intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN: Giải pháp nâng cao chất lượng nhiệp vụ thẩm định dự án đầu tư tại Sở giao dịch I NHĐT & PTVN

Chia sẻ: Ly Hai | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:101

95
lượt xem
18
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Xã hội ngày càng phát triển, cùng với nó là một nhu cầu ngày càng cao của loài người. Để thoả mãn nhu cầu đó, hoạt động đầu tư trên toàn thế giới nói chung và Việt nam nói riêng diễn ra ngày càng nhiều với quy mô ngày càng lớn, đặc biệt là các hoạt động đầu tư theo dự án. Tuy nhiên, không phải bất cứ một dự án đầu tư nào cũng mang lại hiệu quả như mong muốn của người lập mà trong nó luôn chứa đựng rủi ro. Hậu quả của các rủi ro...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN: Giải pháp nâng cao chất lượng nhiệp vụ thẩm định dự án đầu tư tại Sở giao dịch I NHĐT & PTVN

  1. LUẬN VĂN: Giải pháp nâng cao chất lượng nhiệp vụ thẩm định dự án đầu tư tại Sở giao dịch I NHĐT & PTVN
  2. Lời mở đầu Xã hội ngày càng phát triển, cùng với nó là một nhu cầu ngày càng cao của loài người. Để thoả mãn nhu cầu đó, hoạt động đầu tư trên toàn thế giới nói chung và Việt nam nói riêng diễn ra ngày càng nhiều với quy mô ngày càng lớn, đặc biệt là các hoạt động đầu tư theo dự án. Tuy nhiên, không phải bất cứ một dự án đầu tư nào cũng mang lại hiệu quả như mong muốn của người lập mà trong nó luôn chứa đựng rủi ro. Hậu quả của các rủi ro đối với hoạt động đầu tư đã và đang làm hao tổn một lượng nguồn lực xã hội rất lớn. Đầu tư là hoạt động thiết yếu để thoả mãn nhu cầu ngày càng cao của loài người. Nhưng trước khi tiến hành triển khai dự án đầu tư thì việc khẳng định tính khả thi của dự án cùng với các biện pháp đối phó với những tình huống xấu xảy ra trong tương lai là điều hết sức cần thiết nhằm hạn chế tối đa những thiệt hại cho xã hội đó là hoạt động thẩm định. Xuất phát từ những suy nghỉ trên, trong quá trình thực tập tại Sở I NHĐT&PTVN em đã chọn đề tài “ Giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư tại Sở I NHĐT&PTVN” Chuyên đề này gồm 3 chương: Chương I: phương pháp thẩm định dự án đầu tư Chương II: Thực trạng nghiệp vụ thẩm định dự án đầu tư tại Sở giao dịch I NHĐT & PTVN Chương III: Giải pháp nâng cao chất lượng nhiệp vụ thẩm định dự án đầu tư tại Sở giao dịch I NHĐT & PTVN
  3. Chương I phương pháp luận về thẩm định dự án đầu tư I. Dự án đầu tư và thẩm định dự án đầu tư 1. Dự án đầu tư Đầu tư là hoạt động sử dụng vốn trong một thời gian khá dài nhằm mục đích thu lại lợi nhuận. Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động đầu tư diễn ra hết sức đa dạng và phong phú. Để tiến hành đầu tư, các chủ đầu tư cần phải tiến hành thu thập các thông tin, tài liệu có liên quan đến công cuộc đầu tư của họ. Quá trình phân tích, xử lý các thông tin và đưa ra các giải pháp cho ý tưởng đầu tư được gọi là quá trình lập dự án đầu tư . Như vậy về bản chất, dự án đầu tư là một tập hợp những đề xuất về việc bỏ vốn để xây dựng mới, mở rộng hoặc hiện đại hoá các tài sản cố định nhằm đạt được sự tăng trưởng về số lượng và nâng cao chất lượng của sản phẩm trong một khoảng thời gian xác định. Về hình thức thể hiện, dự án đầu tư là tài liệu trong đó nghiên cứu một cách đầy đủ, khoa học và toàn diện toàn bộ nội dung các vấn đề có liên quan đến công trình đầu tư, nhằm giúp cho việc ra quyết định đầu tư được đúng đắn và đảm bảo hiệu quả của vốn đầu tư . 2. Thẩm định dự án đầu tư 2.1. Khái niệm về thẩm định dự án đầu tư Các dự án đầu tư khi được soạn xong dù được nghiên cứu tính toán rất kỹ càng thì chỉ mới qua bước khởi đầu. Để đánh giá tính hợp lý, tính hiệu quả tính khả thi của dự án và ra quyết định dự án có được thực hiện hay không phải có một quá trình xem xét kiểm tra, đánh giá một cách độc lập và tách biệt với quá trình soạn thảo dự án. Quá trình đó gọi là thẩm định dự án. Thẩm định dự án đầu tư là quá trình một cơ quan chức năng (nhà nước hoặc tư nhân) thẩm tra, xem xét một cách khách quan, khoa học và toàn diện về các mặt pháp lý, các nội dung cơ bản ảnh hưởng đến hiệu quả, tính khả thi, tính hiện thực của dự án, để quyết định hoặc cấp giấy phép đầu tư....
