intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN: Giải pháp nhằm tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hai Bà Trưng – Hà Nội

Chia sẻ: Ly Hai | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:73

162
lượt xem
62
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tham khảo luận văn - đề án 'luận văn: giải pháp nhằm tăng cường huy động vốn tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn hai bà trưng – hà nội', luận văn - báo cáo, tài chính - kế toán - ngân hàng phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN: Giải pháp nhằm tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hai Bà Trưng – Hà Nội

  1. LUẬN VĂN: Giải pháp nhằm tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hai Bà Trưng – Hà Nội
  2. LỜI MỞ ĐẦU Nền kinh tế Việt Nam đang trong giai đoạn tăng trưởng và hội nhập mạnh mẽ với nền kinh tế thế giới. Năm 2007 vừa qua Việt Nam đã là thành viên chính thức thứ 150 của Tổ chức Thương Mại thế giới (WTO). Hội nhập là cơ hội để chúng ta có thể tiếp cận những nền khoa học công nghệ hiện đại, những nền kinh tế phát triển trên thế giới, cơ hội để kinh tế nước ta có thể sánh vai cùng các cường quốc Năm châu. Ngân hàng là một lĩnh vực vô cùng nhạy cảm trong nền kinh tế. Ngành ngân hàng của nước ta còn tồn tại nhiều bất cập, đây chính là vấn đề gây khó khăn nhất cho chúng ta trong quá trình đàm phán gia nhập WTO. Tuy nhiên đây cũng chính là vấn đề nóng nhất khi sức mạnh hội nhập lan toả trên toàn bộ nền kinh tế nước ta. Sức cạnh tranh không chỉ diễn ra giữa các ngân hàng thương mại trong nước với nhau mà còn cả các ngân hàng nước ngoài, các định chế tài chính khác như công ty bảo hiểm, các quỹ đầu tư, các tập đoàn tài chính…khác nữa. Muốn tồn tại và phát triển trong nền kinh tế năng động đó, mỗi ngân hàng cần phải xác định cho mình con đường đi phù hợp và hiệu quả nhất. Nâng cao vị thế trên thị trường, nâng cao uy tín và hiệu quả hoạt động luôn là vấn đề cốt lõi. Đó chính là việc xác định lượng vốn huy động được và vấn đề sử dụng vốn đó như thế nào của các ngân hàng thương mại. Huy động vốn là cơ sở để tiến hành hoạt động, là cơ sở để đảm bảo thanh toán, là uy tín và cũng chính là tiền đề cho sự sống còn của ngân hàng. Các ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung và NHNN&PTNT nói riêng trong quá trình hoạt động của mình luôn xác định được vai trò quan trọng của việc huy động vốn. Hoà chung vào không khí đó, NHNN&PTNT Hai Bà Trưng – Hà Nội luôn ý thức được vai trò và trách nhiệm của mình, để từ đây có thể đóng góp một phần không nhỏ vào sự phát triển của hệ thống ngân hàng nước ta nói chung và hệ thống NHNN&PTNT nói riêng.
  3. Chính vì vậy trong quá trình thực tập vừa qua, em đã không những tham gia, nắm bắt và học hỏi kinh nghiệm làm việc của các anh chị nhân viên trong ngân hàng mà còn đi sâu vào nghiên cứu về hoạt động huy động vốn tại NHNN&PTNT Quận Hai Bà Trưng. Do đó đề tài mà em chọn chính là: “Giải pháp nhằm tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hai Bà Trưng – Hà Nội ” . Nội dung của chuyên đề gồm 3 phần: Chương 1 : Một số vấn đề cơ bản về NHTM và hoạt động huy động vốn của NHTM Chương 2 : Thực trạng vấn đề huy động vốn tại NHNN&PTNT Hai Bà Trưng – Hà Nội Chương 3 : Giải pháp nhăm tăng cường huy động vốn tại NHNN&PTNT Hai Bà Trưng – Hà Nội
  4. CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NHTM VÀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NHTM 1.1. Một số vấn đề cơ bản về NHTM 1.1.1. Khái niệm về NHTM Ngân hàng thương mại (NHTM) là một tổ chức tài chính quan trọng trong nền kinh tế. Đây là tổ chức thu hút tiết kiệm lớn nhất bởi lẽ các cá nhân, tổ chức hay doanh nghiệp đều gửi tiền tại đây, nguốn vốn của họ phần lớn xuất phát từ đây. Các cá nhân gửi tiền với mục đích tăng thu nhập. thêm lợi nhuận, các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội gửi phục vụ thanh toán, chi tiêu, trả lương…Ngân hàng đóng vai trò là người thủ quỹ cho toàn xã hội. Bên cạnh đó ngân hàng còn là tổ chức cho vay chủ yếu đối với doanh nghiệp, cá nhân và có thể là cả nhà nước nữa. Cho vay tiêu dùng , cho vay để đầu tư, cho vay để phục vụ sản xuất, cho vay để xây dựng cơ sở hạ tầng…phần lớn các nguồn vay ấy đếu được thực hiện tại ngân hàng. Mặt khác Ngân hàng còn là một trung gian tài chính quan trọng nhất trong nền kinh tế, ngân hàng là trung gian cho người dư thừa vốn gặp những người đang cần vốn và tạo điều kiện đem lại lợi ích cho họ. Chính sách tiền tệ là bộ phận quan trọng của chính sách kinh tế trong mỗi quốc gia và ngân hàng đóng vai trò quyết định chính sách ấy. Như vậy có thể nói ngân hàng là một tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các sản phẩm dịch vụ đa dạng nhất, thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế. Điều 4 Luật các tổ chức tín dụng 2005 Nước CHXHCN Việt Nam đã chỉ rõ: “Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tièn gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ tiền tệ”.
