LUẬN VĂN: Giai cấp công nhân ở các nước tư bản phát triển từ sau chiến tranh lạnh đến nay Thực trạng và triển vọng
lượt xem 29
download
Nhân loại bước sang thế kỷ XXI với những diễn biến quốc tế phức tạp, khó lường đã và đang tác động mạnh mẽ đến sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Việt Nam. Đảng ta nhận định: “Thế kỷ XXI sẽ tiếp tục có nhiều biến đổi. Khoa học công nghệ sẽ có bước tiến nhảy vọt. Kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất. ...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: LUẬN VĂN: Giai cấp công nhân ở các nước tư bản phát triển từ sau chiến tranh lạnh đến nay Thực trạng và triển vọng
- z LUẬN VĂN: Giai cấp công nhân ở các nước tư bản phát triển từ sau chiến tranh lạnh đến nay - Thực trạng và triển vọng 1
- Mở ĐầU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhân loại bước sang thế kỷ XXI với những diễn biến quốc tế phức tạp, khó lường đã và đang tác động mạnh mẽ đến sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Việt Nam. Đảng ta nhận định: “Thế kỷ XXI sẽ tiếp tục có nhiều biến đổi. Khoa học công nghệ sẽ có bước tiến nhảy vọt. Kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất. Toàn cầu hóa kinh tế là một xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia; xu thế này đang bị một số nước phát triển và các tập đoàn kinh tế tư bản xuyên quốc gia chi phối, chứa đựng nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực, vừa hợp tác, vừa có đấu tranh”(1). Trong thời đại ngày nay, khoa học công nghệ (KHCN) trở thành động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất (LLSX), làm cho LLSX biến đổi một cách căn bản cả bề rộng lẫn chiều sâu trên phạm vi thế giới. Cách mạng khoa học - công nghệ tạo ra nhiều biến đổi sâu sắc trong đời sống xã hội, đặc biệt là trong phương thức sản xuất của các nước tư bản phát triển(TBPT). Dưới tác động của cách mạng KHCN và xu thế toàn cầu hoá (TCH), giai cấp công nhân trên thế giới nói chung và ở các nước TBPT nói riêng có những biến động mạnh cả về số lượng cả về chất lượng cũng như cơ cấu ngành nghề, lĩnh vực hoạt động. Điều đó tác động trực tiếp đến phong trào công nhân ở từng nước, từng khu vực và trên phạm vi toàn thế giới, đồng thời đặt ra nhiều vấn đề mới phức tạp trong phương thức lãnh đạo, tập hợp lực lượng của các đảng cộng sản, công nhân quốc tế, nhất là ở các nước TBPT. Không thể phủ nhận một sự thật là các nước TBPT chính là cái nôi mà gia cấp công nhân (GCCN) đã ra đời và phát triển. Phong trào công nhân (PTCN) và công đoàn ở các nước này có truyền thống lâu đời nhất, tích lũy được nhiều kinh nghiệm thực tế phong phú trong đấu tranh để tồn tại, phát triển và hướng tới một xã hội tương lai tốt đẹp - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Do đó, việc nghiên cứu thực trạng GCCN ở các (1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX., Nxb CTQG, H. 2001, tr 64 2
- nước TBPT từ những biến đổi cơ cấu giai cấp -xã hội, từ số lượng, chất lượng đến những thay đổi trong nội dung, hình thức đấu tranh với giới chủ tư sản là những vấn đề rất cần thiết và cấp bách cả về lý luận lẫn thực tiễn đối với các đảng cộng sản (ĐCS), trong đó có Đảng ta. Việc phân tích những biến động của GCCN ở các nước TBPT sẽ góp phần làm rõ và kiểm chứng tính khoa học và thực tiễn trong các nhận định đánh giá và các giải pháp được Đảng ta đưa ra nhằm xây dựng GCCN Việt Nam tại Nghị quyết Trung ương 6 - khóa X. Nhằm phục vụ trực tiếp công tác nghiên cứu, giảng dạy lý luận chính trị và thực tiễn về phong trào cộng sản và công nhân quốc tế (PTCS-CNQT) trong giai đoạn hiện nay tại hệ thống Học viện Chính trị- Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, đồng thời góp phần vào công tác tư tưởng lý luận của Đảng ta trong thời điểm Đảng đang tích cực triển khai nghiên cứu bổ sung, phát triển Cương lĩnh và chuẩn bị các văn kiện cho Đại hội lần thứ XI, chúng tôi quyết định chọn đề tài: “Giai cấp công nhân ở các nước tư bản phát triển từ sau chiến tranh lạnh đến nay - Thực trạng và triển vọng” làm đề tài khoa học cấp bộ năm 2009. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Từ nhiều năm nay, việc nghiên cứu GCCN ở các nước TBPT trong điều kiện cách mạng KHCN và TCH được các cơ quan, viện nghiên cứu, các học giả trong và ngoài nước quan tâm với quy mô và mức độ khác nhau. ở ngoài nước: Các công trình nghiên cứu tổng thể về cơ cấu giai cấp về số lượng, chất lượng GCCN thường do các tổ chức công đoàn tiến hành theo thời gian, ngành và với những mục đích rất cụ thể. Do đó, hầu như không tìm thấy một cuốn sách nào đề cập sâu và hệ thống về vấn đề này, mà chủ yếu chỉ là các báo cáo và bài nghiên cứu. Ví dụ, báo cáo: “Tiến tới xã hội thông tin, cơ cấu việc làm của các nước G7” của M. Castells và Yokoao Yama là hai chuyên gia của Ngân hàng Thế giới đưa ra vào năm 1995 đã tập trung phân tích sự biến động của cơ cấu GCCN các nước công nghiệp phát triển nhất (G7) trước sự biến động của cơ cấu việc làm khi các nước này bước sang nền kinh tế tri thức. 3