  4. Do đặc thù của mình nên các Ngân hàng thương mại nói chung và Ngân hàng Đầu tư và Phát triển nói riêng có một cách nhìn nhận cụ thể hoá hơn về khái niệm thẩm định. Theo đó, thẩm định dự án được hiểu là: việc tổ chức một cách khách quan, toàn diện các nội dung cơ bản liên quan đến tính khả thi và khả năng hoàn trả vốn đầu tư của dự án để phục vụ cho việc xem xét, quyết định cho khách hàng vay vốn đầu tư dự án. 2.2. Mục đích của thẩm định dự án đầu tư Với mỗi dự án đầu tư, kể từ khi hình thành ý tưởng cho tới khi dự án được triển khai và mang lại kết quả thì có sự tham gia của nhiều chủ thể (chủ đầu tư, các cơ quan quản lý Nhà nước, các NHTM...). Mỗi chủ thể tham gia vào dự án với một vị trí, vai trò và mục đích khác nhau, nhưng tất cả đều quan tâm tới tính khả thi của dự án. Do đó, họ đều tiến hành thẩm định dự án, tuy nhiên tuỳ thuộc vào vị trí, vai trò của mình khi tham gia vào dự án mà mục đích thẩm định dự án của các chủ thể khác nhau là khác nhau: - Đối với chủ dự án: Là người bỏ vốn ra để thực hiện dự án với mục tiêu mang lại lợi nhuận, họ phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về tính khả thi của dự án. Do đó, trước khi dự án được triển khai, chủ đầu tư phải tiến hành thẩm định dự án với mục đích đánh giá khả năng sinh lời của dự án. Hơn nữa, trong một giai đoạn nhất định thì chủ đầu tư luôn có nhiều dự án khác nhau, việc triển khai cùng một lúc nhiều dự án là rất khó. Vì vậy, chủ đầu tư tiến hành thẩm định các dự án này với mục đích đánh giá khả năng sinh lời của mỗi dự án cũng như ưu, nhược điểm của chúng qua đó lựa chọn dự án tối ưu để đầu tư đồng thời hạn chế một cách tốt nhất các rủi ro co thể xảy ra. - Đối với các nhà đầu tư: Là người tài trợ cho dự án, để đảm bảo thu về cả gốc và lãi thì trước khi quyết định cho vay, các NHTM đều tiến hành thẩm định dự án đầu tư. Như vậy, đối với các ngân hàng mục đích của thẩm định không chỉ là đánh giá tính khả thi, tính hiệu quả của dự án mà quan trọng hơn đó là khả năng hoàn trả vốn đầu tư, hoàn trả cả gốc và lãi khoản vốn mà chủ đầu tư đã vay ngân hàng . - Đối với các cơ quan quản lý nhà nước: Là người quyết định xem nên đầu tư nguồn lực xã hội vào lĩnh vực nào. Với vai trò của mình các cơ quan quản lý Nhà
  5. nước tiến hành thẩm định dự án với mục đích kiểm tra sự cần thiết, hiệu quả kinh tế - xã hội của dự án cũng như những ảnh hưởng tích cực lẫn tiêu cực của dự án đối với cộng đồng, với môi trường sinh thái... Qua đó quyết định dự án nào được triển khai, dự án nào được triển khai trước để đảm bảo hiệu quả cao nhất của nguồn lực xã hội. 2.3. Yêu cầu trong thẩm định dự án đầu tư Thẩm định là công việc rất phức tạp, đòi hỏi người thẩm định phải hiểu biết tổng hợp về nhiều lĩnh vực. Đối với mỗi dự án, mỗi chủ thể thẩm định mà yêu cầu về nội dung thẩm định có khác nhau. Tuy nhiên, dù đứng trên góc độ nào đi chăng nữa, để đảm bảo chất lượng thẩm định thì chủ thể có thẩm quyền thẩm định phải đảm bảo các yêu cầu sau: - Nắm vững chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước, của ngành, của địa phương và các quy chế luật pháp về quản lý kinh tế, quản lý đầu tư và xây dựng của nhà nước. - Hiểu biết về bối cảnh, điều kiện và đặc điểm cụ thể của dự án, tình hình và trình độ kinh tế chung của đất nước, của địa phương, của ngành, của thế giới. Nắm vững tình hình sản xuất kinh doanh, các số liệu tài chính của doanh nghiệp, các quan hệ tài chính - tín dụng của doanh nghiệp hoặc của chủ đầu tư với các doanh nghiệp khác hoặc chủ đầu tư khác, với các ngân hàng... - Biết khai thác các số liệu trong các báo cáo tài chính của doanh nghiệp (chủ đầu tư), các thông tin liên quan đến giá cả, thị trường để phân tích hoạt động chung của doanh nghiệp (chủ đầu tư), - Biết xác định và kiểm tra được các chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật quan trọng của dự án, đồng thời thường xuyên thu thập, đúc kết, xây dựng các chỉ tiêu định mức kinh tế - kỹ thuật tổng hợp trong và ngoài nước để phục vụ cho việc thẩm định. - Thẩm định kịp thời, tham gia ý kiến ngay từ khi nhận được hồ sơ - Thường xuyên hoàn thiện quy trình thẩm định, phối hợp phát huy được trí tuệ tập thể, tránh gây phiền hà. II. Nghiệp vụ thẩm định dự án đầu tư trong Ngân hàng thương mại 1. Khái quát về Ngân hàng thương mại 1.1. Khái niệm Ngân hàng thương mại