  5. NHTM là bà đỡ cho mọi nền kinh tế, Một nền kinh tế phát triển và tăng trưởng mạnh là một nền kinh tế mà ở đó NHTM đóng vai trò chủ chốt và quyết định nhất. 1.1.2. Chức năng của NHTM NHTM có ba chức năng cơ bản đó là: - NHTM là một trung gian tài chính: NHTM là cầu nối giữa người dư thừa vốn và người đang có nhu cầu vốn. Với hoạt động chủ yếu là chuyển tiết kiệm thành đầu tư, các cá nhân và tổ chức tạm thời thâm hụt chi tiêu, tức là chi tiêu cho tiêu dùng và đầu tư vượt quá thu nhập chính vì thế họ cần phải bổ sung thêm vốn; bên cạnh đó lại tồn tại các cá nhân và tổ chức tạm thời thặng dư trong chi tiêu, tức là thu nhập hiện tại của họ lớn hơn chi tiêu và họ có tiền để tiết kiệm. Hai nhóm này tồn tại hoàn toàn độc lập với ngân hàng và điều tất yếu sẽ xảy ra đó là nguồn vốn hợp lí sẽ được chảy từ nơi thừa vốn sang nơi thiếu vốn. Đây chính là chức năng trung gian của ngân hàng. Một điều quan trọng nữa là để thực hiện được tốt chức năng này thì việc tìm hiểu thông tin cân xứng là khả năng đảm bảo hiệu quả cho hoạt động của ngân hàng. - NHTM có chức năng tạo phương tiện thanh toán: Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh tế có khả năng huy động tiền gửi lớn nhất , tại đây tất cả các nguồn gửi ngắn, trung và dài hạn đều được tập hợp. Sở dĩ có thể khẳng định rằng NHTM tạo tiền cho nền kinh tế bởi vì khi khách hàng đem tiền đến gửi tại ngân hàng thì sau khi để lại một tỉ lệ dự trữ theo quy định thì số tiền còn lại được đem cho vay. Và cứ thế nguồn vốn được quay vòng một cách đều đặn và liên tục đem lại thu nhập cho ngân hàng.Như vậy qua các nghiệp vụ kế toán, ngân hàng đã góp một vai trò quan trọng trong việc tạo tiền cho nền kinh tế. - NHTM là trung gian thanh toán:NHTM nhận tiền gửi của doanh nghiệp cũng đồng thời là nơi doanh nghiệp đến vay hay thực hiện bất kỳ một hoạt động thanh toán, chuyển tiền nào. Ta đã biết mục đích của doanh nghiệp luôn là tối đa hoá giá trị tài sản của họ, doanh nghiệp hoạt động được là phải có vốn. Vốn để mua sắm trang thiết bị, vốn đẻ tiến hành sản xuất. Ngân hàng là tổ chức luôn đáp ứng được
  6. tốt nhất nhu cầu đó, là đơn vị thu chi và thanh toán hộ cho doanh nghiệp. Hơn ai hết để làm được điều này ngân hàng luôn có đầy đủ thông tin về tài chính, về môi trường kinh doanh, về tình hình trong và ngoài nước để phục vụ tốt nhất nhu cầu của doanh nghiệp- khách hàng của họ. Ngân hàng luôn là điểm tựa vững chắc cho doanh nghiệp. Bên cạnh đó ngân hàng cũng chính là trung gian thanh toán cho các cá nhân và tổ chức trong nền kinh tế. 1.1.3. Hoạt động của NHTM a. Hoạt động huy động vốn Huy động vốn (HĐV) là các hoạt động nhằm tạo vốn cho ngân hàng, hình thành tài sản nợ cho ngân hàng. Huy động vốn là hoạt động nền tảng cho sự hoạt động và phát triển của ngân hàng. Ngân hàng dùng nhiều hình thức huy động vốn khác nhau: Huy động tiền gửi không kỳ hạn hay còn gọi là tiền gửi thanh toán Huy động tiền gửi có kỳ hạn hay còn gọi là tiền gửi tiết kiệm Vay từ Ngân hàng trung ương (NHTW) và các tổ chức tín dụng (TCTD) Phát hành kỳ phiếu hoặc trái phiếu Huy động thêm vốn chủ sở hữu Huy động theo các nguồn khác Hiên nay các ngân hàng thương mại đang đưa ra nhiều chương trình, nhiều biện pháp để đẩy mạnh huy động vốn.
