intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN: Giải pháp phù hợp để giải quyết vấn đề tôn giáo Cao Đài

Chia sẻ: Nguyen Hai | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:91

337
lượt xem
118
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tham khảo luận văn - đề án 'luận văn: giải pháp phù hợp để giải quyết vấn đề tôn giáo cao đài', luận văn - báo cáo, thạc sĩ - tiến sĩ - cao học phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN: Giải pháp phù hợp để giải quyết vấn đề tôn giáo Cao Đài

  1. LUẬN VĂN: Giải pháp phù hợp để giải quyết vấn đề tôn giáo Cao Đài
  2. Mở Đầu 1. Tính Cấp Thiết Của Đề Tài Tôn giáo hiện là một vấn đề phức tạp nhưng lại rất nhạy cảm trong mỗi nước và trên thế giới.Việc giải quyết đúng đắn vấn đề tôn giáo là yêu cầu vừa cấp bách vừa lâu dài của sự nghiệp phát triển đất nước. Cao Đài là một tôn giáo rất trẻ, xuất hiện vào đầu thế kỷ XX (1926) tại Nam Bộ. Ngay những ngày đầu thành lập, tôn giáo này đã lôi cuốn ồ ạt hàng vạn người, sau đó trở thành một trong những tôn giáo lớn ở Việt Nam. Tính đến năm 1975, chưa đầy nửa thế kỷ đã thu nạp gần 3 triệu tín đồ. Đây được xem là hiện tượng xã hội đặc biệt thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu văn hóa và lịch sử ở Việt Nam. Là một tôn giáo địa phương nhưng Cao Đài có bộ máy hành chính đạo khá chặt chẽ và hoàn chỉnh như bộ máy nhà nước từ Trung ương đến cơ sở. Lịch sử giáo hội tuy ngắn ngủi, song có thời kỳ lại cấu kết với đế quốc phản động để chống phá cách mạng. Bảy thập kỷ trôi qua với bao chuyển biến lớn lao của thời cuộc, đạo Cao Đài cũng biến động phức tạp. Vì vậy việc nghiên cứu tôn giáo Cao Đài, trong đó việc tìm hiểu ảnh hưởng của nó đối với đời sống tinh thần trong nhân dân, đặc biệt đối với đồng bào có đạo là đề tài có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấ p bách. Dựa vào quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo làm cơ sở lý luận, lấy phép biện chứng duy vật làm phương pháp phân tích, kết hợp giữa phương pháp lôgíc và lịch sử để diễn đạt, luận văn cố gắng trình bày lịch sử hình thành và phát triển, những biểu hiện và xu hướng biến đổi của đạo Cao Đài, đặc biệt phân tích ảnh hưởng của đạo Cao Đài đối với đời sống tinh thần ở Tây Ninh hiện nay. Trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp phù hợp để giải quyết vấn đề tôn giáo Cao Đài, góp phần xây dựng và phát triển đời sống tinh thần của nhân dân một cách phong phú lành mạnh.
  3. 2. Tình Hình NGHIÊN Cứu Đề Tài Hiện nay có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề này ở nhiều khía cạnh khác nhau. Có thể dẫn ra: Ông Trần Văn Giàu với tác phẩm "Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ XIX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945" (KHXH 4/1975); Nguyễn Thành Danh viết về "Sự thật của một giáo phẩm", xí nghiệp in Hoàng Lê Kha - Tây Ninh năm (1978); Giáo sư Trần Quang Vinh "Lịch sử của đạo Cao Đài (1926-1937)"; Lê Anh Dũng "Lịch sử đạo Cao Đài thời kỳ tiềm ẩn (1920-1926)"; Nguyễn Chí Mỳ "Tôn giáo và hiện thực - một số những vấn đề đặt ra hiện nay", Tạp chí Triết học (số 2-1998); Giáo sư Đặng Nghiêm Vạn "Đạo Cao Đài một khách thể một thế ứng xử", (30/10/1993); Hiến Chương Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Tòa thánh Tây Ninh (1997); "Một số tôn giáo lớn ở Việt Nam", Ban Tôn giáo Chính phủ, Hà Nội (1995); "Những vấn đề tôn giáo hiện nay", Viện nghiên cứu tôn giáo, NXB KHXH (1994); "Các hình thức tôn giáo sơ khai và sự phát triển của chúng", NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội (1994); Giáo sư Đặng Nghiêm Vạn "Bước đầu tìm hiểu đạo Cao Đài" NXB KHXH (1995); cùng một số luận văn về tôn giáo Cao Đài như: Nguyễn Văn Ron: "Bước đầu tìm hiểu một số biểu hiện đặc thù của đạo Cao Đài" (1995); Võ Văn Phuông "Đạo Cao Đài và quá trình đấu tranh loại bỏ mặt chính trị phản động của giáo phái Cao Đài Tây Ninh trong giai đoạn cách mạng hiện nay" (1995); Lê Ngọc Hòa "Lễ hội Cao Đài Tây Ninh (1997)"... Những công trình đó đã đề cập nhiều khía cạnh quan trọng của các yếu tố về tôn giáo nói chung và Cao Đài nói riêng. Tuy nhiên thực trạng luôn đặt ra nhiều vấn đề và trên thực tế chưa có nhiều công trình đi sâu nghiên cứu đạo Cao Đài dưới góc độ triết học. Đó là sự bỏ ngỏ của chúng ta về nhận thức, khi thực tế những tín đồ Cao Đài ở miền Nam có đến hơn 2 triệu người. Vì vậy đề tài này muốn góp một tiếng nói nhỏ vào sự nghiên cứu đạo Cao Đài dưới góc độ triết học. 3. Mục Đích Nhiệm Vụ NGHIÊN Cứu Của Luận VĂN
  4. Mục đích: Trên cơ sở làm sáng tỏ nguồn gốc, đặc điểm của đạo Cao Đài, luận văn phân tích những ảnh hưởng của nó đối với đời sống tinh thần ở Tây Ninh. Từ mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ sau đây: - Trình bày nguồn gốc và đặc điểm của đạo Cao Đài. - Phân tích ảnh hưởng của đạo Cao Đài đối với đời sống tinh thần ở Tây Ninh. - Đề xuất một số giải pháp để xây dựng đời sống tinh thần ở Tây Ninh liên quan đến ảnh hưởng của đạo Cao Đài. 4. CƠ Sở Lý Luận Và PHƯƠNG Pháp NGHIÊN Cứu - Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm về tôn giáo của Đảng cộng sản Việt Nam nhất là trong các văn kiện đại hội VI, VII, VIII, các Nghị định văn bản của Chính phủ về tôn giáo để phân tích những vấn đề đặt ra. - Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, trong đó đặc biệt chú trọng phương pháp phân tích và tổng hợp, kết hợp lịch sử với lôgíc. 5. Đối Tượng Phạm VI NGHIÊN Cứu Đây là một công trình nghiên cứu về tôn giáo Cao Đài Tây Ninh, dưới góc độ triết học. Đạo Cao Đài có mặt ở nhiều địa phương nhưng tập trung nhất vẫn là ở Tây Ninh. Do vậy đề tài nghiên cứu giới hạn ở Cao Đài Tây Ninh. Sự khảo sát cũng chủ yếu là những ảnh hưởng của đạo Cao Đài đối với đời sống tinh thần trong nhân dân tỉnh Tây Ninh. 6. Đóng Góp Của Luận VĂN - Đóng góp về mặt khoa học: Luận văn góp phần làm sáng tỏ thêm sự hình thành phát triển và những đặc điểm của đạo Cao Đài.
  5. - Bước đầu phân tích đánh giá những ảnh hưởng của đạo Cao Đài với đời sống tinh thần ở Tây Ninh, từ đó đề xuất một số giải pháp để xây dựng, phát triển đời sống tinh thần của nhân dân ở địa phương. * ý nghĩa thực tiễn của luận văn. Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và học tập triết học nhất là chuyên đề về tôn giáo. Luận văn cũng sẽ bổ ích cho những nhà hoạch định chủ trương chính sách đối với công tác tôn giáo, nhất là đạo Cao Đài. 7. Kết cấu Của Luận VĂN Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm 3 chương, 7 tiết.
  6. Chương 1 Lịch Sử Hình Thành Phát Triển Và Những Đặc Điểm Của Đạo CAO Đài Từ giữa thế kỷ XIX cho đến nay, không riêng gì ở Việt Nam, trên thế giới xuất hiện nhiều thứ đạo cùng với sự tiếp tục tồn tại các tôn giáo cũ, hàng loạt các giáo phái mới ra đời. Nhiều phong trào xã hội, chính trị xuất hiện mang màu sắc tôn giáo. Theo thống kê, chỉ riêng trong thế kỷ XX, trên thế giới có trên ba, bốn ngàn hiện tượng tôn giáo lớn nhỏ ra đời nhưng số trụ lại được với thời gian không nhiều chỉ khoảng hơn chục đạo tồn tại với số tín đồ khiêm tốn, phần đông là từ các tôn giáo khác tách ra. Những tôn giáo đó đều có chung một đặc điểm là: phải dựa vào các tôn giáo truyền thống ở nơi xuất phát, biến đổi ít nhiều về mặt giáo lý và nghi thức, dưới nhãn hiệu cải cách, canh tân, thêm hoặc bớt những yếu tố trong điều kiện xu thế giao lưu văn hóa được mở rộng. Các đạo giáo mới đó tìm ra được mục đích hấp dẫn bằng nhiều vẻ: cả về tôn giáo, chính trị, kinh tế, văn hóa..., trước hết với quần chúng tại chỗ, sau đó mới phát triển ra bên ngoài. Những tôn giáo đứng được phụ thuộc nhiều vào bản thân (nội dung, hình thức), vào các nhân vật sáng lập và nhất là đáp ứng được tâm lý xã hội của quần chúng tín đồ. ở đó quần chúng thấy được một cái gì hấp dẫn (tuy có thể nhiều hay ít) so với các tôn giáo cùng thời. Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ gọi tắt là đạo Cao Đài, một tôn giáo rất trẻ xuất hiện vào đầu thế kỷ XX trên mảnh đất Nam Bộ, đã tồn tại và phát triển được do đáp ứng được những nhu cầu này, do đã tìm ra được một lực thu hút, một cung cách thích hợp tâm linh tôn giáo của những người nông dân tứ xứ Nam Bộ, trong đó có Tây Ninh. 1.1. Hoàn Cảnh KINH Tế Xã Hội Với Sự Hình Thành Và Phát Triển Của Đạo CAO Đài Sự xuất hiện của một tôn giáo mới hay một hiện tượng tôn giáo không bao giờ là điều ngẫu nhiên, mà nó được qui định bởi một bối cảnh lịch sử nhất định nhằm đáp ứng nhu cầu tâm lý, tín ngưỡng của một bộ phận cộng đồng dân cư, cộng
  7. đồng lãnh thổ trước khi trở thành phổ biến. Chính vì thế, đạo Cao Đài cũng như các tôn giáo khác chỉ là hình thái ý thức xã hội ra đời gắn liền với quá trình phát triển của xã hội. Suy cho cùng sự ra đời, phát triển và mất đi của một tôn giáo là do sự phát triển của điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội nhất định. Muốn tìm nguồn gốc ra đời của tôn giáo nào phải tìm ngay ở "thế giới trần tục" chứ không phải ở đấng siêu nhiên nào. Khoa học mác xít kiên quyết bác bỏ những lời khẳng định thiếu khoa học của những nhà thần học rằng: tôn giáo ra đời do ý định của đấng siêu nhiên nào đó. Ăngghen nói: "Bất cứ tôn giáo nào cũng đều chỉ là sự phản ánh hư ảo vào đầu óc người ta những sức mạnh ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ, chỉ là sự phản ánh mà trong đó có sức mạnh ở thế gian mang hình thức siêu thế gian" [1, 547-549]. Luận điểm trên giúp cho ta hướng nghiên cứu vào điều kiện kinh tế - chính trị - tư tưởng cho sự xuất hiện tôn giáo nói chung và đạo Cao Đài nói riêng. Nói cách khác, sự xuất hiện và phát triển của đạo Cao Đài có thể lý giải bằng chính môi trường sinh ra nó. Hoàn cảnh kinh tế - chính trị - xã hội Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, Pháp là nước thắng trận song cũng là nước bị tổn thất nặng nề nhất, lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng. Để hàn gắn vết thương chiến tranh, đế quốc Pháp ra sức bóc lột thuộc địa ở Đông Dương nơi có thể đáp ứng được những đòi hỏi của thị trường thế giới lúc bấy giờ. Trong đó Việt Nam là một trong những trọng điểm của chính sách bóc lột ấy, trở thành miếng mồi ngon cho bọn tư bản tài chính Pháp. Tình hình đó dẫn đến những biến đổi lớn về chính trị, kinh tế, xã hội nước ta thời bấy giờ. Vào những năm cuối của thế kỷ XIX và khoảng 20 năm đầu của thế kỷ XX, xã hội Việt Nam là xã hội thuộc địa của chủ nghĩa thực dân cũ của Pháp. Khác với Trung bộ, Bắc bộ, Nam Bộ là nơi thực dân Pháp áp đặt quyền cai trị trực tiếp với một bộ máy giúp việc người Việt. Trong lĩnh vực nông nghiệp, thực dân Pháp không xóa bỏ địa chủ phong kiến mà duy trì dung dưỡng để biến chúng thành tên lính xung kích trong việc cướp ruộng đất của nông dân và bóc lột sức lao động của nhân dân ta. Chúng đầu tư và mở rộng một số xí nghiệp công thương nghiệp sẵn có,
  8. đặc biệt là mở ra những đồn điền cao su ở vùng đất đỏ Nam kỳ và Cao Miên, chiếm đoạt hàng loạt mẫu ruộng, đất rừng, đồng cỏ, cùng với nó là thi hành chế độ mộ phu cực kỳ tàn bạo. Chính sách thuế khóa nặng nề, hàng trăm thứ thuế bất công được đặt ra, các độc quyền rượu, thuốc phiện, muối, vừa thâm độc vừa tàn ác, vừa đem lại nhiều lợi nhuận cho ngân khố thực dân Pháp, vừa đầu độc dân ta về thể xác lẫn tinh thần. Chính sách thuế nặng nề, cộng với nạn cho vay nặng lãi mà thủ phạm chính là ngân hàng Đông Dương của chủ nghĩa tư bản tài chính Pháp đã bao trùm lên làng quê Việt Nam như một bệnh dịch khủng khiếp. Nông dân mất đất, một số ít vào nhà máy, xí nghiệp hầm mỏ đồn điền của Pháp và của một số tư bản Việt Nam để bán sức lao động trở thành người công nhân, còn đại đa số trở thành những tá điền bán sức lao động ngay trên mảnh đất của chính mình trước đây, hoặc lang thang vất vưởng không có việc làm. Tất cả các giai cấp trong xã hội Việt Nam lúc đó tuy mức độ khác nhau, hoặc ít hoặc nhiều có mâu thuẫn với thực dân Pháp. Mâu thuẫn cơ bản trong thời kỳ này là mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp và mâu thuẫn giữa nông dân và địa chủ. Nhưng mâu thuẫn nổi lên, mâu thuẫn chủ yếu vẫn là giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với bọn đế quốc xâm lược Pháp. Tình hình ấy đã đưa cuộc đấu tranh của tầng lớp nhân dân nhất là ở Nam Bộ chống thực dân Pháp ngày càng quyết liệt. Tuy nhiên, do hạn chế của giai cấp mình, nông dân không thể tự giải phóng được. Lúc đó lại chưa có sự lãnh đạo dìu dắt của Đảng cộng sản - một chính Đảng của giai cấp vô sản, do vậy, cuộc đấu tranh của nhân dân lần lượt bị thực dân Pháp dìm trong bể máu. Bế tắc trong cuộc sống và bế tắc trong đấu tranh chống thực dân Pháp càng thúc đẩy số đông quần chúng tìm đến tôn giáo, trong đó đạo Cao Đài, những mong được sự an ủi che chở, do tôn giáo này khi mới xuất hiện ít nhiều mang tính phản kháng xã hội đương thời. Một vấn đề tư tưởng quan trọng dẫn đến sự ra đời và phát triển của đạo Cao Đài là sự khủng hoảng, suy thoái của các tôn giáo, đạo lý đương thời. Nhân dân
  9. Nam Bộ có nhu cầu tín ngưỡng rất lớn. Khi đạo Cao Đài chưa ra đời, số đông nhân dân theo đạo Phật, đạo Nho và một số ít theo đạo Công giáo. Nhưng đến giai đoạn này, những tôn giáo ấy mất dần uy tín vì chậm thích nghi với sự phát triển của xã hội. Đạo Công giáo lúc đó dưới mắt của người Nam Bộ, gắn liền với sự xâm lược của thực dân Pháp, nên bị nghi ngờ, thậm chí khinh ghét. Đạo Nho là một học thuyết đạo đức, chính trị chỉ phù hợp với chế độ quân chủ nông nghiệp, đến nay không còn thích hợp với nhân dân Nam Bộ đang chuyển sang nền kinh tế thị trường với sự phát triển của công nghiệp và xu hướng Âu hóa (do Pháp áp dụng ở Nam kỳ chế độ thuộc địa trực trị). Đạo Phật tiểu thừa tại chỗ với phương châm "Tự độ, tự tha" chỉ giải thoát cho ai xuất gia tu hành, khó hòa nhập với phong tục, lối sống của người Nam Bộ. Đạo Phật Đại thừa bị suy vị từ mấy thế kỷ trước, nay lại chia rẽ thêm nhiều tông phái, nhất là sự xâm nhập các yếu tố mê tín dị đoan của đạo Lão. Đạo thờ cúng tổ tiên trong đó có đạo ông bà, tuy gần gũi nhưng chưa đủ thỏa mãn tâm linh tôn giáo... Nói tóm lại, sự suy sụp của các tôn giáo và đạo lý đương thời đã tạo ra khoảng trống về tư tưởng tín ngưỡng, tạo điều kiện cho đạo Cao Đài ra đời và phát triển. Tham gia trực tiếp vào việc hình thành đạo Cao Đài còn có tục cầu hồn, cầu tiên và nhất là tư tưởng "Tam giáo đồng nguyên" (Phật, Lão, Nho) vốn có ở nước ta từ lâu đời. Đặc biệt, từ đầu năm 1920, phong trào "Thần linh học" một hình thức mê tín của các nước phương Tây, tương tự như tục cầu hồn, cầu tiên, đã thâm nhập vào Nam Bộ, được đông đảo tầng lớp trung lưu: tư sản, địa chủ, tiểu tư sản, công chức đón nhận. Nó nhanh chóng hòa nhập với tục cầu tiên, trở thành phong trào "cầu cơ" - "chấp bút" (gọi tắt là cơ bút) phát triển khá sôi nổi trong những năm 1924 - 1925 - 1926 ở vùng Sài Gòn, Gia Định, Cần Thơ, Mỹ Tho, Tân An... dẫn đến việc ra đời đạo Cao Đài. Có thể nói sự ra đời và phát triển của đạo Cao Đài ở Nam Bộ vào những năm đầu thế kỷ XX là do tổng hợp những nguyên nhân. Đó là: sự bế tắc của nhân dân trong cuộc sống; đấu tranh chống thực dân Pháp thất bại do chưa có đường lối chính trị đúng đắn soi đường; sự thoái hóa của các tôn giáo đương thời và truyền
  10. thống "tam giáo đồng nguyên". Cộng vào đó, là tục cầu hồn, cầu tiên và sự thâm nhập của tâm linh học... Nếu không có những nguyên nhân trên thì một nhóm tư sản, địa chủ, tiểu tư sản, công chức Pháp - những người sáng lập đạo Cao Đài cũng không thể ra đời và phát triển được. Nhìn chung, đạo Cao Đài ra đời trong bối cảnh lịch sử nhất định và phát triển mạnh mẽ trong cộng đồng dân cư Nam Bộ dưới chiêu bài hòa bình, tự do, dân chủ. Cơ sở của đạo Cao Đài là người nông dân yêu nước, trong khi hạt nhân lãnh đạo lại là những tri thức công chức, do Pháp đào tạo và làm việc cho Pháp, cho nên định hướng của từng chi phái chịu ảnh hưởng khá mạnh tinh thần yêu nước hay mưu cầu danh lợi cá nhân của hạt nhân lãnh đạo. Về mặt tín đồ, theo số liệu Ban Dân vận Trung ương đến năm 1975 số tín đồ Cao Đài đã lên đến 3 triệu người. Lực lượng đông đảo tín đồ là quần chúng nông dân lao động yêu nước, họ vào đạo vì nhiều lý do khác nhau, có thể vì mê tín, vì lầm lạc, vì mâu thuẫn giai cấp, vì lợi ích riêng tư, hoặc bị cưỡng ép phải "nhập môn". Bản chất của tín đồ là tốt, mong muốn độc lập, tự do, hạnh phúc. Người tín đồ Cao Đài gắn bó với đạo vì tư tưởng đoàn kết tương trợ, thương yêu đùm bọc lẫn nhau trong sản xuất và trong sinh hoạt xã hội. Song, trong quá trình theo đạo họ bị đầu độc bằng giáo lý mơ hồ, phản động, bằng luận điệu chống cộng, bị quyến rũ bằng lợi ích vật chất, bị khống chế, kìm kẹp bởi bộ máy hành chính đạo và ngụy quân, ngụy quyền. Vì thế nhiều người, đôi khi họ nhìn cách mạng, một cách sai lệch, lẫn lộn giữa bạn và thù. Một vấn đề quan trọng là đạo Cao Đài dù phát triển khá nhanh và mạnh nhưng không phải tuyệt đại đa số nhân dân một khu vực hành chính nào đó đều là tín đồ Cao Đài. Ngay tỉnh Tây Ninh, tín đồ Cao Đài chỉ chiếm dưới 50% dân số (thống kê tín đồ Cao Đài các tỉnh Nam Bộ năm 1943, 1966, 1993 cũng cho thấy tình hình như thế). Phát triển ra miền Trung và miền Bắc Việt Nam thì kết quả không cao lắm vì bối cảnh ra đời của đạo Cao Đài liên quan chặt chẽ đến cư dân Nam Bộ. Tình hình trên cùng nội dung của giáo lý Cao Đài trong bước đầu xây dựng chưa được trọn vẹn, nếu không có sự thay đổi sẽ không còn sức thuyết phục, nếu trình độ dân trí được nâng cao, nhất là khi những yếu tố công nghiệp và khoa học kỹ thuật len dần vào nông thôn. Đó là điều cần suy nghĩ về tương lai của đạo Cao Đài [46, 145].
  11. 1.2. Những Đặc Điểm của Đạo CAO Đài Ra đời năm 1926 đến nay đạo Cao Đài vẫn tồn tại như một tôn giáo ở Việt Nam và được Nhà nước công nhận. Tòa thánh Cao Đài Tây Ninh, Trung ương của phái Cao Đài Phổ Độ do Phạm Công Tắc, Lê Văn Trung và Cao Hoài Sang lãnh đạo là nơi sinh hoạt mạnh mẽ nhất của đạo Cao Đài, với sự tập trung tín đồ cao nhất và là chi gốc từ đó phân tách ra hầu hết các hệ phái khác. Vì vậy, có thể nói Cao Đài Tây Ninh mang tính tiêu biểu cho những đặc điểm sinh hoạt tôn giáo của đạo Cao Đài, vì hầu hết các hệ phái đều xây dựng giáo hội theo Pháp chánh truyền - Tân luật được xây dựng từ những năm đầu thành lập đạo. 1.2.1. Những nét tương đồng và khác biệt của đạo Cao Đài đối với các tôn giáo khác - Xét về nguồn gốc: đạo Cao Đài ra đời cũng giống như các tôn giáo lớn khác là đều bắt nguồn từ hiện thực xã hội. Đạo Phật ra đời ở ấn Độ bắt nguồn từ những trào lưu tư tưởng chống lại chế độ đẳng cấp và đạo Bà La môn; Đạo Công Giáo ra đời khoảng thế kỷ thứ IV - II (trước công nguyên), do những mâu thuẫn cơ bản, sâu sắc và quyết liệt giữa chủ nô và nô lệ. Nó đã bùng nổ thành các cuộc khởi nghĩa vũ trang mang tính quần chúng rộng rãi chống lại các giai cấp chủ nô và quân xâm lược không chỉ ở những vùng bị chinh phục mà ngay cả chính quốc. Tuy nhiên, đế quốc La Mã lúc đó còn rất mạnh đã nhanh chóng đàn áp các cuộc khởi nghĩa một cách dã man tàn bạo. Trong tâm trạng mệt mỏi và tuyệt vọng, quần chúng lao khổ trông chờ vào sự giúp đỡ của lực lượng siêu nhiên, một vị thần hay một đấng cứu thế để đánh đổ đế quốc La Mã, giải phóng dân tộc xây dựng một vương quốc của sự công bằng. Tôn giáo ra đời trong hoàn cảnh như thế. Đối với đạo Cao Đài cũng xuất phát từ hoàn cảnh chính trị xã hội, nhưng nguyên nhân ra đời của đạo Cao Đài là một vấn đề còn có cách nhìn nhận khác nhau. Theo thống kê của Fayne Su san Werner trong giới sáng lập Cao Đài có 39% là địa chủ; 37% là tiểu tư sản; 8% là kỳ hào; 16% là các nhân vật hoạt động tôn giáo [34, 2].
  12. Như vậy trong chừng mực nhất định cũng có thể so sánh sự ra đời của Đạo Cao Đài với đạo Ki tô sơ kỳ -phong trào của nô lệ và các dân tộc Phương Đông chống lại sự xâm lược của Đế quốc La Mã thời Cổ đại. Tuy nhiên có sự khác nhau giữa đạo Ki tô và đạo Cao Đài. Đạo Ki tô do những người nô lệ khởi xướng, còn đạo Cao Đài do những tầng lớp trên (tư sản, địa chủ, tiểu tư sản) chủ trương. - Xét về tính chất chính trị: Các tôn giáo theo mức độ đều mang bản sắc hoặc ảnh hưởng ít nhiều tính chất chính trị sâu sắc, nhưng đối với đạo Cao Đài màu sắc chính trị lại nổi bật. Biểu hiện trước hết đạo Cao Đài là sản phẩm của giai cấp địa chủ và tư sản. Với tổ chức này họ đầu cơ chính trị, lợi dụng sự bế tắc của nhân dân Nam Bộ trong cuộc đấu tranh yêu nước, để qui tụ lực lượng thực hiện ý đồ giành quyền lãnh đạo chính trị trong những năm 20 của thế kỷ XX này, còn tôn giáo chỉ là cái vỏ bên ngoài. Cụ thể là những người thành lập và cầm đầu đạo Cao Đài đã ngày càng đi sâu vào hoạt động chính trị. Họ thành lập quân đội và luôn hướng về phía cải lương, muốn biến Cao Đài thành quốc đạo với mục tiêu là thiết lập chế độ quân chủ ở Việt Nam. Với xu hướng đó mặc dù là một tôn giáo, nhưng những người cầm đầu Cao Đài đã xây dựng hội thánh với cả bộ máy có tổ chức từ Trung ương đến địa phương giống như một kiểu Nhà nước quân chủ lập hiến hoàn chỉnh. Bộ máy này có phân biệt nhiệm vụ, chức năng, quyền hạn của từng cơ quan, cũng như thứ bậc của từng chức sắc, rõ ràng tỷ mỷ với ý đồ là khi giành chính quyền, họ sẽ dùng bộ máy hành chính đạo thay cho bộ máy Nhà nước. Trong quá trình hình thành và phát triển Cao Đài có hàng loạt các tổ chức chính trị như: "Việt Nam Phục Quốc" "Liên tôn chống cộng", "Hòa bình chung sống", "Mặt trận thống nhất toàn lực quốc gia", và hàng loạt các tổ chức chính trị khác kể cả việc thành lập quân đội Cao Đài. Điều đó thể hiện rõ tính chất chính trị của đạo Cao Đài hết sức rõ nét. Nét tiêu biểu nhất của tính chất chính trị của đạo Cao Đài trong quá trình hoạt động là vọng ngoại và chống cộng sản. - Xét về đặc điểm giáo lý và sự thờ phụng: Giáo lý đạo cao Đài không có hệ thống các tín điều có chiều sâu dựa trên những cơ sở triết học, thần học như những tôn giáo khác. Những điều đạo Cao Đài coi là giáo lý bao gồm những khái niệm về
  13. "tam giáo", "ngũ chi", "Cao Đài". "Cao Đài Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ",... chỉ là sự vay mượn, kết hợp giáo lý tôn giáo, tín ngưỡng Cổ, Kim, Đông, Tây (phần này sẽ trình bày rõ hơn trong phần đặc điểm về giáo lý và sự thờ phụng). - Xét mối quan hệ giữa đạo Cao Đài với các tôn giáo khác trên địa bàn tỉnh Tây Ninh: Với lịch sử hình thành phức tạp, nhiều cộng đồng dân cư, Tây ninh tồn tại nhiều tín ngưỡng dân gian và sự tồn tại, phát triển của 4 tôn giáo lớn: Ki tô giáo, Phật giáo, Hồi giáo và Cao Đài. Các tôn giáo đều có đối tượng tín đồ riêng, những cơ sở thờ phụng riêng được Nhà nước công nhận và hoạt động theo luật đạo, theo chính sách tôn giáo của Nhà nước.Thế nhưng không thể phủ nhận vai trò chủ đạo của đạo Cao Đài trên địa bàn tỉnh Tây Ninh với số lượng tín đồ đông đảo, thánh đường lộng lẫy nguy nga, và trung tâm của một tôn giáo bản địa. Mối quan hệ giữa đạo Cao Đài với các tôn giáo khác trên cùng địa bàn do vậy cũng hết sức phức tạp thể hiện ở những điểm sau đây: Với tư tưởng "Tam giáo đồng nguyên" hay "Tam kỳ phổ độ" trên điện thờ của đạo Cao Đài có mặt đấng thiêng liêng của các tôn giáo khác. Có những ngày lễ hội tôn giáo Cao Đài cũng như ngày kỷ niệm các tôn giáo khác như: Vía Đức phật thích ca (ngày 15 tháng 4),và Đức Jesus chirst (ngày 25 tháng 12). Tuy nhiên các tôn giáo vẫn giữ khoảng cách với đạo Cao Đài vì ngay từ những ngày đầu thành lập, Cao Đài đã muốn tạo dựng một tôn giáo bao trùm lên toàn thể các tôn giáo khác và đã thật sự lấn át các tôn giáo đương thời ở Tây Ninh. Với đạo Phật, đạo Cao Đài có nhiều va chạm, ngay từ những ngày khai đạo. Lợi dụng suy yếu của Phật giáo, đạo Cao Đài tự xưng là Phật giáo canh tân, lấy thế của các quan lại hào lý không những chiếm tín đồ mà còn cả chùa chiền của đạo Phật, gây nên sự bất mãn của các nhà sư, các nhà Phật học. Việc ra mắt đạo Cao Đài tại chùa Từ Lâm - một cơ sở của Phật giáo là một minh họa rõ nét tình hình n ày (mặc dù sau đó nhà chùa đã đòi lại và đạo Cao Đài phải tiến hành xây dựng Đền Thánh tạm ở Long Thành).
  14. Với đạo Thiên chúa, Cao Đài cũng không gây được sự hòa hợp, vì tín đồ Ki tô giáo luôn coi chúa Ki tô là hơn hết trong khi đó họ cảm thấy chúa của mình trong Cao Đài lại chiếm địa vị khá khiêm tốn. Họ chỉ cảm thấy tự hào vì có sự đóng góp của đạo mình cho một tôn giáo mới ra đời chứ không muốn chuyển đạo sang Cao Đài. Mặc dù không công khai nhưng trong sinh hoạt đạo, bằng hình thức sinh hoạt cộng đồng, sự giúp đỡ cộng đồng những người ngoại đạo (không tôn giáo hoặc tín đồ tôn giáo khác), Cao Đài đang ráo riết thực hiện ý đồ lôi kéo thu hút tín đồ các tôn giáo khác về phía mình, và đây chính là mối quan hệ tế nhị, phức tạp nhất giữa Cao Đài với các tôn giáo khác trên địa bàn tỉnh Tây Ninh. 1.2.2. Đặc điểm về thế giới quan, nhân sinh quan - Quan điểm thế giới quan của Cao Đài tập trung ở đoạn giáo lý sau: Nhất thái cực (tức là một đấng tối cao vô hình hay là trời) sinh ra lưỡng nghi (âm và dương). Lưỡng nghi sinh ra tứ tượng (bốn hiện tượng tự nhiên là: nắng, mưa, sáng, tối). Tứ tượng sinh ra ngũ hành (kim, mộc, thủy, hỏa, thổ). Ngũ hành sinh bát quái (càn, khảm, chấn, cấn, tốn, ly, khôn, đoài). Bát quái sinh sinh hóa hóa thành thế giới muôn vật muôn loài. (Tức vật chất, thảo mộc, côn trùng, cầm thú, thần thánh, tiên, phật...) sinh sinh, hóa hóa lưu hành trong tam thiên thế giới (ba ngàn thế giới) và lục thập bát địa cầu (68 địa cầu). Tất cả sự vật đều có linh hồn, từ thú vật hồn đến nhân hồn, thần, thánh, tiên, phật hồn". Cũng như các tôn giáo khác, đạo Cao Đài tin vào cái siêu tự nhiên, cái không phục tùng những quy luật khách quan thoát khỏi mối liên hệ phụ thuộc nhân quả. Không chỉ thế mà "Đức Chí Tôn" còn xóa bỏ và tạo ra những quy luật tự nhiên như: mưa, gió, sấm, chớp, sáng, tối... sáng tạo ra nhiều điều mầu nhiệm " huyền bí". Theo quan điểm của chủ nghĩa vô thần khoa học và triết học mác xít thì thế giới tồn tại vô tận và đa dạng, song nó lại thống nhất ở tính vật chất. Không có thế giới thiên đường địa ngục, nơi cư trú của thánh thần, ma quỷ nào cả. Cùng một đối tượng phản ánh là thế giới hiện thực, nhưng khoa học và tôn giáo đối lập nhau: khoa học
  15. phấn đấu phản ánh ngày càng gần với những gì đang tồn tại, ngược lại tôn giáo phản ánh sai lệch, méo mó,biến dạng đi. Những lực lượng trần gian bình thường lại mang hình thức phi trần gian. Sự thừa nhận lực lượng nào đó tạo ra và điều khiển thế giới là nội dung chủ yếu của thế giới quan tôn giáo. Thế giới này là do "Đức Chí Tôn" dùng thanh khí, mà tạo ra loài người và đất, biến thành vạn vật. Vì Đức Chí Tôn là chúa tể vạn loài "có quyền năng vô đối", "Thống ngự vạn linh" [18, 41]. Đạo Cao Đài rõ ràng là giải thích sự hình thành thế giới theo quan điểm duy tâm. Điều khác nhau cơ bản nữa giữa tôn giáo và khoa học Mác - Lênin là tôn giáo giải thích sai lầm về nguyên nhân nỗi khổ và đề ra phương pháp sai lệch tiêu cực. Nếu đạo Ki tô qui nguyên nhân nỗi đau khổ bất hạnh của con người vào tội tổ tông, "Đạo Phật coi đời là "bể khổ" do "tham, sân, si" và thuyết "luân hồi" thì đạo Cao Đài quan niệm nguyên nhân nỗi khổ đau của chúng sanh là do "loài người tiến hóa tăng lực mà sinh ra tự đắc tự tôn", chỉ biết lo cho xác thịt mà thôi, không chuyên lo cho "đệ nhị xác thân và tinh thần, và do tâm lý tập quán của các nước, của các sắc dân chi phối nhau, nghịch lẫn nhau, thù địch nhau mà tranh tranh đấu đấu không ngừng [6, 75], vì thế mà bị "đọa đày" gây nên trường oan nghiệt cho toàn thế giới. Muốn thoát khỏi đau khổ, xây dựng một cuộc sống hạnh phúc không phải là đấu tranh xóa bỏ chế độ bóc lột mà phải luyện đệ nhị xác thân cho đầy đủ sự tinh khiết, là phải thương loài vật, phải thương tất cả để chấm dứt cái oan nghiệt ấy... cứu vớt quần sanh thoát khỏi vòng địa lạc hoàn toàn. Quan điểm đó không chỉ nhồi nhét cho con người một hệ thống quan niệm phản khoa học, mà còn giáo dục người ta tư tưởng coi thường mọi cái trên trần gian thế tục coi như nơi "ăn gởi ở nhờ" do đó mọi vấn đề xã hội đều lùi vào hàng thứ yếu, đẩy con người vào tình trạng thụ động về mặt xã hội. Đạo Cao Đài ra đời còn có sự hoàn thiện và đóng góp rất đắc lực của công cụ đàn cơ. Đàn cơ, về bản chất là công cụ hoạt động tín ngưỡng tôn giáo (ở cả phương Đông và phương Tây), nhằm mục đích xin (cầu) thần linh ban cho con người những điều mong muốn hoặc biết được sự vận động biến hóa mầu nhiệm (cơ). Vì thế gọi là cầu cơ.
  16. Đối với quá trình ra đời và hoàn thiện của đạo Cao Đài, đàn cơ có vai trò hết sức đắc lực mà như một số nhà nghiên cứu đã nhận xét: đối với Cao Đài giáo, đàn cơ là sự thiêng liêng, huyền diệu và là linh hồn của đạo, dựa vào cầu cơ để xây dựng cả một hệ thống giáo lý, giáo luật tổ chức và phong các chức sắc của đạo - so với các tôn giáo khác đó là một đặc điểm đặc sắc của đạo Cao Đài. Đàn cơ mà đạo Cao Đài sử dụng thuộc loại đàn cơ gốc Trung Hoa. ở Trung Quốc, nó được xếp vào hệ tín ngưỡng dân gian, xuất hiện sớm và có một quá trình phát triển lâu dài gắn với tên tuổi các vị thần linh như Tử Cô, Lý Bạch... Ban đầu, đàn cơ được sử dụng để xem việc nông tang, xem việc thi cử, công danh, tiền đồ, vận hạn, xin thuốc chữa bệnh và cả trong việc thi ca xướng họa Thời Minh -Thanh (Trung quốc), đàn cơ phát triển khá mạnh, thậm chí còn được dùng trong cả đời sống chính trị cung đình. Khi các tốp Minh - Hương phương bạt sang Nam Bộ Việt Nam, họ đã lập ra nhiều đàn cơ, chính Ngô Văn Chiêu, một trong những người đầu tiên sáng lập đạo Cao Đài, ngay từ đầu năm 1902 đã biết cầu cơ để xin thuốc chữa bệnh cho mẹ của mình (ở đàn cơ Minh Thiện - Thủ Dầu Một). Cùng với tính chất ấy, ở Phương Tây từ lâu đã có bàn xây theo thông linh học (Spirutisme) và rồi người Việt Nam, nhất là các công chức làm cho Pháp nhanh chóng tiếp cận. Song, so với đàn Trung Quốc bàn xây thông linh học phương Tây tỏ ra bất tiện hơn (theo suy nghĩ của người Việt Nam). Đó cũng là điều lý giải tại sao bốn ông Cao Quỳnh Diêu, Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc và Cao Hoài Sang (là những người khai đạo) đang sử dụng bàn xây thông linh học phương Tây lại chuyển sang đàn cơ Trung Quốc. Lúc đó, sự gặp gỡ giao lưu của những người vốn sử dụng hai loại đàn cơ khác nhau ấy đã không loại trừ nhau mà cùng thống nhất mục đích sử dụng đàn cơ nhằm làm ra đời một tôn giáo mới: Đạo Cao Đài. Là những người thuộc tầng lớp trên của xã hội, những người sáng lập đạo Cao Đài trong quá trình sử dụng đàn cơ chắc chắn biết rõ về thực chất của đàn cơ. Đó chính là tính chất hư hư thực thực của nó, chính Phạm Công Tắc (sau này là Hộ pháp đã có dịp đánh giá: "Cơ bút có đủ quyền tạo đạo, nhưng cũng có quyền diệt đạo", còn ông Lê Văn Trung (người giữ chức quyền giáo Tông) đã nói: "Hãy cẩn
  17. thận về cơ bút, đạo khai nhờ cơ bút, đạo thiêng liêng quyền diệu do cơ bút, đến khi nền đạo bị chia rẽ nhiều chi phái cũng do cơ bút, nếu đạo bị đả phá khinh thường cũng tại cơ bút" [28, 185]. Đối với người lao động, dân trí thấp lại đang bị bần cùng về kinh tế, bế tắc về chính trị và tinh thần thì khó mà nhận được cái chân, cái giả của đàn cơ. Song bất luận ai, kẻ biết ít, người biết nhiều, kẻ chưa biết, người đã biết... tất cả điều có niềm tin nhất định vào kết quả của đàn cơ - rằng đó là sự hiệp thông của con người với các đấng thiêng liêng, là lời phán bảo của Đức Chí Tôn - Ngọc đế Cao Đài và của các bậc thần tiên khác. Sự hiệp thông nhân - thần ấy là một cơ sở cho sự ra đời của mỗi tôn giáo. Do bị lừa bịp nên "Cơ bút" được đông đảo tín đồ tin tưởng. Nhưng thời gian vẫn là ánh sáng soi đường cho sự thật, bản chất của nó cứ bộc lộ dần ra, khiến cho nhiều người nghi ngờ, biết bao câu hỏi đặt ra xung quanh cơ bút vì " cơ bút" vẫn là hư hư, thiệt thiệt, vì mọi việc chi mà có tính phàm của con người hùn vốn vào đó thì điều hư nhiều, thiệt ít... [25, 239]. Trong khi đó thì người ta cũng thấy Tòa thánh Tây Ninh chỉ dành độc quyền tiếp xúc với thầy cho một vài nhân vật cao cấp có khả năng lãnh đạo chính trị, tư tưởng của đạo như: Cao Quỳnh Diêu, Phạm Công Tắc - được đấng Chí Tôn phong là: "Tá cơ tiên hạt đạo sĩ" và "Hộ giá tiên đồng tá cơ đạo sĩ". Thực chất "các người cầu cơ đều là quan chức thuộc các phòng của Phủ Thống đốc". Điều đó cũng nói lên rằng cơ bút là phương tiện công cụ, là vũ khí sắc bén được bao bọc bởi cái vỏ "Linh thiêng, Huyền Diệu" của một số chức sắc chóp bu, họ dùng để xây dựng đạo, tập hợp lực lượng và khi cần còn dùng để phế truất những kẻ không ăn cánh hoặc đề bạt cất nhắc, và sắp xếp nhân sự trong hàng ngũ chức sắc Cao Đài. "Phải chăng nhóm Trương Hữu Đức - Phạm Tấn Đãi lợi dụng cơ bút, mượn quyền thiêng liêng tối cao, sát phạt hạ nhóm Trần Quang Vinh" [3, 25] và việc giáng cơ phong cấp cho hai tỉnh trưởng ngụy là Nguyễn Văn Nhã và Nguyễn Phát Đạt từ cấp hiền
  18. tài vượt 3 cấp lên chánh phối sư... là sự vận động ngầm của tay sai đế quốc, do sự sắp xếp trước [3, 15]. Trong sách "Thẩm án đại đạo", một đạo hữu Cao Đài tố cáo rằng: "cơ bút là một điều quan trọng nhất của đạo, đạo nên hư, cũng do cơ bút. Mấy vạn nhân sinh sống chết cũng do cơ bút, cơ bút chẳng phải là món đồ chơi mà ở Tây Ninh cơ bút chỉ về tay Diêu. Hễ buồn thì phò loan chấp bút, khi thì vịnh ngâm thơ phú, khi thì hỏi chuyện nọ kia, rồi dần dần chẳng biết vị tiên nào về, xem rõ văn thì đều là văn của Diêu... Nếu theo hội thánh Tây Ninh bây giờ thì nhân sinh phải chết dưới tay Diêu". Thực chất cơ bút là công cụ lừa bịp, giả dối, phản động phục vụ cho mục đích chính trị nhất định của giới lãnh đạo Cao Đài, là hình thức mê tín dị đoan mà đạo Cao Đài dùng để củng cố và phát triển nên đạo khi quần chúng chưa giác ngộ cách mạng. Vì thế sau này khi đàn cơ đã hoàn thành sứ mạng xây dựng và hoàn thiện một hệ thống giáo lý, giáo luật và tổ chức của đạo thì đương nhiên cũng cần chấm dứt. Việc kết thúc cầu cơ của đạo Cao Đài cũng là một việc- thiết nghĩ - đã được nâng đến tầm nghệ thuật khi những người nắm trọng trách Cao Đài lúc đó đã sử dụng triệt để lời "phán bảo" của Đức Chí Tôn. Đó là, trong buổi cầu cơ ngày 1-6-1927 Đức Chí Tôn đã giáng cơ rằng: "Đến cuối kỳ tháng 6 này thì phải ngưng hết bút truyền đạo". Vì thế, Tòa thánh thôi không dùng hoặc dùng không rộng rãi cơ bút nữa. Và ngày 6 - 7 -1976 Tòa thánh tiếp tục tuyên bố không dùng cơ bút nữa, đó là tuyên bố mang ý nghĩa tích cực, phù hợp với đạo, với đời. Việc phong chức sắc của đạo Cao Đài, theo tinh thần đại hội đại biểu Cao Đài Tây Ninh ngày 5 - 4 -1997 thì từ nay áp dụng theo điều lệ cầu phong, cầu thăng theo luật công cử thay cho hình thức cầu cơ. - Quan điểm nhân sinh quan đạo Cao Đài cho rằng con người có phần xác và phần hồn, con người sau khi chết linh hồn còn tồn tại. Nếu có công đức sẽ về sống sung sướng nơi Bạch Ngọc kinh (thiên đường). Nếu có tội thì vướng mãi trong vòng luân hồi sinh tử. Đạo Cao Đài đã khuyên mọi người "Xả phú cầu bần" "Xả thân cầu đạo", tu hành để diệt dục để được "phổ độ".
  19. Đạo Cao Đài cho rằng con người sanh ra ở tại thế và chịu khổ não ở tại thế này, rồi chết cũng ở tại thế này. Và khi chết thì con người sẽ ra sao ? Về điều này Thầy (Phạm Công Tắc) đã dạy rằng: cả kiếp luân hồi thay đổi từ trong nơi vật chất mà ra thảo mộc, từ thảo mộc đến thú cầm, loài người phải chịu chuyển kiếp ngàn năm, muôn muôn lần, mới đến địa vị nhơn phẩm. Nhơn phẩm nơi thế này lại còn chia ra phẩm giá mội hạn. Đó là đứng bậc đế vương nơi trái địa cầu này, chưa đặng vào bực chót của địa cầu 67. Trong địa cầu 67, nhơn loại cũng phân ra đẳng cấp dường ấy. Cái quý trọng của mỗi địa cầu càng tăng thêm hoài, cho tới đệ nhất cầu. Tam thiên thế giới, qua khỏi Tam Thiên thế giới thì mới đến Tứ Đại Bộ Châu. Qua Tứ Đại Bộ Châu mới vào đặng Tam Thập Lục Thiên; vào Tam thập Lục Thiên rồi phải chuyển tu hành nữa mới đặng lên Bạch Ngọc Kinh, nơi mà đạo phật gọi là Niết bàn [46, 345-346]. Theo đạo Cao Đài thì chính đạo đức con người là cái thang vô ngần, bắc cho con người leo đến phẩm vị tối cao, tối trọng, là ngang bậc cùng "Thầy" hoặc hơn "Thầy". Vì lẽ đó đạo Cao Đài khuyên con người nên tu hành, làm đủ phận người, công bình chính trực để khi hồn xuất ra khỏi xác thì cứ theo đẳng cấp gần trên mà luân hồi lại nữa. Tuy nhiên, nếu như vậy thì cũng biết đến chừng nào mới hiệp hội cùng "Thầy", vậy nên "Thầy" cho một quyền rộng rãi hơn cho cả nhân loại càn khôn thế giới biết là nếu: biết ngộ kiếp một đời tu đủ trở về cùng "Thầy" - và như vậy Đạo là nơi con người nên quí trọng, nếu giữ được trọn đường tu hành sẽ sớm trở về "Bạch Ngọc Kinh". Nhìn chung quan điểm nhân sinh quan của đạo Cao Đài là người được nhập môn hành đạo phải tuân theo thế luật: phải thương yêu nhau, liên lạc giúp đỡ nhau, lấy lòng thành thật mà đối đãi nhau, dìu dắt nhau trong đường đạo đường đời. Khi nhập đạo rồi thì phải quên đi những việc oán thù khi trước, phải tránh các việc ganh ghét tranh đua và kiện cáo, phải nhẫn nhịn và hòa thuận với nhau. Nếu có xích mích, phải vui vẻ nghe người đứng đầu trong họ phân giải. Phải giữ "tam cương ngũ thường" là nguồn cội của nhơn đạo, nam thì hiếu để, trung tín, lễ nghĩa, liêm sỉ; nữ thì tam tòng, tứ đức và công dung ngôn hạnh. Khi ra giao thiệp với đời phải tập và
  20. giữ tánh: ôn, lượng, cung, khiêm, nhượng. Đối với đạo hữu phải luôn nuôi nấng cái tình thù tạc cho khăng khít cái dây liên lạc. Trong hàng tín đồ còn ở thế phải nhớ hai dịp là tang và hôn. Việc hôn là việc rất trọng trong đời người, phải chọn hôn trong người đồng đạo, hoặc người ngoài ưng thuận nhập môn thì mới được kết giai ngẫu. Trong việc cúng tế vong linh thì khuyên dùng toàn đồ chay cho được phước hơn, nhưng không cấm lễ nhạc và phải dùng lễ nhạc theo tân luật. Nếu trong đạo có người gặp tai nạn thình lình thì tất cả mọi người trong họ đạo đều tùy hỷ chung nhau, tương trợ nhau qua lúc ngặt nghèo. Người trong đạo không làm nghề sát sinh hại vật, hay những nghề tồn phong bại tục. Trong sinh hoạt phải thật cần kiệm... Tóm lại, con người sống ở trần thế nên giữ cho chơn thần an tịnh, đừng xao xuyến lương tâm, phải thuận hòa, phải không được tiếng lớn, phải siêng năng giúp ích cho nhau, dìu dắt nhau trong đường đạo. Có như vậy thì con người mới thấy cuộc sống có ý nghĩa và khi chết mới mong được về Bạch Ngọc kinh [46, 394]. 1.2.3. Đặc điểm về tổ chức Tổ chức giáo hội Cao Đài còn gọi là bộ máy tổ chức hành chính đạo thể hiện các điểm sau: Đa số những người sáng lập lãnh đạo Cao Đài là tư sản, địa chủ, công chức của Pháp nên họ khá am hiểu các thể chế chính trị trên thế giới và cho rằng chế độ quân chủ lập hiến (kiểu Nhật Bản) là hình thức chính quyền tốt nhất ở Việt Nam. Hình thức quân chủ lập hiến sẽ vừa trung thành với truyền thống vừa thích nghi với tinh thần dân chủ của thời đại mới. Do đó khi thiết kế tổ chức giáo hội, họ rập khuôn theo kiểu bộ máy nhà nước Nhật, nhưng nhiều chỗ bổ sung rườm rà và quan liêu hơn [25, 194]. Đứng trước sự phát triển số lượng tín đồ tôn giáo, trong xây dựng tổ chức Cao Đài Tây Ninh đã dựa vào những yếu tố văn hóa có sẵn do tập quán và thói quen của tín đồ để tạo ra bầu không khí văn hóa quen thuộc đó là sử dụng lại các hình thức cũ, chủ yếu là các hình thức tôn giáo lớn là mô hình tổ chức có hệ thống chặt chẽ của đạo Thiên chúa. Tòa thánh Tây Ninh trở thành một thứ "Nhà nước trong
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2