  6. Trên thực tế có rất nhiều cách hiểu khác nhau về ngân hàng thương mại, tuy nhiên, theo Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính thì “ Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ triết khấu và làm phương tiện thanh toán.” 1.2. Các hoạt động chính của Ngân hàng thương mại * Huy động vốn với trách nhiệm hoàn trả: thực chất là việc huy động vốn từ những chủ thể vốn tạm thời nhàn rỗi. Có hai hình thức huy động vốn - Huy động vốn bị động: là việc huy động vốn qua hoạt động tiền gửi của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước, của chính phủ. Đây là hình thức truyền thống từ xưa đến nay được các ngân hàng thương mại áp dụng. - Huy động vốn chủ động: là việc huy động vốn thông qua việc phát hành các công cụ nợ như trái phiếu, tín phiếu ngân hàng... Đây là hình thức huy động mà các ngân hàng thương mại có thể có được lượng tiền gửi như mong muốn trong thời gian ngắn nhất. *Hoạt động thanh toán : hoạt động này chủ yếu là làm các dịch vụ giúp cho khách hàng được thuận lợi hơn trong việc thanh toán như chuyển tiền, thu hộ, chi hộ , bảo lãnh... Hoạt động này tuy không phải là hoạt động chính của ngân hàng thương mại, song để thực hiện tốt hoạt động này thì ngoài uy tín của mình ra thì các ngân hàng thương mại còn phải thường xuyên tiến hành đầu tư và nâng cấp các hệ thống liên quan đến việc cung ứng dịch vụ ngân hàng. *Hoạt động cho vay: - Theo mục đích sử dụng tiền vay thì hoạt động cho vay bao gồm: + Cho vay sản xuất: chủ yếu là cho vay với thời hạn dài, có thể là cho vay công nghiệp, nông nghiệp, xây dựng cơ bản... + Cho vay thương mại: chủ yếu là cho vay trong thời hạn ngắn, có thể là cho vay thanh toán hoặc cho vay mua tài sản lưu động, cho vay tiêu dùng... - Theo thời gian sử dụng tiền vay:
  7. + Khoản vay có thời hạn : là khoản vay trong thời gian cho vay được xác định cụ thể, bao gồm các khoản vay ngắn hạn (thời hạn dưới 12 tháng) và các khoản vay trung và dài hạn (thời gian vay dài hơn 1 năm). + Khoản vay không có thời hạn: là những khoản vay mà thời hạn hoàn trả không được xác định trước, thay vào đó là những điều kiện về hoàn trả tiền vay mà ngân hàng và chủ thể đi vay thoả thuận với nhau. 1.3. Rủi ro trong hoạt động tín dụng của NHTM Tín dụng ngân hàng là quan hệ tiền tệ nhằm thoả mãn nhu cầu về vốn giữa một bên là ngân hàng và một bên là các cá nhân, các chủ thể kinh tế khác trong xã hội, trong đó ngân hàng đóng vai trò là chủ nợ, theo những điều kiện nhất định. Rủi ro trong hoạt động tín dụng NHTM xảy ra khi xuất hiện các biến cố làm cho khách hàng không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ của mình đối với Ngân hàng vào thời điểm đáo hạn. Nói cách khác, rủi ro tín dụng là loại rủi ro gắn liền với việc không thu được nợ đến khi đến hạn từ các khách hàng của NHTM. Rủi ro tín dụng xuất phát từ nhiều nguyên nhân nhưng ta có thể phân ra làm hai nguyên nhân chính: * Nguyên nhân chủ quan : - Về phía ngân hàng: Đánh giá không đúng về khách hàng, đánh giá không đầy đủ về các khoản bảo đảm. - Về phía khách hàng: Gặp rủi ro trong kinh doanh nên không trả được nợ, không muốn trả nợ dù có khả năng thanh toán nợ. * Nguyên nhân khách quan : Do chiến tranh, do biến động về chính trị xã hội, do thiên nhiên (bão, lụt, động đất...) Hoạt động tín dụng là hoạt động cơ bản và chủ yếu của NHTM, nó đã và đang mang lại nhiều lợi nhuận cho ngân hàng, nhưng trong nó cũng chứa đụng rất nhiều rủi ro mà hậu quả của nó không thể lường trước được. Mở rộng và phát triển hoạt động tín dụng là điều thiết yếu, nhưng trước hết cần phải hạn chế tối thiểu những rủi ro mà nó mang lại. Vì vậy, quản lý tín dụng và rủi ro tín dụng là việc hết sức quan trọng đối với một ngân hàng. 2. Nghiệp vụ thẩm định dự án đầu tư tại các NHTM