- ở các nước xã hội chủ nghĩa (XHCN) trước đây, việc phân tích GCCN theo phương pháp luận mácxít cũng được đặt ra, tuy nhiên tài liệu thường rất cũ và trong nhiều trường hợp còn phiến diện, một chiều. Năm 1999, Lacôn trên cơ sở tổng hợp các tài liệu của các học giả Pháp, Mỹ đã viết một bài phân tích có tiêu đề: “Toàn cầu hóa với giai cấp công nhân”. Bằng những số liệu mới nhất (trong những năm 1995 - 1998), tác giả đã cố gắng làm rõ những thuận lợi và đặc biệt là những thách thức mà TCH đặt ra đối với GCCN ở các nước TBPT nhất (Pháp, Đức, Italia, Mỹ). Năm 2003, học giả người Nga Victor Trushkov trên tạp chí Dialog số 7, có bài viết nhan đề: “Triển vọng của giai cấp vô sản ở thế kỷ XXI”, trong đó phân tích những tác động của TCH và cách mạng KHCN đến giai cấp những người lao động. Tác giả rút ra nhận định: “Trong thế kỷ XXI, giai cấp vô sản là “động lực trí tuệ và đạo đức” là “người thực thi bước quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩ xã hội”. Tuy còn nhiều điểm cần bàn thêm, nhưng đây là một bài phân tích khá thuyết phục với cách tiếp cận và số liệu chứng minh cập nhật về sứ mệnh lịch sử của GCCN trong thế kỷ XXI. Tháng 11-2004, tạp chí “Động thái lý luận nước ngoài” của Trung Quốc đăng bài của Maicơnhepsi (Mỹ) với tiêu đề “Giai cấp công nhân vẫn là lực lượng chính trị quan trọng nhất”. Tác giả phân tích nguyên nhân cơ bản của những tiêu cực trong phong trào công nhân (PTCN) ở các nước phương Tây, đặc biệt là ở Mỹ, đồng thời chỉ rõ GCCN vẫn là giai cấp lãnh đạo phong trào có thể làm thay đổi, thậm chí lật đổ chủ nghĩa tư bản (CNTB). Trong bài “Chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa xã hội trong thiên niên kỷ mới” của Tedgrant và Robsewell (www.marxist.com) nêu rõ, sức mạnh của GCCN cả về số lượng và tình đoàn kết quốc tế đang gánh trên vai định mệnh của xã hội và tương lai của nhân loại. Tác giả An Viễn Triệu với bài “Cách mạng khoa học kỹ thuật với giai cấp công nhân” đăng trên tạp chí “Trào lưu tư tưởng đương đại Trung Quốc”, số 1-2003 nhấn mạnh, trong xã hội đương đại, khoa học - kỹ thuật (KHKT) càng phát triển lành mạnh thì càng có lợi cho việc thực hiện quyền lợi kinh tế, chính trị, văn hóa của GCCN. Phát triển lành mạnh KHKT và vứt bỏ sự tha hóa của KHKT là điều kiện căn bản để cuối 4
- cùng xóa bỏ chế độ tư hữu, thiết lập xã hội hoàn toàn mới, thực hiện triệt để giải phóng GCCN. Trong bài viết “Sự chuyển biến mang tính lịch sử về hình thái tổ chức của đảng cộng sản ở các nước tư bản chủ nghĩa” đăng trên tạp chí “Nghiên cứu chủ nghĩa xã hội” (Trung Quốc), số 6- 2007, giáo sư Nhiếp Văn Lân nêu rõ: từ những năm 70 của thế kỷ XX, đặc biệt khi Liên Xô tan rã, lý luận và thực tiễn của ĐCS ở các nước tư bản có thay đổi to lớn và sâu sắc. Sự chuyển biến về hình thái tổ chức của ĐCS là có tính lịch sử và quan trọng nhất: từ chính đảng đội tiên phong chuyển thành chính đảng mang tính quần chúng hiện đại. Ngoài ra có thể kể đến một số công trình khác như: “G8 và hơn tỷ người nghèo trên thế giới” của Paul Collier (http://www.internationalepolitik.de); “Chủ nghĩa xã hội dân chủ: ý thức hệ của giai cấp công nhân châu Âu” của Tào á Hùng, Trương Phượng Quyên (tạp chí “Nghiên cứu chủ nghĩa xã hội” (Trung Quốc), số 3-2007);“Nền kinh tế mới và phong trào công nhân” của M.D Yates, http://www.monthlyre-view.org/0607/yates.htm; “Nước Pháp năm 2006: Cải cách hay là cách mạng” của G Skorov (tạp chí “Kinh tế thế giới và các quan hệ quốc tế” (Nga), số 11-2006); “Nợ nước ngoài và nghèo đói ở Mỹ latinh” của Manuel Lopez (http: //www.communist.ru, 19-5-2007); “Quan niệm mới về giai cấp những người lao động trong xã hội tư bản hiện đại” của A Xakhnin (http://www.cprf.ru, 10-7-2006); “Thực trạng cuộc sống của người lao động Mỹ” của Michel Parenty trích từ cuốn sách “Nền dân chủ cho thiểu số” (Democracy for the Few, Nxb “Generation”, New York 2006); “Hệ thống thị trường lao động Nhật Bản: Còn nhiều việc phải làm” của tạp chí The Economist (Anh), số ra ngày 1/12/2007; “Phong trào công đoàn ở châu Âu trong bối cảnh toàn cầu hoá” của Cố Hân, Phạm Dậu Khánh, năm 2007; “Cơ sở xã hội của những người cánh tả” của Aleksei Xakhnin (http://www.aglob.ru, ngày 12-3-2006)... ở Việt nam: Đã xuất hiện một số công trình nghiên cứu đề cập thực trạng GCCN ở các nước TBPT trong thế kỷ XX, như: “Chủ nghĩa tư bản hiện đại - Những biến đổi trong cơ chế bóc lột và sự sâu sắc hóa quá trình phân cực xã hội” của Bùi Ngọc Chưởng (1991, Tài liệu số 7-656, Tư liệu Trường Đảng Cao cấp Nguyễn ái Quốc); “Những đặc điểm chủ yếu của giai cấp công nhân hiện đại và phong trào công nhân ở các nước tư bản 5
- phát triển trong giai đoạn hiện nay” (Đề tài cấp Bộ năm 1998 của Viện Quan hệ quốc tế - Học viện CTQG Hồ Chí Minh); “Đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân trong điều kiện chủ nghĩa tư bản phát triển - Đặc điểm và xu thế” (Luận án phó tiến sỹ của Nguyễn Thế Lực, Học viện CTQG HCM, 1994); “Phong trào công nhân ở các nước tư bản phát triển từ cuối thập kỷ 80 đến nay” (Luận án tiến sỹ của Nguyễn Văn Lan, Học viện CTQG HCM, 2002); “Biến đổi cơ cấu giai cấp trong chủ nghĩa tư bản hiện đại” (Đào Duy Quát và Cao Đức Thái chủ biên, Tài liệu tham khảo nội bộ, năm 2002); “Triển vọng của phong trào công nhân các nước tư bản phát triển trong những thập niên đầu thế kỷ XXI” (Nguyễn Văn Lan, Tạp chí giáo dục lý luận, số3/2004); “Thị trường lao động khu vực châu á - Thái Bình Dương” (Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, Tin Phong trào công nhân công đoàn quốc tế, số 11+12/2006); “Việc làm ở Pháp: một số vấn đề đặt ra” (Lệ Thuý, Những vấn đề chính trị - xã hội, Viện Thông tin khoa học, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, số 16/2007); “Các tổ chức công đoàn trên thế giới” (Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, Nxb Lao động, Hà Nội 1999) v.v... Trên các báo, tạp chí và website hiện nay cũng có những bài viết phân tích, đưa tin về GCCN và công đoàn ở một số nước TBPT. Đây là một trong những nguồn tư liệu quan trọng để khái quát, tổng hợp cho các nội dung lý luận trong đề tài. Thông tin mới, cập nhật về GCCN ở các nước TBPT hiện nay chỉ có thể tìm được trên các trang website của các tổ chức công đoàn ngay tại các nước đó. Ngoài ra, có thể thu thập các thông tin thời sự liên quan đến GCCN các nước TBPT trên Tin tham khảo đặc biệt của Thông tấn xã Việt Nam, các trang quốc tế của báo Nhân dân, báo Quân đội nhân dân, trang tin của Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, v.v... Xét một cách tổng quát, kết quả của tất cả công trình nghiên cứu trên là nguồn tài liệu quan trọng và cần thiết, có thể khai thác, kế thừa và tham khảo cho việc thực hiện đề tài “Giai cấp công nhân ở các nước tư bản phát triển từ sau chiến tranh lạnh đến nay - Thực trạng và triển vọng”. 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu đối tượng chính là giai cấp công nhân - giai cấp những người lao động ở các nước TBPT. 6
