm 1992 của Đảng bộ quân sự

huyện Quỳnh Lưu năm 1991 nhấn mạnh: “Thường xuyên nâng cao cảnh giác

cách mạng, nắm chắc tình hình diễn biến mọi mặt trong đời sống kinh tế, văn

hoá, xã hội, cùng toàn Đảng, toàn quân, toàn dân đánh bại chiến lược “diễn

biến hoà bình” của địch, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội

trong địa bàn huyện. Xây dựng cơ quan quân sự từng bước chính quy, vững

mạnh toàn diện, không ngừng nâng cao chất lượng toàn diện, sẵn sàng nhận

và hoàn thành nhiệm vụ được Đảng và Nhà nước giao”. [25]

Quán triệt nhiệm vụ đó, hàng năm Ban chỉ huy quân sự huyện tiếp tục rà

xét lực lượng, bổ sung cán bộ cho các đơn vị đáp ứng kịp thời nhiệm vụ sẵn

sàng chiến đấu. Ngay từ năm 1991, Ban chỉ huy quân sự huyện tiếp tục cử

48

một số cán bộ và chiến sĩ đi tập huấn ở tỉnh, Quân khu và đã triển khai huấn

luyện toàn lực lượng trên địa bàn huyện được chia làm hai khối: khối thường

trực và khối dân quân tự vệ. Khối thường trực ra quân huấn luyện 100%. Nội

dung huấn luyện về quân sự bao gồm cách thức quản lý bộ đội, kỹ thuật bắn

súng ngắn… Kết quả kiểm tra: 100% đạt yêu cầu, trong đó 80% khá giỏi.[25]

Tiếp tục thực hiện Nghị quyết 02 của Bộ chính trị, Chỉ thị số 20 của Ban

bí thư và Chỉ thị số 56 của Hội đồng Bộ trưởng về xây dựng tỉnh, thành phố

và quận huyện thành khu vực phòng thủ vững chắc bảo vệ Tổ quốc, đầu năm

1995, Đảng bộ - Ban chỉ huy quân sự huyện Quỳnh Lưu đã tham mưu cho

Huyện uỷ, Uỷ ban nhân nhân dân huyện thực hành diễn tập QL 03/95 cấp

huyện và 10 xã phòng thủ khu vực.[26] Cuộc diễn tập này đã đạt được kết quả

tốt, qua việc thực hiện lệnh huy động khẩn cấp, các phương tiện kỹ thuật cần

thiết theo kế hoạch đều được tập trung đầy đủ và chuẩn bị chu đáo, tinh thần,

tư tưởng cán bộ, chiến sĩ thông suốt, sẵn sàng hoàn thành nhiệm vụ trên giao.

Ngoài ra, trong thời gian này, Đảng bộ quân sự huyện Quỳnh Lưu đã

tham mưu cho Huyện uỷ chỉ đạo xây dựng một bước các kế hoạch đảm bảo

hậu cần và ngân sách theo kế hoạch A của địa phương, từng bước hoàn thiện

công tác hậu cần theo kế hoạch phòng thủ của huyện. Công tác bảo đảm đời

sống vật chất, tinh thần của lực lượng bộ đội địa phương từng bước được cải

thiện, củng cố nơi ăn ở, sinh hoạt cho bộ đội như xây dựng thêm nhà ở…

Lãnh đạo tốt việc tăng gia sản xuất, thực hiện đầy đủ 5 loại vườn cây theo quy

định, tăng thêm bữa ăn cho bộ đội 500 đồng/người một ngày.

Đã chủ động tạo vốn đầu tư cho xây dựng cơ bản và mua sắm một số đồ

dùng cần thiết trong cơ quan trị giá hàng trăm triệu đồng. Tham mưu cho

Huyện uỷ chỉ đạo xúc tiến một số dự án kinh tế kết hợp với quốc phòng như

Cầu Quỳnh Dỵ, Quỳnh Phương, xây dựng tuyến đường kéo dài từ quốc lộ 1A

49

ra biển, dọc bờ biển bằng nguồn kinh phí của quốc phòng nhằm phục vụ cho

nhu cầu phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội của huyện và đảm bảo nhu cầu vận

tải khi có chiến tranh xảy ra. Thường xuyên củng cố, kiện toàn đội ngũ cán bộ

và nhân viên kỹ thuật, đầu tư ngân sách tu sửa, nâng cấp kho vũ khí, xây dựng

quy chế bảo vệ an toàn không để mất mát, xuống cấp, cháy nổ, duy trì tốt chế

độ quản lý, thu hồi, niêm cất, kiểm kê, sắp xếp hàng trăm tấn đạn. Chủ động

đề xuất với Huyện uỷ chỉ đạo ngành công nghiệp địa phương xây dựng kế

hoạch B, xác định một số yêu cầu đảm bảo phương tịên kỹ thuật cho nhiệm

vụ sẵn sàng chiến đấu theo kế hoạch phòng thủ của huyện.

Đảng bộ huyện Quỳnh Lưu thường xuyên vận động các cấp, các ngành

đặc biệt là lực lượng vũ trang của huyện thực hiện tốt công tác chính sách, xã

hội và chính sách hậu phương quân đội. Động viên thăm hỏi, tặng quà các gia

đình chính sách các ngày lễ, tết; quyên góp ủng hộ đồng bào bị thiên tai, bão

lụt… Các hoạt động “đền ơn đáp nghĩa”, thực hiện chính sách hậu phương

quân đội, phong trào đóng góp xây dựng quỹ tình thương đồng đội và phong

trào quân nhân giúp nhau vượt khó do Ban chỉ huy quân sự huyện phát động

đã được toàn thể cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang huyện tích cực

tham gia, đồng tình ủng hộ.

Cho đến năm 1995, lực lượng vũ trang huyện kết hợp với Phòng lao

động - thương binh xã hội và các ban ngành đã quy tập được 15 mộ liệt sĩ đưa

về nghĩa trang huyện. 5 đơn vị được tặng danh hiệu anh hùng lực lượng vũ

trang nhân dân, 114 bà mẹ được phong tặng danh hiệu “ Mẹ Việt Nam anh

hùng”.

Từ năm 1996, cùng với cả nước, quân và dân huyện Quỳnh Lưu ra sức

thi đua thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, tiếp tục

50

đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, cùng đất nước bước vào thời kỳ công nghiệp

hoá, hiện đại hoá.

Trong giai đoạn này, tình hình thế giới và khu vực vẫn diễn biến phức

tạp. Ở nước ta, các thế lực thù địch vẫn ráo riết thực hiện âm mưu “diễn biến

hoà bình”, “bạo loạn lật đổ” bằng nhiều thủ đoạn tinh vi, thâm độc, nhằm phi

chính trị hoá quân đội, xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam,

xoá bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

Trên địa bàn tỉnh Nghệ An nói chung và huyện Quỳnh Lưu nói riêng,

tình hình an ninh chính trị vẫn còn nhiều phức tạp.

Tháng 6/1996, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng tiếp tục

khẳng định: “ xây dựng lực lượng quân đội và công an nhân dân cách mạng,

chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại…”[13, tr119].

Nhiệm vụ của lực lượng vũ trang đặc biệt là lực lượng thường trực của

huyện trong giai đoạn này rất nặng nề, trên nhiều lĩnh vực, phải nỗ lực mới

hoàn thành nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu, cùng các lực lượng

khác giữ vững ổn định chính trị trên địa bàn để Đảng bộ và nhân dân huyện

đẩy mạnh phát triển kinh tế theo định hướng chung của tỉnh Nghệ An trong

giai đoạn cách mạng mới.

Báo cáo của Ban chấp hành Đảng bộ quân sự huyện Quỳnh Lưu nhiệm

kỳ 1996 - 2000 năm 1996 nhấn mạnh nhiệm vụ của lực lượng vũ trang trong

thời kỳ này: “Tăng cường vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ, làm tham

mưu cho cấp uỷ và chính quyền xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận

chiến tranh nhân dân. Tiếp tục bổ sung kế hoạch và tăng cường xây dựng khu

vực phòng thủ huyện theo tinh thần Nghị quyết 02 của Bộ chính trị và chỉ thị

245 Hội đồng Bộ trưởng, huyện Quỳnh Lưu và các xã nhất là xã trọng điểm

vùng biển trên hướng phòng ngự chủ yếu cần rà soát kiểm tra, tiếp tục bổ

51

sung các kế hoạch A, A2, kế hoạch B. Xây dựng lực lượng vũ trang vững

mạnh toàn diện, làm nòng cốt cho toàn dân đánh bại âm mưu, thủ đoạn của kẻ

thù trong chiến lược diễn biến hoà bình và sẵn sàng đối phó có hiệu quả các

tình huống xảy ra. Tiếp tục thực hiện tốt chỉ thị 37 của Đảng uỷ Quân sự

Trung ương về việc từng bước chính quy hoá quân đội đi vào chiều sâu, đi

vào chất lượng toàn diện, duy trì nghiêm túc chế độ sẵn sàng chiến đấu, trực

ban, trực chiến, đặc biệt ở bốn xã trung tâm”.[26]

Quán triệt những quan điểm đó của Đảng bộ quân sự huyện, từ năm

1996 đến 2000, việc xây dựng lực lượng vũ trang ở huyện Quỳnh Lưu được

đặc biệt coi trọng và xúc tiến khẩn trương. Trong xây dựng lực lượng thường

trực luôn coi trọng công tác xây dựng tổ chức Đảng về chính trị và tư tưởng,

làm cơ sở để nâng cao chất lượng tổng hợp và sức chiến đấu của lực lượng vũ

trang địa phương, thực sự là cơ quan tham mưu về quân sự của cấp uỷ, chính

quyền. Trong xây dựng, luôn quán triệt phương châm “tinh gọn, chất lượng

cao”, Ban chỉ huy quân sự huyện luôn thực hiện nghiêm túc các kế hoạch của

trên, lực lượng thường trực của huyện đến năm 2000 đã được tổ chức biên chế

theo quy định. Thường xuyên tổ chức học tập tại chức cho cán bộ theo các

chuyên đề tuần, tháng và các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng bộ quân sự cấp

trên, nhằm nâng cao nhận thức quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách

của Đảng, Nhà nước. Qua kiểm tra cấp tá 100% khá, giỏi; cấp uý, quân nhân

chuyên nghiệp và công nhân viên quốc phòng có 15 đồng chí trong đó 2 đồng

chí đạt loại giỏi (chiếm 13,3%), 12 đồng chí đạt loại khá (chiếm 80%) và 1

đồng chí trung bình (chiếm 6,7%); coi trọng bồi dưỡng năng lực tổ chức thực

hiện nhiệm vụ quân sự địa phương, lấy chất lượng hiệu quả công việc làm

thước đo mức độ hoàn thành công việc của mỗi cán bộ, đảng viên. Cơ quan

quân sự huyện tổ chức huấn luyện và bắn súng K54 cho cán bộ sỹ quan, quân

nhân chuyên nghiệp và công nhân viên quốc phòng, quân số tham gia gồm 30

52

đồng chí trong đó có 23 đồng chí đạt loại khá (chiếm 76,6%) và 7 đồng chí

đạt loại giỏi (chiếm 23,4%).[28]

Trong năm 1999, Ban chỉ huy quân sự huyện đã tham mưu cho Huyện

uỷ, Uỷ ban nhân dân huyện phối hợp với các ban ngành tổ chức diễn tập QL

04/99 cấp huyện và 10 xã. Trong diễn tập đã thể hiện rõ nét vai trò lãnh đạo

của Đảng, sự điều hành của chính quyền và khả năng tham mưu của cơ quan

quân sự huyện. Mặt khác, vừa đảm bảo nguyên tắc tập trung dân chủ, phát

huy được trí tuệ của tập thể, vừa đảm bảo sự lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối và

toàn diện của Đảng đối với lực lượng vũ trang, thể hiện tính quyết đoán của

người chỉ huy và nhập vai đúng với tình hình thực tế. Tuy nhiên, do đây là

một nội dung quan trọng, là nội dung mới trong quá trình lãnh đạo, tổ chức

diễn tập, do đó việc vận hành cơ chế còn lúng túng ban đầu trong việc phối

hợp, chỉ đạo, thực hiện nên có mặt chưa được nhất quán và đồng bộ. Trong

cuộc diễn tập đó, huyện Quỳnh Lưu được xếp loại giỏi, ba xã xuất sắc (Quỳnh

Liên, Thị trấn Cầu Giát, Quỳnh Phương), còn lại 7 xã đạt loại giỏi. Uỷ ban

nhân dân huyện quyết định tặng giấy khen cho 7 tập thể và 55 cá nhân, đồng

thời đề nghị Uỷ ban nhân dân tỉnh tặng bằng khen cho đợt diễn tập QL 04/99

huyện Quỳnh Lưu.[28]

Đảng bộ quân sự huyện đã có những chủ trương, biện pháp sát đúng,

lãnh đạo duy trì nghiêm chế độ trực chỉ huy, trực ban sát đúng, trực chiến, đặc

biệt ở 4 xã trung tâm (Quỳnh Hồng, Quỳnh Mỹ, Quỳnh Giang, thị trấn Cầu

Giát).

Trong công tác hậu cần, tài chính Báo cáo của Ban chấp hành Đảng bộ

quân sự huyện Quỳnh Lưu nhiệm kỳ 1996 - 2000 năm 1996 nhấn mạnh “ đảm

bảo hậu cần, tài chính trong tác chiến khu vực phòng thủ, sẵn sàng chiến đấu,

xây dựng chính quy và nâng cao đời sống bộ đội” [26]. Quán triệt chủ trương

53

đó công tác hậu cần, tài chính tiếp tục bám sát nhiệm vụ của lực lượng vũ

trang, phát huy mọi nguồn lực của địa phương khai thác và sử dụng có hiệu

quả hậu cần nhân dân. Thường xuyên chăm lo đến đời sống của lực lượng

thường trực, tiếp tục đưa vào bữa ăn từ nguồn vốn tăng gia 500 đồng/người

một ngày và chỉ tiêu một năm đầu người là 500.000 đồng. Công tác tài chính

luôn giữ được nguyên tắc chi tiêu, công khai dân chủ theo quy chế hoạt động

của cấp uỷ, thường xuyên đảm bảo kịp thời cho mọi nhiệm vụ. Triển khai dự

án 773 nuôi trồng thuỷ sản.

Công tác kỹ thuật luôn được quan tâm chỉ đạo, quán triệt tốt yêu cầu giữ

tốt dùng bền, an toàn tiết kiệm. Giáo dục nâng cao nhận thức và trách nhiệm

đối với công tác kỹ thuật, bảo đảm cho công tác kỹ thuật từng bước đi vào

nền nếp nâng cao trình độ quản lý giữ gìn an toàn tuyệt đối. Chăm lo xây

dựng đội ngũ cán bộ chuyên môn kỹ thuật có phẩm chất, lối sống, bản lĩnh

chính trị, ý thức trách nhiệm và trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Đến năm

2000 Ban chỉ huy quân sự huyện đã tu sửa bảo quản 2 ca pháo ở Quỳnh Long,

Quỳnh Văn, bảo quản được 758 khẩu súng bộ binh, thu hồi 67 khẩu súng, thu

hồi hơn 100 quả đạn, trả về trên 4 tấn vũ khí cấp 5.