  8. 2.1. Sự cần thiết của thẩm định dự án đầu tư tại các NHTM Hoạt động chủ yếu của NHTM là đi vay để cho vay. Do đó để đảm bảo an toàn và phát triển trong kinh doanh thì các NHTM phải đảm bảo thu cả gốc và lãi các khoản cho vay của mình. Tuy nhiên, hoạt động của các ngân hàng luôn chứa đựng khả năng xảy ra rủi ro như: rủi ro về tín dụng, rủi ro về thanh toán, rủi ro về chuyển hoán vốn, rủi ro về lãi suất, rủi ro về hối đoái... Trong đó rủi ro trong các khoản cho vay của ngân hàng là rất lớn đặc biệt là đối với các khoản vay trung và dài hạn mà hậu quả do nó gây ra có thể tác động nặng nề đến các hoạt động kinh doanh khác, thậm chí đe doạ sự tồn tại của NHTM Rủi ro tín dụng là điều không thể tránh khỏi trong hoạt động cho vay của NHTM, tuy nhiên có thể giảm thiểu thông qua công tác thẩm định dự án đầu tư, thẩm định khách hàng vay vốn. Bởi vì, thẩm định dự án đầu tư, thẩm định khách hàng sẽ giúp cho ngân hàng: - Có quyết định chủ trương bỏ vốn đầu tư đúng đắn có cơ sở đảm bảo hiệu quả của vốn đầu tư. - Phát hiện và bổ sung thêm các giải pháp nhằm nâng cao tính khả thi cho việc triển khai thực hiện dự án, hạn chế giảm bớt các yếu tố rủi ro. - Tạo ra căn cứ để kiểm tra viêc sử dụng vốn đúng mục đích, đối tượng và tiết kiệm vốn đầu tư trong quá trình thực hiện. - Có cơ sở tương đối vững chắc để xác định được hiệu quả đầu tư của dự án cũng như khả năng hoàn vốn, trả nợ của dự án và chủ đầu tư. - Rút kinh nghiệm để thực hiện các dự án sau được tốt hơn. 2.2. Những nguồn thông tin để thẩm định Một nguyên nhân gây ra những rủi ro rất lớn cho hoạt động của NHTM đó là “thông tin không cân xứng”. Thông thường để được vay vốn, khách hàng thường cung cấp cho ngân hàng những thông tin đôi khi không trung thực, hoặc do độ trễ của thông tin dẫn tới những kết luận sai từ phía ngân hàng. Đặc biết là trong công tác thẩm định, thông tin đóng vai trò quyết định, ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng thẩm định. Do đó, viêc thu thập thông tin để đảm bảo chất lượng thẩm định là rất quan trọng.
  9. 2.2.1. Thông tin thu thập được từ khách hàng - Qua việc tiến hành phỏng vấn người xin vay vốn: ngân hàng có thể có được những thông tin ban đầu về doanh nghiệp như quá trình hình thành và phát triển của doanh nghiệp, chất lượng đội ngũ cán bộ công nhân viên chức, bản chất của sản phẩm dự án. Qua phỏng vấn khách hàng ngân hàng còn có thể kiểm tra tính trung thực của khách hàng và từ đó có thể biết được ý muốn trả nợ của họ đối với ngân hàng hay không. - Thông tin từ các báo cáo tài chính: Bất kì một hồ sơ vay vốn nào khi gửi tới ngân hàng đều phải có các bản báo cáo tài chính, nhất là những dự án xin vay vốn với số lượng lớn, thời gian dài như số liệu về tài sản, vốn tự có, những khoản nợ ...và các thông tin phản ánh tình hình tài chính của họ. Những thông tin này là hết sức quan trọng vì nó cho biết khả năng trả trợ của doanh nghiệp đối với ngân hàng, tuy nhiên nó không phải là căn cứ để ra quyết định tín dụng vì nó chỉ là kết quả của quá khứ . - Điều tra nơi hoạt động SXKD: Khi một doanh nghiệp xin vay vốn thì việc xuống cơ sở sản xuất kinh doanh của họ để kiểm tra là cần thiết đối với cán bộ tín dụng. Qua kiểm tra cơ sở sản xuất kinh doanh của khách hàng cán bộ tín dụng có thể biết được trình độ quản lý tổ chức nhân sự của doanh nghiệp, tình hình hàng tồn kho, tình trạng sản xuất, vật đảm bảo thế chấp xin vay vốn ...Đó là những thông tin phản hồi khá chính xác phản ánh hiện trạng thực có của doanh nghiệp giúp cán bộ ngân hàng có thể có thêm những thông tin cần thiết trước khi quyết định cho vay. 2.2.2. Thông tin do ngân hàng lưu trữ Dựa vào những thông tin đã được lưu trữ trong sổ sách của ngân hàng mà cán bộ tín dụng có thể nắm bắt được một số thông tin như là khách hàng đã từng có quan hệ với ngân hàng hay chưa, nếu có thì việc trả nợ trước đây diễn ra như thế nào, đồng thời thông qua đó cán bộ tín dụng còn có thể biết được số dư trên tài khoản của khách hàng hiện giờ như thế nào.Từ đó biết được tình hình tài chính của họ cũng như triển vọng và khả năng kinh doanh của họ. Còn với khách hàng chưa có quan hệ với ngân hàng thì có thể dựa trên tài khoản của khách hàng tại ngân hàng khác để xin cấp thông tin.