- - Phạm vi nghiên cứu: Đề tài được giới hạn nghiên cứu chủ yếu về giai cấp công nhân ở 7 nước TBPT thuộc nhóm G7, ngoài ra còn nghiên cứu về GCCN Bắc Âu và Nam Âu với những nội dung chính là: + Sự biến động cơ cấu GCCN trong điều kiện kinh tế tri thức và TCH. + Sự biến động về số lượng và chất lượng. + Sự thay đổi về mục tiêu, nội dung, phương pháp đấu tranh của GCCN với giới chủ và chính phủ tư sản hiện hành. + Về thời gian: được giới hạn từ sau chiến tranh lạnh đến nay. 4. Mục tiêu của đề tài - Mục tiêu nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu làm rõ thực trạng của giai cấp công nhân ở các nước TBPT (G7), ngoài ra còn nghiên cứu giai cấp công nhân Bắc Âu và Nam Âu từ sau chiến tranh lạnh đến nay, đồng thời nêu những dự báo xu hướng biến đổi của giai cấp công nhân ở các nước này trong hai thập niên tới. Trên cơ sở đó rút ra một số ý nghĩa đối với việc xây dựng GCCN Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. - Nhiệm vụ: Từ mục tiêu nêu trên, đề tài có các nhiệm vụ chính là: + Phân tích những biến động của GCCN ở các nước TBPT thuộc G7, Bắc Âu và Nam Âu về cơ cấu, số lượng, chất lượng. + Phân tích sự thay đổi về mục tiêu, nội dung, phương pháp đấu tranh của GCCN các nước G7, Bắc Âu và Nam Âu trong giai đoạn từ sau chiến tranh lạnh đến nay. + Đánh giá triển vọng phát triển của GCCN các nước TBPT thông qua việc phân tích xu hướng biến đổi của nó trong hai thập niên tới. + Phân tích ý nghĩa đối với việc xây dựng GCCN Việt Nam từ việc nghiên cứu GCCN các nước TBPT. 7
- 5. Kết cấu đề tài Ngoài phần mở đầu và danh mục tài liệu tham khảo, Đề tài kết cấu thành 3 phần: - Phần thứ nhất: Bối cảnh mới của thời đại ảnh hưởng đến giai cấp công nhân ở các nước tư bản phát triển. - Phần thứ hai: Thực trạng giai cấp công nhân ở các nước tư bản phát triển từ sau năm 1991 đến nay. - Phần thứ ba: Đặc trưng cơ bản và triển vọng của giai cấp công nhân ở các nước tư bản phát triển trong hai thập niên tới. Phần thứ nhất bối cảnh mới của thời đại ảnh hưởng đến giai cấp công nhân ở các nước tư bản phát triển I. Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về giai cấp công nhân Khi đề cập đến giai cấp công nhân, Mác và Ăngghen đã sử dụng nhiều thuật ngữ khác nhau như những cụm từ đồng nghĩa, có nội hàm giống nhau để chỉ giai cấp này như: "giai cấp vô sản", "vô sản đại cơ khí", "vô sản đại công nghiệp", "giai cấp những người lao động làm thuê của thế kỷ XIX", "giai cấp vô sản hiện đại", "giai cấp 8
- công nhân hiện đại"... Các nhà kinh điển của chủ nghĩa xã hội khoa học không chỉ dừng lại ở việc chỉ ra giai cấp vô sản, giai cấp công nhân là gì, mà quan trọng hơn, giai cấp này phải làm gì để tự giải phóng mình? Giai cấp vô sản là gì? vấn đề này đã được C.Mác, Ph.Ănghen đề cập trong nhiều tác phẩm, và hai ông đã nêu nhiều thuộc tính của giai cấp vô sản. Trong tác phẩm “Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen- lời nói đầu”, Mác đã chỉ ra nguồn gốc kinh tế, xã hội, xu hướng phát triển của giai cấp vô sản (GCVS), và Mác nêu rõ: ở Đức GCVS chỉ mới bắt đầu hình thành nhờ sự phát triển của công nghiệp. Giai cấp vô sản ra đời gắn với công nghiệp, nó là sản phẩm của công nghiệp. Về mặt xã hội, GCVS nảy sinh và hình thành trong quá trình tan rã của xã hội phong kiến chuyển lên chế độ TBCN, do sự phân rã của tất cả các đẳng cấp, trước hết là sự phân rã của đẳng cấp trung gian. Xu hướng phát triển của GCVS là đi tới chỗ xóa bỏ nó với tư cách là một giai cấp(2) . Trong tác phẩm “Gia đình thần thánh”, C.Mác, Ph.Ănghen phân tích mối quan hệ giữa GCVS và chế độ tư hữu. Hai ông chỉ ra rằng, GCVS là sản phẩm của chế độ tư hữu và cũng là điều kiện tồn tại của chế độ tư hữu. Chế độ tư hữu muốn duy trì sự tồn tại vĩnh viễn của bản thân nó, thì nó phải duy trì sự tồn tại vĩnh viễn của mặt đối lập với nó là GCVS. Chế độ tư hữu tìm được sự thỏa mãn trong bản thân mình là mặt khẳng định của sự đối lập. GCVS và giai cấp tư sản (GCTS) là hai mặt đối lập của một chỉnh thể thống nhất - chế độ tư hữu. Cả hai đều là sản phẩm của chế độ ấy. Xu hướng phát triển của GCVS là đi tới thủ tiêu sự tồn tại của bản thân mình với tư cách là GCVS, do đó, tiêu diệt cả mặt đối lập với nó là chế độ tư hữu - đang chi phối và làm cho nó thành GCVS. Mác và Ăngghen viết: "Vấn đề không phải là ở chỗ GCVS muốn gì mà là ở chỗ giai cấp vô sản thực ra là gì, và phù hợp với tồn tại ấy của bản thân nó, GCVS buộc phải làm gì về mặt lịch sử"( 3). Đến tác phẩm “Tình cảnh của giai cấp lao động Anh”, Ănghen khẳng định: Anh là nước điển hình của sự phát triển của GCVS và nó là kết quả chủ yếu của cuộc cách mạng công nghiệp Anh. Lịch sử GCCN bắt đầu nửa sau thế kỷ thế kỷ XVIII. (2) C.Mác, Ph.Ănghen: Toàn tập, tập1, Nxb CTQG, Hà Nội 1995, tr.589-590 ( 3) C.Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, H.1995, tr.56 9