Công tác chính sách, Huyện uỷ tiếp tục chỉ đạo giải quyết bốn mục tiêu

tồn đọng sau chiến tranh như huân, huy chương, chăm sóc Bà mẹ Việt Nam

anh hùng do cơ quan quân sự huyện nuôi dưỡng, tiếp tục đề nghị Nhà nước

phong tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng cho 7 bà mẹ, phong tặng

danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang cho lực lượng vũ trang và nhân dân

xã Quỳnh Trang. Thăm hỏi và tặng quà các gia đình chính sách, gia đình

thương binh liệt sĩ và có công với cách mạng.

Bước sang năm 2001, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng

(4/2001) khẳng định: “Xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân

54

cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có bản lĩnh chính trị

vững vàng…”[14, tr118].

Quán triệt Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng,

Nghị quyết lần thứ VII của Quân khu IV và lần thứ XXIV của Đảng bộ huyện

Quỳnh Lưu, Nghị quyết về nhiệm vụ quân sự - quốc phòng địa phương năm

2001 ngày 20/12/2000 của Đảng bộ quân sự huyện Quỳnh Lưu nhấn mạnh:

“Tập trung nâng cao chất lượng toàn diện các lực lượng vũ trang huyện, vững

mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, trước hết là xây dựng bản lĩnh chính

trị vững vàng, củng cố vững chắc trận địa tư tưởng của lực lượng vũ trang

huyện. Đột phá vào nhiệm vụ huấn luyện, xây dựng chính quy rèn luyện kỷ

luật nâng cao sức chiến đấu hoàn thành các nhiệm vụ được giao. Phấn đấu

100% cán bộ, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân viên quốc phòng thực

hiện nghiêm điều lệnh, điều lệ, sẵn sàng nhận nhiệm vụ trên giao”[29].

Nghị quyết về nhiệm vệ quân sự - quốc phòng năm 2002 của Đảng uỷ

quân sự huyện Quỳnh Lưu năm 2001 tiếp tục khẳng định: “Tập trung nâng

cao sức mạnh chiến đấu, trình độ sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang

huyện, luôn chủ động phòng chống, xử lý các tình huống không để bất ngờ,

phối hợp giữ vững ổn định chính trị trên địa bàn toàn huyện. Luôn nắm chắc

mọi diễn biến tình hình ở các địa bàn trọng yếu, tuyến biển, nhận định và

đánh giá đúng âm mưu thủ đoạn của địch, dự báo chính xác, kịp thời, phát

hiện xử lý dứt điểm các vụ việc xảy ra, không để bất ngờ, không để sơ hở để

địch và các phần tử xấu lợi dụng tạo cớ can thiệp. Bất luận trong hoàn cảnh

nào cũng bảo đảm quân số trang bị vũ khí, sẵn sàng chiến đấu giữ vững ổn

định chính trị, xã hội trên địa bàn huyện. Nắm chắc yêu cầu nhiệm vụ sẵn

sàng chiến đấu theo mệnh lệnh của cấp trên, bổ sung hoàn chỉnh các kế hoạch

A, A2, A3, A4, kế hoạch phòng chống cháy nổ, phòng chống bão lụt…”[31].

55

Nhận thức được nhiệm vụ đó, trong thời gian này Đảng uỷ đã lãnh đạo,

chỉ đạo lực lượng vũ trang huyện thường xuyên duy trì nghiêm các chế độ

trực sẵn sàng chiến đấu từ huyện đến cơ sở, phối hợp chặt chẽ với công an,

hai đồn biên phòng 114 và 118, lữ đoàn 16, lữ đoàn 215 và các ban ngành,

đoàn thể theo dõi nắm chắc mọi diễn biến trên địa bàn, kịp thời tham mưu cho

cấp uỷ, chính quyền địa phương giải quyết có hiệu quả các vấn đề nảy sinh ở

cơ sở, góp phần giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn

huyện.

Kịp thời bổ sung hoàn chỉnh hệ thống kế hoạch A, A2, A3, kế hoạch B,

kế hoạch phòng chống cháy nổ, phòng chống lụt bão từ huyện đến cơ sở,

đồng thời thường xuyên luyện tập thuần thục các phương án.

Tiếp tục làm tốt công tác tập huấn, huấn luyện diễn tập, chuẩn bị giáo án,

mô hình, học cụ, thao trường… Huấn luyện đúng phương châm “cơ bản, thiết

thực, vững chắc”, đảm bảo quân số, thời gian, sát thực tế. Tổ chức diễn tập

chỉ huy tham mưu một bên, một cấp trên bản đồ có một phần thực binh của cơ

quan quân sự huyện và diễn tập chiến đấu trị an cho 8 xã đúng kế hoạch, đạt

được mục đích, yêu cầu đề ra, an toàn tuyệt đối. Qua cuộc diễn tập, nhận

thức, trách nhiệm của cấp uỷ về quốc phòng - an ninh được nâng lên, khả

năng chiến đấu của lực lượng thường trực của huyện có bước tiến bộ.

Trong công tác hậu cần - kỹ thuật, Ban chỉ huy quân sự huyện Quỳnh

Lưu đã quán triệt chủ trương của Nghị quyết về nhiệm vụ quân sự quốc

phòng năm 2003 của Đảng bộ quân sự huyện là tập trung bảo đảm hậu cần

cho nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, nâng cao chất lượng các mặt bảo đảm đời

sống của chiến sĩ. Đẩy mạnh tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, chống

lãnh phí. Làm tốt công tác vệ sinh, phòng bệnh bảo đảm quân số khoẻ 99,7%.

Quản lý, sử dụng có hiệu quả các nguồn kinh phí, cơ sở vật chất… Nâng cao

56

chất lượng bảo đảm đồng bộ vũ khí trang bị kỹ thuật cho các nhiệm vụ sẵn

sàng chiến đấu. Duy trì chế độ bảo quản, bảo dưỡng, quản lý chặt chẽ, bảo

đảm an toàn tuyệt đối không thể xảy ra mất mát, cháy nổ, hư hỏng, xuống

cấp.

Trải qua 18 năm xây dựng và trưởng thành (1986 - 2004) dưới sự lãnh

đạo trực tiếp của Đảng bộ huyện và sự tham mưu của Đảng uỷ cơ quan quân

sự huyện lực lượng bộ đội địa phương huyện Quỳnh Lưu không ngừng lớn

mạnh và đáp ứng yêu cầu của cách mạng trong giai đoạn mới.

2.3. Xây dựng lực lƣợng dân quân tự vệ

Dân quân tự vệ là lực lượng vũ trang quần chúng, không thoát ly sản

xuất, công tác, là một bộ phận của lực lượng vũ trang nhân dân của nước

Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng

sản Việt Nam, sự quản lý, điều hành của Chính phủ và của Uỷ ban nhân dân,

sự chỉ đạo, chỉ huy trực tiếp của cơ quan Quân sự các cấp; là một trong những

công cụ chủ yếu để bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền, bảo vệ tính mạng tài

sản của nhân dân, tài sản của nhà nước ở cơ sở.

Nhiệm vụ của lực lượng dân quân tự vệ là sẵn sàng chiến đấu và chiến

đấu tiêu diệt, tiêu hao lực lượng địch, làm nòng cốt cho phong trào toàn dân

đánh giặc bảo vệ địa phương, cơ sở. Phối hợp với Công an, bộ đội biên

phòng, bộ đội thường trực và các đoàn thể nhân dân giữ vững chủ quyền lãnh

thổ, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; bảo vệ các công trình quốc

phòng, các kho vũ khí, trang bị kỹ thuật; phát hiện và thu giữ các loại vũ khí,

trang bị quân sự tồn giữ bất hợp pháp ở địa phương; tham gia xây dựng cơ sở

vững mạnh toàn diện. Bổ sung cho quân đội, phối hợp với quân đội chiến đấu,

phục vụ chiến đấu, phục vụ tiền tuyến. Gương mẫu chấp hành và vận động

nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của

57

nhà nước; xung kích trong lao động sản xuất, bảo vệ sản xuất, phòng chống

khắc phục hậu quả thiên tai, địch hoạ và các sự cố nghiêm trọng khác. Sinh

thời chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Dân quân tự vệ và du kích là lực

lượng của toàn dân tộc, là một lực lượng vô địch, một bức tường sắt của Tổ

quốc. Vô luận kẻ địch dù hung bạo thế nào, hễ đụng vào lực lượng đó, bức

tường đó thì địch nào cũng phải tan rã” [41, tr132].

Nhận thức được vị trí, vai trò và nhiệm vụ của lực lượng dân quân tự vệ,

đặc biệt quán triệt quan điểm Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng

“ Tiếp tục phát triển dân quân, tự vệ với số lượng và chất lượng đáp ứng yêu

cầu của nhiệm vụ mới” [9, tr38] và Đại hội VII của Đảng “… xây dựng lực

lượng dân quân tự vệ rộng khắp, lấy chất lượng làm chính”[12, tr86] trong

những năm đầu của quá trình đổi mới đất nước Đảng bộ huyện Quỳnh Lưu đã

tập trung lãnh đạo, chỉ đạo cho Ban chỉ huy quân sự huyện đẩy mạnh việc xây

dựng lực lượng dân quân tự vệ vững mạnh từ biên chế, trang bị, huấn luyện,

giáo dục và cơ chế lãnh đạo, chỉ huy; rộng khắp ở xã, thị trấn và các cơ quan,

xí nghiệp trên địa bàn huyện với số lượng và chất lượng đáp ứng yêu cầu của

nhiệm vụ mới, đảm bảo triển khai thế trận quốc phòng ở huyện Quỳnh Lưu.

Thực hiện Nghị quyết của Trung ương, Đảng bộ Quân sự tỉnh và các Chỉ

thị của Bộ quốc phòng, Quân khu IV và Đảng bộ huyện Quỳnh Lưu về xây

dựng lực lượng dân quân tự vệ, từ năm 1986 đến 1995, Ban chỉ huy quân sự

huyện Quỳnh Lưu đã tập trung xây dựng lực lượng dân quân tự vệ ở thị trấn

Cầu Giát, 42 xã, 6 cơ quan, xí nghiệp và một số trường học trên địa bàn

huyện. Cơ cấu tỷ lệ được tổ chức thành lực lượng nòng cốt và lực lượng rộng

rãi. Lực lượng nòng cốt được tuyển chọn chặt chẽ, bảo đảm chất lượng tốt,

còn lực lượng rộng rãi luôn luôn sẵn sàng phát triển bổ sung vào lực lượng

58

nòng cốt nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ phòng thủ của huyện Quỳnh Lưu

khi cần thiết.

Đảng bộ huyện Quỳnh Lưu và Ban chỉ huy quân sự huyện đã cử một số

đồng chí Chủ tịch, Bí thư đảng uỷ xã và Xã đội trưởng trong toàn huyện đi

học lớp tập huấn công tác quân sự địa phương ở tỉnh nhằm nâng cao trình độ

kiến thức quân sự - quốc phòng cho đội ngũ cán bộ chủ chốt ở cơ sở. Đồng

thời mở các lớp tập huấn tại huyện cho các cán bộ dân quân tự vệ 42 xã, 6 cơ

quan, xí nghiệp. Lãnh đạo các cơ quan, đơn vị thu xếp công việc hàng ngày

để cán bộ, chiến sĩ dân quân tự vệ an tâm tập trung tư tưởng huấn luyện đạt

kết quả. Nội dung huấn luyện tập trung vào các môn kỹ thuật, chiến thuật

chiến đấu, ngoài ra còn huấn luyện thêm cho dân quân tự vệ một số môn về

kỹ thuật binh chủng như trinh sát nhân dân, công binh, phòng hoá, kỹ thuật

băng bó, cấp cứu thương binh, hậu cần nhân dân; đồng thời học thêm tính

năng và tác dụng của một số vũ khí tự tạo như chông, mìn, cạm bẫy trong

chiến tranh nhân dân. Trong năm 1990, thực hiện quy định của Bộ chỉ huy

quân sự tỉnh, Ban chỉ huy quân sự huyện tham gia diễn tập theo kế hoạch.

Qua cuộc diễn tập, năng lực tổ chức lãnh đạo của cấp uỷ, chính quyền điều

hành, các ban, ngành, cơ quan quân sự huyện làm tham mưu, trình độ chiến

đấu của dân quân tự vệ đã được nâng lên một bước, vận hành theo cơ chế 02

của Bộ chính trị nhằm đáp ứng tình hình nhiệm vụ mới. Các đơn vị dân quân

được điều chỉnh sắp xếp lại phù hợp với kế hoạch phòng thủ khu vực. Tiếp

tục củng cố những đơn vị hoạt động còn yếu qua diễn tập, đảm bảo chất lượng

của từng đơn vị, xây dựng cơ quan, đơn vị dân quân tự vệ trong sạch, vững

mạnh.

Chấp hành nghiêm chỉ lệnh huấn luyện cho các lực lượng dân quân tự vệ

của Chỉ huy trưởng - Bộ chỉ huy quân sự tỉnh, trong những năm từ 1991 -

59

1995, Ban chỉ huy quân sự huyện đã duy trì có nền nếp chế độ huấn luyện cho

từng lực lượng.

Hàng năm, các xã và thị trấn trong toàn huyện đều đồng loạt ra quân

huấn luyện. Trước khi thực hiện, Ban chỉ huy quân sự huyện đã bồi dưỡng

giáo viên, thống nhất giáo án, chương trình, nội dung bài giảng. Trong quá

trình các địa phương huấn luyện, các cán sự được cử theo dõi các cụm xã đều

nắm, chỉ đạo và có khoa mục trực tiếp lên lớp hướng dẫn dân quân tự vệ. Với

phương châm “huấn luyện thực tế, có hiệu quả, lý thuyết kết hợp với thực

hành”, học tập xong tổ chức sát hạch, kiểm tra đánh giá kết quả ngay. Với

cách làm này, chất lượng huấn luyện cho dân quân tự vệ của huyện hàng năm

được nâng lên.

Ngày 9/1/1996 Uỷ ban Thường vụ Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ

nghĩa Việt Nam khoá IX, thông qua Pháp lệnh dân quân tự vệ, bao gồm các

điều khoản về quy định chung, tổ chức, biên chế, trang bị, huấn luyện, hoạt

động, quản lý nhà nước và chế độ chính sách, khen thưởng và xử lý vi phạm

của lực lượng dân quân tự vệ. Ngay từ khi Pháp lệnh dân quân tự vệ được ban

hành, Ban chỉ huy quân sự huyện đã tham mưu cho Huyện uỷ chỉ đạo, tổ chức

triển khai Pháp lệnh dân quân tự vệ đến các đồng chí lãnh đạo chủ chốt ở cơ

sở, quán triệt phương châm: vững mạnh, rộng khắp, rút gọn trong thời bình,

có phương án mở rộng trong thời chiến, trong xây dựng coi trọng đến chất

lượng, nhất là về chất lượng chính trị, đảm bảo tỷ lệ theo dân số. Phối hợp với

các ban ngành liên quan hàng năm tổ chức tập huấn cho cán bộ xã, thị trấn, cơ

sở tự vệ những nội dung quan trọng của pháp lệnh, hàng năm có trên 3000

dân quân tự vệ của huyện được giáo dục, qua đó họ đã nhận thức được trách

nhiệm, nghĩa vụ tham gia xây dựng lực lượng, nhiệm vụ và chế độ chính

sách… của dân quân tự vệ.