  10. 2.2.3. Một số nguồn thông tin khác ở nước ta hiện nay có trung tâm thông tin tín dụng (CIC) của ngân hàng Nhà nước.Tại đây cán bộ tín dụng có thể lấy các thông tin cần thiết cho quyết định tín dụng của mình. Ngân hàng cũng có thể thu thập thông tin từ các ngân hàng khác, hoặc khi cần thiết có thể mua thông tin... 2.3. Các nhân tố tác động tới chất lượng thẩm định dự án đầu tư của ngân hàng thương mại 2.3.1. Chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư Chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư là một khái niệm trừu tượng, không thể định lượng, đứng trên góc độ đối tượng thẩm định khác nhau thì chất lượng thẩm định tài chính dự án được hiểu có điểm khác nhau. Trên quan điểm của một Ngân hàng thương mại (một nhà tài trợ) thì hoạt động thẩm định tài chính dự án đầu tư được cho là có chất lượng khi mà thông qua qúa trình xem xét, đánh giá dữ liệu, thông số ở hồ sơ dự án trình lên cũng như phân tích những chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính, Ngân hàng có thể ra quyết định tài trợ hợp lý, phát hiện được những điểm chưa phù hợp mà chủ đầu tư không phát hiện ra hoặc cố tình che dấu. Từ đó yêu cầu và thuyết phục chủ đầu tư điều chỉnh dự án theo hướng phù hợp nhất để việc tài trợ hiệu quả và thu hồi được vốn. Chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư là một trong những nhân tố có quyết định chất lượng tín dụng. Do đó, việc xác định nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng thẩm định là rất quan trọng để trên cơ sở các nhân tố đó đưa ra những giải pháp thích hợp tác động tới từng nhân tố để từng bước nâng cao chất lượng nghiệp vụ thẩm định 2.3.2. Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng thẩm định Có thể chia các nhân tố ảnh hưởng đến công tác thẩm định dự án thành hai loại sau:
  11. * Nhân tố chủ quan: - Nhân tố con người: luôn chi phối hoạt động trong mọi quy trình thẩm định. Trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ thẩm định ngân hàng là một yếu tố quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng thẩm định dự án đầu tư. Do các dự án đầu tư của các doanh nghiệp xin vay vốn thuộc nhiều ngành nghề, nhiều lĩnh vực khác nhau trong nền kinh tế. Hơn nữa, cán bộ thẩm định dựa trên các số liệu do doanh nghiệp cung cấp, các thông tin thu thập được để phân tích, đánh giá và đưa ra quyết định cuối cùng về việc đầu tư hay không. Do đó để có thể đánh giá chính xác tính khả thi của dự án, hiệu quả kinh tế của dự án thì yêu cầu đặt ra đối với cán bộ thẩm định ngân hàng phải có trình độ học vấn tốt, có trình độ tổng hợp về các ngành nghề kinh tế, có năng lực làm việc, luôn cập nhật các thông tin thị trường, cần loại bỏ tính cá nhân hình thức trong quá trình thẩm định. - Cơ sở vật chất, kỹ thuật của Ngân hàng: Cơ sở vật chất kĩ thuật của ngân hàng bao gồm các phương tiện, trang thiết bị, máy tính, mạng thông tin tín dụng liên ngân hàng ... Trên thực tế cán bộ tín dụng sẽ tính toán các hệ số chỉ tiêu kinh tế của dự án nhanh và chính xác hơn nếu dựa trên các máy tính hiện đại từ đó sẽ đưa ra được những kết luận chính xác hơn. - Nhân tố quản lý: đây là việc phân chia quyền hạn và trách nhiệm một cách khoa học và hợp lý, phát huy tốt vai trò độc lập đối với từng cán bộ trong công tác chung. Cần đánh giá tổng hợp nhằm đưa ra quyết định tối ưu bảo đảm tính khách quan công bằng và hiệu quả cho từng thành viên tham gia thẩm định. - Phương pháp thẩm định: Phương pháp hợp lý là phương pháp vận dụng phù hợp với loại hình, đặc điểm của dự án, thể hiện được khả năng nhanh nhạy của Ngân hàng trước sự biến động của môi trường dự án. Thẩm định với phương pháp đúng giúp cho qua trình đánh giá dự án có tính khoa học hơn, dễ kiểm tra hơn. * Nhân tố khách quan: bao gồm các nhân tố bên ngoài dự án như các yếu tố về luật pháp, chính sách, khủng hoảng... Nhân tố khách quan thường tác động tới công tác thẩm định trong giai đoạn dự án đi vào hoạt động. Do vậy tác động của nó là khá lớn, người thẩm định cần dự báo về chúng để có thể loại bỏ, phòng tránh một cách tốt nhất.