- Công nghiệp nhỏ đã làm nảy sinh ra GCTS, công nghiệp lớn đã nảy sinh ra GCCN. Công nhân công nghiệp là hạt nhân của PTCN. Họ là những người nhận thức được rõ ràng nhất những lợi ích của bản thân mình. Trình độ văn hóa của các loại công nhân liên quan trực tiếp với mối quan hệ của họ với công nghiệp(4). Trong tác phẩm “Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản ”, Ănghen định nghĩa giai cấp vô sản như sau: “ Giai cấp vô sản là một giai cấp xã hội hoàn toàn chỉ sống dựa vào việc bán lao động của mình, chứ không phải sống dựa vào lợi nhuận của bất cứ số nhà tư bản nào, đó là một giai cấp mà hạnh phúc và đau khổ, sống và chết, toàn bộ sự sống còn của họ đều phụ thuộc vào số cầu về lao động, tức là vào tình hình chuyển biến tốt hay xấu của công việc làm ăn, vào những sự biến động của cuộc cạnh tranh không gì ngăn cản nổi. Nói tóm lại, GCVS hay giai cấp của những người vô sản là giai cấp lao động trong thế kỷ XIX … Giai cấp vô sản là do cuộc cách mạng công nghiệp sản sinh ra”(5). Lần đầu tiên, Mác và Ăngghen đã trình bày khái niệm GCVS tương đối đầy đủ trên các phương diện trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản và có thể khái quát lại với một số điểm chủ yếu là: Thứ nhất, về nguồn gốc kinh tế, GCVS ra đời gắn với đại công nghiệp, là sản phẩm của chính bản thân nền đại công nghiệp, nền sản xuất xã hội hoá ngày càng cao. Thứ hai, về nguồn gốc xã hội, GCVS được tuyển mộ từ tất cả các giai cấp, tầng lớp trong xã hội. Thứ ba, những đặc trưng chủ yếu của GCVS hiện đại bao gồm: không có tư liệu sản xuất; về lợi ích cơ bản, đối lập trực tiếp với GCTS; GCVS là hiện thân của phương thức sản xuất (PTSX) tiên tiến; có tính quốc tế, tinh thần quốc tế vô sản, tính tiên phong, tinh thần cách mạng triệt để, đoàn kết giai cấp, tính tổ chức kỷ luật cao. Thứ tư, bản chất quốc tế của GCVS được quy định bởi quá trình quốc tế hoá sản xuất công nghiệp...; đồng thời GCVS có bản sắc dân tộc, gắn với mỗi dân tộc cụ thể, trở thành "giai cấp dân tộc" và chịu trách nhiệm tr ước hết với dân tộc mình(6). Thứ năm, quá trình đấu tranh giữa GCVS với GCTS dẫn đến sự phân hoá (4) C.Mác, Ph. Ăngghen: Toàn tập, tập 2, Nxb CTQG, Hà nội 1995, tr 348-349, 353-354 (5) C.Mác, Ph. Ăngghen: Toàn tập, tập 4, Nxb CTQG, Hà Nội 1995, tr. 456-457 (6) C.Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H. 1995, t.4, tr. 611-624. 10
- trong giai cấp thống trị. Một bộ phận nhỏ của giai cấp này - những nhà tư tưởng tư sản tiến bộ đã từ bỏ cuộc sống và thành phần giai cấp xuất thân, vươn lên nhận thức được về mặt lý luận toàn bộ quá trình vận động lịch sử, tách khỏi giai cấp xuất thân, đi theo GCVS, làm cho GCVS ngày càng nhận thức rõ được sức mạnh và sứ mệnh lịch sử của mình. Thứ sáu, xu hướng phát triển không ngừng tăng lên về số lượng và chất lượng cùng với sự phát triển của đại công nghiệp. Cần nhấn mạnh rằng, khái niệm về GCVS được C.Mác và Ph.Ăngghen rút ra qua sự phân tích một cách sâu sắc địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp đó dưới chế độ tư bản trong nửa đầu thế kỷ XIX. Những kết luận ấy cũng đã được thực tiễn lịch sử xã hội đương thời chứng minh là đúng đắn và khoa học. Những đặc trưng cơ bản của GCVS dưới chế độ TBCN mà Mác và Ăngghen nêu ra đã được Lênin tiếp tục làm rõ, phát triển và khẳng định trong nhiều tác phẩm của mình. Từ thực tiễn lịch sử thế kỷ XX, Lênin chỉ rõ vị trí GCVS là giai cấp lãnh đạo toàn thể xã hội trong cuộc đấu tranh lật đổ ách thống trị của CNTB, trong sự nghiệp sáng tạo ra một xã hội mới, trong cuộc đấu tranh để thủ tiêu hoàn toàn các giai cấp. Mác và Ăngghen đã phân biệt GCVS với tầng lớp trí thức. Lênin đưa ra định nghĩa về giai cấp, theo đó: “Giai cấp là những tập đoàn to lớn gồm những người khác nhau về địa vị của họ trong hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ (thường thì những quan hệ này được pháp luật quy định và thừa nhận) đối với TLSX, về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội và về phần của cải xã hội ít hay nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là những tập đoàn người, mà tập đoàn này thì có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác. Do chỗ các tập đoàn đó địa vị khác nhau trong chế độ kinh tế - xã hội nhất định. Về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân: Có thể diễn đạt khái quát nhất những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê nin về sứ mệnh lịch sử của GCCN là tiến hành sản xuất hiện đại và đấu tranh cách mạng để giải phóng con người. Sứ mệnh lịch sử đó biểu hiện qua những nội dung cơ bản sau: Một là, thường xuyên và trực tiếp nhất gắn với quá trình tổ chức, phát triển sản xuất xã hội với trình độ KHKT ngày càng hiện đại. Tách rời sản xuất hiện đại, GCCN 11
- không còn sứ mệnh lịch sử với những nội dung tiếp theo. Đó là một nhận thức khoa học rút ra từ thực tế lịch sử hình thành, phát triển GCCN. Sứ mệnh lịch sử của GCCN không chỉ bắt đầu với nội dung "giành chính quyền", mà trái lại có nội dung rộng lớn hơn kể cả trước khi giành chính quyền. Từ nội dung sản xuất hiện đại và đấu tranh cách mạng mới dẫn đến nội dung "giành chính quyền". Hai là, thông qua Đảng tiên phong của mình, GCCN lãnh đạo và tổ chức quá trình giành chính quyền về tay mình và nhân dân lao động xoá bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa (và các chế độ tư hữu, áp bức bóc lột), xoá bỏ GCTS (và các giai cấp bóc lột), giải tán chính quyền Nhà nước của các chế độ cũ, thành lập chính quyền của GCCN và nhân dân lao động, do Đảng của GCCN nhân lãnh đạo. Ba là, GCCN thông qua Đảng của mình lãnh đạo, tổ chức thực hiện quá trình củng cố, bảo vệ chính quyền, bảo vệ đất nước và đồng thời xây dựng đất nước theo định hướng XHCN trên mọi lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, con người..., để từng bước hình thành xã hội XHCN và cộng sản chủ nghĩa trên thực tế ở mỗi nước và trên toàn thế giới. Đây là nội dung cơ bản, quyết