60

Ban chỉ huy quân sự huyện đã hướng dẫn chi tiết, cụ thể trong việc tổ

chức xây dựng lực lượng để phù hợp từng vùng, từng địa phương, cơ sở chỉ

đạo làm điểm mỗi cụm từ 1 đến 2 đơn vị, rút kinh nghiệm để nhân rộng ra

toàn đơn vị, theo đúng thứ tự các bước điều tra, xét duyệt, kết nạp và cấp giấy

chứng nhận dân quân tự vệ. Ban chỉ huy quân sự huyện luôn chỉ đạo rà xét,

củng cố xây dựng lực lượng dân quân tự vệ ở cơ sở trong toàn huyện kể cả số

lượng, chất lượng và thời gian phục vụ trong dân quân tự vệ đều tuân theo

Pháp lệnh dân quân tự vệ và hướng dẫn của cấp trên. Vì vậy, công tác dân

quân tự vệ ở Quỳnh Lưu có chuyển biến tích cực, từng bước được đổi mới và

phát triển vững chắc. Với phương châm lấy củng cố nâng cao chất lượng là

chính mà trước hết là chất lượng chính trị đồng thời đi đôi với phát triển số

lượng phù hợp.

Báo cáo của Ban chấp hành Đảng bộ quân sự huyện Quỳnh Lưu nhiệm

kỳ 1996 - 2000 nhấn mạnh: “Tổ chức xây dựng lực lượng, quản lý, biên chế

lực lượng dân quân tự vệ đạt tỉ lệ từ 2% đến 2,5% dân số, thành lập các A

binh chủng, 12,7 ly, quân báo, thông tin. Coi trọng chất lượng phân đội

thường trực”[26].

Đến năm 2000, tổng số dân quân tự vệ của huyện Quỳnh Lưu là 9215

người, đạt tỷ lệ 2,5% so với dân số toàn huyện. Trong đó, lực lượng cơ động

là 1070 người, biên chế thành 49 trung đội; lực lượng tại chỗ là 7147 người,

biên chế thành 138b - 403a ở các thôn xóm; lực lượng binh chủng là 843

người, biên chế 5a, 171 tổ gồm thông tin, trinh sát, công binh, hoá học, y tế;

lực lượng tự vệ các cơ quan doanh nghiệp nhà nước gồm 452 người, biên chế

15 trung đội, 13a; lực lượng tự vệ chuyên ngành gồm 40 người, biên chế 5a

(bưu điện và y tế); lực lượng phân đội pháo phòng không 12,7 ly là 22 người,

biên chế 2 trung đội, 4 khẩu đội; lực lượng dân quân tự vệ trên biển là 133

61

người, biên chế 6b/24 tàu (bao gồm 6 trung đội, mỗi trung đội khoảng 15

người, hoạt động trên 24 chiếc tàu) ở các xã Quỳnh Lập, Quỳnh Phương,

Quỳnh Long, Tiến Thuỷ, Quỳnh Nghĩa, Sơn Hải. Tổng số đảng viên trong lực

lượng dân quân tự vệ là 1635 đồng chí (chiếm 17,7%), tổng số đoàn viên là

6037 đồng chí (chiếm 65,5%). Tổng số phục viên xuất ngũ tham gia lực lượng

dân quân tự vệ là 4306 đồng chí (chiếm 46,7%) [1].

Bên cạnh đó, đến năm 2000, đội ngũ cán bộ dân quân tự vệ của huyện

được cơ cấu 50% Ban chỉ huy quân sự xã, trong đó đủ 3 đồng chí: xã đội

trưởng là đảng uỷ viên, chính trị viên là bí thư chi bộ và xã đội phó bán

chuyên trách. Sau bầu cử hội đồng nhiệm lỳ 1999 - 2004 đã kiện toàn được 42

đồng chí xã đội trưởng, trong đó mới được bổ nhiệm là 22 đồng chí; 42 đồng

chí bí thư kiêm chính trị viên lực lượng và 21 đồng chí xã đội phó. Trong tổng

số cán bộ quân sự xã, thị trấn có 41/42 đồng chí là đảng viên và 77 đồng chí

là Quân nhân phục viên, xuất ngũ (27/42 chính trị viên; 34/42 xã đội trưởng;

16/21 xã đội phó), vẫn còn 21 xã thiếu xã đội phó [1].

Tổng số cán bộ tự vệ trưởng là 19 đồng chí, đại đa số là cán bộ chuyên

trách kiêm nhiệm, được giám đốc xí nghiệp, thủ trưởng cơ quan phân công

phụ trách. Trong đó, đảng viên là 17 đồng chí trên tổng số 19 đồng chí, đã qua

phục vụ ở quân đội là 10 trên 19 đồng chí.[1]

Căn cứ vào thực tiễn, yêu cầu nhiệm vụ của dân quân tự vệ ở trên địa

bàn huyện, tổng số vũ khí được trang bị cho cơ sở là 195 khẩu súng, trong đó

có 120 khẩu CKC và 75 khẩu K44, chất lượng súng là cấp 3 và cấp 4, hiệu

quả sử dụng thấp. Đạn K56 có 1700 viên và K53 có 800 viên. Vũ khí trang bị

được cất giữ, bảo quản tại trụ sở Uỷ ban nhân dân huyện do đồng chí xã đội

trưởng quản lý, khi thực hiện nhiệm vụ mới thì trang bị cho cá nhân, thường

62

xuyên được kiểm tra công tác quản lý, lau chùi, bảo quản nên các đơn vị đã

thực hiện tốt các chế độ quy định trong giữ gìn bảo quản.[1]

Về công tác tập huấn, huấn luyện, chấp hành mệnh lệnh huấn luyện của

Ban chỉ huy quân sự tỉnh, Đảng bộ huyện Quỳnh Lưu, từ năm 1996 đến năm

2000 Ban chỉ huy quân sự huyện đã ra nghị quyết về công tác huấn luyện, cử

87 cán bộ tham dự các lớp tập huấn của tỉnh Nghệ An và quân khu IV. Đối

với cán bộ chỉ huy trưởng quân sự xã, tự vệ hàng năm được tập huấn ở huyện

từ 1 đến 2 lần, thời gian từ 5 đến 7 ngày với quân số tham gia bình quân 98%,

kết quả đều đạt khá và giỏi. Đối với cán bộ phân đội binh chủng hàng năm

được tập huấn ở tỉnh một lần, 1 đến 2 đồng chí thành phần là trung đội trưởng

12,7 ly. Đối với dân quân tự vệ hàng năm đều được huấn luyện theo quy định,

tổng số dân quân tự vệ đã được huấn luyện từ năm 1996 đến năm 2000 là

13.708 người, trong đó năm thứ nhất có 6270 đồng chí, năm thứ hai trở đi có

7438 đồng chí, lực lượng binh chủng là 1162 đồng chí, lực lượng dân quân

biển là 133 đồng chí.[1] Chương trình huấn luyện gồm hai phần học tập chính

trị và quân sự đảm bảo phương châm “cơ bản, thiết thực, vững chắc”. Ngoài

nội dung chương trình quy định huấn luyện hàng năm, các đơn vị còn căn cứ

tình hình thực tế, cụ thể của địa phương, cơ sở để lồng ghép nội dung giáo

dục nhiệm vụ quốc phòng ở địa phương mình. Trước khi vào huấn luyện, các

đơn vị đều lên kế hoạch huấn luyện, viết giáo án, bài giảng, làm công tác

chuẩn bị huấn luyện. Ban chỉ huy quân sự huyện phân công người theo dõi,

chỉ đạo, rút kinh nghiệm giảng dạy và học tập.

Mặt khác, nhận thức sâu sắc nhiệm vụ quốc phòng và an ninh ở địa

phương, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Đảng uỷ, Bộ chỉ huy quân sự

tỉnh, huyện uỷ Quỳnh Lưu, Ban chỉ huy quân sự huyện thường xuyên kiểm

tra, khảo sát, bổ sung các kế hoạch A, A2, A3, kế hoạch phòng chống cháy

63

nổ, kế hoạch phòng chống bão lụt… Đồng thời hướng dẫn chỉ đạo cơ sở bổ

sung hoàn chỉnh các kế hoạch theo đúng quy định, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ

trong giai đoạn cách mạng mới. Hàng năm Ban chỉ huy quân sự đều tổ chức

diễn tập:

- Năm 1996, diễn tập kế hoạch A, A2 một lần cho 22 đơn vị bao gồm 10

xã, thị trấn Cầu Giát và 12 cơ quan, xí nghiệp trên địa bàn huyện Quỳnh Lưu.

- Năm 1997, diễn tập kế hoạch A2 cho 2 xã.

- Năm 1998, diễn tập kế hoạch A2 cho 4 xã.

- Năm 1999, diễn tập kế hoạch A, A2 cho 10 xã và 3 cơ quan.[1]

Kết hợp với diễn tập, Ban chỉ huy quân sự huyện còn chú trọng xây

dựng cụm tuyến an toàn làm chủ sẵn sàng chiến đấu và cụm công tác quân sự,

hàng tháng tổ chức giao ban, phân công trực chiến, theo dõi, nắm chắc tình

hình, báo cáo kịp thời xử lý không để bị động.

Cũng trong thời gian này lực lượng dân quân tự vệ của huyện đã phối

hợp với lực lượng an ninh, các ban ngành đoàn thể trên địa bàn huyện Quỳnh

Lưu để giải quyết một số vụ việc và khắc phục thiên tai, bão lụt…

Cụ thể:

- Năm 1996, Ban chỉ huy quân sự huyện đã huy động được 975 người

tham gia khắc phục thiên tai bằng 1900 ngày công.

- Năm 1997, phối hợp với lực lượng an ninh chống gây rối 3 vụ; huy

động được 1926 người bằng 2840 ngày công để khắc phục thiên tai. Tham gia

bảo vệ công trình quân sự Lèn Quỳnh Hậu có 27 người bằng 81 ngày công.

- Năm 1998, phối hợp với lực lượng an ninh chống gây rối 2 vụ bắt 16

tên. Huy động 417 người khắc phục thiên tai bằng 861 ngày công.

64

- Năm 1999, phối hợp với lực lượng an ninh, các ban ngành đoàn thể

chống xâm xanh, xâm cư 4 vụ, chống gây rối 5 vụ.

- Năm 2000, phối hợp với lực lượng an ninh chống gây rối 7 vụ, huy

động 1125 người khắc phục thiên tai bằng 1305 ngày công. [1]

Cán bộ chiến sỹ dân quân tự vệ trong thời gian làm nhiệm vụ huấn

luyện, khắc phục thiên tai đều được chi trả một khoản tiền tương đương một

ngày công lao động. Song việc chi trả phụ cấp cho phó chỉ huy trưởng chuyên

trách hoặc bán chuyên trách còn gặp khó khăn.

Như vậy, sau một thời gian thực hiện pháp lệnh dân quân tự vệ, công tác

xây dựng lực lượng dân quân tự vệ ở huyện Quỳnh Lưu đã có những bước

chuyển biến đáng kể và ngày càng đi vào chiều sâu. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều

khó khăn như chất lượng huấn luyện còn nhiều hạn chế, chưa thường xuyên

đổi mới nội dung, hình thức huấn luyện nên kết quả không cao, chưa đáp ứng

được yêu cầu nhiệm vụ khi có tình huống xảy ra. Vì vậy, bước sang giai đoạn

mới, Đảng bộ quân sự huyện Quỳnh Lưu chỉ đạo: “Chăm lo xây dựng lực

lượng cả về số lượng và chất lượng dân quân tự vệ đặc biệt là b cơ động. Xây

dựng lực lượng dân quân trên biển đi vào hoạt động có nề nếp, kiểm tra

thường xuyên tiểu đoàn 3 huyện. Hàng năm, tổ chức tập huấn, bồi dưỡng cho

cán bộ xã, tự vệ cơ quan, huấn luyện dân quân tự vệ hoàn thành chương trình

theo quy định đúng, đủ nội dung và thời gian, kết quả 100% đạt yêu cầu,

trong đó có từ 65 - 75% khá giỏi”. [26]

Quán triệt chủ trương chỉ đạo của Đảng bộ quân sự huyện, Ban chỉ huy

quân sự huyện đã kiện toàn ban chỉ huy quân sự hai xã Quỳnh Thắng và Tân

Thắng, thành lập mới trung đội dân quân cơ động huyện và 3b dân quân tự vệ

hoả lực, bổ sung kiện toàn 43 b dân quân cơ động của các xã, thị trấn, 19 cơ

quan, xí nghiệp ổn định về tổ chức biên chế, tạo điều kiện để thực hiện nhiệm

65

vụ và huấn luyện đạt kết quả cao. Công tác tập huấn, bồi dưỡng cán bộ được

chú trọng đúng mức, tham gia tập huấn ở tỉnh, quân khu 8 đợt với 37 cán bộ,

tổ chức tập huấn cho cán bộ cơ sở 221 đồng chí, kết quả đều đạt khá và giỏi.

Công tác chuẩn bị cho huấn luyện như giáo án, bài giảng, mô hình học cụ,

thao trường được các xã, thị trấn, đơn vị tự vệ đầu tư tốt hơn. Trong quá trình

huấn luyện đã bám sát phương châm “cơ bản, thiết thực, vững chắc”, huấn

luyện đúng, đủ nội dung, thời gian, quân số, sát với tình hình thực tế và nhiệm

vụ của địa phương, đơn vị. Chất lượng huấn luyện cho các đối tượng được

nâng lên, 100% các đơn vị dân quân tự vệ hoàn thành chương trình huấn

luyện chất lượng cao. Năm 2002, tổ chức bắn đạn thật cho lực lượng dân quân

tự vệ năm thứ 2, 100% đạt khá, giỏi, trong đó có 37 đơn vị đạt kết quả giỏi

chiếm 72,5% và 14 đơn vị khá chiếm 27,5%.[32]

Nghị quyết lãnh đạo nhiệm vụ quân sự - quốc phòng năm 2004 của Đảng

bộ quân sự huyện Quỳnh Lưu nhấn mạnh: “Tiếp tục củng cố xây dựng lực

lượng dân quân tự vệ nòng cốt đủ số lượng, đảm bảo chất lượng, có độ tin cậy

chính trị cao, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới”.[34]

Quán triệt chủ trương đó, năm 2004 Ban chỉ huy quân sự huyện đã chăm

lo củng cố, kiện toàn xây dựng lực lượng dân quân tự vệ đủ số lượng, đảm

bảo chất lượng, nhất là chất lượng chính trị, đủ độ tin cậy bảo vệ Đảng, chính

quyền và nhân dân. Tỷ lệ đảng viên trong lực lượng dân quân tự vệ chiếm

17,7%. Ngoài ra, Đảng bộ đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện hoàn thành

chương trình kế hoạch huấn luyện cho các đối tượng thời gian sớm hơn năm

2003, chất lượng được nâng lên. Tiếp tục tổ chức bồi dưỡng kiến thức quốc

phòng cho xã đội trưởng, tự vệ trưởng, b trưởng cơ động, cán bộ chủ chốt các

ban ngành cấp xã, cơ quan, xí nghiệp, quân số gồm 374 đồng chí.[35]

66

Như vậy, từ năm 1986 đến năm 2004, đặc biệt sau khi có Pháp lệnh dân

quân tự vệ, Đảng bộ huyện Quỳnh Lưu đã lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng lực

lượng dân quân tự vệ huyện vững mạnh, rộng khắp, tin cậy về chính trị theo

phương châm ở đâu có dân ở đó có dân quân tự vệ.