  12. 2.4. Quy trình thẩm định dự án đầu tư trong Ngân hàng thương mại (1), (2): Trưởng phòng tín dụng tiếp nhận, kiểm tra hồ sơ dự án vay vốn (3): nếu hồ sơ vay vốn chưa đủ cơ sở để thẩm định thì chuyển lại để cán bộ phòng tín dụng hướng dẫn khách hàng hoàn chỉnh, bổ sung hồ sơ (4): Nếu đã đủ cơ sở thẩm định thì ký, giao nhận hồ sơ, vào sổ theo dõi và giao cho cán bộ thẩm định trược tiếp thẩm định (5),(6), (7): Trên cơ sở đối chiếu các quy định tại các hướng dẫn và nội dung yêu cầu, Cán bộ thẩm định tổ chức xem xét thẩm định dự án đầu tư và khách hàng xin vay vốn. Nếu cần thiết, đề nghị cán bộ tín dụng hoặc khách hàng bổ sung hồ sơ hoặc giải trình rõ thêm (8): Cán bộ thẩm định lập báo cáo thẩm định trình trưởng phòng tín dụng xem xét. (9), (10): Trưởng phòng tín dụng kiểm tra, kiểm soát về nghiệp vụ thông qua hoặc yêu cầu Cán bộ thẩm định chỉnh sửa, làm rõ các nội dung. (11), (12): Phòng thẩm định lưu hồ sơ, tài liệu cần thiết và gửi trả hồ sơ kèm báo cáo thẩm định cho phòng Tín dụng
  13. Sơ đồ 1: Lưu đồ quy trình thẩm định dự án đầu tư Phòng tín dụng Cán bộ thẩm định Trưởng phòng tín dụng Đưa yêu cầu (1) Tiếp nhận giao hồ sơ hồ sơ (vay 3 ) vốn ( (2) (3) Chưa đủ điều kiện Kiểm tra sơ (4) Nhận hồ sơ để thẩm định (7) (5) (6) Chưa đạt yêu cầu Bổ sung, Thẩm giải trình định ( 10 ) (8) (9) Lập báo Kiểm cáo thẩm tra, định ( 11 ) ( 13 ) ( 12 ) ( Nhận 13 ) lại Lưu hồ sơ, hồ sơ và tài liệu KQKD
  14. 3 Nội dung thẩm định dự án đầu tư trong Ngân hàng thương mại 3.1. Thẩm định, đánh giá khách hàng vay vốn 3.1.1 Năng lực pháp lý của khách hàng Khách hàng vay vốn phải có đủ năng lực pháp lý theo quy định của pháp luật, phải có đủ hồ sơ chứng minh năng lực pháp lý theo quy định của pháp luật hiện hành * Đối với doanh nghiệp : + Quyết định thành lập + Giấy phép đầu tư theo luật đầu tư nước ngoài + Đăng ký kinh doanh đối với doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp + Đăng ký kinh doanh đối với doanh nghiệp Nhà nước + Quyền hạn, trách nhiệm của các bên trong hợp đồng liên doanh đối với các doanh nghiệp liên doanh + Các quy định quyền hạn trách nhiệm trong điều lệ doanh nghiệp + Tính pháp lý cảu các quyết định bổ nhiệm Giám đốc (Tổng giám đốc), kế toán trưởng hoặc người quản lý về tài chính của doanh nghiệp + Trong tổ chức doanh nghiệp, ai là người đại diện pháp nhân * Đối với khách hàng là tư nhân: + Đủ 18 tuổi trở lên + Có đầy đủ năng lực dân sự theo quy định của luật dân sự + Có hộ khẩu thường trú 3.1.2. Ngành nghề sản xuất kinh doanh của khách hàng Kiểm tra sự phù hợp về ngành ngề kinh doanh ghi trong dăng ký kinh doanh với ngành nghề kinh doanh hiện tại của doanh nghiệp và phù hợp với dự án dự kiến đầu tư Ngành nghề kinh doanh được phép hoạt động, xu hướng phát triển của ngành nghề trong tương lai
  15. 3.1.3. Mô hình tổ chức, bố trí lao động + Quy mô hoạt động của doanh nghiệp + Cơ cấu tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp + Trình đọ quản lý, tay nghề của lao động trong doanh nghiệp + Thu nhập của người lao động 3.1.4 Quản trị điều hành của lãnh đạo + Năng lực chuyên môn + Năng lực quản trị, điều hành + Phẩm chất, tư cách, uy tín của lãnh đạo trong và ngoài doanh nghiệp + Khả năng nắm bắt thị trương, thích ứng hội nhập thị trường 3.1.5. Quan hệ của khách hàng đối với các tổ chức tín dụng * Quan hệ tín dụng - Đối với các chi nhánh cho vay và các chi nhánh khác trong cùng hệ thống ngân hàng: Dư nợ ngắn, trung và dài hạn, mục đích vay vốn của các khoản vay, doanh số cho vay, thu nợ, mức dộ tín nhiệm - Đối với các tổ chức tín dụng khác: dư nợ ngắn, trung và dài hạn đến thời điểm gần nhất, mục đích vay vốn cảu các khoản vay, mức dộ tín nhiệm * Quan hệ tiền gửi - Đối với các chi nhánh cho vay và các chi nhánh khác trong cùng hệ thống ngân hàng: số dư tiền gửi bình quân, doanh số tiền gửi, tỷ trọng so với doanh thu - Đối với các tổ chức tín dụng khác 3.1.6. Tình hình sản xuất kinh doanh, tài chính của khách hàng 3.1.6.1. Nguyên tắc đánh giá Việc tính toán các chỉ số để đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh tài chính của khách hàng cần phải được thực hiện qua nhiều năm (ít nhất là 2 năm), khi đánh giá, nhận xét cán bộ tín dụng cần phải nhìn một cách tổng thể về các chỉ tiêu đánh giá và có sự so sánh với thực tế, đặc diểm của khách hàng để việc đánh giá được chính xác và toàn diện. 3.1.6.2. Phân tích tình hình SXKD và tình hình tài chính