định nhất trong sứ mệnh lịch sử của GCCN. Vì thế, chủ nghĩa Mác - Lê nin đã luận giải một cách khoa học rằng: Đó là những quá trình cải biến cách mạng căn bản, toàn diện, triệt để trên phạm vi quốc gia, quốc tế. Đó là một nội dung mới mẻ, vừa rất phức tạp, do đó là một nội dung được thực hiện từng bước, lâu dài, với yêu cầu ngày càng cao đối với GCCN, nhân dân lao động và nhất là đối với đảng cộng sản, với nhà nước... cả về sức lực, trí tuệ lẫn bản lĩnh và lập trường chính trị, nhân cách và phong cách... của mình. Nếu coi nhẹ, mắc bệnh "tả" khuynh hay hữu khuynh, "đốt cháy giai đoạn", giản đơn, chủ quan duy ý chí... chỉ làm cho thời kỳ quá độ và quá trình xây dựng CNXH, chủ nghĩa cộng sản khó khăn và kéo dài mà thôi. Sứ mệnh lịch sử của GCCN do những điều kiện kinh tế, chính trị - xã hội khách quan quy định từ khi nó hình thành và phát triển trong CNTB. Sứ mệnh đó không hề xuất phát từ mong muốn chủ quan của GCCN và Đảng của nó; cũng không hề do bất kỳ tài trí của cá nhân nào "sáng tạo" ra. Sứ mệnh lịch sử của GCCN mang tính quy luật khách quan trong sự phát triển tất yếu của nhân loại, như chủ nghĩa Mác - Lê nin đã luận chứng một cách khoa học - xuất phát từ thực tiễn, rằng: đấu tranh giai cấp tất 12
- yếu dẫn đến chuyên chính vô sản, và sự sụp đổ của GCTS và thắng lợi của GCVS đều là tất yếu như nhau. Trước hết, xét về những điều kiện kinh tế - kỹ thuật, thì nền công nghiệp ngày càng hiện đại đã quy định nhiều đặc điểm của GCCN và từ những đặc điểm vốn có đó mà GCCN là giai cấp duy nhất có những sứ mệnh lịch sử đã nêu trên. Thứ hai, cũng do nền công nghiệp hiện đại phát triển mà GCCN ngày càng được trang bị thêm nhiều nhận thức mới, hiện đại cả về văn hoá cơ bản, khoa học kỹ thuật, tay nghề và chính trị - xã hội. Đây cũng là yếu cầu khách quan đối với GCCN trong quá trình sản xuất, hoạt động xã hội và đấu tranh cách mạng. Vì thế nền sản xuất hiện đại cũng quy định một cách khách quan GCCN là giai cấp tiên tiến, đại diện PTSX mới và có sứ mệnh lịch sử thay thế PTSX cũ lỗi thời xét về mặt kinh tế. Thứ ba, khi nền sản xuất hiện đại phát triển cùng với phong trào công nhân và nhân dân lao động bị áp bức bóc lột trong CNTB (trong đó có trí thức, đại bộ phận là người lao động bị bóc lột "chất xám") thì chính GCCN luôn được bổ sung một lực lượng trí thức và những người lao động khác, giác ngộ, gia nhập GCCN; thậm trí một số trí thức giác ngộ đã giúp GCCN hình thành hệ tư tưởng, hiểu về sứ mệnh lịch sử của mình, tiến tới hình thành Đảng tiên phong để lãnh đạo phong trào. Đó cũng là sự quy định khách quan đối với sứ mệnh lịch sử của GCCN mà không giai cấp - tầng lớp nào có được. Thứ tư, tính quy định khách quan, cơ bản nhất và mang ý nghĩa tổng hợp cả về địa vị kinh tế lẫn về chính trị - xã hội đối với sứ mệnh lịch sử của GCCN là: Ngay từ trong chế độ TBCN đã nẩy sinh mâu thuẫn cơ bản nhất, đó là mâu thuân về mặt kinh tế, giữa LLSX xuất phát triển, với trình độ xã hội hoá, quốc tế hoá ngày càng cao với quan hệ sản xuất (QHSX) dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN về TLSX mâu thuẫn đó biểu hiện về mặt chính trị - xã hội là mâu thuẫn giữa GCCN với GCTS. Cả hai mặt của mâu thuẫn cơ bản này không thể giải quyết triệt để trong khuôn khổ chế độ tư bản chủ nghĩa, nên tất yếu dẫn tới cách mạng XHCN như một yêu cầu khách quan để giải quyết triệt để mâu thuẫn cơ bản ấy cho kinh tế, xã hội tiếp tục phát triển cao hơn chế độ TBCN. Lãnh đạo và tổ chức quá trình cách mạng XHCN và xây dựng CNXH, chủ nghĩa cộng sản, chỉ có thể là sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và Đảng của nó. Ph.Ăngghen khẳng định: Hoàn thành được kỳ công ấy, đó là sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản hiện đại. Còn Lênin chỉ rõ: "điều chủ yếu trong học thuyết của Mác là ở chỗ nó làm sáng tỏ vai trò lịch sử 13
- toàn thế giới của giai cấp vô sản là người xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa" (7). Như vậy, những đặc trưng của GCVS mà Mác, Ăngghen đã nêu và Lênin tiếp tục phát triển, khẳng định là phù hợp với điều kiện lịch sử ngày ấy. Những đặc trưng cơ bản đó đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Nó là cơ sở phương pháp luận khoa học để cho chúng ta nghiên cứu giai cấp công nhân hiện đại trong điều kiện lịch sử mới. II. Sự phát triển của cách mạng khoa học- công nghệ hiện đại Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ diễn ra từ giữa thế kỷ XX, đặc biệt là từ thập niên 70 đến nay đó làm biến đổi sâu sắc và toàn diện nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, đồng thời làm thay đổi nhanh chóng và sâu sắc cơ cấu kinh tế - sản xuất và chiến lược điều chỉnh, thích ứng của chủ nghĩa tư bản hiện đại. Đến lượt nó, sự thay đổi kinh tế đó tỏc động đến các giai tầng xó hội, đặc biệt là giai cấp công nhân hiện đại. Cấu trúc xó hội của chủ nghĩa tư bản nói chung và giai cấp công nhân nói riêng trong các nước tư bản phát triển có những thay đổi to lớn với những đặc điểm mới khác hẳn so với các thời kỳ trước đây: Thứ nhất: Với sự bùng nổ trong công nghệ vi điện tử, tin học, tự động hóa, vật liệu…, nền sản xuất của các xó hội cụng nghiệp đó chuyển sang sử dụng nguồn nguyên liệu phi tập trung, có thể tái sinh và nhân tạo. Hệ thống máy móc được chuyển sang tự động hoá đồng bộ, dùng ít năng lượng, nhiên liệu. Sản phẩm chuyển sang tiêu chuẩn: nhỏ, bền, đẹp và chứa hàm lượng khoa học cao. Với phương pháp sản xuất linh hoạt, tổ chức quản lý công nghiệp có những biến đổi lớn. Hiệu quả sản xuất chủ yếu phụ thuộc vào yếu tố tư duy rồi mới đến yếu tố vật chất. Các sáng kiến nhỏ của cơ sở sản xuất được coi trọng. Hiện đang có xu hướng chuyển chức năng quản lý và quyết định đến gần với sản xuất để nắm bắt cơ hội nhanh chóng, nhằm rút ngắn thời gian ra quyết định. Thứ hai: Dưới tác động mạnh mẽ của cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, phương thức sản xuất đó cú những thay đổi mang tính cách mạng, đó chuyển từ xó hội cụng nghiệp sang xó hội thụng tin. Trong tiến trỡnh này, cơ cấu cơ cấu kinh tế ở (7) V.I Lênin - C.Mác - Ph. Ăngghen, Chủ nghĩa Mác, Nxb Tiến bộ, Matxcơva 1976, tr 61 14