2.4. Xây dựng và huy động lực lƣợng dự bị động viên

Ngày nay, trong điều kiện đất nước có hoà bình, tiềm lực kinh tế, quân

sự các mặt còn có giới hạn, thì việc xây dựng lực lượng dự bị động viên là

yêu cầu cấp bách, khẩn thiết, nó tạo cho đất nước ta có một đội quân dự bị

hùng hậu, có chất lượng chiến đấu tốt, sẵn sàng động viên khi cần thiết, để có

thể giảm bớt số quân thường trực nhưng không ảnh hưởng đến khả năng

phòng thủ bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay ta

đang tập trung xây dựng kinh tế thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất

nước thì những người công nhân, kỹ sư, cán bộ, nông dân… vừa hăng say lao

động sản xuất, vừa là lực lượng bảo vệ tại chỗ lại vừa sẵn sàng là người lính,

người sỹ quan chỉ huy hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong mọi tình

huống. Chính vì vậy, một vấn đề đặt ra lúc này là đi đôi với xây dựng bộ đội

chủ lực mạnh và tinh, với số lượng thích hợp, xây dựng lực lượng dân quân tự

vệ vững mạnh, rộng khắp thì phải tăng cường việc xây dựng thế trận và lực

lượng dự bị động viên hùng hậu để có thể ứng phó có hiệu lực với mọi tình

huống xẩy ra.

Xây dựng và huy động lực lượng dự bị động viên có ảnh hưởng trực tiếp

đến số lượng, chất lượng, sức mạnh chiến đấu của quân đội. Do vậy, công tác

xây dựng và huy động lực lượng dự bị động viên giữ vị trí quan trọng đặc biệt

trong chiến lược quốc phòng - an ninh, bảo vệ Tổ quốc nói chung, trong công

cuộc chuẩn bị lực lượng vũ trang, chuẩn bị địa phương, cơ sở nói riêng, sẵn

67

sàng chống chiến tranh xâm lược, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa,

bảo vệ vững chắc địa phương, cơ sở.

Xây dựng, huy động lực lượng dự bị động viên phải đặt dưới sự lãnh đạo

của Đảng bộ địa phương, cơ sở là nguyên tắc hàng đầu, khẳng định Đảng bộ

địa phương lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với lực lượng vũ trang

nói chung, lực lượng dự bị động viên nói riêng.

Nhận thức được vị trí và vai trò to lớn của lực lượng dự bị động viên và

quán triệt Nghị quyết của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng:

“tăng cường xây dựng lực lượng dự bị động viên” [9, tr38], đặc biệt là Nghị

quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng: “Xây dựng lực lượng

dự bị động viên hùng hậu, được huấn luyện và quản lý tốt, bảo đảm khi cần

thiết có thể động viên được nhanh chóng theo kế hoạch” [12, tr86], hàng năm,

Đảng bộ huyện Quỳnh Lưu chỉ đạo cho các xã của huyện tiến hành đăng ký

quân dự bị động viên từ lứa tuổi 17, 18 đến 25 và một số chiến sĩ, hạ sĩ quan

chuyển ngành, về hưu ở các lứa tuổi. Việc nắm chắc các đối tượng trên giúp

công tác đăng ký quân dự bị động viên được thuận lợi. Sau khi nắm chắc các

lứa tuổi, các đối tượng là bộ đội phục viên, xuất ngũ, sĩ quan về hưu, chuyển

ngành… sẽ được phân thành hai loại: quân dự bị hạng một và quân dự bị hạng

hai. Đến năm 1991, trên toàn huyện đã xây dựng hoàn thành kế hoạch xây

dựng lực lượng dự bị động viên, cả về đầu đơn vị cũng như quân số.

Năm 1992, Bộ chỉ huy quân sự tỉnh tăng cường công tác kiểm tra, phúc

tra về công tác quân dự bị động viên của các địa phương, trong đó có Quỳnh

Lưu. Vì vậy, Đảng bộ huyện Quỳnh Lưu tiếp tục chỉ đạo cho Ban chỉ huy

quân sự huyện triển khai công tác đăng ký, năm, lứa tuổi để quản lý nguồn

động viên; tiến hành đăng ký quân dự bị động viên ở các đối tượng được hơn

3000 người, trong đó có 10% quân dự bị hạng một, số còn lại là hạng hai.

68

Đồng thời còn chỉ thị cho Ban chỉ huy quân sự huyện nắm và đăng ký các loại

phương tiện kỹ thuật của một số ngành. Bắt đầu từ năm 1992 Quân khu IV đã

quy hoạch lực lượng dự bị động viên 5 năm (1986 - 1991) và những năm tiếp

theo cho các tỉnh thành. Trên cơ sở đó Tỉnh Nghệ An tiếp tục phân vùng, điều

chỉnh kế hoạch bổ sung cho phù hợp với lực lượng hiện tại, tổ chức phúc tra

đưa vào biên chế để quản lý huấn luyện theo chương trình quy định và diễn

tập hàng năm. Cho đến năm 1996 về cơ bản lực lượng dự bị động viên trên

địa bàn huyện Quỳnh Lưu đã được củng cố, kiện toàn đủ số lượng theo yêu

cầu quy hoạch của quân khu IV và Bộ quốc phòng. Trong thời gian này

Huyện uỷ chỉ đạo không hình thành phát triển các đơn vị dự bị động viên

mới, mà trên cơ sở các đơn vị đã có kế hoạch, tăng cường phúc tra để luôn

đảm bảo quân số, vũ khí phương tiện, kỹ thuật, luôn đảm bảo số lượng và

nâng cao chất lượng.

Về công tác huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, mặc dù quân dự bị động

viên hầu hết là các quân nhân, sĩ quan đã từng ở trong quân ngũ, đã khá am

tường về kỹ thuật, chiến thuật quân sự nhưng vẫn quy định về thời gian học

tập, huấn luyện cho quân dự bị động viên ít nhất là 30 ngày trong năm, nhất là

các sĩ quan chỉ huy để họ nắm thêm tình hình mọi mặt nhất là những thay đổi

về âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, những kỹ thuật chiến thuật cần bổ sung để

phù hợp với tình hình mới.

Ngày 27/8/1996, Pháp lệnh về lực lượng dự bị động viên đã được Uỷ

ban thường vụ Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá IX

thông qua, bao gồm những điều khoản về những quy định chung, xây dựng,

huy động, chế độ chính sách, kinh phí xây dựng và huy động, quản lý nhà

nước về xây dựng và huy động lực lượng dự bị động viên… Quán triệt sâu

sắc nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và

69

bảo vệ Tổ quốc, thực hiện kế hoạch của trên, Ban chỉ huy quân sự huyện đã

tham mưu cho Huyện uỷ chỉ đạo, tổ chức triển khai Pháp lệnh về lực lượng

dự bị động viên cho các đồng chí cán bộ chủ chốt ở cơ sở. Thông qua hội

nghị, cán bộ cơ sở đã xác định đúng việc xây dựng lực lượng dự bị động viên

là một nhiệm vụ quan trọng của công tác quân sự địa phương. Từ đó các cấp,

các ngành thường xuyên quan tâm thực hiện. Ban chỉ huy quân sự huyện tiến

hành phúc tra đăng ký quản lý nguồn trong toàn huyện. Tính đến cuối năm

1996, số quân nhân dự bị là 750 người, trong đó sĩ quan 230 người. [27]

Tuyển quân là một trong những nhiệm vụ hết sức quan trọng trong công

tác quân sự địa phương. Nghị quyết của Đảng bộ quân sự huyện năm 1997

nhấn mạnh: “Chỉ đạo và làm tốt công tác khám tuyển và gọi công dân nhập

ngũ đảm bảo số lượng, chất lượng, đúng luật định. Huyện, 42 xã và các đơn

vị phải hoàn thành chỉ tiêu giao quân, chấm dứt tình trạng đào ngũ. Công tác

phúc tra đăng ký, quản lý, biên chế, huấn luyện lực lượng dự bị động viên đi

vào nề nếp thống nhất theo Pháp lệnh lực lượng dự bị động viên”[27]. Quán

triệt Nghị quyết của Đảng bộ quân sự huyện, Ban chỉ huy quân sự huyện đã

làm tốt công tác đăng ký và nắm chắc lứa tuổi của công dân ở trên địa bàn

huyện Quỳnh Lưu, nhất là lứa tuổi 17 nên công tác tuyển quân của huyện

Quỳnh Lưu hàng năm đều đạt và vượt chỉ tiêu giao quân, đảm bảo chất lượng,

nhanh gọn an toàn. Trong quá trình tiến hành, cơ quan quân sự đã phối hợp

với các ban ngành tuyên truyền giáo dục Luật nghĩa vụ quân sự, triển khai

đồng bộ từ huyện đến cơ sở.

Cùng với nhiệm vụ tuyển quân, nhiệm vụ tuyển sinh quân sự được coi

trọng đúng mức. Năm 1997, toàn huyện có 67 em đủ điều kiện thi tuyển vào

các trường quân sự, trong đó có 7 em thi đỗ.[27]

70

Việc xây dựng, quản lý lực lượng dự bị động viên luôn được tiến hành

khá chặt chẽ theo pháp lệnh. Hàng năm, được phúc tra, sắp xếp bổ nhiệm,

điểm danh, kiểm tra sẵn sàng chiến đấu và tổ chức huấn luyện thành nền nếp.

Căn cứ vào kế hoạch trên giao đã điều chỉnh xếp đủ nguồn cho các đơn vị.

Quá trình xây dựng thực hiện phương châm: gần, gọn, quân đâu cán đó; tỷ lệ

đúng chuyên nghiệp quân sự đạt 81%. Hàng năm, huyện đều hoàn thành chỉ

tiêu động viên cho các nhiệm vụ huấn luyện, diễn tập, phòng chống lụt bão,

phòng chống cháy nổ. Công tác chi trả phụ cấp trách nhiệm được thực hiện

nghiêm túc đúng pháp lệnh. Công tác đăng ký phân cấp quản lý phương tiện

kỹ thuật được thực hiện có nền nếp.

Từ năm 1998 - 2000, Ban chỉ huy quân sự huyện đã tham mưu cho

huyện uỷ lãnh đạo, chỉ đạo cơ sở thực hiện nghiêm túc quy trình trong tuyển

chọn và gọi công dân nhập ngũ. Trong nhiệm vụ này đã phát huy được sức

mạnh tổng hợp của các cấp, các ngành địa phương, khắc phục những tác động

chi phối của cơ chế thị trường. Hàng năm giao đủ 100% chỉ tiêu cho các đơn

vị, chất lượng tốt, tỷ lệ dự phòng hợp lý, tổ chức giao quân nhanh, gọn, an

toàn (năm 1998: 500/500 thanh niên; năm 1999: 520/520 thanh niên; năm

2000: 500/500 thanh niên). Ngày giao quân được tổ chức chu đáo trang trọng,

thực sự là ngày hội của tuổi trẻ lên đường bảo vệ Tổ quốc. Phúc tra và gọi dự

bị động viên đi huấn luyện được 480 người, đăng ký lứa tuổi 17 gồm 2680

người, khám sức khoẻ nghĩa vụ quân sự 4178 người. Việc xử lý chống, trốn

lệnh gọi nhập ngũ, đào bỏ ngũ được từng cơ sở tiến hành tích cực và kiên

quyết, vận động trở lại quân đội 3 năm 10 người, giải quyết tại địa phương 26

người. Công tác tuyển sinh quân sự được triển khai đồng bộ và tỷ lệ thi đỗ

cao hơn so với năm trước (dự thi 450 em trong đó đỗ 32 em). [29]

71

Bước sang thời kỳ mới, Nghị quyết về nhiệm vụ quốc phòng - quân sự

địa phương năm 2001 của Đảng bộ quân sự huyện Quỳnh Lưu ngày

20/12/2000 nhấn mạnh: “Chủ động tạo nguồn và quản lý chặt chẽ nguồn dự bị

động viên. Kết hợp chặt chẽ kế hoạch xây dựng huấn luyện lực lượng dự bị

động viên với công tác tuyển quân và hoàn thành chỉ tiêu giao quân năm 2001

trong hai đợt với tổng số 430 thanh niên”[31]. Nghị quyết về nhiệm vụ quân

sự - quốc phòng năm 2003 của Đảng bộ quân sự huyện ngày 23/1/2003 tiếp

tục nhấn mạnh: “Phối hợp chặt chẽ với các đơn vị nhận nguồn, phúc tra, soát

xét, nắm chắc và quản lý thực lực quân dự bị động viên, thực hiện tốt chế độ

bổ nhiệm, giải ngạch, từng bước nâng cao chất lượng nguồn dự bị động viên

và các phương tiện kỹ thuật. Đưa công tác quản lý, đăng ký, báo động kiểm

tra, huấn luyện, diễn tập đi vào nền nếp, đạt chất lượng cao. Tham mưu cho

Huyện uỷ, chính quyền kiên quyết xử lý những trường hợp trốn, chống lệnh

nhập ngũ và quân nhân đào ngũ”.[32]

Quán triệt chủ trương của Đảng bộ quân sự huyện và với phương châm

xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu, từ năm 2001 - 2004, Ban chỉ

huy quân sự huyện Quỳnh Lưu đã chỉ đạo các cơ sở làm tốt các khâu: tạo

nguồn, tổ chức đăng ký, phúc tra quản lý nguồn chặt chẽ, nắm chắc di biến

động, thường xuyên kiện toàn tổ chức biên chế, sắp xếp quân dự bị cho các

đơn vị nhận nguồn bảo đảm gần, gọn địa bàn, nâng cao chất lượng lực lượng.

Cho đến năm 2004, toàn huyện đăng ký độ tuổi 17 được 2346 người. Độ tuổi

từ 18 đến 25 toàn huyện gồm 4312 người, Quân dự bị hạng 1 là 3780 người,

hạng 2 là 2541 người, đã biên chế sắp xếp vào các đơn vị 2176 người. Các cơ

sở tiếp nhận 132 quân nhân xuất ngũ phục viên trở về địa phương. Ban chỉ

huy quân sự huyện phối hợp chặt chẽ với các đơn vị nhận nguồn báo động

kiểm tra sẵn sàng chiến đấu 789 lượt quân nhân dự bị, bàn giao cho đơn vị

huấn luỵên 897 sĩ quan và hạ sĩ quan chiến sĩ. Kết quả huấn luyện 100% đạt

72

yêu cầu, trong đó có 75 đến 80% khá giỏi, đơn vị đạt loại khá, bảo đảm an

toàn.[34]

Trong thời gian này, thực hiện tuyển chọn và gọi công dân nhập ngũ

được coi là nhiệm vụ chính trị quan trọng của huyện, đã được Huyện uỷ lãnh

đạo, chỉ đạo sâu sát kịp thời. Ban chỉ huy quân sự huyện, trung tâm y tế huyện

đã đoàn kết hiệp đồng thực hiện có hiệu quả quy trình tuyển chọn và gọi công

dân nhập ngũ từ khâu đăng ký quản lý nguồn đến sơ tuyển, khám tuyển, lập

hồ sơ cho đơn vị thâm nhập chốt quân số, thống nhất danh sách gọi nhập ngũ

tập trung, nắm chắc tư tưởng, động viên thăm hỏi kịp thời, tổ chức lễ giao

quân chu đáo, đúng hướng dẫn của tỉnh. Với sự cố gắng nỗ lực của Đảng bộ

và nhân dân, huyện Quỳnh Lưu đã thực hiện tốt công tác tổ chức và giao đủ

chỉ tiêu 100% (năm 2001: 430/430 thanh niên; năm 2002: 450/450 thanh niên;

năm 2003: 450/450 thanh niên; năm 2004: 450/450 thanh niên). Số quân của

huyện giao cho Bộ Quốc phòng, Bộ Công an và Bộ Tư lệnh Quân khu IV, bảo

đảm nhanh gọn, đúng luật, an toàn tiết kiệm. [34]

Đi đôi với việc tuyển, gọi công dân nhập ngũ và duy trì nghiêm luật

nghĩa vụ quân sự, Huyện uỷ còn chỉ đạo giải quyết xử lý các trường hợp

chống, trốn và số quân nhân đào ngũ tồn đọng từ những năm trước. Với

phương châm: Xử lý kiên quyết, chặt chẽ, nghiêm minh, kết hợp giáo dục

thuyết phục với các biện pháp hành chính, nên đã có tác dụng thiết thực, động

viên được hầu hết số bỏ ngũ trở lại đơn vị, góp phần hoàn thành tốt nhiệm vụ

tuyển chọn và gọi công dân nhập ngũ.

Thực hiện chế độ chính sách đối với lực lượng dự bị động viên, Ban chỉ

huy quân sự huyện tiến hành chi trả phụ cấp trách nhiệm cho 167 đồng chí

quân nhân dự bị giữ chức vụ chỉ huy, đảm bảo đúng thủ tục nguyên tắc, góp

phần nâng cao ý thức chấp hành nhiệm vụ của quân nhân dự bị động viên,

73

nắm chắc số, chất lượng, di biến động để kiện toàn kịp thời, sẵn sàng đáp ứng

yêu cầu động viên quân đội.

Cũng như lực lượng bộ đội thường trực và dân quân tự vệ, hàng năm

Huyện uỷ chỉ đạo cho Ban chỉ huy quân sự huyện thường xuyên tập huấn,

huấn luyện, tổ chức diễn tập cho lực lượng dự bị động viên cả về chính trị và

quân sự nhằm nâng cao trình độ sẵn sàng chiến đấu. Kết thúc các khoá tập

huấn đều tổ chức thi sát hạch và đánh giá kết quả cho lực lượng dự bị động

viên.

Như vậy, trong thời kỳ từ năm 1986 đến 2004, Đảng bộ huyện Quỳnh

Lưu đã lãnh đạo xây dựng lực lượng dự bị động viên của huyện hùng hậu

được thể hiện trên tất cả các khâu, các bước từ chuẩn bị đến thực hành động

viên. Bảo đảm số lượng theo kế hoạch, chất lượng cao, xây dựng toàn diện

nhưng có trọng tâm, trọng điểm nhằm đáp ứng yêu cầu của cách mạng trong

giai đoạn mới.

Tóm lại, từ năm 1986 đến năm 2004, dưới sự tham mưu của Đảng uỷ,

Ban chỉ huy quân sự huyện Quỳnh Lưu, Đảng bộ huyện đã thường xuyên lãnh

đạo, chỉ đạo, quán triệt mọi Chỉ thị, Nghị quyết, các quy định hướng dẫn của

cấp trên cho lực lượng vũ trang của huyện, ra sức xây dựng Đảng bộ trong

sạch, vững mạnh, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có phẩm chất đạo đức

trong sáng, lối sống lành mạnh, có năng lực lãnh đạo. Đảng bộ luôn quan tâm

chỉ đạo xây dựng cả lực lượng thường trực, lực lượng dân quân tự vệ, lực

lượng dự bị động viên và tổ chức huấn luyện nhằm nâng cao sức chiến đấu và

chiến đấu có hiệu quả. Nhiệm vụ củng cố lực lượng dân quân tự vệ và dự bị

động viên đã chú ý coi trọng cả số lượng và chất lượng đáp ứng yêu cầu tác

chiến trên địa bàn, đánh bại mọi âm mưu của các thế lực thù địch, giữ gìn an

ninh trật tự trên địa bàn huyện.

74

Chƣơng 3

KẾT QUẢ VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM TRONG XÂY DỰNG

LỰC LƢỢNG VŨ TRANG HUYỆN QUỲNH LƢU

3.1. Những kết quả chủ yếu và khuyết điểm, yếu kém

3.1.1. Kết quả chủ yếu

Từ năm 1986 đến 2004, trước yêu cầu tình hình nhiệm vụ mới của cách

mạng, đặc biệt, dưới ánh sáng của các Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần

thứ VI, VII, VIII và IX; Nghị quyết Bộ Quốc phòng, Quân khu IV và Bộ chỉ

huy quân sự tỉnh Nghệ An, lực lượng vũ trang huyện Quỳnh Lưu, dưới sự

75

lãnh đạo trực tiếp của Đảng bộ huyện đã có những bước tiến vững chắc, đạt

được những kết quả biểu hiện trên tất cả các mặt:

Một là, quán triệt Nghị quyết 02 năm 1987 của Bộ Chính trị: Đảng lãnh

đạo, chính quyền điều hành, cơ quan quân sự, công an, ban ngành làm tham

mưu, Đảng bộ - Ban chỉ huy quân sự huyện Quỳnh Lưu đã chủ động tham

mưu cho Huyện uỷ lãnh đạo, chỉ đạo củng cố, xây dựng lực lượng vũ trang

trên địa bàn huyện, tạo sự chuyển biến mạnh về nhận thức trách nhiệm, lãnh

đạo, chỉ đạo cấp uỷ, chính quyền cơ sở trong công tác quân sự - quốc phòng

địa phương.

Hai là, đã xác định đúng các nhiệm vụ trọng tâm, trọng điểm trong từng

năm, từng giai đoạn, từ đó tập trung mọi nỗ lực cho việc hoàn thành nhiệm vụ

chủ yếu, động viên kịp thời cán bộ, chiến sĩ phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ

cấp trên giao. Vì vậy, hàng năm hầu hết các cán bộ, chiến sĩ sẵn sàng nhận và

hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.

Ba là, Huyện uỷ đã chỉ đạo tốt công tác Đảng, công tác chính trị trong

lực lượng bộ đội địa phương, dân quân tự vệ và dự bị động viên, luôn xác

định đây là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong công tác lãnh đạo xây dựng

lực lượng vũ trang của Đảng. Quán triệt các Nghị quyết của Đảng uỷ - Bộ chỉ

huy quân sự tỉnh Nghệ An và các Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng bộ Quân khu

4, Đảng uỷ quân sự Trung ương và của Đảng Cộng sản Việt Nam đến lực

lượng vũ trang của huyện. Vì vậy, chất lượng công tác xây dựng Đảng bộ

được nâng lên, nội bộ đoàn kết, thống nhất cao, 100% đảng viên đủ tư cách.

Tạo điều kiện cho cán bộ, đảng viên, đoàn viên thanh niên trong lực lượng vũ

trang của huyện nhận thức đầy đủ nhiệm vụ quốc phòng - an ninh trong tình

hình mới, nhận rõ âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, nâng cao cảnh

giác cách mạng, chủ động phòng ngừa, đẩy lùi các nguy cơ thách thức trong

76

đó có nguy cơ “diễn biến hoà bình”, từ đó tích cực góp sức mạnh xây dựng

Đảng bộ về chính trị, tư tưởng và tổ chức, làm nòng cốt trong mọi hoạt động

nhằm xây dựng lực lượng vũ trang trên địa bàn huyện Quỳnh Lưu vững mạnh

toàn diện tiến lên chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.

Bốn là, đã nắm chắc mọi diễn biến tình hình, duy trì nghiêm các chế độ

sẵn sàng chiến đấu từ huyện đến cơ sở, tăng cường các hoạt động sẵn sàng

chiến đấu trong các đợt cao điểm. Chủ động xây dựng, bổ sung hoàn chỉnh và

tổ chức huấn luyện thuần thục các phương án, kế hoạch A, A2, A3, A4, kế

hoạch B… Phối hợp chặt chẽ với công an và các ban, ngành, đoàn thể theo

dõi nắm chắc mọi diễn biến của tình hình, giải quyết kịp thời, có hiệu quả các

vấn đề nảy sinh trên địa bàn huyện, không để lây lan kéo dài, góp phần giữ

vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn huyện.

Năm là, công tác huấn luyện sẵn sàng chiến đấu đã được thực hiện

nghiêm túc hàng năm và được đổi mới về phương hướng, phương châm

nhiệm vụ huấn luyện. Đã thực hiện nhiệm vụ đổi mới công tác huấn luyện,

chiến đấu theo tư duy mới về quốc phòng - quân sự của Đảng. Xây dựng bộ

đội thường trực chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, lực lượng dân quân

tự vệ vững mạnh, rộng khắp, tin cậy về chính trị theo phương châm: ở đâu có

dân ở đó có dân quân tự vệ, xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu

theo hướng “ngụ binh ư nông”, “sư đoàn trong dân”. Ban chỉ huy quân sự

huyện Quỳnh Lưu luôn nắm chắc nhiệm vụ của Huyện uỷ, Bộ chỉ huy quân

sự tỉnh giao cho từng địa phương và xác định phuơng hướng, nhiệm vụ chính

trị trọng tâm của đơn vị mình là bồi dưỡng các đối tượng cán bộ về trình độ

chỉ huy, công tác tham mưu, tác chiến, tổ chức huấn luyện về kiến thức quân

sự địa phương. Từ năm 1986 đến 2004, huyện đã gửi đi tập huấn, bồi dưỡng

kiến thức quốc phòng ở tỉnh và Quân khu IV 268 đồng chí, tập huấn ở huyện

77

1785 lượt cán bộ chủ chốt của huyện và xã. Tổ chức diễn tập khu vực phòng

thủ huyện 3 lần đều đạt loại giỏi, phòng chống thiên tai, lũ lụt 6 lần, tác chiến

trị an 104 lượt ở xã [48]. Quá trình tổ chức thực hiện nhiệm vụ hàng năm dưới

sự lãnh đạo của huyện uỷ, Ban chỉ huy quân sự huyện luôn nghiên cứu xây

dựng nội dung chương trình cho phù hợp với đối tượng và sát với tình hình

nhiệm vụ của địa phương, công tác chuẩn bị giáo án, bài giảng, mô hình, học

cụ, thao trường… tốt.

Sáu là, việc quản lý lực lượng dự bị động viên, phương tiện kỹ thuật,

nguồn sẵn sàng nhập ngũ được thực hiện chặt chẽ, đảm bảo sẵn sàng động

viên cao. Từ năm 1986 đến năm 2004 toàn huyện đã tuyển gọi 9470 thanh

niên lên đường nhập ngũ và hàng ngàn lượt quân nhân dự bị động viên được

gọi kiểm tra, huấn luyện theo kế hoạch hàng năm.

Bảy là, bảo đảm tốt công tác hậu cần, tài chính, kỹ thuật cho các nhiệm

vụ, duy trì đủ lượng, dữ trữ sẵn sàng chiến đấu. Đời sống vật chất, tinh thần

của lực lượng vũ trang huyện từng bước được cải thiện. Đảng bộ đã quan tâm

đúng mức về lãnh đạo nhiệm vụ kỹ thuật, thường xuyên củng cố, kiện toàn

đội ngũ cán bộ và nhân viên kỹ thuật, đầu tư ngân sách tu sửa, nâng cấp kho

vũ khí, xây dựng quy chế đảm bảo an toàn kho tuyệt đối không để mất mát,

xuống cấp, cháy nổ, duy trì tốt chế độ quản lý, thu hồi niêm cất, kiểm kê, sắp

xếp, trả về trên 4 tấn vũ khí cấp 5, thu hồi 67 khẩu súng, 100 quả lựu đạn.

Những kết quả đạt được trong công tác xây dựng lực lượng vũ trang

huyện Quỳnh Lưu thời gian qua do:

- Sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng uỷ Quân khu IV, Đảng uỷ - Bộ chỉ huy

quân sự tỉnh Nghệ An, mà trực tiếp là của Huyện uỷ - Uỷ ban nhân dân huyện

Quỳnh Lưu trong quá trình triển khai thực hiện nhiệm vụ. Trong quá trình

lãnh đạo, Đảng bộ huyện luôn coi trọng xây dựng Đảng bộ vững mạnh về

78

chính trị, tư tưởng, đặc biệt là quán triệt các Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng uỷ

cấp trên một cách nghiêm túc. Do đó, từng đảng viên, chiến sĩ trong đảng bộ

luôn ổn định về tư tưởng, được thể hiện nhất trí cao với quan điểm, đường lối

của Đảng về công tác quốc phòng - an ninh, vững vàng trước mọi thử thách,

khó khăn, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, xây dựng niềm tự

hào truyền thống quê hương, quân đội, dân tộc, nâng cao trách nhiệm chính trị

đối với nhiệm vụ quốc phòng - quân sự địa phương. Trong quá trình lãnh đạo,

Đảng bộ luôn chấp hành nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, giải quyết tốt

mối quan hệ, nội bộ đoàn kết thống nhất, thường xuyên phê bình và tự phê

bình.

- Có sự đóng góp nhiệt tình, hiệp đồng chặt chẽ và hỗ trợ kịp thời của

các ban ngành, đoàn thể và lực lượng công an huyện trong nhiệm vụ giữ gìn

an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trên địa bàn huyện, gắn liền với sự

giúp đỡ của các cơ quan cấp trên ở tỉnh, Quân khu 4, tạo mọi điều kiện thuận

lợi nhất để lực lượng vũ trang huyện xây dựng, chiến đấu, phát huy truyền

thống của quê hương Quỳnh Lưu.

- Ban chỉ huy quân sự huyện Quỳnh Lưu và các ban ngành đã chủ động

tham mưu và phối hợp chặt chẽ, triển khai thực hiện kịp thời, nghiêm túc.

- Cán bộ, chiến sỹ lực lượng vũ trang và nhân dân toàn huyện đã nêu cao

tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, chủ động, sáng tạo, phát huy sức

mạnh đoàn kết, thống nhất khắc phục mọi khó khăn, quyết tâm phấn đấu thi

đua hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

Những kết quả đó đã tạo tiềm lực mọi mặt cho lực lượng vũ trang trên

địa bàn huyện Quỳnh Lưu đủ sức tự bảo vệ, đồng thời là tiền đề để tiếp tục

thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng khu vực phòng thủ huyện trong thế phòng

79

thủ chung của tỉnh thời gian tới, sẵn sàng đối phó thắng lợi với mọi tình

huống xảy ra, đáp ứng yêu cầu trong giai đoạn cách mạng mới.

3.1.2. Hạn chế, yếu kém

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, trong những năm 1986 đến 2004,

quá trình lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ huyện Quỳnh Lưu về xây dựng lực

lượng vũ trang huyện vẫn còn một số hạn chế, yếu kém.

Một là, công tác xây dựng Đảng bộ tuy có nhiều cố gắng, song trước yêu

cầu cách mạng của thời kỳ đổi mới những năm 1986 - 2004 còn bộc lộ nhiều

yếu kém, khuyết điểm. Việc quán triệt Nghị quyết, Chỉ thị của trên, cụ thể hoá

thành chủ trương, biện pháp để lãnh đạo, chỉ đạo chưa sâu, hiệu quả chưa cao.

Công tác kiểm tra Đảng chưa tiến hành đồng bộ. Chưa quan tâm đúng mức

việc chỉ đạo kết hợp tự phê bình và phê bình với kiện toàn tổ chức, đổi mới cơ

chế, chính sách, tiến hành công tác giáo dục quản lý chiến sĩ, đảng viên, né

tránh đấu tranh, ngại va chạm; chưa ngăn chặn được đà suy thoái của một bộ

phận chiến sĩ, đảng viên về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, kỷ luật lỏng

lẻo, nội bộ một số xã còn mất đoàn kết, bè phái, cục bộ; những biểu hiện cơ

hội, thực dụng, tham nhũng, lãnh phí, chủ nghĩa cá nhân… còn rất nghiêm

trọng làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng, dễ bị các thế lực thù địch

lợi dụng. Lãnh đạo của một số cấp uỷ Đảng chưa ngang tầm với đòi hỏi của

nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới.

