BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ
NGUYỄN TẤN HƯNG
GIẢI QUYẾT LỢI ÍCH KINH TẾ CỦA NÔNG DÂN TRONG THU HỒI ĐẤT PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP VÀ DỊCH VỤ Ở ĐỒNG NAI
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ
HÀ NỘI - 2014
BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ
NGUYỄN TẤN HƯNG
GIẢI QUYẾT LỢI ÍCH KINH TẾ CỦA NÔNG DÂN TRONG THU HỒI ĐẤT PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP VÀ DỊCH VỤ Ở ĐỒNG NAI
CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ
MÃ SỐ: 60 31 01 02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS ĐỖ VĂN NHIỆM
HÀ NỘI - 2014
MỤC LỤC
3
12 12
1.1. 1.2.
18
Chương 2 MỞ ĐẦU Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT LỢI ÍCH KINH TẾ CỦA NÔNG DÂN TRONG THU HỒI ĐẤT PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP VÀ DỊCH VỤ Lợi ích và lợi ích kinh tế Quan niệm, các nhân tố ảnh hưởng và tác động của giải quyết lợi ích kinh tế kinh tế của nông dân trong thu hồi đất đến phát triển công nghiệp và dịch vụ ở Đồng Nai THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT LỢI ÍCH KINH
TẾ CỦA NÔNG DÂN TRONG THU HỒI ĐẤT
PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP VÀ DỊCH VỤ Ở
29
2.1.
29
2.2.
ĐỒNG NAI Đặc điểm về điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội ở Đồng Nai ảnh hưởng đến lợi ích kinh tế của nông dân bị thu hồi Thực trạng giải quyết lợi ích kinh tế của nông dân trong thu hồi đất phát triển công nghiệp và dịch vụ ở Đồng Nai 32
Chương 3 QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT THỎA ĐÁNG LỢI ÍCH KINH TẾ CỦA NÔNG DÂN TRONG THU HỒI ĐẤT PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP VÀ DỊCH VỤ Ở ĐỒNG NAI THỜI GIAN TỚI 59
3.1 Những quan điểm cơ bản 59
3.2. Những giải pháp chủ yếu
69 84 86
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC 93
3
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước tất yếu dẫn đến sự hình
thành các khu công nghiê ̣p và dịch vụ, các khu đô thị mới. Để phát triển các
khu công nghiệp và khu đô thị, không thể không thu hồi đất mà người dân
đang sử dụng. Việc thu hồi đất để xây dựng các khu công nghiệp và khu đô
thị mới làm xuất hiện rất nhiều vấn đề khiến xã hội quan tâm như: thiếu đồng
bộ, nhất quán trong quy hoạch đô thị; các chính sách thu hồi đất còn nhiều
mặt chưa hợp lý; chưa giải quyết hợp lý các vấn đề lợi ích kinh tế của nông
dân có đất bị thu hồi; xuất hiện nhiều hiện tượng tiêu cực trong quá trình sử
dụng đất cho phát triển các khu công nghiệp và khu đô thị.
Đồng Nai là một trong những tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm
phía Nam, là mô ̣t tỉnh có tốc độ công nghiê ̣p hóa, hiê ̣n đại hóa tương đối
nhanh so với các địa phương khác của cả nước. Để phát triển các khu công
nghiệp và dịch vụ, tất yếu tỉnh cũng phải tiến hành thu hồi một diện tích đất
nông nghiệp của nông dân để đáp ứng yêu cầu của các dự án.
Trong những năm qua, việc thu hồi đất đáp ứng yêu cầu phát triển công
nghiệp, ngành kinh tế dịch vụ, và việc giải quyết các lợi ích kinh tế của nông
dân gắn liền với đất đai thu hồi đã được Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân tỉnh,
lãnh đạo và chính quyền địa phương các huyện, thị xã, thành phố quan tâm
giải quyết trên cơ sở các quy định Nhà nước và đề xuất của cơ quan chức
năng của tỉnh và các địa phương đặt trong bối cảnh tình hình kinh tế - xã hội
tỉnh Đồng Nai.
Song, thực tiễn cho thấy, vấn đề thu hồi đất và giải quyết quyền lợi của
nông dân bị thu hồi đất luôn là vấn đề nhạy cảm và có những khó khăn, phức
tạp. Do đó quá trình tổ chức thực hiện các quy định của Nhà nước về giải
quyết lợi ích của nông dân bị thu hồi đất vẫn tồn tại những bất cập - nhìn từ
4
góc độ giải quyết lợi ích kinh tế của nông dân. Để việc thu hồi đất diễn ra
thuận lợi không ảnh hưởng đến tiến độ triển khai các dự án công nghiệp và
dịch vụ trên địa bàn tỉnh thực sự đang là bài toán đặt ra trước các nhà lãnh
đạo, quản lý, các nhà hoạch định chính sách, các nhà khoa học cần phải tiếp
tục nghiên cứu làm sáng tỏ cả về lý luận và thực tiễn. Với lý do đó, tác giả
chọn“Giải quyết lợi ích kinh tế của nông dân trong thu hồi đất phát triển
công nghiệp và dịch vụ ở Đồng Nai” làm đề tài luận văn Thạc sĩ chuyên
ngành kinh tế chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Vấn đề lợi ích kinh tế nói chung, lợi ích kinh tế của nông dân, trong đó
có vấn đề lợi ích kinh tế của nông dân nói riêng, trong thu hồi đất để phát
triển công nghiệp, dịch vụ đã được nhiều tác giả nghiên cứu dưới các góc đô ̣
tiếp câ ̣n khác nhau. Các công trình nghiên cứu có liên quan trực tiếp đến đề
tài có thể kể đến:
* Các sách tham khảo và chuyên khảo
Tập thể các tác giả Đào Duy Tùng, Phạm Thành, Vũ Hữu Ngoạn, Lê
Xuân Tùng, Nguyễn Duy Bảy trong cuốn “Bàn về lợi ích kinh tế”, Nhà xuất bản
Sự thâ ̣t, Hà Nô ̣i, năm 1982. Thông qua tác phẩm các tác giả đã đưa ra quan điểm
của mình về lợi ích kinh tế.
Nguyễn Linh Khiếu trong cuốn “Lợi ích động lực phát triển xã hội”, Nhà
xuất bản Khoa học - Xã hội, Hà Nội, năm 1999, đã tổng kết lại nhiều nghiên
cứu khác nhau về lợi ích trong và ngoài nước tính cho tới thời điểm đó đã đưa
ra cách tiếp cận mới về khái niệm lợi ích. Theo ông, quan hệ lợi ích là quan
hệ đa chiều, bao gồm: mối quan hệ giữa chủ thể lợi ích và đối tượng của quan
hệ lợi ích; giữa các chủ thể có cùng đối tượng của quan hệ lợi ích với nhau
trong việc thực hiện các nhu cầu cấp bách của mình.
Nguyễn Linh Khiếu trong cuốn “Góp phần nghiên cứu quan hệ lợi ích”,
Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 2002, phát triển những thành
5
tựu nghiên cứu về mối quan hệ biện chứng giữa các lợi ích tiêu biểu trong xã
hội, ở công trình đã dẫn trên đây vào cụ thể vai trò của lợi ích kinh tế trong phát
triển kinh tế xã hội Việt Nam, đã cho rằng “Quan hệ kinh tế của một xã hội biểu
hiện tập trung nhất của các quan hệ lợi ích”, theo đó trong đời sống kinh tế - xã
hội Việt Nam hiện nay các thành phần kinh tế có xu hướng vận động theo nhiều
hướng khác nhau, nhưng tất cả các xu hướng đều đưa nước ta phát triển đi lên.
Đó là một sự vận động theo hướng tổng lực trong đó xu hướng xã hội chủ nghĩa
đang đóng vai trò chủ đạo.
Tập thể tác giả Nguyễn Văn Nhường, Nguyễn Thành Độ, trong cuốn
“Bàn về chính sách an sinh xã hội với người nông dân sau khi thu hồi đất để
phát triển các khu công nghiệp”, Đại học Kinh tế Quốc dân, năm 2011, đã
giới thiệu chính sách an sinh xã hội đối với người nông dân trong diện thu hồi
đất để phát triển các khu công nghiệp. Tình hình và kết quả thực hiện chính
sách cùng những kiến nghị hoàn thiện chính sách an sinh xã hội đối với người
nông dân trong diện thu hồi đất để phát triển các khu công nghiệp từ thực tiễn
ở tỉnh Bắc Ninh.
Vũ Ngọc Kỳ trong cuốn “Một số vấn đề về nông nghiệp, nông thôn, nông
dân, hội nông dân ở Việt Nam”, Nhà xuất bản Nông nghiệp, năm 2005, đã trình
bày vai trò lãnh đạo của Đảng và Nhà nước đối với nông dân và Hội nông dân
trong thời kỳ mới, phát huy vai trò của giai cấp nông dân và Hội nông dân, giải
quyết vấn đề đất đai đối với hộ nông dân không còn đất sản xuất.
Nguyễn Viết Chung trong cuốn “Nông dân và công nghiệp hoá xã hội
chủ nghĩa” Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, năm 1962, đã đi sâu phân tích tình
hình thực tế của nông dân Việt Nam dưới chế độ cũ: sự nghèo nàn, lạc hậu,
hiểu biết nông cạn, văn hoá thấp kém. Việc xây dựng chủ nghĩa xã hội là con
đường mở ra sự ấm no, hạnh phúc cho người nông dân: cung cấp những hiểu
biết cơ bản về chế độ xã hội chủ nghĩa tươi đẹp ở Việt Nam.
6
* Về các luận án, luận văn nghiên cứu về lợi ích kinh tế, có các tác giả
với các đề tài sau:
Chử Văn Tuyên, “Lợi ích kinh tế của người lao động và vận dụng nó
vào lực lượng vũ trang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam”, luâ ̣n án Tiến sĩ kinh tế, Học viê ̣n Chính trị quân sự, năm 1980. Trong
luâ ̣n án tác giả đã phân tích dưới góc độ kinh tế chính trị về nội dung vấn đề lợi
ích kinh tế của người lao động trong thời kỳ quá độ. Đề xuất một số giải pháp
chủ yếu nhằm giải quyết tốt lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần của quân dân.
Nguyễn Duy Hùng, “Bàn về sự hình thành và kết hợp các lợi ích kinh tế
trong nông nghiệp tập thể”, luâ ̣n án Tiến sỹ kinh tế, H.1988. Tác giả đề xuất
những hình thức cơ bản kết hợp các lợi ích kinh tế, góp phần giải quyết mâu
thuẫn đang cản trở bước tiến của nông nghiệp tập thể, đảm bảo sự phát triển
hài hòa của các lợi ích kinh tế ấy, nhờ đó tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy
nông nghiệp tập thể phát triển.
Nguyễn Đức Bách, “Quan hệ giữa lợi ích kinh tế xã hội, tập thể và cá
nhân người lao động trong chặng đường đầu tiên thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam”, luâ ̣n án Phó tiến sĩ triết học, Học viện Nguyễn Ái
Quốc, H. 1988. Luâ ̣n án phân tích bản chất và đặc trưng chủ yếu của lợi ích
kinh tế, vai trò trong sự vận động của các quy luật kinh tế, các quan hệ sản
xuất và sự phát triển xã hội. Phân tích các đặc điểm chủ yếu của quan hệ giữa
các lợi ích kinh tế ở nước ta, những mâu thuẫn và đưa ra một số ý kiến về
phương pháp luận giải quyết các mâu thuẫn đó. Kết hợp tốt ba lợi ích kinh tế
và giáo dục chính trị, tư tưởng trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá đô ̣
lên chủ nghĩa xã hô ̣i ở nước ta.
Ung Thị Minh Lệ, “Hệ thống lợi ích kinh tế và các quan hệ phân phối
trong việc thực hiện chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội Việt
Nam”, luâ ̣n án Phó tiến sĩ kinh tế, Thành phố Hồ Chí Minh, năm 1996. Tác
7
giả phân tích một số lợi ích cơ bản, mối liên hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích
xã hội, đồng thời đưa ra một số biện pháp trong lĩnh vực tài chính nhằm thực
hiện các lợi ích kinh tế trong quá trình phân phối, phân phối lại tổng sản phẩm
quốc gia và các nguồn tài chính khác.
Đỗ Nhật Tân, “Vai trò động lực của lợi ích kinh tế đối với sự nghiệp xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện
nay”, luâ ̣n án Phó tiến sĩ triết học, H.1991. Tác giả phân tích bản chất lợi ích
kinh tế, tính đa dạng phức tạp của các quan hệ lợi ích kinh tế trong xã hội.
Làm sáng tỏ vai trò động lực của lợi ích kinh tế trong hệ thống các động lực
phát triển xã hội, trong các thành phần kinh tế. Tìm ra được đặc thù của động
lực lợi ích kinh tế nhiều thành phần và giải pháp khuyến khích tối đa động lực
ở Việt Nam.
Vương Đình Cường, “Lợi ích kinh tế nông dân ở nước ta hiện nay”,
luâ ̣n án Phó tiến sĩ kinh tế, H.1992. Trong luâ ̣n án, tác giả đề câ ̣p đến lợi ích
kinh tế nông dân trong cơ chế khoán 10 qua việc phân tích vai trò, nội dung
các mối quan hệ với lợi ích kinh tế của nhà nước và tập thể. Đề xuất những
biện pháp kinh tế cơ bản để nâng cao lợi ích kinh tế nông dân, tạo động lực
phát triển kinh tế hàng hóa trong nông nghiệp.
Phạm Thắng, “Giải pháp để kết hợp các lợi ích kinh tế trong doanh
nghiệp Nhà nước ở Việt Nam hiện nay qua khảo sát các doanh nghiệp Nhà
nước tại thành phố Hồ Chí Minh”, luâ ̣n án Phó tiến sĩ kinh tế, thành phố Hồ
Chí Minh, năm 1997. Tác giả đã khái quát các vấn đề lý luận căn bản có liên
quan đến lợi ích và lợi ích kinh tế. Phân tích tổng quát thực trạng của việc kết
hợp các lợi ích kinh tế của các doanh nghiệp Nhà nước trong cả nước nói
chung và ở thành phố Hồ Chí Minh nói riêng qua các giai đoạn khác nhau.
Đặng Quang Định, “Thống nhất lợi ích kinh tế giữa giai cấp công nhân,
nông dân và tầng lớp trí thức trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở Việt
8
Nam hiện nay”, luâ ̣n án Tiến sĩ triết học, H.2010. Tác giả phân tích quan
điểm chủ nghĩa Mác-Lênin và của Đảng ta về lợi ích kinh tế; trên cơ sở đó,
tác giả chỉ ra tầm quan trọng của sự thống nhất lợi ích kinh tế giữa giai cấp
công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức đối với việc xây dựng và phát triển
đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Đề xuất giải pháp
hữu ích trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay.
Trần Thị Lan, “Quan hệ lợi ích kinh tế trong thu hồi đất của nông dân để
xây dựng các khu công nghiệp và khu đô thị mới ở Hà Nội”, luâ ̣n án Tiến sĩ
kinh tế , Học viê ̣n Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, H. 2012. Tác
giả đã phân tích các mối quan hệ giữa lợi ích kinh tế của các chủ thể có liên
quan đến quá trình thu hồi đất để xây dựng các khu công nghiệp và khu đô thị
mới ở Hà Nội. Đề xuất các quan điểm, giải pháp nhằm tiếp tục giải quyết hài
hòa lợi ích kinh tế của các chủ thể có liên quan đến quá trình thu hồi đất của
nông dân để xây dựng các khu công nghiệp và khu đô thị mới ở Hà Nội.
Phạm Quang Hưng, “Lợi ích kinh tế của nông dân trong quá trình công
nghiê ̣p hóa, hiê ̣n đại hóa ở Hà Nội”, luâ ̣n văn Thạc sỹ kinh tế, Học viê ̣n
Chính trị, năm 2013. Tác giả đã luâ ̣n giải cơ sở lý luâ ̣n và thực tiễn vấn đề lợi
ích kinh tế của nông dân Hà Nô ̣i trong quá trình công nghiê ̣p hóa, hiện đại
hóa; đồng thời đề xuất những quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu bảo đảm
lợi ích kinh tế của nông dân ở Hà Nô ̣i trong thời gian tới.
* Các bài viết đăng trên các tạp chí đề cập đến lợi ích kinh tế
“Lợi ích kinh tế - động lực thu hút mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế -
xã hội ở Việt Nam hiện nay” của PGS.TS Đào Duy Huân, Tạp chí Phát triển
kinh tế số 200 năm 2007; “Lợi ích kinh tế - một số vấn đề lý luận và thực
tiễn” của PTS Hồ Tấn Phong, Tạp chí Phát triển kinh tế số 27 năm 1993, các
tác giả đều đã đề cập ở mức độ khác nhau đến vai trò động lực của lợi ích
kinh tế nhìn từ góc độ lý luận và thực tiễn.
9
Như vâ ̣y, mă ̣c dù vấn đề lợi ích kinh tế nói chung, lợi ích kinh tế của
nông dân nói riêng đã được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu. Tuy nhiên,
vấn đề giải quyết lợi ích kinh tế của nông dân trong thu hồi đất phát triển
công nghiệp và dịch vụ ở Đồng Nai cho đến nay chưa có công trình nào đã
công bố. Do đó, nghiên cứu đề tài này là cần thiết và có ý nghĩa lý luận, thực
tiễn.
3. Mục đích và nhiê ̣m vụ của luâ ̣n văn
* Mục đích:
Luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn về giải quyết lợi ích kinh
tế của nông dân trong thu hồi đất phát triển công nghiệp và dịch vụ ở Đồng
Nai, trên cơ sở đó đề xuất quan điểm và giải pháp nhằm giải quyết lợi ích
kinh tế của nông dân trong thu hồi đất phát triển công nghiệp và dịch vụ
trên địa bàn tỉnh trong thời gian tới.
* Nhiê ̣m vụ:
Luận giải làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về giải quyết lợi ích kinh tế
của nông dân trong thu hồi đất phát triển công nghiệp và dịch vụ.
Đánh giá thực trạng việc giải quyết lợi ích kinh tế của nông dân trong
thu hồi đất phát triển công nghiệp và dịch vụ ở tỉnh Đồng Nai.
Đề xuất các quan điểm, giải pháp giải quyết lợi ích kinh tế của nông
dân trong thu hồi đất phát triển công nghiệp và dịch vụ ở Đồng Nai trong
thời gian tới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu:
Lợi ích kinh tế của nông dân trong quá trình thu hồi đất cho phát triển
công nghiệp và dịch vụ.
* Phạm vi nghiên cứu:
10
Về nội dung: việc giải quyết lợi ích của nông dân bao gồm cả quá trình thu
hồi đất và những tồn đọng cần giải quyết tiếp sau khi đất đã được thu hồi.
Về không gian: các địa phương trên địa bàn tỉnh Đồng Nai có đất nông
nghiệp và đất phi nông nghiệp của nông dân bị thu hồi cho phát triển công
nghiệp và dịch vụ.
Về thời gian: giới hạn từ năm 2006 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận:
Dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật
lịch sử, quan điểm đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam, các văn kiện của
Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh, Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai. Ngoài ra, quá
trình nghiên cứu còn sử dụng các lý luận có liên quan khác để tiếp cận đối
tượng, luận giải nhiệm vụ của đề tài.
* Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài sử dụng tổng hợp hệ thống phương pháp nghiên cứu bao gồm: hệ thống
phương pháp nghiên cứu nền tảng là phương pháp duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử; phương pháp nghiên cứu đặc thù của kinh tế chính trị cùng các phương
pháp phân tích, thống kê, so sánh, hệ thống hóa...; phương pháp chuyên gia.
Kế thừa một cách có chọn lọc kết quả của các công trình nghiên cứu đi
trước và cập nhật những thông tin mới về vấn đề nghiên cứu.
6. Ý nghĩa của luận văn
Sau khi hoàn thành, luận văn góp thêm một tiếng nói với các cơ quan chức
năng thuộc tỉnh Đồng Nai, tìm biện pháp thích hợp, khả thi giải quyết thỏa đáng
hơn lợi ích kinh tế của nông dân bị thu hồi đất phát triển công nghiệp, dịch vụ,
làm cho quá trình đó diễn ra thuận lợi góp phần triển khai đúng tiến độ các dự án
đã được phê duyệt, nhằm phát triển kinh tế địa phương, sớm đưa Đồng Nai cán
11
đích mục tiêu cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm
2020.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong nghiên
cứu và giảng dạy môn học kinh tế chính trị Mác - Lênin, làm tài liệu tham khảo
để các địa phương xây dựng chủ trương, biện pháp giải quyết thỏa đáng hơn lợi
ích kinh tế của nông dân bị thu hồi đất phát triển công nghiệp, dịch vụ.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, luận văn gồm 3 chương (6 tiết), kết luận, danh mục tài
liệu tham khảo và phụ lục.
12
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT LỢI ÍCH KINH TẾ
CỦA NÔNG DÂN TRONG THU HỒI ĐẤT PHÁT TRIỂN
CÔNG NGHIỆP VÀ DỊCH VỤ
1.1. Lợi ích và lợi ích kinh tế
Để có thể có quan niệm đầy đủ và chính xác về phạm trù lợi ích kinh tế
của nông dân trong thu hồi đất phát triển công nghiê ̣p và dịch vụ, cần bắt đầu
từ các quan niệm về phạm trù lợi ích và lợi ích kinh tế nói chung.
1.1.1. Lợi ích
Trên cơ sở kế thừa những tư tưởng đúng đắn của nhân loại C.Mác và
Ph.Ăngghen đi từ nhu cầu của con người hiê ̣n thực để nghiên cứu lịch sử, qua
đó chỉ ra cơ sở hình thành lợi ích và vai trò của nó trong sự phát triển của lịch
sử. Theo đó, tất cả các lợi ích của con người đều nảy sinh từ nhu cầu sống, tồn
tại và phát triển.
Nhu cầu là đòi hỏi, mong muốn, nguyện vọng của con người. Tuy nhiên,
nhu cầu không phải là những cái chung chung trừu tượng, mà phải là nhu cầu
về của cải vật chất và dịch vụ nhằm thỏa mãn đời sống vật chất và tinh thần
của mỗi người, mỗi cộng đồng người và mỗi tập đoàn xã hội nhất định.
Nhu cầu về của cải vật chất là nhu cầu về các sản phẩm của nền sản xuất
xã hội, tức là của cải vật chất và dịch vụ mang tính chất xã hội có nguồn gốc
từ nền sản xuất của xã hội. Thông thường trong cuộc sống, nhu cầu về vật
chất thường được đồng nhất với nhu cầu kinh tế. Nói cách khác, nhu cầu kinh
tế trước hết cũng là nhu cầu về vật chất, song không phải mọi nhu cầu về vật
chất đều là nhu cầu kinh tế. Trong tiến trình vận động và phát triển của lịch sử
xã hội loài người, chỉ khi nào xuất hiện các hình thức khác nhau về sở hữu tư
liệu sản xuất, xuất hiện phân công lao động xã hội, lúc đó những nhu cầu về
vật chất của con người mới mang tính chất xã hội và chuyển hóa thành nhu
13
cầu kinh tế. Khi nhu cầu kinh tế của một chủ thể nào đó được đáp ứng, được
thỏa mãn thì lúc đó mới xuất hiện lợi ích kinh tế.
Như vâ ̣y, lợi ích nảy sinh từ nhu cầu, là cái phản ánh quan hê ̣ nhu cầu
giữa các chủ thể và dùng để thỏa mãn nhu cầu của các chủ thể xã hô ̣i. Khi các
nhu cầu được đáp ứng, được thỏa mãn, có nghĩa con người đã được thỏa mãn
về lợi ích. Lợi ích là hiện tượng xã hội khách quan tồn tại trong đời sống xã
hội, gắn liền với chủ thể. Trong xã hội có đối kháng giai cấp, lợi ích cũng
mang tính giai cấp và tính lịch sử cụ thể.
Nhu cầu của con người rất phong phú đa dạng nên lợi ích cũng rất phong
phú và đa dạng. Nhu cầu có nhu cầu vật chất hay nhu cầu văn hoá tinh thần;
nhu cầu trước mắt hay nhu cầu lâu dài; nhu cầu tiêu dùng hay nhu cầu sản
xuất, theo đó cũng có lợi ích vật chất hay tinh thần; lợi ích trước mắt hay lợi
ích lâu dài. Mặt khác, trong các hoạt động thực tiễn vì sự tồn tại và phát triển
của mình, con người có nhu cầu chung phải liên kết với nhau, những nhu cầu
chung là cơ sở hình thành lợi ích chung. Ngoài những lợi ích chung, con
người còn có lợi ích riêng nảy sinh từ các nhu cầu trong mỗi hoàn cảnh cụ
thể. Như vâ ̣y, bên cạnh những nhu cầu chung của tập thể (cộng đồng), xã hội,
con người còn có nhu cầu riêng của cá nhân, những nhu cầu này hình thành
nên lợi ích chung và lợi ích của mỗi cá nhân.
Từ đó, có thể quan niệm lợi ích là hiện tượng xã hội khách quan gắn
liền với những chủ thể xác định, được nảy sinh từ nhu cầu và nhằm thoả mãn
nhu cầu con người trong những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định.
Trong quá trình hoạt động thực tiễn của con người, có thể nảy sinh rất
nhiều quan hệ lợi ích. Nếu phân chia theo lĩnh vực sẽ có các hình thái lợi ích: lợi
ích kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh. Nếu phân chia theo
phạm vi cấp độ có: lợi ích cá nhân, nhóm, tập thể, xã hội. Phân chia theo thời
gian có: lợi ích trước mắt, lợi ích lâu dài… Phân chia theo các khâu của quá trình
tái sản xuất thì có: lợi ích người sản xuất, người tiêu dùng, nhà phân phối.
14
1.1.2. Lợi ích kinh tế
Trong đời sống xã hô ̣i của mình, ngay từ khi mới xuất hiện, con người đã
tiến hành các hoạt động tác động vào giới tự nhiên nhằm thỏa mãn nhu cầu ăn,
ở, đi lại,... Tóm lại là những nhu cầu nhằm bảo đảm sự tồn tại và phát triển của
mỗi cá thể và cộng đồng. Quá trình hoàn thiện các kỹ năng lao động và thỏa mãn
nhu cầu, các hoạt động kinh tế xuất hiện, giữ vai trò trung tâm trong mọi hoạt
động xã hội và nó là cơ sở cho các hoạt động khác.
Trong hoạt động kinh tế, con người luôn có động cơ nhất định. Động cơ
thúc đẩy con người hành động. Mức độ hành động (mạnh hay yếu) tuỳ thuộc
vào mức độ chín muồi của động cơ - tuỳ thuộc vào nhận thức và thực hiện lợi
ích của họ.
Theo C.Mác thì phạm trù lợi ích (ích lợi, có lợi) được sử dụng như là
cùng nghĩa và có thể thay thế nhau. Lợi ích không phải là một cái gì trừu
tượng và có tính chất chủ quan, mà cơ sở của lợi ích là nhu cầu khách quan
của con người. Con người có nhiều loại nhu cầu (vật chất, chính trị, văn hoá),
do đó có nhiều loại lợi ích (lợi ích kinh tế, lợi ích chính trị, lợi ích văn hoá,
tinh thần).
Lợi ích kinh tế là một phạm trù kinh tế khách quan, nó xuất hiện trong
những điều kiện tồn tại xã hội của con người. Hay nói cách khác, lợi ích kinh
tế là mối quan hệ xã hội nhằm thực hiện nhu cầu kinh tế của các chủ thể kinh
tế. Những nhu cầu kinh tế của con người khi nó được xác định về mặt xã hội
thì nó trở thành cơ sở, nội dung của lợi ích kinh tế.
Lợi ích kinh tế luôn gắn liền với nhu cầu, song đây không phải là nhu
cầu bất kỳ, mà là nhu cầu kinh tế (nhu cầu vật chất). Chỉ có những nhu cầu
kinh tế mới làm phát sinh lợi ích kinh tế. Vì vậy, lợi ích kinh tế là một phạm
trù kinh tế, một mặt, nó phản ánh những điều kiện, những phương tiện nhằm
đáp ứng nhu cầu vật chất của mỗi con người, mỗi chủ thể. Suy cho cùng, lợi
15
ích kinh tế được biểu hiện ở mức độ của cải vật chất mà mỗi con người có
được, khi tham gia vào các hoạt động kinh tế - xã hội. Mặt khác, nó phản ánh
quan hệ giữa con người với con người trong quá trình tham gia vào các hoạt
động đó để tạo ra của cải vật chất cho mình. Những quan hệ đó chính là quan
hệ sản xuất trong xã hội. Vì vậy lợi ích kinh tế còn là hình thức biểu hiện của
quan hệ sản xuất, do quan hệ sản xuất quyết định.
Lợi ích kinh tế là hình thức biểu hiện của quan hệ sản xuất, nó được quy
định một cách khách quan bởi phương thức sản xuất, bởi hệ thống quan hệ
sản xuất, trước hết là quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất.
Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, quyết định vị trí, vai trò của mỗi con
người, mỗi chủ thể trong quá trình tham gia vào các hoạt động kinh tế - xã
hội. Do đó, không có lợi ích kinh tế nằm ngoài những quan hệ sản xuất, mà
nó là sản phẩm của những quan hệ sản xuất, là hình thức vốn có bên trong,
hình thức tồn tại và biểu hiện của các quan hệ sản xuất. Chính vì vậy, theo
Ph.Ăngghen “Các quan hệ kinh tế của một xã hội nhất định biểu hiện trước
hết dưới hình thức lợi ích” [38, tr.376].
Hệ thống quan hệ sản xuất của mỗi một chế độ xã hội nhất định sẽ quy
định hệ thống lợi ích kinh tế của xã hội đó. Trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, ở nước ta tồn tại nhiều quan hệ sản xuất, nhiều quan hệ sở hữu
khác nhau về tư liệu sản xuất, nhiều thành phần kinh tế, do đó hệ thống lợi ích
kinh tế cũng mang tính đa dạng. Tùy góc độ xem xét mà ta có thể phân chia
thành các nhóm, các loại lợi ích kinh tế khác nhau. Dưới góc độ khái quát
nhất có thể phân chia hệ thống lợi ích kinh tế thành: lợi ích kinh tế cá nhân,
lợi ích kinh tế tập thể (nhóm cộng đồng) và lợi ích kinh tế xã hội. Dưới góc độ
các thành phần kinh tế, có lợi ích kinh tế tương ứng với các thành phần kinh
tế đó. Dưới góc độ các khâu của quá trình tái sản xuất xã hội, có lợi ích kinh
tế của người sản xuất, người phân phối, người trao đổi, người tiêu dùng.
16
Dù cách phân chia có thể khác nhau, song các lợi ích kinh tế bao giờ
cũng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn với
nhau. Mặt thống nhất thể hiện ở chỗ: chúng cùng đồng thời tồn tại trong một
hệ thống, trong đó lợi ích kinh tế này là cơ sở, là tiền đề cho lợi ích kinh tế
khác. Chẳng hạn, có lợi ích kinh tế của người sản xuất, thì mới có lợi ích kinh
tế của người trao đổi, người tiêu dùng và ngược lại. Mặt mâu thuẫn biểu hiện
ở sự tách biệt nhất định giữa các lợi ích đó dẫn đến xu hướng lấn át của lợi ích
kinh tế này đối với lợi ích kinh tế khác. Chính vì vậy, nó có thể gây nên
những xung đột nhất định về lợi ích kinh tế, ảnh hưởng tiêu cực đến các hoạt
động kinh tế - xã hội. Trong các xã hội có đối kháng giai cấp, thì các lợi ích
kinh tế cũng mang tính đối kháng. Đó chính là nguyên nhân dẫn đến những
cuộc đấu tranh không khoan nhượng giữa các giai cấp. Trong thực tế, lợi ích
kinh tế thường được biểu hiện ở các hình thức thu nhập như: tiền lương, tiền
công, lợi nhuận, lợi tức, địa tô, thuế, phí, lệ phí...
Từ những phân tích trên có thể hiểu: lợi ích kinh tế là quan hệ kinh tế,
phản ánh những nhu cầu, những động cơ khách quan của các chủ thể tham
gia vào các hoạt động kinh tế - xã hội, do quan hệ sản xuất quyết định.
Trong hệ thống lợi ích kinh tế: cá nhân, tập thể (nhóm cộng đồng) và xã
hội, thì lợi ích kinh tế cá nhân là động lực trực tiếp, mạnh mẽ nhất thúc đẩy
các chủ thể tham gia một cách tích cực vào các hoạt động kinh tế - xã hội và
nâng cao hiệu quả kinh tế của chúng. Sở dĩ như vậy là vì:
Thứ nhất, lợi ích kinh tế cá nhân là lợi ích thiết thực nhất, gắn liền với
từng cá nhân, từng chủ thể. Nó trực tiếp đáp ứng nhu cầu vật chất của từng cá
nhân, của từng chủ thể đó khi tham gia vào các hoạt động sản xuất xã hội. Ở
đâu và khi nào lợi ích kinh tế cá nhân được bảo đảm, thì ở đó sẽ tạo ra được
động lực mạnh mẽ nhất kích thích họ phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật,
nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả trong các hoạt động kinh tế của
17
mình. Có thể nói, lợi ích kinh tế cá nhân là "huyệt" mà sự tác động vào đó
(tương tự như các lương y châm cứu vào các huyệt trên cơ thể người bệnh để
đánh thức sự hoạt động của các bộ phận chức năng trên cơ thể), sẽ gây nên phản
ứng nhanh nhạy nhất của các chủ thể kinh tế. Nó là chất kết dính người lao động
với quá trình sản xuất kinh doanh, là một thứ "dầu nhờn" đặc biệt để bôi trơn
guồng máy kinh tế. Điều đó lý giải vì sao cơ chế thị trường đã tạo ra động lực
mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất phát triển, đồng thời nó cũng lý giải vì sao cơ chế thị
trường còn có nhiều mặt trái. Thực tiễn phát triển kinh tế ở nước ta trong những
năm qua cũng đã chứng minh điều đó. Chẳng hạn, trong lĩnh vực nông nghiệp,
với cơ chế khoán hộ, Nhà nước giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cho các hộ
nông dân, cùng với những chính sách khác, nước ta đã từ một nước thiếu lương
thực, phải nhập khẩu lương thực, trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai trên
thế giới.
Thứ hai, lợi ích kinh tế cá nhân tạo điều kiện để thực hiện và nâng cao lợi
ích văn hóa, tinh thần của từng cá nhân. Khi lợi ích kinh tế cá nhân được bảo
đảm, các chủ thể sẽ tham gia một cách tích cực và nâng cao hiệu quả sản xuất
kinh doanh, từ đó họ cũng có điều kiện để nâng cao đời sống văn hóa tinh thần
của mình.
Thứ ba, lợi ích kinh tế cá nhân là cơ sở thực hiện lợi ích kinh tế tập thể
(nhóm cộng đồng) và lợi ích xã hội, và dân có giàu thì nước mới mạnh. Khi lợi
ích kinh tế cá nhân được bảo đảm, người dân hăng say, tích cực sản xuất để thực
hiện nghĩa vụ của mình với Nhà nước, tập thể thì lợi ích kinh tế của Nhà nước
(xã hội), tập thể cũng mới được thực hiện.
Vì vậy, để kích thích tính tích cực của người lao động, phát huy tối đa vai
trò nhân tố con người, thì vấn đề mấu chốt, căn cơ nhất là phải tác động vào lợi
ích kinh tế mỗi cá nhân. Tạo điều kiện để mỗi người lao động, mỗi cá nhân, mỗi
chủ thể thực hiện được lợi ích kinh tế của mình, bảo đảm sao cho mỗi người
được đóng góp và được hưởng phần thu nhập phù hợp với sự đóng góp của họ.
18
1.2. Quan niệm, các nhân tố ảnh hưởng và tác động của giải quyết
lợi ích kinh tế kinh tế của nông dân trong thu hồi đất đến phát triển công
nghiệp và dịch vụ ở Đồng Nai
1.2.1. Quan niệm về giải quyết lợi ích kinh tế của nông dân trong thu
hồi đất phát triển công nghiệp và dịch vụ ở Đồng Nai
Để làm rõ quan niệm về giải quyết lợi ích kinh tế của nông dân trong thu
hồi đất phát triển công nghiệp và dịch vụ ở Đồng Nai, trước hết cần nhận thức
về các quan hệ lợi ích kinh tế phát sinh trong quá trình thu hồi đất
* Quan hệ lợi ích kinh tế trong thu hồi đất
Theo quy định của Luật Đất đai năm 2013 [39], đất đai được xác định
thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản
lý. Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân.
Về q`uyền lợi của người sử dụng đất được quy định tại Điều 26, Luâ ̣t Đất đai
năm 2013 như sau:
Được bảo hộ quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất hợp pháp của
người sử dụng đất.
Được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và
tài sản khác gắn liền với đất cho người sử dụng đất khi có đủ điều kiện theo
quy định của pháp luật.
Khi Nhà nước thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển
kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng thì người sử dụng đất được Nhà
nước bồi thường, hỗ trợ, tái định cư theo quy định của pháp luật.
Có chính sách tạo điều kiện cho người trực tiếp sản xuất nông nghiệp,
lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối không có đất sản xuất do quá trình
chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất và chuyển đổi cơ cấu kinh tế được đào tạo
nghề, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm.
Luật Đất đai năm 2013 là sự luật hóa quyền của người dân có đất bị thu
hồi cho các mục đích quốc phòng, an ninh và phát triển kinh tế xã hội phù
19
hợp với điều kiện của đời sống kinh tế, xã hội ở nước ta hiện nay. Cơ sở lý
luận của luật là sự vận dụng những nguyên lý, lý luận mácxit về lợi ích và lợi
ích kinh tế.
Theo hướng đó, khi nhà nước thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất,
người có quyền sử dụng đất được nhà nước giải quyết các lợi ích chính đáng
theo pháp luật hiện hành, trước hết và quan trọng nhất là lợi ích kinh tế.
Lợi ích kinh tế trong thu hồi đất để xây dựng các khu công nghiệp và
dịch vụ bao gồm quan hệ giữa lợi ích kinh tế của xã hội do Nhà nước là đại
diện với lợi ích kinh tế của doanh nghiệp - chủ đầu tư dự án; quan hệ giữa lợi
ích kinh tế của doanh nghiệp - chủ đầu tư dự án với lợi ích kinh tế của người
nông dân và quan hệ giữa lợi ích kinh tế của Nhà nước (xã hội) với lợi ích
kinh tế của người nông dân bị thu hồi đất. Ba mối quan hệ này - xét về mặt
bản chất chúng vừa thống nhất lại vừa mâu thuẫn với nhau:
Sự thống nhất
Thứ nhất, có sự thống nhất giữa lợi ích của xã hội với lợi ích của nông
dân, bởi vì lợi ích xã hội là dành cho tất cả mọi người dân trong xã hội, bao
gồm cả nông dân. Khi lợi ích của nhà nước được đảm bảo thì hệ quả tất yếu là
quyền được hưởng các lợi ích đó là toàn xã hội trong đó có những người nông
dân bị thu hồi đất; mặt khác, khi lợi ích của người nông dân bị thu hồi đất
được đảm bảo thì họ sẽ đẩy nhanh tiến trình giao nộp lại đất đai, những tư liệu
sản xuất quan trọng của họ cho Nhà nước để phục vụ cho chiến lược phát
triển của xã hội mà Nhà nước làm đại diện. Điều này đã góp phần vào việc
tăng cường lợi ích xã hội không chỉ trước mắt mà còn lâu dài.
Thứ hai, sự thống nhất giữa lợi ích kinh tế của chủ dự án và lợi ích kinh
tế xã hội. Về lâu dài, khi lợi ích kinh tế xã hội được đảm bảo thì kinh tế xã hội
sẽ phát triển mạnh mẽ và hệ quả là sẽ tạo ra một môi trường kinh doanh thuận
lợi, tạo ra nhiều cơ hội đầu tư và mở rộng cho các doanh nghiệp nói chung,
20
trong đó có doanh nghiệp nhận được đất dự án để tiến hành sản xuất, kinh
doanh. Về lợi ích kinh tế trước mắt thì sự thống nhất của lợi ích kinh tế xã hội
và lợi ích kinh tế doanh nghiệp được thể hiện ở chỗ, khi các doanh nghiệp chủ
dự án làm tốt các thủ tục để nhận mặt bằng bao gồm cả phần chi trả các khoản
chi phí cho việc giải phóng mặt bằng đó, nhà nước sẽ có khả năng xúc tiến
nhanh việc bàn giao mặt bằng cho doanh nghiệp tiết kiệm thời gian và kèm
theo đó là tiền bạc của doanh nghiệp khi thực hiện dự án.
Thứ ba, sự thống nhất lợi ích kinh tế giữa nông dân có đất bị thu hồi và
doanh nghiệp - chủ dự án được thể hiện ở chỗ: khi lợi ích của nông dân được
đảm bảo, họ sẽ nhanh chóng giao nộp đất để Nhà nước chuyển giao cho
doanh nghiệp; mặt khác khi lợi ích của doanh nghiệp được đảm bảo, việc
triển khai dự án nhanh chóng, thuận lợi sẽ tạo điều kiện cho người nông dân
thực hiện các lợi ích khác bên cạnh việc nhận đền bù của mình đó là tham gia
vào làm việc trong doanh nghiệp, hoặc góp vốn đầu tư vào doanh nghiệp đó.
Sự mâu thuẫn:
Bên cạnh việc thống nhất, giữa ba lợi ích cơ bản trong quá trình thu hồi
đất nông nghiệp để xây dựng các khu công nghiệp và dịch vụ cũng có những
mâu thuẫn nhất định đòi hỏi các cấp quản lý kinh tế cần nhận diện và có
phương thức giải quyết thỏa đáng. Các mâu thuẫn đó là:
Thứ nhất, mâu thuẫn giữa lợi ích nhà nước và lợi ích của nông dân
biểu hiện ở chỗ, nhà nước khi thu hồi đất của nông dân để thực hiện lợi ích
xã hội đã xâm phạm đến lợi ích của người nông dân là quyền họ được sử
dụng đất đai của mình để làm ăn, sinh sống. Chính vì vậy nhà nước phải
xây dựng các chính sách đền bù những thiệt hại của họ. Mâu thuẫn của nhà
nước và nông dân thể hiện chính ở chính sách đền bù này: nếu chính sách
đền bù quá rộng rãi, trước mắt người nông dân sẽ được lợi, và nhà nước sẽ
chịu thiệt; nếu chính sách đền bù quá hạn hẹp, người nông dân chịu thiệt
thòi và nhà nước có lợi.
21
Thứ hai, mâu thuẫn giữa nông dân và doanh nghiệp - chủ dự án cũng xảy
ra tương tự khi chủ dự án chính là người tự đứng ra thương thảo với nông dân
và chịu trách nhiệm giải phóng mặt bằng và đền bù vì nếu chủ dự án đền bù
nhiều thì sẽ bị thiệt thòi, còn nông dân thì sẽ có lợi và ngược lại.
Tuy nhiên, mâu thuẫn giữa lợi ích của các chủ thể này thực ra chỉ là biểu
hiện chưa hoàn toàn đầy đủ của mối quan hệ. Về bản chất, mối quan hệ này
vẫn là mối quan hệ có tính thống nhất, nếu điều hòa tốt mối quan hệ này sẽ
đạt được kết quả là các bên cùng có lợi. Cụ thể: nếu giải quyết thỏa đáng mối
lợi ích này cho người nông dân, họ nhận được khoản đền bù xứng đáng và
đầy đủ cho các thiệt hại do quá trình thu hồi đất gây ra thì người nông dân sẽ
nhanh chóng giao lại mặt bằng để doanh nghiệp chủ dự án thực hiện dự án và
như vậy sẽ tiết kiệm được thời gian và tiền vốn cho doanh nghiệp.
Từ những phân tích trên đây, ta thấy lợi ích giữa các chủ thể trong thu
hồi đất là mối quan hệ phức tạp, biện chứng vừa thống nhất vừa mâu thuẫn
với nhau. Chính vì vậy mà xây dựng chính sách để giải quyết mối quan hệ lợi
ích trong thu hồi đất vô cùng quan trọng, nó cần phải giải quyết hài hòa lợi
ích của các chủ thể tham gia nhằm mang lại lợi ích chung cho tất cả các chủ
thể trong mối quan hệ này.
* Quan niệm về giải quyết lợi ích kinh tế của nông dân trong thu hồi đất
phát triển công nghiệp và dịch vụ ở Đồng Nai
Như trên đã đề cập, quá trình chuyển đổi mục đích sử dụng đất tạo ra
những mối quan hệ lợi ích khác nhau giữa các chủ thể kinh tế. Các mối quan
hệ đó vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn với nhau. Vì vậy, để quá trình thu hồi
đất trong phát triển công nghiệp và dịch vụ được tiến hành thuận lợi, cần phải
giải quyết các mâu thuẫn đặt ra. Việc giải quyết các mâu thuẫn đó chính là
việc bảo đảm cho các chủ thể cùng có lợi, trước hết là lợi ích kinh tế. Nói
cách khác, việc giải quyết lợi ích kinh tế của nông dân trong thu hồi đất nông
22
nghiệp cũng chính là giải quyết mâu thuẫn giữa lợi ích kinh tế của nông dân
với lợi ích kinh tế của xã hội và lợi ích kinh tế của chủ doanh nghiệp.
Từ sự phân tích trên có thể khái quát: giải quyết lợi ích kinh tế của
nông dân trong thu hồi đất phát triển công nghiệp và dịch vụ ở Đồng Nai
là: sự phối hợp giữa các cấp, các ngành, các doanh nghiệp và bản thân hộ
nông dân bị thu hồi đất ở Đồng Nai trong giải quyết những mâu thuẫn đặt
ra nhằm tạo ra sự thống nhất về lợi ích kinh tế giữa nông dân với nhà
nước và chủ doanh nghiệp.
Như vậy, việc giải quyết lợi ích của nông dân được hiểu là một quá trình,
bao gồm cả quá trình thu hồi đất và cả những việc trong quá trình thu hồi đất
chưa giải quyết dứt điểm, phải giải quyết tiếp sau khi đất đã được thu hồi, theo
đó trong quá trình thu hồi đất giải quyết chưa dứt điểm sẽ được tiếp tục giải
quyết sau khi đất đã được thu hồi. Thuật ngữ “trong” và “sau” được hiểu một
cách hết sức uyển chuyển không cứng nhắc. Đồng thời việc giải quyết lợi ích
của nông dân trong thu hồi đất phát triển công nghiệp và dịch vụ ở Đồng
Nai không chỉ là trách nhiệm của nhà nước, được thực hiện bởi Nhà nước, mà
còn là trách nhiệm của các doanh nghiệp là chủ đầu tư và bản thân hộ nông
dân có đất bị thu hồi chuyển đổi mục đích sử dụng. Mặt khác, sự giải quyết
đó phải dựa vào luật pháp của Nhà nước, trước hết là Luật Đất đai năm 2013.
Theo hướng đó, các nội dung giải quyết bao gồm:
Thứ nhất, bồi thường giá trị sử dụng diện tích đất bị thu hồi cho nông
dân. Khi thu hồi đất của nông dân nhà nước đã có chính sách đền bù cho các
thiệt hại của việc thu hồi này đối với họ. Theo quy định của nhà nước người
dân sẽ nhận khoản đền bù cho đất, đền bù cho các loại cây trồng trên đất chưa
kịp thu hoạch vào lúc trao trả mặt bằng;
Thứ hai, hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm cho nông
dân nhằm đáp ứng nhu cầu chuyển đổi nghề. Vì bị thu hồi mất tư liệu sản xuất
23
chính nên người nông dân buộc phải chuyển sang hoạt động kiếm sống khác,
hay còn gọi chuyển sang nghề nghiệp khác. Nhưng họ chưa có kinh nghiệm
và cũng chưa đủ trình độ, kỹ năng để chuyển đổi sang một nghề khác phù
hợp, vì thế họ phải học nghề. Chính vì vậy Nhà nước đã tính đến lợi ích này
của nông dân nên khi thu hồi đất đai để chuyển đổi mục đích sử dụng, Nhà
nước còn hỗ trợ việc đào tạo nghề thông qua việc mở lớp trực tiếp hoặc giới
thiệu đến các trung tâm đào tạo nghề cho họ học miễn phí;
Thứ ba, tạo điều kiện cho nông dân được làm việc tại các dự án. Một
trong những biểu hiện lợi ích của người nông dân bị thu hồi đất là họ có
quyền ưu tiên tuyển dụng vào làm việc trong các dự án, các khu công nghiệp
xây dựng trên đất đai của họ sau khi các dự án này đi vào hoạt động. Như thế
thay vì là chủ thể kinh tế, chủ thể lợi ích ở lĩnh vực nông nghiệp họ chuyển
sang là các chủ thể kinh tế, chủ thể lợi ích ở lĩnh vực sản xuất công nghiệp;
Thứ tư, đáp ứng nhu cầu góp cổ phần của nông dân vào các dự án bằng
quyền sử dụng đất. Khi bị thu hồi đất nông nghiệp, lợi ích của người nông dân còn
được biểu hiện ở quyền được tham gia góp vốn đầu tư vào các dự án và trở thành
một trong những người nắm tư liệu sản xuất, nghĩa là có quyền ảnh hưởng cao
đến quá trình phân phối lợi ích của các dự án đó. Đây cũng là cơ hội tốt để họ
nâng cao thu nhập cá nhân bằng các nguồn lợi nhuận từ việc góp vốn tạo ra.
Ngoài ra, với số tiền được đền bù người nông dân có thể đầu tư để phát
triển kinh tế gia đình và tạo ra những nguồn thu nhập mới, tăng lợi ích kinh tế
của họ, làm cuộc sống của họ được cải thiện hơn.
1.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến giải quyết lợi ích kinh tế của nông
dân trong thu hồi đất phát triển công nghiê ̣p, dịch vụ
Quá trình thu hồi đất nông nghiệp là một quá trình xã hội, có sự tham gia
của nhiều chủ thể khác nhau, là một quá trình khá phức tạp và chịu tác động
của nhiều nhân tố khác nhau. Trong đó, những nhân tố sau đây có tác động
mạnh nhất:
24
Thứ nhất, trình độ phát triển kinh tế của đất nước. Trình độ phát triển
kinh tế của đất nước được thể hiện rõ nét ở tổng GDP, tốc độ tăng GDP hàng
năm và tính ổn định của tăng trưởng kinh tế, khả năng kiểm soát tốt các yếu
tố rủi ro và lạm phát; sự phát triển của hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã
hội, tính hiệu quả và đồng bộ của cơ chế quản lý. Các yếu tố này sẽ tác động
gần như trực tiếp đến quá trình giải quyết lợi ích kinh tế của nông dân trong
thu hồi đất nông nghiệp để xây dựng các khu công nghiệp và khu dịch vụ. Khi
tổng GDP, tốc độ tăng GDP hàng năm và tính ổn định của tăng trưởng kinh
tế, khả năng kiểm soát tốt các yếu tố rủi ro và lạm phát được bảo đảm tốt; khi
hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được phát triển đồng bộ và phát huy
tác dụng tốt; khi đó việc hỗ trợ các giải pháp để giải phóng mặt bằng trong
thu hồi đất sẽ nhanh chóng và thuận lợi hơn. Cơ chế quản lý khoa học, đồng
bộ sẽ là một tác nhân quan trọng để thực hiện việc thu hồi, chuyển đổi mục
đích sử dụng đất nhanh chóng, hiệu quả. Mức tăng trưởng kinh tế và GDP
bình quân đầu người cao sẽ tạo điều kiện để có thể tăng mức đền bù giải
phóng mặt bằng, hỗ trợ đào tạo và chuyển đổi nghề cho lao động nông nghiệp
bị thu hồi đất. Tiềm lực kinh tế của đất nước lớn sẽ góp phần tổ chức tốt công
tác tái định cư cho các hộ nông dân khi phải thu hồi đất của họ... Từ đó tạo ra
việc bảo đảm cả lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài, tạo ra sự đồng thuận trong
nhân dân, ổn định được tình hình chính trị - xã hội trong quá trình thực hiện
các dự án xây dựng các khu công nghiệp và khu dịch vụ.
Thứ hai, hiệu quả kinh tế của các dự án đầu tư. Hiệu quả kinh tế của các
dự án đầu tư là yếu tố đóng vai trò không nhỏ trong quá trình giải quyết lợi
ích kinh tế của nông dân trong thu hồi đất nông nghiệp phục vụ phát triển
công nghiệp và dịch vụ. Khi dự án được thực hiện với hiệu quả kinh tế cao,
việc quản lý nguồn vốn đầu tư và khả năng kinh doanh tốt, điều đó cũng đồng
nghĩa với việc các lợi ích cơ bản của doanh nghiệp - chủ đầu tư đã được thực
25
hiện, mặt khác các lợi ích của nông dân như góp vốn đầu tư, được tham gia
vào làm việc trong dự án cũng trở thành hiện thực, lợi ích của họ trong việc
giao đất đai nông nghiệp của mình đã được thực hiện xứng đáng. Bên cạnh đó
lợi ích chung của Nhà nước thể hiện ở hiệu quả kinh tế - xã hội cũng hiện
thực hóa.
Thứ ba, chính sách kinh tế của Nhà nước. Chính sách kinh tế của Nhà
nước là yếu tố quan trọng nhất tác động lên kết quả giải quyết lợi ích kinh tế
của nông dân trong quá trình thu hồi đất nông nghiệp để xây dựng các khu
công nghiệp và khu dịch vụ. Chính sách của Nhà nước đồng bộ, khoa học sẽ
là hành lang chính trị, kinh tế, pháp lý thông thoáng để tiến trình thu hồi đất
diễn ra thuận lợi, suôn sẻ. Nhờ đó, lợi ích của các chủ thể tham gia vào quan
hệ kinh tế này, trong đó có lợi ích kinh tế của nông dân được đảm bảo công
bằng. Chính sách kinh tế của nhà nước liên quan đến vấn đề này bao gồm:
quy định về sử dụng đất đai, quy định về giá đền bù và phương án đền bù khi
thu hồi đất; quy định trách nhiệm của nhà nước, nhà đầu tư và nông dân trong
quá trình thu hồi đất; quy định các lợi ích của từng chủ thể sao cho hợp lý, hài
hoà, quy hoạch sử dụng đất đai hợp lý, là cơ sở, điều kiện thuận lợi để các dự
án đầu tư đạt được kết quả kinh tế trong thực hiện quy định về trình tự và thủ
tục chuyển giao đất, trình tự và thủ tục khiếu kiện liên quan đến vấn đề
chuyển giao đất và giải phóng mặt bằng.
Bốn là, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội của địa phương cũng ảnh hưởng không nhỏ đến việc
giải quyết quan hệ lợi ích kinh tế trong thu hồi đất. Chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội của địa phương thường được cụ thể hóa bằng quy hoạch phát triển
kinh tế - xã hội. Nếu quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương có
tính khả thi, thì các dự án đầu tư cũng có điều kiện thực hiện thuận lợi và có
hiệu quả kinh tế cao, do đó mà việc giải quyết quan hệ lợi ích kinh tế giữa các
26
chủ thể cũng trở nên thuận lợi và nhanh hơn. Quy hoạch phát triển kinh tế -
xã hội của địa phương có tính khả thi có nghĩa là quy hoạch này phù hợp
với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của vùng; phù hợp với điều kiện
tự nhiên, kinh tế - xã hội của địa phương; có lộ trình và các nguồn lực hợp
lý để hiện thực hóa việc đền bù, giải phóng mặt bằng để thu hồi đất cho
phát triển công nghiệp và dịch vụ, giải quyết thỏa đáng lợi ích của các hộ
nông dân có đất bị thu hồi.
Thứ năm, vai trò của chính quyền địa phương. Chính quyền địa phương
có vai trò quyết định trực tiếp đến giải quyết một cách hài hòa lợi ích kinh tế
giữa các chủ thể trong thu hồi đất. Điều này thể hiện ở tính minh bạch, công
khai các chủ trương chính sách của Nhà nước về thu hồi đất, và các quy định
cụ thể của chính quyền địa phương trong vấn đề thu hồi đất, trong công tác tổ
chức đền bù, giải phóng mặt bằng, xác định giá cả đền bù, bố trí tái định cư,
tổ chức đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho người nông dân bị thu hồi đất,...
Tất cả các công tác đó trực tiếp quyết định đến việc bảo đảm lợi ích chính
đáng của người nông dân. Đồng thời cũng nhờ đó mà việc giải phóng mặt
bằng được thực hiện nhanh chóng và lợi ích kinh tế của cả chủ đầu tư dự án
và của Nhà nước cũng được thực hiện một cách hài hòa.
1.2.3. Tác động của việc giải quyết hợp lý lợi ích kinh tế của nông dân
trong thu hồi đất đến phát triển công nghiệp và dịch vụ
Như trên đã phân tích, lợi ích, trong đó có lợi ích kinh tế là động lực phát
triển xã hội. Khi con người ý thức được lợi ích thiết thực đối với cuộc sống
của bản thân họ, gia đình và xã hội, họ sẽ có động cơ thúc đẩy hành động.
Chính vì vậy nếu giải quyết hợp lý và hài hoà quan hệ lợi ích kinh tế trong
tiến trình thu hồi đất, nghĩa là đảm bảo được lợi ích chính đáng của mỗi chủ
thể kinh tế tham gia vào tiến trình đó, thì việc thu hồi đất sẽ được thực hiện
nhanh chóng và thuận lợi.
27
Tác động của việc giải quyết lợi ích trong thu hồi đất nông nghiệp được
thể hiện ở các khía cạnh sau đây:
Thứ nhất, nhanh chóng tạo mặt bằng bảo đảm tiến độ triển khai các dự
án đầu tư. Khi người nông dân được đền bù thỏa đáng và nhanh chóng đối với
diện tích đất đai của họ bị thu hồi; khi việc tái định cư của họ diễn ra thuận lợi
và tốt đẹp, thì họ sẽ nhanh chóng trao trả mặt bằng để các cấp chính quyền
Nhà nước có thẩm quyền thực hiện việc giải phóng và thu nhận mặt bằng
chuyển giao cho các chủ đầu tư để tiến hành các dự án. Mặt khác nếu việc đền
bù thoả đáng và nhanh chóng cho người nông dân thì họ sẽ có sẵn nguồn vốn
để thực hiện lợi ích tiếp theo là đầu tư vào các dự án đang triển khai, giúp chủ
đầu tư huy động được một nguồn vốn đáng kể để thực thi dự án của mình.
Thứ hai, đẩy nhanh tiến trình phát triển các khu công nghiệp và khu dịch
vụ. Việc nhận mặt bằng được tiến hành nhanh chóng, việc huy động vốn được
diễn ra thuận lợi, hành lang pháp lý thông thoáng chính là điều kiện thuận lợi để
các dự án phát triển công nghiệp và khu dịch vụ (xây dựng các khu công nghiệp)
được triển khai nhanh chóng và tiết kiệm, hạn chế được những khó khăn nan giải
khi không giải phóng được mặt bằng khiến dự án bị “treo”, không thực hiện
đúng tiến độ, gây lãng phí và tổn thất cho các chủ đầu tư và tổn hại đến lợi ích
của tất cả các chủ thể kinh tế tham gia trong quá trình này.
Thứ ba, khắc phục được những hiện tượng khiếu kiện kéo dài. Đất đai là
tư liệu sản xuất chủ yếu của người nông dân. Thực tiễn cho thấy, quá trình thu
hồi đất đai ở cả nước nói chung, ở Đồng Nai nói riêng đã diễn ra tình trạng
các hộ dân khiếu kiện kéo dài thường xảy ra. Nguyên nhân chính của việc
khiếu kiện này là do không thực hiện hài hòa và hợp lý lợi ích kinh tế của các
bên tham gia, đặc biệt là lợi ích kinh tế của người nông dân. Do đó, giải quyết
hợp lý, hài hòa các lợi ích này sẽ tránh được tình trạng khiếu kiện kéo dài
thường gặp trong quá trình giải phóng mặt bằng để chuyển đổi mục đích sử
dụng đất.
28
Thứ tư, tạo sự ổn định tình hình xã hội và phát triển bền vững. Đây là hệ
quả tất yếu của việc giải phóng mặt bằng nhanh chóng, triển khai dự án thuận
lợi, đúng tiến độ và hiệu quả, đảm bảo lợi ích thiết thực của mỗi chủ thể kinh
tế, không có khiếu kiện kéo dài. Giải quyết hài hòa và hợp lý lợi ích của các
chủ thể kinh tế chính là tạo ra sự ổn định xã hội, tránh các xung đột, mâu
thuẫn giữa các bên liên quan là điều kiện cần thiết để phát triển bền vững.
* *
*
Thu hồi đất để phát triển công nghiệp và dịch vụ là một xu hướng, một
đòi hỏi khách quan, tất yếu của quá trình phát triển kinh tế mỗi quốc gia trong
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Việc thu hồi đất đai để chuyển đổi mục đích sử dụng từ đất nông
nghiệp sang đất phát triển ngành công nghiệp và dịch vụ làm nảy sinh yêu
cầu phải giải quyết những quan hệ kinh tế giữa các chủ thể. Việc giải quyết
thỏa đáng các quan hệ lợi ích giữa các chủ thể, đặc biệt là lợi ích của các
hộ nông dân trên sẽ tạo đồng thuận cao trong cộng đồng dân cư và xã hội
nông thôn, nơi diễn ra các hoạt động thu hồi đất - điều kiện không thể thiếu
cho sự phát triển kinh tế.
29
Chương 2
THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT LỢI ÍCH KINH TẾ CỦA NÔNG DÂN
TRONG THU HỒI ĐẤT PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP
VÀ DỊCH VỤ Ở ĐỒNG NAI
2.1. Đặc điểm về điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội ở Đồng Nai
ảnh hưởng đến lợi ích kinh tế của nông dân bị thu hồi
Đồng Nai có điều kiện vị trí thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội và mở
rộng giao lưu thương mại, phát triển kinh tế, trong đó có ngành công nghiệp
và dịch vụ là các lĩnh vực mũi nhọn. Nằm ở khu vực cửa ngõ phía Đông của
vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, kết nối ba vùng Đông Nam Bộ, Duyên
Hải Miền Trung và Tây Nguyên, có thể giao thương với trong nước và quốc
tế, Đồng Nai trở thành địa phương có lợi thế về phát triển công nghiệp và dịch
vụ trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Về điều kiện tự nhiên, diện tích tự nhiên của Đồng Nai là 590.724 ha, bằng
1,78% diện tích của cả nước và 19,4% diện tích của vùng kinh tế trọng điểm
phía Nam, với dân số khoảng 2.569 nghìn người, đứng thứ 2 so với các tỉnh
trong vùng Đông Nam Bộ (chỉ sau thành phố Hồ Chí Minh). Tỉnh gồm 11 đơn
vị hành chính trong đó thành phố Biên Hòa là trung tâm chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội của tỉnh.
Về điều kiện kinh tế - xã hội, Đồng Nai là một trong những địa phương
nằm trong tốp có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh của cả nước, do lợi thế về
địa lý kinh tế và địa chính trị được khai thác tốt (Đồng Nai có đầy đủ hệ thống
giao thông đường không, đường thủy, đường sắt và đường bộ, chỉ cách thành
phố Hồ Chí Minh 30km, có đường thông ra biển qua tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu).
Những lợi thế để phát triển của Đồng Nai thể hiện trên các vấn đề sau đây:
Thứ nhất, có hệ thống giao thông thuận tiện với nhiều tuyến đường huyết
mạch quốc gia đi qua như quốc lộ 1A, quốc lộ 20, quốc lộ 51; tuyến đường
30
sắt Bắc - Nam; nhiều tuyến đường liên tỉnh và các cảng sông Gò Dầu, Phú
Mỹ,… gần cảng Sài Gòn, sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất đã tạo điều kiện
thuận lợi cho hoạt động kinh tế trong vùng cũng như giao thương với cả nước
và quốc tế.
Thứ hai, có nền đất lý tưởng, kết cấu có độ chịu nén tốt, thuận tiện cho
đầu tư phát triển công nghiệp và dịch vụ, xây dựng các khu, cụm công nghiệp.
Thứ ba, có nguồn nước phong phú không chỉ cung cấp cho Đồng Nai mà
còn cho thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương.
Thứ tư, có nguồn điện năng dồi dào từ các Nhà máy Thủy điện Trị An,
Nhà máy Nhiệt điện Phú Mỹ, đảm bảo yêu cầu phát triển kinh tế. Bên cạnh
lưới điện quốc gia, Đồng Nai còn có Công ty liên doanh Amata Power cung
cấp điện cho KCN Amata và các KCN lân cận.
Bên cạnh đó, Đồng Nai còn có nhiều nguồn tài nguyên khoáng sản đa
dạng và phong phú như vàng, thiếc, kẽm, nhiều mỏ đá, cao lanh, than bùn, đất
sét, cát sông; rừng và nguồn nước,… rất thuận lợi cho phát triển các ngành
nghề như: sản xuất vật liệu xây dựng, gốm sứ, mỹ nghệ…
Trên cơ sở những tiềm năng, thế mạnh sẵn có, với ý chí quyết tâm và
đồng thuận cao, sau gần 30 năm đổi mới xây dựng và phát triển, từ một nền
kinh tế nông nghiệp lạc hậu, Đồng Nai đã vươn lên trở thành một trong những
tỉnh có GRDP bình quân đầu người cao nhất cả nước, và có tốc độ tăng
trưởng kinh tế cao, bình quân đạt khoảng 12,8%/năm. Quá trình phát triển và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh diễn ra đúng theo tinh thần Nghị quyết
Đại hội Đảng toàn quốc và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh, trong đó công
nghiệp giữ vai trò chủ đạo, tạo điều kiện thúc đẩy các nền kinh tế khác phát
triển, nhất là dịch vụ và nông nghiệp.
Sản xuất công nghiệp của Đồng Nai đã có những bước chuyển mạnh về
chất với sự hình thành một số ngành công nghiệp chủ lực như: công nghiệp cơ
31
khí và luyện kim, công nghiệp khai thác và sản xuất vật liệu xây dựng, công
nghiệp điện tử và viễn thông, công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu và tiêu
dùng, công nghiệp chế biến nông sản, thực phẩm,… Công nghiệp hóa nông
nghiệp, nông thôn và ứng dụng công nghệ sinh học vào sản xuất từng bước
được đẩy mạnh.
Trước năm 1975, Đồng Nai đã có sự phát triển công nghiệp và dịch vụ
khá mạnh, do là địa bàn được Mỹ - ngụy lựa chọn làm sở cơ kinh tế quân sự
phục vụ cuộc chiến tranh của Mỹ ở miền nam Việt Nam. Do đó sau 1975,
Đồng Nai đã có một khu công nghiệp, đó là khu công nghiệp Biên Hòa 1 nơi
tập trung lực lượng công nghiệp và dịch vụ của Đồng Nai thời kỳ đó. Sau đó,
đặc biệt là từ thời kỳ đất nước đổi mới do sự phát triển mạnh của công nghiệp
và dịch vụ trong quá trình công nghiệp hóa đất nước, khu công nghiệp Biên
Hòa 2 tiếp tục ra đời. Từ thực tiễn khu công nghiệp Biên Hòa 1 và thành công
bước đầu của khu công nghiệp Biên Hòa 2, Đồng Nai đã từng bước rút kinh
nghiệm và mở ra hướng đột phá mới, tập trung quy hoạch xây dựng thêm các
khu công nghiệp mới không chỉ ở TP Biên Hòa, mà ở tất cả các địa phương
của tỉnh trong quá trình phát triển công nghiệp và dịch vụ của tỉnh nhà.
Đồng Nai cũng là địa phương đi đầu trong cả nước về xây dựng và phát
triển các khu công nghiệp. Hệ thống các khu công nghiệp của Đồng Nai có khả
năng thu hút vốn đầu tư nước ngoài lẫn diện tích đất cho thuê. Đồng Nai cũng là
một trong số ít địa phương thu hút được nhiều dự án có quy mô vốn trên 100
triệu USD (Formosa - Đài Loan, Vedan - Singapore & Đài Loan, Hualon -
Malaysia & Đài Loan, Fujitsu - Nhật Bản,…). Vốn đầu tư nước ngoài đã thật sự
trở thành nguồn lực quan trọng để đầu tư phát triển sản xuất, tạo nguồn thu ngân
sách lớn, góp phần phát triển kinh tế địa phương, nhất là đẩy nhanh chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa.
Để tạo dựng niềm tin cho các nhà đầu tư, nhất là các nhà đầu tư nước
ngoài, trong những năm gần đây, Đồng Nai luôn chú trọng và tích cực thực
32
hiện “hai cải” - đó là cải thiện môi trường đầu tư và cải cách thủ tục hành
chính theo hướng toàn diện, công khai, minh bạch, đơn giản, nhanh chóng,
kịp thời cùng với các phương châm “chính quyền đồng hành cùng doanh
nghiệp”, “chính quyền phục vụ doanh nghiệp”.
Nhiều chương trình xúc tiến thương mại, đầu tư trong và ngoài nước đã
được lãnh đạo tỉnh Đồng Nai tổ chức thực hiện đạt hiệu quả cao, tạo tiền đề
thu hút đầu tư, nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng Việt Nam trên thị
trường quốc tế. Bên cạnh đó, các loại hình dịch vụ bưu chính, viễn thông, vận
tải, du lịch, tài chính - tín dụng,…cũng được đầu tư kịp thời.
Cùng với phát triển kinh tế, các vấn đề bức xúc của xã hội cũng được tỉnh
Đồng Nai giải quyết có hiệu quả. Trong đó, giải quyết việc làm cho người lao động
luôn được các cấp, các ngành ở địa phương đặc biệt quan tâm. Đời sống vật chất,
tinh thần của nhân dân ngày càng được cải thiện, an ninh xã hội được giữ vững và
niềm tin của nhân dân đối với sự nghiệp đổi mới ngày càng được nâng cao.
2.2. Thực trạng giải quyết lợi ích kinh tế của nông dân trong thu hồi
đất phát triển công nghiệp và dịch vụ ở Đồng Nai
2.2.1. Những thành tựu và hạn chế giải quyết lợi ích kinh tế của nông
dân trong thu hồi đất phát triển công nghiệp và dịch vụ ở Đồng Nai
* Những thành tựu
Những thành tựu về giải quyết lợi ích kinh tế của nông dân trong thu hồi
đất phát triển công nghiệp và dịch vụ ở Đồng Nai thời gian qua thể hiện trên
hai nội dung cơ bản sau đây:
Thứ nhất, tỉnh Đồng Nai đã xác định đúng chủ trương, chính sách, cơ
chế giải quyết lợi ích kinh tế của nông dân trong thu hồi đất cho phát triển
công nghiệp và dịch vụ.
Trong thời gian qua, tỉnh Đồng Nai đã chỉ đạo các ngành chức năng và các
huyện, thị xã trong tỉnh tiếp tục áp dụng và vận dụng chính sách của Nhà nước,
33
xây dựng, sửa đổi, bổ sung kịp thời một số chính sách liên quan, đồng thời xác
định đúng cơ chế giải quyết quan hệ lợi ích trong thu hồi đất để chuyển đổi mục
đích sử dụng theo nguyên tắc đảm bảo lợi ích của Nhà nước, người sử dụng đất,
chủ dự án, phù hợp với thực tế mặt bằng chính sách chung. Theo hướng đó lợi
ích kinh tế của người nông dân được xác định theo nguyên tắc lợi ích kinh tế
của người bị thu hồi đất được xác định trước hết thông qua việc đền bù đất đai
theo giá thị trường phù hợp với khung giá của Nhà nước quy định. Đây là một
nguyên tắc nhằm đảm bảo lợi ích cho người thu hồi đất. Để thực hiện nguyên
tắc này Nhà nước đã đưa ra phương pháp định giá đất cụ thể cho từng loại đất
để làm cơ sở định giá đền bù thiệt hại theo quy định tại Điểm 2 khoản 10
Điều 6 Nghị định 123/2007/NĐ-CP ngày 27 tháng 7 năm 2007 của Chính phủ
sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 188/2004/NĐ-CP ngày 16 tháng
11 năm 2004 về phương pháp xác định giá đất và khung giá các loại đất [11].
Khi các doanh nghiệp lập hồ sơ xin phép cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền giao đất để thực hiện các dự án xây khu công nghiệp, khu dịch vụ thì
phải có cả phương án đền bù lợi ích cho nông dân; lợi ích kinh tế của nông
dân khi bị thu hồi đất nông nghiệp được thực hiện thông qua các hình thức bồi
thường bằng tiền, bằng đất hay nhà ở tuỳ thuộc vào từng trường hợp cụ thể
phụ thuộc trước hết vào chính sách và quy hoạch chung của Nhà nước,
phương án bồi thường của doanh nghiệp được giao đất và sau đó mới đến
nguyện vọng của người nông dân; lợi ích kinh tế của người nông dân được
thực hiện và đảm bảo thông qua nguyên tắc bồi thường đầy đủ các thiệt hại.
Theo nguyên tắc này, người nông dân không những được đền bù cho mảnh
đất của họ bị thu hồi mà còn được đền bù cả những tài sản trên đất đó, bao
gồm cây trồng, vật nuôi, nhà và các công trình xây dựng khác. Ngoài ra, khi
người nông dân bị thu hồi đất nếu phải chuyển đổi chỗ ở, chuyển địa điểm
kinh doanh, chuyển nghề nghiệp còn được trợ cấp cho đời sống và sản xuất,
34
được trả chi phí cho việc chuyển đổi nghề nghiệp, cũng như các chi phí trực
tiếp cho việc di chuyển, giải phóng mặt bằng và được xét cấp tái định cư theo
quy định tại Điều 4, 5 Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 3/12/2004 của
Chính phủ về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư [12]; Điều 18 - 23 Nghị định
số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/08/2009 của Chính phủ về quy hoạch sử dụng
đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư [13].
Dựa vào nguyên tắc chung trên đây, để đảm bảo quyền lợi của người dân
thuộc diện thu hồi đất, ngày 09/01/2007, BCH Đảng bộ tỉnh (khóa VIII) đã
ban hành Nghị quyết số 06-NQ/TU “về thực hiện chính sách bồi thường, hỗ
trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện quy hoạch và các dự
án đầu tư trên địa bàn tỉnh” [53]. Nô ̣i dung Nghị quyết tập trung vào các chế
độ chính sách sau:
Một là, chính sách bồi thường, hỗ trợ đất nông nghiệp. Thực hiện Nghị
định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/08/2009 của Chính phủ, UBND tỉnh đã ban
hành Quyết định số 20/2010/QĐ-UBND ngày 05/04/2010, sau thay thế bằng
Quyết định số 25/2012/QĐ-UBND ngày 03/4/2012, quy định về các chính sách
bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh. Các chính sách
hỗ trợ do UBND tỉnh ban hành cơ bản phù hợp tình hình thực tế và đảm bảo
quyền lợi của người có đất bị thu hồi như: hỗ trợ 35% giá đất ở cùng vị trí đối
với các trường hợp thu hồi đất nông nghiệp trong khu dân cư; hỗ trợ 50% giá
đất ở cùng vị trí đối với đất vườn ao trong cùng thửa đất có nhà ở nhưng không
được công nhận là đất ở; hỗ trợ di chuyển; hỗ trợ người đang thuê nhà thuộc sở
hữu nhà nước; hỗ trợ đối tượng thuộc diện chính sách, hỗ trợ bằng tiền cho hộ
gia đình cá nhân có diện tích đất bị thu hồi lớn. Đặc biệt là chính sách hỗ trợ
chuyển đổi nghề và tạo việc làm (hỗ trợ 1,5 lần giá đất nông nghiệp), hỗ trợ ổn
định đời sống và sản xuất cho đối tượng trực tiếp sản xuất nông nghiệp và
chính sách hỗ trợ khác quy định hỗ trợ cho các trường hợp không đủ điều kiện
35
được bồi thường, hỗ trợ theo quy định pháp luật. Ngoài ra, người bị thu hồi đất
còn được hưởng chính sách thưởng cho đối tượng chấp hành tốt chủ trương,
chính sách pháp luật thu hồi đất.
Các chính sách bồi thường, hỗ trợ của tỉnh đã làm cho quyền lợi của
người bị thu hồi đất ngày càng được đảm bảo. Đă ̣c biê ̣t, với các đối tượng
trực tiếp sản xuất nông nghiệp, các nơi vùng sâu, vùng xa, nhiều nơi giá trị
bồi thường, hỗ trợ do thu hồi đất đã cao hơn giá trị chuyển nhượng thực tế.
Trong quá trình thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ trên địa bàn tỉnh
đã phát sinh một số khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng các quy định
của pháp luật vào thực tế, pháp luật chưa được quy định cụ thể như: việc bồi
thường, hỗ trợ đất tôn giáo; việc xác định tiêu chí hỗ trợ đất vườn ao; việc bồi
thường hỗ trợ tài sản trên đất nông nghiệp xây dựng trước ngày 01/7/2004;
hướng dẫn về trình tự thủ tục bồi thường, hỗ trợ và tái định cư; việc xác định
giá đất ở trung bình để hỗ trợ; việc bồi thường, hỗ trợ về đất thuộc hành lang
lộ giới giao thông; hỗ trợ khác cho hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất
nông nghiệp bị thu hồi đất nông nghiệp trong khu dân cư, đất vườn ao không
được công nhận là đất ở; bồi thường, hỗ trợ về đất đối với trường hợp sử dụng
đất được giao không đúng thẩm quyền; hỗ trợ đối với các trường hợp sử dụng
đất do lấn, chiếm; xử lý việc bồi thường về đất đối với các trường hợp bị thu
hồi đất ở nhưng chưa xây dựng nhà ở. Trước tình hình đó, UBND tỉnh đã kịp
thời xin ý kiến Chính phủ, Bộ Tài nguyên và Môi trường. Khi có hướng dẫn
của Chính phủ, Bộ Tài nguyên và Môi trường, UBND tỉnh đã ban hành quy
định (tại Quyết định số 25/2012/QĐ-UBND, Quyết định số 26/2012/QĐ-
UBND) để chỉ đạo các Sở, ngành kịp thời hướng dẫn các địa phương thực
hiện và xử lý, tháo gỡ các vướng mắc phát sinh nêu trên. Nhiều nội dung vâ ̣n
dụng của tỉnh đã được đưa vào trong Luật Đất đai năm 2013 và Nghị định
47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 thay thế Nghị định 69/2009/NĐ-CP ngày
13/08/2009 của Chính phủ đang có hiệu lực thi hành.
36
Hai là, chính sách bồi thường, hỗ trợ nhà ở và công trình vật kiến trúc
khác. Việc ban hành Bảng giá các loại đất hàng năm trên địa bàn tỉnh đã đáp
ứng được một phần yêu cầu thực tế, là cơ sở để áp giá, lập phương án bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư đối với các dự án thu hồi đất. Thực tế cho thấy,
giá đất nông nghiệp để tính toán bồi thường hỗ trợ ở khu vực nông thôn có giá
trị tương đương hoặc cao hơn giá thị trường. Việc áp dụng thực hiện giá đất
vùng giáp ranh đã được quy định cụ thể tại Bảng giá đất, đảm bảo quyền lợi
cho người có đất bị thu hồi tại các khu vực này; về giá bồi thường nhà, tài sản
trên đất quy định tại Quyết định số 12/2012/QĐ-UBND ngày 23/02/2012 và
Quyết định số 14/2012/QĐ-UBND ngày 24/02/2012 của UBND tỉnh, đã điều
chỉnh tăng mức bồi thường, hỗ trợ giá nhà, tài sản trên đất bị thu hồi (tăng từ
30% đến 60% giá nhà và các công trình xây dựng trên đất). Giá cây trồng trên
đất cũng được điều chỉnh tăng lên cho sát với giá trị thực tế.
Ba là, chính sách tái định cư. Theo khoản 3 Điều 42 Luâ ̣t Đất đai năm
2003 thì “Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương lập và thực
hiện các dự án tái định cư trước khi thu hồi đất để bồi thường bằng nhà ở, đất
ở cho người bị thu hồi đất ở mà phải di chuyển chỗ ở. Khu tái định cư được
quy hoạch chung cho nhiều dự án trên cùng một địa bàn và phải có điều kiện
phát triển bằng hoặc tốt hơn nơi ở cũ”. Trên cơ sở các quy định của Trung
ương, chủ trương của Tỉnh uỷ về chính sách tái định cư, UBND tỉnh đã ban
hành các quy định cụ thể để triển khai áp dụng cho phù hợp với tình hình thực
tế trên địa bàn tỉnh. Tại Quyết định số 25/2012/QĐ-UBND ngày 03/4/2012
của UBND tỉnh đã quy định cụ thể, rõ ràng về tiêu chuẩn, điều kiện và trình
tự, thủ tục xét bố trí tái định cư, quy định đã vận dụng giải quyết tái định cư
theo hướng thông thoáng hơn và phù hợp tình hình thực tế của tỉnh để đảm
bảo ổn định cuộc sống của người dân sau khi bị thu hồi đất như: miễn thu phí
sử dụng hạ tầng cho người đủ điều kiện tái định cư và giải quyết tái định cư
37
cho các đối tượng xây dựng nhà ở trên đất nông nghiệp nhưng không vi phạm
quy hoạch và xây dựng trước ngày 01/7/2004; giải quyết tái định cư cho các
hộ gia đình đông nhân khẩu, có nhiều thế hệ cùng chung sống; giao đất tái
định cư cho các trường hợp bị thu hồi đất ở nhưng không có nhà ở; việc giao
đất ở (nhà ở) cho các đối tượng không đủ điều kiện được tái định cư theo quy
định của pháp luật. Ngoài ra, UBND tỉnh cũng đã ban hành Quyết định số
13/2012/QĐ-UBND ngày 24/02/2012 về việc cấp bù chênh lệch về tiền sử
dụng đất khi giao đất tái định cư để đảm bảo quyền lợi của người bị thu hồi
đất do việc giao đất tái định cư chậm so với việc phê duyệt phương án bồi
thường, hỗ trợ. Các chính sách tái định cư của tỉnh ban hành đã được phần lớn
người bị thu hồi đất đón nhận một cách tích cực.
Thực tiễn cho thấy: xác định đúng chủ trương, chính sách và có cơ chế
đúng trong giải quyết lợi ích kinh tế của nông dân có đất bị thu hồi cho phát
triển công nghiệp và dịch vụ là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển công
nghiệp và dịch vụ trên địa bàn tỉnh Đồng Nai thời gian qua.
Thứ hai, tổ chức thực hiện tốt chủ trương, chính sách, cơ chế đã xác
định và đã thu được những những kết quả thiết thực.
Những gì đã diễn ra ở Đồng Nai trong thời gian qua chung quanh việc
giải quyết lợi ích kinh tế của nông dân có đất bị thu hồi cho phát triển công
nghiệp và dịch vụ đã thêm một lần chứng minh sự tồn tại của một chân lý
khách quan rằng, chủ trương chính sách đúng là điều kiện tiên quyết nhưng
vẫn mới là điều kiện cần, việc tổ chức thực hiện đúng chủ trương chính sách,
cơ chế đã xác định là điều kiện đủ để biến những quyết tâm chính trị đã có
thành kết quả thực tiễn trong giải quyết lợi ích cho nông dân có đất bị thu hồi
cho phát triển công nghiệp và dịch vụ ở Đồng Nai. Những kết quả trong tổ
chức thực hiện chủ trương chính sách nhằm bảo đảm lợi ích cho nông dân có
đất bị thu hồi cho phát triển công nghiệp và dịch vụ ở Đồng Nai thời gian qua
thể hiện trên các vấn đề sau:
38
Mô ̣t là, thực hiện tốt việc bồi thường cho nông dân bị thu hồi đất. Từ năm
2007 đến thời điểm 31/12/2012, trong tổng số 996 dự án đầu tư cần triển khai
thực hiện công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng với tổng diện tích đất là
24.672,3 ha; Đồng Nai đã hoàn thành việc bồi thường, giải phóng mặt bằng
cho 488 dự án (đạt 49% số dự án) với tổng diện tích đất đã giải phóng mặt
bằng là 5.850,9 ha (đạt 23,7% diện tích). Tổng số tiền đã phê duyệt để chi trả
cho 21.474 hộ gia đình và tổ chức là 4.740 tỷ đồng [54] (xem phụ lục 1). Cùng với
các dự án phát triển các khu công nghiê ̣p và khu dịch vụ, các dự án khác có liên
quan đến thu hồi đất của nông dân trên địa bàn tỉnh cũng được thực hiê ̣n tương đối
tốt. Đến nay đã cơ bản hoàn thành công tác giải phóng mặt bằng để bàn giao đất
sạch cho các nhà đầu tư thực hiện các dự án trọng điểm như đường cao tốc thành
phố Hồ Chí Minh - Long Thành - Dầu Giây, Hồ chứa nước Sông Ray, Hồ chứa
nước Gia Măng, một số dự án đường điện 500KV, dự án mở rộng quốc lộ 51; đã
hoàn thành việc phê duyệt phương án bồi thường dự án đường tránh quốc lộ 1A
và dự án khu đô thị kinh tế mở Long Hưng...
39
Hai là, thực hiện tương đối tốt viê ̣c bố trí tái định cư cho các hô ̣ dân nằm
trong khu vực phải giải tỏa. Trong thời gian qua, chính sách tái định cư được
UBND tỉnh quy định phù hợp với quy định của Chính phủ và các Bộ, ngành
trung ương và tình hình thực tế tại địa phương. Hiện nay, đa số các khu tái
định cư trên địa bàn tỉnh được quy hoạch xây dựng gần khu vực có đất bị thu
hồi để bố trí tái định cư cho các trường hợp bị thu hồi đất phải di chuyển chỗ
ở. UBND tỉnh cũng đã giao cho UBND cấp huyện và cấp xã thực hiện việc
xét duyệt và giao đất cho các đối tượng đủ điều kiện được tái định cư. Việc
xét duyệt tái định cư được thực hiện công khai, minh bạch từ cấp xã, kết quả
xét tái định cư (gồm danh sách, địa điểm, quy mô, hình thức tái định cư...)
đều được niêm yết công khai cho người dân biết. Các địa phương đã căn cứ
tình hình thực tế (tại đô thị, nông thôn) và diện tích đất bị giải tỏa của các đối
tượng nên đã bố trí diện tích đất tái định cư cho phù hợp, vừa đảm bảo quy
chuẩn xây dựng và cảnh quan khu dân cư, qua đó cơ bản đã tạo được sự đồng
thuận của người bị thu hồi đất.
40
Từ năm 2007 đến nay, toàn tỉnh đã xét, bố trí tái định cư cho 3.119
hộ/5.821 hộ (bao gồm cả các trường hợp nhận tái định cư phân tán bằng tiền)
đạt 53,6% [54]. Phần lớn các khu tái định cư trên địa bàn tỉnh được xây dựng
có hạ tầng kỹ thuật tốt hơn nơi ở cũ như các khu tái định cư Long Hưng, khu
tái định cư Tân Biên - thành phố Biên Hòa, khu tái định cư Long An - huyện
Long Thành, khu tái định cư Đại Lộc - huyện Nhơn Trạch,... Các khu tái định
cư có hạ tầng được kết nối gần trục đường giao thông chính, gần khu vực có
đất bị thu hồi; đa số các khu tái định cư được xây dựng gắn liền với các công
trình phúc lợi xã hội như trường học, trạm y tế, công viên, chợ,...tạo thuận lợi
về công ăn việc làm, học tập sinh hoạt và đi lại của người dân ở trong các khu
tái định cư. Qua khảo sát đời sống các hộ dân trong các khu tái định cư trên
địa bàn các huyện Trảng Bom, Long Thành, Nhơn Trạch, thành phố Biên
Hòa, đa số ý kiến đồng thuận và hưởng ứng chính sách Nhà nước và hạ tầng
trong các khu tái định cư.
Ba là, tạo điều kiê ̣n cho số lượng lớn nông dân bị thu hồi đất được làm
viê ̣c trong các khu công nghiê ̣p.
Trên cơ sở chủ trương, chính sách đã được ban hành, các khu công
nghiê ̣p trên địa bàn tỉnh đã thu hút mô ̣t số lượng lớn lao đô ̣ng của tỉnh. Đă ̣c
biê ̣t là những nông dân bị thu hồi đất nông nghiê ̣p.
Theo báo cáo của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Đồng Nai,
số lao động được thu nhận vào làm việc một số năm (từ năm 2007 đến năm
2012) là 304.388 người, trung bình mỗi năm hơn 50.000 người [46].
Bốn là, giải quyết tương đối kịp thời các khiếu kiện liên quan đến việc
thực hiện lợi ích kinh tế cho nông dân khi thu hồi đất.
41
Như đã phân tích ở phần trên, việc thu hồi đất để triển khai thực hiện các
dự án phát triển công nghiệp và dịch vụ ở Đồng Nai là một vấn đề nhạy cảm,
nên khi thu hồi đất của nông dân không thể tránh khỏi những bức xúc, những
vướng mắc. Theo nguyên tắc đảm bảo lợi ích cho người dân, nâng cao dân
chủ, công khai ở cơ sở, trong thời gian qua Đồng Nai đã giải quyết một lượng
đơn thư khiếu nại không nhỏ liên quan đến việc thu hồi đất. Từ năm 2007 đến
Quý I/2013, cơ quan hành chính cấp tỉnh, huyện đã tiếp nhận 5.205 đơn khiếu
nại thuộc thẩm quyền; đã giải quyết được 4.884 đơn, đạt tỷ lệ 93,83%; còn lại
321 đơn phát sinh trong Quý I/2013, đang được xem xét, giải quyết. Phân
theo thẩm quyền: Chủ tịch UBND tỉnh đã giải quyết 1.108/1.166 đơn khiếu
nại, đạt tỷ lệ 95,02%; Chủ tịch UBND cấp huyện đã giải quyết 3.776/4.039
đơn khiếu nại, đạt tỷ lệ 93,48% [54].
Căn cứ vào kết quả giải quyết khiếu nại, các cơ quan chuyên môn đã lập
thủ tục bồi thường bổ sung cho dân là 265.837m2 đất nông nghiệp và 8.336
triệu đồng; bố trí bổ sung 130m2 đất thổ cư và 8 lô đất tái định cư; công nhận
quyền sử dụng đất cho dân là 210.190m2 đất; khôi phục quyền lợi cho dân
175.722m2 đất và 1.008 triệu đồng; thu hồi cho Nhà nước 16.771m 2 và 2.425
triệu đồng [54].
42
Qua 4.884 đơn khiếu nại đã giải quyết có 20,33% khiếu nại đúng,
16,65% khiếu nại đúng một phần, 63,02% khiếu nại sai. Nhìn chung, trình tự
giải quyết khiếu nại liên quan đến công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
được các cấp, các ngành thực hiện chặt chẽ, đảm bảo yếu tố pháp lý, đã khắc
phục được việc giải quyết đơn sai nội dung, sai thẩm quyền; thường xuyên
tiến hành thanh tra, kiểm tra trách nhiệm của thủ trưởng các cấp, các ngành
trong việc giải quyết đơn khiếu nại của công dân, chú trọng công tác đối thoại
trước khi ban hành quyết định giải quyết khiếu nại. Qua đó, chất lượng, hiệu
quả công tác giải quyết khiếu nại từng bước được nâng lên; tiến độ giải quyết
có nhiều chuyển biến, hạn chế đơn tồn đọng, kéo dài, góp phần giữ vững an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội tại địa phương.
Những kết quả đạt được trên đây đã nhanh chóng tạo mặt bằng bảo đảm
tiến độ triển khai các dự án đầu tư, đẩy nhanh tiến trình phát triển các khu công
nghiệp và khu dịch vụ; đồng thời khắc phục được những hiện tượng khiếu kiện
kéo dài, tạo được sự ổn định tình hình xã hội tại các địa bàn có đất thu hồi
góp phần vào sự phát triển bền vững của địa phương.
Những kết quả thiết thực đó cho thấy đã có sự phối hợp chặt chẽ và ăn
ý giữa các cấp, các ngành, các doanh nghiệp và bản thân hộ nông dân bị
thu hồi đất ở Đồng Nai trong giải quyết những mâu thuẫn đặt ra nhằm tạo
ra sự thống nhất về lợi ích kinh tế giữa nông dân với nhà nước và chủ
doanh nghiệp.
* Những hạn chế cơ bản trong giải quyết lợi ích kinh tế của nông dân
trong thời gian qua.
Bên cạnh những kết quả trên, trong việc giải quyết lợi ích kinh tế liên
quan đến lợi ích của người nông dân còn bộc lộ những mặt hạn chế sau đây:
43
Thứ nhất, bồi thường giá trị quyền sử dụng đất khi bị thu hồi cho phát
triển các khu công nghiệp và khu dịch vụ còn bất cập khiến cho lợi ích của
nông dân có đất bị thu hồi không được bảo đảm.
44
Theo đánh giá của Tỉnh uỷ Đồng Nai, quá trình thu hồi đất để phát triển
công nghiệp và dịch vụ trên địa bàn tỉnh từ năm 2007 đến năm 2012, vấn đề
bảo đảm lợi ích của các hộ nông dân có đất bị thu hồi chưa được giải quyết
thỏa đáng “Chưa quan tâm và có giải pháp kịp thời, phù hợp, hiệu quả, đồng
bộ với phương án bồi thường để giải quyết tốt cho người dân thuộc diện thu
hồi đất ổn định cuộc sống sau khi chuyển đến nơi ở mới như: phương án hỗ
trợ về vốn, mua nhà ở, đất ở tái định cư, phát triển kinh tế gia đình, đào tạo
nghề, tạo việc làm, thu hút lao động vào các cụm, khu công nghiệp,v.v...”
[53]. Các chính sách khuyến công, khuyến nông đối với người bị thu hồi đất
tại các khu tái định cư tạo điều kiện cho hộ sản xuất nông nghiệp ổn định đời
sống và sản xuất chưa thực hiện được. Đời sống của một bộ phận người dân
tại các khu tái định cư còn gặp khó khăn, chủ yếu là khó khăn về việc làm dẫn
đến nguồn thu nhập chưa ổn định. Các chính sách hỗ trợ đào tạo nghề và tạo
việc chưa phù hợp thực tế; các chính sách hỗ trợ học phí, hỗ trợ thẻ bảo hiểm
y tế còn bất cập, vướng mắc nên chưa thực sự động viên được những hộ dân
tại các khu tái định cư...[53]. Những biểu hiện đó chưa phù hợp với quy định
tại Điều 26 Chương II, Luật Đất đai năm 2013 về quyền lợi của người sử
dụng đất [39]. Theo đó, khi Nhà nước thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an
ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng thì người sử
dụng đất được Nhà nước bồi thường, hỗ trợ, tái định cư theo quy định của
pháp luật; có chính sách tạo điều kiện cho người trực tiếp sản xuất nông
nghiệp, lâm nghiệp...không có đất sản xuất do quá trình chuyển đổi cơ cấu sử
dụng đất và chuyển đổi cơ cấu kinh tế được đào tạo nghề, chuyển đổi nghề và
tìm kiếm việc làm. Tuy nhiên trên thực tế lợi ích nông dân như thế nào trong
quá trình thu hồi đất của họ, còn chưa được giải quyết thỏa đáng ?.
45
Cùng với những quy định của Luật Đất đai, theo tinh thần Nghị quyết,
của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Đồng Nai (khóa VIII) về thực hiện chính
sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện
quy hoạch và các dự án đầu tư trên địa bàn tỉnh Đồng Nai [53], theo đó mục
tiêu, quan điểm, nguyên tắc chỉ đạo được xác định là: “Thực hiện chính sách
bồi thường, hỗ trợ và tái định cư phải được tiến hành đúng nguyên tắc... nhằm
chăm lo giải quyết về đời sống, việc làm cho nhân dân thuộc diện tái định cư
có điều kiện sống tốt hơn nơi ở cũ...”, “Đảm bảo hài hoà lợi ích gắn với nghĩa
vụ, trách nhiệm của người dân thuộc diện thu hồi đất, nhà đầu tư và Nhà
nước; ngoài bồi thường về giá trị quyền sử dụng đất, giá trị tài sản trên đất,
cần tập trung các nguồn lực của Nhà nước và xã hội để thực hiện các chính
sách hỗ trợ và chính sách tái định cư phù hợp, đảm bảo có lợi nhất cho người
dân thuộc diện thu hồi đất có điều kiện sống tốt hơn khi chuyển đến nơi ở
mới” [53]. Thế nhưng thực tiễn diễn ra chưa phản ánh đúng và đầy đủ tinh
thần của những văn kiện trên.
Việc bồi thường giá trị quyền sử dụng đất khi bị thu hồi cho phát triển
các khu công nghiệp và khu dịch vụ còn bất cập đã làm nảy sinh các vấn đề
xã hội phức tạp, nhiều hộ nông dân bất bình và nộp khiếu kiện.
46
Trong thời gian qua, Đồng Nai đã xảy ra tình trạng nông dân biểu tình,
khiếu kiện đông người dài ngày vì bồi thường quyền sử dụng đất khi bị thu
hồi đất để chuyển đổi mục đích sử dụng không phù hợp, thiếu thống nhất và
không công bằng giữa các địa phương. Có nhiều trường hợp các thửa đất liền
kề nhau nhưng giá cả khác nhau do hai thửa đất đó của hai địa phương khác
nhau. Qua khảo sát tại huyện Long Thành cho thấy: năm 2013, Trung tâm
Phát triển quỹ đất huyện đã tiếp nhận 185 đơn nội dung đơn thư liên quan đến
bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng. Các đơn thư khiếu nại, tố cáo của
người dân trong lĩnh vực bồi thường, hỗ trợ tái định cư còn phát sinh nhiều và
tập trung chủ yếu là khiếu nại về giá đất, giá nhà ở và cây trồng. Ngoài ra,
một số dự án có khiếu nại đông người, phức tạp, gây mất an ninh trật tự (dự
án khu dân cư đô thị Long Hưng, dự án khu dân cư Công ty cổ phần Miền
Đông, Khu du lịch Sơn Tiên, mở rộng quốc lộ 51, Hồ chứa nước Sông Ray...)
làm cho công tác giải phóng mặt bằng của nhiều dự án bị đình trệ, kéo dài.
Thứ hai, đáp ứng nhu cầu chuyển đổi nghề nghiệp và việc làm cho
người nông dân trong quá trình phát triển các khu công nghiệp và khu dịch
vụ còn nhiều bất cập.
Chính sách khuyến công, khuyến nông đối với người bị thu hồi đất tại
các khu tái định cư, việc xây dựng các khu tái định cư gắn liền với yêu cầu
phát triển sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao để tạo điều kiện cho
hộ sản xuất nông nghiệp ổn định đời sống và sản xuất chưa thực hiện được.
47
Tình trạng thất nghiệp và không có việc làm trở nên bức xúc, nan giải
trên địa bàn tỉnh trong số lao động thuộc các hộ nông dân bị thu hồi đất. Bởi
hầu hết lao động khu vực nông thôn, đặc biệt là hiện nay lao động ở những
vùng đất bị thu hồi hoặc chuyển đổi mục đích sử dụng đều thuộc khu vực
không chính quy, lao động thời vụ, không được đào tạo về chuyên môn kỹ thuật
và hơn một nữa là nông dân với nguồn sinh kế chủ yếu là nông nghiệp; ngoài ra
còn phải kể đến số lao động này đều đã ở độ tuổi khá cao, sức khỏe đã giảm sút
(do lao động trẻ khỏe thường đi làm ăn xa). Trong khi đó, yêu cầu của các
doanh nghiệp công nghiệp và dịch vụ trong các khu công nghiệp lại đòi hỏi
người lao động phải có trình độ chuyên môn để được làm việc trong các
doanh nghiệp đó tại các khu công nghiệp. Trong mỗi khu công nghiệp, trong
mỗi ngành công nghiệp, dịch vụ có hàng trăm các doanh nghiệp hoạt động,
mỗi doanh nghiệp sản xuất hoặc kinh doanh một ngành dịch vụ có tính
chuyên biệt không giống nhau nên họ đòi hỏi một nguồn lao động có trình độ
chuyên môn khá đa dạng, việc đào tạo, bồi dưỡng nghề để đáp ứng nhu cầu
khách quan đó là khá phức tạp. Các đơn vị nhận đất hoặc các cơ sở đào tạo
nghề của Nhà nước chỉ đảm nhận một phần rất nhỏ. Do đó, sau khi bị thu hồi đất
và buộc phải chuyển đổi công ăn, việc làm, thì hầu hết các hộ gia đình tự bỏ tiền,
tự tìm cách đào tạo để chuyển đổi, vừa tốn kém, vừa không chắc chắn có đáp
ứng được yêu cầu của các doanh nghiệp hay không ? Thực trạng này có thể đẩy
hàng ngàn lao động nông nghiệp bị mất sinh kế, cũng như rơi vào tình trạng thất
nghiệp hoặc thiếu việc làm dài hạn khi họ không có định hướng hoặc đào tạo
nghề đúng nhu cầu của thị trường. Hệ quả là xuất hiện nhiều lao động thất
nghiệp và không có việc làm trong các gia đình nông dân bị thu hồi đất, gây
những bức xúc cho chính những hộ nông dân có đất bị thu hồi và cho xã hội.
Qua khảo sát ở thành phố Biên Hòa, vấn đề thu hồi và giải quyết việc
làm cho nông dân có đất bị thu hồi đã cho thấy một tình hình thực tế như sau:
48
Trong 4 năm qua, thành phố Biên Hòa đã thu hồi 644,64 ha, trong đó đất
nông nghiê ̣p là 474,66 ha, với 92 dự án/412 dự án toàn tỉnh. Theo Bộ Lao
động - Thương binh và Xã hội, cứ 1 ha đất bị thu hồi sẽ khiến 13-15 lao động
nông nghiệp bị mất việc thì sẽ có 6170 đến 7119 lao động làm nông nghiệp bị
mất việc làm do bị thu hồi đất. Theo số liệu thu thập được từ các ngành có
liên quan của thành phố như Phòng Lao động Thương binh và Xã hội, phòng
Kinh tế thành phố Biên Hòa thì trong thời gian qua trên địa bàn thành phố
Biên Hòa chưa tổ chức thực hiện được lớp đào tạo lao động đối với những
người bị thu hồi đất phải chuyển đổi ngành nghề, đa phần các chính sách
hỗ trợ đào tạo nghề thường được tính bằng tiền (tương đương với mô ̣t khóa
học nghề) để hỗ trợ cho các hộ dân. Nguyên nhân là do lao động nông
nghiệp này đã lớn tuổi, mặt khác một số ngành nghề trong kế hoạch đào
tạo không phù hợp với họ như: trồng hoa lan, may vá, nấu ăn, nuôi ếch,
cắm hoa, đan lát...
Chỉ riêng 3 dự án: Nhà máy nước Nhơn Trạch, khu tái định cư Tân
Biên, cụm gốm sứ Tân Hạnh, điều tra là 61/591 hộ bị thu hồi (chiếm
10,30%), tổng số nhân khẩu trong hô ̣ trước khi thực hiê ̣n thu hồi đất là 293
người, sau thu hồi là 304 người, tăng 11 người. Trong đó: lao động nông
nghiệp 112 người chiếm 38,23% cơ cấu lao động, sau thu hồi do mất đất
sản suất nông nghiệp nên lao động nông nghiệp không còn; số này được
thu nhận vào làm việc tại các khu công nghiệp là 45/112 người, chiếm tỷ lệ
40,17%, một tỷ lệ rất nhỏ, 58,83% còn lại phải chuyển sang làm các ngành
nghề khác. Nguyên nhân cũng vẫn là do số lao động nông nghiệp này đã
lớn tuổi, mặt khác một số ngành nghề trong kế hoạch đào tạo chuyển đổi
không phù hợp với khả năng để theo học của họ [14].
Thứ ba, tiến độ triển khai thực hiện dự án chậm, hoặc không được thực
hiện ảnh hưởng đến lợi ích của người nông dân.
49
Mặc dù trong thời gian qua so với nhiều địa phương khác trong cả nước,
công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng triển khai các dự án trên địa bàn
tỉnh đã đạt được nhiều kết quả tích cực, nhưng nhìn chung tiến độ còn chậm,
chưa đáp ứng yêu cầu thực tế về tiến độ giải phóng mặt bằng để bàn giao đất
sạch cho các nhà đầu tư. Số lượng các dự án và diện tích đất còn phải tiếp tục
thực hiện công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng trên địa bàn tỉnh còn lại
khá nhiều. Đến nay toàn tỉnh vẫn còn 508 dự án đang triển khai công tác bồi
thường với diện tích 18.821,4 ha [54]. Việc chậm triển khai các dự án hoặc
không triển khai, gây lãng phí to lớn về đất đai, tạo nên những bức xúc và làm
xuất hiện những mâu thuẫn về lợi ích kinh tế giữa nông dân với các nhà đầu
tư. Điển hình trong số đó có các dự án như: khu công nghiệp Amata (TP Biên
Hoà) và khu công nghiệp Hố Nai (huyện Trảng Bom).
Khu công nghiệp Amata được Ủy ban nhân dân tỉnh phê duyệt với tổng
diện tích 513 ha nhưng diện tích thực tế chưa nhận đủ. Trong đó, riêng giai
đoạn 2 được mở rộng lần 2 với diện tích 54,89 ha, được cấp giấy chứng nhận
đầu tư từ năm 2008 nhưng đến nay phần đất này vẫn còn trong tình trạng quy
chủ, kiểm kê và áp giá. Đối với khu công nghiệp Hố Nai (huyện Trảng Bom),
hiện có khoảng 15 ha chưa được thu hồi do các hộ dân trong vùng chưa nhận
tiền bồi thường, chưa giao đất và một số hộ dân chưa nhận lô nền tái định cư.
Việc bồi thường giai đoạn 2 của khu công nghiệp Hố Nai cũng đang gặp
vướng mắc. Đặc biệt đã 15 năm trôi qua, khu quy hoạch giải phóng mặt bằng
hơn 42 ha tại khu vực mỏ đá Sông Mây (ấp Sông Mây, xã Bình Minh, huyện
Trảng Bom, Đồng Nai) vẫn còn nhùng nhằng. Một số hộ dân đã di dời nhưng
đến nay vẫn chưa nhận được tiền bồi thường. Những hộ dân vẫn ở khu đất
giải tỏa thì không có điện, cuộc sống hết sức khó khăn [54].
Thứ tư, việc xây dựng các khu tái định cư còn bị động, thiếu và chưa
đáp ứng nhu cầu thực tế.
50
Công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư tập trung nhiều ở các địa
phương nằm trong khu vực đầu mối giao thông, có tốc độ đô thị hóa, công
nghiệp hóa mạnh như thành phố Biên Hòa, các huyện Long Thành, Nhơn
Trạch, Trảng Bom, Vĩnh Cửu và tiến độ thực hiện cũng như việc hoàn thành
công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng tại các địa phương này cũng thấp
hơn nhiều so với các địa phương khác còn lại trong tỉnh. Nguyên nhân dễ
nhận thấy trước hết do mật độ dân số tại các khu vực trên cao hơn nhiều lần
các địa phương còn lại dẫn đến phải bồi thường đất ở và tái định cư nhiều
hơn. Ngoài ra, việc áp dụng giá đất để bồi thường, hỗ trợ, tái định cư vào thực
tế tại các địa phương có tốc độ đô thị hóa, công nghiệp hóa cao vẫn khó khăn,
phức tạp hơn so với các địa phương còn lại.
Phần lớn các khu tái định cư chỉ được hoàn thành công tác xây dựng sau
khi đã thực hiện xong việc lập, thẩm định và phê duyệt phương án bồi thường,
hỗ trợ. Nhiều dự án đã được phê duyệt xong phương án bồi thường, người dân
đã nhận tiền bồi thường nhưng phải chờ nhận được đất tái định cư mới bàn
giao mặt bằng (hiện nay toàn tỉnh còn 2.702 hộ cần phải bố trí tái định cư)
[54] (xem phụ lục 2). Một số khu tái định cư chưa đảm bảo sự kết nối hạ tầng
nên chưa được người dân hưởng ứng, tỷ lệ người dân nhận đất xây dựng nhà
ở tái định cư còn thấp (khu tái định cư Phước Bình, huyện Long Thành, khu
tái định cư khu công nghiệp Hố Nai, xã Bắc Sơn, huyện Trảng Bom...). Đời
sống của một bộ phận người dân tại các khu tái định cư còn gặp khó khăn,
chủ yếu là khó khăn về việc làm dẫn đến nguồn thu nhập chưa ổn định. Các
chính sách hỗ trợ đào tạo nghề và tạo việc làm chưa phù hợp thực tế. Các
chính sách hỗ trợ học phí, hỗ trợ thẻ bảo hiểm y tế còn bất cập, vướng mắc
nên chưa thực sự động viên được những hộ dân tại các khu tái định cư.
Hiện nay, các dự án tái định cư trên địa bàn tỉnh hiện đang thực hiện là
32 dự án, trong đó đã có quyết định giao đất: 9 dự án, đã có quyết định thu
51
hồi đất là 10 dự án, tổng diện tích 1290,4 ha. Đáng chú ý là mới có một
khu tái định cư được đưa vào sử dụng (18,53 ha). Các dự án chuyển tiếp
sử dụng và phân bố trong quy hoạch sử dụng đất 2010 - 2020 gồm 71 dự
án với tổng diện tích 1.005,5 ha (xem phụ lục số 4 và 5)
Trong khi đó, theo Khoản 3 Điều 42 Luâ ̣t Đất đai năm 2003 thì “Uỷ
ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương lập và thực hiện các
dự án tái định cư trước khi thu hồi đất để bồi thường bằng nhà ở, đất ở
cho người bị thu hồi đất ở mà phải di chuyển chỗ ở”.
Do nhiều nguyên nhân khách quan (trong đó chủ yếu là khó khăn và
không chủ động được nguồn vốn) nên các khu tái định cư thường được
xây dựng sau khi triển khai công tác bồi thường, hỗ trợ các dự án. Vì vậy,
phần lớn các phương án bồi thường, hỗ trợ được thực hiện và phê duyệt
trước, sau đó mới thực hiện việc xét duyệt, giao đất tái định cư cho các
đối tượng. Đây là tồn tại mà trong thời gian tới cần phải có giải pháp để
khắc phục nhằm chủ động đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng và sớm
ổn định cuộc sống của người bị thu hồi đất. Việc xây dựng các khu tái
định cư còn bị động, thiếu và chưa đáp ứng nhu cầu thực tế. Phần lớn các
khu tái định cư chỉ được hoàn thành công tác xây dựng sau khi đã thực
hiện xong việc lập, thẩm định và phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ.
2.2.2. Nguyên nhân hạn chế và những vấn đề đă ̣t ra cần giải quyết
* Nguyên nhân cơ bản của những hạn chế, tồn tại
Những nguyên nhân cơ bản của những hạn chế, tồn tại trong giải
quyết vấn đề lợi ích trong thu hồi đất cho phát triển công nghiệp và dịch
vụ ở tỉnh Đồng Nai bắt nguồn từ ba nhóm nguyên nhân cơ bản dưới đây:
Thứ nhất, cơ chế chính sách tuy đã được đổi mới nhưng vẫn còn nhiều
bất cập
52
Những bất cập từ cơ chế chính sách bao gồm những chính sách chung
của Nhà nước và những quy định riêng của tỉnh Đồng Nai. Theo đó bao gồm
các vấn đề cụ thể sau:
Một là, mức bồi thường, hỗ trợ và phương thức bồi thường, hỗ trợ chưa
hợp lý. Mặc dù định hướng của Nhà nước là đền bù đầy đủ mọi thiệt hại gây
ra cho người nông dân bị thu hồi đất, nhưng trên thực tế, việc đền bù được
xác định theo các khung giá đã quy định thường lạc hậu so với biến động thực
tế của thị trường, vì vậy mà số người dân sau khi nhận được tiền đền bù
không thể mua lại được diện tích đất tương tự đã bị thu hồi. Đây là một bất
cập khiến người dân không mấy hào hứng với việc triển khai các dự án mà về
bản chất là mang lại lợi ích xã hội lớn cho mọi người và cho chính họ. Hơn
nữa, việc đền bù đầy đủ mọi thiệt hại, thực chất mới tính đến các thiệt hại hữu
hình như đất đai, cây trồng, vật nuôi, công trình, kiến trúc...liên quan đến đất,
chứ hoàn toàn chưa tính đến các thiệt hại vô hình mà người dân phải gánh
chịu như xáo trộn cuộc sống bình thường, mất sinh kế, phải đổi sang nghề
khác, thay đổi môi trường văn hóa và môi trường sinh thái... Đây là những
thiệt hại khá lớn mà các chính sách hiện hành cả của Nhà nước và tỉnh Đồng
Nai đều chưa tính đến một cách triệt để và toàn diện. Mặt khác, hạn chế chủ
yếu trong cơ chế chính sách hỗ trợ hiện có là việc bồi thường, hỗ trợ đều dưới
hình thức chi trả trực tiếp tiền cho người dân bị thu hồi đất, dẫn đến tình trạng
người dân dùng tiền để mua sắm chứ ít quan tâm đến học nghề, chuyển đổi
nghề để tính sinh kế lâu dài.
Hai là, việc hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và bố trí việc làm mới cho
người nông dân sau thu hồi đất còn yếu kém, chưa đáp ứng được yêu cầu ổn
định đời sống lâu dài của người dân bị thu hồi đất. Như trên đã phân tích người
dân ở vùng thu hồi đất không có, hoặc không đủ việc làm. Số lượng nông dân bị
thu hồi đất được thu hút vào làm việc trong các doanh nghiệp tại các khu công
53
nghiệp và khu dịch vụ là rất nhỏ so với nhu cầu thực tế của người dân. Nguyên
nhân chủ yếu là do rất nhiều người trong số họ ở độ tuổi cao, trình độ văn hóa
thấp, khó học nghề mới, không đáp ứng được nhu cầu lao động chất lượng cao
của các khu công nghiệp và khu dịch vụ. Mặt khác còn do chủ đầu tư các dự án
chưa có kế hoạch cụ thể ngay từ đầu để đào tạo và tuyển dụng lao động tại chỗ,
trong khi nhiều người nông dân thiếu sự nỗ lực, lúng túng, mãi nghĩ cách chi tiêu
số tiền được đền bù hơn là tìm cách học nghề mới. Tình hình đó dẫn đến tỷ lệ
lao động địa phương nơi có đất bị thu hồi, làm việc trong các khu công nghiệp
và khu dịch vụ rất thấp.
Ba là, chính sách tái định cư chưa kịp thời, gây nhiều bức xúc trong nhân
dân. Theo quy định của tỉnh, những hộ gia đình có nhà, đất bị giải toả trắng và
thu hồi hết đất thổ cư sẽ được hỗ trợ suất tái định cư theo quy định. Tuy
nhiên, hiện nay toàn tỉnh vẫn còn 2.702 hộ cần phải bố trí tái định cư. Điều
này ảnh hưởng nhiều đến việc triển khai thực hiện dự án của các chủ đầu tư.
Bốn là, thủ tục hành chính trong thu hồi đất và giao đất nhìn chung còn
phức tạp, nhiều đơn vị, tổ chức tham gia, vì thế thường rất chậm trễ.
Từ khi có thông báo thu hồi đất đến khi thực hiện xong phương án bồi
thường đã được phê duyệt là một quá trình khá dài. Riêng việc xây dựng
phương án đền bù cũng mất khá nhiều thời gian, vì phải qua sự giám sát, góp ý
của nhiều cơ quan, tổ chức. Chính vì vậy đây cũng là một trong những nguyên
nhân gây cản trở lớn cho quá trình thực hiện lợi ích trong thu hồi đất để xây
dựng KCN, KDV.
Thủ tục lập và thẩm định các dự án đầu tư còn kéo dài. Chưa quan tâm
kiểm tra khả năng thực hiện dự án của nhà đầu tư sau cấp phép, dẫn đến dự án
chậm triển khai hoặc không thực hiện được. Bên cạnh đó, một số nhà đầu tư
thiếu tích cực cùng với chính quyền trong triển khai các dự án đầu tư tái định
54
cư, có ảnh hưởng lớn đến công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và lợi ích
chính đáng của người dân thuộc diện thu hồi đất.
Thứ hai, việc tổ chức thực hiện cơ chế chính sách trong giải quyết lợi
ích cho nông dân có đất bị thu hồi của các cơ quan Nhà nước và các tổ chức
chính trị - xã hội còn bộc lộ nhiều bất cập.
Một là, một số cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể
nhân dân các cấp và các ngành chưa nhận thức đầy đủ tầm quan trọng và ý
nghĩa đối với đối tượng thuộc diện thu hồi đất là đối tượng cần quan tâm về
kinh tế - xã hội trong quá trình thực hiện bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất để thực hiện quy hoạch và các dự án đầu tư phát triển
kinh tế - xã hội.
Hai là, về trình độ và trách nhiệm của cán bộ thi hành còn nhiều bất cập.
Trình độ và trách nhiệm của cán bộ trực tiếp thực hiện các khâu trong
quá trình thu hồi đất cũng là một trong những nguyên nhân gây ra những khó
khăn, ách tắc trong quá trình thực hiện lợi ích kinh tế. Một số cán bộ chuyên
trách còn thiếu kinh nghiệm và năng lực giải quyết những công việc phức tạp
của quá trình thu hồi đất. Nguy hiểm hơn một số cán bộ có những biểu hiện
tiêu cực như sách nhiễu dân, tham nhũng... giải quyết công việc thiếu minh
bạch gây khiếu kiện kéo dài. Chưa giải thích cụ thể, rõ ràng cho người dân
hiểu đúng quy mô, ảnh hưởng của các dự án phát triển các KCN, KDV, cũng
như chủ trương chính sách về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư của Nhà nước
đối với các hộ dân nằm trong phạm vi dự án; công tác khảo sát, đo đạc, kiểm
kê, áp giá bồi thường của ngành chức năng tuy được tập trung thực hiện các
bước theo quy trình, nhưng quá trình thực hiện đã thể hiện tính chủ quan,
thiếu chặt chẽ, dẫn đến việc đo đạc, ghi chép số liệu đo đạc, kiểm kê tài sản
có trường hợp nhầm lẫn, bỏ sót, thiếu chính xác. Bên cạnh đó, còn do hạn chế
55
về năng lực, chuyên môn của đội ngũ cán bộ làm công tác tiếp dân, giải quyết
khiếu nại về đền bù giải phóng mặt bằng ở cơ sở.
Ba là, công tác phối hợp giữa các ngành, các cấp và việc củng cố, kiện
toàn tổ chức cán bộ chuyên trách công tác bồi thường từ tỉnh đến cơ sở chưa
được chặt chẽ, đồng bộ, kịp thời. Năng lực cán bộ làm công tác bồi thường
còn yếu; một số cấp ủy cơ sở phường, xã gần như khoán trắng cho chính
quyền. Sự phối hợp của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể với chính quyền các
cấp chưa được thường xuyên; công tác phối hợp giữa chủ đầu tư với Hội đồng
bồi thường chưa chặt chẽ; chưa kiên quyết xử lý các trường hợp xây dựng trái
phép và vi phạm đất quy hoạch.
Bốn là, công tác tuyên truyền, vận động, giáo dục nhân dân hiểu biết sâu
rộng chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về bồi thường,
hỗ trợ và tái định cư để thông hiểu chấp hành chưa được đầy đủ, đúng mức.
Một bộ phận nhân dân ý thức chấp hành chủ trương, chính sách còn kém, chỉ
thấy lợi ích trước mắt, chưa thấy lợi ích lâu dài và nghĩa vụ công dân để góp
sức cùng Nhà nước thực hiện.
Thứ ba, về nhận thức của các chủ thể còn những biểu hiện chưa phù hợp
với tình hình thực tiễn.
Những biểu hiện bất cập về nhận thức của các chủ thể bao gồm:
Một là, nhận thức của chính quyền cơ sở các địa phương có đất bị thu
hồi và các chủ đầu tư xung quanh vấn đề lợi ích trong thu hồi đất còn chưa
thực sự đúng đắn.
Bản thân mỗi chủ thể còn chưa hoàn toàn hiểu rõ sự thống nhất lợi ích
của họ trong quan hệ lợi ích này. Chính vì vậy, khi theo đuổi mục đích lợi
ích của mình, họ mới nhìn thấy khía cạnh mâu thuẫn của quan hệ lợi ích
đó. Chẳng hạn, doanh nghiệp chủ dự án cho rằng càng ít chi tiền đền bù, thì
56
họ càng có lợi; còn nông dân thì cho rằng họ càng đòi hỏi tiền đền bù càng
cao thì mình càng có lợi. Chính vì vậy, họ không thể giải quyết thỏa đáng
mối quan hệ lợi ích, không có sự hài hòa lợi ích giữa hai bên dẫn đến trì
trệ quá trình thu hồi đất, giải phóng mặt bằng và thực hiện dự án, nghĩa là
dẫn đến thiệt hại của cả hai bên. Về phía Nhà nước, do chúng ta chưa có
nhiều kinh nghiệm đối với việc giải quyết lợi ích trong thu hồi đất theo cơ
chế kinh tế thị trường để phát triển công nghiệp và dịch vụ, nên chưa thực
hiện tốt vai trò chủ thể lợi ích xã hội, là người ban hành các cơ chế, chính
sách nhằm giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích giữa các bên, nên chậm ban
hành cơ chế chính sách mới nhằm khắc phục những mâu thuẫn nảy sinh.
Hai là, nhận thức của người nông dân về sự thống nhất lợi ích kinh tế
của mình với các chủ thể khác còn quá hạn hẹp.
Về mặt tâm lý nhiều nông dân cũng luôn không muốn rời bỏ đất đai
của mình, chưa sẵn sàng với việc đổi mới cuộc sống và nghề nghiệp. Do
đó đây cũng là một nguyên nhân quan trọng để gây những bất cập, những
cản trở trong thực hiện quan hệ lợi ích của các bên. Một số người khiếu
kiện do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có nguyên nhân là không
hiểu chính sách, pháp luật nên khiếu nại thiếu căn cứ, vượt ra ngoài quy
định của pháp luật hoặc cố tình đeo bám dai dẳng, cố chấp được thua,
không chấp hành quyết định giải quyết khiếu nại, tố cáo có lý có tình. Một
số trường hợp có hành vi quá khích, gây rối, kích động, lôi kéo người
khác khiếu kiện, đây cũng là nguyên nhân làm phức tạp thêm tình hình
khiếu nại, tố cáo.
Những tồn tại và nguyên nhân của những tồn tại trên đây chính là cơ
sở quan trọng để tác giả xây dựng các giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng
cao hiệu quả giải quyết mối quan hệ lợi ích kinh tế khi thu hồi đất để xây
dựng các khu công nghiệp và khu dịch vụ.
57
* Một số vấn đề đặt ra từ thực trạng giải quyết lợi ích của người nông
dân trong quá trình phát triển công nghiệp và dịch vụ ở Đồng Nai hiện nay.
Thứ nhất, mâu thuẫn giữa bảo đảm lợi ích nông dân với chính sách ưu
đãi cho các doanh nghiệp trong phát triển các khu công nghiệp và dịch vụ.
Những tồn tại trong giải quyết lợi ích của người nông dân trong quá trình
phát triển công nghiệp và dịch vụ ở Đồng Nai vừa qua cho thấy hiện đang tồn
tại mâu thuẫn giữa bảo đảm lợi ích nông dân với chính sách ưu đãi cho các
doanh nghiệp trong phát triển các khu công nghiệp và dịch vụ.
Trong quá trình thu hồi đất vấn đề bảo đảm lợi ích của các hộ nông dân
có đất bị thu hồi chưa được giải quyết thỏa đáng, trong khi các doanh nghiệp
tại các khu công nghiệp và dịch vụ lại được hưởng nhiều ưu đãi.
Ở huyện Long Thành, theo báo cáo của Ủy ban nhân dân huyện về việc
thực hiện các chính sách hỗ trợ đào tạo nghề, giải quyết việc làm gặp phải khó
khăn do: đối tượng thụ hưởng không có nhu cầu đào tạo nghề tập trung vì đã
có nghề nghiệp, vì lớn tuổi, sức khỏe yếu, trình độ học vấn thấp hoặc không
có nhu cầu chuyển đổi nghề nghiệp mà vẫn tiếp tục sản xuất nông nghiệp
bằng cách chuyển nhượng đất đai ở những nơi khác. Về hỗ trợ chuyển đổi
nghề nghiệp và tạo việc làm theo Nghị định số 69/2009/NĐ-CP (Điều 22)
điều kiện để được hưởng chính sách hỗ trợ này là trực tiếp sản xuất nông
nghiệp và có nguồn sống chủ yếu từ sản xuất nông nghiệp; đối với chính sách
trên rất khó xác định, do một số hộ gia đình, cá nhân ngoài việc sản xuất nông
nghiệp còn phải làm thêm nhiều nghề khác mới đảm bảo ổn định cuộc sống;
do vậy việc xác định hộ gia đình, cá nhân có nguồn sống chủ yếu từ sản xuất
nông nghiệp cũng còn gặp phải khó khăn, vướng mắc vì tất cả nguồn thu nhập
nêu trên đều là nguồn thu nhập chính; nếu thiếu 01 nguồn thu nhập thì cuộc
sống của người dân sẽ gặp khó khăn [30].
Trong khi đó, tại các khu công nghiệp và dịch vụ ở Đồng Nai, các doanh
nghiệp lại được hưởng nhiều chính sách ưu đãi như: tiền thuê đất và ưu đãi
58
tiền thuê đất, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân, thuế nhập
khẩu, thuế trị giá gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt và các ưu đãi khác tại Đồng
Nai với các dự án đầu tư vào khu công nghiệp tại các huyện Tân Phú, Định
Quán, Xuân Lộc, Cẩm Mỹ: được miễn phí sử dụng hạ tầng trong 5 năm kể từ
khi bắt đầu sản xuất kinh doanh. Ngoài ra nếu dự án đầu tư thuộc danh mục
ngành nghề đặc biệt khuyến khích đầu tư và danh mục ngành nghề khuyến
khích đầu tư theo quy định của Chính phủ được miễn tiền thuê đất trong thời
hạn thuê đất; các dự án đầu tư thuộc các ngành nghề còn lại được miễn tiền
thuê đất trong thời gian 15 năm kể từ khi ký hợp đồng thuê đất; các doanh
nghiệp thuê đất đầu tư xây dựng nhà ở cho công nhân của doanh nghiệp
(không kinh doanh) được miễn tiền thuê đất trong thời hạn thuê đất [39] (xem
phụ lục 6).
Hai xu hướng vận động có những biểu hiện ngược nhau đó cần phải
được giải quyết căn cơ để tạo nên sự thống nhất, đảm bảo lợi ích của các bên
liên quan đều được giải quyết, không còn xung đột với nhau.
Thứ hai, mâu thuẫn giữa yêu cầu trình độ chuyên môn để được làm việc
trong các khu công nghiệp với thực trạng chưa được đào tạo của một bộ phận
không nhỏ nông dân thiếu đất canh tác
Theo đánh giá của Tỉnh uỷ Đồng Nai quá trình thu hồi đất để phát triển
công nghiệp và dịch vụ, các chính sách hỗ trợ đối với người bị thu hồi đất
như: hỗ trợ di chuyển; hỗ trợ tái định cư đối với trường hợp thu hồi đất ở; hỗ
trợ ổn định đời sống và sản xuất; hỗ trợ đối với đất nông nghiệp trong khu dân
cư và đất vườn, ao không được công nhận là đất ở; hỗ trợ chuyển đổi nghề
nghiệp và tạo việc làm, chính sách đào tạo nghề, giải quyết việc làm, hỗ trợ
tiền thuê nhà, thưởng do di dời…đã được UBND tỉnh quy định cụ thể, rõ ràng
và đã được áp dụng đầy đủ, thống nhất trên địa bàn tỉnh. Tuy nhiên, vẫn còn
một vài chính sách hỗ trợ như hỗ trợ đào tạo nghề, hỗ trợ việc miễn giảm học
59
phí, cấp thẻ bảo hiểm y tế,... chưa phát huy hiệu quả để động viên người bị
thu hồi đất...[53].
Hai xu hướng vận động ngược chiều nhau này đã thực sự tạo ra mâu
thuẫn, một bên là đòi hỏi người lao động phải có trình độ chuyên môn để
được làm việc trong các doanh nghiệp và một bên là tình trạng người lao
động không được đào tạo chuyên môn tương ứng để thỏa mãn yêu cầu đó. Hệ
quả của tình trạng này là xuất hiện nhiều lao động thất nghiệp và không có
việc làm trong các gia đình nông dân bị thu hồi đất, gây những bức xúc cho
chính những hộ nông dân có đất bị thu hồi và cho xã hội.
Bảo đảm được việc làm, thu nhập, ổn định và nâng cao đời sống cho
người nông dân trong quá trình thu hồi đất phát triển công nghiệp và dịch vụ
trên địa bàn tỉnh Đồng Nai là nội dung tổng hợp của tính chính trị, tính kinh
tế, tính xã hội và thể hiện tính nhân văn sâu sắc, nhưng đang là vấn đề thời sự
cấp thiết, cần được sớm giải quyết một cách cơ bản. Hướng giải quyết mâu
thuẫn này là các kế hoạch thu hồi đất phải đi cùng và được tiến hành trước
việc đào tạo nghề, giải quyết vấn đề chuyên môn cho lực lượng lao động nông
dân có đất bị thu hồi.
Thứ ba, mâu thuẫn giữa tốc độ phát triển nhanh của các khu công nghiệp
với tốc độ phát triển các khu tái định cư cho nông dân
Thực tiễn ở Đồng Nai cho thấy các dự án tái định cư bao giờ cũng đi sau
(chứ không được đi cùng) so với các dự án tại các khu công nghiệp. Sự "lệch
pha" về tiến độ này đã cho thấy ngay trong khâu quy hoạch và tổ chức thực
hiện luôn tồn tại một thực tế là đang tồn tại một mâu thuẫn - mâu thuẫn giữa
tốc độ phát triển nhanh của các khu công nghiệp với tốc độ phát triển các khu
tái định cư cho nông dân.
Do nhiều nguyên nhân khách quan (trong đó chủ yếu là khó khăn và
không chủ động được nguồn vốn) nên các khu tái định cư thường được xây
60
dựng sau khi triển khai công tác bồi thường, hỗ trợ các dự án. Vì vậy, phần
lớn các phương án bồi thường, hỗ trợ được thực hiện và phê duyệt trước, sau
đó mới thực hiện việc xét duyệt, giao đất tái định cư cho các đối tượng. Một
số khu tái định cư chưa đảm bảo sự kết nối hạ tầng nên chưa được người dân
hưởng ứng, tỷ lệ người dân nhận đất xây dựng nhà ở tái định cư còn thấp (khu
tái định cư Phước Bình, huyện Long Thành, khu tái định cư khu công nghiệp
Hố Nai, xã Bắc Sơn, huyện Trảng Bom...) [54].
Trong khi đó, nhu cầu bố trí tái định cư trên địa bàn các huyện, thành phố
Biên Hòa và thị xã Long Khánh đến ngày 31/12/2012 thì nhu cầu bố trí tái định
cư trong toàn tỉnh là 5.821 hộ, nhưng mới bố trí tái định cư cho 3.119 hộ (bao
gồm cả các trường hợp nhận tái định cư phân tán) đạt tỷ lệ 53,6%. Còn lại 2.702
hộ phải giải quyết tái định cư và đang chờ để giải quyết [54] (xem phụ lục số 2).
Như vậy có thể thấy việc phát triển nhanh các khu tái định cư cho người
dân trong diện có đất bị thu hồi không còn đất để làm nhà tuy đã được đẩy
lên, nhưng tốc độ tăng lên đó chậm hơn nhiều so với tốc độ tăng các khu công
nghiệp thời gian qua và do đó giữa tốc độ phát triển của các khu công nghiệp
với tốc độ phát triển các khu tái định cư cho nông dân là mâu thuẫn có thực
đang tồn tại trong quá trình thu hồi đất để xây dựng các khu công nghiệp và
khu dịch vụ ở Đồng Nai, cần sớm được giải quyết.
* *
*
Trong khoảng thời gian từ 2007 đến nay, tỉnh Đồng Nai đã tiến hành thu
hồi một diện tích đất nông nghiệp và phi nông nghiệp để xây dựng các khu
công nghiệp, khu kinh tế dịch vụ đáp ứng nhu cầu phát triển công nghiệp và
dịch vụ trên địa bàn tỉnh. Đồng thời, đó cũng là quá trình tỉnh giải quyết lợi
ích kinh tế cho nông dân có đất bị thu hồi. Trên cơ sở quan điểm, chính sách
của Đảng và Nhà nước, các chủ trương, biện pháp của Tỉnh ủy và sự chỉ đạo
61
tổ chức thực hiện của Ủy ban nhân dân tỉnh, sự quyết tâm cao của các ngành
chức năng, việc giải quyết lợi ích cho người dân có đất bị thu hồi cơ bản đã bảo
đảm lợi ích kinh tế của họ; người dân thuộc diện thu hồi đất cơ bản được ổn định
về chỗ ở, việc làm và đời sống. Việc thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và
tái định cư theo hướng đảm bảo lợi ích cho nông dân có đất bị thu hồi theo chủ
trương của tỉnh đã phần nào duy trì được tốc độ phát triển kinh tế - xã hội trên
địa bàn thời gian qua với tốc độ khá cao, liên tục và cũng khá bền vững.
Song đó mới là những kết quả đạt được bước đầu, mới tập trung vào giải
quyết những vấn đề bức xúc nhất. Trong tổ chức thực hiện chính sách bồi
thường, một số nội dung bồi thường, hỗ trợ và tái định cư chưa được thể chế
hoá đầy đủ, kịp thời, phù hợp; chưa quan tâm và có giải pháp kịp thời, phù
hợp, hiệu quả, đồng bộ với phương án bồi thường để giải quyết tốt cho người
dân thuộc diện thu hồi đất ổn định cuộc sống sau khi chuyển đến nơi ở mới,
như các phương án hỗ trợ về vốn, mua nhà ở, đất ở tái định cư, phát triển kinh
tế gia đình, đào tạo nghề, tạo việc làm, thu hút lao động vào các cụm, khu
công nghiệp... Những tồn tại đó đã làm nảy sinh những mâu thuẫn, đòi hỏi
lãnh đạo và chính quyền các cấp tỉnh Đồng Nai nhận diện đúng và có các giải
pháp căn cơ để giải quyết trong thời gian tới, tiếp tục đưa ngành công nghiệp,
dịch vụ và toàn bộ nền kinh tế địa phương phát triển, để Đồng Nai cùng cả
nước cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020.
62
Chương 3
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT THỎA ĐÁNG LỢI ÍCH
KINH TẾ CỦA NÔNG DÂN TRONG THU HỒI ĐẤT PHÁT TRIỂN
CÔNG NGHIỆP VÀ DỊCH VỤ Ở ĐỒNG NAI THỜI GIAN TỚI
3.1. Những quan điểm cơ bản
3.1.1. Giải quyết lợi ích kinh tế cho nông dân có đất bị thu hồi để xây dựng
các khu công nghiệp và dịch vụ ở Đồng Nai trên cơ sở cơ chế thị trường.
Hiện nay đất nước ta đang trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa. Đảng ta xác định CNH, HĐH là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành
phần kinh tế. Quá trình đó tất yếu dẫn đến phải thu hồi một diện tích đất nông
nghiệp nhất định để xây dựng các khu công nghiệp, dịch vụ. Mặc khác, nền kinh
tế nước ta hiện nay là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong nền
kinh tế thị trường, lợi ích kinh tế của các chủ thể kinh tế nói chung, lợi ích kinh
tế của nông dân nói riêng thể hiện tập trung nhất thông qua phạm trù thu nhập.
Lợi ích là căn cứ quan trọng để các chủ thể kinh tế thực hiện quyết sách kinh
doanh. Nếu lợi ích bằng 0, tức giá bán bằng hoặc không đủ bù chi phí sản xuất
thì chủ thể sản xuất kinh doanh không còn động lực, do đó không tiến hành sản
xuất kinh doanh. Theo hướng đó, đất nông nghiệp thuộc quyền sử dụng của
nông dân, khi chuyển nhượng quyền sử dụng, người nông dân phải có thu nhập
từ sự chuyển nhượng đó. Thu nhập đó được thực hiện trên thị trường tất yếu phải
chịu sự chi phối bởi các quy luật giá cả, cạnh tranh, cung - cầu, hay do thị trường
điều tiết. Với vấn đề đang được bàn luận ở đây, việc giải quyết quan hệ lợi ích
giữa các chủ thể có liên quan trong thu hồi đất phát triển công nghiệp và dịch vụ
không chỉ dựa trên các nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội mà còn dựa trên cơ chế
thị trường.
Trên thực tế, “cái” mà đề tài nghiên cứu không phải là đất đai hiện
đang thuộc quyền sử dụng của người dân, giá cả của nó, người có quyền sử
63
dụng (nông dân) không được quyền quyết định, mà quyền thuộc về Nhà
nước. Nhà nước quyết định giá chi trả bồi thường. Do tác động của chính
sách khuyến khích thu hút đầu tư phát triển các dự án công nghiệp, dịch vụ
nên Nhà nước không bảo đảm nguyên tắc ngang giá trong bồi thường
quyền sử dụng đất, mà xu hướng phổ biến là thấp hơn so với giá chuyển
nhượng đất đai trên thị trường cùng thời điểm. Như vậy, về bản chất kinh
tế, nếu chính sách của nhà nước về bồi thường giá đất và tài sản hoa màu
trên đất thấp hơn so với giá thị trường, sẽ làm thiệt hại đối với lợi ích kinh
tế của nông dân có đất bị thu hồi. Điều đó làm cho người nông dân vốn có
điều kiện kinh tế khó khăn, nay bị thu hồi đất, không còn tư liệu sản xuất,
lại phải di chuyển chỗ ở càng trở nên khó khăn hơn. Chính vì vậy, việc
đảm bảo lợi ích của các chủ thể tham gia vào quá trình chuyển đổi mục
đích sử dụng đất nói chung, của người nông dân nói riêng phải được thực
hiện theo cơ chế thị trường, phải dựa trên giá cả thị trường ở từng thời
điểm cho phù hợp. Đảm bảo cho người nông dân không bị thiệt hại về lợi
ích kinh tế, bảo đảm cho họ được bình đẳng cả về lợi ích kinh tế và địa vị
xã hội với các nhà đầu tư công nghiệp, dịch vụ. Đây là quan điểm chỉ đạo,
xuyên suốt quá trình công nghiệp hóa, hiện đại ở Đồng Nai hiện nay. Theo
hướng đó, cần thực hiện tốt các yêu cầu sau:
Đảm bảo công bằng trong giải quyết lợi ích đối với mỗi chủ thể.
Một trong những định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị
trường ở nước ta hiện nay đang được Đảng ta xác định là: thực hiện mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Trên góc độ kinh
tế, công bằng được biểu hiện trong lĩnh vực phân phối bao gồm cả phân
phối cho tiêu dùng sản xuất và tiêu dùng sinh hoạt. Công bằng là những
điều kiện thuận lợi giúp cho cá nhân cũng như tập thể được những gì họ có
quyền đạt tới. Do đó:
64
Trước hết, phải đảm bảo công bằng về lợi ích đối với các chủ thể liên
quan trong việc thu hồi đất để phát triển công nghiệp và dịch vụ. Theo
hướng đó, các nhà đầu tư cho các khu công nghiệp, dịch vụ được tạo điều
kiện, thì người nông dân bị thu hồi đất cũng phải được tạo điều kiện cho ổn
định sản xuất và đời sống.
Thứ hai, việc giải quyết xung đột lợi ích giữa các chủ thể trong việc
thu hồi đất với nguyên tắc: lợi ích của xã hội mà trực tiếp là lợi ích của quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải được phân phối công bằng cho
người bị thu hồi đất cả hiện tại và tương lai. Chính vì vậy việc tôn trọng cơ
chế thị trường trong giải quyết các lợi ích kinh tế cho những chủ thể tham
gia không chỉ chịu sự điều tiết của thị trường trong việc xác định giá cả, mà
còn phải làm sao thúc đẩy tiến trình chuyển đổi mục đích sử dụng đất thật
nhanh chóng và kịp thời để tránh các cơn bão giá có thể xảy ra.
Thứ ba, trong phát triển công nghiệp, dịch vụ, việc xây dựng các khu
công nghiệp, khu dịch vụ mới cả Nhà nước (tỉnh Đồng Nai), doanh nghiệp
đầu tư và người bị thu hồi đất đều có lợi. Tuân theo cơ chế thị trường thì
giá cả chính là tín hiệu có tác dụng điều chỉnh linh hoạt việc chuyển đổi
quyền sử dụng đất từ nông dân sang các doanh nghiệp chủ dự án. Khi xác
định được giá đền bù thoả đáng theo cơ chế thị trường thì việc chuyển đổi
mục đích sử đụng đất đồng thời cũng là quá trình chuyển đổi quyền sử
dụng đất sẽ diễn ra nhanh chóng và thuận lợi. Khi xây dựng cơ chế tự
thương lượng giữa các chủ thể lợi ích đồng thời là các chủ quyền sử dụng
đất thì giá cả đóng vai trò quyết định trong quá trình thương thảo này. Chỉ
có xác định được giá cả một cách hợp lý thì quá trình giải phóng mặt bằng
mới có thể diễn ra thuận lợi, nhanh chóng để đưa mặt bằng vào sử dụng
giảm thiểu thiệt hại do biến động giá, do vốn đầu tư bị ứ đọng và do nhiều
lý do khác. Chính vì vậy mà không nên lạm dụng áp lực chủ quan trong
giải quyết lợi ích kinh tế của người bị thu hồi đất vì lợi ích khác.
65
Căn cứ vào vai trò, xu hướng phát triển của các chủ thể sau thu hồi đất, để
giải quyết lợi ích.
Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói chung, trong phát
triển công nghiệp và dịch vụ nói riêng, phải quan tâm giải quyết tốt các vấn
đề về lợi ích (cả trước mắt và lâu dài; cả kinh tế, xã hội và an ninh, quốc
phòng) cho các chủ thể là Nhà nước, doanh nghiệp và người dân. Tuy nhiên,
trên thực tế không phải tất cả mọi người, mọi tập thể, đơn vị hoặc tổ chức đều
được hưởng lợi từ quá trình thu hồi đất ngang bằng nhau. Khi đất nông nghiệp
chuyển đổi thành các khu công nghiệp, khu dịch vụ mới hay kết cấu hạ tầng...
cũng có nghĩa là một bộ phận nông dân không còn đất canh tác, không còn
thu nhập từ đất, đời sống sẽ có những đảo lộn. Trong khi đó các nhà đầu tư thì
đứng trước cơ hội mới trong kinh doanh theo hướng gia tăng lợi nhuận. Hai
khả năng vận động có xu hướng ngược chiều nhau này đòi hỏi phải được nhìn
nhận thấu đáo, tiên liệu trước, để có hướng, phương thức giải quyết phù hợp.
Chính vì vậy, khi giải quyết quan hệ lợi ích giữa các chủ thể có liên
quan trong thu hồi đất phát triển công nghiệp và dịch vụ phải thực hiện theo
nguyên tắc: các chủ thể tham gia không phân biệt giai cấp hay nguồn gốc
xuất thân đều có cơ hội được đảm bảo một cách bình đẳng về lợi ích. Điều
đó có nghĩa là họ được “nhận”, được hưởng lợi từ việc nhận mặt bằng đất
thu hồi (chủ đầu tư các dự án) hoặc từ việc bàn giao đất (nông dân) một
cách tương xứng.
3.1.2. Giải quyết lợi ích kinh tế cho nông dân đồng bộ đảm bảo lợi ích
của các chủ thể khác.
Nền kinh tế nước ta hiện nay là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Trong quá trình phát triển, không phải chỉ có sự tham gia của một chủ
thể, mà có sự tham gia của nhiều chủ thể thuộc các thành phần kinh tế khác
nhau như đại biểu cho các lợi ích khác nhau:
66
Lợi ích của toàn xã hô ̣i: thu hồi đất để thực hiện các dự án xây dựng hạ
tầng xã hội sẽ tạo điều kiê ̣n thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế tăng giá trị
công nghiê ̣p, dịch vụ thương mại, đẩy mạnh công nghiê ̣p hóa - hiê ̣n đại hóa
và đô thị hóa, đưa đất nước tiến nhanh hơn trên con đường dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh
Lợi ích của chủ đầu tư: nhà nước tạo mọi điều kiê ̣n thuâ ̣n lợi cho chủ
đầu tư thực hiê ̣n các dự án, do đó các dự án khi hoàn thiê ̣n kết cấu hạ tầng thì
giá trị của đất tăng lên rất nhiều so với trước khi thực hiê ̣n mang lại nhiều lợi
ích cho chủ đầu tư.
Lợi ích của các hô ̣ dân bị thu hồi đất: thu hồi đất để phát triển kinh tế -
xã hô ̣i mang lại lợi ích phát triển đất nước nhưng nó có ảnh hưởng đến lợi ích,
đời sống của những người dân bị thu hồi, cần coi người có đất bị thu hồi là
những người góp vốn cho đất nước, họ phải là người cần được chia sẻ lợi ích
đó. Vấn đề đă ̣t ra hàng đầu cần giải quyết là họ sẽ không còn đất để sản xuất,
phải chuyển đổi ngành nghề làm cho cuô ̣c sống người dân bị xáo trô ̣n, do đó
nếu không đảm bảo cho họ được việc làm, có thu nhập thường xuyên và ổn
định thì sẽ lâm vào cảnh khó khăn.
Theo hướng đó, trong quá trình thu hồi đất nông nghiệp để xây dựng các
khu công nghiệp, dịch vụ, không chỉ liên quan đến lợi ích kinh tế của người
nông dân mà còn có lợi ích của Nhà nước (đại biểu cho lợi ích xã hội) và nhà
đầu tư.
Tuy nhiên, trên thực tế, mối quan hệ lợi ích kinh tế giữa các chủ thể
trong quá trình thu hồi đất trên phạm vi cả nước nói chung, trên địa bàn tỉnh
Đồng Nai nói riêng chưa thực sự bình đẳng. Nhiều trường hợp, nhà nước thu
hồi đất để phát triển các khu công nghiê ̣p, xây dựng những công trình công
cộng, cán bộ dự án áp giá đền bù quyền sử dụng ruộng đất của người nông
dân quá rẻ so với giá thị trường, và thiếu nhất quán.
67
Có tình trạng nhiều địa phương được các nhà đầu tư ca ngợi không tiếc
lời về chính sách giá ưu đãi, về giải phóng mặt bằng nhanh, giao đất nhanh và
dễ dàng, nhưng người dân thì hững hờ, và lo lắng, thậm chí bất bình bởi chính
quyền địa phương ủng hộ, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đầu tư, song lại
ít quan tâm đến lợi ích nông dân, dẫn đến bất bình đẳng: nhà đầu tư được lợi
nhiều, còn nông dân mất đất thì thiệt đơn thiệt kép. Đă ̣c biê ̣t, có nhà đầu tư
lấy đất của nông dân nhưng không đưa dự án vào triển khai xây dựng, để
hoang hóa cỏ mọc, cũng không ít nhà đầu tư chờ giá đất lên cao rồi chuyển
nhượng hưởng chênh lệch giá kiếm lời. Trong khi đó, nông dân thì không còn
đất sản xuất, tiền đền bù quá rẻ không đủ để chuyển đổi nghề dẫn đến khiếu
kiện triền miên, dai dẳng; nhưng chính quyền chưa có biện pháp giải quyết
thỏa đáng, dứt điểm.
Vì vậy, việc bảo đảm lợi ích kinh tế cho người nông dân, phải nằm trong
mối quan hệ với lợi ích kinh tế của các chủ thể khác. Để thực hiện quan điểm
này cần thực hiện tốt các yêu cầu sau:
Bảo đảm lợi ích cho nông dân phải theo nguyên tắc lợi ích cá nhân
thống nhất với lợi ích chung của nhóm cộng đồng (tập thể), xã hội
Trước đây, trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung với hai thành phần
kinh tế cơ bản là quốc doanh và tập thể, do đó các quan hệ về lợi ích: cá nhân,
tập thể, xã hội cơ bản là thống nhất. Hiện nay, với nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, hệ thống các lợi ích kinh tế hình
thành, vận động trong mối quan hệ đa chiều, rất phức tạp. Các mối quan hệ lợi
ích: vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn với nhau. Vì vậy, cần giải quyết hài hoà
các lợi ích sẽ tạo động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Quá trình
giải quyết mối quan hệ giữa các lợi ích kinh tế là tạo ra các điều kiện, trong đó
việc thực hiện các lợi ích sao cho cùng một hướng và đảm bảo tính hàng đầu
của lợi ích xã hội, cái có lợi ích đối với xã hội thì phải có lợi ích đối với tập thể,
68
cá nhân và mỗi doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc nhận thức của người dân, một
bộ phận doanh nhân, một số quan chức trong bộ máy công quyền chưa có sự
đồng thuận. Đặc biệt những người nông dân, vốn đã ngàn đời gắn bó với làng
quê, cùng tư duy, thói quen của kinh tế tự cấp tự túc, nay phải nhường trả đất
đai, chuyển đổi nghề nghiệp, thì không thể một sớm một chiều thay đổi
được nhận thức về quan hệ lợi ích giữa cá nhân với tập thể, xã hội; giữa
lợi ích trước mắt với lợi ích lâu dài của chính người dân; giữa lợi ích kinh
tế với lợi ích về chính trị, an ninh, quốc phòng. Vì vậy, trách nhiệm cán
bộ địa phương là phải nâng cao dân trí, pháp luật, kết hợp với tuyên
truyền vận động nông dân đồng tình ủng hộ quy hoạch phát triển kinh tế -
xã hội của địa phương. Có thể, vì mục đích chung toàn cục, không thể để
những dự án lớn đã quy hoạch hợp lý giẫm chân tại chỗ, ảnh hưởng đến
mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội vùng miền, nếu cần vẫn phải cưỡng
chế một số người cố tình không nhận đền bù và khiếu kiện, không giao
đất. Nếu như nông dân được tham gia bàn bạc dân chủ, công khai theo
đúng quy trình thu hồi đất, giải phóng mặt bằng bàn giao cho chủ đầu tư
thì sẽ có sự đồng thuận của người dân.
Nhà nước bảo vệ lợi ích của nông dân
Các cấp chính quyền của tỉnh thường xuyên theo dõi, kiểm tra kịp
thời phát hiện ra các mâu thuẫn phát sinh trong quá trình giải quyết quan
hệ lợi ích trong chuyển đổi mục đích sử dụng đất, trên cơ sở đó cần vận
dụng tốt các quy luật của thị trường như quy luật cung - cầu, quy luật giá
trị. Giải quyết các lợi ích kinh tế phải có lý, có tình, đúng pháp luật, hợp
lòng dân đảm bảo được lợi ích chính đáng của người dân.
Ngoài ra, cần giảm bớt các khoản đóng góp của người nông dân hiện
nay, tạo điều kiện cho họ đầu tư từ khoản thuế sử dụng đất nông nghiệp
được giảm trừ.
69
Quan hệ giữa nông dân và các doanh nghiệp được thực hiện theo
nguyên tắc cùng có lợi.
Trong quá trình giải quyết quan hệ giữa các lợi ích kinh tế, lợi ích của
người có đất bị thu hồi cho phát triển các khu công nghiệp, khu dịch vụ phải
được đặt trong quan điểm “dân là gốc”. Đây là yêu cầu, đặc trưng cho sự tốt
đẹp của xã hội chúng ta. Với quan điểm lấy dân làm gốc thì mọi thiệt hại của
người dân do quá trình thu hồi đất gây ra đều được quan tâm, đền bù đầy đủ.
Phải vận dụng nhiều hình thức, phương thức đền bù khác nhau để đảm bảo
cho người dân sau khi trao trả quyền sử dụng đất sẽ có một cuộc sống ổn
định, văn minh và hiện đại, tiện nghi hơn trước, phải đảm bảo cho họ có một
công ăn việc làm ổn định với thu nhập cao hơn trước. Đồng thời cũng đảm
bảo cho họ hoà nhập vào với cuộc sống mới sau khi bị thu hồi đất. Khi coi
trọng quan điểm lấy dân làm gốc thì Nhà nước đôi khi phải hy sinh lợi ích
trước mắt để phục vụ cho lợi ích lâu dài, phải gắn việc thực hiện các lợi ích
kinh tế với lợi ích về văn hoá, xã hội và ổn định xã hội, đảm bảo an ninh. Cụ
thể, Nhà nước có thể đầu tư một khoản vốn lớn để thực hiện đền bù, các chính
sách giải phóng mặt bằng và sau giải phóng mặt bằng để đảm bảo cho dân có
đủ các quyền lợi chính đáng. Tuy nhiên, cần phải nghiên cứu một cơ chế khoa
học và hợp lý, sao cho tránh được những tiêu cực như tham nhũng, sách nhiễu
dân của các cán bộ thực hiện.
3.1.3. Đảm bảo cả lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài của nông dân
khi thu hồi đât của họ.
Đây là quan điểm chi tiết hoá, cụ thể hoá của quan điểm lấy dân làm gốc
nêu trên. Khi thực hiện thu hồi đất nông nghiệp, thì nhiệm vụ quan trọng là
phải coi quyền được có việc làm ổn định, thu nhập khá, đời sống ổn định
nhanh chóng trong môi trường mới của người nông dân là lợi ích kinh tế
chính đáng, hợp pháp của họ mà Nhà nước với vai trò là chủ thể đại diện cho
70
lợi ích xã hội và trọng tài, là người điều tiết mối quan hệ lợi ích này phải thực
hiện. Nếu coi nhẹ nhiệm vụ trên đây sẽ có nguy cơ mất ổn định xã hội, mất uy
tín của Nhà nước đối với dân.
Theo các chính sách hiện hành của Nhà nước, lợi ích của người nông dân
bị thu hồi đất chủ yếu là được nhận tiền bồi thường, được hỗ trợ đào tạo nghề để
chuyển đổi nghề nghiệp. Bên cạnh đó, người nông dân có thể được làm việc tại
các dự án; hoặc được góp vốn cổ phần vào các dự án bằng quyền sử dụng đất...
Tuy nhiên, trên thực tế, những lợi ích này của người nông dân còn chưa được
bảo đảm một cách hợp lý, dẫn đến các cuộc khiếu kiện đông người kéo dài, tiềm
ẩn những bất ổn về chính trị - xã hội, thể hiện ở những mặt sau đây:
Một là, mức giá và phương thức bồi thường hay hỗ trợ chưa hợp lý. Mặc
dù định hướng của Nhà nước là đền bù đầy đủ mọi thiệt hại cho nông dân khi
thu hồi đất, nhưng thực chất mới tính đến các thiệt hại hữu hình, chứ chưa
tính đến các thiệt hại vô hình mà người dân phải gánh chịu như: xáo trộn cuộc
sống bình thường, mất nghề nghiệp sinh sống phải đổi sang nghề khác, thay đổi
môi trường văn hóa và môi trường sinh thái... Mặt khác, hạn chế chủ yếu trong
phương thức bồi thường, hỗ trợ hiện nay là đều chi trả trực tiếp bằng tiền cho
người dân bị thu hồi đất, dẫn đến tình trạng người dân dùng tiền để mua sắm chứ
ít quan tâm đến học nghề, chuyển đổi nghề để tính sinh kế lâu dài.
Hai là, việc hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và bố trí việc làm mới cho
người nông dân sau thu hồi đất còn chưa đáp ứng được yêu cầu ổn định đời
sống lâu dài cho họ.
Việc hỗ trợ việc làm cho nông dân có đất bị thu hồi như đã nêu trên cũng
gặp nhiều khó khăn; một số nông dân bị thu hồi đất tự tìm kiếm việc làm tạm
bợ, thời vụ như: buôn bán nhỏ, chạy xe ôm, phụ hồ,...một số theo học các lớp
đào tạo nghề, nhưng do lựa chọn ngành nghề không phù hợp, nên dù có được
đào tạo nhưng vẫn thất nghiệp.
71
Ba là, chính sách tái định cư chưa được thực hiện nghiêm, gây nhiều bức
xúc trong nhân dân. Nhà ở tái định cư vừa thiếu về số lượng, vừa kém về chất
lượng; nhiều khu TĐC chưa đảm bảo tốt hơn hoặc bằng nơi ở cũ,... như đã
phân tích ở chương 2. Quán triệt quan điểm trên, cần tập trung giải quyết ba
vấn đề mấu chốt sau đây:
Sửa đổi và hoàn thiện chính sách bồi thường thiệt hại cho nông dân
khi bị thu hồi đất. Nhà nước chủ động điều tiết giá đất thông qua quan hệ
cung - cầu, theo nguyên tắc thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Bảng
giá đất cũng cần được xây dựng chi tiết hơn theo từng vị trí, từng vùng,
mục đích sử dụng và điều chỉnh kịp thời khi thị trường có biến động lớn
làm căn cứ để xác định nghĩa vụ tài chính, tính bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất. Bên cạnh các thiệt hại hữu hình, trong chính sách bồi thường
cần phải tính cả những thiệt hại vô hình mà người nông dân phải gánh
chịu như đã nói ở trên.
Cần đặc biệt chú ý hỗ trợ tạo việc làm cho người nông dân bị thu hồi
đất để ổn định lâu dài đời sống của họ, muốn vậy phải thực hiện hiệu quả
nhiều giải pháp. Bên cạnh việc đào tạo nghề cho lao động địa phương
theo các dự án, chính quyền địa phương cần phối hợp với các chủ đầu tư
dự án xây dựng kế hoạch đào tạo lao động trên cơ sở nhu cầu của dự án và
hiện trạng nhân lực của địa phương; chủ động đào tạo nghề đối với những
khu vực dự kiến chuyển mục đích sử dụng đất từ nông nghiệp sang phi
nông nghiệp; phối hợp chặt chẽ giữa cơ sở đào tạo, doanh nghiệp đóng
trên địa bàn và chính quyền địa phương trong việc sử dụng lao động.
Cần sửa đổi và thực hiện nghiêm chỉnh chính sách tái định cư cho
nông dân bị thu hồi đất, đảm bảo đồng bộ với các chính sách khác trong
quá trình thu hồi và chuyển đổi mục đích sử dụng đất. Cần có chính sách
khuyến khích, động viên và yêu cầu bắt buộc các doanh nghiệp - chủ dự
72
án thực hiện đúng tiến độ xây dựng nhà và bàn giao nhà bảo đảm về chất
lượng và kết cấu hạ tầng như điện, đường, trường, trạm phục vụ sinh hoạt
của nhân dân ở khu tái định cư,...
3.2. Những giải pháp chủ yếu
3.2.1. Triển khai đồng bô ̣ và quyết liê ̣t việc thực hiê ̣n các quy hoạch,
kế hoạch về phát triển công nghiệp và dịch vụ đã được phê duyệt
Thực tiễn gần 30 năm đổi mới và trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở nước ta nói chung, tỉnh Đồng Nai nói riêng, cho thấy, công tác quy
hoạch đóng vai trò quan trọng, bởi lẽ công tác quy hoạch bao giờ cũng đi
trước một bước, nó hoạch định chiến lược phát triển không gian kinh tế của
một quốc gia, một vùng lãnh thổ, một địa phương và là bức tranh toàn cảnh
về không gian phát triển của đất nước. Trong quá trình đổi mới, chuyển sang
kinh tế thị trường chức năng nhiệm vụ quy hoạch phát triển kinh tế xã hội nói
chung, quy hoạch, kế hoạch phát triển công nghiệp, dịch vụ nói riêng cần
được mở rộng.
Việc triển khai đồng bô ̣ và quyết liê ̣t việc thực hiê ̣n các quy hoạch, kế
hoạch về phát triển công nghiệp và dịch vụ đã được phê duyệt liên quan đến
việc giải quyết lợi ích kinh tế của các chủ thể trong quá trình thu hồi đất của
nông dân đã được Nghị quyết số 06 - NQ/TU ngày 09 tháng 01 năm 2007
của Tỉnh uỷ Đồng Nai (khóa VIII) về “Thực hiện chính sách bồi thường, hỗ
trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện quy hoạch và các dự
án đầu tư trên địa bàn”, xác định là: “Công tác quy hoạch và quản lý sau quy
hoạch của các cấp chính quyền có nơi còn hạn chế, yếu kém” [53]. Nhìn
chung tiến độ còn chậm do một số vướng mắc về cơ chế chính sách, nhất là
chính sách giá bồi thường quyền sử dụng đất. Công tác lãnh đạo, quản lý,
điều hành ở một số cấp, ngành, lĩnh vực trong giải quyết công việc còn chưa
thực sự quyết liệt, thiếu năng động, sáng tạo. Sự phối kết hợp của các cấp, các
73
ngành trong chỉ đạo, tổ chức quy hoạch còn chưa chặt chẽ, thiếu hiệu quả.
Năng lực của hệ thống quản lý công tác quy hoạch các cấp còn chưa đáp ứng
được yêu cầu thực tế. Thực hiện việc phân cấp quản lý trong khi lực lượng
cán bộ làm công tác quy hoạch tại các địa phương còn mỏng, yếu và thiếu
kinh nghiệm, chưa nắm vững nội dung, phương pháp thực hiện quy hoạch,
đặc biệt là đối với các đồ án quy hoạch nông thôn mới… Điều đó dẫn đến
nhiều quy hoạch thiếu cơ sở nghiên cứu bài bản, thậm chí là thiếu tính khả thi,
chưa khai thác được thế mạnh của từng ngành, địa phương, lĩnh vực.
Một số công trình, dự án trọng điểm triển khai còn chậm, chưa đáp ứng
tiến độ, dẫn đến không khớp nối được với các dự án khác trong cùng khu vực,
địa bàn, nên không phát huy được tính tích cực của quy hoạch tổng thể cũng
như hệ thống các quy hoạch đang được tổ chức thực hiện. Bên cạnh đó, mỗi
quy hoạch đều đòi hỏi nhiều lĩnh vực cùng tham gia để có được tiếng nói
chung, song với từng quy hoạch hiện nay sự phối hợp giữa các lĩnh vực, các
ngành chức năng và địa phương trong xây dựng quy hoạch còn chưa chặt chẽ.
Chính vì vậy, trong thời gian tới việc quy hoạch phải có tính tổng thể,
hài hòa, hệ thống và khoa học. Trong khi xây dựng quy hoạch phát triển cần
kết hợp hài hòa lợi ích trước mắt với lợi ích lâu dài của tỉnh để có chiến lược
chuyển đổi mục đích sử dụng đất hợp lý. Nếu quy hoạch không đảm bảo tính
hê ̣ thống, tính khoa học và tổng thể sẽ dẫn đến nhiều dự án bị quy hoạch treo,
nhiều dự án phải làm đi, làm lại nhiều lần, manh mún và tốn kém. Để giải
pháp này trở thành hiện thực cần thực hiện tốt các biện pháp cụ thể sau:
Một là, giáo dục cho cán bộ, đảng viên và nhân dân toàn tỉnh - đặc biệt là
với lực lượng làm quy hoạch, quán triệt sâu sắc về ý nghĩa, tầm quan trọng
của công tác quy hoạch, phải thấy được công tác quy hoạch là vấn đề chiến
lược, luôn phải đi trước một bước làm cơ sở cho việc đầu tư xây dựng công
trình. Thực hiện dân chủ công khai quy hoạch để nhân dân biết, bàn và tham
74
gia ý kiến góp phần thực hiện quy hoạch có tính khả thi. Tăng cường sự giám
sát chặt chẽ của cơ quan Nhà nước và nhân dân trong quá trình thực hiện quy
hoạch. Đồng thời tích cực tuyên truyền, tổ chức học tập pháp luật nhất là luật
xây dựng, luật đất đai (hiện đang có hiệu lực thi hành là luật đất đai năm
2013), luật nhà ở, luật kinh doanh bất động sản, làm cho mọi người dân hiểu
được nguyên tắc, thủ tục xây dựng cơ bản để thực hiện, phải triệt để tiết kiệm
đất đai và thực hiện theo đúng quy trình từ quy hoạch chung đến quy hoạch
chi tiết, giao đất, cấp giấy phép xây dựng.
Hai là, trên cơ sở quy hoạch chung, sớm lập quy hoạch chi tiết về phát
triển công nghiệp, dịch vụ đến từng huyện, thị, nếu chi tiết được đến các xã,
phường thì càng tốt để phân kỳ đầu tư cho hợp lý, có kế hoạch thực hiện trong
từng giai đoạn; ưu tiên bố trí ngân sách cho các công trình, ngành trọng điểm
đã xác định.
Ba là, nâng cao chất lượng và tăng cường quản lý, kiểm tra trong quá
trình thực hiện, phát hiện, xử lý kịp thời những việc làm sai trái không đúng
quy hoạch. Tăng cường phối hợp chặt chẽ giữa chính quyền các cấp, chủ đầu
tư để thực hiện có chất lượng, đúng tiến độ; tăng cường công tác giám sát,
phối hợp chặt chẽ giữa giám sát, tư vấn thiết kế và chủ đầu tư, khi cần phải
điều chỉnh quy hoạch phải thực hiện đúng quy trình đề ra.
Bốn là, trên cơ sở quy hoạch tổng thể đã có, tiến hành có chất lượng
công tác xây dựng các kế hoạch phát triển công nghiệp, dịch vụ trung và dài
hạn trên địa bàn toàn tỉnh, theo đó công bố công khai rộng rãi trên các phương
tiện thông tin đại chúng diện tích đất đai tại các địa bàn, khu vực dân cư có
đất sẽ bị thu hồi để người dân biết.
3.2.2. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách.
Hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách có vai trò hết sức quan trọng trong
quá trình phát triển chung, tác động trực tiếp đến quá trình thu hồi đất nông
75
nghiê ̣p cho phát triển các khu công nghiệp, dịch vụ của tỉnh, thông qua đó ảnh
hưởng trực tiếp đến việc giải quyết lợi ích kinh tế cho nông dân. Thông qua
cơ chế chính sách, các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế thể hiện rõ được
mục tiêu quản lý đã đề ra. Vì vậy, cơ chế chính sách phù hợp sẽ tạo điều kiện
cho quá trình phát triển các khu công nghiê ̣p, dịch vụ đúng tiến đô ̣. Ngược lại,
nếu không phù hợp, cơ chế chính sách sẽ phát triển khó khăn, quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành chậm chạp và không đúng hướng.
Thực tế trong những năm vừa qua, mặc dù đã có rất nhiều cố gắng nhưng
hệ thống cơ chế chính sách thu hồi đất nông nghiê ̣p chưa thực sự phù hợp. Trong
nhiều trường hợp còn gây thiệt hại cho người nông dân. Chính điều đó đã dẫn
đến tiến đô ̣ xây dựng các dự án còn châ ̣m. Vì vậy, để thực hiê ̣n có hiê ̣u quả, đúng
tiến đô ̣ các dự án đã quy hoạch, cần hoàn thiện các cơ chế chính sách liên quan
trực tiếp đến lợi ích kinh tế của nông dân trên địa bàn. Cụ thể cần thực hiện tốt
các nội dung sau:
Mô ̣t là, hoàn thiê ̣n hê ̣ thống pháp luâ ̣t có liên quan đến các doanh nghiê ̣p
là chủ đầu tư vào xây dựng các khu công nghiê ̣p và dịch vụ
Việc hoàn thiện hệ thống pháp luâ ̣t có liên quan đến chính sách của Nhà
nước về giải quyết quan hệ lợi ích kinh tế trong thu hồi đất của nông dân cần
phải dựa trên Kết luận số 22-KL/TW ngày 25/5/2012 tại Hội nghị lần thứ năm
Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về việc tổng kết Nghị quyết Hội
nghị lần thứ bảy BCH Trung ương Đảng (khóa IX) về tiếp tục đổi mới chính
sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước; Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 31/10/2012 tại Hội nghị lần thứ
sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về tiếp tục đổi mới chính
sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi
mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại. Vấn đề sở hữu đất đai được xác định như sau:
76
“Đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là
nguồn sống của nhân dân, là tài sản, là nguồn lực to lớn của đất nước”. Do đó
phải tiếp tục khẳng định: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại
diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý”. Đồng thời quy định rõ ràng, cụ thể
hơn và thực thi đầy đủ, đúng đắn hơn các quyền của đại diện chủ sở hữu và
quyền thống nhất quản lý của Nhà nước như: “Quyền sử dụng đất cũng là một
loại tài sản và hàng hóa đặc biệt nhưng không phải là quyền sở hữu, người có
quyền sử dụng đất được chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại,
thừa kế, tặng cho, thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất và được bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất,... Nhà nước không thừa nhận việc đòi lại
đất đã được Nhà nước giao cho người khác sử dụng trong quá trình thực hiện
các chính sách đất đai, không đặt vấn đề điều chỉnh lại đất nông nghiệp đã
giao cho hộ gia đình, cá nhân nhưng nhà nước có chính sách phù hợp để đất
nông nghiệp được người trực tiếp sản xuất nông nghiệp sử dụng có hiệu quả
cao nhất”.
Chỉ đạo kiểm tra, rà soát việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
làm cơ sở tổng kết rút kinh nghiệm đánh giá nghiêm túc công tác chỉ đạo và
tổ chức thực hiện nội dung này. Xây dựng kế hoạch sử dụng đất đến năm
2020 của từng huyện, và toàn tỉnh. Ban hành văn bản quy định về xử lý các vi
phạm trong quản lý sử dụng đất, trong đó vấn đề chính sách kinh tế để xử lý
đối với từng trường hợp vi phạm cụ thể, căn cứ quy hoạch sử dụng đất và thời
điểm vi phạm, tiến hành phân cấp rõ ràng để có cơ chế phân công chỉ đạo,
điều hành cụ thể đối với từng cấp trong việc xử lý vi phạm, chấm dứt tình
trạng quy định chung chung, không rõ ràng khiến việc xử lý vi phạm bị nữa
vời, không triệt để, quanh co, đổ lỗi giữa các cấp.
Nâng cao và tăng cường công tác tuyên truyền pháp luật, quy định về đất
đai, về chế tài xử lý đối với cán bộ lãnh đạo, các cán bộ vi phạm quy định về
77
xử lý đất đai, vi phạm về quản lý sử dụng đất, kể cả việc ban hành các văn
bản không phù hợp quy định của pháp luật. Việc vi phạm này cần xử lý bằng
hai hình thức kinh tế và hành chính.
Hai là, hoàn thiện chính sách tài chính đất đai, điều chỉnh chính sách phí
và lệ phí.
Đây là một nô ̣i dung quan trọng nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết quan
hệ lợi ích trong thu hồi đất của nông dân nói riêng và việc sử dụng đất đai nói
chung. Thực hiện vấn đề này sẽ đảm bảo việc giải quyết hài hòa mối quan hệ
lợi ích kinh tế cho các chủ thể tham gia. Trước hết, là đền bù cho người nông
dân bị thu hồi đất thỏa đáng, đầy đủ và hợp lý; thứ hai tăng nguồn thu vào
ngân sách nhà nước, đảm bảo lợi ích chung của xã hội; thứ ba tạo được hành
lang pháp lý rõ ràng, mạch lạc để các doanh nghiệp chủ dự án tính toán
phương án kinh doanh hợp lý, xác định đầy đủ trách nhiệm của mình đối với
việc tổ chức đền bù cho nông dân và nộp tiền thuê đất, lệ phí sử dụng đất. Bên
cạnh việc nghiên cứu để có chính sách về giá đất 5 năm theo Luật Đất đai
năm 2013 thay cho việc ban hành khung giá đất hàng năm như hiện nay trên
địa bàn tỉnh, ban hành văn bản quy định về quản lý giá đất và thành lập tổ
chức có chức năng giám định giá đất là đơn vị hoạt động theo cơ chế sự
nghiệp kinh doanh thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh quản lý.
Công khai các thông tin về quá trình thu hồi đất và chuyển đổi mục đích
sử dụng đất, công khai giá đất trên các phương tiện thông tin đại chúng đối
với các dự án thu hồi đất nông nghiệp.
Có chính sách khuyến khích, đòn bẩy phù hợp với các nhà đầu tư, các
doanh nghiệp chủ dự án trong việc phát triển các khu nhà ở phục vụ đối tượng
tái định cư trong giải phóng mặt bằng, cần có những quy định ràng buộc các
nhà đầu tư sử dụng đất trong các KCN, KDV có sử dụng lao động, có trách
nhiệm tham gia đầu tư xây dựng quỹ nhà ở xã hội để giảm bớt khó khăn cho
người lao động nghèo và lao động bị thu hồi đất.
78
Ba là, sửa đổi và hoàn thiện các chính sách việc làm, đền bù, bồi thường
thiệt hại, chính sách tái định cư, chính sách về trách nhiệm và nghĩa vụ của
các đơn vị được nhận đất thu hồi sử dụng vào các mục đích phát triển các khu
công nghiê ̣p và dịch vụ.
Đây có là một biê ̣n pháp nhằm tháo gỡ những khó khăn trong chuỗi mắt
xích của quá trình thu hồi đất nông nghiệp để xây dựng các khu công nghiê ̣p,
dịch vụ ở Đồng Nai. Các chính sách đền bù, bồi thường thiệt hại hiện nay,
mặc dù xuất phát từ quan điểm là đền bù mọi thiệt hại cho người nông dân bị
thu hồi đất, nhưng trên thực tế vì nguyên nhân chủ quan và khách quan mà
chính sách đó chưa thực hiện được đúng quan điểm chỉ đạo nêu trên. Vì vâ ̣y,
trong thời gian tới, cần phải được sửa đổi theo hướng:
Cách tính giá đất đền bù phải phù hợp với thực tế, tôn trọng cơ chế thị
trường, có như vậy người dân mới không bị thiệt thòi khi nhận tiền đền bù đất
đai và hoa màu, công trình xây dựng trên đó.
Bên cạnh các thiệt hại hữu hình, trong chính sách đền bù phải tính cả
những thiệt hại vô hình là thiệt hại về tâm lý, tinh thần khi người nông dân bị
buộc phải di dời ra khỏi môi trường sinh sống quen thuộc, cảnh quan sinh
hoạt quen thuộc, phải đổi nghề, đổi thói quen sinh hoạt. Các thiệt hại này đã
được nhiều nhà nghiên cứu chính sách bàn đến trên các phương tiện thông tin
đại chúng.
Chính sách tái định cư phải đồng bộ với các chính sách khác của quá
trình thu hồi và chuyển đổi mục đích sử dụng đất. Bao gồm các chính sách
khuyến khích động viên và các chính sách yêu cầu bắt buộc các doanh nghiệp
chủ dự án thực hiện đúng tiến độ xây dựng nhà và giao nhà tái định cư cho
người lao động bị thu hồi đất và các chính sách bố trí việc làm cho người lao
động, chính sách ưu tiên góp vốn đầu tư vào dự án của người nông dân bị thu
hồi đất.
79
3.2.3. Đẩy mạnh công tác đào tạo nghề, giúp nông dân có đất bị thu
hồi chuyển đổi nghề nghiệp để thích ứng với cuộc sống mới.
Quá trình phát triển công nghiệp, dịch vụ trong công nghiê ̣p hóa, đô thị
hóa đã tất yếu dẫn đến quá trình thu hồi đất của nông dân. Khi nông dân bị
thu hồi đất cũng đồng nghĩa với sự thiếu hụt về tư liê ̣u sản xuất chủ yếu. Thực
trạng đó buô ̣c những người nông dân bị thu hồi đất phải chuyển đổi nghề
nghiê ̣p. Tuy nhiên, để có thể thích nghi với công viê ̣c mới, họ phải có trình đô ̣
nhất định.
Hiện nay, ở Đồng Nai có trên 60% số người bị thu hồi đất do quá trình
phát triển các khu công nghiê ̣p, dịch vụ không có trình độ chuyên môn. Số
lượng lao đô ̣ng được thu hút vào các dự án công nghiê ̣p, dịch vụ rất thấp bởi
lẽ, họ không có trình đô ̣ chuyên môn. Trong khi đó, nhiều người sau khi nhận
tiền đền bù, tiền hỗ trợ đã sử dụng vào việc mua sắm phương tiện đi lại, vật
dụng sinh hoạt chứ không chú tâm đến việc học nghề, giải quyết việc làm; có
gia đình trở nên giàu có sau khi nhận tiền bồi thường, nhưng chỉ sau một vài
năm lại rơi vào tình trạng khó khăn do thất nghiệp. Thực trạng này cho thấy,
quá trình thu hồi đất nông nghiê ̣p, chưa gắn kết với quá trình tạo điều kiê ̣n
cho nông dân chuyển đổi nghề nghiê ̣p do không đủ tư liê ̣u sản xuất. Điều đó
cũng đồng nghĩa với viê ̣c chưa giải quyết được lợi ích cho người nông dân
mô ̣t cách thỏa đáng. Chính vì vậy, vấn đề đào tạo và đào tạo lại nghề cho
nông dân, nhất là nông dân bị thu hồi đất là giải pháp hiệu quả nhằm giải
quyết thỏa đáng lợi ích kinh tế cho nông dân.
Vấn đề đặt ra là, đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho người dân bị
thu hồi đất canh tác trên địa bàn tỉnh Đồng Nai trong thời gian tới phải được
đặt trong mối quan hệ tổng thể, gắn với quy hoạch chung đào tạo, phát triển
nguồn nhân lực của cả tỉnh, đồng thời phải tiến hành lồng ghép với các
chương trình phát triển kinh tế - xã hội, chương trình việc làm và nâng cao
80
hiệu quả sử dụng nguồn lực của tỉnh. Theo hướng đó, giải pháp tốt nhất được
thực hiện bằng các biện pháp cụ thể sau:
Thứ nhất, bảo đảm vai trò chủ đạo của ngân sách Nhà nước trong đào tạo
nghề cho nông dân.
Ngân sách Nhà nước đảm bảo đáp ứng các nhu cầu cơ bản về nâng cao
trình độ và khả năng được làm viê ̣c trong các khu công nghiê ̣p, dịch vụ cho
mọi người dân, đặc biệt là nông dân bị thu hồi đất, đối tượng chính sách,
người nghèo và các đối tượng trong diện được hỗ trợ. Ưu tiên chi ngân sách
nhà nước trong việc cung cấp các sản phẩm dịch vụ đào tạo nghề mang tính
chất hàng hóa công cộng như: đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, xây dựng
trường học, đầu tư mua sắm trang thiết bị giảng dạy và học tập. Tăng dần tỷ
trọng đầu tư từ ngân sách Nhà nước làm cho quỹ này trở thành một quỹ tài
chính mạnh trong hỗ trợ nông dân bị thu hồi đất canh tác học nghề, cần phải
lấy đó làm căn cứ thực tế để triển khai các hoạt động hỗ trợ cho đào tạo nghề
của người dân bị thu hồi đất canh tác. Trong đó, cần chú trọng đặc biệt tới
tăng dần tỷ trọng đầu tư cho đào tạo nghề dài hạn thay vì đầu tư chú trọng
đào tạo nghề ngắn hạn như hiện nay. Đây là biện pháp quan trọng giúp thay
đổi căn bản hiệu quả đầu tư cho đào tạo nghề chuyển đổi nghề nghiệp của
người nông dân Đồng Nai trong tiến trình đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ.
Thứ hai, thực hiện xã hội hóa công tác đào tạo nghề.
Khuyến khích việc xây dựng các cơ sở đào tạo nghề ngoài công lập được
quản lý như là một bộ phận hữu cơ trong hệ thống giáo dục quốc dân và được
khuyến khích giúp đỡ, hệ thống chương trình đào tạo theo quy định của pháp
luật. Nhà nước thực hiện hỗ trợ về thuế, đất đai và các chính sách hỗ trợ khác.
Khuyến khích các Doanh nghiệp, Tổng công ty, Tập đoàn đầu tư thành lập
các cơ sở đào tạo nghề, liên kết đào tạo nghề. Đồng thời, các cơ sở đào tạo
nghề được năng động, chủ động hơn trong việc tạo lập nguồn thu nhập chính
81
đáng và ổn định cho các cơ sở đào tạo nghề. Ví dụ, chủ động khai thác nguồn
tài trợ, viện trợ, quà biếu, tặng, nguồn ủng hộ từ các cựu học viên thành đạt,
mở rộng và nâng cao dịch vụ tư vấn đào tạo, tận dụng lợi thế từ vị trí địa lý,
vay các quỹ đầu tư để bổ sung nguồn lực tài chính nhằm đạt hiệu quả, nâng
cao uy tín thương hiệu của trường.
Thứ ba, mở rộng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong tổ chức cung
cấp dịch vụ đào tạo nghề đối với các cơ sở đào tạo nghề công lập.
Xây dựng cơ chế tự chủ tài chính để các đơn vị này phát huy được các
tiềm năng về nhân lực, tài lực và vật lực, gia tăng cung cấp dịch vụ đào tạo
cho xã hội, tăng thu, tiết kiệm chi, giảm dần sự bao cấp của ngân sách Nhà
nước, cải thiện đời sống cho đội ngũ cán bộ, công nhân viên trong đơn vị.
Cho phép phát triển, mở rộng quy mô đào tạo và tạo nguồn thu ngoài ngân
sách Nhà nước cho các cơ sở đào tạo nghề. Khuyến khích sáp nhập một số cơ
sở đào tạo nghề quy mô nhỏ (cùng khối ngành, lĩnh vực đào tạo) thành cơ sở
đào tạo quy mô lớn hơn để tăng khả năng cạnh tranh cung cấp nguồn nhân lực
chất lượng cao cho thị trường lao động.
Thứ tư, xác định rõ trách nhiệm và gắn kết trách nhiệm các bên trong hỗ
trợ đào tạo nghề cho người dân bị thu hồi đất canh tác.
Có sự phối hợp chặt chẽ giữa tất cả các chủ thể có liên quan đến thu hồi
đất trong việc đảm bảo ổn định đời sống của người dân: chính quyền, chủ đầu
tư dự án và người nông dân bị thu hồi đất. Chính quyền phải quy định bằng
văn bản có tính pháp lý về trách nhiệm của doanh nghiệp phải cùng chính
quyền tổ chức đào tạo và thu hút lao động tại chỗ, đồng thời phải kiểm tra
giám sát việc thực hiện trên thực tế; chủ đầu tư phải thực hiện nghiêm túc
cam kết của mình trong dự án; những người dân có đất bị thu hồi cũng phải
chủ động thực hiện kế hoạch học tập, tìm việc, tự tạo cho mình những công
việc phù hợp.
82
Hiện nay, việc xác định trách nhiệm hỗ trợ giải phóng mặt bằng, hỗ trợ
ổn định đời sống của các chủ đầu tư đối với người dân trong vùng bị thu hồi
đất canh tác là khá rõ ràng. Tuy nhiên, việc xác định trách nhiệm hỗ trợ đào
tạo nghề và trách nhiệm hỗ trợ tạo công ăn việc làm cho người lao động sau
khi đào tạo nghề của doanh nghiệp, chủ đầu tư còn chưa thực sự minh bạch.
Nếu như xác định rõ ràng trách nhiệm này và kêu gọi đầu tư từ chủ các dự án
sẽ là một nguồn tài chính đáng kể để phát triển đào tạo nghề cho người dân bị
thu hồi đất canh tác trên địa bàn tỉnh.
Thứ năm, đảm bảo tính minh bạch, công bằng và bền vững trong giải
quyết việc làm cho người bị thu hồi đất. Tính minh bạch đòi hỏi các cấp chính
quyền cần phối hợp với chủ đầu tư thông báo công khai cho người dân nơi có
đất bị thu hồi biết rõ kế hoạch cụ thể về đào tạo và tuyển dụng lao động vào
các doanh nghiệp của dự án. Tính công bằng đòi hỏi phải tuyển dụng đúng
những người có đất bị thu hồi đã được đào tạo và đã đảm bảo được các yêu
cầu của doanh nghiệp, tránh tình trạng tuyển dụng người ở nơi khác do thân
quen hoặc do những nguyên nhân khác, trong khi những người ở địa phương
lại không được tuyển dụng, mặc dù họ đáp ứng đủ yêu cầu. Tính bền vững đòi
hỏi việc làm mới phải có thu nhập thường xuyên, đủ để duy trì được cuộc
sống hàng ngày. Tránh tình trạng doanh nghiệp trả lương quá thấp, không đủ
trang trải cho các nhu cầu sinh hoạt của bản thân và gia đình họ, dẫn đến tình
trạng đình công, lãn công, bỏ việc như đã từng xảy ra ở một số địa phương
trong cả nước.
Thứ sáu, Nhà nước có chính sách hỗ trợ người dân bị thu hồi đất tạo việc
làm: chính sách khuyến nông, chính sách tín dụng... giúp người nông dân tạo
thêm việc làm trên diện tích đất còn lại như tăng vụ, phát triển chăn nuôi,
trồng trọt các giống cây con mới, đồng thời tạo việc làm ở những lĩnh vực
khác như phát triển tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp, kinh doanh dịch vụ
trong các khu công nghiệp, khu dịch vụ.
83
3.2.4. Hoàn thiện hệ thống quản lý, nâng cao năng lực công tác chuyên môn
của cán bộ thực hiện giải quyết lợi ích kinh tế cho các chủ thể.
Mọi hoạt động đều do con người thực hiện, việc thực hiện các hoạt động
này trong xã hội đều thông qua những tổ chức có những chức trách, nhiệm vụ
rõ ràng. Vì vậy hoàn thiện bộ máy quản lý Nhà nước cho hoạt động này là
một trọng những giải pháp quan trọng hàng đầu để nâng cao chất lượng giải
quyết lợi ích của nông dân trong thu hồi đất của họ cho việc xây dựng các khu
công nghiệp, khu dịch vụ. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng đây có thể là một
giải pháp có tính đột phá trong tăng cường hiệu quả và chất lượng của việc
quản lý Nhà nước về đất đai nói chung và giải quyết lợi ích trong thu hồi đất
nói riêng. Việc hoàn thiện hệ thống tổ chức bộ máy chính quyền các cấp có
liên quan đến việc giải quyết lợi ích kinh tế của các chủ thể trong quá trình
thu hồi đất của nông dân cũng đã được Nghị quyết số 06 - NQ/TU ngày 09
tháng 01 năm 2007 của Tỉnh uỷ Đồng Nai (khóa VIII) về “Thực hiện chính
sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện
quy hoạch và các dự án đầu tư trên địa bàn”, xác định: “Củng cố tổ chức bộ
máy và cán bộ làm công tác bồi thường các cấp theo hướng đủ về số lượng,
thành phần, đảm bảo về năng lực chuyên môn, đủ sức hoàn thành nhiệm vụ
được giao. Nâng cao trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ, chính quyền
địa phương trong việc tổ chức thực hiện thu hồi đất, giải phóng mặt bằng đi
liền với thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư” [53]. Do đó
cần được thực hiện triệt để.
Giải pháp này được thực thi trên cơ sở thực hiê ̣n tốt các nô ̣i dung sau:
Mô ̣t là, nhanh chóng ban hành những văn bản quy định rõ quyền hạn và
trách nhiê ̣m của các tổ chức liên quan đến bô ̣ máy quản lý Nhà nước về đất đai.
Cần ban hành những văn bản quy định rõ quyền hạn và trách nhiệm của
các tổ chức liên quan đến bộ máy quản lý Nhà nước về đất đai và giải quyết
84
lợi ích kinh tế trong thu hồi đất; cần có cơ chế phân công trách nhiệm rõ ràng,
phân cấp cụ thể, không để tình trạng chồng chéo chức năng giữa các cơ quan
như hiện nay trong việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở
hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất, mà việc cấp giấy này có vai trò
quan trọng trong việc xác định các mức đền bù cho người bị thu hồi đất; cần
tránh tình trạng phân trách nhiệm theo kiểu cát cứ và chồng chéo như Tổ chức
Phát triển quỹ đất, Ban giải phóng mặt bằng và Quỹ giải phóng mặt bằng như
hiện nay, cần có phương án sáp nhập các cơ quan có liên quan đến thu hồi đất
này thành một mối duy nhất. Cần xác định hình thức Tổ chức Phát triển quỹ
đất là loại hình doanh nghiệp nhà nước, thực hiện nhiệm vụ bồi thường, giải
phóng mặt bằng cho cả trường hợp thu hồi đất theo quy hoạch và thu hồi đất
theo dự án đã được giới thiệu địa điểm đầu tư (không sử dụng hình thức Hội
đồng bồi thường, hỗ trợ và tái định cư của từng dự án do UBND cấp huyện
thành lập như hiện nay). Tổ chức Phát triển quỹ đất được vay tiền từ hệ thống
ngân hàng đầu tư phát triển, quỹ đầu tư phát triển để thực hiện việc bồi
thường hỗ trợ, tái định cư. Tổ chức phát triển quỹ đất là đơn vị thực hiện
quyết định hành chính của cơ quan nhà nước về thu hồi đất và là đơn vị phối
hợp với các tổ chức xã hội, cộng đồng dân cư để đảm bảo tính đồng thuận
giữa các bên tham gia và việc chia sẻ quyền lợi giữa các bên có chung quyền
lợi, làm giảm được tác động trực tiếp của bộ máy hành chính lên cơ chế
chuyển dịch đất đai bắt buộc.
Hai là, bố trí đội ngũ cán bộ có đủ trình độ và phẩm chất để đảm nhiệm
công việc khó khăn phức tạp và vô cùng nhạy cảm này. Cùng với việc có
những cán bộ đáp ứng nhu cầu công việc thì việc đào tạo bồi dưỡng cán bộ
chuyên trách, đủ nghiệp vụ chuyên môn cũng cần được quan tâm hơn. Có
chiến lược đào tạo và tuyển dụng đội ngũ công chức sao cho phù hợp với thực
tế công việc một cách thiết thực, không tốn thời gian làm quen và học tập
vòng vèo.
85
Ba là, thực hiê ̣n chế độ thưởng phạt thích hợp đối với công chức thi hành
nhiệm vụ có liên quan đến giải quyết quan hệ lợi ích kinh tế của các chủ thể
trong quá trình thu hồi đất của nông dân. Việc thưởng phạt này phải có khả
năng khuyến khích và răn đe rõ ràng chứ không phải chỉ mang ý nghĩa tượng
trưng. Vì vậy, việc thưởng phạt cần kết hợp giữa biện pháp hành chính với
kinh tế.
Bốn là, đơn giản hóa các thủ tục hành chính có liên quan đến đền bù giải
phóng mặt bằng, chuyển nhượng quyền sử dụng đất và bất động sản để giảm
chi phí giao dịch cho các chủ thể kinh tế như: các thủ tục liên quan đến lập và
xét duyệt dự án đầu tư; các thủ tục liên quan đến việc cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất; các thủ tục xét duyệt giá cả đền bù khi thu hồi đất; các thủ
tục liên quan đến bố trí tái định cư cho người bị thu hồi đất; các thủ tục liên
quan đến đào tạo nghề, tạo việc làm cho người bị thu hồi đất.
Năm là, tăng cường vai trò lãnh đạo của các cấp ủy Đảng. Trước hết cần
nâng cao nhận thức lý luận kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, lý
luận về địa tô của C.Mác cho cán bộ lãnh đạo Tỉnh ủy và những cán bộ đảng
viên trực tiếp tham gia và giải quyết các mối quan hệ lợi ích trong thu hồi đất
chuyển đổi mục đích sử dụng đất. Mở các lớp tập huấn cho lãnh đạo và đảng
viên về công tác giải phóng mặt bằng và công tác giải quyết quan hệ lợi ích
trong thu hồi đất. Tăng cường kiến thức pháp luật về đất đai cho cán bộ và
đảng viên.
Sáu là, nâng cao nhận thức của người dân về pháp luật và ý nghĩa, tầm
quan trọng của việc phát triển các khu công nghiệp và khu dịch vụ trong phát
triển kinh tế - xã hội. Người dân có đất bị thu hồi cần được tuyên truyền, giáo
dục để hiểu rõ lợi ích lâu dài của tỉnh nói riêng và của cả nước nói chung để
nhận thức rõ việc giao lại đất đai của mình là một việc làm cần thiết, đó vừa
là quyền lợi vừa là trách nhiệm của người dân để họ có tinh thần hợp tác vì lợi
86
ích chung. Mặt khác cũng tuyên truyền để họ thấy rõ chính sách công bằng
của nhà nước trong việc giải quyết các lợi ích kinh tế của họ. Khuyến khích
họ chủ động, nỗ lực hòa nhập vào cuộc sống mới như một cơ hội để thay đổi
và nâng cao chất lượng cuộc sống của mình. Nếu làm tốt được công tác này
việc giải phóng mặt bằng sẽ diễn ra thuận lợi. Mặt khác, cần phải nâng cao ý
thức pháp luật cho người dân để họ không chỉ hiểu rõ trách nhiệm, nghĩa vụ
của mình mà còn hiểu rõ quyền lợi chính đáng của họ, để họ sẽ là người giám
sát bộ máy quản lý và tổ chức thực hiện tiến hành công việc theo đúng luật.
* *
*
Dựa vào quan điểm và chính sách của Đảng và Nhà nước, trên cơ sở các
chủ trương của Tỉnh ủy, và các quy định cụ thể của Ủy ban nhân dân tỉnh
Đồng Nai trong việc thu hồi đất để phát triển công nghiệp và dịch vụ thông
qua việc xây dựng các khu công nghiệp và dịch vụ, chương 3 của luận văn
được tác giả dành cho việc giải quyết các mâu thuẫn đặt ra đã được trình bày
phân trích kỹ ở chương 2 nhằm làm cho quá trình thu hồi đất, có mặt bằng
giao cho các doanh nghiệp là nhà đầu tư để tiếp tục phát triển công nghiệp và
dịch vụ trong quá trình CNH, HĐH ở Đồng Nai thời gian tới, góp phần đưa
Đồng Nai cùng cả nước cán đích mục tiêu cơ bản trở thành nước, tỉnh công
nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020, một hệ thống các quan điểm và
giải pháp đã được tác giả luận văn đề xuất và phân tích kỹ lưỡng. Hệ thống
quan điểm và giải pháp đó là một chỉnh thể đòi hỏi phải được tôn trọng trong
quá trình tổ chức thực hiện. Việc thực hiện tốt uyển chuyển các quan điểm và
giải pháp nói trên sẽ giải quyết được những vấn đề đang cản trở quá trình phát
triển công nghiệp và dịch vụ ở Đồng Nai từ việc thu hồi đất.
87
KẾT LUẬN
1. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước tất yếu dẫn đến sự
hình thành các khu công nghiê ̣p và dịch vụ, các khu đô thị mới - chúng xuất
hiện trên cơ sở Nhà nước thu hồi đất của nông dân để giao cho các chủ đầu tư
có mặt bằng xây dựng doanh nghiệp. Quá trình phát triển lĩnh vực này cũng
đã làm xuất hiện ở Đồng Nai việc thu hồi một diện tích đất nông nghiệp và
phi nông nghiệp của nông dân để đáp ứng yêu cầu của các dự án. Việc làm đó
đặt ra đòi hỏi các lợi ích kinh tế của nông dân phải gắn liền với đất đai thu
hồi, giải quyết lợi ích kinh tế đối với nông dân bị thu hồi đất.
2. Nhận thức rõ được tầm quan trọng trong việc giải quyết lợi ích kinh tế
của nông dân bị thu hồi đất cho phát triển công nghiệp và dịch vụ thông qua
việc xây dựng các khu công nghiệp, khu dịch vụ. Trong những năm qua, Tỉnh
ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh, lãnh đạo các ban ngành của
tỉnh và chính quyền địa phương các huyện, thị xã, thành phố đã quan tâm giải
quyết lợi ích kinh tế đối với nông dân bị thu hồi đất trên cơ sở các quy định
Nhà nước đặt trong bối cảnh tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Đồng Nai. Tuy
nhiên, thực tiễn cho thấy, vấn đề thu hồi và giải quyết quyền lợi của nông dân
bị thu hồi đất luôn là vấn đề nhạy cảm và có những khó khăn, phức tạp. Do đó
quá trình tổ chức thực hiện các quy định của Nhà nước về giải quyết lợi ích
của nông dân bị thu hồi đất vẫn tồn tại những bất cập đã xuất hiện những mâu
thuẫn cần giải quyết, đó là: 1). Mâu thuẫn giữa bảo đảm lợi ích nông dân với
chính sách ưu đãi cho các doanh nghiệp trong phát triển các khu công nghiệp
và dịch vụ; 2). Mâu thuẫn giữa yêu cầu trình độ chuyên môn để được làm
việc trong các khu công nghiệp với thực trạng chưa được đào tạo của một bộ
phận không nhỏ nông dân thiếu đất canh tác. 3). Mâu thuẫn giữa tốc độ phát
triển nhanh của các khu công nghiệp với tốc độ phát triển các khu tái định cư
cho nông dân.
88
3. Để giải quyết vấn đề đặt ra, phát huy những kết quả đã đạt được trong
thu hồi và giải quyết lợi ích cho nông dân có đất bị thu hồi, để tiếp tục phát
triển công nghiệp và dịch vụ trong quá trình CNH, HĐH ở Đồng Nai cần
quán triệt và thực hiện tốt các quan điểm chỉ đạo: tôn trọng cơ chế thị trường
trong giải quyết lợi ích kinh tế của người bị thu hồi đất; giải quyết hài hòa lợi
ích kinh tế của các chủ thể có liên quan đến việc thu hồi đất của nông dân để
xây dựng các khu công nghiệp và khu dịch vụ; dân phải được đảm bảo cả lợi
ích trước mắt với lợi ích lâu dài. Thực hiện các quan điểm đó cần thực hiện
tốt những giải pháp chủ yếu, đó là: 1). Triển khai thực hiê ̣n đồng bô ̣, quyết
liê ̣t quy hoạch, kế hoạch phát triển công nghiệp, dịch vụ đã được phê duyệt;
2). Hoàn thiện hệ thống chính sách của Nhà nước về giải quyết lợi ích kinh tế
trong thu hồi đất của nông dân để xây dựng các khu công nghiệp và khu dịch
vụ; 3). Đẩy mạnh công tác đào tạo nghề, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
nhằm đáp ứng nhu cầu chuyển đổi nghề nghiệp của nông dân; 4). Hoàn thiện
công tác tổ chức và hoạt động của các cơ quan quản lý Nhà nước đối với việc
giải quyết lợi ích kinh tế giữa các chủ thể có liên quan đến thu hồi đất.
4. Giải quyết lợi ích kinh tế cho nông dân bị thu hồi đất trong phát triển
các khu công nghiệp và dịch vụ, tuy đã xuất hiện ở Nước ta và Đồng Nai từ
khi đất nước tiến hành đổi mới, nhưng đây vẫn là vấn đề mới mẻ và phức tạp,
đòi hỏi phải có những công trình nghiên cứu quy mô lớn và cấp độ cao mang
tính toàn diện và tổng thể. Trong khuôn khổ một luận văn Thạc sĩ chuyên
ngành kinh tế chính trị, tác giả mới chỉ đi vào một trong những lát cắt của cái
chung đó ở tỉnh Đồng Nai. Những nghiên cứu trong luận văn mới là những
kết quả bước đầu chủ yếu được thể hiện ở phạm vi rộng và khái quát. Trong
tương lai, nếu có điều kiện trở lại đề tài này ở một công trình nghiên cứu lớn
và sâu hơn, chắc chắn các vấn đề nghiên cứu được đề cập sẽ phong phú, toàn
diện và sâu sắc hơn.
89
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Đức Bách (1988), Quan hệ giữa lợi ích kinh tế xã hội, tập thể và
cá nhân người lao động trong chặng đường đầu tiên thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, luâ ̣n án Phó tiến sĩ triết học.
2. Bàn về các lợi ích kinh tế (1982), Nxb, Sự thật, Hà Nội.
3. Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam (2000), Nghị định số 24/2000/NĐ-
CP ngày 31/7/2000 ưu đãi đầu tư về thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế
nhập khẩu, thuế trị giá gia tăng và tiền thuê đất.
4. Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam (2003), Nghị định số 27/2003/NĐ-
CP ngày 19/3/2003 ưu đãi đầu tư về thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế
nhập khẩu, thuế trị giá gia tăng và tiền thuê đất.
5. Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam (2003), Nghị định số 158/2003/NĐ-
CP ngày 10/12/2003 ưu đãi đầu tư về thuế trị giá gia tăng.
6. Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam (2003), Nghị định số 164/2003/NĐ-
CP ngày 22/12/2003 ưu đãi đầu tư về thuế thu nhập doanh nghiệp.
7. Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam (2004), Nghị định số 147/2004/NĐ-
CP ngày 23/7/2004 ưu đãi đầu tư về thuế thu nhập cá nhân.
8. Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam (2004), Nghị định số 148/NĐ-CP
ngày 23/7/2004 ưu đãi đầu tư về thuế trị giá gia tăng.
9. Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam, (2004), Nghị định số
152/2004/NĐ-CP ngày 06/8/2004 ưu đãi đầu tư về thuế thu nhập doanh
nghiệp.
10. Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam (2006), Nghị định số
108/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 ưu đãi đầu tư về thuế thu nhập doanh
nghiệp, thuế nhập khẩu, thuế sử dụng đất, tiền sử dụng đất, tiền thuê đất
và tiền thuê mặt nước.
90
11. Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam (2007), Nghị định 123/2007/NĐ-
CP ngày 27/7/2007, phương pháp xác định giá đất và khung giá các
loại đất.
12. Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam (2004), Nghị định số 197/2004/NĐ-
CP ngày 3/12/2004 về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư.
13. Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam (2009), Nghị định số 69/2009/NĐ-
CP ngày 13/08/2009 về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư.
14. Vũ Văn Chiêu (2013), Ảnh hưởng của viê ̣c thu hồi đất nông nghiê ̣p đến
đời sống người dân trên địa bàn thành phố Biên Hòa - tỉnh Đồng Nai,
luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Nông lâm thành phố Hồ Chí Minh.
15. Nguyễn Viết Chung (1962), Nông dân và công nghiệp hoá xã hội chủ
nghĩa, Nxb Sự thật, Hà Nội.
16. Vương Đình Cường (1992), Lợi ích kinh tế nông dân ở nước ta hiện nay,
luận án Phó tiến sĩ kinh tế, Học viện Nguyễn Ái Quốc, Hà Nội.
17. Đảng bộ tỉnh Đồng Nai (2000), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh
Đồng Nai lần thứ VII nhiệm kỳ 2000 - 2005.
18. Đảng bộ tỉnh Đồng Nai (2005), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh
Đồng Nai lần thứ VIII nhiệm kỳ 2005 - 2010.
19. Đảng bộ tỉnh Đồng Nai (2010), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh
Đồng Nai lần thứ IX nhiệm kỳ 2010 - 2015.
20. Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ VI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
21. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
22. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
91
23. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
24. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
25. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
26. Đặng Quang Định (2010), Thống nhất lợi ích kinh tế giữa giai cấp công
nhân, nông dân và tầng lớp trí thức trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở
Việt Nam hiện nay, luận án Tiến sĩ triết học.
27. Đào Duy Huân (2007), “Lợi ích kinh tế - động lực thu hút mọi nguồn lực
cho phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Phát triển
kinh tế, số 200.
28. Nguyễn Duy Hùng (1988), Bàn về sự hình thành và kết hợp các lợi ích kinh
tế trong nông nghiệp tập thể, luận án Tiến sĩ kinh tế, Học viện Nguyễn Ái
Quốc, Hà Nội.
29. Phạm Quang Hưng (2013), Lợi ích kinh tế của nông dân trong quá trình
công nghiê ̣p hóa, hiê ̣n đại hóa ở Hà Nội, luâ ̣n văn Thạc sỹ kinh tế.
30. Huyện Long Thành, Trung tâm Phát triển quỹ đất (2014), Báo cáo tình hình
thực hiện Nghị quyết số 06-NQ/TU của Tỉnh ủy và Nghị quyết số
43-NQ/HU trong 06 tháng đầu năm 2014 về thực hiện chính sách bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư trên địa bàn huyện Long Thành.
31. Nguyễn Linh Khiếu (1999), Lợi ích động lực phát triển xã hội, Nxb. Khoa
học xã hội, Hà Nội.
32. Nguyễn Linh Khiếu (2002), Góp phần nghiên cứu mối quan hệ lợi ích, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
33. Vũ Ngọc Kỳ (2005), Một số vấn đề về nông nghiệp, nông thôn, nông dân,
hội nông dân ở Việt Nam, Nxb Nông nghiệp.
92
34. Trần Thị Lan (2012), Quan hệ lợi ích kinh tế trong thu hồi đất của nông dân
để xây dựng các khu công nghiệp và khu đô thị mới ở Hà Nội, luận án Tiến
sĩ kinh tế, Học viê ̣n chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
35. Lápriencô.V.N (1978), Những vấn đề lợi ích trong chủ nghĩa Lênin, Nxb.
Tư tưởng, Mátxcơva.
36. Ung Thị Minh Lệ (1996), Hệ thống lợi ích kinh tế và các quan hệ phân
phối trong việc thực hiện chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã
hội Việt Nam, luâ ̣n án Phó tiến sĩ kinh tế.
37. Hoàng Văn Luận (2000), Lợi ích động lực của sự phát triển bền vững,
luận án Tiến sĩ, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn.
38. C.Mác, Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, t.18, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 1995.
39. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam (2013), Luật Đất đai, Quốc hội
khóa 13 ban hành theo Luật số 45/2013/QH13 ngày 29/11/2013.
40. Hồ Tấn Phong (1993), “Lợi ích kinh tế - một số vấn đề lý luận và thực
tiễn”, Tạp chí Phát triển kinh tế, số 27.
41. Sở Lao động - Thương binh - Xã hội tỉnh Đồng Nai (2007), Báo cáo
tổng kết tình hình thực hiện nhiệm vụ công tác năm 2007, phương
hướng, nhiệm vụ công tác năm 2008.
42. Sở Lao động - Thương binh - Xã hội tỉnh Đồng Nai (2008), Báo cáo
tổng kết tình hình thực hiện nhiệm vụ công tác năm 2008, phương
hướng, nhiệm vụ công tác năm 2009.
43. Sở Lao động - Thương binh - Xã hội tỉnh Đồng Nai (2009), Báo cáo
tổng kết tình hình thực hiện nhiệm vụ công tác năm 2009, phương
hướng, nhiệm vụ công tác năm 2010.
93
44. Sở Lao động - Thương binh - Xã hội tỉnh Đồng Nai (2010), Báo cáo
tổng kết tình hình thực hiện nhiệm vụ công tác năm 2010, phương
hướng, nhiệm vụ công tác năm 2011.
45. Sở Lao động - Thương binh - Xã hội tỉnh Đồng Nai (2011), Báo cáo
tổng kết tình hình thực hiện nhiệm vụ công tác năm 2011, phương
hướng, nhiệm vụ công tác năm 2012.
46. Sở Lao động - Thương binh - Xã hội tỉnh Đồng Nai (2012), Báo cáo tổng
kết tình hình thực hiện nhiệm vụ công tác năm 2012, phương hướng,
nhiệm vụ công tác năm 2013.
47. Sở Tài nguyên và môi trường, Chi cục Quản lý đất đai (2014), Đánh giá
kết quả thực hiện và những giải pháp sắp tới để giải quyết, bố trí tái
định cư cho các hộ có đất thu hồi trên địa bàn tỉnh từ sau khi sơ kết
Nghị quyết 06-NQ/TU đến 2013.
48. Đỗ Nhật Tân (1991), Vai trò động lực của lợi ích kinh tế đối với sự
nghiệp xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam hiện nay, luâ ̣n án Phó tiến sĩ triết học.
49. Phạm Thắng (1997), Giải pháp để kết hợp các lợi ích kinh tế trong doanh
nghiệp Nhà nước ở Việt Nam hiện nay qua khảo sát các doanh nghiệp Nhà
nước tại thành phố Hồ Chí Minh, luâ ̣n án Phó tiến sĩ kinh tế.
50. Thủ tướng Chính phủ (2004), Quyết định số 53/2004/QĐ.TTg ngày
5/4/2004 về “Ưu đãi đầu tư về thuế thu nhập doanh nghiệp”.
51. Thủ tướng Chính phủ (2008), Quyết định số 73/2008/QĐ-TTg ngày
04/6/2008 về “Phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội
tỉnh Đồng Nai đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030”.
52. Tỉnh uỷ Đồng Nai (2013), Báo cáo số 249-BC/TU ngày 28/11/2013, đánh
giá kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ IX Đảng bộ tỉnh Đồng
Nai nữa nhiệm kỳ.
94
53. Tỉnh uỷ Đồng Nai (2007), Nghị quyết của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh
(khóa VIII) số 06 - NQ/TU ngày 09 tháng 01 năm 2007, về “Thực hiện
chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất để
thực hiện quy hoạch và các dự án đầu tư trên địa bàn”.
54. Tỉnh uỷ Đồng Nai (2007), Báo cáo số 196 - BC/TU, ngày 29 tháng 5 năm
2013, Sơ kết 06 năm thực hiện Nghị quyết số 06-NQ/TU ngày 09/01/2007
của Tỉnh ủy về “Thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất để thực hiện quy hoạch và các dự án đầu tư trên địa
bàn tỉnh”.
55. Tỉnh uỷ Đồng Nai (2013) Thông báo ngày 16 tháng 7 năm 2013, kết luận
của Ban Thường vụ Tỉnh ủy tại Hội nghị sơ kết 06 năm thực hiện Nghị
quyết 06-NQ/TU ngày 09/01/2007 của BCH Đảng bộ tỉnh (khóa VIII) về
“Thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu
hồi đất để thực hiện quy hoạch và các dự án đầu tư trên địa bàn tỉnh”.
56. Trường Đại học Kinh tế Quốc dân (2011), Bàn về chính sách an sinh xã hội
với người nông dân sau khi thu hồi đất để phát triển các khu công nghiệp.
57. Chử Văn Tuyên (1998), Lợi ích kinh tế của người lao động và vận dụng nó
vào lực lượng vũ trang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam, luâ ̣n án Tiến sĩ quân sự, Học viê ̣n Chính trị quân sự.
58. Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai (2008), Quyết định số 12/2008/QĐ-UBND
ngày 12 tháng 8 năm 2008 về “Hỗ trợ dịch vụ y tế cho người thuộc diện tái
định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Đồng Nai”.
59. Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai (2008), Quyết định số 05/2008/QĐ-UBND
ngày 15 tháng 01 năm 2008 về “Hỗ trợ học phí cho con em nhân dân thuộc
diện tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Đồng Nai”.
60. Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai (2008), Quyết định số 26/2008/QĐ-UBND
ngày 7 tháng 4 năm 2008 về “Đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho nhân
dân thuộc diện thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Đồng Nai”.
95
61. Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai (2010), Quyết định số 42/2010/QĐ-UBND
ngày 26 tháng 7 năm 2010 về “Mức bồi thường, hỗ trợ đối với đất và tài
sản trên đất do hạn chế khả năng sử dụng đất thuộc hàng lang an toàn lưới
điện cáo áp trên không áp dụng trên địa bàn tỉnh Đồng Nai”.
62. Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai (2010), Quyết định số 73/2010/QĐ-UBND
ngày 3 tháng 12 năm 2010 về “Trình tự, thủ tục cưỡng chế thu hồi trên địa
bàn tỉnh Đồng Nai”.
63. Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai (2012), Quyết định số 12/2012/QĐ-UBND
ngày 24 tháng 02 năm 2012 về “Giá đất bồi thường, hỗ trợ tài sản khi Nhà
nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Đồng Nai”.
64. Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai (2012), Quyết định số 13/2012/QĐ-UBND
ngày 24 tháng 02 năm 2012 về “Cấp bù chênh lệch giá đất khi thu tiền sử
dụng đất đối với các hộ tái định cư”.
65. Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai (2012), Quyết định số 14/2012/QĐ-UBND
ngày 24/02/2012 về “Đơn giá xây dựng nhà ở để bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất, để bán nhà thuộc sở hữu Nhà nước cho người đang thuê, để
định giá trong các vụ án của Toà án, thi hành án và để đánh giá trong các
nghiệp vụ kinh tế khác trên địa bàn tỉnh Đồng Nai”.
66. Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai (2012), Quyết định số 25/2012/QĐ-UBND
ngày 3 tháng 4 năm 2012 về “Chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư
khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Đồng Nai”.
67. Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai (2012), Quyết định số 26/2012/QĐ-UBND
ngày 3 tháng 4 năm 2012 về “Trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư và thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất trên địa bàn tỉnh Đồng Nai”.
68. Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai (2014), Quyết định Số 20/QĐ-UBND,
ngày 06 tháng 01 năm 2014 về “Phê duyệt Đề án xây dựng cơ chế hỗ trợ
thu hút đầu tư đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa có vốn đầu tư nước ngoài
trên địa bàn tỉnh Đồng Nai”.
96
69. Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai, Ban Quản lý các khu công nghiệp (2014),
Báo cáo số 1002/KCNĐN- QHXD, ngày 10/7/2014, thống kê tình hình xây
dựng và phát triển các KCN 6 tháng đầu năm 2014.
70. Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai, Ban quản lý các khu công nghiệp (2014),
Báo cáo số 84/BC-KCNĐN, ngày 14/7/2014, tình hình thực hiện nhiệm vụ
tháng 7/2014 (từ ngày 16/6/2014 đến ngày 14/7/2014).
97
PHỤ LỤC
Phụ lục số 1:
BẢNG TỔNG HỢP TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CÔNG TÁC BỒI
THƯỜNG, HỖ TRỢ VÀ TÁI ĐỊNH CƯ TỪ NĂM 2007 ĐẾN 31/12/2012
Tổng diện Số dự án Tổng số Tổng diện Tỷ lệ tích đã giải Tỷ lệ STT Đơn vị đã hoàn dự án tích (ha) (%) phóng mặt (%) thành bằng (ha)
Thành phố Biên 125 597 27 21.6 50 8.4 1 Hòa
Thị xã Long 51 656.6 38 74.5 410.4 62.5 2 Khánh
Huyện Long 166 10.707,56 35 21.1 1.249,87 11.7 3 Thành
Huyện Nhơn 230 6.903 35.7 801.6 11.6 82 4 Trạch
29 868.53 42.6 408.18 47.0
104 5 Huyện Trảng Bom 68 150 993.82 69.3 423.88 42.7 6 Huyện Vĩnh Cửu
46 46 134.86 100 134.86 100 7 Huyện Định Quán
21 25 83.36 84.0 79.59 95.0 8 Huyện Tân Phú
Huyện Thống 30 47 1.148,03 63.8 763.37 66.5 9 Nhất
47 52 818.693 90.4 626.693 76.5 10 Huyện Xuân Lộc
36 1.760,86 29.00 80.6 902.44 51.3 11 Huyện Cẩm Mỹ
Tổng cộng 996 24.672,3 488 49 5.850,9 23.7
Nguồn: Báo cáo Nghị Quyết số 06-NQ/TU
Phụ lục số 2:
98
BẢNG TỔNG HỢP TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CÔNG TÁC BỐ
TRÍ TÁI ĐỊNH CƯ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẾN NĂM 2014
Số hộ phải bố trí tái định cư
STT Đơn vị
Đã xét TĐC Chưa xét TĐC Thời gian dự kiến bố trí Tổng số hộ phải bố trí TĐC Số hộ đã bố trí TĐC (7/2014) Số hộ chưa bố trí tái định cư (7/2014)
Thành phố Biên Hòa 2.205 1617 588 588 1 0 Trong năm 2014
11 2 Thị xã Long Khánh 47 36 36 0 Trong năm 2014
0 3 Huyện Long Thành 97 0 0 0
96 4 Huyện Nhơn Trạch 140 44 44 0
86 5 Huyện Trảng Bom 110 24 24 0 Trong năm 2014 Trong năm 2014 Trong năm 2014
0 6 Huyện Vĩnh Cửu 37 0 0 0
0 7 Huyện Định Quán 65 0 0 0
0 8 Huyện Tân Phú 1 0 0 0 Trong năm 2014 Trong năm 2014 Trong năm 2014
0 9 Huyện Thống Nhất 0 0 0 0
0 10 Huyện Xuân Lộc 0 0 0 0
0 11 Huyện Cẩm Mỹ 0 0 0 0
- Tổng cộng 2.702 1.810 692 692
Nguồn: Báo cáo Nghị Quyết số 06-NQ/TU.
99
Phụ lục số 3:
BẢNG TỔNG HỢP TÌNH HÌNH TÁI ĐỊNH CƯ PHÁT SINH PHẢI
BỐ TRÍ TÁI ĐỊNH CƯ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẾN NĂM 2014
Số hộ phát sinh
STT Đơn vị
Thời gian dự kiến bố trí Chưa xét TĐC Đã xét TĐC Số hộ chưa bố trí tái định cư (7/2014) Số hộ tái định cư phát sinh phải bố trí đến tháng 7/2014 Tổng số hộ còn nợ TĐC đến tháng 7/2014 mà chưa bố trí
Trong năm Thành phố 588 178 0 766 1 2014 Biên Hòa
Thị xã Trong năm Long 2 36 0 0 36 2014 Khánh
Huyện Trong năm 3 24 0 0 24 Trảng bom 2014
Huyện Trong năm Nhơn 4 44 210 0 254 2014 Trạch
Trong năm Huyện Tân 5 0 57 0 57 2014 Phú
1.137 Tổng cộng 692 445
Nguồn: Báo cáo Nghị Quyết số 06-NQ/TU.
100
Phụ lục số 4:
BẢNG TỔNG HỢP DANH MỤC CÁC DỰ ÁN TÁI ĐỊNH CƯ ĐÃ VÀ
ĐANG TRIỂN KHAI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẾN NĂM 2014
Diện Kết quả STT Tên công trình Huyện tích Ghi chú đến nay (ha)
Đã sử Long Đã có QĐ 21.08 dụng 1 Khu tái định cư Bảo Vinh Khánh giao đất 18,53ha
Khu tái định cư - khu dân cư - Đã có QĐ Long Thành 20.15 2 TTTM & TTHC
giao đất Đã có QĐ Nhơn Trạch 6.49 3 Khu tái định cư
giao đất Đã có QĐ Thống Nhất 6.30 4 Khu tái định cư Bàu Hàm II
giao đất Đã có QĐ Trảng Bom 7.00 5 Khu tái định cư phục vụ di dời
Khu tái định cư phường Long giao đất Đã có QĐ Biên Hòa 4.00 6 Bình (khu X28)
giao đất Đã có QĐ Long Thành 0.30 7 Khu tái định cư
giao đất Đã có QĐ Vĩnh Cửu 0.80 8 Khu tái định cư khu phố 8A
giao đất Đã có QĐ Khu tái định cư đường tránh QL Long Thành 48.17 thu hồi 9 1A
đất Đã có QĐ Dự án khu tái định cư đường Trảng Bom 24.06 thu hồi 10 tránh QL1A đất
Vĩnh Cửu 27.50 Đã có QĐ 11 Khu tái định cư
101
Diện Kết quả STT Tên công trình Huyện Ghi chú tích đến nay (ha)
thu hồi
đất Đã có QĐ Khu dân cư Vũng Rễ (di dân Mã Vĩnh Cửu 50.00 thu hồi 12 Đà)
đất Đã có QĐ
Vĩnh Cửu 27.79 thu hồi 13 Khu tái định cư
đất Đã có QĐ Khu tái định cư khu phố 8A Biên Hòa 9.95 thu hồi 14 (GĐ2)
đất Đã có QĐ Khu tái định cư Tân Biên mở Biên Hòa 16.00 thu hồi 15 rộng
đất Đã có QĐ
Biên Hòa 7.77 thu hồi 16 Khu dân cư và khu tái định cư
đất Đã có QĐ Khu tái định cư Thống Nhất - Biên Hòa 14.50 thu hồi 17 Tân Mai
đất Đã có QĐ Khu dân cư - tái định cư phục vụ Xuân lộc 53.00 thu hồi 18 cụm công nghiệp
đất Đã có QĐ Long Thành 244.00 19 Khu tái định cư Bình Sơn
Khu dân cư và tái định cư Lộc GTĐĐ Đã có QĐ Long Thành 282.35 20 An - Bình Sơn GTĐĐ
102
Diện Kết quả STT Tên công trình Huyện Ghi chú tích đến nay (ha)
Đã có QĐ Long Thành 64.23 21 Khu tái định cư
GTĐĐ Đã có QĐ Long Thành 30.00 22 Khu tái định cư GTĐĐ
Khu nhà ở biệt thự và tái định cư Đã có QĐ (Cty TNHH Tín Nghĩa và Cty cổ Long Thành 164.00 23 GTĐĐ
phần Golf Long Thành) Khu dân cư, tái định cư Phú Đã có QĐ Nhơn Trạch 30.00 24
Hữu, Phú Đông Khu dân cư - tái định cư (KDC GTĐĐ Đã có QĐ Nhơn Trạch 20.69 25
ấp Xóm Hố) Khu dân cư phục vụ TĐC của GTĐĐ Đã có QĐ Nhơn Trạch 20.00 26
KCN Ông Kèo (Tín Nghĩa) Khu TĐC Phước Khánh (giai GTĐĐ Đã có QĐ Nhơn Trạch 40.00 27 đoạn II)
GTĐĐ Đã có QĐ Vĩnh Cửu 3.34 28 Cụm tái định cư ấp Thái Sơn
Khu tái định cư phường Xuân Long GTĐĐ Đã có QĐ 0.13 29
An Khu tái định cư phường Xuân Khánh Long GTĐĐ Đã có QĐ 0.17 30 Bình Khánh
GTĐĐ Đã có QĐ 37.00 31 Cụm tái định cư (di dân Mã Đà) Vĩnh Cửu
GTĐĐ Đã có QĐ Tân Phú 32 Khu tái định cư giao đất
Tổng cộng 1290,4
Nguồn: Sở Tài nguyên và môi trường tỉnh Đồng Nai.
103
Phụ lục số 5:
BẢNG TỔNG HỢP DANH MỤC CÁC DỰ ÁN CHUYỂN TIẾP THỰC
HIỆN VÀ PHÂN BỔ TRONG QUY HOẠCH SỬ DỤNG ĐẤT
NĂM 2010 ĐẾN NĂM 2020
Diện tích Ghi ST Tên công trình Huyện chú
T 1 Khu dân cư, tái định cư xã Nhân Nghĩa 2 Khu di dân lòng hồ 3 Tái định cư 4 Đường và khu tái định cư 5 Khu dân cư phục vụ khu công nghiệp 6 Khu tái định cư Cẩm Mỹ Định Quán Định Quán Định Quán Long Khánh Long Thành (ha) 9.48 10.00 10.50 20.00 25.51 9.30
Khu tái định cư cho trung tâm hội chợ Quốc 7 Long Thành 5.00
tế Khu Dân cư và tái định cư (quỹ đầu tư phát 8 Long Thành 60.00 triển Đồng Nai)
Nhơn Trạch Nhơn Trạch Tân Phú Trảng Bom Trảng Bom Trảng Bom 9 Khu dân cư, tái định cư Hiệp Phước 3 10 Khu tái định cư 11 Khu dân cư tránh lũ 12 Khu tái định cư KCN Hố Nai 13 Khu tái định cư 14 KDC phục vụ tái định cư 12.50 14.00 44.00 4.00 12.00 15.82
Khu dân cư, tái định cư phục vụ di dân Vĩnh Cửu 15 12.86 trong rừng
16 Khu TĐC (đường cộ) / 2007 Vĩnh Cửu 17 Khu tái định cư (Sonadezi) Vĩnh Cửu 18 Cụm dân cư và tái định cư ấp Ông Hường Vĩnh Cửu 19 Cụm tái định cư và dân cư Vĩnh Cửu 20 Khu tái định cư Xuân Lộc 21 Khu tái định cư Xuân Lộc 22 Khu tái định cư Xuân Lộc 23 Khu tái định cư Xuân Lộc 24 Khu chung cư, tái định cư Biên Hòa Biên Hòa 25 Khu tái định cư cho khu cảnh quan bờ sông 26 Khu dân cư, tái định cư và công viên cây xanh Biên Hòa 31.64 38.12 4.60 5.00 3.00 2.00 2.96 72.20 6.20 5.40 15.83
104
ST Diện tích Ghi Tên công trình Huyện chú
T 27 Khu tái định cư 28 Khu tái định cư (khu nhà ở thuỷ sản) 29 Khu tái định cư 30 Khu tái định cư 31 Khu tái định cư sân golf (mở rộng) 32 Khu dân cư tái định cư 33 Khu tái định cư kết hợp du lịch 34 Khu tái định cư và dân cư -KP1 Biên Hòa Biên Hòa Nhơn Trạch Nhơn Trạch Trảng Bom Vĩnh Cửu Biên Hòa Biên Hòa (ha) 2.65 9.00 12.00 15.45 2.10 30.00 1.41 1.14
Khu nhà ở tái định cư (trường ĐH Lạc Biên Hòa 0.14 35 Hồng)
36 Khu tái định cư tại Trảng Dài Biên Hòa 27.93
Khu nhà ở phục vụ tái định cư dự án cầu Biên Hòa 2.10 37 Đồng Nai (công ty An Hưng Phát)
Biên Hòa Biên Hòa Biên Hòa Biên Hòa Biên Hòa 3.65 3.65 10.95 1.66 10.77 38 Khu dân cư tái định cư 1 39 Khu dân cư tái định cư 2 40 Khu tái định cư tại Tam Phước (2 khu) 41 Khu tái định cư kết hợp du lịch 42 Khu dân cư phục vụ tái định cư
Khu tái định cư (trường CĐ kỹ thuật công Biên Hòa 1.51 43 nghệ)
Biên Hòa 4.53 44 Khu tái định cư
Khu nhà ở TĐC và đất ở cho các hộ thuộc 45 Biên Hòa 15.65
diện chính sách Khu dân cư và tái định cư (công ty CP 46 Biên Hòa 24.23
TM&DV Phước Tân ) khu 1 Khu dân cư và tái định cư (Cty CPTM&XD 47 Biên Hòa 15.84
Phước Tân) khu 2 Khu dân cư và tái định cư (công ty Tín 48 Biên Hòa 123.47 Nghĩa và Cty CPTM&XD Phước Tân)
49 Khu chung cư cao tầng, tái định cư Biên Hòa 4.51
Khu dân cư kết hợp tái định cư phường 50 Biên Hòa 5.13 Quang Vinh
51 Khu tái định cư Tân Biên mở rộng Biên Hòa 2.07
105
ST Diện tích Ghi Tên công trình Huyện chú
T 52 Khu dân cư TĐC kết hợp TMDV 53 Khu tái định cư xã Bảo Bình 54 Khu định canh, định cư ấp 5 55 Đường và khu tái định cư La Ngà 56 Khu tái định cư Phú Cường 57 Khu tái định cư tại Xuân Tân 58 Khu tái định cư phường Xuân Bình Biên Hòa Cẩm Mỹ Định Quán Định Quán Định Quán Long Khánh Long Khánh (ha) 3.98 4.30 9.03 14.50 4.10 1.80 0.17
Khu tái định cư và nhà ở công nhân KCN Long Thành 34.40 59 Phước Bình
60 Khu tái định cư Phước Khánh Nhơn Trạch 29.02
Khu dân cư phục vụ TĐC của KCN Ông 61 Nhơn Trạch 6.34
Kèo (phần mở rộng) 62 Khu tái định cư Sông Mây Trảng Bom Trảng Bom 63 Khu TĐC phục vụ KCN Hưng Thịnh 64 Khu dân cư, tái định cư phía Đông chợ mới Trảng Bom Trảng Bom 65 Khu tái định cư để di dời, giải tỏa sân golf Trảng Bom 66 Khu dân cư, tái định cư UBND huyện Thống Nhất 67 Khu tái định cư tại Quang Trung Thống Nhất 68 Khu dân cư tái định cư Tân Phú 69 Khu tái định cư ấp 4 Vĩnh Cửu 70 Mở rộng khu tái định cư Phú Lý Xuân Lộc 71 Khu tái định cư trường bắn 4.00 11.55 5.00 4.34 9.40 4.10 15.10 7.00 1.00 53.00
Tổng cộng 1.005,5
Nguồn: Sở Tài nguyên và môi trường tỉnh Đồng Nai.
106
Phụ lục số 6:
MỘT SỐ ƯU ĐÃI ĐẦU TƯ
Tiền thuê đất và ưu đãi tiền thuê đất, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế
thu nhập cá nhân, thuế nhập khẩu thuế trị giá gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt
và các ưu đãi khác tại Đồng Nai
1. Tiền thuê đất và ưu đãi tiền thuê đất tại các khu công nghiê ̣p có
Doanh nghiê ̣p đầu tư hạ tầng
Giá thuê đất có hạ tầng (USD/m2/năm) Tên KCN Diê ̣n tích 5 năm đầu Từ năm thứ 6
Giá đất Phí hạ tầng Giá đất Phí hạ tầng
KCN Amata 361 ha Giá thương lượng Giá thương lượng
KCN Loteco 100 ha Giá thương lượng Giá thương lượng
KCN Biên Hoà 1 335 ha 0,80 0,40 0,80 0,40
KCN Biên Hoà 2 365 ha 2,25 1,00 2,25 0,50
KCN Long Thành 510 ha 0,05 22USD/50năm 0,05 22USD/50năm
KCN Tam Phước 323 ha Giá thương lượng Giá thương lượng
Giá thương lượng Giá thương lượng KCN An Phước 130 ha
KCN Gò Dầu 184 ha 1,00 1,00 1,00 0,75
KCN Sông Mây 227 ha 0,09 1,45 0,09 1,01
KCN Hố Nai 230 ha 0,09 1,45 0,09 1,01
KCN Nhơn Trạch 1 430 ha 0,09 1,45 0,09 1,01
KCN Nhơn Trạch 2 350 ha 0,09 1,45 0,09 1,01
KCN Nhơn Trạch 3 720 ha 0,09 1,45 0,09 1,01
KCN Nhơn Trạch 5 302 ha 0,09 1,45 0,09 1,01
KCN Nhơn Trạch6 319 ha Giá thương lượng Giá thương lượng
KCN Dệt may 184 ha Giá thương lượng Giá thương lượng
Nhơn Trạch
KCN Định Quán 54 ha Giá thương lượng Giá thương lượng
107
2. Thuế thu nhập doanh nghiệp
(Trích Nghị định 164/2003/NĐ-CP ngày 22/12/2003, Nghị định
152/2004/NĐ-CP ngày 06/8/2004 của Chính phủ và Quyết định số
53/2004/QĐ-TTg ngày 5/4/2004 của Thủ tướng Chính phủ).
Trong khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao:
Lĩnh vực đầu tư Thuế thu nhập doanh nghiệp
Dịch vụ trong KCN 20% trong 10 năm kể từ ngày sản xuất kinh doanh,
miễn 2 năm và giảm 50% trong 6 năm tiếp theo. Từ
năm thứ 11 thuế suất 28%.
Sản xuất trong KCN 15% trong 12 năm, miễn 3 năm và giảm 50% trong 7
Dịch vụ trong KCX năm tiếp theo. Từ năm thứ 13 thuế suất 28%.
DN chế xuất trong 10% trong 15 năm, miễn 4 năm và giảm 50% trong 7
KCN hoặc KCX năm tiếp theo. Từ năm thứ 16 thuế suất 28%.
Dự án đầu tư thuộc 10% trong 15 năm, miễn 4 năm và giảm 50% trong 9
ngành nghề đặc biệt năm tiếp theo. Từ năm thứ 16 thuế suất 28%.
khuyến khích đầu tư
Doanh nghiệp công 10% trong suốt thời hạn hoạt động, miễn 4 năm và
nghệ cao đầu tư vào giảm 50% trong 9 năm tiếp theo.
Khu công nghệ cao
3. Thuế thu nhập cá nhân
(Theo Nghị định 147/2004/NĐ-CP ngày 23/7/2004)
Thuế thu nhập cá nhân tại Việt Nam áp dụng đối với người có thu nhập
cao. Thu nhập chịu thuế bao gồm thu nhập thường xuyên và thu nhập không
thường xuyên tính theo các mức thuế suất cụ thể sau:
* Thuế suất đối với thu nhập thường xuyên:
- Đối với công dân Việt Nam ở trong nước và cá nhân khác định cư tại
Việt Nam áp dụng biểu thuế luỹ tiến từng phần, như sau:
108
Bậc Thu nhập bình quân tháng/người Thuế suất (%)
Đến 5 triệu đồng 1 0
Trên 5 đến 15 triệu đồng 2 10
Trên 15 đến 25 triệu đồng 3 20
Trên 25 đến 45 triệu đồng 4 30
Trên 40 triệu đồng 5 40
- Đối với người nước ngoài cư trú tại Việt Nam và công dân Việt Nam
lao động, công tác ở nước ngoài áp dụng biểu thuế luỹ tiến từng phần, như
sau:
Bậc Thu nhập bình quân tháng/người Thuế suất (%)
Đến 8 triệu đồng 1 0
Trên 8 đến 20 triệu đồng 2 10
Trên 20 đến 50 triệu đồng 3 20
Trên 50 đến 80 triệu đồng 4 30
Trên 80 triệu đồng 5 40
- Đối với người nước ngoài không cư trú tại Việt Nam, áp dụng thuế suất
25% trên tổng thu nhập chịu thuế.
4. Thuế nhập khẩu
(Trích Điều 57, 58 Nghị định 24/2000/NĐ-CP ngày 31/7/2000 và Nghị
định 27/2003/NĐ-CP ngày 19/3/2000).
Doanh nghiệp được miễn thuế nhập khẩu đối với hàng hóa nhập khẩu để
tạo tài sản cố định, bao gồm:
+ Thiết bị, máy móc;
+ Phương tiện vận tải chuyên dùng nằm trong dây chuyền công nghệ và
phương tiện vận chuyển dùng để đưa đón công nhân (ô tô từ 24 chỗ ngồi trở
lên, phương tiện thuỷ);
+ Linh kiện, chi tiết, bộ phận rời, phụ tùng, gá lắp, khuôn mẫu, phụ kiện
đi kèm với thiết bị, máy móc, phương tiện vận chuyển và vận tải chuyên dùng
quy định tại điểm b khoản này.
109
+ Nguyên liệu, vật tư nhập khẩu để chế tạo thiết bị, máy móc trong dây
chuyền công nghệ hoặc để chế tạo linh kiện, chi tiết, bộ phận rời, phụ tùng, gá
lắp, khuôn mẫu, phụ kiện đi kèm với thiết bị, máy móc;
+ Vật tư xây dựng mà trong nước chưa sản xuất được.
5. Thuế trị giá gia tăng
(Trích Điều 60 Nghị định 24/2000/NĐ-CP ngày 31/7/2000, Nghị định
27/2003/NĐ-CP ngày 19/3/2000, Điều 7 Nghị định số 158/2003/NĐ-CP ngày
10 tháng 12 năm 2003 và Nghị định 148/NĐ-CP ngày 23/7/2004)
Doanh nghiệp không phải nộp thuế giá trị gia tăng đối với:
- Thiết bị, máy móc, phương tiện vận tải chuyên dùng nằm trong dây
chuyền công nghệ thuộc loại trong nước chưa sản xuất được, nhập khẩu để
tạo tài sản cố định của doanh nghiệp .
Trường hợp dây chuyền thiết bị, máy móc đồng bộ nhập khẩu thuộc diện
không chịu thuế giá trị gia tăng, nhưng trong dây chuyền đồng bộ đó có cả
loại thiết bị, máy móc trong nước đã sản xuất được thì cũng không tính thuế
giá trị gia tăng cho cả dây chuyển thiết bị, máy móc đồng bộ;
- Vật tư xây dựng trong nước chưa sản xuất được để tạo tài sản cố định
của doanh nghiệp.
- Nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất sản phẩm cung cấp cho các doanh
nghiệp trực tiếp sản xuất ra sản phẩm xuất khẩu.
Ngoài ra áp dụng mức thuế suất 0% đối với một số loại hàng hóa, dịch
vụ xuất khẩu.
6. Thuế tiêu thụ đặc biệt
STT Hàng hoá, dịch vụ Thuế suất (%)
I Hàng hoá
1 Thuốc lá điếu, xì gà
a) Thuốc lá điếu có đầu lọc sản xuất chủ yếu bằng nguyên
liệu nhập khẩu, xì gà 65
b) Thuốc lá điếu có đầu lọc sản xuất chủ yếu bằng nguyên 45
110
liệu sản xuất trong nước
c) Thuốc lá điếu không đầu lọc 25
2. Rượu
a) Rượu từ 40 độ trở lên 75
b) Rượu từ 20 độ đến dưới 40 độ 30
c) Rượu dưới 20 độ, rượu hoa quả 20
d) Rượu thuốc 15
3. Bia
a) Bia chai, bia hộp, bia tươi 75
b) Bia hơi 30
4. Ô tô
a) Ô tô từ 5 chỗ ngồi trở xuống 80
b) Ô tô từ 6 đến 15 chỗ ngồi 50
c) Ô tô từ 16 đến dưới 24 chỗ ngồi 25
5. Xăng các loại, chế phẩm tái hợp (reformade component) 10
và các chế phẩm khác dùng để pha chế xăng
6. Điều hoà nhiệt độ có công suất dưới 90.000 BTU 15
7. Bài lá 40
8. Vàng mã, hàng mã 70
II. Dịch vụ
1. Kinh doanh vũ trường, Massage, Karaoke 30
2. Kinh doanh casino, trò chơi bằng máy jackpot 25
3. Kinh doanh giải trí có đặt cược 25
4. Kinh doanh gôn (golf); bán thẻ hội viên, vé chơi gôn 10
5. Kinh doanh xổ số 15
7. Ưu đãi khác tại Đồng Nai
111
7.1. Các dự án đầu tư vào khu công nghiệp tại các huyện Tân Phú, Định
Quán, Xuân Lộc, Cẩm Mỹ:
Được miễn phí sử dụng hạ tầng trong 5 năm kể từ khi bắt đầu sản xuất
kinh doanh. Ngoài ra nếu dự án đầu tư ngành nghề thuộc danh mục ngành
nghề đặc biệt khuyến khích đầu tư và danh mục ngành nghề khuyến khích đầu
tư theo quy định của Chính phủ được miễn tiền thuê đất trong thời hạn thuê
đất; các dự án đầu tư thuộc các ngành nghề còn lại được miễn tiền thuê đất
trong thời gian 15 năm kể từ khi ký hợp đồng thuê đất.
7.2. Các doanh nghiệp thuê đất đầu tư xây dựng nhà ở cho công nhân
của doanh nghiệp (không kinh doanh) được miễn tiền thuê đất trong thời hạn
thuê đất.
Nguồn: http://www.dongnai.gov.vn/Đăng ngày: 29/07/2010