- các nước tư bản phát triển có những thay đổi rất cơ bản, theo hướng tăng tỷ trọng khu vực dịch vụ và giảm tỷ trọng nông nghiệp, công nghiệp. Trong GDP, nông nghiệp chỉ chiếm khoảng 2%, công nghiệp - chế tạo chiếm khoảng 30 - 40%, khoảng 60% thuộc về ngành dịch vụ. Cơ cấu nội bộ sản xuất công nghiệp và dịch vụ thay đổi theo hướng các ngành công nghiệp cổ điển (khai thác nguyên, nhiên liệu, sơ chế...) giảm dần tỷ trọng và ý nghĩa; cỏc ngành sản xuất, dịch vụ dựa trờn cụng nghệ cú hàm lượng khoa học kỹ thuật cao ngày càng có vị trí đáng kể. Ngày nay mục tiêu không dừng ở tái sản xuất mà là lao động sáng tạo để tạo ra giá trị gia tăng cao, nhằm tăng khả năng cạnh tranh. Thứ ba: Sự thay đổi cơ cấu kinh tế đó dẫn đến thay đổi cơ cấu nghề nghiệp và cơ cấu giai cấp trong xó hội, trong đó có cơ cấu của GCCN. Nếu như trong những năm 50 của thế kỷ XX, công nhân công nghiệp “cổ xanh” là thành phần xó hội lớn nhất trong GCCN ở tất cả các nước TBPT (ở Mỹ công nhân “cổ xanh” chiếm tới 2/5 lực lượng lao động), thỡ đến thập niên 90, nhóm công nhân này ngày càng giảm sút về số lượng (ở Mỹ chỉ cũn chiếm ớt hơn 20% lực lượng lao động, thậm chí đến năm 2000 cũn chưa tới 10%). Trong đội ngũ GCCN, có đến 60 - 70% là những người có trỡnh độ KHKT, là nhân viên trong hệ thống tin học, là người quản lý, nhà giỏo, cỏc nhà khoa học... tạo thành mụ hỡnh cụng nhõn tri thức, người ta cũn gọi họ là tầng lớp trung gian mới. Bản thân GCTS cũng biến đổi. Các nhà tư bản gia tộc truyền thống vẫn tiếp tục tồn tại, nhưng tỷ trọng dần giảm xuống. Địa vị quyết định trong xó hội của giai cấp chủ sở hữu tư bản cổ điển ngày càng giảm dần. Các công ty ngày nay th ường phải huy động vốn qua hỡnh thức cổ phần hoỏ. Số lượng chủ sở hữu tập thể tăng lên, trong đó có cả cổ đông thuộc các tầng lớp lao động, trung lưu kể cả những người có vốn là sở hữu trí tuệ. Số cổ đông lập hội đồng quản trị điều hành công ty chứ không phải các ông chủ lớn như trước. Một số tầng lớp mới xuất hiện như chủ tịch hội đồng quản trị, tổng giám đốc, uỷ viên ban giám đốc, giám đốc, nhân viên quản lý và nhõn viờn đại lý. Họ nắm giữ quyền quyết sách và quyền quản lý kinh doanh của cụng ty, đảm nhận chức vị cao trong chính phủ, gây ảnh hưởng đến việc hoạch định chính sách của nhà nước, có vai trũ ngày càng quan trọng trong đời sống kinh tế, chính trị, xó hội của cỏc 15
- nước TBPT, dẫn đến sự hỡnh thành tầng lớp nhà tư bản giám đốc. Sự xuất hiện của tầng lớp này được các học giả phương Tây gọi là "cuộc cách mạng giám đốc". Theo số liệu điều tra, vào những năm 60 của thế kỷ XX, ở Mỹ, các công ty do các gia tộc tư bản trực tiếp khống chế chỉ chiếm 15,5% tổng số công ty, các công ty do nhà tư bản giám đốc khống chế chiếm 84,5%. Trong thập niên 80 của thế kỷ XX, trong số 1.475 chủ tịch hội đồng quản trị và tổng giám đốc của 100 công ty lớn nhất nước Mỹ, chỉ có 10% là con cháu của các gia tộc tỉ phú. Đồng thời, những "quí tộc" kỹ thuật mới đó đứng vào hàng ngũ những đại tỉ phú. Theo số liệu năm 1999, trong số 400 siêu tỉ phú được tạp chí Forbes công bố, có 71 vị là những "quý tộc" kỹ thuật mới. Thứ tư: Giá trị lao động của con người tăng đáng kể dưới sự tác động của cách mạng KHCN. Điều khiển tự động hoá ngày càng phát triển, con người ngày càng được giải phóng khỏi sản xuất trực tiếp. Có nhiều thời gian cho phát triển nhân cách và tài năng tiềm tàng của bản thân, nền sản xuất hàng hoá lớn sẽ dần được thay bằng sản xuất loạt nhỏ, với mẫu mó, chất lượng thích hợp với thị hiếu tiêu dùng của từng nhóm khách hàng riêng biệt. Lối sống của con người ngày nay cũng chịu ảnh hưởng đáng kể của những biến đổi công nghệ. Với sự phát triển dịch vụ tại gia, với những công cụ cơ khí hoá và tự động hoá, với mạng lưới thông tin thông qua máy tính công việc nội trợ ngày nay đó được giảm nhẹ đi rất nhiều. Người ta dành nhiều thời gian rỗi cho việc giải trí, sinh hoạt xó hội, v.v.. Thứ năm: Ở các nước TBPT, công nghệ thông tin và viễn thông đang trở nên ngày càng phổ biến, được áp dụng trong tất cả các ngành công nghiệp và dịch vụ. Cơ cấu việc làm cũng có những thay đổi sâu sắc theo hướng sử dụng lao động có trí tuệ cao ngày càng tăng. Có nhiều việc làm mất đi do đổi mới công nghệ và sắp xếp lại sản xuất, nhưng lại có nhiều công việc mới được tạo ra do xuất hiện một số ngành sản xuất mới có hàm lượng trí tuệ cao. Vị trí làm việc “ảo” ra đời, không cần phải tiếp xúc trực tiếp trong công việc và giao dịch. Tuy chưa phổ biến nhưng rồi hỡnh thức làm việc này sẽ mở rộng trong tương lai, đũi hỏi cỏc phẩm chất mới - cơ động và chủ động ở người lao động trong tương lai. Cụng nghệ mới và cỏc hỡnh thức tổ chức lao động mới kéo theo sự thay đổi về nhu cầu đối với người lao động có trỡnh độ cao. Hiện nay, các doanh nghiệp đều cần 16