  7. b. Hoạt động sử dụng vốn Sử dụng vốn là việc ngân hàng sử dụng nhưng nguồn đã huy động được để đưa vào kinh doanh thu lợi nhuận, đây là ngiệp vụ hình thành tài sản có trên bảng cân đối kế toán của ngân hàng. Ngân hàng sử dụng vốn cho hoạt động ngân quỹ( bản chất là dự trữ), hoạt động này nhằm đảm bảo khả năng thanh toán, khả năng chi trả cho ngân hàng. Các nước trên thế giới thường duy trì tỉ lệ dự trữ bắt buộc là 8%/năm.Ngân hàng sử dụng một phần tiền gửi của khách hàng để dự trữ theo quy đinh bắt buộc của Ngân Hàng trung ương. - Hoạt động cho vay là hoạt động cơ bản, là hoạt động sống còn của ngân hàng. Đây là việc ngân hàng nhường quyền sử dụng vốn cho người khác theo những đảm bảo nhất định về tài sản, vật thế chấp, về khả năng hoàn trả, vế lãi suất…Hoạt động cho vay đem lại nguồn thu nhập chính cho Ngân hàng, là cơ sơ để Ngân hàng có thể tồn tại được.Hiện nay các ngân hàng thương mại đang đa dạng hoá các loại hình cho vay : cho vay theo thời hạn tín dụng, cho vay theo hạn mức tín dụng, cho vay tiêu dùng, cho vay căn cứ vào tài sản thế chấp…để làm sao thoả mãn được tối đa nhất nhu cầu của khách hàng. - Hoạt động đầu tư : Khác với hoạt động cho vay, hoạt động đầu tư mang lại nhiều rủi ro hơn cho ngân hàng. Khi xác định đầu tư vào một khoản mục nào đó thì mọi chi phí, mọi rủi ro là do ngân hàng hoàn toàn chụi trách nhiệm. Tất nhiên song hành với điều đó là một quy luật của tự nhiên đó là rủi ro càng cao thì lợi nhuận thu được càng lớn, vì vậy Ngân hàng luôn luôn phải cân nhắc kĩ lưỡng trước khi đầu tư. Các loại hình đầu tư mà ngân hàng thực hiện đó là đầu tư vào cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ, bên cạnh đó còn đầu tư kiên doanh liên kết với các ngân hàng, càc tổ chức khác trong nền kinh tế. Ngân hàng tham gia đầu tư không chỉ với mục đích duy nhất là gia tăng lợi nhuận mà ngân hàng còn với mục đích sâu xa nữa đó là xâm nhập sâu hơn vào thị trưòng tài chính, tham gia chi phối nền kinh tế hoàn thành mục tiêu cuả mình. c. Hoạt động trung gian khác
  8. Đây là hoạt động cung cấp dịch vụ của ngân hàng. Nền kinh tế càng phát triển nhu cầu tiêu dùng và sử dụng các dịch vụ của ngân hàng càng đựơc quan tâm và đòi hỏi một sự phát triển cao hơn. Các hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt, thanh toán qua phát hàng Sec, thẻ tín dụng… ngày càng được ưu tiên. Bên cạnh đó ngân hàng còn thực hiên các nghiệp vụ như uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi, thanh toán bằng thư tín dụng…Các hoạt động này bên cạnh việc đem lại nguồn thu nhập lơn cho ngân hàng còn góp phần nâng cao vị thế của ngân hàng trên thương trường. 1.2 Nguồn vốn và hoạt động huy động vốn của NHTM 1.2.1 Nguồn vốn của ngân hàng thương mại Vốn là cơ sở và nền tảng cho mọi hoạt động của ngân hàng. Đây là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ giá trị tài sản có của ngân hàng, nó được xác định từ nhiều nguồn khác nhau. Để thuận lợi cho mọi quá trình vận hành và xác định người ta đã chia ra thành hai loại vốn cơ bản đó là vốn chủ sở hữu và vốn vay. 1.2.1.1 Vốn chủ sở hữu Ngân hàng hay bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào muốn thành lập và hoạt động được phải có một lượng vốn nhất định. Vốn này có vai trò quyết định trong quá trình tiến hành đăng kí kinh doanh, quá trình thành lập hay quá trình hình thành nên tài sản, trang thiết bị, nhà xưởng, hay máy móc thiết bị…cho mỗi tổ chức. Ngân hàng thương mại cũng vậy, nguồn vốn chủ sở hữu là điều kiện tiên quyết cho mọi vấn đề. Nguồn vốn chủ sở hữu của ngân hàng được cụ thể thành các loại như sau: a. Nguồn vốn hình thành ban đầu Theo tính chất của mỗi ngân hàng mà nguồn vốn hình thành ban đầu khác nhau. Ngân hàng thương mại nhà nước là Ngân hàng được sở hữu bởi nhà nước, vốn do ngân sách nhà nước cấp. Ngân hàng cổ phần là ngân hàng có số vốn góp do các cổ đông hợp sức lại, Ngân hàng liên doanh do các bên liên doanh góp vốn, Ngân hàng tư nhân là vốn thuộc sở hữu tư nhân. Vốn hình thành ban đầu hay vốn tự có là điều kiện pháp lý cơ bản, là xuất phát điểm cơ bản cho mọi hoạt động của ngân hàng và cũng đồng thời là yếu tố tài chính
  9. quan trọng để đảm bảo các khoản nợ đối với khách hàng, là niềm tin của khách hàng đối với ngân hàng. Tuy vậy Ngân hàng lại là một doanh nghiệp kinh doanh một loại hàng hoá đặc biệt, rất nhạy cảm – đó chính là vốn. Nguồn vốn ban đầu của ngân hàng thường chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn. Song qua đây nó lại cho ta thấy được thực lực của ngân hàng, quy mô và uy tín của ngân hàng, và hơn hết nó là cơ sở để thu hút các nguồn vốn khác cho họ. Hiện nay các NHTM Việt Nam đều có quy mô nhỏ, vốn hình thành ban đầu thấp, tỷ lệ vốn tự có/ tài sản có của phần lớn các ngân hàng là
  10. vậy cách huy động nguồn vốn này thường phức tạp, khó khăn và không đem lại hiệu quả cao, chỉ những khi quá cần thiết thì ngân hàng mới áp dụng. c. Các quỹ Ngân hàng hay bất kỳ một tổ chức nào hoạt động đều phải có các quỹ riêng: quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi, quỹ giám đốc, quỹ dự phòng,…Bên cạng đấy ngân hàng kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ - một lĩnh vực nhạy cảm nên các quỹ của nó cũng mang nhiều đặc thù riêng. - Quỹ dự phòng tổn thất: Loại quỹ này đựơc trích lập hàng năm, dùng để bù đắp những tổn thất xảy ra. Rủi ro trong kinh doanh Ngân hàng là rất lớn, nguồn quỹ này rất được chú trọng và quan tâm, Ngân hàng Trung ương ở mỗi quốc gia thường phải đặt ra một tỷ lệ cố định cho việc trích lập dự phòng này. Theo quy định của Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam thì quỹ dự phòng tổn thất của các ngân hàng tại Việt nam bao gồm hai loại quỹ đó là quỹ dự phòng để xử lý rủi ro và quỹ dự phòng tài chính. - Quỹ bảo toàn vốn là loại quỹ được hình thành nhằm bù đắp hao mòn của vốn dưới tác động của lạm phát. - Quỹ thặng dư là phần đánh giá lại tài sản của ngân hàng và phần chênh lệch giữa thị giá và mệnh giá cổ phiếu khi phát hành cổ phiếu mới. Quỹ này cũng có vai trò quan trọng vì theo nguyên tắc giá trị thời gian của tiền và nó liên quan tới việc đánh giá lại tài sản của ngân hàng. - Ngoài ra còn có các quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi, quỹ giám đốc... mang tính chất động viên khích lệ các cá nhân, nhóm tổ chức trong ngân hàng để họ có điều kiện thuận lợi phát triển và cống hiến.Các quỹ này được hình thành trên cơ sở thu nhập hàng năm của ngân hàng. d. Nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần Vốn của ngân hàng không chỉ giới hạn bởi vốn đóng góp của cổ đông hay số vốn góp ban đầu của ngân hàng , do tính chất sử dụng lâu dài : có thể đầu tư vào nhà cửa, đất đai, bất động sản…có thể không phải hoàn lại, do vậy mà các khoản
  11. vay trung và dài hạn của NHTM có khả năng chuyển đổi thành cổ phần và cũng được coi là vốn chủ sở hữu của ngân hàng. 1.2.1.2 Vốn nợ a. Tiền gửi Tiền gửi là nền tảng cho sự thịnh vượng và phát triển của ngân hàng. Đây là khoản mục duy nhất trên bảng cân đối kế toán giúp ta có thể phân biệt ngân hàng với các doanh nghiệp khác. Năng lực của ngân hàng thể hiện ở khả năng huy động tiền gửi. Tiền gửi là cơ sở chính cho phép ngân hàng có thể cho vay và là nguồn gốc sâu xa của lợi nhuận và sự phát triển của ngân hàng. Tiền gửi có nhiều loại: - Tiền gửi thanh toán - Tiền gửi tiết kiệm của doanh ngiệp và tổ chức xã hội - Tiền gửi tiết kiệm dân cư - Tiền gửi của các ngân hàng khác
  12. b. Tiền vay Ngoài nghiệp vụ tiền gửi, khi cần thêm vốn để phục vụ kinh doanh hay vì một mục đích nào đó NHTM có thể chủ động đi vay. Hoạt động này chủ yếu được thực hiện để đáp ứng nhu cầu chi trả khi mà nguồn huy động bị hạn chế. Nghiệp vụ đi vay không đơn giản và dễ dàng như nghiệp vụ nhận tiền gửi, khi đi vay ngân hàng còn phải tính đến mọi phí tổn cũng như phương án trả nợ hợp lý nhất. NHTM cũng sử dụng nhiều hình thức đi vay là: - Vay NHTW : Đây là khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong việc chi trả của NHTM. Như ta đã được biết, NHTW là người cho vay cuối cùng, là nơi cuối cùng mà ngân hàng thương mại có thể đến vay. Tại đây hình thức cho vay chủ yếu là tái chiết khấu hay còn gọi là tái cấp vốn. Các thương phiếu trên thị trường đã được ngân hàng thương mại chiết khấu hoặc tái chiết khấu sẽ trở thành tài sản của họ. Khi nhu cầu vốn cấp bách NHTM đến NHTW vay bằng hình thức đem các thương phiếu đã chiết khấu ấy đến NHTW tái chiết khấu. Tuy nhiên không phải bất kỳ thương phiếu nào cũng được NHTW chiết khấu, chỉ những thương phiếu có chất lượng tốt, có thời gian đáo hạn ngắn, khả năng trả nợ cao thì NHTW mới đồng ý tái chiết khấu. - Vay các tổ chức tín dụng khác: Đây là nguồn mà các ngân hàng thương mại vay muợn của lẫn nhau và vay của các tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên nhân hàng. Khi ngân hàng đang thiếu hụt về dự trữ, hay đang phải đáp ứng nhu cầu chi trả cấp bách trong khi nguồn vốn của họ không đủ, họ phải ngay lập tức vay mượn để kịp thời chi trả. Bên cạnh đó lại có những ngân hàng khác , các tổ chức tín dụng khác như công ty bảo Hiểm, công ty Tài chính…đang có dự trữ vượt yêu cầu do kết số dư tăng bất ngờ về các khoản tiền huy động hoặc giảm cho vay sẽ có thể sẵn sàng cho vay để tìm kiếm lợi nhuận cao hơn. Và thế là họ gặp nhau, trao đổi cho nhau để cả hai bên cùng có lợi. Các khoản vay này thương có thủ tục đơn giản, thuận lợi, xác định dựa trên uy tín
  13. của các ngân hàng với nhau, do vậy nó thường hay được sử dụng và mang lại hiệu quả cao. - Vay trên thị trường vốn: Đây là các khoản vay trung và dài hạn, nó hoàn toàn phụ thuộc vào khả năng và uy tín của ngân hàng. Ngân hàng nào có uy tín trên thị trường hoặc có khả năng trả lãi suất cao sẽ vay mượn được nhiều và ngược lại các ngân hàng nhỏ thưòng khó vay hơn và họ thường phải dựa vào các ngân hàng đại lý hoặc nhờ các ngân hàng lớn bảo lãnh. Sở dĩ như vậy vì đây là hình thức Ngân hàng vay bằng cách phát hành giấy nợ ra công chúng, Một hình thức vay có đảm bảo : phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, tín phiếu. Kỳ phiếu là hình thức thu hút được nhiều khách hàng, Kỳ phiếu bao gồm hối phiếu và lệnh phiếu, là hình thức phục vụ tốt nhất nhu cầu của khách hàng. Trái phiếu là một loại giấy chứng nhận nợ mà người cầm nó có quyền đòi nợ người phát hàng ra nó ở đây là NHTM. Theo đó trong một thời gian xác định được ghi trên trái phiếu ngân hàng phải hoàn trả một số tiền nhất định về cả gốc và lãi cho người cầm nó. c. Vốn nợ khác Loại vốn này được hình thành trong quá trình tham gia vào các hoạt động dịch vụ của ngân hàng. Nó bao gồm các nguồn cơ bản sau: - Nguồn vốn uỷ thác: Đây là một trong những dịch vụ mà ngân hàng tích cực tham gia và ngày nay nó càng trở thành nghiệp vụ chiếm giữ vị trí quan trọng. Đó là các nghiệp vụ uỷ thác cho vay, uỷ thác đầu tư, uỷ thác giải ngân…Ngân hàng đồng thời là kênh dẫn vốn, đồng thời là kênh quản lý vốn tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển, cho sự vững chắc của các công trình và bên cạnh đó lại mang về cho họ những lợi ích đáng kể. - Vốn trong thanh toán: Các hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt, thanh toán uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi, thanh toán bằng thư tín dụng, thanh toán qua phát hành Sec… đã vô hình
  14. chung tạo nên cho ngân hàng một luồng vốn quan trọng và ngân hàng cỏ thể sử dụng với mục đích sinh lời. 1.2.2 Hoạt động huy động vốn của NHTM Huy động vốn là nghiệp vụ cơ bản của NHTM nhằm tạo lập và duy trì nguồn vốn kinh doanh cho NH. Huy động vốn là các hình thức hoạt động khác nhau của ngân hàng nhằm thu hút vốn từ các tổ chức, cá nhân, các thành phần khác trong nền kinh tế để phục vụ mục đích kinh doanh của mình. 1.2.2.1 Các hình thức huy động vốn Tuỳ theo mục đích nghiên cứu mà ta có thể chia hoạt động huy động vốn theo các hình thức khác nhau,sau đây là một vài tiêu chí cơ bản hay được quan tâm: a. Huy động vốn theo thời gian - Vốn ngắn hạn Đây là loại vốn có thời gian huy động dưới 12 tháng. Để thoả mãn nhu cầu của khách hàng thì ngân hàng có thể chia ra nhiều kỳ hạn nhỏ: Dưới 1 tháng, 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng, 12 tháng, hoặc khách hàng có thể rút ra bất kỳ khi nào nếu họ cần. Nguồn này mang tính chất nhạy cảm cao nhưng lại luôn thu hút được nhiều vì nó phù hợp với nhu cầu của khách hàng. Tuy vậy chi phí cho nguồn này cũng lớn, nguồn huy động này chủ yếu để cho vay ngắn hạn., nếu muốn cho vay dài hơn thì ngân hàng thường phải chuyển đổi kỳ hạn tương ứng. - Vốn trung hạn Vốn trung hạn là nguồn vốn có thời hạn lớn hơn 12 tháng và đến 5năm. Nguồn này chủ yếu phục vụ cho các khoản vay trung hạn, tạo ra các sản phẩm với mức kỳ hạn từ 1 năm đến 5 năm cho ngân hàng. Đây là nguồn rất quan trọng cho khách hàng và ngân hàng thường phải đặt ra các hình thức huy động rất hấp dẫn để thu hút nguồn vốn này. - Vốn dài hạn Vốn dài hạn là những khoản tiền mà ngân hàng huy động có thời hạn từ 5 năm trở lên, được sử dụng cho các dự án dài hạn. Đây là nguồn vốn ổn định, ngân hàng có thể sử dụng trong thời gian dài. Tuy nhiên việc huy động nó cũng gặp nhiều khó
  15. khăn và chi phí mà họ bỏ ra cũng tương đối lớn. Nguồn này thường chiếm tỷ trọng nhỏ so với tổng nguồn huy động của ngân hàng. Việc xác định huy động vốn theo thời gian có vai trò quan trọng trong việc xác định kỳ hạn của các khoản cho vay hay đầu tư của ngân hàng. Lượng vốn huy động ngắn hạn, trung hạn hay dài hạn sẽ quyết định xem ngân hàng có thể cho vay với mức thời gian nào là hợp lý và lượng vay là bao nhiêu, và bên cạnh đó để đảm bảo khả năng thanh toán cho khách hàng của họ. b. Huy động vốn theo đối tượng - Huy động vốn từ dân cư Dân cư là đối tuợng huy động chủ yếu của ngân hàng. Những luồng vốn rải rác trong dân cư sẽ được quy tụ tại ngân hàng, đây chính là vai trò trung gian của ngân hàng. Ngân hàng đóng vai trò thu hút vốn nhỏ lẻ trong dân cư, trả lãi để được sử dụng vốn của họ. Nguồn huy động từ tất cả các tầng lớp dân cư sẽ làm phong phú cho các hoạt động của ngân hàng. Hình thức huy động này có hiệu quả cao hay không hoàn toàn phụ thuộc vào khả năng của ngân hàng. Nếu ngân hàng có khả năng và biện pháp thu hút khách hợp lý, có khả năng thoả mãn tốt nhất các nhu cầu của họ, tạo sự tin tưởng cho họ thì sẽ là liều thuốc hữu hiệu nhất đưa họ đến với ngân hàng. - Huy động vốn từ tổ chức trong nước Các tổ chức kinh tế có luồng tiền tạm thời nhàn rỗi trong quá trình kinh doanh, quá trình luân chuyển vốn, Ngân hàng sẽ sẵn sàng làm két sắt cho họ, hay tạm thời giữ vốn cho họ, và đây cũng là cơ hội cho ngân hàng thu lợi nhuận trên chính đồng vốn đó. Đây là nguồn vốn lớn và lại có chi phí thấp, nếu tăng cường các biện pháp thu hút và quản lý nguồn này tốt thì sẽ mang lại cho ngân hàng một kết quả tốt. Các tổ chức trong nước có thể là doanh nghiệp, các tổ chức, và cũng cỏ thể là cá tổ chức tín dụng. Ngân hàng có thể huy động bằng cách đi vay các tổ chức tín dụng khác trên thị trường, nó sẽ giải quyết khi ngân hàng có nhu cầu cấp bách mặc dù chi phí hơi cao. - Huy động vốn từ các tổ chức nước ngoài
  16. Ngân hàng tham gia liên kết với các tổ chức, các doanh nghiệp nước ngoài, hay cũng có thể làm trung gian, làm đại lý cho họ. Giữ vốn cho công trình đầu tư, giữ vốn uỷ thác, vốn để thanh toán hộ cho họ. Nghiệp vụ này tuy không sôi nổi nhưng nó cũng có thể huy động được số vốn khá lớn mặc dù nó không phải là nguồn vốn ổn đinh. c. Huy động vốn theo phương thức huy động - Huy động qua tiền gửi Tiền gửi là nguồn tiền chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn tiền của ngân hàng. Từ trước đến nay ngân hàng đã sử dụng nhiều biện pháp để gia tăng nguồn tiền gửi dưới nhiều hình thức khác nhau, cụ thể là: + Tiền gửi thanh toán: Đây là một trong những dich vụ nhận tiền gửi lâu đời nhất mà ngân hàng cung cấp là nhận tiền gửi để thực hiện thanh toán cho hộ cho khách hàng. Cá nhân hay doanh nghiệp gửi tiền vào ngân hàng với mục đích nhờ ngân hàng giữ hộ và thanh toán hộ. Khi khách hàng có nhu cầu, ngân hàng mở cho họ một tài khoản tiền gửi thanh toán, trên tài khoản này, tất cả các nghiệp vụ thu chi của khách hàng sẽ được cụ thể hoá. Khi có yêu cầu ngân hàng lập tức phải thanh toán các lệnh rút tiền cho 1 cá nhân hay bên thứ ba được chỉ rõ là người thụ hưởng trên số dư cho phép. Hiện nay để đa dạng hoá các tài khoản tiền gửi và tối đa hoá lợi ích người gửi tiền ngân hàng đã đưa ra nhiều hình thức tiền gửi thanh toán khác nhau. Ví dụ như tiền gửi thanh toán có thể phát hành Séc, tài khoản tiền gửi thanh toàn kết hợp với tài khoản cho vay… Tiền gửi thanh toán có đặc điểm lãi suất thấp hoặc có thể bằng không, tức là chi phí mà ngân hàng bỏ ra thấp mà lại mang lai nhiều tiện ích cho khách hàng và cả ngân hàng. + Tiền gửi có kỳ hạn của doanh nghiệp và các tổ chức xã hội Không phải lúc nào các khoản thu của doanh nghiệp hay tổ chức cũng được chi trả ngay, bên cạnh đó các khoản thu này thường lớn, nếu sử dụng nó với mục đích hợp lý thì có thể đem lại lợi ích cho cả ngân hàng và cả người gửi tiền.
  17. Để đáp ứng được nhu cầu này, Ngân hàng đã đưa ra hình thức gửi tiền có kỳ hạn cho doanh nghiệp và các tổ chức. Một chế độ lãi suất cao hơn sẽ được áp dụng và song hành với nó là một thời hạn được ấn định sẵn, tuỳ theo tình hình thực tế mà khách hàng có thể lựa chọn kỳ hạn 1 tuần, 2 tuần,1 tháng, 1 năm…Khi có nhu cầu cần sử dụng mà chưa đến hạn thì khách hàng vẫn có thể rút tuy nhiên sẽ phải chịu theo lãi suất không kỳ hạn. Hình thức này cũng mang lại cho ngân hàng nguồn thu nhập và lợi ích lớn. + Tiền gửi tiết kiệm của dân cư Tiền gửi tiết kiệm dân cư chiếm giữ vị trí hàng đầu trong nguồn vốn của Ngân hàng và là đề tài cạnh tranh gay gắt giữa họ. Các ngân hàng luôn xác định cho mình một chiến lược cạnh tranh để thu hút khách hàng gửi tiền. Đây là các khoản tiền tạm thời nhàn rỗi hoặc chưa được sử dụng trong các tầng lớp dân cư, họ gửi vào đây với mục đích bảo toàn và sinh lời. Tận dụng cơ hội này, các ngân hàng chuyển đổi kỳ hạn, tích tụ và tập trung vốn lại và đem cho vay. Như vậy ngân hàng đã thực hiện được vai trò trung gian của mình, là cầu nối giữa những người thiếu vốn và những người thừa vốn, là trung gian biến tiết kiệm thành đầu tư. Tuỳ theo thời hạn sử dụng mà ngân hàng có thể đưa ra nhiều hình thức lãi suất khác nhau như lãi tuần, lãi 1 tháng, lãi 3 tháng, lãi 6 tháng, lãi bậc thang… và vì thế khách hàng có thể lựa chọn các hình thức phù hợp nhất với họ. Nguồn tiền gửi này mang tính chất ổn định, chắc chắn, chủ động mặc dù lãi suất và chi phí cao hơn. Tuy nhiên các ngân hàng luôn xác định đây là nguồn an toàn nhất, đảm bảo nhất và cũng là chủ đạo nhất đối với nguồn vốn của họ. + Tiền gửi của các ngân hàng khác: Cùng tồn tại trong một nền kinh tế, cùng chịu ảnh hưởng của cơ chế thị trường đặc biệt cùng kinh doanh trên lĩnh vực nhạy cảm nhất của nền kinh tế, các NHTM cùng địa bàn không thể tách rời nhau mà họ cùng nhau hợp tác, trao đổi và liên kết với nhau. Họ có thể vay mượn lẫn nhau,thanh toán hộ cho nhau hay bù trừ cho nhau. Để quá trình ấy diễn ra mang lại hiệu quả cao, các ngân hàng thường mở cho họ một tài kkhoản tại ngân hàng bạn, khi co nhu cầu thanh toán với khách hàng
  18. họ có thể bù trừ cho nhau một cách nhanh gọn và thuận tiện nhất. Đây chính là một biện pháp tăng vốn hữu hiệu nhất cho ngân hàng. - Huy động bằng cách phát hành giấy tờ có giá + Trái phiếu ngân hàng: Là việc ngân hàng phát hành ra công chúng một loại công cụ nợ dài hạn thường là 5 đến 10 năm. Trên trái phiếu sẽ ghi rõ mệnh giá, lãi suất, thời gian đáo hạn. Lãi suất trái phiếu ngân hàng thường cao hơn hoặc ngang bằng trái phiếu Chính Phủ. Nguồn huy động này mang tính chất ổn định về thời gian, lượng vốn thu về lớn song chi phí bỏ ra cũng khá lớn. + Kỳ phiếu ngân hàng: Đây là hình thức huy động với kỳ hạn ngắn hơn, lãi suất cao hơn lãi suất tiết kiệm, dễ chuyển thành tiền mặt khi cần thiết và nó được các nhà đầu tư rất ưa thích. + Chứng chỉ tiền gửi: Đây là giấy xác nhận khoản vay của ngân hàng, có xác nhận về lãi suất, số tiền vay, ngày đáo hạn. Trước đây lãi suất của các loại chứng chỉ này là cố định nhưng để phù hợp với điều kiện và thích hợp hơn cho khách hàng thì nó có thể mang lãi suất theo thoả thuận. Hình thức này mang tính chất đầu tư ngắn hạn, hấp dẫn các nhà kinh doanh nhỏ và hộ gia đình. Bên cạnh đó thời gian đáo hạn là cố định nên nó đem lại nhiều tiện ích cho ngân hàng. - Vay từ NHTW và các tổ chức tín dụng khác: + Vay NHTW: Khi cần vốn cấp bách để đảm bảo khả năng thanh toán thì NHTM có thể vay trên NHTW bằng cách tái chiết khấu giấy tờ có giá hoặc được tái cấp vốn. + Vay các tổ chức tín dụng khác: Các ngân hàng thương mại vay vốn của lẫn nhau và của các tổ chức tín dụng khác để đảm bảo chi trả. Hình thức này không cần đảm bảo, vốn huy động là tương đối và cũng chỉ thực hiện khi cần nhất. - Tăng vốn chủ sở hữu Ngân hàng có thể tăng vốn của mình bằng cách giữ lại lợi nhuận không chia để tăng thêm nguồn vốn chủ sở hữu, hoặc là có thể phát hành thêm cổ phần, cổ phiếu. Đây là hình thức huy động khi cần thiết để đảm bảo hoạt động của Ngân
  19. hàng, gia tăng uy tín và năng lực trên thị trường. Nguồn vốn này không mất phí hoặc phí rất thấp, tuy nhiên huy động phức tạp. - Hình thức khác: Ngoài những hình thức phổ biến trên, ngân hàng còn có thể huy động vốn qua các hoạt động kinh doanh, các hợp đồng uỷ thác, các hình thức thanh toán. Ngày nay với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, hình thức này càng được chú ý và đem lại hiệu quả lớn. d. Huy động vốn theo loại tiền: Ngân hàng có thể huy động vốn theo loại tiền, ngoài hình thức phổ biến và chủ đạo là tiền của quốc gia, Ngân hàng có thể thu hút thêm các loại ngoại tệ khác, USD, EURO,…Nguồn này xuât phát từ đặc điểm kinh tế của từng quốc gia mà có quy định khác nhau.Tuy nhiên phương thức huy động như thế nào còn phải tuỳ thuộc vào tình hình kinh tế của từng thời kỳ. Các ngân hàng thương mại nước ta thường chia làm 2 mảng đó là: - Tiền gửi bằng VNĐ - Tiền gửi bằng ngoại tệ Trên cơ sở xác định mức phí ngân hàng sẽ đưa ra lãi suất và kỳ hạn hợp lý với từng loại tiền. 1.2.2.2 Một số chỉ tiêu đánh giá huy động vốn - Quy mô huy động vốn Câu hỏi đầu tiên khi giới thiệu về một doanh nghiệp dù hoạt động trong bất kỳ một lĩnh vực nào cũng đều là: Quy mô hoạt động như thế nào? Nhắc đến ngân hàng thì quy mô đó chính là quy mô về vốn. Mục đích cuối cùng của họ là tối đa hoá lợi nhuận, tối đa hoá giá trị tài sản, mà để làm được điều đó thì phải mở rộng kinh doanh, nâng cao hiệu quả và chất lượng huy động vốn. Mỗi ngân hàng có một quy mô và tốc độ thay đổi quy mô vốn khác nhau. Các ngân hàng lớn có quy mô nguồn vốn lớn nhưng tốc độ tăng nguồn thường không cao như các ngân hàng nhỏ. Những ngân hàng ở trung tâm hoạt động tiền tệ tín dụng thường có quy mô và tốc độ tăng vốn cũng khác. - Cơ cấu huy động vốn
  20. Gia tăng nguồn vốn theo chuẩn mực nào đó là một chỉ tiêu phản ánh chất lượng hoạt động của ngân hàng, là điều kiện cơ bản để ngân hàng mở rộng quy mô hoạt động, nâng cao tính thanh khoản và tính ổn định của nguồn vốn. Vì vậy các ngân hàng luôn phải lập cho mình một cơ cấu vốn hợp lý và an toàn. Nguồn vốn có nhiều kỳ hạn khác nhau, mỗi loại có một đặc điểm riêng, để xác định nguồn nào sử dụng cho chiến lược nào là hợp lý thì tuỳ thuộc vào cách xác định của chủ ngân hàng. Khi ngân hàng thường xuyên huy động nguồn vốn ngắn hạn, tính lỏng cao thì sẽ khó khăn trong việc cho vay trung và dài hạn, Ngân hàng sẽ phải chuyển đổi kỳ hạn sao cho hợp lý nhất. Xác định cơ cấu vốn thế nào cho phù hợp nhất với danh mục đầu tư, phong tránh rủi ro thanh khoản luôn là yêu cầu cần thiết. Bên cạnh đó các ngân hàng còn xem xét tỷ lệ vốn huy động theo loại tiền. Thời gian và diễn biến của môi trường cạnh tranh cho ngân hàng quyết định nên huy động thêm ngoại tệ hay ngừng huy động ngoại tệ. Việc cất trữ và cho vay ngoại tệ chụi ảnh hưởng của diễn biến vể tỷ giá, tình hình lạm phát…của từng thời kỳ. - Chi phí huy động vốn Chi phí của nguồn vốn huy động là nhân tố quyết định đến chất lượng của nguồn vốn. Bên cạnh sự an toàn, khách hàng luôn có xu hướng tìm đến ngân hàng có lãi suất cao nhất để gửi tiền, để họ có thể thu được số lãi là cao nhất. Có nhiều ngân hàng đưa ra biện pháp điều chỉnh mức lãi suât bằng cách mạnh dạn cải thiện biên độ giao động của lãi suất đầu ra để từ đó có thể tăng lãi suất đầu vào mà họ vẫn có lãi, tuy vậy điều này không phải là đơn giản. Huy động nguồn có chi phí thấp thì ngân hàng thu được lợi nhuân cao, có thể mở rộng cho vay và đầu tư và ngược lại. Tuy nhiên nhân tố cơ bản quyêt định chi phí đó chính là lãi suất. Chính sách lãi suất phù hợp luôn là cơ sở cho hoạt động huy đọng vốn trong ngân hàng. 1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến huy động vốn của NHTM Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn của ngân hàng. Ở đây ta có thể chia thành hai nhóm nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn của NHTM đó là:
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2