  16. Phân tích tình hình SXKD và tình hình tài chính là quá trình xem xét, kiểm tra, đối chiếu và so sánh số liệu về tình hình SXKD và tình hình tài chính hiện hành với quá khứ của doanh nghiệp. Qua đó, người sử dụng thông tin có thể đánh giá tiềm năng, hiệu quả kinh doanh cũng như những rủi ro trong tương lai và triển vọng của doanh nghiệp. Trong quá trình đi vào các nội dung phân tích tình hình sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính doanh nghiệp, có khá nhiều phương pháp phân tích được biết đến, nhưng trên thực tế người ta thường sử dụng các phương pháp sau: * Phương pháp so sánh: nội dung phương pháp này bao gồm : - So sánh giữa số thực hiện kỳ này với số thực hiện kỳ trước để thấy rõ xu hướng thay đổi về tài chính doanh nghiệp, đánh giá sự tăng trưởng hay thụt lùi trong hoạt động kinh doanh của doanh ngiệp. - So sánh giữa số thực hiện với số kế hoạch để thấy mức độ phấn đấu của doanh nghiệp. - So sánh giữa số liệu của doanh nghiệp với số liệu trung bình của ngành của các doanh nghiệp khác để đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp mình tốt hay xấu, được hay chưa được. - So sánh theo chiều dọc để xem tỷ trọng của từng chỉ tiêu so với tổng thể, so sánh theo chiều ngang của nhiều kỳ để thấy được sự biến đổi cả về số lượng tương đối và tuyệt đối của một chỉ tiêu nào đó qua các niên độ kế toán. Khi áp dụng phương pháp này, các chỉ tiêu cần được thống nhất về không gian, nội dung, tích chất và đơn vị tính toán...và theo mục đích phân tích mà xác định gốc so sánh.
  17. * Phương pháp tỷ lệ: Trên cơ sở các báo cáo tài chính, cán bộ thẩm định tiến hành tính toán các chỉ tiêu tài chính có liên quan Về nguyên tắc, phương pháp tỷ lệ yêu cầu phải xác định được các ngưỡng, các định mức để nhận xét, đánh giá tình hình tài chính doanh ghiệp trên cơ sở so sánh các tỷ lệ của doanh nghiệp với các giá trị các tỷ lệ tham chiếu. * Phương pháp DUPONT: phương pháp này cho thấy mối quan hệ tương hỗ giữa các tỷ lệ tài chính chủ yếu, nó xem xét mối quan hệ tương tác giữa hệ số sinh lợi doanh thu với hiệu suất sử dụng tài sản, tỷ lệ sinh lời trên vốn chủ sở hữu doanh nghiệp. Phương pháp này được sử dụng như việc tổng hợp ảnh hưởng các nhân tố nhằm rút ra các nhận xét và kiến nghị. * Phương pháp SWOT: (strengths and weaknesses, opportunities and threats) là phương pháp đánh giá những điểm mạnh, điểm yếu, những cơ hội của doanh nghiệp và những thách thức đối với doanh nghiệp dựa trên những yếu tố nội tại bên trong doanh nghiệp và những yếu tố bên ngoài có ảnh hưởng đến sự tồn tại, phát triển của doanh nghiệp để lên kế hoạch đầu tư dài hạn. Nhân tố liên quan đến phương pháp SWOT bao gồm một loạt các yếu tố có thể làm tăng hoặc giảm năng lực hoạt động của doanh nghiệp như độ lớn của thị trường, sự cạnh tranh, cơ hội cho sản phẩm mới của doanh nghiệp, nguồn lao động với tay nghề cao, vấn đề quản lý nguyên liệu thô... Quy trình thẩm định sẽ đưa ra nhiều câu hỏi và ngân hàng cần sắp xếp những thông tin thu thập được thành “ bản tóm tắt về doanh nghiệp và khả năng cạnh tranh trên thị trường”. Sau đó, ngân hàng cần tiến hành: - Đánh giá điểm mạnh và yếu của doanh nghiệp: Từ bản tóm tắt trên, ngân hàng có thể đánh giá khả năng thực sự của doanh nghiệp, độ linh hoạt trong quản lý và xác định xem môi trường, lĩnh vực mà doanh nghiệp hoạt động có tốt hay không. - Đánh giá khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp: Nhiệm vụ của thẩm định là phải lập được bản tóm tắt sơ bộ về các đối thủ cạnh tranh chính của doanh nghiệp trên thị trường, thông qua đó, ngân hàng sẽ tiến hành so sánh xem doanh nghiệp trội hơn ở lĩnh vực nào và kém đối thủ cạnh tranh ở những điểm nào.
  18. - Đánh giá những cơ hội và thách thức đối với doanh nghiệp: Yêu cầu đặt ra đối với ngân hàng khi thẩm định là phải lập bản nhận xét về năng lực của doanh nghiệp, (xét trong môi trường đang hoạt động và trong nền kinh tế nói chung) để có giải pháp, phương hướng giúp doanh nghiệp chuyển hướng đầu tư hoặc làm ăn có hiệu quả hơn. Thông qua những đánh giá trên, ngân hàng sẽ chỉ ra những chiến lược đầu tư nhằm phát huy điểm mạnh và hạn chế những điểm yếu của doanh nghiệp. Theo phương pháp này, ngân hàng cần xếp hạng khách hàng dựa vào mức độ rủi ro trong lĩnh vực kinh doanh. Đối với rủi ro phi hệ thống, có thể loại trừ bằng phương pháp đa dạng hoá. Căn cứ vào mức rủi ro và doanh lợi dự kiến, ngân hàng sẽ có được mức lãi suất cho vay hợp lý - phần thưởng cho sự rủi ro mạo hiểm của quyết định đầu tư . Tựu trung lại SWOT sẽ giúp ngân hàng dự báo được một cách chính xác những tác động của dự án khi quyết định đầu tư được thực thi bao gồm: dòng tiền của dự án, giá trị tài sản, thu nhập và lợi nhuận, sự thay đổi các dòng tiền Trong đó, các chỉ tiêu NPV, IRR, PP cần được tính toán với một tỷ lệ chiết khấu thích hợp. 3.1.6.3. Phân tích các tỷ lệ tài chính doanh nghiệp Các tỷ lệ tài chính được chia thành 4 nhóm tỷ lệ đặc trưng, phản ánh những nội dung cơ bản theo các mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp: đó là các nhóm tỷ lệ về khả năng thanh toán, tỷ lệ về khả năng cân đối vốn, tỷ lệ về khả năng hoạt động và tỷ lệ về khả năng sinh lãi. * Các tỷ lệ về khả năng thanh toán. Khả năng thanh toán là khả năng đáp ứng các dòng tiền ra của doanh nghiệp. Nó phản ánh mối quan hệ tài chính giữa các khoản có khả năng thanh toán trong kỳ với các khoản phải thanh toán trong kỳ. Khả năng thanh toán phản ánh rõ nét chất lượng công tác tài chính. Nếu hoạt động tài chính tốt, sản xuất sẽ ít công nợ, khả năng thanh toán dồi dào, ít đi chiếm dụng vốn cũng như ít bị chiếm dụng vốn và ngược lại. Việc phân tích khả năng thanh toán không chỉ giúp cho các chủ nợ của doanh nghiệp, các nhà đầu tư vào doanh nghiệp giảm được rủi ro trong quan hệ tín
  19. dụng, làm ăn với doanh nghiệp mà còn giúp cho bản thân doanh nghiệp thấy được khả năng chi trả thực tế từ đó có biện pháp trong việc điều chỉnh các khoản mục tài sản cho hợp lý để nâng cao khả năng thanh toán. - Khả năng thanh toán hiện hành: Tỷ lệ khả năng thanh toán hiện hành là thước đo khả năng thanh toán ngắn hạn của doanh nghiệp, nó cho biết mức độ các khoản nợ của các chủ nợ ngắn hạn được trang trải bằng các tài sản có thể chuyển thành tiền trong một giai đoạn tương đương vơí thời hạn của các khoản nợ đó. Tài sản lưu động Tỷ lệ khả năng thanh toán hiện hành = Nợ ngắn hạn - Khả năng thanh toán nhanh. Tỷ lệ này được tính bằng cách chia các tài sản quay vòng nhanh cho nợ ngắn hạn. Tài sản quay vòng nhanh là những tài sản có thể nhanh chóng chuyển đổi thành tiền, bao gồm: tiền, chứng khoán ngắn hạn, các khoản phải thu. Tỷ lệ khả năng thanh toán nhanh cho biết khả năng hoàn trả các khoản nợ ngắn hạn không phụ thuộc vào việc bán tài sản dự trữ (tồn kho) và được xác định bằng cách lấy tài sản lưu động trừ phần dữ trữ (tồn kho) chia cho nợ ngắn hạn. Tài sản lưu động - Dự trữ Tỷ lệ khả năng thanh toán nhanh = Nợ ngắn hạn Mức trung bình hợp lý cho tỷ lệ này là (1) vì nó cho thấy nếu doanh nghiệp bán đi các tài sản tương đương tiền và thu hồi được các khoản phải thu thì nó có thể thanh toán được các khoản nợ ngắn hạn mà không cần phải bán đi dự trữ. - Khả năng thanh toán tức thời. Đây là tỷ lệ thể hiện chính xác nhất khả năng thanh toán của doanh nghiệp vì nó loại bỏ tính không chắc chắn của các khoản phải thu cũng như khả năng chuyển đổi thành tiền chậm của dự trữ. Nó được tính bằng cách lấy tiền mặt và các khoản coi như tiền mặt (tiền gửi ngân hàng, ngân phiếu...) chia cho tổng số nợ ngắn hạn của doanh nghiệp. Tiền và các khoản tương đương tiền Khả năng thanh toán tức thời = Nợ ngắn hạn Nhìn vào chỉ tiêu này, người ta có thể biết được toàn bộ số nợ ngắn hạn của doanh nghiệp được đảm bảo trả ngay lập tức là bao nhiêu. Thực tế cho thấy, tỷ lệ này nếu > 0,5 thì khả năng thanh toán của doanh nghiệp tương đối khả quan, còn nếu <
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2