- những lao động biết học tập và biết thích nghi với sự biến đổi của cơ chế thị trường. Trỡnh độ học vấn cao là cần thiết, nhưng quan trọng hơn là người lao động phải làm chủ được tri thức, nhanh chóng áp dụng có hiệu quả những tri thức mà mỡnh đó học vào sản xuất. Điều đó cần có sự vững vàng trước những biến động của xó hội, cần có khả năng thích nghi và sáng tạo - cả hai yêu cầu này rất quan trọng để tạo vị thế cho người lao động có trỡnh độ học vấn cao đứng vững trong cơ chế thị trường. Được chuẩn bị tốt về mặt trí tuệ và về thái độ nghề nghiệp để tiếp thu công nghệ ngày một tiên tiến, đội ngũ cán bộ khoa học và kỹ thuật có trỡnh độ học vấn cao ngày càng thể hiện là khâu then chốt, là nũng cốt của nguồn nhõn lực, quyết định sự phát triển đất nước nhanh và bền vững. Thêm vào đó, xu hướng hiện nay là đa năng, tức là kết hợp giữa năng lực kỹ thuật, khả năng quản lý và tài năng doanh nghiệp (ở đây muốn nói đến khả năng thích nghi và kỹ năng ứng xử trong xó hội), ba yếu tố này tạo nờn mụ hỡnh của người lao động mới. Thứ sáu: Mức độ xó hội húa lao động và tư bản nhanh. Sự phát triển các ngành kộo theo sự tớch tụ và tập trung vốn, quỏ trỡnh cổ phần húa và xó hội húa tư bản từ đó cũng phát triển. Cùng với quá trỡnh này, một tầng lớp trung gian hữu sản được hỡnh thành, xúa nhũa ranh giới cụ thể giữa lao động và tư bản cổ điển. Lao động được xó hội húa thụng qua việc tổ chức sản xuất trực tiếp giữa cỏc đơn vị làm ra sản phẩm trong xó hội. Tuy nhiên, những hậu quả do không đáp ứng và chưa kịp thích nghi với những biến đổi của KHCN cũng hết sức gay gắt: Một là, số lượng thất nghiệp của lao động khụng lành nghề trong xó hội mới sẽ tăng lên vỡ khụng đáp ứng được đũi hỏi của cụng nghệ. Trong xó hội hiện đại, nhân lực, việc làm không chỉ là vấn đề số lượng mà là vấn đề chất lượng. Mỗi quốc gia không lường được sự biến đổi và đáp ứng được yêu cầu này của công nghệ sẽ dẫn đến "khủng hoảng" thừa và thiếu về nhân lực. Hai là, con người ngày càng được giải phóng khỏi sản xuất trực tiếp càng đũi nhiều quyền tự do cỏ nhõn, tự do tư tưởng, tự do tôn giáo... Xó hội sẽ thường xuyên biến động vỡ luụn xuất hiện các tư tưởng, trào lưu, tâm lý mới đũi xem xột, đánh giá 17
- lại những giá trị trước đây của xó hội cụng nghiệp. Trong tương lai, sự xung đột nhân sinh quan giữa xó hội cũ và mới, giữa cỏc hệ tụn giỏo về giỏ trị đạo đức, văn hoá , việc làm, gia đỡnh, giới tính, tư tưởng, giáo dục... luôn luôn nổ ra và rất khó kiểm soát. Các hiện tượng sa đoạ đồi truỵ, bạo lực, tội phạm gia tăng. Bất cụng xó hội cú xu hướng ngày một tăng… Ba là, những tiến bộ KHCN, đặc biệt trong lĩnh vực thông tin, đũi hỏi trỡnh độ của nguồn nhân lực phải cao hơn và năng động hơn. Người lao động có được tính độc lập cá nhân trong tổ chức làm việc, nhưng lại cần có một tri thức tương đối rộng để có thể hội nhập với thị trường lao động quốc tế. Điều này có tác động hai mặt: một mặt, nó tăng cường vai trũ của yếu tố con người trong quá trỡnh sản xuất, nhưng mặt khác,nó làm cho họ rất dễ tổn thương trước những thay đổi trong tổ chức lao động, vỡ họ là một cỏ nhõn đơn lẻ đối mặt với một mạng lưới hết sức phức tạp. Đối với công nhân trực tiếp sản xuất, họ chịu ảnh hưởng của việc phát triển công nghệ mới và các hỡnh thức tổ chức lao động mới. Có rất nhiều công việc truyền thống sử dụng cơ bắp dần dần được thay thế bằng máy móc, nên việc làm tương ứng giảm xuống, kéo theo một số người lao động không có việc làm. Việc phõn cực việc làm theo trỡnh độ đang ngày càng gia tăng: một bên là các hoạt động có hàm lượng tri thức và thông tin cao với mức lương cao, cũn bờn kia là cỏc hoạt động có hàm lượng cơ bắp cao, mức lương thấp. Trong hệ thống sản xuất mới, người công nhân vừa trực tiếp sản xuất vừa đảm nhận các chức năng của nhà phân tích, nhà quản lý, do đó, đũi hỏi khả năng trí tuệ của họ ở mức cao hơn nhiều so với chức năng khi họ chỉ là người thừa hành. Điều đó đũi hỏi người công nhân phải có trỡnh độ hơn, nắm bắt thông tin tốt hơn. III. xu thế toàn cầu hóa Sự phát triển nhanh chóng của cách mạng KHCN trên thế giới đó thỳc đẩy mạnh mẽ quá trỡnh TCH. Sự bùng nổ của công nghệ sản xuất hiện đại và kỹ thuật thông tin đa quốc gia góp phần tạo ra nền sản xuất chung và thị tr ường chung của thế giới. Các công ty đa quốc gia (TNCs) đó tổ chức phõn cụng lao động và tổ chức sản xuất vượt qua biên giới quốc gia. Các công ty này có thể chi phối cả các chính phủ 18
- riêng biệt, có cả ngoại giao đoàn và cơ quan tỡnh bỏo cụng nghiệp. Cùng với các thiết chế quốc tế như ngân hàng liên quốc gia, thị trường chứng khoán liên quốc gia, các công ty đa quốc gia này đó đẩy nhanh xu hướng gắn chặt hữu cơ nền kinh tế các nước trên quy mô quốc tế. Sự hỡnh thành một thị trường toàn cầu về việc làm, vốn, công nghệ và đặc biệt là thông tin đó và đang trở thành hiện thực. Kết quả của quỏ trỡnh TCH, với việc mở rộng hoạt động và thiết chế quản lý của cỏc TNCs ra quy mụ toàn cầu là, lao động của hàng triệu công nhân được hợp nhất một cách trực tiếp về mặt cụng nghệ vào một quỏ trỡnh sản xuất liờn tục thống nhất. Trong khi ở những giai đoạn trước đây, lao động của họ chỉ được hợp nhất một cách gián tiếp bởi thị trường mà thôi. Như vậy, CNTB thế giới đó tạo ra khụng chỉ một hệ thống toàn thế giới thực sự của quỏ trỡnh tỏi sản xuất và lợi nhuận, mà cũn cả “người công nhân tổng thể toàn thế giới”. Đồng thời, quá trỡnh này cũng dẫn tới sự phõn cụng lao động quốc tế ngày một mạnh mẽ, gia tăng sự luân chuyển nguồn nhân lực giữa các quốc gia, khu vực. Điều này đồng nghĩa với việc, người lao động có cơ hội lớn hơn trong lựa chọn nơi, địa điểm làm việc. Về lý thuyết, giờ đây người lao động có thể đến làm việc ở bất cứ nơi đâu, cho bất cứ công ty, xí nghiệp nào trên thế giới. Và thực tế cho thấy, không ít công ty, xí nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh thu hút lao động từ rất nhiều quốc gia, khu vực khác nhau. Cùng với đó, TCH tạo cơ hội cho người lao động của các nước khác nhau trực tiếp cùng nhau làm việc trong một dây chuyền, xí nghiệp sản xuất nhất định. Thực tế này giúp cho công nhân, người lao động mang quốc tịch khác nhau, với những giá trị văn hóa, tín ngưỡng khác nhau không chỉ nhận thức sâu sắc hơn, mà cũn trải nghiệm cỏi chung về lợi ớch, cỏi chung về địa vị xó hội của giai cấp mỡnh, từ đó họ đoàn kết chặt chẽ hơn, hành động nhất quán hơn trong cuộc đấu tranh bảo vệ lợi ích chung, vỡ mục tiờu chiến lược chung. Nếu như trước kia, mối liên kết quốc gia cho phép nhà nước đóng vai trũ phõn phối lại nhằm giảm bớt sự bất bỡnh đẳng xó hội và trỏnh rạn nứt xó hội, thỡ từ khi diễn ra quỏ trỡnh TCH, việc làm này đó bị giảm thiểu đáng kể, vỡ bất kỳ chớnh sỏch phõn phối lại nào cũng đều có thể có hậu quả xấu đến tính cạnh tranh. Do vậy, thu nhập thực tế của tầng lớp dưới ở các nước TBPTđang giảm xuống một cách đáng kể. 19