Hai là, chưa phát huy sức mạnh đồng bộ của các cấp, các ngành, các

phương tiện thông tin đại chúng trong công tác tuyên truyền giáo dục nên

nhận thức về một số nội dung quân sự - quốc phòng chưa cao, một bộ phận

chiến sĩ, đảng viên chưa thấy hết âm mưu của các thế lực thù địch, còn mơ hồ,

mất cảnh giác. Trình độ hiểu biết về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí

Minh, chủ trương, đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước trong lực

80

lượng dân quân tự vệ và lực lượng dự bị động viên còn hạn chế. Công tác tư

tưởng chưa sắc bén, tính chiến đấu không cao, phương pháp tiến hành chưa

linh hoạt sáng tạo, chưa có sự chỉ đạo tập trung và phân công phối hợp chặt

chẽ, nhiều điều kiện còn thiếu như thông tin, phương tiện kỹ thuật, cán bộ

chuyên sâu… nên chưa tạo được nhận thức thống nhất, đúng đắn về quan

điểm xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân của Đảng.

Ba là, chất lượng tổng hợp của các lực lượng vũ trang còn có mặt chưa

đáp ứng được yêu cầu tình hình nhiệm vụ. Sức chiến đấu, trình độ sẵn sàng

chiến đấu, chất lượng huấn luyện cho bộ đội địa phương chưa cao, chưa được

củng cố đáp ứng yêu cầu của cuộc đấu tranh toàn diện và phức tạp trong thời

bình hiện nay. Chất lượng của lực lượng dân quân tự vệ và dự bị động viên

không đồng đều, chưa có mô hình hoạt động thật sự vững chắc và có hiệu quả

(đáng chú ý là dân quân vùng giáo và dân quân vùng biển). Một số cơ quan,

xí nghiệp trong xây dựng và tổ chức lực lượng chưa chú trọng công tác huấn

luyện hàng năm, một số đơn vị còn chiếu lệ, đặc biệt có xã không huấn luyện.

Công tác động viên quân đội một số xã gặp khó khăn, có xã không hoàn thành

nhiệm vụ. Công tác quản lý sắp xếp nguồn động viên có xã chưa chặt chẽ,

nhiệm vụ xây dựng cơ sở vững mạnh, an toàn làm chủ sẵn sàng chiến đấu tuy

có nhiều cố gắng nhưng thực hiện chưa đồng bộ, chất lượng chưa vững chắc.

Bốn là, năng lực nắm bắt, tổng hợp và dự báo tình hình ở một số cán bộ

cơ quan quân sự huyện còn hạn chế do vậy chất lượng tham mưu cho Huyện

uỷ, Uỷ ban nhân dân huyện lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ quốc phòng

- quân sự địa phương, nhất là những nội dung về kết hợp kinh tế với quốc

phòng, quốc phòng với kinh tế, xây dựng cơ sở chính trị, xây dựng “thế trận

lòng dân”, ổn định tình hình trên địa bàn của Ban chỉ huy quân sự huyện chưa

nhanh nhạy, chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.

81

Năm là, chất lượng tham mưu đề xuất, khả năng chỉ đạo, kiểm tra trong

công tác hậu cần kỹ thuật còn nhiều bất cập, lúng túng. Bảo đảm dữ trữ hậu

cần cho các nhiệm vụ chưa được chú trọng. Trình độ tổ chức bảo đảm hậu cần

thường xuyên có lúc chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Trách nhiệm cán bộ,

đảng viên trong thực hiện chỉ tiêu tăng gia sản xuất hàng năm chưa được đề

cao, kết quả công tác hậu cần chưa tương xứng với tiềm năng.

Những hạn chế và yếu kém trong quá trình lãnh đạo và chỉ đạo xây dựng

lực lượng vũ trang của Đảng bộ huyện Quỳnh Lưu trong những năm 1986 -

2004 là do:

- Một số cấp uỷ, chính quyền, ban ngành, đoàn thể nhận thức về nhiệm

vụ xây dựng lực lượng vũ trang địa phương chưa sâu sắc, trong lãnh đạo, chỉ

đạo và tổ chức thực hiện có lúc thiếu tập trung.

- Năng lực tham mưu của Ban chỉ huy quân sự huyện cho cấp uỷ, chính

quyền nhiều mặt còn hạn chế, chưa tạo được sự chuyển biến về nhận thức,

trách nhiệm của các cấp, các ngành, đoàn thể và nhân dân trong thực hiện

nhiệm vụ quốc phòng - quân sự địa phương.

- Đảng uỷ, Ban chỉ huy quân sự huyện chưa thực sự quan tâm đúng mức,

chưa có những chủ trương, biện pháp kịp thời, hiệu quả và kiên quyết trong

xây dựng nền nếp chính quy, rèn luyện kỷ luật.

- Trình độ năng lực, kinh nghiệm công tác quân sự địa phương của đội

ngũ cán bộ còn hạn chế, chậm đổi mới phương pháp, tác phong công tác, còn

có biểu hiện cầm chừng, thiếu tính chủ động, nhanh nhạy; chất lượng cán bộ

quân sự ở cơ sở chưa ngang tầm.

- Một bộ phận cán bộ, đảng viên trong lực lượng vũ trang trình độ lý

luận và hiểu biết thực tế chưa sâu sắc; chưa quán triệt tốt và vận dụng nhuần

82

nhuyễn các quan điểm, tư tưởng chỉ đạo nhiệm vụ quốc phòng - quân sự địa

phương trong những điều kiện, tình hình cụ thể; phương pháp, tác phong công

tác còn quan liêu, không sâu sát cơ sở, tính chiến đấu còn thấp, thiếu cảnh

giác trước âm mưu và các hoạt động chống phá của các lực lượng thù địch.

3.2. Một số kinh nghiệm trong xây dựng lực lƣợng vũ trang huyện

Quỳnh Lƣu thời kỳ 1986 - 2004

Qua thực tiễn gần 20 năm (1986 - 2004) lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng lực

lượng vũ trang của Đảng bộ huyện Quỳnh Lưu, có thể rút ra một số bài học

kinh nghiệm quý báu sau đây:

3.2.1. Không ngừng củng cố và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng mà

trực tiếp là Đảng bộ huyện Quỳnh Lưu đối với lực lượng vũ trang huyện.

Thực tiễn công tác quân sự - quốc phòng của huyện Quỳnh Lưu gần 20

năm qua đã chứng minh sự lãnh đạo của Đảng mà trực tiếp là Đảng bộ huyện

là cần thiết và đúng đắn đồng thời là nhân tố quyết định mọi thắng lợi trong

nhiệm vụ xây dựng lực lượng vũ trang trên địa bàn huyện.

Có thể nói, hoạt động của lực lượng vũ trang, của quốc phòng là lĩnh vực

liên quan đến sự an nguy, thịnh suy, vinh nhục, mất còn của Đảng, Nhà nước

và chế độ xã hội chủ nghĩa. Kẻ thù hiểu rất rõ chừng nào Đảng còn lãnh đạo

sự nghiệp quốc phòng, nắm chắc và xây dựng lực lượng vũ trang hùng hậu,

từng bước chính quy, tinh nhuệ, hiện đại thì âm mưu thôn tính, xâm lược Tổ

quốc Việt Nam không thể thực hiện được. Ngược lại, với chúng ta, Tổ quốc

và chế độ xã hội chủ nghĩa tồn tại và phát triển gắn liền với sự lãnh đạo của

Đảng. Vì vậy, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang là

nhiệm vụ hàng đầu, là yếu tố quyết định làm cho họ luôn vững vàng, kiên

định lý tưởng cách mạng, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc và

83

nhân dân, làm nòng cốt của quốc phòng - an ninh cùng toàn dân bảo vệ Tổ

quốc giành thắng lợi.

Bước vào thời kỳ đổi mới, cùng với nhân dân cả nước, quân và dân

huyện Quỳnh Lưu thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược đó là xây dựng chủ

nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, trong bối cảnh

thế giới và trong nước có những diễn biến phức tạp, khó lường, các thế lực

thù địch thực hiện âm mưu “diễn biến boà bình”, “bạo loạn lật đổ” nhằm xoá

bỏ chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đối với Quỳnh Lưu, là một địa bàn chiến lược,

một hướng chiến lược rất quan trọng của Nghệ An, là một trong những trọng

điểm mà các thế lực thù địch đã và đang thực hiện âm mưu diễn biến hoà bình

thì vai trò và hiệu quả lãnh đạo của Đảng bộ huyện là hết sức quan trọng, là

điều kiện tiên quyết để giành thắng lợi. Những thành tựu và khuyết điểm, yếu

kém trong quá trình lãnh đạo xây dựng lực lượng vũ trang của Đảng bộ huyện

Quỳnh Lưu trong thời gian qua đã cho chúng ta thấy rõ điều đó và rút ra

những vấn đề có ý nghĩa chỉ đạo thực tiễn như sau:

Một là, phải xây dựng Đảng bộ huyện ngang tầm với nhiệm vụ lãnh đạo

xây dựng lực lượng vũ trang trong thời kỳ mới. Nâng cao trình độ toàn diện

trước hết là năng lực lãnh đạo của Đảng bộ, trình độ của cấp uỷ, đảng viên,

chỉ huy để đủ sức lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ mà

cấp trên giao. Chính vì vậy, ngoài những kiến thức chung về lãnh đạo, cấp uỷ

nên học tập, bồi dưỡng để nâng cao kiến thức về quân sự - quốc phòng, những

vấn đề này rất cần đối với các cấp uỷ khi lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ quân sự

- quốc phòng trong phạm vi cấp uỷ phụ trách. Trên cơ sở nắm chắc tình hình

có liên quan, âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, tình hình

an ninh trật tự xã hội trên địa bàn huyện, dự báo tình huống chiến lược để từ

84

đó Đảng bộ quán triệt quan điểm của Đảng đề ra những chủ trương, chính

sách đồng thời tổ chức thực hiện đối với lực lượng vũ trang huyện nhà.

Hai là, để củng cố và xây dựng lực lượng bộ đội địa phương từng bước

chính quy, tinh nhuệ và hiện đại, xây dựng lực lượng dân quân tự vệ vững

mạnh, rộng khắp, có hiệu quả và lực lượng dự bị động viên hùng hậu trong

thời kỳ mới, thì trước hết phải tập trung xây dựng Đảng bộ quân sự huyện

Quỳnh Lưu trong sạch, vững mạnh. Bởi vì, đây là cơ quan của lực lượng vũ

trang địa phương và cũng là cơ quan thay mặt Đảng bộ huyện chỉ đạo thường

xuyên lực lượng vũ trang thực hiện nhiệm vụ quốc phòng - quân sự địa

phương và chấp hành, quán triệt các quan điểm, chủ trương của Đảng, Bộ

Quốc Phòng, Đảng uỷ Quân khu 4 và Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Nghệ An đến

lực lượng vũ trang huyện nhà. Vì vậy, Đảng uỷ quân sự huyện không chỉ

gương mẫu về phẩm chất đạo đức, mà phải có năng lực lãnh đạo xây dựng lực

lượng vũ trang, chủ động, sáng tạo, linh hoạt, chỉ đạo kịp thời. Thực hiện

Nghị quyết 02 của Bộ chính trị: Đảng lãnh đạo, chính quyền điều hành, cơ

quan quân sự, công an, ban ngành làm tham mưu. Đảng bộ quân sự huyện

phải chủ động làm tham mưu cho Huyện uỷ thực hiện lãnh đạo, chỉ đạo tuyệt

đối, trực tiếp về mọi mặt xây dựng lực lượng bộ đội địa phương, dân quân tự

vệ và dự bị động viên của huyện, tạo sự chuyển biến mạnh về nhận thức trách

nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo cấp uỷ, chính quyền cơ sở trong công tác quốc

phòng, giữ gìn an ninh trật tự an toàn xã hội trên địa bàn huyện và góp phần

bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đáp ứng yêu cầu cách mạng trong

giai đoạn mới.

Ba là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện Quỳnh Lưu với nhiệm

vụ xây dựng lực lượng vũ trang huyện nhà cũng có nghĩa là Đảng bộ phải

giáo dục cho lực lượng bộ đội địa phương, dân quân tự vệ và dự bị động viên

85

(đặc biệt là bộ đội địa phương) tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, luôn

luôn giữ vững bản chất giai cấp công nhân, trung thành với Đảng, kiên quyết

chống âm mưu “phi chính trị hoá quân đội” của các thế lực thù địch. Đồng chí

Võ Nguyên Giáp đã khẳng định: “Sự lãnh đạo của Đảng phải hết sức coi

trọng vấn đề giữ vững và tăng cường bản chất cách mạng, bản chất giai cấp

của quân đội..” [37, tr57]. Trong giai đoạn hiện nay vấn đề giữ vững bản chất

cách mạng của quân đội vẫn là một yêu cầu cơ bản quan trọng bậc nhất. Chỉ

có trên cơ sở giữ vững và tăng cường bản chất cách mạng, nâng cao giác ngộ

xã hội chủ nghĩa và tinh thần yêu nước của cán bộ và chiến sĩ, mới có thể thực

hiện tốt việc chính quy hoá, hiện đại hoá quân đội. Trên con đường tiến lên

chính quy và hiện đại, lực lượng vũ trang của ta mãi mãi là lực lượng vũ trang

nhân dân, lực lượng vũ trang cách mạng hiện đại. Sự lãnh đạo của Đảng bộ là

vấn đề mấu chốt quyết định để đảm bảo cho lực lượng vũ trang huyện giữ

vững bản chất giai cấp, thực hiện nhiệm vụ cách mạng của mình. Sự lãnh đạo

đó biểu hiện về mặt chính trị: phải quán triệt chủ trương, đường lối của Đảng

vào trong lực lượng vũ trang, làm cho lực lượng vũ trang thực sự là công cụ

trung thành của Đảng để thực hiện nhiệm vụ cách mạng. Sự lãnh đạo đó biểu

hiện về mặt tư tưởng: giáo dục tư tưởng của giai cấp công nhân, chủ nghĩa

Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy hệ thống tư tưởng đó làm nền tảng

tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động, làm tư tưởng chỉ đạo duy nhất

của lực lượng vũ trang. Sự lãnh đạo đó còn biểu hiện về mặt tổ chức: phải

thấu hiểu đường lối giai cấp của Đảng trong công tác xây dựng Đảng cũng

như trong công tác cán bộ trong lực lượng vũ trang. Như vậy, điều cần nhấn

mạnh là Đảng bộ phải tăng cường lãnh đạo lực lượng vũ trang huyện trên mọi

lĩnh vực, đặc biệt phải nắm chắc và quản lý công tác cán bộ, phải đào tạo đội

ngũ cán bộ có phẩm chất chính trị, trình độ, năng lực tư duy, phong cách lãnh

đạo, kỹ năng tiến hành hoạt động lãnh đạo và hoạt động công tác Đảng, công

86

tác chính trị, tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân, không ngại khó

khăn, gian khổ, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao phó.

Có như vậy mới làm cho lực lượng vũ trang huyện Quỳnh Lưu luôn luôn là

một lực lượng vũ trang thật sự của nhân dân, sẵn sàng hoàn thành nhiệm vụ

cách mạng của mình trong mọi hoàn cảnh, do đó, mà ngày càng trưởng thành

và giành được thắng lợi ngày càng to lớn. Kinh nghiệm lịch sử thế giới cho

thấy một đội quân dù có đông, vũ khí hiện đại nhưng tách rời sự lãnh đạo của

Đảng, quân đội đó không thể hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ

nghĩa. Với ý nghĩa đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng khẳng

định: “Thường xuyên tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt

của Đảng đối với Quân đội nhân dân…”[14, tr119]

Như vậy, vai trò và hiệu lực lãnh đạo của Đảng bộ huyện Quỳnh Lưu

trong xây dựng lực lượng vũ trang của huyện nhà thể hiện ở sự nhất trí cao

trong đoàn kết phối hợp chặt chẽ giữa Đảng bộ huyện và Chi bộ các xã trong

toàn huyện, nêu cao trách nhiệm cùng thực hiện nhiệm vụ quốc phòng - quân

sự địa phương. Trong mọi tình huống phải luôn luôn coi trọng củng cố kiện

toàn tổ chức bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng liên tục, toàn diện. Nắm vững

khâu then chốt là xây dựng Đảng bộ trong sạch, vững mạnh và đội ngũ cán

bộ, trước hết là đội ngũ cán bộ chủ trì có đủ phẩm chất và năng lực, kết hợp

với xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện. Chính vì vậy, trong bất cứ điều

kiện và hoàn cảnh nào, lực lượng vũ trang huyện Quỳnh Lưu luôn trung thành

với Đảng, xứng đáng là công cụ bạo lực, chỗ dựa tin cậy nhất của cấp uỷ

Đảng và chính quyền. Mọi nhiệm vụ quân sự đề ra trong từng thời điểm, từng

giai đoạn cách mạng và từng năm đều được chấp hành nghiêm chỉnh và đạt

chất lượng cao, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội,

xây dựng huyện Quỳnh Lưu thành một khu vực phòng thủ vững chắc của tỉnh

Nghệ An và cả nước.

87

3.2.2. Không ngừng xây dựng sức mạnh tổng hợp của lực lượng vũ

trang, đặc biệt đẩy mạnh xây dựng lực lượng vũ trang huyện về chính trị.

Trong điều kiện mới, yêu cầu nâng cao sức mạnh chiến đấu của lực

lượng vũ trang khác với thời kỳ chiến tranh giải phóng trước đây, thể hiện ở

tính toàn diện, chính quy, hiện đại hơn. Do vậy, sức mạnh chiến đấu của lực

lượng vũ trang bao gồm tất cả các yếu tố hợp thành: chính trị, quân sự, văn

hoá, khoa học kỹ thuật, đạo đức, lối sống, kỷ luật… Trong đó, các yếu tố nổi

trội cần quan tâm xây dựng là chính trị, tư tưởng, trình độ sẵn sàng chiến đấu

cao, am hiểu và sử dụng thành thạo các loại vũ khí… Vì thế, yêu cầu xây

dựng lực lượng vũ trang hiện nay theo quan điểm của Đảng là quân đội phải

thực sự vững vàng, kiên định nhạy bén về chính trị, có năng lực tiến công

địch nhất là trên mặt trận chính trị, tư tưởng; tổ chức phải cân đối, hợp lý,

đồng bộ, trang bị phải từng bước hiện đại, đáp ứng nhu cầu thời bình và sẵn

sàng phát triển theo yêu cầu thời chiến trong các loại hình chiến tranh khác

nhau; trình độ chỉ huy, tham mưu, năng lực quản lý bộ đội không ngừng phát

triển luôn luôn bảo đảm tính chủ động, vững chắc, linh hoạt và có hiệu quả;

bảo đảm hậu cần, bảo đảm kỹ thuật kịp thời trong mọi tình huống; không

ngừng phát triển khoa học nghệ thuật quân sự, khoa học kỹ thuật công nghệ

quân sự và khoa học xã hội nhân văn quân sự phục vụ yêu cầu trước mắt và

lâu dài.

Để hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ trong thời kỳ cách mạng mới cố

nhiên lực lượng vũ trang huyện Quỳnh Lưu phải được xây dựng vững mạnh

toàn diện về mọi mặt, nhưng vấn đề hàng đầu, quan trọng nhất là xây dựng

lực lượng vũ trang về chính trị. Đồng chí Võ Nguyên Giáp khẳng định “ công

tác chính trị là linh hồn, là mạch sống của quân đội” [37, tr59]. Vì vậy, phải

tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác chính trị, tư tưởng,

88

tạo sự thống nhất cao về chính trị, tư tưởng trong toàn bộ lực lượng vũ trang

của huyện nhà. Đấu tranh kiên quyết chống những quan điểm sai trái, vô hiệu

hóa mọi âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hoà bình”, “bạo lạo lật đổ”, “phi chính

trị hoá quân đội” của các thế lực thù địch. Khắc phục những nhận thức còn

lệch lạc trong thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược của Đảng, chống khuynh

hướng chỉ coi trọng phát triển kinh tế mà coi nhẹ nhiệm vụ quốc phòng - an

ninh, công tác quân sự địa phương. Đảng bộ phải thường xuyên tuyên truyền,

giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, giáo dục đường lối

cách mạng và nhiệm vụ cách mạng của Đảng, đường lối xây dựng lực lượng

vũ trang và nhiệm vụ xây dựng lực lượng vũ trang của Đảng; giáo dục truyền

thống cách mạng của dân tộc, của quê hương Quỳnh Lưu cho lực lượng vũ

trang. Bồi dưỡng và phát huy những phẩm chất tốt đẹp của “Bộ đội cụ Hồ”,

chống mọi biểu hiện cơ hội, thực dụng, mơ hồ, mất cảnh giác. Nâng cao năng

lực lãnh đạo toàn diện và sức chiến đấu của cấp uỷ, nhất là việc quán triệt, cụ

thể hoá, tổ chức thực hiện và kiểm tra việc chấp hành nghị quyết của Đảng,

gắn việc xây dựng Đảng bộ trong sạch, vững mạnh với xây dựng đơn vị vững

mạnh toàn diện; giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, tạo sự chuyển biến

đồng bộ đội ngũ cán bộ. Đảng bộ phải luôn luôn chăm lo tăng cường sự đoàn

kết thống nhất trong nội bộ lực lượng vũ trang, quan hệ giữa cán bộ và chiến

sĩ, giữa cấp trên và cấp dưới, giữa bộ phận này và bộ phận khác là quan hệ

đoàn kết giữa những người đồng chí, dựa trên sự bình đẳng về chính trị và

tình thương yêu giai cấp. Mặt khác, Đảng bộ cũng phải chăm lo tăng cường

sự đoàn kết giữa quân đội với nhân dân, quân dân một lòng, tình quân dân là

tình cá nước, quân đội ta không còn lợi ích nào khác ngoài lợi ích của nhân

dân. Nâng cao chất lượng sinh hoạt phê bình và tự phê bình, đẩy mạnh cuộc

đấu tranh chống suy thoái tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, chống quan

liêu, tham nhũng, lãng phí của một bộ phận cán bộ, chiến sĩ. Tăng cường công

89

tác bảo vệ an ninh; nâng cao hiệu quả, chất lượng công tác dân vận; xây dựng

và tổ chức thực hiện tốt các chính sách đối với lực lượng bộ đội địa phương,

dân quân tự vệ và dự bị động viên trên địa bàn huyện. Thường xuyên củng cố

kiện toàn cơ quan chính trị và đội ngũ cán bộ chính trị ngang tầm với yêu cầu

và nhiệm vụ trong tình hình mới, cơ quan chính trị cần đổi mới mạnh mẽ tác

phong công tác hướng mạnh về cơ sở, khắc phục các biểu hiện trung bình chủ

nghĩa.

Như vậy, xây dựng lực lượng vũ trang toàn diện về mọi mặt, trong đó

tăng cường lãnh đạo công tác chính trị là nhiệm vụ hàng đầu, coi đó là mạch

sống của quân đội ta, giáo dục tư tưởng cho cán bộ, chiến sĩ, thực hiện

nguyên tắc tập trung dân chủ, đoàn kết nội bộ… của Đảng bộ huyện Quỳnh

Lưu đã góp phần làm cho lực lượng vũ trang của huyện từng bước trưởng

thành và giành đựơc những thắng lợi to lớn trong công cuộc xây dựng và bảo

vệ Tổ quốc.

3.2.3. Nâng cao trình độ chỉ huy, tham mưu, tác chiến của cơ quan

quân sự huyện.

Trong bối cảnh trong nước và thế giới có những diễn biến phức tạp, khó

lường như hiện nay thì nhiệm vụ của cơ quan quân sự huyện là tăng cường

nghiên cứu dự báo tình hình thế giới, khu vực và trong nước, tình hình an

ninh trật tự xã hội trên địa bàn huyện để thực hiện tốt chức trách tham mưu

của mình. Trên cơ sở đó đề xuất kịp thời, chính xác các chủ trương, chính

sách khi tình hình thay đổi để giữ vững thế chủ động, ngăn ngừa và đẩy lùi

nguy cơ đe doạ an ninh đất nước, đe doạ an ninh chính trị của địa phương.

Thực tiễn trong những năm qua chứng tỏ: Muốn hoạch định được chiến lược

quốc phòng - quân sự đúng đắn phải làm tốt công tác dự báo, nắm chắc diễn

biến thời cuộc và kịp thời điều chỉnh chiến lược cho phù hợp.

90

Cần duy trì và nâng cao khả năng sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu của

lực lượng bộ đội địa phương, lực lượng dân quân tự vệ và lực lượng dự bị

động viên thực sự làm nòng cốt cùng toàn Đảng, toàn dân đánh bại âm mưu

“diễn biến hoà bình”, “bạo loạn lật đổ” của các thế lực thù địch. Các lực

lượng vũ trang trên địa bàn huyện cần phải nâng cao cảnh giác đánh bại sự

can thiệp từ bên ngoài, khôn khéo xử lý đúng đắn các tình huống phức tạp.

Bên cạnh nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu, các lực lượng vũ trang

của huyện cần sẵn sàng hoàn thành tốt các nhiệm vụ khác như: phòng chống

lũ lụt, phòng chống cháy nổ, phòng chống cháy rừng, khắc phục những hậu

quả do thiên tai gây ra... Phối hợp với các lực lượng khác để giữ gìn an ninh

trật tự xã hội trên địa bàn huyện. Thực hiện mạnh mẽ công tác đấu tranh

phòng chống tội phạm, ma tuý, kiềm chế tệ nạn xã hội và tai nạn giao thông.

Trình độ chỉ huy cần phải được nâng lên ngay từ khi bổ sung và hoàn

thiện kế hoạch tác chiến, kế hoạch phòng thủ (các phương án A) từ cấp chiến

lược đến đơn vị. Quỳnh Lưu là một trong những địa bàn quan trọng có vị trí

chiến lược và chiến thuật của quân khu IV và tỉnh Nghệ An, nằm trong những

điểm chống phá của địch trước mắt và lâu dài, theo Nghị quyết về sẵn sàng

chiến đấu của Đảng uỷ quân sự huyện Quỳnh Lưu nhận định thì có thể diễn ra

tình huống sau: Là hướng và địa bàn chia cắt của địch ngay từ khi tiến công

xâm lược nước ta từ biển đông, đổ bộ đường không, tập kích đòn hoả lực. Vì

vậy, tổ chức thế trận phòng không của bộ đội địa phương, dân quân tự vệ phối

hợp chặt chẽ với bộ đội chủ lực đóng chân trên địa bàn đánh máy bay của

địch, tổ chức phòng tránh, sơ tránh đòn tập kích hoả lực đầu tiên của địch hiệu

quả nhất, bảo toàn thực lực, phương tiện thông tin liên lạc, cơ sở vật chất để

đủ sức đánh lâu dài, đồng thời sẵn sàng lực lượng tiêu diệt địch tiến công

trong mọi tình huống. Tăng cường khả năng phòng thủ trong thời bình và cả

quá trình xẩy ra chiến tranh cục bộ ở các xã, các trọng điểm ven biển, ngăn

91

chặn, kiềm chế không cho địch đổ bộ đường biển lên Quỳnh Lưu, tập trung

lực lượng tiêu diệt địch đổ bộ đường không. Đảng bộ chú trọng tăng cường

xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cần thiết cho hoạt động của lực lượng vũ

trang trong thời bình và sẵn sàng cho thời chiến. Trọng tâm là các căn cứ

chiến đấu, căn cứ hậu phương trong khu vực phòng thủ, các trận địa, các công

trình quốc phòng…

Qua kinh nghiệm xây dựng lực lượng vũ trang trong thời gian qua trên

địa bàn huyện Quỳnh Lưu cho thấy cần phải nâng cao khả năng tổ chức chỉ

huy và điều hành của Ban chỉ huy quân sự huyện trong các loại hình tác chiến

và nâng cao chất lượng thông tin của của cả phương tiện thông tin đảm bảo

chỉ huy. Thực tế cho thấy, để nâng cao trình độ tham mưu, chỉ huy của cơ

quan quân sự huyện thì cần phải tăng cường bồi dưỡng cán bộ và khuyến

khích tinh thần tự học tập của họ, nhưng quan trọng hơn là đẩy mạnh và nâng

cao chất lượng huấn luyện ở đơn vị cơ sở. Trong huấn luyện coi trọng rèn

luyện trong mọi địa hình, thời tiết, huấn luyện diễn tập thực binh các cấp, đưa

huấn luyện vào sát thực tế để chiến đấu, coi trọng rèn luyện cán bộ chiến sĩ về

nâng cao bản chất cách mạng, xây dựng nền nếp chính quy, rèn luyện kỷ luật.

Thực tiễn xây dựng lực lượng vũ trang của Đảng bộ huyện Quỳnh Lưu

gần 20 năm qua cho chúng ta thấy, cơ quan quân sự huyện luôn chủ động

tham mưu cho cấp uỷ, chính quyền, kiện toàn tổ chức lực lượng thường trực

sao cho gọn và tinh, đủ sức hoàn thành nhiệm vụ và xây dựng lực lượng dân

quân tự vệ, dự bị động viên có số lượng chỉ tiêu thích hợp, bảo đảm huấn

luyện thường xuyên, nâng cao chất lượng chính trị và sức chiến đấu, xứng

đáng là công cụ bạo lực tin cậy của Đảng và nhân dân; vừa kết hợp cùng các

cấp, các ngành làm tốt công tác xây dựng cơ sở, vận động quần chúng, giữ

vững trật tự an toàn xã hội; kết hợp với cấp uỷ, chính quyền giáo dục ý thức

92

quốc phòng, nâng cao tinh thần cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu. Việc tham mưu

của cơ quan quân sự huyện trong từng thời kỳ cho cấp uỷ Đảng, chính quyền

thể hiện năng lực và tinh thần trách nhiệm cao của cán bộ, đảng viên được

giao trọng trách, là thước đo phẩm chất đạo đức của “Bộ đội Cụ Hồ” đối với

sự nghiệp cách mạng chung của toàn dân tộc.

3.2.4. Tăng cường công tác đảm bảo theo hướng trang bị vũ khí, kỹ

thuật ngày càng hiện đại đáp ứng yêu cầu sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu

thắng lợi.

Kinh nghiệm cho thấy, công tác bảo đảm hậu cần cho lực lượng vũ trang

luôn là yếu tố quan trọng góp phần tạo nên sức mạnh chiến đấu của họ. Đồng

chí Võ Nguyên Giáp cho rằng “ Muốn tổ chức bộ đội, phải giải quyết vấn đề

trang bị. Vũ khí trang bị là cơ sở vật chất của sức chiến đấu của quân đội.

Không có vũ khí thì không thể nói đến việc tiến hành đấu tranh vũ trang” [37,

tr 72]. Vì vậy, để xây dựng lực lượng vũ trang huyện theo hướng vững mạnh,

cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại thì việc trang bị vũ khí

cũng phải phát triển không ngừng theo hướng chính quy, hiện đại. Những

trang bị cho lực lượng vũ trang ngoài tiêu chuẩn lâu bền còn phải chú ý đáp

ứng yêu cầu sẵn sàng chiến đấu trước mắt và lâu dài, những trang bị đó không

nhanh chóng bị lạc hậu.

Trong giai đoạn hiện nay, việc xây dựng lực lượng vũ trang đã bước vào

giai đoạn mới, vì thế cải tiến và tăng cường trang bị kỹ thuật cho lực lượng vũ

trang ở địa phương lại càng trở nên một yêu cầu cấp bách, nó đòi hỏi một sự

cố gắng lớn lao về các mặt tăng cường trang bị, nâng cao trình độ tổ chức và

quản lý cũng như năng lực sử dụng kỹ thuật. Đảng bộ phải tăng cường chỉ

đạo, đôn đốc, kiểm tra sẵn sàng chiến đấu, bảo đảm chất lượng đồng bộ vũ

khí trang bị, thường xuyên bảo quản, bảo dưỡng đúng quy định, chế độ,

93

không để cháy nổ, mát mát, hư hỏng, xuống cấp, đảm bảo đủ số lượng, chất

lượng phục vụ cho huấn luyện theo kế hoạch. Quản lý chặt chẽ bảo đảm an

toàn tuyệt đối kho tàng, trang bị kỹ thuật. Phải có kế hoạch tự sản xuất, kế

hoạch mua sắm. Trong sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thì phương án có lợi

nhất là khai thác hậu cần tại chỗ. Trong thời gian qua trong việc trang bị vũ

khí, kỹ thuật của địa phương còn bộc lộ nhiều yếu kém. Vì vậy, ngoài việc

tăng cường trang bị vũ khí, kỹ thuật, phải coi trọng việc huấn luyện cho lực

lượng vũ trang nắm vững kỹ thuật hiện đại, bởi vì cơ sở vật chất và kỹ thuật

hiện đại càng đựơc tăng cường, càng đòi hỏi có những người nắm vững và sự

dụng thành thạo kỹ thuật, nếu không thì trang bị kỹ thuật hiện đại sẽ không

phát huy được hiệu lực, sức chiến đấu của lực lượng vũ trang sẽ không thật sự

tăng cường. Đó chính là trách nhiệm lớn của công tác huấn luyện.

Mặt khác, để từng bước đưa lực lượng vũ trang lên chính quy, hiện đại

phải đẩy mạnh nghiên cứu khoa học kỹ thuật, quân sự, khoa học nghệ thuật

quân sự và khoa học xã hội nhân văn về quân sự. Với tư cách là một lĩnh vực

đi trước, nghiên cứu khoa học vừa có vai trò bảo đảm, nhưng đồng thời có vai

trò định hướng đúng đắn cho lực lượng vũ trang đi lên chính quy hiện đại.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã xác định: “ Xây dựng

quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có

bản lĩnh vững vàng, trung thành tuyệt đối với Tổ quốc, với Đảng và nhân dân,

có trình độ học vấn và chuyên môn nghiệp vụ ngày càng cao… có trình độ

năng lực chỉ huy và tác chiến thắng lợi trong bất cứ tình huống nào, có trình

độ sẵn sàng và sức chiến đấu ngày càng cao; thường xuyên cảnh giác, kịp thời

đập tan mọi âm mưu và hành động xâm phạm độc lập, chủ quyền, toàn vẹn

lãnh thổ và an ninh quốc gia…”[14, tr118]

94

KẾT LUẬN

Được ra đời trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, lực

lượng vũ trang huyện Quỳnh Lưu đã từng bước trưởng thành, luôn là nòng cốt

trong đấu tranh bảo vệ cơ sở cách mạng, bảo vệ Đảng và góp phần cùng với

quân và dân Quân khu IV nói riêng và cả nước nói chung giành được những

thắng lợi to lớn trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân pháp và đế quốc

Mỹ xâm lược.

Bước vào thời kỳ đổi mới đất nước, từ năm 1986 đến 2004, trước yêu

cầu tình hình nhiệm vụ mới của cách mạng, dưới ánh sáng của Nghị quyết

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII, IX; Nghị quyết của Bộ quốc

phòng, Đảng uỷ Quân khu 4 và Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Nghệ An, lực lượng

vũ trang nhân dân huyện Quỳnh Lưu dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng bộ

huyện không ngừng củng cố và phát huy sức mạnh tổng hợp trong chiến tranh

nhân dân bảo vệ Tổ quốc, đã hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ mà Đảng và nhân

dân giao phó, sẵn sàng chiến đấu cao, đẩy lùi âm mưu “diễn biến hoà bình”,

“bạo loạn lật đổ”, “phi chính trị hoá quân đội” của các thế lực thù địch, giữ

vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trên địa bàn huyện góp phần

95

thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng của

huyện.

Tuy nhiên, trong lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng lực lượng vũ trang của

Đảng bộ huyện thời gian qua vẫn còn một số khuyết điểm, yếu kém như chưa

nhạy bén chủ động giáo dục giữ vững và phát huy truyền thống tốt đẹp của

quân đội nhân dân Việt Nam, để xảy ra hiện tượng tiêu cực. Chất lượng tổng

hợp của các lực lượng vũ trang còn có mặt chưa đáp ứng được yêu cầu tình

hình nhiệm vụ. Trình độ năng lực, kinh nghiệm công tác quân sự địa phương

của đội ngũ cán bộ còn hạn chế…

Từ những thành tựu to lớn và bài học kinh nghiệm được rút ra trong 20

năm xây dựng lực lượng vũ trang trên địa bàn huyện, trong giai đoạn cách

mạng mới, cán bộ, chiến sĩ huyện Quỳnh Lưu tiếp tục phát huy mạnh mẽ

truyền thống anh hùng, quyết tâm đẩy mạnh hơn nữa việc xây dựng địa

phương vững mạnh toàn diện, nâng cao sức mạnh tổng hợp và trình độ sẵn

sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ mà

Đảng, Nhà nước, quân đội và nhân dân giao phó. Những thành tích to lớn và

bài học kinh nghiệm quý báu trong thời gian qua là cơ sở để tạo tiền đề vững

chắc để lực lượng vũ trang huyện Quỳnh Lưu cùng toàn Đảng, toàn quân và

toàn dân tiếp tục phát huy mạnh mẽ, sáng tạo làm phong phú thêm kinh

nghiệm và truyền thống vẻ vang của lực lượng vũ trang quê hương Quỳnh

Lưu nói riêng và của Nghệ An nói chung trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ

vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời gian tới.

96

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban chỉ huy Quân sự huyện Quỳnh Lưu (20/7/2000), Báo cáo sơ kết 4

năm thực hiện pháp lệnh dân quân tự vệ, số 67/BC

2. Ban chấp hành Đảng bộ huyện Quỳnh Lưu (2000), Lịch sử Đảng bộ

huyện Quỳnh Lưu (1930 - 2000), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội

3. Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương (2001), Tài liệu nghiên cứu văn

kiện Đại hội IX của Đảng, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

4. Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương (2003), Tài liệu học tập Nghị

quyết Hội nghị lần thứ tám Ban chấp hành Trung ương Đảng (Khoá

IX), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

5. Công an Quỳnh Lưu (14/11/2001), Kế hoạch thực hiện NQ 02/HU về

tăng cường lãnh đạo nhiệm vụ quốc phòng - an ninh trong tình hình

mới, số 479/KH/2001

6. Cục dân quân tự vệ (2001), Một số văn bản của Đảng, Nhà nước về

công tác quốc phòng (tập 1), Nxb Quân đội nhân dân.

97

7. Văn Tiến Dũng (1965), Bàn về những kinh nghiệm xây dựng lực lượng

vũ trang cách mạng của Đảng ta, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

8. Lê Duẩn (1966), Bàn về chiến tranh nhân dân và lực lượng vũ trang

nhân dân, Nxb Sự thật, Hà Nội.

9. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội.

10. Đảng Cộng sản Việt Nam, Bộ chính trị (30/7/1987), Nghị quyết về

nhiệm vụ quốc phòng - an ninh trong tình hình mới, số 02/NQ.

11. Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban chấp hành Trung ương (30/11/1987),

Chỉ thị về quán triệt, thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị về nhiệm

vụ quốc phòng, số 20-CT/TƯ.

12. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.

13. Đảng Cộng sản Việt Nam (1992), Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban

Chấp hành Trung ương Đảng (Khoá VII), về nhiệm vụ quốc phòng và

bảo vệ an ninh quốc gia, chống diễn biến hoà bình của địch.

14. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

15. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

16. Đảng Cộng sản Việt Nam (29/6/1992), Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba

Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VII), số 03-NQ/HNTƯ.

17. Đảng Cộng sản Việt Nam (1992), Đại hội lần thứ 22 Đảng bộ huyện

Quỳnh Lưu, Nghệ An.

98

18. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Đại hội lần thứ 23 Đảng bộ huyện

Quỳnh Lưu, Nghệ An.

19. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Đại hội lần thứ 24 Đảng bộ huyện

Quỳnh Lưu, Nghệ An.

20. Đảng uỷ Quân sự Trung ương (1991), Nghị quyết về nhiệm vụ quốc

phòng 5 năm (1991 - 1995), số 01- NQ/ĐU.

21. Đảng uỷ Quân sự Trung ương (1996), Nghị quyết Đại hội Đảng bộ

toàn quân lần thứ VI.

22. Đảng uỷ Quân khu 4 (10/1/1987), Nghị quyết về quốc phòng - an ninh,

số 01-NQ/ĐU.

23. Đảng uỷ Quân khu 4 (1987), Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân khu

lần thứ IV.

24. Đảng uỷ Quân khu 4 (18/1/1991), Nghị quyết về nhiệm vụ quốc phòng

năm 1991, số 01-NQ/ĐU.

25. Đảng uỷ Quân khu IV (1996), Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân khu

lần thứ VI.

26. Đảng uỷ Quân sự huyện Quỳnh Lưu (16/9/1991), Nghị quyết về nhiệm

vụ quốc phòng - quân sự địa phương năm 1992, số 05/NQ.

27. Đảng uỷ Quân sự huyện Quỳnh Lưu (1996), Báo cáo của Ban chấp

hành Đảng bộ Quân sự nhiệm kỳ 1996 - 2000.

28. Đảng uỷ Quân sự huyện Quỳnh Lưu (6/8/1997), Nghị quyết về nhiệm

vụ quốc phòng - quân sự địa phương năm 1997, số 07/NQ.

29. Đảng uỷ Quân sự huyện Quỳnh Lưu (1997), Báo cáo công tác xây

dựng Đảng bộ Quân sự huyện Quỳnh Lưu năm 1997.

99

30. Đảng uỷ Quân sự huyện Quỳnh Lưu (1999), Báo cáo công tác xây

dựng Đảng bộ Quân sự huyện Quỳnh Lưu năm 1999.

31. Đảng uỷ Quân sự huyện Quỳnh Lưu (20/12/2000), Nghị quyết về

nhiệm vụ quốc phòng - quân sự địa phương năm 2001, số 01/NQ.

32. Đảng uỷ Quân sự huyện Quỳnh Lưu (10/3/2000), Chương trình hành

động thực hiện Nghị quyết về sẵn sàng chiến đấu của Đảng uỷ Quân sự

huyện Quỳnh Lưu, số 02/CT.

33. Đảng uỷ Quân sự huyện Quỳnh Lưu (19/12/2001), Nghị quyết về

nhiệm vụ quốc phòng - quân sự địa phương năm 2002, số 01/NQ.

34. Đảng uỷ Quân sự huyện Quỳnh Lưu (23/1/2003), Nghị quyết về nhiệm

vụ quân sự - quốc phòng năm 2003, số 08/NQ-ĐU.

35. Đảng uỷ Quân sự huyện Quỳnh Lưu (10/4/2003), Nghị quyết Đại hội

Đảng bộ Quân sự huyện Quỳnh Lưu nhiệm kỳ 2003 - 2005, số 04/NQ-

ĐH.

36. Đảng uỷ Quân sự huyện Quỳnh Lưu (7/1/2004), Nghị quyết lãnh đạo

nhiệm vụ quân sự - quốc phòng năm 2004, số 07 NQ/ĐU.

37. Đảng uỷ Quân sự huyện Quỳnh Lưu (2004), Báo cáo công tác xây

dựng Đảng bộ quân sự huyện Quỳnh Lưu năm 2004.

38. Đảng uỷ Quân sự huyện Quỳnh Lưu (1/6/2004), Nghị quyết lãnh đạo

xây dựng cơ quan quân sự huyện vững mạnh toàn diện, đáp ứng yêu

cầu nhiệm vụ mới, số 12-NQ/ĐU.

39. Đảng uỷ Quân sự huyện Quỳnh Lưu (1/6/2004), Nghị quyết về tăng

cường và nâng cao chất lượng công tác dân vận của lực lượng vũ

trang - dân quân tự vệ trong tình hình mới, số 13-NQ/ĐU.

100

40. Võ Nguyên Giáp (1967), Những kinh nghiệm lớn của Đảng ta về lãnh

đạo đấu tranh vũ trang và xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng,

Nxb Sự thật, Hà Nội.

41. Võ Nguyên Giáp (1974), Đường lối quân sự của Đảng, Viện Khoa

học Quân sự, Hà Nội.

42. Ninh Viết Giao (1998), Địa chí văn hoá Quỳnh Lưu, Nxb Nghệ An.

43. Huyện uỷ Quỳnh Lưu (21/5/1987), Nghị quyết về tăng cường lãnh đạo

nhiệm vụ quốc phòng - an ninh trong tình hình mới, số 01-NQ/HU.

44. Huyện uỷ Quỳnh Lưu (30/8/1989), Nghị quyết lãnh đạo nhiệm vụ

quân sự - quốc phòng giai đoạn 1990 - 1994, số 02-NQ/HU.

45. Huyện uỷ Quỳnh Lưu (23/1/1994), Nghị quyết lãnh đạo nhiệm vụ

quân sự - quốc phòng giai đoạn 1994 - 1996, số 02-NQ/HU.

46. Huyện uỷ Quỳnh Lưu (13/6/1996), Nghị quyết lãnh đạo nhiệm vụ

quân sự - quốc phòng giai đoạn 1996 - 2000, số 07- NQ/HU.

47. Huyện uỷ Quỳnh Lưu (2/11/2001), Nghị quyết về tăng cường lãnh đạo

nhiệm vụ quốc phòng - an ninh trong tình hình mới, số 02-NQ/HU.

48. Huyện uỷ Quỳnh Lưu (2004), Đề án phòng ngừa, giải quyết mâu

thuẫn tranh chấp khiếu kiện trong nội bộ nhân dân tại huyện Quỳnh

Lưu (2001 - 2005).

49. Hồ Chí Minh (1970), Về đường lối xây dựng lực lượng vũ trang nhân

dân Việt Nam, Nxb Sự thật, Hà Nội.

50. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

101

51. Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp (1966), Bàn

về chiến tranh nhân dân và lực lượng vũ trang nhân dân, Nxb Quân

đội nhân dân, Hà Nội.

52. Nguyễn Quyết (1985), Mấy vấn đề quân sự địa phương trong sự

nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

53. Uỷ ban nhân dân huyện Quỳnh Lưu (16/8/2004), Báo cáo tổng kết 15

năm xây dựng khu vực phòng thủ huyện Quỳnh Lưu (1989-2004), số

1103/BC.

102