- Toàn cầu hóa, một mặt thúc đẩy sự phát triển, nhưng mặt khác cũng làm gia tăng hố ngăn cách giàu nghèo và sự bất bỡnh đẳng ở các nước TBPT giữa một bên là lớp người có trỡnh độ học vấn cao, được hưởng lương cao, cũn bờn kia là những người không được học hành, hay nói đúng hơn là không có cơ hội để được học, đang phải hứng chịu mọi hậu quả cạnh tranh trong thị trường lao động. Sự gia tăng của tiến bộ công nghệ, nhất là trong lĩnh vực công nghệ thông tin, đũi hỏi phải thớch ứng thật nhanh chúng với mọi thay đổi và phát triển của xó hội. Bờn cạnh đó, TCH đũi hỏi từng cỏ nhõn phải năng động, linh hoạt, có khả năng làm việc theo êkíp, hoà hợp được với những người có tâm tính và quy tắc xử sự khác nhau. Bên cạnh sự tương phản giàu nghèo, TCH đưa đến sự thất nghiệp, tồn tại hố ngăn cách giữa những người có việc làm được trả lương cao và những người bị gạt ra khỏi các nhà máy, xí nghiệp, đẩy người lao động không có việc làm vào cảnh sống cùng quẫn. Dưới tác động của TCH, xuất hiện cỏc dũng lao động di cư, chủ yếu là từ các nước đang phát triển sang các nước phát triển, từ các nước nghèo sang các nước giàu hơn. Lao động di cư phổ biến nhất là lao động có kỹ năng chuyên môn, được đào tạo… của các nước đang phát triển chuyển đến sinh sống và làm việc ở các nước phát triển, hay cũn gọi là tỡnh trạng chảy mỏu chất xỏm (brain drain). Trong số những người nhập cư hợp pháp vào Mỹ có tới 21% đó được đào tạo ít nhất 17 năm, tức là được đào tạo sau đại học ở một mức độ nhất định(8). Theo thống kê năm 1998 của IMF, khoảng 12,9 triệu người thuộc tầng lớp có học thức đó di cư từ các nước kém phát triển hơn sang các nước OECD, trong đó có 7 triệu người đến Mỹ và 5,9 triệu người cũn lại chủ yếu đến châu Âu(9). Dũng lao động di cư và nạn chảy máu chất xám ảnh hưởng mạnh mẽ đến cả nước xuất xứ lẫn nước tiếp nhận. Đối với nước tiếp nhận, dũng người lao động nhập cư giúp bù đắp nguồn lao động thiếu hụt, tiết kiệm chi phí đào tạo. Bên cạnh đó, lao động nhập khẩu cũn giỳp đáp ứng nhu cầu về lao động ở những lĩnh vực có tiền công rẻ mạt hoặc công việc nặng nhọc, nguy hiểm ở các nước phát triển mà người dân bản xứ không muốn làm như xây dựng, khai thác mỏ và đồn điền, v.v… Nhờ đó, nước tiếp (8) The Economist, ngày 28/9/2002. (9) Maassey, World in Motion: Understanding Internationale Migration at the End of the Millennium, Oxford University Press, 1998. 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Đề tài: "Sứ mệnh lịch sử của Giai cấp công nhân"
15 p | 3690 | 762
-
Tiểu luận: " sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân "
30 p | 6626 | 609
-
Tiểu luận:" Giai cấp công nhân "
19 p | 982 | 259
-
Tiểu luận - SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN
33 p | 1300 | 230
-
Tiểu luận sứ mệnh lịch sử giai cấp công nhân
25 p | 786 | 204
-
TIỂU LUẬN: Vai trò của Đảng cộng sản trong quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
28 p | 2042 | 183
-
Đề tài "Giai cấp công nhân"
18 p | 306 | 131
-
Đề tài: Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là gì? Nội dung, điều kiện khách quan quy định là gì? Trên ph¬ương diện lý luận và thực tiễn, nó được thể hiện ra sao? Và để củng cố và tăng cư¬ờng sự lãnh đạo của giai cấp công nhân cần phải tiến hành những biện pháp gì?
30 p | 544 | 124
-
TIỂU LUẬN: Cách mạng xã hội chủ nghĩa với việc hoàn thành sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
28 p | 1032 | 101
-
LUẬN VĂN: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giai cấp công nhân vào việc xây dựng đội ngũ công nhân Nghệ An trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay
109 p | 367 | 100
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Triết học: Vai trò của giai cấp công nhân Việt Nam trong công cuộc đổi mới đất nước
24 p | 378 | 48
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Giai cấp công nhân Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, thực trạng và giải pháp phát triển
85 p | 163 | 33
-
TIỂU LUẬN: VỀ CÁCH TIẾP CẬN NGHIÊN CỨU GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM HIỆN NAY
113 p | 135 | 29
-
Bài thảo luận môn Chủ nghĩa xã hội khoa học: Sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân và nhân tố chủ quan quan trọng nhất để giai cấp công nhân thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử đó? Giai cấp công nhân Việt Nam và việc thực hiện sứ mệnh lịch sử trong giai đoạn hiện nay
23 p | 198 | 29
-
TIỂU LUẬN: XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HOÁ THEO HƯỚNG HIỆN ĐẠI VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ
93 p | 179 | 27
-
TIỂU LUẬN: ĐỂ GIAI CẤP CÔNG NHÂN XỨNG ĐÁNG LÀ LỰC LƯỢNG ĐI ĐẦU TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HOÁ VÀ HIỆN ĐẠI HOÁ ĐẤT NƯỚC
105 p | 133 | 21
-
Luận văn Thạc sĩ Công nghệ thông tin: Giải pháp cổng biên dịch địa chỉ mạng cho các giao thức giao vận dùng cho ứng dụng hội thảo video từ xa trên internet
83 p | 41 | 9
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn