BỘ QUỐC PHÒNG

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ



NGUYỄN TẤN HƯNG

GIẢI QUYẾT LỢI ÍCH KINH TẾ CỦA NÔNG DÂN TRONG THU HỒI ĐẤT PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP VÀ DỊCH VỤ Ở ĐỒNG NAI

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

HÀ NỘI - 2014

BỘ QUỐC PHÒNG

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ



NGUYỄN TẤN HƯNG

GIẢI QUYẾT LỢI ÍCH KINH TẾ CỦA NÔNG DÂN TRONG THU HỒI ĐẤT PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP VÀ DỊCH VỤ Ở ĐỒNG NAI

CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ

MÃ SỐ: 60 31 01 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS ĐỖ VĂN NHIỆM

HÀ NỘI - 2014

MỤC LỤC

3

12 12

1.1. 1.2.

18

Chương 2 MỞ ĐẦU Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT LỢI ÍCH KINH TẾ CỦA NÔNG DÂN TRONG THU HỒI ĐẤT PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP VÀ DỊCH VỤ Lợi ích và lợi ích kinh tế Quan niệm, các nhân tố ảnh hưởng và tác động của giải quyết lợi ích kinh tế kinh tế của nông dân trong thu hồi đất đến phát triển công nghiệp và dịch vụ ở Đồng Nai THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT LỢI ÍCH KINH

TẾ CỦA NÔNG DÂN TRONG THU HỒI ĐẤT

PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP VÀ DỊCH VỤ Ở

29

2.1.

29

2.2.

ĐỒNG NAI Đặc điểm về điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội ở Đồng Nai ảnh hưởng đến lợi ích kinh tế của nông dân bị thu hồi Thực trạng giải quyết lợi ích kinh tế của nông dân trong thu hồi đất phát triển công nghiệp và dịch vụ ở Đồng Nai 32

Chương 3 QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT THỎA ĐÁNG LỢI ÍCH KINH TẾ CỦA NÔNG DÂN TRONG THU HỒI ĐẤT PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP VÀ DỊCH VỤ Ở ĐỒNG NAI THỜI GIAN TỚI 59

3.1 Những quan điểm cơ bản 59

3.2. Những giải pháp chủ yếu

69 84 86

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC 93

3

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước tất yếu dẫn đến sự hình

thành các khu công nghiê ̣p và dịch vụ, các khu đô thị mới. Để phát triển các

khu công nghiệp và khu đô thị, không thể không thu hồi đất mà người dân

đang sử dụng. Việc thu hồi đất để xây dựng các khu công nghiệp và khu đô

thị mới làm xuất hiện rất nhiều vấn đề khiến xã hội quan tâm như: thiếu đồng

bộ, nhất quán trong quy hoạch đô thị; các chính sách thu hồi đất còn nhiều

mặt chưa hợp lý; chưa giải quyết hợp lý các vấn đề lợi ích kinh tế của nông

dân có đất bị thu hồi; xuất hiện nhiều hiện tượng tiêu cực trong quá trình sử

dụng đất cho phát triển các khu công nghiệp và khu đô thị.

Đồng Nai là một trong những tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm

phía Nam, là mô ̣t tỉnh có tốc độ công nghiê ̣p hóa, hiê ̣n đại hóa tương đối

nhanh so với các địa phương khác của cả nước. Để phát triển các khu công

nghiệp và dịch vụ, tất yếu tỉnh cũng phải tiến hành thu hồi một diện tích đất

nông nghiệp của nông dân để đáp ứng yêu cầu của các dự án.

Trong những năm qua, việc thu hồi đất đáp ứng yêu cầu phát triển công

nghiệp, ngành kinh tế dịch vụ, và việc giải quyết các lợi ích kinh tế của nông

dân gắn liền với đất đai thu hồi đã được Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân tỉnh,

lãnh đạo và chính quyền địa phương các huyện, thị xã, thành phố quan tâm

giải quyết trên cơ sở các quy định Nhà nước và đề xuất của cơ quan chức

năng của tỉnh và các địa phương đặt trong bối cảnh tình hình kinh tế - xã hội

tỉnh Đồng Nai.

Song, thực tiễn cho thấy, vấn đề thu hồi đất và giải quyết quyền lợi của

nông dân bị thu hồi đất luôn là vấn đề nhạy cảm và có những khó khăn, phức

tạp. Do đó quá trình tổ chức thực hiện các quy định của Nhà nước về giải

quyết lợi ích của nông dân bị thu hồi đất vẫn tồn tại những bất cập - nhìn từ

4

góc độ giải quyết lợi ích kinh tế của nông dân. Để việc thu hồi đất diễn ra

thuận lợi không ảnh hưởng đến tiến độ triển khai các dự án công nghiệp và

dịch vụ trên địa bàn tỉnh thực sự đang là bài toán đặt ra trước các nhà lãnh

đạo, quản lý, các nhà hoạch định chính sách, các nhà khoa học cần phải tiếp

tục nghiên cứu làm sáng tỏ cả về lý luận và thực tiễn. Với lý do đó, tác giả

chọn“Giải quyết lợi ích kinh tế của nông dân trong thu hồi đất phát triển

công nghiệp và dịch vụ ở Đồng Nai” làm đề tài luận văn Thạc sĩ chuyên

ngành kinh tế chính trị.

2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài

Vấn đề lợi ích kinh tế nói chung, lợi ích kinh tế của nông dân, trong đó

có vấn đề lợi ích kinh tế của nông dân nói riêng, trong thu hồi đất để phát

triển công nghiệp, dịch vụ đã được nhiều tác giả nghiên cứu dưới các góc đô ̣

tiếp câ ̣n khác nhau. Các công trình nghiên cứu có liên quan trực tiếp đến đề

tài có thể kể đến:

* Các sách tham khảo và chuyên khảo

Tập thể các tác giả Đào Duy Tùng, Phạm Thành, Vũ Hữu Ngoạn, Lê

Xuân Tùng, Nguyễn Duy Bảy trong cuốn “Bàn về lợi ích kinh tế”, Nhà xuất bản

Sự thâ ̣t, Hà Nô ̣i, năm 1982. Thông qua tác phẩm các tác giả đã đưa ra quan điểm

của mình về lợi ích kinh tế.

Nguyễn Linh Khiếu trong cuốn “Lợi ích động lực phát triển xã hội”, Nhà

xuất bản Khoa học - Xã hội, Hà Nội, năm 1999, đã tổng kết lại nhiều nghiên

cứu khác nhau về lợi ích trong và ngoài nước tính cho tới thời điểm đó đã đưa

ra cách tiếp cận mới về khái niệm lợi ích. Theo ông, quan hệ lợi ích là quan

hệ đa chiều, bao gồm: mối quan hệ giữa chủ thể lợi ích và đối tượng của quan

hệ lợi ích; giữa các chủ thể có cùng đối tượng của quan hệ lợi ích với nhau

trong việc thực hiện các nhu cầu cấp bách của mình.

Nguyễn Linh Khiếu trong cuốn “Góp phần nghiên cứu quan hệ lợi ích”,

Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 2002, phát triển những thành

5

tựu nghiên cứu về mối quan hệ biện chứng giữa các lợi ích tiêu biểu trong xã

hội, ở công trình đã dẫn trên đây vào cụ thể vai trò của lợi ích kinh tế trong phát

triển kinh tế xã hội Việt Nam, đã cho rằng “Quan hệ kinh tế của một xã hội biểu

hiện tập trung nhất của các quan hệ lợi ích”, theo đó trong đời sống kinh tế - xã

hội Việt Nam hiện nay các thành phần kinh tế có xu hướng vận động theo nhiều

hướng khác nhau, nhưng tất cả các xu hướng đều đưa nước ta phát triển đi lên.

Đó là một sự vận động theo hướng tổng lực trong đó xu hướng xã hội chủ nghĩa

đang đóng vai trò chủ đạo.

Tập thể tác giả Nguyễn Văn Nhường, Nguyễn Thành Độ, trong cuốn

“Bàn về chính sách an sinh xã hội với người nông dân sau khi thu hồi đất để

phát triển các khu công nghiệp”, Đại học Kinh tế Quốc dân, năm 2011, đã

giới thiệu chính sách an sinh xã hội đối với người nông dân trong diện thu hồi

đất để phát triển các khu công nghiệp. Tình hình và kết quả thực hiện chính

sách cùng những kiến nghị hoàn thiện chính sách an sinh xã hội đối với người

nông dân trong diện thu hồi đất để phát triển các khu công nghiệp từ thực tiễn

ở tỉnh Bắc Ninh.

Vũ Ngọc Kỳ trong cuốn “Một số vấn đề về nông nghiệp, nông thôn, nông

dân, hội nông dân ở Việt Nam”, Nhà xuất bản Nông nghiệp, năm 2005, đã trình

bày vai trò lãnh đạo của Đảng và Nhà nước đối với nông dân và Hội nông dân

trong thời kỳ mới, phát huy vai trò của giai cấp nông dân và Hội nông dân, giải

quyết vấn đề đất đai đối với hộ nông dân không còn đất sản xuất.

Nguyễn Viết Chung trong cuốn “Nông dân và công nghiệp hoá xã hội

chủ nghĩa” Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, năm 1962, đã đi sâu phân tích tình

hình thực tế của nông dân Việt Nam dưới chế độ cũ: sự nghèo nàn, lạc hậu,

hiểu biết nông cạn, văn hoá thấp kém. Việc xây dựng chủ nghĩa xã hội là con

đường mở ra sự ấm no, hạnh phúc cho người nông dân: cung cấp những hiểu

biết cơ bản về chế độ xã hội chủ nghĩa tươi đẹp ở Việt Nam.

6

* Về các luận án, luận văn nghiên cứu về lợi ích kinh tế, có các tác giả

với các đề tài sau:

Chử Văn Tuyên, “Lợi ích kinh tế của người lao động và vận dụng nó

vào lực lượng vũ trang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt

Nam”, luâ ̣n án Tiến sĩ kinh tế, Học viê ̣n Chính trị quân sự, năm 1980. Trong

luâ ̣n án tác giả đã phân tích dưới góc độ kinh tế chính trị về nội dung vấn đề lợi

ích kinh tế của người lao động trong thời kỳ quá độ. Đề xuất một số giải pháp

chủ yếu nhằm giải quyết tốt lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần của quân dân.

Nguyễn Duy Hùng, “Bàn về sự hình thành và kết hợp các lợi ích kinh tế

trong nông nghiệp tập thể”, luâ ̣n án Tiến sỹ kinh tế, H.1988. Tác giả đề xuất

những hình thức cơ bản kết hợp các lợi ích kinh tế, góp phần giải quyết mâu

thuẫn đang cản trở bước tiến của nông nghiệp tập thể, đảm bảo sự phát triển

hài hòa của các lợi ích kinh tế ấy, nhờ đó tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy

nông nghiệp tập thể phát triển.

Nguyễn Đức Bách, “Quan hệ giữa lợi ích kinh tế xã hội, tập thể và cá

nhân người lao động trong chặng đường đầu tiên thời kỳ quá độ lên chủ

nghĩa xã hội ở Việt Nam”, luâ ̣n án Phó tiến sĩ triết học, Học viện Nguyễn Ái

Quốc, H. 1988. Luâ ̣n án phân tích bản chất và đặc trưng chủ yếu của lợi ích

kinh tế, vai trò trong sự vận động của các quy luật kinh tế, các quan hệ sản

xuất và sự phát triển xã hội. Phân tích các đặc điểm chủ yếu của quan hệ giữa

các lợi ích kinh tế ở nước ta, những mâu thuẫn và đưa ra một số ý kiến về

phương pháp luận giải quyết các mâu thuẫn đó. Kết hợp tốt ba lợi ích kinh tế

và giáo dục chính trị, tư tưởng trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá đô ̣

lên chủ nghĩa xã hô ̣i ở nước ta.

Ung Thị Minh Lệ, “Hệ thống lợi ích kinh tế và các quan hệ phân phối

trong việc thực hiện chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội Việt

Nam”, luâ ̣n án Phó tiến sĩ kinh tế, Thành phố Hồ Chí Minh, năm 1996. Tác

7

giả phân tích một số lợi ích cơ bản, mối liên hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích

xã hội, đồng thời đưa ra một số biện pháp trong lĩnh vực tài chính nhằm thực

hiện các lợi ích kinh tế trong quá trình phân phối, phân phối lại tổng sản phẩm

quốc gia và các nguồn tài chính khác.

Đỗ Nhật Tân, “Vai trò động lực của lợi ích kinh tế đối với sự nghiệp xây

dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện

nay”, luâ ̣n án Phó tiến sĩ triết học, H.1991. Tác giả phân tích bản chất lợi ích

kinh tế, tính đa dạng phức tạp của các quan hệ lợi ích kinh tế trong xã hội.

Làm sáng tỏ vai trò động lực của lợi ích kinh tế trong hệ thống các động lực

phát triển xã hội, trong các thành phần kinh tế. Tìm ra được đặc thù của động

lực lợi ích kinh tế nhiều thành phần và giải pháp khuyến khích tối đa động lực

ở Việt Nam.

Vương Đình Cường, “Lợi ích kinh tế nông dân ở nước ta hiện nay”,

luâ ̣n án Phó tiến sĩ kinh tế, H.1992. Trong luâ ̣n án, tác giả đề câ ̣p đến lợi ích

kinh tế nông dân trong cơ chế khoán 10 qua việc phân tích vai trò, nội dung

các mối quan hệ với lợi ích kinh tế của nhà nước và tập thể. Đề xuất những

biện pháp kinh tế cơ bản để nâng cao lợi ích kinh tế nông dân, tạo động lực

phát triển kinh tế hàng hóa trong nông nghiệp.

Phạm Thắng, “Giải pháp để kết hợp các lợi ích kinh tế trong doanh

nghiệp Nhà nước ở Việt Nam hiện nay qua khảo sát các doanh nghiệp Nhà

nước tại thành phố Hồ Chí Minh”, luâ ̣n án Phó tiến sĩ kinh tế, thành phố Hồ

Chí Minh, năm 1997. Tác giả đã khái quát các vấn đề lý luận căn bản có liên

quan đến lợi ích và lợi ích kinh tế. Phân tích tổng quát thực trạng của việc kết

hợp các lợi ích kinh tế của các doanh nghiệp Nhà nước trong cả nước nói

chung và ở thành phố Hồ Chí Minh nói riêng qua các giai đoạn khác nhau.

Đặng Quang Định, “Thống nhất lợi ích kinh tế giữa giai cấp công nhân,

nông dân và tầng lớp trí thức trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở Việt

8

Nam hiện nay”, luâ ̣n án Tiến sĩ triết học, H.2010. Tác giả phân tích quan

điểm chủ nghĩa Mác-Lênin và của Đảng ta về lợi ích kinh tế; trên cơ sở đó,

tác giả chỉ ra tầm quan trọng của sự thống nhất lợi ích kinh tế giữa giai cấp

công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức đối với việc xây dựng và phát triển

đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Đề xuất giải pháp

hữu ích trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay.

Trần Thị Lan, “Quan hệ lợi ích kinh tế trong thu hồi đất của nông dân để

xây dựng các khu công nghiệp và khu đô thị mới ở Hà Nội”, luâ ̣n án Tiến sĩ

kinh tế , Học viê ̣n Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, H. 2012. Tác

giả đã phân tích các mối quan hệ giữa lợi ích kinh tế của các chủ thể có liên

quan đến quá trình thu hồi đất để xây dựng các khu công nghiệp và khu đô thị

mới ở Hà Nội. Đề xuất các quan điểm, giải pháp nhằm tiếp tục giải quyết hài

hòa lợi ích kinh tế của các chủ thể có liên quan đến quá trình thu hồi đất của

nông dân để xây dựng các khu công nghiệp và khu đô thị mới ở Hà Nội.

Phạm Quang Hưng, “Lợi ích kinh tế của nông dân trong quá trình công

nghiê ̣p hóa, hiê ̣n đại hóa ở Hà Nội”, luâ ̣n văn Thạc sỹ kinh tế, Học viê ̣n

Chính trị, năm 2013. Tác giả đã luâ ̣n giải cơ sở lý luâ ̣n và thực tiễn vấn đề lợi

ích kinh tế của nông dân Hà Nô ̣i trong quá trình công nghiê ̣p hóa, hiện đại

hóa; đồng thời đề xuất những quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu bảo đảm

lợi ích kinh tế của nông dân ở Hà Nô ̣i trong thời gian tới.

* Các bài viết đăng trên các tạp chí đề cập đến lợi ích kinh tế

“Lợi ích kinh tế - động lực thu hút mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế -

xã hội ở Việt Nam hiện nay” của PGS.TS Đào Duy Huân, Tạp chí Phát triển

kinh tế số 200 năm 2007; “Lợi ích kinh tế - một số vấn đề lý luận và thực

tiễn” của PTS Hồ Tấn Phong, Tạp chí Phát triển kinh tế số 27 năm 1993, các

tác giả đều đã đề cập ở mức độ khác nhau đến vai trò động lực của lợi ích

kinh tế nhìn từ góc độ lý luận và thực tiễn.

9

Như vâ ̣y, mă ̣c dù vấn đề lợi ích kinh tế nói chung, lợi ích kinh tế của

nông dân nói riêng đã được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu. Tuy nhiên,

vấn đề giải quyết lợi ích kinh tế của nông dân trong thu hồi đất phát triển

công nghiệp và dịch vụ ở Đồng Nai cho đến nay chưa có công trình nào đã

công bố. Do đó, nghiên cứu đề tài này là cần thiết và có ý nghĩa lý luận, thực

tiễn.

3. Mục đích và nhiê ̣m vụ của luâ ̣n văn

* Mục đích:

Luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn về giải quyết lợi ích kinh

tế của nông dân trong thu hồi đất phát triển công nghiệp và dịch vụ ở Đồng

Nai, trên cơ sở đó đề xuất quan điểm và giải pháp nhằm giải quyết lợi ích

kinh tế của nông dân trong thu hồi đất phát triển công nghiệp và dịch vụ

trên địa bàn tỉnh trong thời gian tới.

* Nhiê ̣m vụ:

Luận giải làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về giải quyết lợi ích kinh tế

của nông dân trong thu hồi đất phát triển công nghiệp và dịch vụ.

Đánh giá thực trạng việc giải quyết lợi ích kinh tế của nông dân trong

thu hồi đất phát triển công nghiệp và dịch vụ ở tỉnh Đồng Nai.

Đề xuất các quan điểm, giải pháp giải quyết lợi ích kinh tế của nông

dân trong thu hồi đất phát triển công nghiệp và dịch vụ ở Đồng Nai trong

thời gian tới.

4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

* Đối tượng nghiên cứu:

Lợi ích kinh tế của nông dân trong quá trình thu hồi đất cho phát triển

công nghiệp và dịch vụ.

* Phạm vi nghiên cứu:

10

Về nội dung: việc giải quyết lợi ích của nông dân bao gồm cả quá trình thu

hồi đất và những tồn đọng cần giải quyết tiếp sau khi đất đã được thu hồi.

Về không gian: các địa phương trên địa bàn tỉnh Đồng Nai có đất nông

nghiệp và đất phi nông nghiệp của nông dân bị thu hồi cho phát triển công

nghiệp và dịch vụ.

Về thời gian: giới hạn từ năm 2006 đến nay.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

* Cơ sở lý luận:

Dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật

lịch sử, quan điểm đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam, các văn kiện của

Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh, Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai. Ngoài ra, quá

trình nghiên cứu còn sử dụng các lý luận có liên quan khác để tiếp cận đối

tượng, luận giải nhiệm vụ của đề tài.

* Phương pháp nghiên cứu:

Đề tài sử dụng tổng hợp hệ thống phương pháp nghiên cứu bao gồm: hệ thống

phương pháp nghiên cứu nền tảng là phương pháp duy vật biện chứng và duy vật

lịch sử; phương pháp nghiên cứu đặc thù của kinh tế chính trị cùng các phương

pháp phân tích, thống kê, so sánh, hệ thống hóa...; phương pháp chuyên gia.

Kế thừa một cách có chọn lọc kết quả của các công trình nghiên cứu đi

trước và cập nhật những thông tin mới về vấn đề nghiên cứu.

6. Ý nghĩa của luận văn

Sau khi hoàn thành, luận văn góp thêm một tiếng nói với các cơ quan chức

năng thuộc tỉnh Đồng Nai, tìm biện pháp thích hợp, khả thi giải quyết thỏa đáng

hơn lợi ích kinh tế của nông dân bị thu hồi đất phát triển công nghiệp, dịch vụ,

làm cho quá trình đó diễn ra thuận lợi góp phần triển khai đúng tiến độ các dự án

đã được phê duyệt, nhằm phát triển kinh tế địa phương, sớm đưa Đồng Nai cán

11

đích mục tiêu cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm

2020.

Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong nghiên

cứu và giảng dạy môn học kinh tế chính trị Mác - Lênin, làm tài liệu tham khảo

để các địa phương xây dựng chủ trương, biện pháp giải quyết thỏa đáng hơn lợi

ích kinh tế của nông dân bị thu hồi đất phát triển công nghiệp, dịch vụ.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, luận văn gồm 3 chương (6 tiết), kết luận, danh mục tài

liệu tham khảo và phụ lục.

12

Chương 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT LỢI ÍCH KINH TẾ

CỦA NÔNG DÂN TRONG THU HỒI ĐẤT PHÁT TRIỂN

CÔNG NGHIỆP VÀ DỊCH VỤ

1.1. Lợi ích và lợi ích kinh tế

Để có thể có quan niệm đầy đủ và chính xác về phạm trù lợi ích kinh tế

của nông dân trong thu hồi đất phát triển công nghiê ̣p và dịch vụ, cần bắt đầu

từ các quan niệm về phạm trù lợi ích và lợi ích kinh tế nói chung.

1.1.1. Lợi ích

Trên cơ sở kế thừa những tư tưởng đúng đắn của nhân loại C.Mác và

Ph.Ăngghen đi từ nhu cầu của con người hiê ̣n thực để nghiên cứu lịch sử, qua

đó chỉ ra cơ sở hình thành lợi ích và vai trò của nó trong sự phát triển của lịch

sử. Theo đó, tất cả các lợi ích của con người đều nảy sinh từ nhu cầu sống, tồn

tại và phát triển.

Nhu cầu là đòi hỏi, mong muốn, nguyện vọng của con người. Tuy nhiên,

nhu cầu không phải là những cái chung chung trừu tượng, mà phải là nhu cầu

về của cải vật chất và dịch vụ nhằm thỏa mãn đời sống vật chất và tinh thần

của mỗi người, mỗi cộng đồng người và mỗi tập đoàn xã hội nhất định.

Nhu cầu về của cải vật chất là nhu cầu về các sản phẩm của nền sản xuất

xã hội, tức là của cải vật chất và dịch vụ mang tính chất xã hội có nguồn gốc

từ nền sản xuất của xã hội. Thông thường trong cuộc sống, nhu cầu về vật

chất thường được đồng nhất với nhu cầu kinh tế. Nói cách khác, nhu cầu kinh

tế trước hết cũng là nhu cầu về vật chất, song không phải mọi nhu cầu về vật

chất đều là nhu cầu kinh tế. Trong tiến trình vận động và phát triển của lịch sử

xã hội loài người, chỉ khi nào xuất hiện các hình thức khác nhau về sở hữu tư

liệu sản xuất, xuất hiện phân công lao động xã hội, lúc đó những nhu cầu về

vật chất của con người mới mang tính chất xã hội và chuyển hóa thành nhu

13

cầu kinh tế. Khi nhu cầu kinh tế của một chủ thể nào đó được đáp ứng, được

thỏa mãn thì lúc đó mới xuất hiện lợi ích kinh tế.

Như vâ ̣y, lợi ích nảy sinh từ nhu cầu, là cái phản ánh quan hê ̣ nhu cầu

giữa các chủ thể và dùng để thỏa mãn nhu cầu của các chủ thể xã hô ̣i. Khi các

nhu cầu được đáp ứng, được thỏa mãn, có nghĩa con người đã được thỏa mãn

về lợi ích. Lợi ích là hiện tượng xã hội khách quan tồn tại trong đời sống xã

hội, gắn liền với chủ thể. Trong xã hội có đối kháng giai cấp, lợi ích cũng

mang tính giai cấp và tính lịch sử cụ thể.

Nhu cầu của con người rất phong phú đa dạng nên lợi ích cũng rất phong

phú và đa dạng. Nhu cầu có nhu cầu vật chất hay nhu cầu văn hoá tinh thần;

nhu cầu trước mắt hay nhu cầu lâu dài; nhu cầu tiêu dùng hay nhu cầu sản

xuất, theo đó cũng có lợi ích vật chất hay tinh thần; lợi ích trước mắt hay lợi

ích lâu dài. Mặt khác, trong các hoạt động thực tiễn vì sự tồn tại và phát triển

của mình, con người có nhu cầu chung phải liên kết với nhau, những nhu cầu

chung là cơ sở hình thành lợi ích chung. Ngoài những lợi ích chung, con

người còn có lợi ích riêng nảy sinh từ các nhu cầu trong mỗi hoàn cảnh cụ

thể. Như vâ ̣y, bên cạnh những nhu cầu chung của tập thể (cộng đồng), xã hội,

con người còn có nhu cầu riêng của cá nhân, những nhu cầu này hình thành

nên lợi ích chung và lợi ích của mỗi cá nhân.

Từ đó, có thể quan niệm lợi ích là hiện tượng xã hội khách quan gắn

liền với những chủ thể xác định, được nảy sinh từ nhu cầu và nhằm thoả mãn

nhu cầu con người trong những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định.

Trong quá trình hoạt động thực tiễn của con người, có thể nảy sinh rất

nhiều quan hệ lợi ích. Nếu phân chia theo lĩnh vực sẽ có các hình thái lợi ích: lợi

ích kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh. Nếu phân chia theo

phạm vi cấp độ có: lợi ích cá nhân, nhóm, tập thể, xã hội. Phân chia theo thời

gian có: lợi ích trước mắt, lợi ích lâu dài… Phân chia theo các khâu của quá trình

tái sản xuất thì có: lợi ích người sản xuất, người tiêu dùng, nhà phân phối.

14

1.1.2. Lợi ích kinh tế

Trong đời sống xã hô ̣i của mình, ngay từ khi mới xuất hiện, con người đã

tiến hành các hoạt động tác động vào giới tự nhiên nhằm thỏa mãn nhu cầu ăn,

ở, đi lại,... Tóm lại là những nhu cầu nhằm bảo đảm sự tồn tại và phát triển của

mỗi cá thể và cộng đồng. Quá trình hoàn thiện các kỹ năng lao động và thỏa mãn

nhu cầu, các hoạt động kinh tế xuất hiện, giữ vai trò trung tâm trong mọi hoạt

động xã hội và nó là cơ sở cho các hoạt động khác.

Trong hoạt động kinh tế, con người luôn có động cơ nhất định. Động cơ

thúc đẩy con người hành động. Mức độ hành động (mạnh hay yếu) tuỳ thuộc

vào mức độ chín muồi của động cơ - tuỳ thuộc vào nhận thức và thực hiện lợi

ích của họ.

Theo C.Mác thì phạm trù lợi ích (ích lợi, có lợi) được sử dụng như là

cùng nghĩa và có thể thay thế nhau. Lợi ích không phải là một cái gì trừu

tượng và có tính chất chủ quan, mà cơ sở của lợi ích là nhu cầu khách quan

của con người. Con người có nhiều loại nhu cầu (vật chất, chính trị, văn hoá),

do đó có nhiều loại lợi ích (lợi ích kinh tế, lợi ích chính trị, lợi ích văn hoá,

tinh thần).

Lợi ích kinh tế là một phạm trù kinh tế khách quan, nó xuất hiện trong

những điều kiện tồn tại xã hội của con người. Hay nói cách khác, lợi ích kinh

tế là mối quan hệ xã hội nhằm thực hiện nhu cầu kinh tế của các chủ thể kinh

tế. Những nhu cầu kinh tế của con người khi nó được xác định về mặt xã hội

thì nó trở thành cơ sở, nội dung của lợi ích kinh tế.

Lợi ích kinh tế luôn gắn liền với nhu cầu, song đây không phải là nhu

cầu bất kỳ, mà là nhu cầu kinh tế (nhu cầu vật chất). Chỉ có những nhu cầu

kinh tế mới làm phát sinh lợi ích kinh tế. Vì vậy, lợi ích kinh tế là một phạm

trù kinh tế, một mặt, nó phản ánh những điều kiện, những phương tiện nhằm

đáp ứng nhu cầu vật chất của mỗi con người, mỗi chủ thể. Suy cho cùng, lợi

15

ích kinh tế được biểu hiện ở mức độ của cải vật chất mà mỗi con người có

được, khi tham gia vào các hoạt động kinh tế - xã hội. Mặt khác, nó phản ánh

quan hệ giữa con người với con người trong quá trình tham gia vào các hoạt

động đó để tạo ra của cải vật chất cho mình. Những quan hệ đó chính là quan

hệ sản xuất trong xã hội. Vì vậy lợi ích kinh tế còn là hình thức biểu hiện của

quan hệ sản xuất, do quan hệ sản xuất quyết định.

Lợi ích kinh tế là hình thức biểu hiện của quan hệ sản xuất, nó được quy

định một cách khách quan bởi phương thức sản xuất, bởi hệ thống quan hệ

sản xuất, trước hết là quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất.

Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, quyết định vị trí, vai trò của mỗi con

người, mỗi chủ thể trong quá trình tham gia vào các hoạt động kinh tế - xã

hội. Do đó, không có lợi ích kinh tế nằm ngoài những quan hệ sản xuất, mà

nó là sản phẩm của những quan hệ sản xuất, là hình thức vốn có bên trong,

hình thức tồn tại và biểu hiện của các quan hệ sản xuất. Chính vì vậy, theo

Ph.Ăngghen “Các quan hệ kinh tế của một xã hội nhất định biểu hiện trước

hết dưới hình thức lợi ích” [38, tr.376].

Hệ thống quan hệ sản xuất của mỗi một chế độ xã hội nhất định sẽ quy

định hệ thống lợi ích kinh tế của xã hội đó. Trong thời kỳ quá độ lên chủ

nghĩa xã hội, ở nước ta tồn tại nhiều quan hệ sản xuất, nhiều quan hệ sở hữu

khác nhau về tư liệu sản xuất, nhiều thành phần kinh tế, do đó hệ thống lợi ích

kinh tế cũng mang tính đa dạng. Tùy góc độ xem xét mà ta có thể phân chia

thành các nhóm, các loại lợi ích kinh tế khác nhau. Dưới góc độ khái quát

nhất có thể phân chia hệ thống lợi ích kinh tế thành: lợi ích kinh tế cá nhân,

lợi ích kinh tế tập thể (nhóm cộng đồng) và lợi ích kinh tế xã hội. Dưới góc độ

các thành phần kinh tế, có lợi ích kinh tế tương ứng với các thành phần kinh

tế đó. Dưới góc độ các khâu của quá trình tái sản xuất xã hội, có lợi ích kinh

tế của người sản xuất, người phân phối, người trao đổi, người tiêu dùng.

16

Dù cách phân chia có thể khác nhau, song các lợi ích kinh tế bao giờ

cũng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn với

nhau. Mặt thống nhất thể hiện ở chỗ: chúng cùng đồng thời tồn tại trong một

hệ thống, trong đó lợi ích kinh tế này là cơ sở, là tiền đề cho lợi ích kinh tế

khác. Chẳng hạn, có lợi ích kinh tế của người sản xuất, thì mới có lợi ích kinh

tế của người trao đổi, người tiêu dùng và ngược lại. Mặt mâu thuẫn biểu hiện

ở sự tách biệt nhất định giữa các lợi ích đó dẫn đến xu hướng lấn át của lợi ích

kinh tế này đối với lợi ích kinh tế khác. Chính vì vậy, nó có thể gây nên

những xung đột nhất định về lợi ích kinh tế, ảnh hưởng tiêu cực đến các hoạt

động kinh tế - xã hội. Trong các xã hội có đối kháng giai cấp, thì các lợi ích

kinh tế cũng mang tính đối kháng. Đó chính là nguyên nhân dẫn đến những

cuộc đấu tranh không khoan nhượng giữa các giai cấp. Trong thực tế, lợi ích

kinh tế thường được biểu hiện ở các hình thức thu nhập như: tiền lương, tiền

công, lợi nhuận, lợi tức, địa tô, thuế, phí, lệ phí...

Từ những phân tích trên có thể hiểu: lợi ích kinh tế là quan hệ kinh tế,

phản ánh những nhu cầu, những động cơ khách quan của các chủ thể tham

gia vào các hoạt động kinh tế - xã hội, do quan hệ sản xuất quyết định.

Trong hệ thống lợi ích kinh tế: cá nhân, tập thể (nhóm cộng đồng) và xã

hội, thì lợi ích kinh tế cá nhân là động lực trực tiếp, mạnh mẽ nhất thúc đẩy

các chủ thể tham gia một cách tích cực vào các hoạt động kinh tế - xã hội và

nâng cao hiệu quả kinh tế của chúng. Sở dĩ như vậy là vì:

Thứ nhất, lợi ích kinh tế cá nhân là lợi ích thiết thực nhất, gắn liền với

từng cá nhân, từng chủ thể. Nó trực tiếp đáp ứng nhu cầu vật chất của từng cá

nhân, của từng chủ thể đó khi tham gia vào các hoạt động sản xuất xã hội. Ở

đâu và khi nào lợi ích kinh tế cá nhân được bảo đảm, thì ở đó sẽ tạo ra được

động lực mạnh mẽ nhất kích thích họ phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật,

nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả trong các hoạt động kinh tế của

17

mình. Có thể nói, lợi ích kinh tế cá nhân là "huyệt" mà sự tác động vào đó

(tương tự như các lương y châm cứu vào các huyệt trên cơ thể người bệnh để

đánh thức sự hoạt động của các bộ phận chức năng trên cơ thể), sẽ gây nên phản

ứng nhanh nhạy nhất của các chủ thể kinh tế. Nó là chất kết dính người lao động

với quá trình sản xuất kinh doanh, là một thứ "dầu nhờn" đặc biệt để bôi trơn

guồng máy kinh tế. Điều đó lý giải vì sao cơ chế thị trường đã tạo ra động lực

mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất phát triển, đồng thời nó cũng lý giải vì sao cơ chế thị

trường còn có nhiều mặt trái. Thực tiễn phát triển kinh tế ở nước ta trong những

năm qua cũng đã chứng minh điều đó. Chẳng hạn, trong lĩnh vực nông nghiệp,

với cơ chế khoán hộ, Nhà nước giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cho các hộ

nông dân, cùng với những chính sách khác, nước ta đã từ một nước thiếu lương

thực, phải nhập khẩu lương thực, trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai trên

thế giới.

Thứ hai, lợi ích kinh tế cá nhân tạo điều kiện để thực hiện và nâng cao lợi

ích văn hóa, tinh thần của từng cá nhân. Khi lợi ích kinh tế cá nhân được bảo

đảm, các chủ thể sẽ tham gia một cách tích cực và nâng cao hiệu quả sản xuất

kinh doanh, từ đó họ cũng có điều kiện để nâng cao đời sống văn hóa tinh thần

của mình.

Thứ ba, lợi ích kinh tế cá nhân là cơ sở thực hiện lợi ích kinh tế tập thể

(nhóm cộng đồng) và lợi ích xã hội, và dân có giàu thì nước mới mạnh. Khi lợi

ích kinh tế cá nhân được bảo đảm, người dân hăng say, tích cực sản xuất để thực

hiện nghĩa vụ của mình với Nhà nước, tập thể thì lợi ích kinh tế của Nhà nước

(xã hội), tập thể cũng mới được thực hiện.

Vì vậy, để kích thích tính tích cực của người lao động, phát huy tối đa vai

trò nhân tố con người, thì vấn đề mấu chốt, căn cơ nhất là phải tác động vào lợi

ích kinh tế mỗi cá nhân. Tạo điều kiện để mỗi người lao động, mỗi cá nhân, mỗi

chủ thể thực hiện được lợi ích kinh tế của mình, bảo đảm sao cho mỗi người

được đóng góp và được hưởng phần thu nhập phù hợp với sự đóng góp của họ.

18

1.2. Quan niệm, các nhân tố ảnh hưởng và tác động của giải quyết

lợi ích kinh tế kinh tế của nông dân trong thu hồi đất đến phát triển công

nghiệp và dịch vụ ở Đồng Nai

1.2.1. Quan niệm về giải quyết lợi ích kinh tế của nông dân trong thu

hồi đất phát triển công nghiệp và dịch vụ ở Đồng Nai

Để làm rõ quan niệm về giải quyết lợi ích kinh tế của nông dân trong thu

hồi đất phát triển công nghiệp và dịch vụ ở Đồng Nai, trước hết cần nhận thức

về các quan hệ lợi ích kinh tế phát sinh trong quá trình thu hồi đất

* Quan hệ lợi ích kinh tế trong thu hồi đất

Theo quy định của Luật Đất đai năm 2013 [39], đất đai được xác định

thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản

lý. Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân.

Về q`uyền lợi của người sử dụng đất được quy định tại Điều 26, Luâ ̣t Đất đai

năm 2013 như sau:

Được bảo hộ quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất hợp pháp của

người sử dụng đất.

Được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và

tài sản khác gắn liền với đất cho người sử dụng đất khi có đủ điều kiện theo

quy định của pháp luật.

Khi Nhà nước thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển

kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng thì người sử dụng đất được Nhà

nước bồi thường, hỗ trợ, tái định cư theo quy định của pháp luật.

Có chính sách tạo điều kiện cho người trực tiếp sản xuất nông nghiệp,

lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối không có đất sản xuất do quá trình

chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất và chuyển đổi cơ cấu kinh tế được đào tạo

nghề, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm.

Luật Đất đai năm 2013 là sự luật hóa quyền của người dân có đất bị thu

hồi cho các mục đích quốc phòng, an ninh và phát triển kinh tế xã hội phù

19

hợp với điều kiện của đời sống kinh tế, xã hội ở nước ta hiện nay. Cơ sở lý

luận của luật là sự vận dụng những nguyên lý, lý luận mácxit về lợi ích và lợi

ích kinh tế.

Theo hướng đó, khi nhà nước thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất,

người có quyền sử dụng đất được nhà nước giải quyết các lợi ích chính đáng

theo pháp luật hiện hành, trước hết và quan trọng nhất là lợi ích kinh tế.

Lợi ích kinh tế trong thu hồi đất để xây dựng các khu công nghiệp và

dịch vụ bao gồm quan hệ giữa lợi ích kinh tế của xã hội do Nhà nước là đại

diện với lợi ích kinh tế của doanh nghiệp - chủ đầu tư dự án; quan hệ giữa lợi

ích kinh tế của doanh nghiệp - chủ đầu tư dự án với lợi ích kinh tế của người

nông dân và quan hệ giữa lợi ích kinh tế của Nhà nước (xã hội) với lợi ích

kinh tế của người nông dân bị thu hồi đất. Ba mối quan hệ này - xét về mặt

bản chất chúng vừa thống nhất lại vừa mâu thuẫn với nhau:

Sự thống nhất

Thứ nhất, có sự thống nhất giữa lợi ích của xã hội với lợi ích của nông

dân, bởi vì lợi ích xã hội là dành cho tất cả mọi người dân trong xã hội, bao

gồm cả nông dân. Khi lợi ích của nhà nước được đảm bảo thì hệ quả tất yếu là

quyền được hưởng các lợi ích đó là toàn xã hội trong đó có những người nông

dân bị thu hồi đất; mặt khác, khi lợi ích của người nông dân bị thu hồi đất

được đảm bảo thì họ sẽ đẩy nhanh tiến trình giao nộp lại đất đai, những tư liệu

sản xuất quan trọng của họ cho Nhà nước để phục vụ cho chiến lược phát

triển của xã hội mà Nhà nước làm đại diện. Điều này đã góp phần vào việc

tăng cường lợi ích xã hội không chỉ trước mắt mà còn lâu dài.

Thứ hai, sự thống nhất giữa lợi ích kinh tế của chủ dự án và lợi ích kinh

tế xã hội. Về lâu dài, khi lợi ích kinh tế xã hội được đảm bảo thì kinh tế xã hội

sẽ phát triển mạnh mẽ và hệ quả là sẽ tạo ra một môi trường kinh doanh thuận

lợi, tạo ra nhiều cơ hội đầu tư và mở rộng cho các doanh nghiệp nói chung,

20

trong đó có doanh nghiệp nhận được đất dự án để tiến hành sản xuất, kinh

doanh. Về lợi ích kinh tế trước mắt thì sự thống nhất của lợi ích kinh tế xã hội

và lợi ích kinh tế doanh nghiệp được thể hiện ở chỗ, khi các doanh nghiệp chủ

dự án làm tốt các thủ tục để nhận mặt bằng bao gồm cả phần chi trả các khoản

chi phí cho việc giải phóng mặt bằng đó, nhà nước sẽ có khả năng xúc tiến

nhanh việc bàn giao mặt bằng cho doanh nghiệp tiết kiệm thời gian và kèm

theo đó là tiền bạc của doanh nghiệp khi thực hiện dự án.

Thứ ba, sự thống nhất lợi ích kinh tế giữa nông dân có đất bị thu hồi và

doanh nghiệp - chủ dự án được thể hiện ở chỗ: khi lợi ích của nông dân được

đảm bảo, họ sẽ nhanh chóng giao nộp đất để Nhà nước chuyển giao cho

doanh nghiệp; mặt khác khi lợi ích của doanh nghiệp được đảm bảo, việc

triển khai dự án nhanh chóng, thuận lợi sẽ tạo điều kiện cho người nông dân

thực hiện các lợi ích khác bên cạnh việc nhận đền bù của mình đó là tham gia

vào làm việc trong doanh nghiệp, hoặc góp vốn đầu tư vào doanh nghiệp đó.

Sự mâu thuẫn:

Bên cạnh việc thống nhất, giữa ba lợi ích cơ bản trong quá trình thu hồi

đất nông nghiệp để xây dựng các khu công nghiệp và dịch vụ cũng có những

mâu thuẫn nhất định đòi hỏi các cấp quản lý kinh tế cần nhận diện và có

phương thức giải quyết thỏa đáng. Các mâu thuẫn đó là:

Thứ nhất, mâu thuẫn giữa lợi ích nhà nước và lợi ích của nông dân

biểu hiện ở chỗ, nhà nước khi thu hồi đất của nông dân để thực hiện lợi ích

xã hội đã xâm phạm đến lợi ích của người nông dân là quyền họ được sử

dụng đất đai của mình để làm ăn, sinh sống. Chính vì vậy nhà nước phải

xây dựng các chính sách đền bù những thiệt hại của họ. Mâu thuẫn của nhà

nước và nông dân thể hiện chính ở chính sách đền bù này: nếu chính sách

đền bù quá rộng rãi, trước mắt người nông dân sẽ được lợi, và nhà nước sẽ

chịu thiệt; nếu chính sách đền bù quá hạn hẹp, người nông dân chịu thiệt

thòi và nhà nước có lợi.

21

Thứ hai, mâu thuẫn giữa nông dân và doanh nghiệp - chủ dự án cũng xảy

ra tương tự khi chủ dự án chính là người tự đứng ra thương thảo với nông dân

và chịu trách nhiệm giải phóng mặt bằng và đền bù vì nếu chủ dự án đền bù

nhiều thì sẽ bị thiệt thòi, còn nông dân thì sẽ có lợi và ngược lại.

Tuy nhiên, mâu thuẫn giữa lợi ích của các chủ thể này thực ra chỉ là biểu

hiện chưa hoàn toàn đầy đủ của mối quan hệ. Về bản chất, mối quan hệ này

vẫn là mối quan hệ có tính thống nhất, nếu điều hòa tốt mối quan hệ này sẽ

đạt được kết quả là các bên cùng có lợi. Cụ thể: nếu giải quyết thỏa đáng mối

lợi ích này cho người nông dân, họ nhận được khoản đền bù xứng đáng và

đầy đủ cho các thiệt hại do quá trình thu hồi đất gây ra thì người nông dân sẽ

nhanh chóng giao lại mặt bằng để doanh nghiệp chủ dự án thực hiện dự án và

như vậy sẽ tiết kiệm được thời gian và tiền vốn cho doanh nghiệp.

Từ những phân tích trên đây, ta thấy lợi ích giữa các chủ thể trong thu

hồi đất là mối quan hệ phức tạp, biện chứng vừa thống nhất vừa mâu thuẫn

với nhau. Chính vì vậy mà xây dựng chính sách để giải quyết mối quan hệ lợi

ích trong thu hồi đất vô cùng quan trọng, nó cần phải giải quyết hài hòa lợi

ích của các chủ thể tham gia nhằm mang lại lợi ích chung cho tất cả các chủ

thể trong mối quan hệ này.

* Quan niệm về giải quyết lợi ích kinh tế của nông dân trong thu hồi đất

phát triển công nghiệp và dịch vụ ở Đồng Nai

Như trên đã đề cập, quá trình chuyển đổi mục đích sử dụng đất tạo ra

những mối quan hệ lợi ích khác nhau giữa các chủ thể kinh tế. Các mối quan

hệ đó vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn với nhau. Vì vậy, để quá trình thu hồi

đất trong phát triển công nghiệp và dịch vụ được tiến hành thuận lợi, cần phải

giải quyết các mâu thuẫn đặt ra. Việc giải quyết các mâu thuẫn đó chính là

việc bảo đảm cho các chủ thể cùng có lợi, trước hết là lợi ích kinh tế. Nói

cách khác, việc giải quyết lợi ích kinh tế của nông dân trong thu hồi đất nông

22

nghiệp cũng chính là giải quyết mâu thuẫn giữa lợi ích kinh tế của nông dân

với lợi ích kinh tế của xã hội và lợi ích kinh tế của chủ doanh nghiệp.

Từ sự phân tích trên có thể khái quát: giải quyết lợi ích kinh tế của

nông dân trong thu hồi đất phát triển công nghiệp và dịch vụ ở Đồng Nai

là: sự phối hợp giữa các cấp, các ngành, các doanh nghiệp và bản thân hộ

nông dân bị thu hồi đất ở Đồng Nai trong giải quyết những mâu thuẫn đặt

ra nhằm tạo ra sự thống nhất về lợi ích kinh tế giữa nông dân với nhà

nước và chủ doanh nghiệp.

Như vậy, việc giải quyết lợi ích của nông dân được hiểu là một quá trình,

bao gồm cả quá trình thu hồi đất và cả những việc trong quá trình thu hồi đất

chưa giải quyết dứt điểm, phải giải quyết tiếp sau khi đất đã được thu hồi, theo

đó trong quá trình thu hồi đất giải quyết chưa dứt điểm sẽ được tiếp tục giải

quyết sau khi đất đã được thu hồi. Thuật ngữ “trong” và “sau” được hiểu một

cách hết sức uyển chuyển không cứng nhắc. Đồng thời việc giải quyết lợi ích

của nông dân trong thu hồi đất phát triển công nghiệp và dịch vụ ở Đồng

Nai không chỉ là trách nhiệm của nhà nước, được thực hiện bởi Nhà nước, mà

còn là trách nhiệm của các doanh nghiệp là chủ đầu tư và bản thân hộ nông

dân có đất bị thu hồi chuyển đổi mục đích sử dụng. Mặt khác, sự giải quyết

đó phải dựa vào luật pháp của Nhà nước, trước hết là Luật Đất đai năm 2013.

Theo hướng đó, các nội dung giải quyết bao gồm:

Thứ nhất, bồi thường giá trị sử dụng diện tích đất bị thu hồi cho nông

dân. Khi thu hồi đất của nông dân nhà nước đã có chính sách đền bù cho các

thiệt hại của việc thu hồi này đối với họ. Theo quy định của nhà nước người

dân sẽ nhận khoản đền bù cho đất, đền bù cho các loại cây trồng trên đất chưa

kịp thu hoạch vào lúc trao trả mặt bằng;

Thứ hai, hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm cho nông

dân nhằm đáp ứng nhu cầu chuyển đổi nghề. Vì bị thu hồi mất tư liệu sản xuất

23

chính nên người nông dân buộc phải chuyển sang hoạt động kiếm sống khác,

hay còn gọi chuyển sang nghề nghiệp khác. Nhưng họ chưa có kinh nghiệm

và cũng chưa đủ trình độ, kỹ năng để chuyển đổi sang một nghề khác phù

hợp, vì thế họ phải học nghề. Chính vì vậy Nhà nước đã tính đến lợi ích này

của nông dân nên khi thu hồi đất đai để chuyển đổi mục đích sử dụng, Nhà

nước còn hỗ trợ việc đào tạo nghề thông qua việc mở lớp trực tiếp hoặc giới

thiệu đến các trung tâm đào tạo nghề cho họ học miễn phí;

Thứ ba, tạo điều kiện cho nông dân được làm việc tại các dự án. Một

trong những biểu hiện lợi ích của người nông dân bị thu hồi đất là họ có

quyền ưu tiên tuyển dụng vào làm việc trong các dự án, các khu công nghiệp

xây dựng trên đất đai của họ sau khi các dự án này đi vào hoạt động. Như thế

thay vì là chủ thể kinh tế, chủ thể lợi ích ở lĩnh vực nông nghiệp họ chuyển

sang là các chủ thể kinh tế, chủ thể lợi ích ở lĩnh vực sản xuất công nghiệp;

Thứ tư, đáp ứng nhu cầu góp cổ phần của nông dân vào các dự án bằng

quyền sử dụng đất. Khi bị thu hồi đất nông nghiệp, lợi ích của người nông dân còn

được biểu hiện ở quyền được tham gia góp vốn đầu tư vào các dự án và trở thành

một trong những người nắm tư liệu sản xuất, nghĩa là có quyền ảnh hưởng cao

đến quá trình phân phối lợi ích của các dự án đó. Đây cũng là cơ hội tốt để họ

nâng cao thu nhập cá nhân bằng các nguồn lợi nhuận từ việc góp vốn tạo ra.

Ngoài ra, với số tiền được đền bù người nông dân có thể đầu tư để phát

triển kinh tế gia đình và tạo ra những nguồn thu nhập mới, tăng lợi ích kinh tế

của họ, làm cuộc sống của họ được cải thiện hơn.

1.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến giải quyết lợi ích kinh tế của nông

dân trong thu hồi đất phát triển công nghiê ̣p, dịch vụ

Quá trình thu hồi đất nông nghiệp là một quá trình xã hội, có sự tham gia

của nhiều chủ thể khác nhau, là một quá trình khá phức tạp và chịu tác động

của nhiều nhân tố khác nhau. Trong đó, những nhân tố sau đây có tác động

mạnh nhất:

24

Thứ nhất, trình độ phát triển kinh tế của đất nước. Trình độ phát triển

kinh tế của đất nước được thể hiện rõ nét ở tổng GDP, tốc độ tăng GDP hàng

năm và tính ổn định của tăng trưởng kinh tế, khả năng kiểm soát tốt các yếu

tố rủi ro và lạm phát; sự phát triển của hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã

hội, tính hiệu quả và đồng bộ của cơ chế quản lý. Các yếu tố này sẽ tác động

gần như trực tiếp đến quá trình giải quyết lợi ích kinh tế của nông dân trong

thu hồi đất nông nghiệp để xây dựng các khu công nghiệp và khu dịch vụ. Khi

tổng GDP, tốc độ tăng GDP hàng năm và tính ổn định của tăng trưởng kinh

tế, khả năng kiểm soát tốt các yếu tố rủi ro và lạm phát được bảo đảm tốt; khi

hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được phát triển đồng bộ và phát huy

tác dụng tốt; khi đó việc hỗ trợ các giải pháp để giải phóng mặt bằng trong

thu hồi đất sẽ nhanh chóng và thuận lợi hơn. Cơ chế quản lý khoa học, đồng

bộ sẽ là một tác nhân quan trọng để thực hiện việc thu hồi, chuyển đổi mục

đích sử dụng đất nhanh chóng, hiệu quả. Mức tăng trưởng kinh tế và GDP

bình quân đầu người cao sẽ tạo điều kiện để có thể tăng mức đền bù giải

phóng mặt bằng, hỗ trợ đào tạo và chuyển đổi nghề cho lao động nông nghiệp

bị thu hồi đất. Tiềm lực kinh tế của đất nước lớn sẽ góp phần tổ chức tốt công

tác tái định cư cho các hộ nông dân khi phải thu hồi đất của họ... Từ đó tạo ra

việc bảo đảm cả lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài, tạo ra sự đồng thuận trong

nhân dân, ổn định được tình hình chính trị - xã hội trong quá trình thực hiện

các dự án xây dựng các khu công nghiệp và khu dịch vụ.

Thứ hai, hiệu quả kinh tế của các dự án đầu tư. Hiệu quả kinh tế của các

dự án đầu tư là yếu tố đóng vai trò không nhỏ trong quá trình giải quyết lợi

ích kinh tế của nông dân trong thu hồi đất nông nghiệp phục vụ phát triển

công nghiệp và dịch vụ. Khi dự án được thực hiện với hiệu quả kinh tế cao,

việc quản lý nguồn vốn đầu tư và khả năng kinh doanh tốt, điều đó cũng đồng

nghĩa với việc các lợi ích cơ bản của doanh nghiệp - chủ đầu tư đã được thực

25

hiện, mặt khác các lợi ích của nông dân như góp vốn đầu tư, được tham gia

vào làm việc trong dự án cũng trở thành hiện thực, lợi ích của họ trong việc

giao đất đai nông nghiệp của mình đã được thực hiện xứng đáng. Bên cạnh đó

lợi ích chung của Nhà nước thể hiện ở hiệu quả kinh tế - xã hội cũng hiện

thực hóa.

Thứ ba, chính sách kinh tế của Nhà nước. Chính sách kinh tế của Nhà

nước là yếu tố quan trọng nhất tác động lên kết quả giải quyết lợi ích kinh tế

của nông dân trong quá trình thu hồi đất nông nghiệp để xây dựng các khu

công nghiệp và khu dịch vụ. Chính sách của Nhà nước đồng bộ, khoa học sẽ

là hành lang chính trị, kinh tế, pháp lý thông thoáng để tiến trình thu hồi đất

diễn ra thuận lợi, suôn sẻ. Nhờ đó, lợi ích của các chủ thể tham gia vào quan

hệ kinh tế này, trong đó có lợi ích kinh tế của nông dân được đảm bảo công

bằng. Chính sách kinh tế của nhà nước liên quan đến vấn đề này bao gồm:

quy định về sử dụng đất đai, quy định về giá đền bù và phương án đền bù khi

thu hồi đất; quy định trách nhiệm của nhà nước, nhà đầu tư và nông dân trong

quá trình thu hồi đất; quy định các lợi ích của từng chủ thể sao cho hợp lý, hài

hoà, quy hoạch sử dụng đất đai hợp lý, là cơ sở, điều kiện thuận lợi để các dự

án đầu tư đạt được kết quả kinh tế trong thực hiện quy định về trình tự và thủ

tục chuyển giao đất, trình tự và thủ tục khiếu kiện liên quan đến vấn đề

chuyển giao đất và giải phóng mặt bằng.

Bốn là, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Chiến lược

phát triển kinh tế - xã hội của địa phương cũng ảnh hưởng không nhỏ đến việc

giải quyết quan hệ lợi ích kinh tế trong thu hồi đất. Chiến lược phát triển kinh

tế - xã hội của địa phương thường được cụ thể hóa bằng quy hoạch phát triển

kinh tế - xã hội. Nếu quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương có

tính khả thi, thì các dự án đầu tư cũng có điều kiện thực hiện thuận lợi và có

hiệu quả kinh tế cao, do đó mà việc giải quyết quan hệ lợi ích kinh tế giữa các

26

chủ thể cũng trở nên thuận lợi và nhanh hơn. Quy hoạch phát triển kinh tế -

xã hội của địa phương có tính khả thi có nghĩa là quy hoạch này phù hợp

với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của vùng; phù hợp với điều kiện

tự nhiên, kinh tế - xã hội của địa phương; có lộ trình và các nguồn lực hợp

lý để hiện thực hóa việc đền bù, giải phóng mặt bằng để thu hồi đất cho

phát triển công nghiệp và dịch vụ, giải quyết thỏa đáng lợi ích của các hộ

nông dân có đất bị thu hồi.

Thứ năm, vai trò của chính quyền địa phương. Chính quyền địa phương

có vai trò quyết định trực tiếp đến giải quyết một cách hài hòa lợi ích kinh tế

giữa các chủ thể trong thu hồi đất. Điều này thể hiện ở tính minh bạch, công

khai các chủ trương chính sách của Nhà nước về thu hồi đất, và các quy định

cụ thể của chính quyền địa phương trong vấn đề thu hồi đất, trong công tác tổ

chức đền bù, giải phóng mặt bằng, xác định giá cả đền bù, bố trí tái định cư,

tổ chức đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho người nông dân bị thu hồi đất,...

Tất cả các công tác đó trực tiếp quyết định đến việc bảo đảm lợi ích chính

đáng của người nông dân. Đồng thời cũng nhờ đó mà việc giải phóng mặt

bằng được thực hiện nhanh chóng và lợi ích kinh tế của cả chủ đầu tư dự án

và của Nhà nước cũng được thực hiện một cách hài hòa.

1.2.3. Tác động của việc giải quyết hợp lý lợi ích kinh tế của nông dân

trong thu hồi đất đến phát triển công nghiệp và dịch vụ

Như trên đã phân tích, lợi ích, trong đó có lợi ích kinh tế là động lực phát

triển xã hội. Khi con người ý thức được lợi ích thiết thực đối với cuộc sống

của bản thân họ, gia đình và xã hội, họ sẽ có động cơ thúc đẩy hành động.

Chính vì vậy nếu giải quyết hợp lý và hài hoà quan hệ lợi ích kinh tế trong

tiến trình thu hồi đất, nghĩa là đảm bảo được lợi ích chính đáng của mỗi chủ

thể kinh tế tham gia vào tiến trình đó, thì việc thu hồi đất sẽ được thực hiện

nhanh chóng và thuận lợi.

27

Tác động của việc giải quyết lợi ích trong thu hồi đất nông nghiệp được

thể hiện ở các khía cạnh sau đây:

Thứ nhất, nhanh chóng tạo mặt bằng bảo đảm tiến độ triển khai các dự

án đầu tư. Khi người nông dân được đền bù thỏa đáng và nhanh chóng đối với

diện tích đất đai của họ bị thu hồi; khi việc tái định cư của họ diễn ra thuận lợi

và tốt đẹp, thì họ sẽ nhanh chóng trao trả mặt bằng để các cấp chính quyền

Nhà nước có thẩm quyền thực hiện việc giải phóng và thu nhận mặt bằng

chuyển giao cho các chủ đầu tư để tiến hành các dự án. Mặt khác nếu việc đền

bù thoả đáng và nhanh chóng cho người nông dân thì họ sẽ có sẵn nguồn vốn

để thực hiện lợi ích tiếp theo là đầu tư vào các dự án đang triển khai, giúp chủ

đầu tư huy động được một nguồn vốn đáng kể để thực thi dự án của mình.

Thứ hai, đẩy nhanh tiến trình phát triển các khu công nghiệp và khu dịch

vụ. Việc nhận mặt bằng được tiến hành nhanh chóng, việc huy động vốn được

diễn ra thuận lợi, hành lang pháp lý thông thoáng chính là điều kiện thuận lợi để

các dự án phát triển công nghiệp và khu dịch vụ (xây dựng các khu công nghiệp)

được triển khai nhanh chóng và tiết kiệm, hạn chế được những khó khăn nan giải

khi không giải phóng được mặt bằng khiến dự án bị “treo”, không thực hiện

đúng tiến độ, gây lãng phí và tổn thất cho các chủ đầu tư và tổn hại đến lợi ích

của tất cả các chủ thể kinh tế tham gia trong quá trình này.

Thứ ba, khắc phục được những hiện tượng khiếu kiện kéo dài. Đất đai là

tư liệu sản xuất chủ yếu của người nông dân. Thực tiễn cho thấy, quá trình thu

hồi đất đai ở cả nước nói chung, ở Đồng Nai nói riêng đã diễn ra tình trạng

các hộ dân khiếu kiện kéo dài thường xảy ra. Nguyên nhân chính của việc

khiếu kiện này là do không thực hiện hài hòa và hợp lý lợi ích kinh tế của các

bên tham gia, đặc biệt là lợi ích kinh tế của người nông dân. Do đó, giải quyết

hợp lý, hài hòa các lợi ích này sẽ tránh được tình trạng khiếu kiện kéo dài

thường gặp trong quá trình giải phóng mặt bằng để chuyển đổi mục đích sử

dụng đất.

28

Thứ tư, tạo sự ổn định tình hình xã hội và phát triển bền vững. Đây là hệ

quả tất yếu của việc giải phóng mặt bằng nhanh chóng, triển khai dự án thuận

lợi, đúng tiến độ và hiệu quả, đảm bảo lợi ích thiết thực của mỗi chủ thể kinh

tế, không có khiếu kiện kéo dài. Giải quyết hài hòa và hợp lý lợi ích của các

chủ thể kinh tế chính là tạo ra sự ổn định xã hội, tránh các xung đột, mâu

thuẫn giữa các bên liên quan là điều kiện cần thiết để phát triển bền vững.

* *

*

Thu hồi đất để phát triển công nghiệp và dịch vụ là một xu hướng, một

đòi hỏi khách quan, tất yếu của quá trình phát triển kinh tế mỗi quốc gia trong

quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Việc thu hồi đất đai để chuyển đổi mục đích sử dụng từ đất nông

nghiệp sang đất phát triển ngành công nghiệp và dịch vụ làm nảy sinh yêu

cầu phải giải quyết những quan hệ kinh tế giữa các chủ thể. Việc giải quyết

thỏa đáng các quan hệ lợi ích giữa các chủ thể, đặc biệt là lợi ích của các

hộ nông dân trên sẽ tạo đồng thuận cao trong cộng đồng dân cư và xã hội

nông thôn, nơi diễn ra các hoạt động thu hồi đất - điều kiện không thể thiếu

cho sự phát triển kinh tế.

29

Chương 2

THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT LỢI ÍCH KINH TẾ CỦA NÔNG DÂN

TRONG THU HỒI ĐẤT PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP

VÀ DỊCH VỤ Ở ĐỒNG NAI

2.1. Đặc điểm về điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội ở Đồng Nai

ảnh hưởng đến lợi ích kinh tế của nông dân bị thu hồi

Đồng Nai có điều kiện vị trí thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội và mở

rộng giao lưu thương mại, phát triển kinh tế, trong đó có ngành công nghiệp

và dịch vụ là các lĩnh vực mũi nhọn. Nằm ở khu vực cửa ngõ phía Đông của

vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, kết nối ba vùng Đông Nam Bộ, Duyên

Hải Miền Trung và Tây Nguyên, có thể giao thương với trong nước và quốc

tế, Đồng Nai trở thành địa phương có lợi thế về phát triển công nghiệp và dịch

vụ trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Về điều kiện tự nhiên, diện tích tự nhiên của Đồng Nai là 590.724 ha, bằng

1,78% diện tích của cả nước và 19,4% diện tích của vùng kinh tế trọng điểm

phía Nam, với dân số khoảng 2.569 nghìn người, đứng thứ 2 so với các tỉnh

trong vùng Đông Nam Bộ (chỉ sau thành phố Hồ Chí Minh). Tỉnh gồm 11 đơn

vị hành chính trong đó thành phố Biên Hòa là trung tâm chính trị, kinh tế, văn

hóa, xã hội của tỉnh.

Về điều kiện kinh tế - xã hội, Đồng Nai là một trong những địa phương

nằm trong tốp có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh của cả nước, do lợi thế về

địa lý kinh tế và địa chính trị được khai thác tốt (Đồng Nai có đầy đủ hệ thống

giao thông đường không, đường thủy, đường sắt và đường bộ, chỉ cách thành

phố Hồ Chí Minh 30km, có đường thông ra biển qua tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu).

Những lợi thế để phát triển của Đồng Nai thể hiện trên các vấn đề sau đây:

Thứ nhất, có hệ thống giao thông thuận tiện với nhiều tuyến đường huyết

mạch quốc gia đi qua như quốc lộ 1A, quốc lộ 20, quốc lộ 51; tuyến đường

30

sắt Bắc - Nam; nhiều tuyến đường liên tỉnh và các cảng sông Gò Dầu, Phú

Mỹ,… gần cảng Sài Gòn, sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất đã tạo điều kiện

thuận lợi cho hoạt động kinh tế trong vùng cũng như giao thương với cả nước

và quốc tế.

Thứ hai, có nền đất lý tưởng, kết cấu có độ chịu nén tốt, thuận tiện cho

đầu tư phát triển công nghiệp và dịch vụ, xây dựng các khu, cụm công nghiệp.

Thứ ba, có nguồn nước phong phú không chỉ cung cấp cho Đồng Nai mà

còn cho thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương.

Thứ tư, có nguồn điện năng dồi dào từ các Nhà máy Thủy điện Trị An,

Nhà máy Nhiệt điện Phú Mỹ, đảm bảo yêu cầu phát triển kinh tế. Bên cạnh

lưới điện quốc gia, Đồng Nai còn có Công ty liên doanh Amata Power cung

cấp điện cho KCN Amata và các KCN lân cận.

Bên cạnh đó, Đồng Nai còn có nhiều nguồn tài nguyên khoáng sản đa

dạng và phong phú như vàng, thiếc, kẽm, nhiều mỏ đá, cao lanh, than bùn, đất

sét, cát sông; rừng và nguồn nước,… rất thuận lợi cho phát triển các ngành

nghề như: sản xuất vật liệu xây dựng, gốm sứ, mỹ nghệ…

Trên cơ sở những tiềm năng, thế mạnh sẵn có, với ý chí quyết tâm và

đồng thuận cao, sau gần 30 năm đổi mới xây dựng và phát triển, từ một nền

kinh tế nông nghiệp lạc hậu, Đồng Nai đã vươn lên trở thành một trong những

tỉnh có GRDP bình quân đầu người cao nhất cả nước, và có tốc độ tăng

trưởng kinh tế cao, bình quân đạt khoảng 12,8%/năm. Quá trình phát triển và

chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh diễn ra đúng theo tinh thần Nghị quyết

Đại hội Đảng toàn quốc và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh, trong đó công

nghiệp giữ vai trò chủ đạo, tạo điều kiện thúc đẩy các nền kinh tế khác phát

triển, nhất là dịch vụ và nông nghiệp.

Sản xuất công nghiệp của Đồng Nai đã có những bước chuyển mạnh về

chất với sự hình thành một số ngành công nghiệp chủ lực như: công nghiệp cơ

31

khí và luyện kim, công nghiệp khai thác và sản xuất vật liệu xây dựng, công

nghiệp điện tử và viễn thông, công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu và tiêu

dùng, công nghiệp chế biến nông sản, thực phẩm,… Công nghiệp hóa nông

nghiệp, nông thôn và ứng dụng công nghệ sinh học vào sản xuất từng bước

được đẩy mạnh.

Trước năm 1975, Đồng Nai đã có sự phát triển công nghiệp và dịch vụ

khá mạnh, do là địa bàn được Mỹ - ngụy lựa chọn làm sở cơ kinh tế quân sự

phục vụ cuộc chiến tranh của Mỹ ở miền nam Việt Nam. Do đó sau 1975,

Đồng Nai đã có một khu công nghiệp, đó là khu công nghiệp Biên Hòa 1 nơi

tập trung lực lượng công nghiệp và dịch vụ của Đồng Nai thời kỳ đó. Sau đó,

đặc biệt là từ thời kỳ đất nước đổi mới do sự phát triển mạnh của công nghiệp

và dịch vụ trong quá trình công nghiệp hóa đất nước, khu công nghiệp Biên

Hòa 2 tiếp tục ra đời. Từ thực tiễn khu công nghiệp Biên Hòa 1 và thành công

bước đầu của khu công nghiệp Biên Hòa 2, Đồng Nai đã từng bước rút kinh

nghiệm và mở ra hướng đột phá mới, tập trung quy hoạch xây dựng thêm các

khu công nghiệp mới không chỉ ở TP Biên Hòa, mà ở tất cả các địa phương

của tỉnh trong quá trình phát triển công nghiệp và dịch vụ của tỉnh nhà.

Đồng Nai cũng là địa phương đi đầu trong cả nước về xây dựng và phát

triển các khu công nghiệp. Hệ thống các khu công nghiệp của Đồng Nai có khả

năng thu hút vốn đầu tư nước ngoài lẫn diện tích đất cho thuê. Đồng Nai cũng là

một trong số ít địa phương thu hút được nhiều dự án có quy mô vốn trên 100

triệu USD (Formosa - Đài Loan, Vedan - Singapore & Đài Loan, Hualon -

Malaysia & Đài Loan, Fujitsu - Nhật Bản,…). Vốn đầu tư nước ngoài đã thật sự

trở thành nguồn lực quan trọng để đầu tư phát triển sản xuất, tạo nguồn thu ngân

sách lớn, góp phần phát triển kinh tế địa phương, nhất là đẩy nhanh chuyển dịch

cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa.

Để tạo dựng niềm tin cho các nhà đầu tư, nhất là các nhà đầu tư nước

ngoài, trong những năm gần đây, Đồng Nai luôn chú trọng và tích cực thực

32

hiện “hai cải” - đó là cải thiện môi trường đầu tư và cải cách thủ tục hành

chính theo hướng toàn diện, công khai, minh bạch, đơn giản, nhanh chóng,

kịp thời cùng với các phương châm “chính quyền đồng hành cùng doanh

nghiệp”, “chính quyền phục vụ doanh nghiệp”.

Nhiều chương trình xúc tiến thương mại, đầu tư trong và ngoài nước đã

được lãnh đạo tỉnh Đồng Nai tổ chức thực hiện đạt hiệu quả cao, tạo tiền đề

thu hút đầu tư, nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng Việt Nam trên thị

trường quốc tế. Bên cạnh đó, các loại hình dịch vụ bưu chính, viễn thông, vận

tải, du lịch, tài chính - tín dụng,…cũng được đầu tư kịp thời.

Cùng với phát triển kinh tế, các vấn đề bức xúc của xã hội cũng được tỉnh

Đồng Nai giải quyết có hiệu quả. Trong đó, giải quyết việc làm cho người lao động

luôn được các cấp, các ngành ở địa phương đặc biệt quan tâm. Đời sống vật chất,

tinh thần của nhân dân ngày càng được cải thiện, an ninh xã hội được giữ vững và

niềm tin của nhân dân đối với sự nghiệp đổi mới ngày càng được nâng cao.

2.2. Thực trạng giải quyết lợi ích kinh tế của nông dân trong thu hồi

đất phát triển công nghiệp và dịch vụ ở Đồng Nai

2.2.1. Những thành tựu và hạn chế giải quyết lợi ích kinh tế của nông

dân trong thu hồi đất phát triển công nghiệp và dịch vụ ở Đồng Nai

* Những thành tựu

Những thành tựu về giải quyết lợi ích kinh tế của nông dân trong thu hồi

đất phát triển công nghiệp và dịch vụ ở Đồng Nai thời gian qua thể hiện trên

hai nội dung cơ bản sau đây:

Thứ nhất, tỉnh Đồng Nai đã xác định đúng chủ trương, chính sách, cơ

chế giải quyết lợi ích kinh tế của nông dân trong thu hồi đất cho phát triển

công nghiệp và dịch vụ.

Trong thời gian qua, tỉnh Đồng Nai đã chỉ đạo các ngành chức năng và các

huyện, thị xã trong tỉnh tiếp tục áp dụng và vận dụng chính sách của Nhà nước,

33

xây dựng, sửa đổi, bổ sung kịp thời một số chính sách liên quan, đồng thời xác

định đúng cơ chế giải quyết quan hệ lợi ích trong thu hồi đất để chuyển đổi mục

đích sử dụng theo nguyên tắc đảm bảo lợi ích của Nhà nước, người sử dụng đất,

chủ dự án, phù hợp với thực tế mặt bằng chính sách chung. Theo hướng đó lợi

ích kinh tế của người nông dân được xác định theo nguyên tắc lợi ích kinh tế

của người bị thu hồi đất được xác định trước hết thông qua việc đền bù đất đai

theo giá thị trường phù hợp với khung giá của Nhà nước quy định. Đây là một

nguyên tắc nhằm đảm bảo lợi ích cho người thu hồi đất. Để thực hiện nguyên

tắc này Nhà nước đã đưa ra phương pháp định giá đất cụ thể cho từng loại đất

để làm cơ sở định giá đền bù thiệt hại theo quy định tại Điểm 2 khoản 10

Điều 6 Nghị định 123/2007/NĐ-CP ngày 27 tháng 7 năm 2007 của Chính phủ

sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 188/2004/NĐ-CP ngày 16 tháng

11 năm 2004 về phương pháp xác định giá đất và khung giá các loại đất [11].

Khi các doanh nghiệp lập hồ sơ xin phép cơ quan Nhà nước có thẩm

quyền giao đất để thực hiện các dự án xây khu công nghiệp, khu dịch vụ thì

phải có cả phương án đền bù lợi ích cho nông dân; lợi ích kinh tế của nông

dân khi bị thu hồi đất nông nghiệp được thực hiện thông qua các hình thức bồi

thường bằng tiền, bằng đất hay nhà ở tuỳ thuộc vào từng trường hợp cụ thể

phụ thuộc trước hết vào chính sách và quy hoạch chung của Nhà nước,

phương án bồi thường của doanh nghiệp được giao đất và sau đó mới đến

nguyện vọng của người nông dân; lợi ích kinh tế của người nông dân được

thực hiện và đảm bảo thông qua nguyên tắc bồi thường đầy đủ các thiệt hại.

Theo nguyên tắc này, người nông dân không những được đền bù cho mảnh

đất của họ bị thu hồi mà còn được đền bù cả những tài sản trên đất đó, bao

gồm cây trồng, vật nuôi, nhà và các công trình xây dựng khác. Ngoài ra, khi

người nông dân bị thu hồi đất nếu phải chuyển đổi chỗ ở, chuyển địa điểm

kinh doanh, chuyển nghề nghiệp còn được trợ cấp cho đời sống và sản xuất,

34

được trả chi phí cho việc chuyển đổi nghề nghiệp, cũng như các chi phí trực

tiếp cho việc di chuyển, giải phóng mặt bằng và được xét cấp tái định cư theo

quy định tại Điều 4, 5 Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 3/12/2004 của

Chính phủ về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư [12]; Điều 18 - 23 Nghị định

số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/08/2009 của Chính phủ về quy hoạch sử dụng

đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư [13].

Dựa vào nguyên tắc chung trên đây, để đảm bảo quyền lợi của người dân

thuộc diện thu hồi đất, ngày 09/01/2007, BCH Đảng bộ tỉnh (khóa VIII) đã

ban hành Nghị quyết số 06-NQ/TU “về thực hiện chính sách bồi thường, hỗ

trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện quy hoạch và các dự

án đầu tư trên địa bàn tỉnh” [53]. Nô ̣i dung Nghị quyết tập trung vào các chế

độ chính sách sau:

Một là, chính sách bồi thường, hỗ trợ đất nông nghiệp. Thực hiện Nghị

định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/08/2009 của Chính phủ, UBND tỉnh đã ban

hành Quyết định số 20/2010/QĐ-UBND ngày 05/04/2010, sau thay thế bằng

Quyết định số 25/2012/QĐ-UBND ngày 03/4/2012, quy định về các chính sách

bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh. Các chính sách

hỗ trợ do UBND tỉnh ban hành cơ bản phù hợp tình hình thực tế và đảm bảo

quyền lợi của người có đất bị thu hồi như: hỗ trợ 35% giá đất ở cùng vị trí đối

với các trường hợp thu hồi đất nông nghiệp trong khu dân cư; hỗ trợ 50% giá

đất ở cùng vị trí đối với đất vườn ao trong cùng thửa đất có nhà ở nhưng không

được công nhận là đất ở; hỗ trợ di chuyển; hỗ trợ người đang thuê nhà thuộc sở

hữu nhà nước; hỗ trợ đối tượng thuộc diện chính sách, hỗ trợ bằng tiền cho hộ

gia đình cá nhân có diện tích đất bị thu hồi lớn. Đặc biệt là chính sách hỗ trợ

chuyển đổi nghề và tạo việc làm (hỗ trợ 1,5 lần giá đất nông nghiệp), hỗ trợ ổn

định đời sống và sản xuất cho đối tượng trực tiếp sản xuất nông nghiệp và

chính sách hỗ trợ khác quy định hỗ trợ cho các trường hợp không đủ điều kiện

35

được bồi thường, hỗ trợ theo quy định pháp luật. Ngoài ra, người bị thu hồi đất

còn được hưởng chính sách thưởng cho đối tượng chấp hành tốt chủ trương,

chính sách pháp luật thu hồi đất.

Các chính sách bồi thường, hỗ trợ của tỉnh đã làm cho quyền lợi của

người bị thu hồi đất ngày càng được đảm bảo. Đă ̣c biê ̣t, với các đối tượng

trực tiếp sản xuất nông nghiệp, các nơi vùng sâu, vùng xa, nhiều nơi giá trị

bồi thường, hỗ trợ do thu hồi đất đã cao hơn giá trị chuyển nhượng thực tế.

Trong quá trình thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ trên địa bàn tỉnh

đã phát sinh một số khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng các quy định

của pháp luật vào thực tế, pháp luật chưa được quy định cụ thể như: việc bồi

thường, hỗ trợ đất tôn giáo; việc xác định tiêu chí hỗ trợ đất vườn ao; việc bồi

thường hỗ trợ tài sản trên đất nông nghiệp xây dựng trước ngày 01/7/2004;

hướng dẫn về trình tự thủ tục bồi thường, hỗ trợ và tái định cư; việc xác định

giá đất ở trung bình để hỗ trợ; việc bồi thường, hỗ trợ về đất thuộc hành lang

lộ giới giao thông; hỗ trợ khác cho hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất

nông nghiệp bị thu hồi đất nông nghiệp trong khu dân cư, đất vườn ao không

được công nhận là đất ở; bồi thường, hỗ trợ về đất đối với trường hợp sử dụng

đất được giao không đúng thẩm quyền; hỗ trợ đối với các trường hợp sử dụng

đất do lấn, chiếm; xử lý việc bồi thường về đất đối với các trường hợp bị thu

hồi đất ở nhưng chưa xây dựng nhà ở. Trước tình hình đó, UBND tỉnh đã kịp

thời xin ý kiến Chính phủ, Bộ Tài nguyên và Môi trường. Khi có hướng dẫn

của Chính phủ, Bộ Tài nguyên và Môi trường, UBND tỉnh đã ban hành quy

định (tại Quyết định số 25/2012/QĐ-UBND, Quyết định số 26/2012/QĐ-

UBND) để chỉ đạo các Sở, ngành kịp thời hướng dẫn các địa phương thực

hiện và xử lý, tháo gỡ các vướng mắc phát sinh nêu trên. Nhiều nội dung vâ ̣n

dụng của tỉnh đã được đưa vào trong Luật Đất đai năm 2013 và Nghị định

47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 thay thế Nghị định 69/2009/NĐ-CP ngày

13/08/2009 của Chính phủ đang có hiệu lực thi hành.

36

Hai là, chính sách bồi thường, hỗ trợ nhà ở và công trình vật kiến trúc

khác. Việc ban hành Bảng giá các loại đất hàng năm trên địa bàn tỉnh đã đáp

ứng được một phần yêu cầu thực tế, là cơ sở để áp giá, lập phương án bồi

thường, hỗ trợ và tái định cư đối với các dự án thu hồi đất. Thực tế cho thấy,

giá đất nông nghiệp để tính toán bồi thường hỗ trợ ở khu vực nông thôn có giá

trị tương đương hoặc cao hơn giá thị trường. Việc áp dụng thực hiện giá đất

vùng giáp ranh đã được quy định cụ thể tại Bảng giá đất, đảm bảo quyền lợi

cho người có đất bị thu hồi tại các khu vực này; về giá bồi thường nhà, tài sản

trên đất quy định tại Quyết định số 12/2012/QĐ-UBND ngày 23/02/2012 và

Quyết định số 14/2012/QĐ-UBND ngày 24/02/2012 của UBND tỉnh, đã điều

chỉnh tăng mức bồi thường, hỗ trợ giá nhà, tài sản trên đất bị thu hồi (tăng từ

30% đến 60% giá nhà và các công trình xây dựng trên đất). Giá cây trồng trên

đất cũng được điều chỉnh tăng lên cho sát với giá trị thực tế.

Ba là, chính sách tái định cư. Theo khoản 3 Điều 42 Luâ ̣t Đất đai năm

2003 thì “Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương lập và thực

hiện các dự án tái định cư trước khi thu hồi đất để bồi thường bằng nhà ở, đất

ở cho người bị thu hồi đất ở mà phải di chuyển chỗ ở. Khu tái định cư được

quy hoạch chung cho nhiều dự án trên cùng một địa bàn và phải có điều kiện

phát triển bằng hoặc tốt hơn nơi ở cũ”. Trên cơ sở các quy định của Trung

ương, chủ trương của Tỉnh uỷ về chính sách tái định cư, UBND tỉnh đã ban

hành các quy định cụ thể để triển khai áp dụng cho phù hợp với tình hình thực

tế trên địa bàn tỉnh. Tại Quyết định số 25/2012/QĐ-UBND ngày 03/4/2012

của UBND tỉnh đã quy định cụ thể, rõ ràng về tiêu chuẩn, điều kiện và trình

tự, thủ tục xét bố trí tái định cư, quy định đã vận dụng giải quyết tái định cư

theo hướng thông thoáng hơn và phù hợp tình hình thực tế của tỉnh để đảm

bảo ổn định cuộc sống của người dân sau khi bị thu hồi đất như: miễn thu phí

sử dụng hạ tầng cho người đủ điều kiện tái định cư và giải quyết tái định cư

37

cho các đối tượng xây dựng nhà ở trên đất nông nghiệp nhưng không vi phạm

quy hoạch và xây dựng trước ngày 01/7/2004; giải quyết tái định cư cho các

hộ gia đình đông nhân khẩu, có nhiều thế hệ cùng chung sống; giao đất tái

định cư cho các trường hợp bị thu hồi đất ở nhưng không có nhà ở; việc giao

đất ở (nhà ở) cho các đối tượng không đủ điều kiện được tái định cư theo quy

định của pháp luật. Ngoài ra, UBND tỉnh cũng đã ban hành Quyết định số

13/2012/QĐ-UBND ngày 24/02/2012 về việc cấp bù chênh lệch về tiền sử

dụng đất khi giao đất tái định cư để đảm bảo quyền lợi của người bị thu hồi

đất do việc giao đất tái định cư chậm so với việc phê duyệt phương án bồi

thường, hỗ trợ. Các chính sách tái định cư của tỉnh ban hành đã được phần lớn

người bị thu hồi đất đón nhận một cách tích cực.

Thực tiễn cho thấy: xác định đúng chủ trương, chính sách và có cơ chế

đúng trong giải quyết lợi ích kinh tế của nông dân có đất bị thu hồi cho phát

triển công nghiệp và dịch vụ là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển công

nghiệp và dịch vụ trên địa bàn tỉnh Đồng Nai thời gian qua.

Thứ hai, tổ chức thực hiện tốt chủ trương, chính sách, cơ chế đã xác

định và đã thu được những những kết quả thiết thực.

Những gì đã diễn ra ở Đồng Nai trong thời gian qua chung quanh việc

giải quyết lợi ích kinh tế của nông dân có đất bị thu hồi cho phát triển công

nghiệp và dịch vụ đã thêm một lần chứng minh sự tồn tại của một chân lý

khách quan rằng, chủ trương chính sách đúng là điều kiện tiên quyết nhưng

vẫn mới là điều kiện cần, việc tổ chức thực hiện đúng chủ trương chính sách,

cơ chế đã xác định là điều kiện đủ để biến những quyết tâm chính trị đã có

thành kết quả thực tiễn trong giải quyết lợi ích cho nông dân có đất bị thu hồi

cho phát triển công nghiệp và dịch vụ ở Đồng Nai. Những kết quả trong tổ

chức thực hiện chủ trương chính sách nhằm bảo đảm lợi ích cho nông dân có

đất bị thu hồi cho phát triển công nghiệp và dịch vụ ở Đồng Nai thời gian qua

thể hiện trên các vấn đề sau:

38

Mô ̣t là, thực hiện tốt việc bồi thường cho nông dân bị thu hồi đất. Từ năm

2007 đến thời điểm 31/12/2012, trong tổng số 996 dự án đầu tư cần triển khai

thực hiện công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng với tổng diện tích đất là

24.672,3 ha; Đồng Nai đã hoàn thành việc bồi thường, giải phóng mặt bằng

cho 488 dự án (đạt 49% số dự án) với tổng diện tích đất đã giải phóng mặt

bằng là 5.850,9 ha (đạt 23,7% diện tích). Tổng số tiền đã phê duyệt để chi trả

cho 21.474 hộ gia đình và tổ chức là 4.740 tỷ đồng [54] (xem phụ lục 1). Cùng với

các dự án phát triển các khu công nghiê ̣p và khu dịch vụ, các dự án khác có liên

quan đến thu hồi đất của nông dân trên địa bàn tỉnh cũng được thực hiê ̣n tương đối

tốt. Đến nay đã cơ bản hoàn thành công tác giải phóng mặt bằng để bàn giao đất

sạch cho các nhà đầu tư thực hiện các dự án trọng điểm như đường cao tốc thành

phố Hồ Chí Minh - Long Thành - Dầu Giây, Hồ chứa nước Sông Ray, Hồ chứa

nước Gia Măng, một số dự án đường điện 500KV, dự án mở rộng quốc lộ 51; đã

hoàn thành việc phê duyệt phương án bồi thường dự án đường tránh quốc lộ 1A

và dự án khu đô thị kinh tế mở Long Hưng...

39

Hai là, thực hiện tương đối tốt viê ̣c bố trí tái định cư cho các hô ̣ dân nằm

trong khu vực phải giải tỏa. Trong thời gian qua, chính sách tái định cư được

UBND tỉnh quy định phù hợp với quy định của Chính phủ và các Bộ, ngành

trung ương và tình hình thực tế tại địa phương. Hiện nay, đa số các khu tái

định cư trên địa bàn tỉnh được quy hoạch xây dựng gần khu vực có đất bị thu

hồi để bố trí tái định cư cho các trường hợp bị thu hồi đất phải di chuyển chỗ

ở. UBND tỉnh cũng đã giao cho UBND cấp huyện và cấp xã thực hiện việc

xét duyệt và giao đất cho các đối tượng đủ điều kiện được tái định cư. Việc

xét duyệt tái định cư được thực hiện công khai, minh bạch từ cấp xã, kết quả

xét tái định cư (gồm danh sách, địa điểm, quy mô, hình thức tái định cư...)

đều được niêm yết công khai cho người dân biết. Các địa phương đã căn cứ

tình hình thực tế (tại đô thị, nông thôn) và diện tích đất bị giải tỏa của các đối

tượng nên đã bố trí diện tích đất tái định cư cho phù hợp, vừa đảm bảo quy

chuẩn xây dựng và cảnh quan khu dân cư, qua đó cơ bản đã tạo được sự đồng

thuận của người bị thu hồi đất.

40

Từ năm 2007 đến nay, toàn tỉnh đã xét, bố trí tái định cư cho 3.119

hộ/5.821 hộ (bao gồm cả các trường hợp nhận tái định cư phân tán bằng tiền)

đạt 53,6% [54]. Phần lớn các khu tái định cư trên địa bàn tỉnh được xây dựng

có hạ tầng kỹ thuật tốt hơn nơi ở cũ như các khu tái định cư Long Hưng, khu

tái định cư Tân Biên - thành phố Biên Hòa, khu tái định cư Long An - huyện

Long Thành, khu tái định cư Đại Lộc - huyện Nhơn Trạch,... Các khu tái định

cư có hạ tầng được kết nối gần trục đường giao thông chính, gần khu vực có

đất bị thu hồi; đa số các khu tái định cư được xây dựng gắn liền với các công

trình phúc lợi xã hội như trường học, trạm y tế, công viên, chợ,...tạo thuận lợi

về công ăn việc làm, học tập sinh hoạt và đi lại của người dân ở trong các khu

tái định cư. Qua khảo sát đời sống các hộ dân trong các khu tái định cư trên

địa bàn các huyện Trảng Bom, Long Thành, Nhơn Trạch, thành phố Biên

Hòa, đa số ý kiến đồng thuận và hưởng ứng chính sách Nhà nước và hạ tầng

trong các khu tái định cư.

Ba là, tạo điều kiê ̣n cho số lượng lớn nông dân bị thu hồi đất được làm

viê ̣c trong các khu công nghiê ̣p.

Trên cơ sở chủ trương, chính sách đã được ban hành, các khu công

nghiê ̣p trên địa bàn tỉnh đã thu hút mô ̣t số lượng lớn lao đô ̣ng của tỉnh. Đă ̣c

biê ̣t là những nông dân bị thu hồi đất nông nghiê ̣p.

Theo báo cáo của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Đồng Nai,

số lao động được thu nhận vào làm việc một số năm (từ năm 2007 đến năm

2012) là 304.388 người, trung bình mỗi năm hơn 50.000 người [46].

Bốn là, giải quyết tương đối kịp thời các khiếu kiện liên quan đến việc

thực hiện lợi ích kinh tế cho nông dân khi thu hồi đất.

41

Như đã phân tích ở phần trên, việc thu hồi đất để triển khai thực hiện các

dự án phát triển công nghiệp và dịch vụ ở Đồng Nai là một vấn đề nhạy cảm,

nên khi thu hồi đất của nông dân không thể tránh khỏi những bức xúc, những

vướng mắc. Theo nguyên tắc đảm bảo lợi ích cho người dân, nâng cao dân

chủ, công khai ở cơ sở, trong thời gian qua Đồng Nai đã giải quyết một lượng

đơn thư khiếu nại không nhỏ liên quan đến việc thu hồi đất. Từ năm 2007 đến

Quý I/2013, cơ quan hành chính cấp tỉnh, huyện đã tiếp nhận 5.205 đơn khiếu

nại thuộc thẩm quyền; đã giải quyết được 4.884 đơn, đạt tỷ lệ 93,83%; còn lại

321 đơn phát sinh trong Quý I/2013, đang được xem xét, giải quyết. Phân

theo thẩm quyền: Chủ tịch UBND tỉnh đã giải quyết 1.108/1.166 đơn khiếu

nại, đạt tỷ lệ 95,02%; Chủ tịch UBND cấp huyện đã giải quyết 3.776/4.039

đơn khiếu nại, đạt tỷ lệ 93,48% [54].

Căn cứ vào kết quả giải quyết khiếu nại, các cơ quan chuyên môn đã lập

thủ tục bồi thường bổ sung cho dân là 265.837m2 đất nông nghiệp và 8.336

triệu đồng; bố trí bổ sung 130m2 đất thổ cư và 8 lô đất tái định cư; công nhận

quyền sử dụng đất cho dân là 210.190m2 đất; khôi phục quyền lợi cho dân

175.722m2 đất và 1.008 triệu đồng; thu hồi cho Nhà nước 16.771m 2 và 2.425

triệu đồng [54].

42

Qua 4.884 đơn khiếu nại đã giải quyết có 20,33% khiếu nại đúng,

16,65% khiếu nại đúng một phần, 63,02% khiếu nại sai. Nhìn chung, trình tự

giải quyết khiếu nại liên quan đến công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư

được các cấp, các ngành thực hiện chặt chẽ, đảm bảo yếu tố pháp lý, đã khắc

phục được việc giải quyết đơn sai nội dung, sai thẩm quyền; thường xuyên

tiến hành thanh tra, kiểm tra trách nhiệm của thủ trưởng các cấp, các ngành

trong việc giải quyết đơn khiếu nại của công dân, chú trọng công tác đối thoại

trước khi ban hành quyết định giải quyết khiếu nại. Qua đó, chất lượng, hiệu

quả công tác giải quyết khiếu nại từng bước được nâng lên; tiến độ giải quyết

có nhiều chuyển biến, hạn chế đơn tồn đọng, kéo dài, góp phần giữ vững an

ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội tại địa phương.

Những kết quả đạt được trên đây đã nhanh chóng tạo mặt bằng bảo đảm

tiến độ triển khai các dự án đầu tư, đẩy nhanh tiến trình phát triển các khu công

nghiệp và khu dịch vụ; đồng thời khắc phục được những hiện tượng khiếu kiện

kéo dài, tạo được sự ổn định tình hình xã hội tại các địa bàn có đất thu hồi

góp phần vào sự phát triển bền vững của địa phương.

Những kết quả thiết thực đó cho thấy đã có sự phối hợp chặt chẽ và ăn

ý giữa các cấp, các ngành, các doanh nghiệp và bản thân hộ nông dân bị

thu hồi đất ở Đồng Nai trong giải quyết những mâu thuẫn đặt ra nhằm tạo

ra sự thống nhất về lợi ích kinh tế giữa nông dân với nhà nước và chủ

doanh nghiệp.

* Những hạn chế cơ bản trong giải quyết lợi ích kinh tế của nông dân

trong thời gian qua.

Bên cạnh những kết quả trên, trong việc giải quyết lợi ích kinh tế liên

quan đến lợi ích của người nông dân còn bộc lộ những mặt hạn chế sau đây:

43

Thứ nhất, bồi thường giá trị quyền sử dụng đất khi bị thu hồi cho phát

triển các khu công nghiệp và khu dịch vụ còn bất cập khiến cho lợi ích của

nông dân có đất bị thu hồi không được bảo đảm.

44

Theo đánh giá của Tỉnh uỷ Đồng Nai, quá trình thu hồi đất để phát triển

công nghiệp và dịch vụ trên địa bàn tỉnh từ năm 2007 đến năm 2012, vấn đề

bảo đảm lợi ích của các hộ nông dân có đất bị thu hồi chưa được giải quyết

thỏa đáng “Chưa quan tâm và có giải pháp kịp thời, phù hợp, hiệu quả, đồng

bộ với phương án bồi thường để giải quyết tốt cho người dân thuộc diện thu

hồi đất ổn định cuộc sống sau khi chuyển đến nơi ở mới như: phương án hỗ

trợ về vốn, mua nhà ở, đất ở tái định cư, phát triển kinh tế gia đình, đào tạo

nghề, tạo việc làm, thu hút lao động vào các cụm, khu công nghiệp,v.v...”

[53]. Các chính sách khuyến công, khuyến nông đối với người bị thu hồi đất

tại các khu tái định cư tạo điều kiện cho hộ sản xuất nông nghiệp ổn định đời

sống và sản xuất chưa thực hiện được. Đời sống của một bộ phận người dân

tại các khu tái định cư còn gặp khó khăn, chủ yếu là khó khăn về việc làm dẫn

đến nguồn thu nhập chưa ổn định. Các chính sách hỗ trợ đào tạo nghề và tạo

việc chưa phù hợp thực tế; các chính sách hỗ trợ học phí, hỗ trợ thẻ bảo hiểm

y tế còn bất cập, vướng mắc nên chưa thực sự động viên được những hộ dân

tại các khu tái định cư...[53]. Những biểu hiện đó chưa phù hợp với quy định

tại Điều 26 Chương II, Luật Đất đai năm 2013 về quyền lợi của người sử

dụng đất [39]. Theo đó, khi Nhà nước thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an

ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng thì người sử

dụng đất được Nhà nước bồi thường, hỗ trợ, tái định cư theo quy định của

pháp luật; có chính sách tạo điều kiện cho người trực tiếp sản xuất nông

nghiệp, lâm nghiệp...không có đất sản xuất do quá trình chuyển đổi cơ cấu sử

dụng đất và chuyển đổi cơ cấu kinh tế được đào tạo nghề, chuyển đổi nghề và

tìm kiếm việc làm. Tuy nhiên trên thực tế lợi ích nông dân như thế nào trong

quá trình thu hồi đất của họ, còn chưa được giải quyết thỏa đáng ?.

45

Cùng với những quy định của Luật Đất đai, theo tinh thần Nghị quyết,

của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Đồng Nai (khóa VIII) về thực hiện chính

sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện

quy hoạch và các dự án đầu tư trên địa bàn tỉnh Đồng Nai [53], theo đó mục

tiêu, quan điểm, nguyên tắc chỉ đạo được xác định là: “Thực hiện chính sách

bồi thường, hỗ trợ và tái định cư phải được tiến hành đúng nguyên tắc... nhằm

chăm lo giải quyết về đời sống, việc làm cho nhân dân thuộc diện tái định cư

có điều kiện sống tốt hơn nơi ở cũ...”, “Đảm bảo hài hoà lợi ích gắn với nghĩa

vụ, trách nhiệm của người dân thuộc diện thu hồi đất, nhà đầu tư và Nhà

nước; ngoài bồi thường về giá trị quyền sử dụng đất, giá trị tài sản trên đất,

cần tập trung các nguồn lực của Nhà nước và xã hội để thực hiện các chính

sách hỗ trợ và chính sách tái định cư phù hợp, đảm bảo có lợi nhất cho người

dân thuộc diện thu hồi đất có điều kiện sống tốt hơn khi chuyển đến nơi ở

mới” [53]. Thế nhưng thực tiễn diễn ra chưa phản ánh đúng và đầy đủ tinh

thần của những văn kiện trên.

Việc bồi thường giá trị quyền sử dụng đất khi bị thu hồi cho phát triển

các khu công nghiệp và khu dịch vụ còn bất cập đã làm nảy sinh các vấn đề

xã hội phức tạp, nhiều hộ nông dân bất bình và nộp khiếu kiện.

46

Trong thời gian qua, Đồng Nai đã xảy ra tình trạng nông dân biểu tình,

khiếu kiện đông người dài ngày vì bồi thường quyền sử dụng đất khi bị thu

hồi đất để chuyển đổi mục đích sử dụng không phù hợp, thiếu thống nhất và

không công bằng giữa các địa phương. Có nhiều trường hợp các thửa đất liền

kề nhau nhưng giá cả khác nhau do hai thửa đất đó của hai địa phương khác

nhau. Qua khảo sát tại huyện Long Thành cho thấy: năm 2013, Trung tâm

Phát triển quỹ đất huyện đã tiếp nhận 185 đơn nội dung đơn thư liên quan đến

bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng. Các đơn thư khiếu nại, tố cáo của

người dân trong lĩnh vực bồi thường, hỗ trợ tái định cư còn phát sinh nhiều và

tập trung chủ yếu là khiếu nại về giá đất, giá nhà ở và cây trồng. Ngoài ra,

một số dự án có khiếu nại đông người, phức tạp, gây mất an ninh trật tự (dự

án khu dân cư đô thị Long Hưng, dự án khu dân cư Công ty cổ phần Miền

Đông, Khu du lịch Sơn Tiên, mở rộng quốc lộ 51, Hồ chứa nước Sông Ray...)

làm cho công tác giải phóng mặt bằng của nhiều dự án bị đình trệ, kéo dài.

Thứ hai, đáp ứng nhu cầu chuyển đổi nghề nghiệp và việc làm cho

người nông dân trong quá trình phát triển các khu công nghiệp và khu dịch

vụ còn nhiều bất cập.

Chính sách khuyến công, khuyến nông đối với người bị thu hồi đất tại

các khu tái định cư, việc xây dựng các khu tái định cư gắn liền với yêu cầu

phát triển sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao để tạo điều kiện cho

hộ sản xuất nông nghiệp ổn định đời sống và sản xuất chưa thực hiện được.

47

Tình trạng thất nghiệp và không có việc làm trở nên bức xúc, nan giải

trên địa bàn tỉnh trong số lao động thuộc các hộ nông dân bị thu hồi đất. Bởi

hầu hết lao động khu vực nông thôn, đặc biệt là hiện nay lao động ở những

vùng đất bị thu hồi hoặc chuyển đổi mục đích sử dụng đều thuộc khu vực

không chính quy, lao động thời vụ, không được đào tạo về chuyên môn kỹ thuật

và hơn một nữa là nông dân với nguồn sinh kế chủ yếu là nông nghiệp; ngoài ra

còn phải kể đến số lao động này đều đã ở độ tuổi khá cao, sức khỏe đã giảm sút

(do lao động trẻ khỏe thường đi làm ăn xa). Trong khi đó, yêu cầu của các

doanh nghiệp công nghiệp và dịch vụ trong các khu công nghiệp lại đòi hỏi

người lao động phải có trình độ chuyên môn để được làm việc trong các

doanh nghiệp đó tại các khu công nghiệp. Trong mỗi khu công nghiệp, trong

mỗi ngành công nghiệp, dịch vụ có hàng trăm các doanh nghiệp hoạt động,

mỗi doanh nghiệp sản xuất hoặc kinh doanh một ngành dịch vụ có tính

chuyên biệt không giống nhau nên họ đòi hỏi một nguồn lao động có trình độ

chuyên môn khá đa dạng, việc đào tạo, bồi dưỡng nghề để đáp ứng nhu cầu

khách quan đó là khá phức tạp. Các đơn vị nhận đất hoặc các cơ sở đào tạo

nghề của Nhà nước chỉ đảm nhận một phần rất nhỏ. Do đó, sau khi bị thu hồi đất

và buộc phải chuyển đổi công ăn, việc làm, thì hầu hết các hộ gia đình tự bỏ tiền,

tự tìm cách đào tạo để chuyển đổi, vừa tốn kém, vừa không chắc chắn có đáp

ứng được yêu cầu của các doanh nghiệp hay không ? Thực trạng này có thể đẩy

hàng ngàn lao động nông nghiệp bị mất sinh kế, cũng như rơi vào tình trạng thất

nghiệp hoặc thiếu việc làm dài hạn khi họ không có định hướng hoặc đào tạo

nghề đúng nhu cầu của thị trường. Hệ quả là xuất hiện nhiều lao động thất

nghiệp và không có việc làm trong các gia đình nông dân bị thu hồi đất, gây

những bức xúc cho chính những hộ nông dân có đất bị thu hồi và cho xã hội.

Qua khảo sát ở thành phố Biên Hòa, vấn đề thu hồi và giải quyết việc

làm cho nông dân có đất bị thu hồi đã cho thấy một tình hình thực tế như sau:

48

Trong 4 năm qua, thành phố Biên Hòa đã thu hồi 644,64 ha, trong đó đất

nông nghiê ̣p là 474,66 ha, với 92 dự án/412 dự án toàn tỉnh. Theo Bộ Lao

động - Thương binh và Xã hội, cứ 1 ha đất bị thu hồi sẽ khiến 13-15 lao động

nông nghiệp bị mất việc thì sẽ có 6170 đến 7119 lao động làm nông nghiệp bị

mất việc làm do bị thu hồi đất. Theo số liệu thu thập được từ các ngành có

liên quan của thành phố như Phòng Lao động Thương binh và Xã hội, phòng

Kinh tế thành phố Biên Hòa thì trong thời gian qua trên địa bàn thành phố

Biên Hòa chưa tổ chức thực hiện được lớp đào tạo lao động đối với những

người bị thu hồi đất phải chuyển đổi ngành nghề, đa phần các chính sách

hỗ trợ đào tạo nghề thường được tính bằng tiền (tương đương với mô ̣t khóa

học nghề) để hỗ trợ cho các hộ dân. Nguyên nhân là do lao động nông

nghiệp này đã lớn tuổi, mặt khác một số ngành nghề trong kế hoạch đào

tạo không phù hợp với họ như: trồng hoa lan, may vá, nấu ăn, nuôi ếch,

cắm hoa, đan lát...

Chỉ riêng 3 dự án: Nhà máy nước Nhơn Trạch, khu tái định cư Tân

Biên, cụm gốm sứ Tân Hạnh, điều tra là 61/591 hộ bị thu hồi (chiếm

10,30%), tổng số nhân khẩu trong hô ̣ trước khi thực hiê ̣n thu hồi đất là 293

người, sau thu hồi là 304 người, tăng 11 người. Trong đó: lao động nông

nghiệp 112 người chiếm 38,23% cơ cấu lao động, sau thu hồi do mất đất

sản suất nông nghiệp nên lao động nông nghiệp không còn; số này được

thu nhận vào làm việc tại các khu công nghiệp là 45/112 người, chiếm tỷ lệ

40,17%, một tỷ lệ rất nhỏ, 58,83% còn lại phải chuyển sang làm các ngành

nghề khác. Nguyên nhân cũng vẫn là do số lao động nông nghiệp này đã

lớn tuổi, mặt khác một số ngành nghề trong kế hoạch đào tạo chuyển đổi

không phù hợp với khả năng để theo học của họ [14].

Thứ ba, tiến độ triển khai thực hiện dự án chậm, hoặc không được thực

hiện ảnh hưởng đến lợi ích của người nông dân.

49

Mặc dù trong thời gian qua so với nhiều địa phương khác trong cả nước,

công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng triển khai các dự án trên địa bàn

tỉnh đã đạt được nhiều kết quả tích cực, nhưng nhìn chung tiến độ còn chậm,

chưa đáp ứng yêu cầu thực tế về tiến độ giải phóng mặt bằng để bàn giao đất

sạch cho các nhà đầu tư. Số lượng các dự án và diện tích đất còn phải tiếp tục

thực hiện công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng trên địa bàn tỉnh còn lại

khá nhiều. Đến nay toàn tỉnh vẫn còn 508 dự án đang triển khai công tác bồi

thường với diện tích 18.821,4 ha [54]. Việc chậm triển khai các dự án hoặc

không triển khai, gây lãng phí to lớn về đất đai, tạo nên những bức xúc và làm

xuất hiện những mâu thuẫn về lợi ích kinh tế giữa nông dân với các nhà đầu

tư. Điển hình trong số đó có các dự án như: khu công nghiệp Amata (TP Biên

Hoà) và khu công nghiệp Hố Nai (huyện Trảng Bom).

Khu công nghiệp Amata được Ủy ban nhân dân tỉnh phê duyệt với tổng

diện tích 513 ha nhưng diện tích thực tế chưa nhận đủ. Trong đó, riêng giai

đoạn 2 được mở rộng lần 2 với diện tích 54,89 ha, được cấp giấy chứng nhận

đầu tư từ năm 2008 nhưng đến nay phần đất này vẫn còn trong tình trạng quy

chủ, kiểm kê và áp giá. Đối với khu công nghiệp Hố Nai (huyện Trảng Bom),

hiện có khoảng 15 ha chưa được thu hồi do các hộ dân trong vùng chưa nhận

tiền bồi thường, chưa giao đất và một số hộ dân chưa nhận lô nền tái định cư.

Việc bồi thường giai đoạn 2 của khu công nghiệp Hố Nai cũng đang gặp

vướng mắc. Đặc biệt đã 15 năm trôi qua, khu quy hoạch giải phóng mặt bằng

hơn 42 ha tại khu vực mỏ đá Sông Mây (ấp Sông Mây, xã Bình Minh, huyện

Trảng Bom, Đồng Nai) vẫn còn nhùng nhằng. Một số hộ dân đã di dời nhưng

đến nay vẫn chưa nhận được tiền bồi thường. Những hộ dân vẫn ở khu đất

giải tỏa thì không có điện, cuộc sống hết sức khó khăn [54].

Thứ tư, việc xây dựng các khu tái định cư còn bị động, thiếu và chưa

đáp ứng nhu cầu thực tế.

50

Công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư tập trung nhiều ở các địa

phương nằm trong khu vực đầu mối giao thông, có tốc độ đô thị hóa, công

nghiệp hóa mạnh như thành phố Biên Hòa, các huyện Long Thành, Nhơn

Trạch, Trảng Bom, Vĩnh Cửu và tiến độ thực hiện cũng như việc hoàn thành

công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng tại các địa phương này cũng thấp

hơn nhiều so với các địa phương khác còn lại trong tỉnh. Nguyên nhân dễ

nhận thấy trước hết do mật độ dân số tại các khu vực trên cao hơn nhiều lần

các địa phương còn lại dẫn đến phải bồi thường đất ở và tái định cư nhiều

hơn. Ngoài ra, việc áp dụng giá đất để bồi thường, hỗ trợ, tái định cư vào thực

tế tại các địa phương có tốc độ đô thị hóa, công nghiệp hóa cao vẫn khó khăn,

phức tạp hơn so với các địa phương còn lại.

Phần lớn các khu tái định cư chỉ được hoàn thành công tác xây dựng sau

khi đã thực hiện xong việc lập, thẩm định và phê duyệt phương án bồi thường,

hỗ trợ. Nhiều dự án đã được phê duyệt xong phương án bồi thường, người dân

đã nhận tiền bồi thường nhưng phải chờ nhận được đất tái định cư mới bàn

giao mặt bằng (hiện nay toàn tỉnh còn 2.702 hộ cần phải bố trí tái định cư)

[54] (xem phụ lục 2). Một số khu tái định cư chưa đảm bảo sự kết nối hạ tầng

nên chưa được người dân hưởng ứng, tỷ lệ người dân nhận đất xây dựng nhà

ở tái định cư còn thấp (khu tái định cư Phước Bình, huyện Long Thành, khu

tái định cư khu công nghiệp Hố Nai, xã Bắc Sơn, huyện Trảng Bom...). Đời

sống của một bộ phận người dân tại các khu tái định cư còn gặp khó khăn,

chủ yếu là khó khăn về việc làm dẫn đến nguồn thu nhập chưa ổn định. Các

chính sách hỗ trợ đào tạo nghề và tạo việc làm chưa phù hợp thực tế. Các

chính sách hỗ trợ học phí, hỗ trợ thẻ bảo hiểm y tế còn bất cập, vướng mắc

nên chưa thực sự động viên được những hộ dân tại các khu tái định cư.

Hiện nay, các dự án tái định cư trên địa bàn tỉnh hiện đang thực hiện là

32 dự án, trong đó đã có quyết định giao đất: 9 dự án, đã có quyết định thu

51

hồi đất là 10 dự án, tổng diện tích 1290,4 ha. Đáng chú ý là mới có một

khu tái định cư được đưa vào sử dụng (18,53 ha). Các dự án chuyển tiếp

sử dụng và phân bố trong quy hoạch sử dụng đất 2010 - 2020 gồm 71 dự

án với tổng diện tích 1.005,5 ha (xem phụ lục số 4 và 5)

Trong khi đó, theo Khoản 3 Điều 42 Luâ ̣t Đất đai năm 2003 thì “Uỷ

ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương lập và thực hiện các

dự án tái định cư trước khi thu hồi đất để bồi thường bằng nhà ở, đất ở

cho người bị thu hồi đất ở mà phải di chuyển chỗ ở”.

Do nhiều nguyên nhân khách quan (trong đó chủ yếu là khó khăn và

không chủ động được nguồn vốn) nên các khu tái định cư thường được

xây dựng sau khi triển khai công tác bồi thường, hỗ trợ các dự án. Vì vậy,

phần lớn các phương án bồi thường, hỗ trợ được thực hiện và phê duyệt

trước, sau đó mới thực hiện việc xét duyệt, giao đất tái định cư cho các

đối tượng. Đây là tồn tại mà trong thời gian tới cần phải có giải pháp để

khắc phục nhằm chủ động đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng và sớm

ổn định cuộc sống của người bị thu hồi đất. Việc xây dựng các khu tái

định cư còn bị động, thiếu và chưa đáp ứng nhu cầu thực tế. Phần lớn các

khu tái định cư chỉ được hoàn thành công tác xây dựng sau khi đã thực

hiện xong việc lập, thẩm định và phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ.

2.2.2. Nguyên nhân hạn chế và những vấn đề đă ̣t ra cần giải quyết

* Nguyên nhân cơ bản của những hạn chế, tồn tại

Những nguyên nhân cơ bản của những hạn chế, tồn tại trong giải

quyết vấn đề lợi ích trong thu hồi đất cho phát triển công nghiệp và dịch

vụ ở tỉnh Đồng Nai bắt nguồn từ ba nhóm nguyên nhân cơ bản dưới đây:

Thứ nhất, cơ chế chính sách tuy đã được đổi mới nhưng vẫn còn nhiều

bất cập

52

Những bất cập từ cơ chế chính sách bao gồm những chính sách chung

của Nhà nước và những quy định riêng của tỉnh Đồng Nai. Theo đó bao gồm

các vấn đề cụ thể sau:

Một là, mức bồi thường, hỗ trợ và phương thức bồi thường, hỗ trợ chưa

hợp lý. Mặc dù định hướng của Nhà nước là đền bù đầy đủ mọi thiệt hại gây

ra cho người nông dân bị thu hồi đất, nhưng trên thực tế, việc đền bù được

xác định theo các khung giá đã quy định thường lạc hậu so với biến động thực

tế của thị trường, vì vậy mà số người dân sau khi nhận được tiền đền bù

không thể mua lại được diện tích đất tương tự đã bị thu hồi. Đây là một bất

cập khiến người dân không mấy hào hứng với việc triển khai các dự án mà về

bản chất là mang lại lợi ích xã hội lớn cho mọi người và cho chính họ. Hơn

nữa, việc đền bù đầy đủ mọi thiệt hại, thực chất mới tính đến các thiệt hại hữu

hình như đất đai, cây trồng, vật nuôi, công trình, kiến trúc...liên quan đến đất,

chứ hoàn toàn chưa tính đến các thiệt hại vô hình mà người dân phải gánh

chịu như xáo trộn cuộc sống bình thường, mất sinh kế, phải đổi sang nghề

khác, thay đổi môi trường văn hóa và môi trường sinh thái... Đây là những

thiệt hại khá lớn mà các chính sách hiện hành cả của Nhà nước và tỉnh Đồng

Nai đều chưa tính đến một cách triệt để và toàn diện. Mặt khác, hạn chế chủ

yếu trong cơ chế chính sách hỗ trợ hiện có là việc bồi thường, hỗ trợ đều dưới

hình thức chi trả trực tiếp tiền cho người dân bị thu hồi đất, dẫn đến tình trạng

người dân dùng tiền để mua sắm chứ ít quan tâm đến học nghề, chuyển đổi

nghề để tính sinh kế lâu dài.

Hai là, việc hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và bố trí việc làm mới cho

người nông dân sau thu hồi đất còn yếu kém, chưa đáp ứng được yêu cầu ổn

định đời sống lâu dài của người dân bị thu hồi đất. Như trên đã phân tích người

dân ở vùng thu hồi đất không có, hoặc không đủ việc làm. Số lượng nông dân bị

thu hồi đất được thu hút vào làm việc trong các doanh nghiệp tại các khu công

53

nghiệp và khu dịch vụ là rất nhỏ so với nhu cầu thực tế của người dân. Nguyên

nhân chủ yếu là do rất nhiều người trong số họ ở độ tuổi cao, trình độ văn hóa

thấp, khó học nghề mới, không đáp ứng được nhu cầu lao động chất lượng cao

của các khu công nghiệp và khu dịch vụ. Mặt khác còn do chủ đầu tư các dự án

chưa có kế hoạch cụ thể ngay từ đầu để đào tạo và tuyển dụng lao động tại chỗ,

trong khi nhiều người nông dân thiếu sự nỗ lực, lúng túng, mãi nghĩ cách chi tiêu

số tiền được đền bù hơn là tìm cách học nghề mới. Tình hình đó dẫn đến tỷ lệ

lao động địa phương nơi có đất bị thu hồi, làm việc trong các khu công nghiệp

và khu dịch vụ rất thấp.

Ba là, chính sách tái định cư chưa kịp thời, gây nhiều bức xúc trong nhân

dân. Theo quy định của tỉnh, những hộ gia đình có nhà, đất bị giải toả trắng và

thu hồi hết đất thổ cư sẽ được hỗ trợ suất tái định cư theo quy định. Tuy

nhiên, hiện nay toàn tỉnh vẫn còn 2.702 hộ cần phải bố trí tái định cư. Điều

này ảnh hưởng nhiều đến việc triển khai thực hiện dự án của các chủ đầu tư.

Bốn là, thủ tục hành chính trong thu hồi đất và giao đất nhìn chung còn

phức tạp, nhiều đơn vị, tổ chức tham gia, vì thế thường rất chậm trễ.

Từ khi có thông báo thu hồi đất đến khi thực hiện xong phương án bồi

thường đã được phê duyệt là một quá trình khá dài. Riêng việc xây dựng

phương án đền bù cũng mất khá nhiều thời gian, vì phải qua sự giám sát, góp ý

của nhiều cơ quan, tổ chức. Chính vì vậy đây cũng là một trong những nguyên

nhân gây cản trở lớn cho quá trình thực hiện lợi ích trong thu hồi đất để xây

dựng KCN, KDV.

Thủ tục lập và thẩm định các dự án đầu tư còn kéo dài. Chưa quan tâm

kiểm tra khả năng thực hiện dự án của nhà đầu tư sau cấp phép, dẫn đến dự án

chậm triển khai hoặc không thực hiện được. Bên cạnh đó, một số nhà đầu tư

thiếu tích cực cùng với chính quyền trong triển khai các dự án đầu tư tái định

54

cư, có ảnh hưởng lớn đến công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và lợi ích

chính đáng của người dân thuộc diện thu hồi đất.

Thứ hai, việc tổ chức thực hiện cơ chế chính sách trong giải quyết lợi

ích cho nông dân có đất bị thu hồi của các cơ quan Nhà nước và các tổ chức

chính trị - xã hội còn bộc lộ nhiều bất cập.

Một là, một số cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể

nhân dân các cấp và các ngành chưa nhận thức đầy đủ tầm quan trọng và ý

nghĩa đối với đối tượng thuộc diện thu hồi đất là đối tượng cần quan tâm về

kinh tế - xã hội trong quá trình thực hiện bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi

Nhà nước thu hồi đất để thực hiện quy hoạch và các dự án đầu tư phát triển

kinh tế - xã hội.

Hai là, về trình độ và trách nhiệm của cán bộ thi hành còn nhiều bất cập.

Trình độ và trách nhiệm của cán bộ trực tiếp thực hiện các khâu trong

quá trình thu hồi đất cũng là một trong những nguyên nhân gây ra những khó

khăn, ách tắc trong quá trình thực hiện lợi ích kinh tế. Một số cán bộ chuyên

trách còn thiếu kinh nghiệm và năng lực giải quyết những công việc phức tạp

của quá trình thu hồi đất. Nguy hiểm hơn một số cán bộ có những biểu hiện

tiêu cực như sách nhiễu dân, tham nhũng... giải quyết công việc thiếu minh

bạch gây khiếu kiện kéo dài. Chưa giải thích cụ thể, rõ ràng cho người dân

hiểu đúng quy mô, ảnh hưởng của các dự án phát triển các KCN, KDV, cũng

như chủ trương chính sách về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư của Nhà nước

đối với các hộ dân nằm trong phạm vi dự án; công tác khảo sát, đo đạc, kiểm

kê, áp giá bồi thường của ngành chức năng tuy được tập trung thực hiện các

bước theo quy trình, nhưng quá trình thực hiện đã thể hiện tính chủ quan,

thiếu chặt chẽ, dẫn đến việc đo đạc, ghi chép số liệu đo đạc, kiểm kê tài sản

có trường hợp nhầm lẫn, bỏ sót, thiếu chính xác. Bên cạnh đó, còn do hạn chế

55

về năng lực, chuyên môn của đội ngũ cán bộ làm công tác tiếp dân, giải quyết

khiếu nại về đền bù giải phóng mặt bằng ở cơ sở.

Ba là, công tác phối hợp giữa các ngành, các cấp và việc củng cố, kiện

toàn tổ chức cán bộ chuyên trách công tác bồi thường từ tỉnh đến cơ sở chưa

được chặt chẽ, đồng bộ, kịp thời. Năng lực cán bộ làm công tác bồi thường

còn yếu; một số cấp ủy cơ sở phường, xã gần như khoán trắng cho chính

quyền. Sự phối hợp của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể với chính quyền các

cấp chưa được thường xuyên; công tác phối hợp giữa chủ đầu tư với Hội đồng

bồi thường chưa chặt chẽ; chưa kiên quyết xử lý các trường hợp xây dựng trái

phép và vi phạm đất quy hoạch.

Bốn là, công tác tuyên truyền, vận động, giáo dục nhân dân hiểu biết sâu

rộng chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về bồi thường,

hỗ trợ và tái định cư để thông hiểu chấp hành chưa được đầy đủ, đúng mức.

Một bộ phận nhân dân ý thức chấp hành chủ trương, chính sách còn kém, chỉ

thấy lợi ích trước mắt, chưa thấy lợi ích lâu dài và nghĩa vụ công dân để góp

sức cùng Nhà nước thực hiện.

Thứ ba, về nhận thức của các chủ thể còn những biểu hiện chưa phù hợp

với tình hình thực tiễn.

Những biểu hiện bất cập về nhận thức của các chủ thể bao gồm:

Một là, nhận thức của chính quyền cơ sở các địa phương có đất bị thu

hồi và các chủ đầu tư xung quanh vấn đề lợi ích trong thu hồi đất còn chưa

thực sự đúng đắn.

Bản thân mỗi chủ thể còn chưa hoàn toàn hiểu rõ sự thống nhất lợi ích

của họ trong quan hệ lợi ích này. Chính vì vậy, khi theo đuổi mục đích lợi

ích của mình, họ mới nhìn thấy khía cạnh mâu thuẫn của quan hệ lợi ích

đó. Chẳng hạn, doanh nghiệp chủ dự án cho rằng càng ít chi tiền đền bù, thì

56

họ càng có lợi; còn nông dân thì cho rằng họ càng đòi hỏi tiền đền bù càng

cao thì mình càng có lợi. Chính vì vậy, họ không thể giải quyết thỏa đáng

mối quan hệ lợi ích, không có sự hài hòa lợi ích giữa hai bên dẫn đến trì

trệ quá trình thu hồi đất, giải phóng mặt bằng và thực hiện dự án, nghĩa là

dẫn đến thiệt hại của cả hai bên. Về phía Nhà nước, do chúng ta chưa có

nhiều kinh nghiệm đối với việc giải quyết lợi ích trong thu hồi đất theo cơ

chế kinh tế thị trường để phát triển công nghiệp và dịch vụ, nên chưa thực

hiện tốt vai trò chủ thể lợi ích xã hội, là người ban hành các cơ chế, chính

sách nhằm giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích giữa các bên, nên chậm ban

hành cơ chế chính sách mới nhằm khắc phục những mâu thuẫn nảy sinh.

Hai là, nhận thức của người nông dân về sự thống nhất lợi ích kinh tế

của mình với các chủ thể khác còn quá hạn hẹp.

Về mặt tâm lý nhiều nông dân cũng luôn không muốn rời bỏ đất đai

của mình, chưa sẵn sàng với việc đổi mới cuộc sống và nghề nghiệp. Do

đó đây cũng là một nguyên nhân quan trọng để gây những bất cập, những

cản trở trong thực hiện quan hệ lợi ích của các bên. Một số người khiếu

kiện do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có nguyên nhân là không

hiểu chính sách, pháp luật nên khiếu nại thiếu căn cứ, vượt ra ngoài quy

định của pháp luật hoặc cố tình đeo bám dai dẳng, cố chấp được thua,

không chấp hành quyết định giải quyết khiếu nại, tố cáo có lý có tình. Một

số trường hợp có hành vi quá khích, gây rối, kích động, lôi kéo người

khác khiếu kiện, đây cũng là nguyên nhân làm phức tạp thêm tình hình

khiếu nại, tố cáo.

Những tồn tại và nguyên nhân của những tồn tại trên đây chính là cơ

sở quan trọng để tác giả xây dựng các giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng

cao hiệu quả giải quyết mối quan hệ lợi ích kinh tế khi thu hồi đất để xây

dựng các khu công nghiệp và khu dịch vụ.

57

* Một số vấn đề đặt ra từ thực trạng giải quyết lợi ích của người nông

dân trong quá trình phát triển công nghiệp và dịch vụ ở Đồng Nai hiện nay.

Thứ nhất, mâu thuẫn giữa bảo đảm lợi ích nông dân với chính sách ưu

đãi cho các doanh nghiệp trong phát triển các khu công nghiệp và dịch vụ.

Những tồn tại trong giải quyết lợi ích của người nông dân trong quá trình

phát triển công nghiệp và dịch vụ ở Đồng Nai vừa qua cho thấy hiện đang tồn

tại mâu thuẫn giữa bảo đảm lợi ích nông dân với chính sách ưu đãi cho các

doanh nghiệp trong phát triển các khu công nghiệp và dịch vụ.

Trong quá trình thu hồi đất vấn đề bảo đảm lợi ích của các hộ nông dân

có đất bị thu hồi chưa được giải quyết thỏa đáng, trong khi các doanh nghiệp

tại các khu công nghiệp và dịch vụ lại được hưởng nhiều ưu đãi.

Ở huyện Long Thành, theo báo cáo của Ủy ban nhân dân huyện về việc

thực hiện các chính sách hỗ trợ đào tạo nghề, giải quyết việc làm gặp phải khó

khăn do: đối tượng thụ hưởng không có nhu cầu đào tạo nghề tập trung vì đã

có nghề nghiệp, vì lớn tuổi, sức khỏe yếu, trình độ học vấn thấp hoặc không

có nhu cầu chuyển đổi nghề nghiệp mà vẫn tiếp tục sản xuất nông nghiệp

bằng cách chuyển nhượng đất đai ở những nơi khác. Về hỗ trợ chuyển đổi

nghề nghiệp và tạo việc làm theo Nghị định số 69/2009/NĐ-CP (Điều 22)

điều kiện để được hưởng chính sách hỗ trợ này là trực tiếp sản xuất nông

nghiệp và có nguồn sống chủ yếu từ sản xuất nông nghiệp; đối với chính sách

trên rất khó xác định, do một số hộ gia đình, cá nhân ngoài việc sản xuất nông

nghiệp còn phải làm thêm nhiều nghề khác mới đảm bảo ổn định cuộc sống;

do vậy việc xác định hộ gia đình, cá nhân có nguồn sống chủ yếu từ sản xuất

nông nghiệp cũng còn gặp phải khó khăn, vướng mắc vì tất cả nguồn thu nhập

nêu trên đều là nguồn thu nhập chính; nếu thiếu 01 nguồn thu nhập thì cuộc

sống của người dân sẽ gặp khó khăn [30].

Trong khi đó, tại các khu công nghiệp và dịch vụ ở Đồng Nai, các doanh

nghiệp lại được hưởng nhiều chính sách ưu đãi như: tiền thuê đất và ưu đãi

58

tiền thuê đất, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân, thuế nhập

khẩu, thuế trị giá gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt và các ưu đãi khác tại Đồng

Nai với các dự án đầu tư vào khu công nghiệp tại các huyện Tân Phú, Định

Quán, Xuân Lộc, Cẩm Mỹ: được miễn phí sử dụng hạ tầng trong 5 năm kể từ

khi bắt đầu sản xuất kinh doanh. Ngoài ra nếu dự án đầu tư thuộc danh mục

ngành nghề đặc biệt khuyến khích đầu tư và danh mục ngành nghề khuyến

khích đầu tư theo quy định của Chính phủ được miễn tiền thuê đất trong thời

hạn thuê đất; các dự án đầu tư thuộc các ngành nghề còn lại được miễn tiền

thuê đất trong thời gian 15 năm kể từ khi ký hợp đồng thuê đất; các doanh

nghiệp thuê đất đầu tư xây dựng nhà ở cho công nhân của doanh nghiệp

(không kinh doanh) được miễn tiền thuê đất trong thời hạn thuê đất [39] (xem

phụ lục 6).

Hai xu hướng vận động có những biểu hiện ngược nhau đó cần phải

được giải quyết căn cơ để tạo nên sự thống nhất, đảm bảo lợi ích của các bên

liên quan đều được giải quyết, không còn xung đột với nhau.

Thứ hai, mâu thuẫn giữa yêu cầu trình độ chuyên môn để được làm việc

trong các khu công nghiệp với thực trạng chưa được đào tạo của một bộ phận

không nhỏ nông dân thiếu đất canh tác

Theo đánh giá của Tỉnh uỷ Đồng Nai quá trình thu hồi đất để phát triển

công nghiệp và dịch vụ, các chính sách hỗ trợ đối với người bị thu hồi đất

như: hỗ trợ di chuyển; hỗ trợ tái định cư đối với trường hợp thu hồi đất ở; hỗ

trợ ổn định đời sống và sản xuất; hỗ trợ đối với đất nông nghiệp trong khu dân

cư và đất vườn, ao không được công nhận là đất ở; hỗ trợ chuyển đổi nghề

nghiệp và tạo việc làm, chính sách đào tạo nghề, giải quyết việc làm, hỗ trợ

tiền thuê nhà, thưởng do di dời…đã được UBND tỉnh quy định cụ thể, rõ ràng

và đã được áp dụng đầy đủ, thống nhất trên địa bàn tỉnh. Tuy nhiên, vẫn còn

một vài chính sách hỗ trợ như hỗ trợ đào tạo nghề, hỗ trợ việc miễn giảm học

59

phí, cấp thẻ bảo hiểm y tế,... chưa phát huy hiệu quả để động viên người bị

thu hồi đất...[53].

Hai xu hướng vận động ngược chiều nhau này đã thực sự tạo ra mâu

thuẫn, một bên là đòi hỏi người lao động phải có trình độ chuyên môn để

được làm việc trong các doanh nghiệp và một bên là tình trạng người lao

động không được đào tạo chuyên môn tương ứng để thỏa mãn yêu cầu đó. Hệ

quả của tình trạng này là xuất hiện nhiều lao động thất nghiệp và không có

việc làm trong các gia đình nông dân bị thu hồi đất, gây những bức xúc cho

chính những hộ nông dân có đất bị thu hồi và cho xã hội.

Bảo đảm được việc làm, thu nhập, ổn định và nâng cao đời sống cho

người nông dân trong quá trình thu hồi đất phát triển công nghiệp và dịch vụ

trên địa bàn tỉnh Đồng Nai là nội dung tổng hợp của tính chính trị, tính kinh

tế, tính xã hội và thể hiện tính nhân văn sâu sắc, nhưng đang là vấn đề thời sự

cấp thiết, cần được sớm giải quyết một cách cơ bản. Hướng giải quyết mâu

thuẫn này là các kế hoạch thu hồi đất phải đi cùng và được tiến hành trước

việc đào tạo nghề, giải quyết vấn đề chuyên môn cho lực lượng lao động nông

dân có đất bị thu hồi.

Thứ ba, mâu thuẫn giữa tốc độ phát triển nhanh của các khu công nghiệp

với tốc độ phát triển các khu tái định cư cho nông dân

Thực tiễn ở Đồng Nai cho thấy các dự án tái định cư bao giờ cũng đi sau

(chứ không được đi cùng) so với các dự án tại các khu công nghiệp. Sự "lệch

pha" về tiến độ này đã cho thấy ngay trong khâu quy hoạch và tổ chức thực

hiện luôn tồn tại một thực tế là đang tồn tại một mâu thuẫn - mâu thuẫn giữa

tốc độ phát triển nhanh của các khu công nghiệp với tốc độ phát triển các khu

tái định cư cho nông dân.

Do nhiều nguyên nhân khách quan (trong đó chủ yếu là khó khăn và

không chủ động được nguồn vốn) nên các khu tái định cư thường được xây

60

dựng sau khi triển khai công tác bồi thường, hỗ trợ các dự án. Vì vậy, phần

lớn các phương án bồi thường, hỗ trợ được thực hiện và phê duyệt trước, sau

đó mới thực hiện việc xét duyệt, giao đất tái định cư cho các đối tượng. Một

số khu tái định cư chưa đảm bảo sự kết nối hạ tầng nên chưa được người dân

hưởng ứng, tỷ lệ người dân nhận đất xây dựng nhà ở tái định cư còn thấp (khu

tái định cư Phước Bình, huyện Long Thành, khu tái định cư khu công nghiệp

Hố Nai, xã Bắc Sơn, huyện Trảng Bom...) [54].

Trong khi đó, nhu cầu bố trí tái định cư trên địa bàn các huyện, thành phố

Biên Hòa và thị xã Long Khánh đến ngày 31/12/2012 thì nhu cầu bố trí tái định

cư trong toàn tỉnh là 5.821 hộ, nhưng mới bố trí tái định cư cho 3.119 hộ (bao

gồm cả các trường hợp nhận tái định cư phân tán) đạt tỷ lệ 53,6%. Còn lại 2.702

hộ phải giải quyết tái định cư và đang chờ để giải quyết [54] (xem phụ lục số 2).

Như vậy có thể thấy việc phát triển nhanh các khu tái định cư cho người

dân trong diện có đất bị thu hồi không còn đất để làm nhà tuy đã được đẩy

lên, nhưng tốc độ tăng lên đó chậm hơn nhiều so với tốc độ tăng các khu công

nghiệp thời gian qua và do đó giữa tốc độ phát triển của các khu công nghiệp

với tốc độ phát triển các khu tái định cư cho nông dân là mâu thuẫn có thực

đang tồn tại trong quá trình thu hồi đất để xây dựng các khu công nghiệp và

khu dịch vụ ở Đồng Nai, cần sớm được giải quyết.

* *

*

Trong khoảng thời gian từ 2007 đến nay, tỉnh Đồng Nai đã tiến hành thu

hồi một diện tích đất nông nghiệp và phi nông nghiệp để xây dựng các khu

công nghiệp, khu kinh tế dịch vụ đáp ứng nhu cầu phát triển công nghiệp và

dịch vụ trên địa bàn tỉnh. Đồng thời, đó cũng là quá trình tỉnh giải quyết lợi

ích kinh tế cho nông dân có đất bị thu hồi. Trên cơ sở quan điểm, chính sách

của Đảng và Nhà nước, các chủ trương, biện pháp của Tỉnh ủy và sự chỉ đạo

61

tổ chức thực hiện của Ủy ban nhân dân tỉnh, sự quyết tâm cao của các ngành

chức năng, việc giải quyết lợi ích cho người dân có đất bị thu hồi cơ bản đã bảo

đảm lợi ích kinh tế của họ; người dân thuộc diện thu hồi đất cơ bản được ổn định

về chỗ ở, việc làm và đời sống. Việc thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và

tái định cư theo hướng đảm bảo lợi ích cho nông dân có đất bị thu hồi theo chủ

trương của tỉnh đã phần nào duy trì được tốc độ phát triển kinh tế - xã hội trên

địa bàn thời gian qua với tốc độ khá cao, liên tục và cũng khá bền vững.

Song đó mới là những kết quả đạt được bước đầu, mới tập trung vào giải

quyết những vấn đề bức xúc nhất. Trong tổ chức thực hiện chính sách bồi

thường, một số nội dung bồi thường, hỗ trợ và tái định cư chưa được thể chế

hoá đầy đủ, kịp thời, phù hợp; chưa quan tâm và có giải pháp kịp thời, phù

hợp, hiệu quả, đồng bộ với phương án bồi thường để giải quyết tốt cho người

dân thuộc diện thu hồi đất ổn định cuộc sống sau khi chuyển đến nơi ở mới,

như các phương án hỗ trợ về vốn, mua nhà ở, đất ở tái định cư, phát triển kinh

tế gia đình, đào tạo nghề, tạo việc làm, thu hút lao động vào các cụm, khu

công nghiệp... Những tồn tại đó đã làm nảy sinh những mâu thuẫn, đòi hỏi

lãnh đạo và chính quyền các cấp tỉnh Đồng Nai nhận diện đúng và có các giải

pháp căn cơ để giải quyết trong thời gian tới, tiếp tục đưa ngành công nghiệp,

dịch vụ và toàn bộ nền kinh tế địa phương phát triển, để Đồng Nai cùng cả

nước cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020.

62

Chương 3

QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT THỎA ĐÁNG LỢI ÍCH

KINH TẾ CỦA NÔNG DÂN TRONG THU HỒI ĐẤT PHÁT TRIỂN

CÔNG NGHIỆP VÀ DỊCH VỤ Ở ĐỒNG NAI THỜI GIAN TỚI

3.1. Những quan điểm cơ bản

3.1.1. Giải quyết lợi ích kinh tế cho nông dân có đất bị thu hồi để xây dựng

các khu công nghiệp và dịch vụ ở Đồng Nai trên cơ sở cơ chế thị trường.

Hiện nay đất nước ta đang trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện

đại hóa. Đảng ta xác định CNH, HĐH là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành

phần kinh tế. Quá trình đó tất yếu dẫn đến phải thu hồi một diện tích đất nông

nghiệp nhất định để xây dựng các khu công nghiệp, dịch vụ. Mặc khác, nền kinh

tế nước ta hiện nay là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong nền

kinh tế thị trường, lợi ích kinh tế của các chủ thể kinh tế nói chung, lợi ích kinh

tế của nông dân nói riêng thể hiện tập trung nhất thông qua phạm trù thu nhập.

Lợi ích là căn cứ quan trọng để các chủ thể kinh tế thực hiện quyết sách kinh

doanh. Nếu lợi ích bằng 0, tức giá bán bằng hoặc không đủ bù chi phí sản xuất

thì chủ thể sản xuất kinh doanh không còn động lực, do đó không tiến hành sản

xuất kinh doanh. Theo hướng đó, đất nông nghiệp thuộc quyền sử dụng của

nông dân, khi chuyển nhượng quyền sử dụng, người nông dân phải có thu nhập

từ sự chuyển nhượng đó. Thu nhập đó được thực hiện trên thị trường tất yếu phải

chịu sự chi phối bởi các quy luật giá cả, cạnh tranh, cung - cầu, hay do thị trường

điều tiết. Với vấn đề đang được bàn luận ở đây, việc giải quyết quan hệ lợi ích

giữa các chủ thể có liên quan trong thu hồi đất phát triển công nghiệp và dịch vụ

không chỉ dựa trên các nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội mà còn dựa trên cơ chế

thị trường.

Trên thực tế, “cái” mà đề tài nghiên cứu không phải là đất đai hiện

đang thuộc quyền sử dụng của người dân, giá cả của nó, người có quyền sử

63

dụng (nông dân) không được quyền quyết định, mà quyền thuộc về Nhà

nước. Nhà nước quyết định giá chi trả bồi thường. Do tác động của chính

sách khuyến khích thu hút đầu tư phát triển các dự án công nghiệp, dịch vụ

nên Nhà nước không bảo đảm nguyên tắc ngang giá trong bồi thường

quyền sử dụng đất, mà xu hướng phổ biến là thấp hơn so với giá chuyển

nhượng đất đai trên thị trường cùng thời điểm. Như vậy, về bản chất kinh

tế, nếu chính sách của nhà nước về bồi thường giá đất và tài sản hoa màu

trên đất thấp hơn so với giá thị trường, sẽ làm thiệt hại đối với lợi ích kinh

tế của nông dân có đất bị thu hồi. Điều đó làm cho người nông dân vốn có

điều kiện kinh tế khó khăn, nay bị thu hồi đất, không còn tư liệu sản xuất,

lại phải di chuyển chỗ ở càng trở nên khó khăn hơn. Chính vì vậy, việc

đảm bảo lợi ích của các chủ thể tham gia vào quá trình chuyển đổi mục

đích sử dụng đất nói chung, của người nông dân nói riêng phải được thực

hiện theo cơ chế thị trường, phải dựa trên giá cả thị trường ở từng thời

điểm cho phù hợp. Đảm bảo cho người nông dân không bị thiệt hại về lợi

ích kinh tế, bảo đảm cho họ được bình đẳng cả về lợi ích kinh tế và địa vị

xã hội với các nhà đầu tư công nghiệp, dịch vụ. Đây là quan điểm chỉ đạo,

xuyên suốt quá trình công nghiệp hóa, hiện đại ở Đồng Nai hiện nay. Theo

hướng đó, cần thực hiện tốt các yêu cầu sau:

Đảm bảo công bằng trong giải quyết lợi ích đối với mỗi chủ thể.

Một trong những định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị

trường ở nước ta hiện nay đang được Đảng ta xác định là: thực hiện mục

tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Trên góc độ kinh

tế, công bằng được biểu hiện trong lĩnh vực phân phối bao gồm cả phân

phối cho tiêu dùng sản xuất và tiêu dùng sinh hoạt. Công bằng là những

điều kiện thuận lợi giúp cho cá nhân cũng như tập thể được những gì họ có

quyền đạt tới. Do đó:

64

Trước hết, phải đảm bảo công bằng về lợi ích đối với các chủ thể liên

quan trong việc thu hồi đất để phát triển công nghiệp và dịch vụ. Theo

hướng đó, các nhà đầu tư cho các khu công nghiệp, dịch vụ được tạo điều

kiện, thì người nông dân bị thu hồi đất cũng phải được tạo điều kiện cho ổn

định sản xuất và đời sống.

Thứ hai, việc giải quyết xung đột lợi ích giữa các chủ thể trong việc

thu hồi đất với nguyên tắc: lợi ích của xã hội mà trực tiếp là lợi ích của quá

trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải được phân phối công bằng cho

người bị thu hồi đất cả hiện tại và tương lai. Chính vì vậy việc tôn trọng cơ

chế thị trường trong giải quyết các lợi ích kinh tế cho những chủ thể tham

gia không chỉ chịu sự điều tiết của thị trường trong việc xác định giá cả, mà

còn phải làm sao thúc đẩy tiến trình chuyển đổi mục đích sử dụng đất thật

nhanh chóng và kịp thời để tránh các cơn bão giá có thể xảy ra.

Thứ ba, trong phát triển công nghiệp, dịch vụ, việc xây dựng các khu

công nghiệp, khu dịch vụ mới cả Nhà nước (tỉnh Đồng Nai), doanh nghiệp

đầu tư và người bị thu hồi đất đều có lợi. Tuân theo cơ chế thị trường thì

giá cả chính là tín hiệu có tác dụng điều chỉnh linh hoạt việc chuyển đổi

quyền sử dụng đất từ nông dân sang các doanh nghiệp chủ dự án. Khi xác

định được giá đền bù thoả đáng theo cơ chế thị trường thì việc chuyển đổi

mục đích sử đụng đất đồng thời cũng là quá trình chuyển đổi quyền sử

dụng đất sẽ diễn ra nhanh chóng và thuận lợi. Khi xây dựng cơ chế tự

thương lượng giữa các chủ thể lợi ích đồng thời là các chủ quyền sử dụng

đất thì giá cả đóng vai trò quyết định trong quá trình thương thảo này. Chỉ

có xác định được giá cả một cách hợp lý thì quá trình giải phóng mặt bằng

mới có thể diễn ra thuận lợi, nhanh chóng để đưa mặt bằng vào sử dụng

giảm thiểu thiệt hại do biến động giá, do vốn đầu tư bị ứ đọng và do nhiều

lý do khác. Chính vì vậy mà không nên lạm dụng áp lực chủ quan trong

giải quyết lợi ích kinh tế của người bị thu hồi đất vì lợi ích khác.

65

Căn cứ vào vai trò, xu hướng phát triển của các chủ thể sau thu hồi đất, để

giải quyết lợi ích.

Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói chung, trong phát

triển công nghiệp và dịch vụ nói riêng, phải quan tâm giải quyết tốt các vấn

đề về lợi ích (cả trước mắt và lâu dài; cả kinh tế, xã hội và an ninh, quốc

phòng) cho các chủ thể là Nhà nước, doanh nghiệp và người dân. Tuy nhiên,

trên thực tế không phải tất cả mọi người, mọi tập thể, đơn vị hoặc tổ chức đều

được hưởng lợi từ quá trình thu hồi đất ngang bằng nhau. Khi đất nông nghiệp

chuyển đổi thành các khu công nghiệp, khu dịch vụ mới hay kết cấu hạ tầng...

cũng có nghĩa là một bộ phận nông dân không còn đất canh tác, không còn

thu nhập từ đất, đời sống sẽ có những đảo lộn. Trong khi đó các nhà đầu tư thì

đứng trước cơ hội mới trong kinh doanh theo hướng gia tăng lợi nhuận. Hai

khả năng vận động có xu hướng ngược chiều nhau này đòi hỏi phải được nhìn

nhận thấu đáo, tiên liệu trước, để có hướng, phương thức giải quyết phù hợp.

Chính vì vậy, khi giải quyết quan hệ lợi ích giữa các chủ thể có liên

quan trong thu hồi đất phát triển công nghiệp và dịch vụ phải thực hiện theo

nguyên tắc: các chủ thể tham gia không phân biệt giai cấp hay nguồn gốc

xuất thân đều có cơ hội được đảm bảo một cách bình đẳng về lợi ích. Điều

đó có nghĩa là họ được “nhận”, được hưởng lợi từ việc nhận mặt bằng đất

thu hồi (chủ đầu tư các dự án) hoặc từ việc bàn giao đất (nông dân) một

cách tương xứng.

3.1.2. Giải quyết lợi ích kinh tế cho nông dân đồng bộ đảm bảo lợi ích

của các chủ thể khác.

Nền kinh tế nước ta hiện nay là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa. Trong quá trình phát triển, không phải chỉ có sự tham gia của một chủ

thể, mà có sự tham gia của nhiều chủ thể thuộc các thành phần kinh tế khác

nhau như đại biểu cho các lợi ích khác nhau:

66

Lợi ích của toàn xã hô ̣i: thu hồi đất để thực hiện các dự án xây dựng hạ

tầng xã hội sẽ tạo điều kiê ̣n thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế tăng giá trị

công nghiê ̣p, dịch vụ thương mại, đẩy mạnh công nghiê ̣p hóa - hiê ̣n đại hóa

và đô thị hóa, đưa đất nước tiến nhanh hơn trên con đường dân giàu, nước

mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh

Lợi ích của chủ đầu tư: nhà nước tạo mọi điều kiê ̣n thuâ ̣n lợi cho chủ

đầu tư thực hiê ̣n các dự án, do đó các dự án khi hoàn thiê ̣n kết cấu hạ tầng thì

giá trị của đất tăng lên rất nhiều so với trước khi thực hiê ̣n mang lại nhiều lợi

ích cho chủ đầu tư.

Lợi ích của các hô ̣ dân bị thu hồi đất: thu hồi đất để phát triển kinh tế -

xã hô ̣i mang lại lợi ích phát triển đất nước nhưng nó có ảnh hưởng đến lợi ích,

đời sống của những người dân bị thu hồi, cần coi người có đất bị thu hồi là

những người góp vốn cho đất nước, họ phải là người cần được chia sẻ lợi ích

đó. Vấn đề đă ̣t ra hàng đầu cần giải quyết là họ sẽ không còn đất để sản xuất,

phải chuyển đổi ngành nghề làm cho cuô ̣c sống người dân bị xáo trô ̣n, do đó

nếu không đảm bảo cho họ được việc làm, có thu nhập thường xuyên và ổn

định thì sẽ lâm vào cảnh khó khăn.

Theo hướng đó, trong quá trình thu hồi đất nông nghiệp để xây dựng các

khu công nghiệp, dịch vụ, không chỉ liên quan đến lợi ích kinh tế của người

nông dân mà còn có lợi ích của Nhà nước (đại biểu cho lợi ích xã hội) và nhà

đầu tư.

Tuy nhiên, trên thực tế, mối quan hệ lợi ích kinh tế giữa các chủ thể

trong quá trình thu hồi đất trên phạm vi cả nước nói chung, trên địa bàn tỉnh

Đồng Nai nói riêng chưa thực sự bình đẳng. Nhiều trường hợp, nhà nước thu

hồi đất để phát triển các khu công nghiê ̣p, xây dựng những công trình công

cộng, cán bộ dự án áp giá đền bù quyền sử dụng ruộng đất của người nông

dân quá rẻ so với giá thị trường, và thiếu nhất quán.

67

Có tình trạng nhiều địa phương được các nhà đầu tư ca ngợi không tiếc

lời về chính sách giá ưu đãi, về giải phóng mặt bằng nhanh, giao đất nhanh và

dễ dàng, nhưng người dân thì hững hờ, và lo lắng, thậm chí bất bình bởi chính

quyền địa phương ủng hộ, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đầu tư, song lại

ít quan tâm đến lợi ích nông dân, dẫn đến bất bình đẳng: nhà đầu tư được lợi

nhiều, còn nông dân mất đất thì thiệt đơn thiệt kép. Đă ̣c biê ̣t, có nhà đầu tư

lấy đất của nông dân nhưng không đưa dự án vào triển khai xây dựng, để

hoang hóa cỏ mọc, cũng không ít nhà đầu tư chờ giá đất lên cao rồi chuyển

nhượng hưởng chênh lệch giá kiếm lời. Trong khi đó, nông dân thì không còn

đất sản xuất, tiền đền bù quá rẻ không đủ để chuyển đổi nghề dẫn đến khiếu

kiện triền miên, dai dẳng; nhưng chính quyền chưa có biện pháp giải quyết

thỏa đáng, dứt điểm.

Vì vậy, việc bảo đảm lợi ích kinh tế cho người nông dân, phải nằm trong

mối quan hệ với lợi ích kinh tế của các chủ thể khác. Để thực hiện quan điểm

này cần thực hiện tốt các yêu cầu sau:

Bảo đảm lợi ích cho nông dân phải theo nguyên tắc lợi ích cá nhân

thống nhất với lợi ích chung của nhóm cộng đồng (tập thể), xã hội

Trước đây, trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung với hai thành phần

kinh tế cơ bản là quốc doanh và tập thể, do đó các quan hệ về lợi ích: cá nhân,

tập thể, xã hội cơ bản là thống nhất. Hiện nay, với nền kinh tế hàng hóa nhiều

thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, hệ thống các lợi ích kinh tế hình

thành, vận động trong mối quan hệ đa chiều, rất phức tạp. Các mối quan hệ lợi

ích: vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn với nhau. Vì vậy, cần giải quyết hài hoà

các lợi ích sẽ tạo động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Quá trình

giải quyết mối quan hệ giữa các lợi ích kinh tế là tạo ra các điều kiện, trong đó

việc thực hiện các lợi ích sao cho cùng một hướng và đảm bảo tính hàng đầu

của lợi ích xã hội, cái có lợi ích đối với xã hội thì phải có lợi ích đối với tập thể,

68

cá nhân và mỗi doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc nhận thức của người dân, một

bộ phận doanh nhân, một số quan chức trong bộ máy công quyền chưa có sự

đồng thuận. Đặc biệt những người nông dân, vốn đã ngàn đời gắn bó với làng

quê, cùng tư duy, thói quen của kinh tế tự cấp tự túc, nay phải nhường trả đất

đai, chuyển đổi nghề nghiệp, thì không thể một sớm một chiều thay đổi

được nhận thức về quan hệ lợi ích giữa cá nhân với tập thể, xã hội; giữa

lợi ích trước mắt với lợi ích lâu dài của chính người dân; giữa lợi ích kinh

tế với lợi ích về chính trị, an ninh, quốc phòng. Vì vậy, trách nhiệm cán

bộ địa phương là phải nâng cao dân trí, pháp luật, kết hợp với tuyên

truyền vận động nông dân đồng tình ủng hộ quy hoạch phát triển kinh tế -

xã hội của địa phương. Có thể, vì mục đích chung toàn cục, không thể để

những dự án lớn đã quy hoạch hợp lý giẫm chân tại chỗ, ảnh hưởng đến

mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội vùng miền, nếu cần vẫn phải cưỡng

chế một số người cố tình không nhận đền bù và khiếu kiện, không giao

đất. Nếu như nông dân được tham gia bàn bạc dân chủ, công khai theo

đúng quy trình thu hồi đất, giải phóng mặt bằng bàn giao cho chủ đầu tư

thì sẽ có sự đồng thuận của người dân.

Nhà nước bảo vệ lợi ích của nông dân

Các cấp chính quyền của tỉnh thường xuyên theo dõi, kiểm tra kịp

thời phát hiện ra các mâu thuẫn phát sinh trong quá trình giải quyết quan

hệ lợi ích trong chuyển đổi mục đích sử dụng đất, trên cơ sở đó cần vận

dụng tốt các quy luật của thị trường như quy luật cung - cầu, quy luật giá

trị. Giải quyết các lợi ích kinh tế phải có lý, có tình, đúng pháp luật, hợp

lòng dân đảm bảo được lợi ích chính đáng của người dân.

Ngoài ra, cần giảm bớt các khoản đóng góp của người nông dân hiện

nay, tạo điều kiện cho họ đầu tư từ khoản thuế sử dụng đất nông nghiệp

được giảm trừ.

69

Quan hệ giữa nông dân và các doanh nghiệp được thực hiện theo

nguyên tắc cùng có lợi.

Trong quá trình giải quyết quan hệ giữa các lợi ích kinh tế, lợi ích của

người có đất bị thu hồi cho phát triển các khu công nghiệp, khu dịch vụ phải

được đặt trong quan điểm “dân là gốc”. Đây là yêu cầu, đặc trưng cho sự tốt

đẹp của xã hội chúng ta. Với quan điểm lấy dân làm gốc thì mọi thiệt hại của

người dân do quá trình thu hồi đất gây ra đều được quan tâm, đền bù đầy đủ.

Phải vận dụng nhiều hình thức, phương thức đền bù khác nhau để đảm bảo

cho người dân sau khi trao trả quyền sử dụng đất sẽ có một cuộc sống ổn

định, văn minh và hiện đại, tiện nghi hơn trước, phải đảm bảo cho họ có một

công ăn việc làm ổn định với thu nhập cao hơn trước. Đồng thời cũng đảm

bảo cho họ hoà nhập vào với cuộc sống mới sau khi bị thu hồi đất. Khi coi

trọng quan điểm lấy dân làm gốc thì Nhà nước đôi khi phải hy sinh lợi ích

trước mắt để phục vụ cho lợi ích lâu dài, phải gắn việc thực hiện các lợi ích

kinh tế với lợi ích về văn hoá, xã hội và ổn định xã hội, đảm bảo an ninh. Cụ

thể, Nhà nước có thể đầu tư một khoản vốn lớn để thực hiện đền bù, các chính

sách giải phóng mặt bằng và sau giải phóng mặt bằng để đảm bảo cho dân có

đủ các quyền lợi chính đáng. Tuy nhiên, cần phải nghiên cứu một cơ chế khoa

học và hợp lý, sao cho tránh được những tiêu cực như tham nhũng, sách nhiễu

dân của các cán bộ thực hiện.

3.1.3. Đảm bảo cả lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài của nông dân

khi thu hồi đât của họ.

Đây là quan điểm chi tiết hoá, cụ thể hoá của quan điểm lấy dân làm gốc

nêu trên. Khi thực hiện thu hồi đất nông nghiệp, thì nhiệm vụ quan trọng là

phải coi quyền được có việc làm ổn định, thu nhập khá, đời sống ổn định

nhanh chóng trong môi trường mới của người nông dân là lợi ích kinh tế

chính đáng, hợp pháp của họ mà Nhà nước với vai trò là chủ thể đại diện cho

70

lợi ích xã hội và trọng tài, là người điều tiết mối quan hệ lợi ích này phải thực

hiện. Nếu coi nhẹ nhiệm vụ trên đây sẽ có nguy cơ mất ổn định xã hội, mất uy

tín của Nhà nước đối với dân.

Theo các chính sách hiện hành của Nhà nước, lợi ích của người nông dân

bị thu hồi đất chủ yếu là được nhận tiền bồi thường, được hỗ trợ đào tạo nghề để

chuyển đổi nghề nghiệp. Bên cạnh đó, người nông dân có thể được làm việc tại

các dự án; hoặc được góp vốn cổ phần vào các dự án bằng quyền sử dụng đất...

Tuy nhiên, trên thực tế, những lợi ích này của người nông dân còn chưa được

bảo đảm một cách hợp lý, dẫn đến các cuộc khiếu kiện đông người kéo dài, tiềm

ẩn những bất ổn về chính trị - xã hội, thể hiện ở những mặt sau đây:

Một là, mức giá và phương thức bồi thường hay hỗ trợ chưa hợp lý. Mặc

dù định hướng của Nhà nước là đền bù đầy đủ mọi thiệt hại cho nông dân khi

thu hồi đất, nhưng thực chất mới tính đến các thiệt hại hữu hình, chứ chưa

tính đến các thiệt hại vô hình mà người dân phải gánh chịu như: xáo trộn cuộc

sống bình thường, mất nghề nghiệp sinh sống phải đổi sang nghề khác, thay đổi

môi trường văn hóa và môi trường sinh thái... Mặt khác, hạn chế chủ yếu trong

phương thức bồi thường, hỗ trợ hiện nay là đều chi trả trực tiếp bằng tiền cho

người dân bị thu hồi đất, dẫn đến tình trạng người dân dùng tiền để mua sắm chứ

ít quan tâm đến học nghề, chuyển đổi nghề để tính sinh kế lâu dài.

Hai là, việc hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và bố trí việc làm mới cho

người nông dân sau thu hồi đất còn chưa đáp ứng được yêu cầu ổn định đời

sống lâu dài cho họ.

Việc hỗ trợ việc làm cho nông dân có đất bị thu hồi như đã nêu trên cũng

gặp nhiều khó khăn; một số nông dân bị thu hồi đất tự tìm kiếm việc làm tạm

bợ, thời vụ như: buôn bán nhỏ, chạy xe ôm, phụ hồ,...một số theo học các lớp

đào tạo nghề, nhưng do lựa chọn ngành nghề không phù hợp, nên dù có được

đào tạo nhưng vẫn thất nghiệp.

71

Ba là, chính sách tái định cư chưa được thực hiện nghiêm, gây nhiều bức

xúc trong nhân dân. Nhà ở tái định cư vừa thiếu về số lượng, vừa kém về chất

lượng; nhiều khu TĐC chưa đảm bảo tốt hơn hoặc bằng nơi ở cũ,... như đã

phân tích ở chương 2. Quán triệt quan điểm trên, cần tập trung giải quyết ba

vấn đề mấu chốt sau đây:

Sửa đổi và hoàn thiện chính sách bồi thường thiệt hại cho nông dân

khi bị thu hồi đất. Nhà nước chủ động điều tiết giá đất thông qua quan hệ

cung - cầu, theo nguyên tắc thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Bảng

giá đất cũng cần được xây dựng chi tiết hơn theo từng vị trí, từng vùng,

mục đích sử dụng và điều chỉnh kịp thời khi thị trường có biến động lớn

làm căn cứ để xác định nghĩa vụ tài chính, tính bồi thường khi Nhà nước

thu hồi đất. Bên cạnh các thiệt hại hữu hình, trong chính sách bồi thường

cần phải tính cả những thiệt hại vô hình mà người nông dân phải gánh

chịu như đã nói ở trên.

Cần đặc biệt chú ý hỗ trợ tạo việc làm cho người nông dân bị thu hồi

đất để ổn định lâu dài đời sống của họ, muốn vậy phải thực hiện hiệu quả

nhiều giải pháp. Bên cạnh việc đào tạo nghề cho lao động địa phương

theo các dự án, chính quyền địa phương cần phối hợp với các chủ đầu tư

dự án xây dựng kế hoạch đào tạo lao động trên cơ sở nhu cầu của dự án và

hiện trạng nhân lực của địa phương; chủ động đào tạo nghề đối với những

khu vực dự kiến chuyển mục đích sử dụng đất từ nông nghiệp sang phi

nông nghiệp; phối hợp chặt chẽ giữa cơ sở đào tạo, doanh nghiệp đóng

trên địa bàn và chính quyền địa phương trong việc sử dụng lao động.

Cần sửa đổi và thực hiện nghiêm chỉnh chính sách tái định cư cho

nông dân bị thu hồi đất, đảm bảo đồng bộ với các chính sách khác trong

quá trình thu hồi và chuyển đổi mục đích sử dụng đất. Cần có chính sách

khuyến khích, động viên và yêu cầu bắt buộc các doanh nghiệp - chủ dự

72

án thực hiện đúng tiến độ xây dựng nhà và bàn giao nhà bảo đảm về chất

lượng và kết cấu hạ tầng như điện, đường, trường, trạm phục vụ sinh hoạt

của nhân dân ở khu tái định cư,...

3.2. Những giải pháp chủ yếu

3.2.1. Triển khai đồng bô ̣ và quyết liê ̣t việc thực hiê ̣n các quy hoạch,

kế hoạch về phát triển công nghiệp và dịch vụ đã được phê duyệt

Thực tiễn gần 30 năm đổi mới và trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện

đại hóa ở nước ta nói chung, tỉnh Đồng Nai nói riêng, cho thấy, công tác quy

hoạch đóng vai trò quan trọng, bởi lẽ công tác quy hoạch bao giờ cũng đi

trước một bước, nó hoạch định chiến lược phát triển không gian kinh tế của

một quốc gia, một vùng lãnh thổ, một địa phương và là bức tranh toàn cảnh

về không gian phát triển của đất nước. Trong quá trình đổi mới, chuyển sang

kinh tế thị trường chức năng nhiệm vụ quy hoạch phát triển kinh tế xã hội nói

chung, quy hoạch, kế hoạch phát triển công nghiệp, dịch vụ nói riêng cần

được mở rộng.

Việc triển khai đồng bô ̣ và quyết liê ̣t việc thực hiê ̣n các quy hoạch, kế

hoạch về phát triển công nghiệp và dịch vụ đã được phê duyệt liên quan đến

việc giải quyết lợi ích kinh tế của các chủ thể trong quá trình thu hồi đất của

nông dân đã được Nghị quyết số 06 - NQ/TU ngày 09 tháng 01 năm 2007

của Tỉnh uỷ Đồng Nai (khóa VIII) về “Thực hiện chính sách bồi thường, hỗ

trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện quy hoạch và các dự

án đầu tư trên địa bàn”, xác định là: “Công tác quy hoạch và quản lý sau quy

hoạch của các cấp chính quyền có nơi còn hạn chế, yếu kém” [53]. Nhìn

chung tiến độ còn chậm do một số vướng mắc về cơ chế chính sách, nhất là

chính sách giá bồi thường quyền sử dụng đất. Công tác lãnh đạo, quản lý,

điều hành ở một số cấp, ngành, lĩnh vực trong giải quyết công việc còn chưa

thực sự quyết liệt, thiếu năng động, sáng tạo. Sự phối kết hợp của các cấp, các

73

ngành trong chỉ đạo, tổ chức quy hoạch còn chưa chặt chẽ, thiếu hiệu quả.

Năng lực của hệ thống quản lý công tác quy hoạch các cấp còn chưa đáp ứng

được yêu cầu thực tế. Thực hiện việc phân cấp quản lý trong khi lực lượng

cán bộ làm công tác quy hoạch tại các địa phương còn mỏng, yếu và thiếu

kinh nghiệm, chưa nắm vững nội dung, phương pháp thực hiện quy hoạch,

đặc biệt là đối với các đồ án quy hoạch nông thôn mới… Điều đó dẫn đến

nhiều quy hoạch thiếu cơ sở nghiên cứu bài bản, thậm chí là thiếu tính khả thi,

chưa khai thác được thế mạnh của từng ngành, địa phương, lĩnh vực.

Một số công trình, dự án trọng điểm triển khai còn chậm, chưa đáp ứng

tiến độ, dẫn đến không khớp nối được với các dự án khác trong cùng khu vực,

địa bàn, nên không phát huy được tính tích cực của quy hoạch tổng thể cũng

như hệ thống các quy hoạch đang được tổ chức thực hiện. Bên cạnh đó, mỗi

quy hoạch đều đòi hỏi nhiều lĩnh vực cùng tham gia để có được tiếng nói

chung, song với từng quy hoạch hiện nay sự phối hợp giữa các lĩnh vực, các

ngành chức năng và địa phương trong xây dựng quy hoạch còn chưa chặt chẽ.

Chính vì vậy, trong thời gian tới việc quy hoạch phải có tính tổng thể,

hài hòa, hệ thống và khoa học. Trong khi xây dựng quy hoạch phát triển cần

kết hợp hài hòa lợi ích trước mắt với lợi ích lâu dài của tỉnh để có chiến lược

chuyển đổi mục đích sử dụng đất hợp lý. Nếu quy hoạch không đảm bảo tính

hê ̣ thống, tính khoa học và tổng thể sẽ dẫn đến nhiều dự án bị quy hoạch treo,

nhiều dự án phải làm đi, làm lại nhiều lần, manh mún và tốn kém. Để giải

pháp này trở thành hiện thực cần thực hiện tốt các biện pháp cụ thể sau:

Một là, giáo dục cho cán bộ, đảng viên và nhân dân toàn tỉnh - đặc biệt là

với lực lượng làm quy hoạch, quán triệt sâu sắc về ý nghĩa, tầm quan trọng

của công tác quy hoạch, phải thấy được công tác quy hoạch là vấn đề chiến

lược, luôn phải đi trước một bước làm cơ sở cho việc đầu tư xây dựng công

trình. Thực hiện dân chủ công khai quy hoạch để nhân dân biết, bàn và tham

74

gia ý kiến góp phần thực hiện quy hoạch có tính khả thi. Tăng cường sự giám

sát chặt chẽ của cơ quan Nhà nước và nhân dân trong quá trình thực hiện quy

hoạch. Đồng thời tích cực tuyên truyền, tổ chức học tập pháp luật nhất là luật

xây dựng, luật đất đai (hiện đang có hiệu lực thi hành là luật đất đai năm

2013), luật nhà ở, luật kinh doanh bất động sản, làm cho mọi người dân hiểu

được nguyên tắc, thủ tục xây dựng cơ bản để thực hiện, phải triệt để tiết kiệm

đất đai và thực hiện theo đúng quy trình từ quy hoạch chung đến quy hoạch

chi tiết, giao đất, cấp giấy phép xây dựng.

Hai là, trên cơ sở quy hoạch chung, sớm lập quy hoạch chi tiết về phát

triển công nghiệp, dịch vụ đến từng huyện, thị, nếu chi tiết được đến các xã,

phường thì càng tốt để phân kỳ đầu tư cho hợp lý, có kế hoạch thực hiện trong

từng giai đoạn; ưu tiên bố trí ngân sách cho các công trình, ngành trọng điểm

đã xác định.

Ba là, nâng cao chất lượng và tăng cường quản lý, kiểm tra trong quá

trình thực hiện, phát hiện, xử lý kịp thời những việc làm sai trái không đúng

quy hoạch. Tăng cường phối hợp chặt chẽ giữa chính quyền các cấp, chủ đầu

tư để thực hiện có chất lượng, đúng tiến độ; tăng cường công tác giám sát,

phối hợp chặt chẽ giữa giám sát, tư vấn thiết kế và chủ đầu tư, khi cần phải

điều chỉnh quy hoạch phải thực hiện đúng quy trình đề ra.

Bốn là, trên cơ sở quy hoạch tổng thể đã có, tiến hành có chất lượng

công tác xây dựng các kế hoạch phát triển công nghiệp, dịch vụ trung và dài

hạn trên địa bàn toàn tỉnh, theo đó công bố công khai rộng rãi trên các phương

tiện thông tin đại chúng diện tích đất đai tại các địa bàn, khu vực dân cư có

đất sẽ bị thu hồi để người dân biết.

3.2.2. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách.

Hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách có vai trò hết sức quan trọng trong

quá trình phát triển chung, tác động trực tiếp đến quá trình thu hồi đất nông

75

nghiê ̣p cho phát triển các khu công nghiệp, dịch vụ của tỉnh, thông qua đó ảnh

hưởng trực tiếp đến việc giải quyết lợi ích kinh tế cho nông dân. Thông qua

cơ chế chính sách, các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế thể hiện rõ được

mục tiêu quản lý đã đề ra. Vì vậy, cơ chế chính sách phù hợp sẽ tạo điều kiện

cho quá trình phát triển các khu công nghiê ̣p, dịch vụ đúng tiến đô ̣. Ngược lại,

nếu không phù hợp, cơ chế chính sách sẽ phát triển khó khăn, quá trình

chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành chậm chạp và không đúng hướng.

Thực tế trong những năm vừa qua, mặc dù đã có rất nhiều cố gắng nhưng

hệ thống cơ chế chính sách thu hồi đất nông nghiê ̣p chưa thực sự phù hợp. Trong

nhiều trường hợp còn gây thiệt hại cho người nông dân. Chính điều đó đã dẫn

đến tiến đô ̣ xây dựng các dự án còn châ ̣m. Vì vậy, để thực hiê ̣n có hiê ̣u quả, đúng

tiến đô ̣ các dự án đã quy hoạch, cần hoàn thiện các cơ chế chính sách liên quan

trực tiếp đến lợi ích kinh tế của nông dân trên địa bàn. Cụ thể cần thực hiện tốt

các nội dung sau:

Mô ̣t là, hoàn thiê ̣n hê ̣ thống pháp luâ ̣t có liên quan đến các doanh nghiê ̣p

là chủ đầu tư vào xây dựng các khu công nghiê ̣p và dịch vụ

Việc hoàn thiện hệ thống pháp luâ ̣t có liên quan đến chính sách của Nhà

nước về giải quyết quan hệ lợi ích kinh tế trong thu hồi đất của nông dân cần

phải dựa trên Kết luận số 22-KL/TW ngày 25/5/2012 tại Hội nghị lần thứ năm

Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về việc tổng kết Nghị quyết Hội

nghị lần thứ bảy BCH Trung ương Đảng (khóa IX) về tiếp tục đổi mới chính

sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại

hoá đất nước; Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 31/10/2012 tại Hội nghị lần thứ

sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về tiếp tục đổi mới chính

sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi

mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công

nghiệp theo hướng hiện đại. Vấn đề sở hữu đất đai được xác định như sau:

76

“Đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là

nguồn sống của nhân dân, là tài sản, là nguồn lực to lớn của đất nước”. Do đó

phải tiếp tục khẳng định: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại

diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý”. Đồng thời quy định rõ ràng, cụ thể

hơn và thực thi đầy đủ, đúng đắn hơn các quyền của đại diện chủ sở hữu và

quyền thống nhất quản lý của Nhà nước như: “Quyền sử dụng đất cũng là một

loại tài sản và hàng hóa đặc biệt nhưng không phải là quyền sở hữu, người có

quyền sử dụng đất được chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại,

thừa kế, tặng cho, thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất và được bồi

thường khi Nhà nước thu hồi đất,... Nhà nước không thừa nhận việc đòi lại

đất đã được Nhà nước giao cho người khác sử dụng trong quá trình thực hiện

các chính sách đất đai, không đặt vấn đề điều chỉnh lại đất nông nghiệp đã

giao cho hộ gia đình, cá nhân nhưng nhà nước có chính sách phù hợp để đất

nông nghiệp được người trực tiếp sản xuất nông nghiệp sử dụng có hiệu quả

cao nhất”.

Chỉ đạo kiểm tra, rà soát việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất

làm cơ sở tổng kết rút kinh nghiệm đánh giá nghiêm túc công tác chỉ đạo và

tổ chức thực hiện nội dung này. Xây dựng kế hoạch sử dụng đất đến năm

2020 của từng huyện, và toàn tỉnh. Ban hành văn bản quy định về xử lý các vi

phạm trong quản lý sử dụng đất, trong đó vấn đề chính sách kinh tế để xử lý

đối với từng trường hợp vi phạm cụ thể, căn cứ quy hoạch sử dụng đất và thời

điểm vi phạm, tiến hành phân cấp rõ ràng để có cơ chế phân công chỉ đạo,

điều hành cụ thể đối với từng cấp trong việc xử lý vi phạm, chấm dứt tình

trạng quy định chung chung, không rõ ràng khiến việc xử lý vi phạm bị nữa

vời, không triệt để, quanh co, đổ lỗi giữa các cấp.

Nâng cao và tăng cường công tác tuyên truyền pháp luật, quy định về đất

đai, về chế tài xử lý đối với cán bộ lãnh đạo, các cán bộ vi phạm quy định về

77

xử lý đất đai, vi phạm về quản lý sử dụng đất, kể cả việc ban hành các văn

bản không phù hợp quy định của pháp luật. Việc vi phạm này cần xử lý bằng

hai hình thức kinh tế và hành chính.

Hai là, hoàn thiện chính sách tài chính đất đai, điều chỉnh chính sách phí

và lệ phí.

Đây là một nô ̣i dung quan trọng nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết quan

hệ lợi ích trong thu hồi đất của nông dân nói riêng và việc sử dụng đất đai nói

chung. Thực hiện vấn đề này sẽ đảm bảo việc giải quyết hài hòa mối quan hệ

lợi ích kinh tế cho các chủ thể tham gia. Trước hết, là đền bù cho người nông

dân bị thu hồi đất thỏa đáng, đầy đủ và hợp lý; thứ hai tăng nguồn thu vào

ngân sách nhà nước, đảm bảo lợi ích chung của xã hội; thứ ba tạo được hành

lang pháp lý rõ ràng, mạch lạc để các doanh nghiệp chủ dự án tính toán

phương án kinh doanh hợp lý, xác định đầy đủ trách nhiệm của mình đối với

việc tổ chức đền bù cho nông dân và nộp tiền thuê đất, lệ phí sử dụng đất. Bên

cạnh việc nghiên cứu để có chính sách về giá đất 5 năm theo Luật Đất đai

năm 2013 thay cho việc ban hành khung giá đất hàng năm như hiện nay trên

địa bàn tỉnh, ban hành văn bản quy định về quản lý giá đất và thành lập tổ

chức có chức năng giám định giá đất là đơn vị hoạt động theo cơ chế sự

nghiệp kinh doanh thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh quản lý.

Công khai các thông tin về quá trình thu hồi đất và chuyển đổi mục đích

sử dụng đất, công khai giá đất trên các phương tiện thông tin đại chúng đối

với các dự án thu hồi đất nông nghiệp.

Có chính sách khuyến khích, đòn bẩy phù hợp với các nhà đầu tư, các

doanh nghiệp chủ dự án trong việc phát triển các khu nhà ở phục vụ đối tượng

tái định cư trong giải phóng mặt bằng, cần có những quy định ràng buộc các

nhà đầu tư sử dụng đất trong các KCN, KDV có sử dụng lao động, có trách

nhiệm tham gia đầu tư xây dựng quỹ nhà ở xã hội để giảm bớt khó khăn cho

người lao động nghèo và lao động bị thu hồi đất.

78

Ba là, sửa đổi và hoàn thiện các chính sách việc làm, đền bù, bồi thường

thiệt hại, chính sách tái định cư, chính sách về trách nhiệm và nghĩa vụ của

các đơn vị được nhận đất thu hồi sử dụng vào các mục đích phát triển các khu

công nghiê ̣p và dịch vụ.

Đây có là một biê ̣n pháp nhằm tháo gỡ những khó khăn trong chuỗi mắt

xích của quá trình thu hồi đất nông nghiệp để xây dựng các khu công nghiê ̣p,

dịch vụ ở Đồng Nai. Các chính sách đền bù, bồi thường thiệt hại hiện nay,

mặc dù xuất phát từ quan điểm là đền bù mọi thiệt hại cho người nông dân bị

thu hồi đất, nhưng trên thực tế vì nguyên nhân chủ quan và khách quan mà

chính sách đó chưa thực hiện được đúng quan điểm chỉ đạo nêu trên. Vì vâ ̣y,

trong thời gian tới, cần phải được sửa đổi theo hướng:

Cách tính giá đất đền bù phải phù hợp với thực tế, tôn trọng cơ chế thị

trường, có như vậy người dân mới không bị thiệt thòi khi nhận tiền đền bù đất

đai và hoa màu, công trình xây dựng trên đó.

Bên cạnh các thiệt hại hữu hình, trong chính sách đền bù phải tính cả

những thiệt hại vô hình là thiệt hại về tâm lý, tinh thần khi người nông dân bị

buộc phải di dời ra khỏi môi trường sinh sống quen thuộc, cảnh quan sinh

hoạt quen thuộc, phải đổi nghề, đổi thói quen sinh hoạt. Các thiệt hại này đã

được nhiều nhà nghiên cứu chính sách bàn đến trên các phương tiện thông tin

đại chúng.

Chính sách tái định cư phải đồng bộ với các chính sách khác của quá

trình thu hồi và chuyển đổi mục đích sử dụng đất. Bao gồm các chính sách

khuyến khích động viên và các chính sách yêu cầu bắt buộc các doanh nghiệp

chủ dự án thực hiện đúng tiến độ xây dựng nhà và giao nhà tái định cư cho

người lao động bị thu hồi đất và các chính sách bố trí việc làm cho người lao

động, chính sách ưu tiên góp vốn đầu tư vào dự án của người nông dân bị thu

hồi đất.

79

3.2.3. Đẩy mạnh công tác đào tạo nghề, giúp nông dân có đất bị thu

hồi chuyển đổi nghề nghiệp để thích ứng với cuộc sống mới.

Quá trình phát triển công nghiệp, dịch vụ trong công nghiê ̣p hóa, đô thị

hóa đã tất yếu dẫn đến quá trình thu hồi đất của nông dân. Khi nông dân bị

thu hồi đất cũng đồng nghĩa với sự thiếu hụt về tư liê ̣u sản xuất chủ yếu. Thực

trạng đó buô ̣c những người nông dân bị thu hồi đất phải chuyển đổi nghề

nghiê ̣p. Tuy nhiên, để có thể thích nghi với công viê ̣c mới, họ phải có trình đô ̣

nhất định.

Hiện nay, ở Đồng Nai có trên 60% số người bị thu hồi đất do quá trình

phát triển các khu công nghiê ̣p, dịch vụ không có trình độ chuyên môn. Số

lượng lao đô ̣ng được thu hút vào các dự án công nghiê ̣p, dịch vụ rất thấp bởi

lẽ, họ không có trình đô ̣ chuyên môn. Trong khi đó, nhiều người sau khi nhận

tiền đền bù, tiền hỗ trợ đã sử dụng vào việc mua sắm phương tiện đi lại, vật

dụng sinh hoạt chứ không chú tâm đến việc học nghề, giải quyết việc làm; có

gia đình trở nên giàu có sau khi nhận tiền bồi thường, nhưng chỉ sau một vài

năm lại rơi vào tình trạng khó khăn do thất nghiệp. Thực trạng này cho thấy,

quá trình thu hồi đất nông nghiê ̣p, chưa gắn kết với quá trình tạo điều kiê ̣n

cho nông dân chuyển đổi nghề nghiê ̣p do không đủ tư liê ̣u sản xuất. Điều đó

cũng đồng nghĩa với viê ̣c chưa giải quyết được lợi ích cho người nông dân

mô ̣t cách thỏa đáng. Chính vì vậy, vấn đề đào tạo và đào tạo lại nghề cho

nông dân, nhất là nông dân bị thu hồi đất là giải pháp hiệu quả nhằm giải

quyết thỏa đáng lợi ích kinh tế cho nông dân.

Vấn đề đặt ra là, đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho người dân bị

thu hồi đất canh tác trên địa bàn tỉnh Đồng Nai trong thời gian tới phải được

đặt trong mối quan hệ tổng thể, gắn với quy hoạch chung đào tạo, phát triển

nguồn nhân lực của cả tỉnh, đồng thời phải tiến hành lồng ghép với các

chương trình phát triển kinh tế - xã hội, chương trình việc làm và nâng cao

80

hiệu quả sử dụng nguồn lực của tỉnh. Theo hướng đó, giải pháp tốt nhất được

thực hiện bằng các biện pháp cụ thể sau:

Thứ nhất, bảo đảm vai trò chủ đạo của ngân sách Nhà nước trong đào tạo

nghề cho nông dân.

Ngân sách Nhà nước đảm bảo đáp ứng các nhu cầu cơ bản về nâng cao

trình độ và khả năng được làm viê ̣c trong các khu công nghiê ̣p, dịch vụ cho

mọi người dân, đặc biệt là nông dân bị thu hồi đất, đối tượng chính sách,

người nghèo và các đối tượng trong diện được hỗ trợ. Ưu tiên chi ngân sách

nhà nước trong việc cung cấp các sản phẩm dịch vụ đào tạo nghề mang tính

chất hàng hóa công cộng như: đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, xây dựng

trường học, đầu tư mua sắm trang thiết bị giảng dạy và học tập. Tăng dần tỷ

trọng đầu tư từ ngân sách Nhà nước làm cho quỹ này trở thành một quỹ tài

chính mạnh trong hỗ trợ nông dân bị thu hồi đất canh tác học nghề, cần phải

lấy đó làm căn cứ thực tế để triển khai các hoạt động hỗ trợ cho đào tạo nghề

của người dân bị thu hồi đất canh tác. Trong đó, cần chú trọng đặc biệt tới

tăng dần tỷ trọng đầu tư cho đào tạo nghề dài hạn thay vì đầu tư chú trọng

đào tạo nghề ngắn hạn như hiện nay. Đây là biện pháp quan trọng giúp thay

đổi căn bản hiệu quả đầu tư cho đào tạo nghề chuyển đổi nghề nghiệp của

người nông dân Đồng Nai trong tiến trình đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ.

Thứ hai, thực hiện xã hội hóa công tác đào tạo nghề.

Khuyến khích việc xây dựng các cơ sở đào tạo nghề ngoài công lập được

quản lý như là một bộ phận hữu cơ trong hệ thống giáo dục quốc dân và được

khuyến khích giúp đỡ, hệ thống chương trình đào tạo theo quy định của pháp

luật. Nhà nước thực hiện hỗ trợ về thuế, đất đai và các chính sách hỗ trợ khác.

Khuyến khích các Doanh nghiệp, Tổng công ty, Tập đoàn đầu tư thành lập

các cơ sở đào tạo nghề, liên kết đào tạo nghề. Đồng thời, các cơ sở đào tạo

nghề được năng động, chủ động hơn trong việc tạo lập nguồn thu nhập chính

81

đáng và ổn định cho các cơ sở đào tạo nghề. Ví dụ, chủ động khai thác nguồn

tài trợ, viện trợ, quà biếu, tặng, nguồn ủng hộ từ các cựu học viên thành đạt,

mở rộng và nâng cao dịch vụ tư vấn đào tạo, tận dụng lợi thế từ vị trí địa lý,

vay các quỹ đầu tư để bổ sung nguồn lực tài chính nhằm đạt hiệu quả, nâng

cao uy tín thương hiệu của trường.

Thứ ba, mở rộng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong tổ chức cung

cấp dịch vụ đào tạo nghề đối với các cơ sở đào tạo nghề công lập.

Xây dựng cơ chế tự chủ tài chính để các đơn vị này phát huy được các

tiềm năng về nhân lực, tài lực và vật lực, gia tăng cung cấp dịch vụ đào tạo

cho xã hội, tăng thu, tiết kiệm chi, giảm dần sự bao cấp của ngân sách Nhà

nước, cải thiện đời sống cho đội ngũ cán bộ, công nhân viên trong đơn vị.

Cho phép phát triển, mở rộng quy mô đào tạo và tạo nguồn thu ngoài ngân

sách Nhà nước cho các cơ sở đào tạo nghề. Khuyến khích sáp nhập một số cơ

sở đào tạo nghề quy mô nhỏ (cùng khối ngành, lĩnh vực đào tạo) thành cơ sở

đào tạo quy mô lớn hơn để tăng khả năng cạnh tranh cung cấp nguồn nhân lực

chất lượng cao cho thị trường lao động.

Thứ tư, xác định rõ trách nhiệm và gắn kết trách nhiệm các bên trong hỗ

trợ đào tạo nghề cho người dân bị thu hồi đất canh tác.

Có sự phối hợp chặt chẽ giữa tất cả các chủ thể có liên quan đến thu hồi

đất trong việc đảm bảo ổn định đời sống của người dân: chính quyền, chủ đầu

tư dự án và người nông dân bị thu hồi đất. Chính quyền phải quy định bằng

văn bản có tính pháp lý về trách nhiệm của doanh nghiệp phải cùng chính

quyền tổ chức đào tạo và thu hút lao động tại chỗ, đồng thời phải kiểm tra

giám sát việc thực hiện trên thực tế; chủ đầu tư phải thực hiện nghiêm túc

cam kết của mình trong dự án; những người dân có đất bị thu hồi cũng phải

chủ động thực hiện kế hoạch học tập, tìm việc, tự tạo cho mình những công

việc phù hợp.

82

Hiện nay, việc xác định trách nhiệm hỗ trợ giải phóng mặt bằng, hỗ trợ

ổn định đời sống của các chủ đầu tư đối với người dân trong vùng bị thu hồi

đất canh tác là khá rõ ràng. Tuy nhiên, việc xác định trách nhiệm hỗ trợ đào

tạo nghề và trách nhiệm hỗ trợ tạo công ăn việc làm cho người lao động sau

khi đào tạo nghề của doanh nghiệp, chủ đầu tư còn chưa thực sự minh bạch.

Nếu như xác định rõ ràng trách nhiệm này và kêu gọi đầu tư từ chủ các dự án

sẽ là một nguồn tài chính đáng kể để phát triển đào tạo nghề cho người dân bị

thu hồi đất canh tác trên địa bàn tỉnh.

Thứ năm, đảm bảo tính minh bạch, công bằng và bền vững trong giải

quyết việc làm cho người bị thu hồi đất. Tính minh bạch đòi hỏi các cấp chính

quyền cần phối hợp với chủ đầu tư thông báo công khai cho người dân nơi có

đất bị thu hồi biết rõ kế hoạch cụ thể về đào tạo và tuyển dụng lao động vào

các doanh nghiệp của dự án. Tính công bằng đòi hỏi phải tuyển dụng đúng

những người có đất bị thu hồi đã được đào tạo và đã đảm bảo được các yêu

cầu của doanh nghiệp, tránh tình trạng tuyển dụng người ở nơi khác do thân

quen hoặc do những nguyên nhân khác, trong khi những người ở địa phương

lại không được tuyển dụng, mặc dù họ đáp ứng đủ yêu cầu. Tính bền vững đòi

hỏi việc làm mới phải có thu nhập thường xuyên, đủ để duy trì được cuộc

sống hàng ngày. Tránh tình trạng doanh nghiệp trả lương quá thấp, không đủ

trang trải cho các nhu cầu sinh hoạt của bản thân và gia đình họ, dẫn đến tình

trạng đình công, lãn công, bỏ việc như đã từng xảy ra ở một số địa phương

trong cả nước.

Thứ sáu, Nhà nước có chính sách hỗ trợ người dân bị thu hồi đất tạo việc

làm: chính sách khuyến nông, chính sách tín dụng... giúp người nông dân tạo

thêm việc làm trên diện tích đất còn lại như tăng vụ, phát triển chăn nuôi,

trồng trọt các giống cây con mới, đồng thời tạo việc làm ở những lĩnh vực

khác như phát triển tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp, kinh doanh dịch vụ

trong các khu công nghiệp, khu dịch vụ.

83

3.2.4. Hoàn thiện hệ thống quản lý, nâng cao năng lực công tác chuyên môn

của cán bộ thực hiện giải quyết lợi ích kinh tế cho các chủ thể.

Mọi hoạt động đều do con người thực hiện, việc thực hiện các hoạt động

này trong xã hội đều thông qua những tổ chức có những chức trách, nhiệm vụ

rõ ràng. Vì vậy hoàn thiện bộ máy quản lý Nhà nước cho hoạt động này là

một trọng những giải pháp quan trọng hàng đầu để nâng cao chất lượng giải

quyết lợi ích của nông dân trong thu hồi đất của họ cho việc xây dựng các khu

công nghiệp, khu dịch vụ. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng đây có thể là một

giải pháp có tính đột phá trong tăng cường hiệu quả và chất lượng của việc

quản lý Nhà nước về đất đai nói chung và giải quyết lợi ích trong thu hồi đất

nói riêng. Việc hoàn thiện hệ thống tổ chức bộ máy chính quyền các cấp có

liên quan đến việc giải quyết lợi ích kinh tế của các chủ thể trong quá trình

thu hồi đất của nông dân cũng đã được Nghị quyết số 06 - NQ/TU ngày 09

tháng 01 năm 2007 của Tỉnh uỷ Đồng Nai (khóa VIII) về “Thực hiện chính

sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện

quy hoạch và các dự án đầu tư trên địa bàn”, xác định: “Củng cố tổ chức bộ

máy và cán bộ làm công tác bồi thường các cấp theo hướng đủ về số lượng,

thành phần, đảm bảo về năng lực chuyên môn, đủ sức hoàn thành nhiệm vụ

được giao. Nâng cao trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ, chính quyền

địa phương trong việc tổ chức thực hiện thu hồi đất, giải phóng mặt bằng đi

liền với thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư” [53]. Do đó

cần được thực hiện triệt để.

Giải pháp này được thực thi trên cơ sở thực hiê ̣n tốt các nô ̣i dung sau:

Mô ̣t là, nhanh chóng ban hành những văn bản quy định rõ quyền hạn và

trách nhiê ̣m của các tổ chức liên quan đến bô ̣ máy quản lý Nhà nước về đất đai.

Cần ban hành những văn bản quy định rõ quyền hạn và trách nhiệm của

các tổ chức liên quan đến bộ máy quản lý Nhà nước về đất đai và giải quyết

84

lợi ích kinh tế trong thu hồi đất; cần có cơ chế phân công trách nhiệm rõ ràng,

phân cấp cụ thể, không để tình trạng chồng chéo chức năng giữa các cơ quan

như hiện nay trong việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở

hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất, mà việc cấp giấy này có vai trò

quan trọng trong việc xác định các mức đền bù cho người bị thu hồi đất; cần

tránh tình trạng phân trách nhiệm theo kiểu cát cứ và chồng chéo như Tổ chức

Phát triển quỹ đất, Ban giải phóng mặt bằng và Quỹ giải phóng mặt bằng như

hiện nay, cần có phương án sáp nhập các cơ quan có liên quan đến thu hồi đất

này thành một mối duy nhất. Cần xác định hình thức Tổ chức Phát triển quỹ

đất là loại hình doanh nghiệp nhà nước, thực hiện nhiệm vụ bồi thường, giải

phóng mặt bằng cho cả trường hợp thu hồi đất theo quy hoạch và thu hồi đất

theo dự án đã được giới thiệu địa điểm đầu tư (không sử dụng hình thức Hội

đồng bồi thường, hỗ trợ và tái định cư của từng dự án do UBND cấp huyện

thành lập như hiện nay). Tổ chức Phát triển quỹ đất được vay tiền từ hệ thống

ngân hàng đầu tư phát triển, quỹ đầu tư phát triển để thực hiện việc bồi

thường hỗ trợ, tái định cư. Tổ chức phát triển quỹ đất là đơn vị thực hiện

quyết định hành chính của cơ quan nhà nước về thu hồi đất và là đơn vị phối

hợp với các tổ chức xã hội, cộng đồng dân cư để đảm bảo tính đồng thuận

giữa các bên tham gia và việc chia sẻ quyền lợi giữa các bên có chung quyền

lợi, làm giảm được tác động trực tiếp của bộ máy hành chính lên cơ chế

chuyển dịch đất đai bắt buộc.

Hai là, bố trí đội ngũ cán bộ có đủ trình độ và phẩm chất để đảm nhiệm

công việc khó khăn phức tạp và vô cùng nhạy cảm này. Cùng với việc có

những cán bộ đáp ứng nhu cầu công việc thì việc đào tạo bồi dưỡng cán bộ

chuyên trách, đủ nghiệp vụ chuyên môn cũng cần được quan tâm hơn. Có

chiến lược đào tạo và tuyển dụng đội ngũ công chức sao cho phù hợp với thực

tế công việc một cách thiết thực, không tốn thời gian làm quen và học tập

vòng vèo.

85

Ba là, thực hiê ̣n chế độ thưởng phạt thích hợp đối với công chức thi hành

nhiệm vụ có liên quan đến giải quyết quan hệ lợi ích kinh tế của các chủ thể

trong quá trình thu hồi đất của nông dân. Việc thưởng phạt này phải có khả

năng khuyến khích và răn đe rõ ràng chứ không phải chỉ mang ý nghĩa tượng

trưng. Vì vậy, việc thưởng phạt cần kết hợp giữa biện pháp hành chính với

kinh tế.

Bốn là, đơn giản hóa các thủ tục hành chính có liên quan đến đền bù giải

phóng mặt bằng, chuyển nhượng quyền sử dụng đất và bất động sản để giảm

chi phí giao dịch cho các chủ thể kinh tế như: các thủ tục liên quan đến lập và

xét duyệt dự án đầu tư; các thủ tục liên quan đến việc cấp giấy chứng nhận

quyền sử dụng đất; các thủ tục xét duyệt giá cả đền bù khi thu hồi đất; các thủ

tục liên quan đến bố trí tái định cư cho người bị thu hồi đất; các thủ tục liên

quan đến đào tạo nghề, tạo việc làm cho người bị thu hồi đất.

Năm là, tăng cường vai trò lãnh đạo của các cấp ủy Đảng. Trước hết cần

nâng cao nhận thức lý luận kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, lý

luận về địa tô của C.Mác cho cán bộ lãnh đạo Tỉnh ủy và những cán bộ đảng

viên trực tiếp tham gia và giải quyết các mối quan hệ lợi ích trong thu hồi đất

chuyển đổi mục đích sử dụng đất. Mở các lớp tập huấn cho lãnh đạo và đảng

viên về công tác giải phóng mặt bằng và công tác giải quyết quan hệ lợi ích

trong thu hồi đất. Tăng cường kiến thức pháp luật về đất đai cho cán bộ và

đảng viên.

Sáu là, nâng cao nhận thức của người dân về pháp luật và ý nghĩa, tầm

quan trọng của việc phát triển các khu công nghiệp và khu dịch vụ trong phát

triển kinh tế - xã hội. Người dân có đất bị thu hồi cần được tuyên truyền, giáo

dục để hiểu rõ lợi ích lâu dài của tỉnh nói riêng và của cả nước nói chung để

nhận thức rõ việc giao lại đất đai của mình là một việc làm cần thiết, đó vừa

là quyền lợi vừa là trách nhiệm của người dân để họ có tinh thần hợp tác vì lợi

86

ích chung. Mặt khác cũng tuyên truyền để họ thấy rõ chính sách công bằng

của nhà nước trong việc giải quyết các lợi ích kinh tế của họ. Khuyến khích

họ chủ động, nỗ lực hòa nhập vào cuộc sống mới như một cơ hội để thay đổi

và nâng cao chất lượng cuộc sống của mình. Nếu làm tốt được công tác này

việc giải phóng mặt bằng sẽ diễn ra thuận lợi. Mặt khác, cần phải nâng cao ý

thức pháp luật cho người dân để họ không chỉ hiểu rõ trách nhiệm, nghĩa vụ

của mình mà còn hiểu rõ quyền lợi chính đáng của họ, để họ sẽ là người giám

sát bộ máy quản lý và tổ chức thực hiện tiến hành công việc theo đúng luật.

* *

*

Dựa vào quan điểm và chính sách của Đảng và Nhà nước, trên cơ sở các

chủ trương của Tỉnh ủy, và các quy định cụ thể của Ủy ban nhân dân tỉnh

Đồng Nai trong việc thu hồi đất để phát triển công nghiệp và dịch vụ thông

qua việc xây dựng các khu công nghiệp và dịch vụ, chương 3 của luận văn

được tác giả dành cho việc giải quyết các mâu thuẫn đặt ra đã được trình bày

phân trích kỹ ở chương 2 nhằm làm cho quá trình thu hồi đất, có mặt bằng

giao cho các doanh nghiệp là nhà đầu tư để tiếp tục phát triển công nghiệp và

dịch vụ trong quá trình CNH, HĐH ở Đồng Nai thời gian tới, góp phần đưa

Đồng Nai cùng cả nước cán đích mục tiêu cơ bản trở thành nước, tỉnh công

nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020, một hệ thống các quan điểm và

giải pháp đã được tác giả luận văn đề xuất và phân tích kỹ lưỡng. Hệ thống

quan điểm và giải pháp đó là một chỉnh thể đòi hỏi phải được tôn trọng trong

quá trình tổ chức thực hiện. Việc thực hiện tốt uyển chuyển các quan điểm và

giải pháp nói trên sẽ giải quyết được những vấn đề đang cản trở quá trình phát

triển công nghiệp và dịch vụ ở Đồng Nai từ việc thu hồi đất.

87

KẾT LUẬN

1. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước tất yếu dẫn đến sự

hình thành các khu công nghiê ̣p và dịch vụ, các khu đô thị mới - chúng xuất

hiện trên cơ sở Nhà nước thu hồi đất của nông dân để giao cho các chủ đầu tư

có mặt bằng xây dựng doanh nghiệp. Quá trình phát triển lĩnh vực này cũng

đã làm xuất hiện ở Đồng Nai việc thu hồi một diện tích đất nông nghiệp và

phi nông nghiệp của nông dân để đáp ứng yêu cầu của các dự án. Việc làm đó

đặt ra đòi hỏi các lợi ích kinh tế của nông dân phải gắn liền với đất đai thu

hồi, giải quyết lợi ích kinh tế đối với nông dân bị thu hồi đất.

2. Nhận thức rõ được tầm quan trọng trong việc giải quyết lợi ích kinh tế

của nông dân bị thu hồi đất cho phát triển công nghiệp và dịch vụ thông qua

việc xây dựng các khu công nghiệp, khu dịch vụ. Trong những năm qua, Tỉnh

ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh, lãnh đạo các ban ngành của

tỉnh và chính quyền địa phương các huyện, thị xã, thành phố đã quan tâm giải

quyết lợi ích kinh tế đối với nông dân bị thu hồi đất trên cơ sở các quy định

Nhà nước đặt trong bối cảnh tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Đồng Nai. Tuy

nhiên, thực tiễn cho thấy, vấn đề thu hồi và giải quyết quyền lợi của nông dân

bị thu hồi đất luôn là vấn đề nhạy cảm và có những khó khăn, phức tạp. Do đó

quá trình tổ chức thực hiện các quy định của Nhà nước về giải quyết lợi ích

của nông dân bị thu hồi đất vẫn tồn tại những bất cập đã xuất hiện những mâu

thuẫn cần giải quyết, đó là: 1). Mâu thuẫn giữa bảo đảm lợi ích nông dân với

chính sách ưu đãi cho các doanh nghiệp trong phát triển các khu công nghiệp

và dịch vụ; 2). Mâu thuẫn giữa yêu cầu trình độ chuyên môn để được làm

việc trong các khu công nghiệp với thực trạng chưa được đào tạo của một bộ

phận không nhỏ nông dân thiếu đất canh tác. 3). Mâu thuẫn giữa tốc độ phát

triển nhanh của các khu công nghiệp với tốc độ phát triển các khu tái định cư

cho nông dân.

88

3. Để giải quyết vấn đề đặt ra, phát huy những kết quả đã đạt được trong

thu hồi và giải quyết lợi ích cho nông dân có đất bị thu hồi, để tiếp tục phát

triển công nghiệp và dịch vụ trong quá trình CNH, HĐH ở Đồng Nai cần

quán triệt và thực hiện tốt các quan điểm chỉ đạo: tôn trọng cơ chế thị trường

trong giải quyết lợi ích kinh tế của người bị thu hồi đất; giải quyết hài hòa lợi

ích kinh tế của các chủ thể có liên quan đến việc thu hồi đất của nông dân để

xây dựng các khu công nghiệp và khu dịch vụ; dân phải được đảm bảo cả lợi

ích trước mắt với lợi ích lâu dài. Thực hiện các quan điểm đó cần thực hiện

tốt những giải pháp chủ yếu, đó là: 1). Triển khai thực hiê ̣n đồng bô ̣, quyết

liê ̣t quy hoạch, kế hoạch phát triển công nghiệp, dịch vụ đã được phê duyệt;

2). Hoàn thiện hệ thống chính sách của Nhà nước về giải quyết lợi ích kinh tế

trong thu hồi đất của nông dân để xây dựng các khu công nghiệp và khu dịch

vụ; 3). Đẩy mạnh công tác đào tạo nghề, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực

nhằm đáp ứng nhu cầu chuyển đổi nghề nghiệp của nông dân; 4). Hoàn thiện

công tác tổ chức và hoạt động của các cơ quan quản lý Nhà nước đối với việc

giải quyết lợi ích kinh tế giữa các chủ thể có liên quan đến thu hồi đất.

4. Giải quyết lợi ích kinh tế cho nông dân bị thu hồi đất trong phát triển

các khu công nghiệp và dịch vụ, tuy đã xuất hiện ở Nước ta và Đồng Nai từ

khi đất nước tiến hành đổi mới, nhưng đây vẫn là vấn đề mới mẻ và phức tạp,

đòi hỏi phải có những công trình nghiên cứu quy mô lớn và cấp độ cao mang

tính toàn diện và tổng thể. Trong khuôn khổ một luận văn Thạc sĩ chuyên

ngành kinh tế chính trị, tác giả mới chỉ đi vào một trong những lát cắt của cái

chung đó ở tỉnh Đồng Nai. Những nghiên cứu trong luận văn mới là những

kết quả bước đầu chủ yếu được thể hiện ở phạm vi rộng và khái quát. Trong

tương lai, nếu có điều kiện trở lại đề tài này ở một công trình nghiên cứu lớn

và sâu hơn, chắc chắn các vấn đề nghiên cứu được đề cập sẽ phong phú, toàn

diện và sâu sắc hơn.

89

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Đức Bách (1988), Quan hệ giữa lợi ích kinh tế xã hội, tập thể và

cá nhân người lao động trong chặng đường đầu tiên thời kỳ quá độ lên

chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, luâ ̣n án Phó tiến sĩ triết học.

2. Bàn về các lợi ích kinh tế (1982), Nxb, Sự thật, Hà Nội.

3. Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam (2000), Nghị định số 24/2000/NĐ-

CP ngày 31/7/2000 ưu đãi đầu tư về thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế

nhập khẩu, thuế trị giá gia tăng và tiền thuê đất.

4. Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam (2003), Nghị định số 27/2003/NĐ-

CP ngày 19/3/2003 ưu đãi đầu tư về thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế

nhập khẩu, thuế trị giá gia tăng và tiền thuê đất.

5. Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam (2003), Nghị định số 158/2003/NĐ-

CP ngày 10/12/2003 ưu đãi đầu tư về thuế trị giá gia tăng.

6. Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam (2003), Nghị định số 164/2003/NĐ-

CP ngày 22/12/2003 ưu đãi đầu tư về thuế thu nhập doanh nghiệp.

7. Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam (2004), Nghị định số 147/2004/NĐ-

CP ngày 23/7/2004 ưu đãi đầu tư về thuế thu nhập cá nhân.

8. Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam (2004), Nghị định số 148/NĐ-CP

ngày 23/7/2004 ưu đãi đầu tư về thuế trị giá gia tăng.

9. Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam, (2004), Nghị định số

152/2004/NĐ-CP ngày 06/8/2004 ưu đãi đầu tư về thuế thu nhập doanh

nghiệp.

10. Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam (2006), Nghị định số

108/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 ưu đãi đầu tư về thuế thu nhập doanh

nghiệp, thuế nhập khẩu, thuế sử dụng đất, tiền sử dụng đất, tiền thuê đất

và tiền thuê mặt nước.

90

11. Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam (2007), Nghị định 123/2007/NĐ-

CP ngày 27/7/2007, phương pháp xác định giá đất và khung giá các

loại đất.

12. Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam (2004), Nghị định số 197/2004/NĐ-

CP ngày 3/12/2004 về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư.

13. Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam (2009), Nghị định số 69/2009/NĐ-

CP ngày 13/08/2009 về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi

thường, hỗ trợ và tái định cư.

14. Vũ Văn Chiêu (2013), Ảnh hưởng của viê ̣c thu hồi đất nông nghiê ̣p đến

đời sống người dân trên địa bàn thành phố Biên Hòa - tỉnh Đồng Nai,

luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Nông lâm thành phố Hồ Chí Minh.

15. Nguyễn Viết Chung (1962), Nông dân và công nghiệp hoá xã hội chủ

nghĩa, Nxb Sự thật, Hà Nội.

16. Vương Đình Cường (1992), Lợi ích kinh tế nông dân ở nước ta hiện nay,

luận án Phó tiến sĩ kinh tế, Học viện Nguyễn Ái Quốc, Hà Nội.

17. Đảng bộ tỉnh Đồng Nai (2000), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh

Đồng Nai lần thứ VII nhiệm kỳ 2000 - 2005.

18. Đảng bộ tỉnh Đồng Nai (2005), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh

Đồng Nai lần thứ VIII nhiệm kỳ 2005 - 2010.

19. Đảng bộ tỉnh Đồng Nai (2010), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh

Đồng Nai lần thứ IX nhiệm kỳ 2010 - 2015.

20. Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần

thứ VI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

21. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần

thứ VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

22. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần

thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

91

23. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần

thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

24. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần

thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

25. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần

thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

26. Đặng Quang Định (2010), Thống nhất lợi ích kinh tế giữa giai cấp công

nhân, nông dân và tầng lớp trí thức trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở

Việt Nam hiện nay, luận án Tiến sĩ triết học.

27. Đào Duy Huân (2007), “Lợi ích kinh tế - động lực thu hút mọi nguồn lực

cho phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Phát triển

kinh tế, số 200.

28. Nguyễn Duy Hùng (1988), Bàn về sự hình thành và kết hợp các lợi ích kinh

tế trong nông nghiệp tập thể, luận án Tiến sĩ kinh tế, Học viện Nguyễn Ái

Quốc, Hà Nội.

29. Phạm Quang Hưng (2013), Lợi ích kinh tế của nông dân trong quá trình

công nghiê ̣p hóa, hiê ̣n đại hóa ở Hà Nội, luâ ̣n văn Thạc sỹ kinh tế.

30. Huyện Long Thành, Trung tâm Phát triển quỹ đất (2014), Báo cáo tình hình

thực hiện Nghị quyết số 06-NQ/TU của Tỉnh ủy và Nghị quyết số

43-NQ/HU trong 06 tháng đầu năm 2014 về thực hiện chính sách bồi

thường, hỗ trợ, tái định cư trên địa bàn huyện Long Thành.

31. Nguyễn Linh Khiếu (1999), Lợi ích động lực phát triển xã hội, Nxb. Khoa

học xã hội, Hà Nội.

32. Nguyễn Linh Khiếu (2002), Góp phần nghiên cứu mối quan hệ lợi ích, Nxb.

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

33. Vũ Ngọc Kỳ (2005), Một số vấn đề về nông nghiệp, nông thôn, nông dân,

hội nông dân ở Việt Nam, Nxb Nông nghiệp.

92

34. Trần Thị Lan (2012), Quan hệ lợi ích kinh tế trong thu hồi đất của nông dân

để xây dựng các khu công nghiệp và khu đô thị mới ở Hà Nội, luận án Tiến

sĩ kinh tế, Học viê ̣n chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

35. Lápriencô.V.N (1978), Những vấn đề lợi ích trong chủ nghĩa Lênin, Nxb.

Tư tưởng, Mátxcơva.

36. Ung Thị Minh Lệ (1996), Hệ thống lợi ích kinh tế và các quan hệ phân

phối trong việc thực hiện chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã

hội Việt Nam, luâ ̣n án Phó tiến sĩ kinh tế.

37. Hoàng Văn Luận (2000), Lợi ích động lực của sự phát triển bền vững,

luận án Tiến sĩ, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn.

38. C.Mác, Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, t.18, Nxb. Chính trị quốc gia,

Hà Nội, 1995.

39. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam (2013), Luật Đất đai, Quốc hội

khóa 13 ban hành theo Luật số 45/2013/QH13 ngày 29/11/2013.

40. Hồ Tấn Phong (1993), “Lợi ích kinh tế - một số vấn đề lý luận và thực

tiễn”, Tạp chí Phát triển kinh tế, số 27.

41. Sở Lao động - Thương binh - Xã hội tỉnh Đồng Nai (2007), Báo cáo

tổng kết tình hình thực hiện nhiệm vụ công tác năm 2007, phương

hướng, nhiệm vụ công tác năm 2008.

42. Sở Lao động - Thương binh - Xã hội tỉnh Đồng Nai (2008), Báo cáo

tổng kết tình hình thực hiện nhiệm vụ công tác năm 2008, phương

hướng, nhiệm vụ công tác năm 2009.

43. Sở Lao động - Thương binh - Xã hội tỉnh Đồng Nai (2009), Báo cáo

tổng kết tình hình thực hiện nhiệm vụ công tác năm 2009, phương

hướng, nhiệm vụ công tác năm 2010.

93

44. Sở Lao động - Thương binh - Xã hội tỉnh Đồng Nai (2010), Báo cáo

tổng kết tình hình thực hiện nhiệm vụ công tác năm 2010, phương

hướng, nhiệm vụ công tác năm 2011.

45. Sở Lao động - Thương binh - Xã hội tỉnh Đồng Nai (2011), Báo cáo

tổng kết tình hình thực hiện nhiệm vụ công tác năm 2011, phương

hướng, nhiệm vụ công tác năm 2012.

46. Sở Lao động - Thương binh - Xã hội tỉnh Đồng Nai (2012), Báo cáo tổng

kết tình hình thực hiện nhiệm vụ công tác năm 2012, phương hướng,

nhiệm vụ công tác năm 2013.

47. Sở Tài nguyên và môi trường, Chi cục Quản lý đất đai (2014), Đánh giá

kết quả thực hiện và những giải pháp sắp tới để giải quyết, bố trí tái

định cư cho các hộ có đất thu hồi trên địa bàn tỉnh từ sau khi sơ kết

Nghị quyết 06-NQ/TU đến 2013.

48. Đỗ Nhật Tân (1991), Vai trò động lực của lợi ích kinh tế đối với sự

nghiệp xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở

Việt Nam hiện nay, luâ ̣n án Phó tiến sĩ triết học.

49. Phạm Thắng (1997), Giải pháp để kết hợp các lợi ích kinh tế trong doanh

nghiệp Nhà nước ở Việt Nam hiện nay qua khảo sát các doanh nghiệp Nhà

nước tại thành phố Hồ Chí Minh, luâ ̣n án Phó tiến sĩ kinh tế.

50. Thủ tướng Chính phủ (2004), Quyết định số 53/2004/QĐ.TTg ngày

5/4/2004 về “Ưu đãi đầu tư về thuế thu nhập doanh nghiệp”.

51. Thủ tướng Chính phủ (2008), Quyết định số 73/2008/QĐ-TTg ngày

04/6/2008 về “Phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội

tỉnh Đồng Nai đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030”.

52. Tỉnh uỷ Đồng Nai (2013), Báo cáo số 249-BC/TU ngày 28/11/2013, đánh

giá kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ IX Đảng bộ tỉnh Đồng

Nai nữa nhiệm kỳ.

94

53. Tỉnh uỷ Đồng Nai (2007), Nghị quyết của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh

(khóa VIII) số 06 - NQ/TU ngày 09 tháng 01 năm 2007, về “Thực hiện

chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất để

thực hiện quy hoạch và các dự án đầu tư trên địa bàn”.

54. Tỉnh uỷ Đồng Nai (2007), Báo cáo số 196 - BC/TU, ngày 29 tháng 5 năm

2013, Sơ kết 06 năm thực hiện Nghị quyết số 06-NQ/TU ngày 09/01/2007

của Tỉnh ủy về “Thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi

Nhà nước thu hồi đất để thực hiện quy hoạch và các dự án đầu tư trên địa

bàn tỉnh”.

55. Tỉnh uỷ Đồng Nai (2013) Thông báo ngày 16 tháng 7 năm 2013, kết luận

của Ban Thường vụ Tỉnh ủy tại Hội nghị sơ kết 06 năm thực hiện Nghị

quyết 06-NQ/TU ngày 09/01/2007 của BCH Đảng bộ tỉnh (khóa VIII) về

“Thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu

hồi đất để thực hiện quy hoạch và các dự án đầu tư trên địa bàn tỉnh”.

56. Trường Đại học Kinh tế Quốc dân (2011), Bàn về chính sách an sinh xã hội

với người nông dân sau khi thu hồi đất để phát triển các khu công nghiệp.

57. Chử Văn Tuyên (1998), Lợi ích kinh tế của người lao động và vận dụng nó

vào lực lượng vũ trang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt

Nam, luâ ̣n án Tiến sĩ quân sự, Học viê ̣n Chính trị quân sự.

58. Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai (2008), Quyết định số 12/2008/QĐ-UBND

ngày 12 tháng 8 năm 2008 về “Hỗ trợ dịch vụ y tế cho người thuộc diện tái

định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Đồng Nai”.

59. Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai (2008), Quyết định số 05/2008/QĐ-UBND

ngày 15 tháng 01 năm 2008 về “Hỗ trợ học phí cho con em nhân dân thuộc

diện tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Đồng Nai”.

60. Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai (2008), Quyết định số 26/2008/QĐ-UBND

ngày 7 tháng 4 năm 2008 về “Đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho nhân

dân thuộc diện thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Đồng Nai”.

95

61. Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai (2010), Quyết định số 42/2010/QĐ-UBND

ngày 26 tháng 7 năm 2010 về “Mức bồi thường, hỗ trợ đối với đất và tài

sản trên đất do hạn chế khả năng sử dụng đất thuộc hàng lang an toàn lưới

điện cáo áp trên không áp dụng trên địa bàn tỉnh Đồng Nai”.

62. Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai (2010), Quyết định số 73/2010/QĐ-UBND

ngày 3 tháng 12 năm 2010 về “Trình tự, thủ tục cưỡng chế thu hồi trên địa

bàn tỉnh Đồng Nai”.

63. Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai (2012), Quyết định số 12/2012/QĐ-UBND

ngày 24 tháng 02 năm 2012 về “Giá đất bồi thường, hỗ trợ tài sản khi Nhà

nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Đồng Nai”.

64. Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai (2012), Quyết định số 13/2012/QĐ-UBND

ngày 24 tháng 02 năm 2012 về “Cấp bù chênh lệch giá đất khi thu tiền sử

dụng đất đối với các hộ tái định cư”.

65. Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai (2012), Quyết định số 14/2012/QĐ-UBND

ngày 24/02/2012 về “Đơn giá xây dựng nhà ở để bồi thường khi Nhà nước

thu hồi đất, để bán nhà thuộc sở hữu Nhà nước cho người đang thuê, để

định giá trong các vụ án của Toà án, thi hành án và để đánh giá trong các

nghiệp vụ kinh tế khác trên địa bàn tỉnh Đồng Nai”.

66. Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai (2012), Quyết định số 25/2012/QĐ-UBND

ngày 3 tháng 4 năm 2012 về “Chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư

khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Đồng Nai”.

67. Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai (2012), Quyết định số 26/2012/QĐ-UBND

ngày 3 tháng 4 năm 2012 về “Trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định

cư và thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất trên địa bàn tỉnh Đồng Nai”.

68. Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai (2014), Quyết định Số 20/QĐ-UBND,

ngày 06 tháng 01 năm 2014 về “Phê duyệt Đề án xây dựng cơ chế hỗ trợ

thu hút đầu tư đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa có vốn đầu tư nước ngoài

trên địa bàn tỉnh Đồng Nai”.

96

69. Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai, Ban Quản lý các khu công nghiệp (2014),

Báo cáo số 1002/KCNĐN- QHXD, ngày 10/7/2014, thống kê tình hình xây

dựng và phát triển các KCN 6 tháng đầu năm 2014.

70. Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai, Ban quản lý các khu công nghiệp (2014),

Báo cáo số 84/BC-KCNĐN, ngày 14/7/2014, tình hình thực hiện nhiệm vụ

tháng 7/2014 (từ ngày 16/6/2014 đến ngày 14/7/2014).

97

PHỤ LỤC

Phụ lục số 1:

BẢNG TỔNG HỢP TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CÔNG TÁC BỒI

THƯỜNG, HỖ TRỢ VÀ TÁI ĐỊNH CƯ TỪ NĂM 2007 ĐẾN 31/12/2012

Tổng diện Số dự án Tổng số Tổng diện Tỷ lệ tích đã giải Tỷ lệ STT Đơn vị đã hoàn dự án tích (ha) (%) phóng mặt (%) thành bằng (ha)

Thành phố Biên 125 597 27 21.6 50 8.4 1 Hòa

Thị xã Long 51 656.6 38 74.5 410.4 62.5 2 Khánh

Huyện Long 166 10.707,56 35 21.1 1.249,87 11.7 3 Thành

Huyện Nhơn 230 6.903 35.7 801.6 11.6 82 4 Trạch

29 868.53 42.6 408.18 47.0

104 5 Huyện Trảng Bom 68 150 993.82 69.3 423.88 42.7 6 Huyện Vĩnh Cửu

46 46 134.86 100 134.86 100 7 Huyện Định Quán

21 25 83.36 84.0 79.59 95.0 8 Huyện Tân Phú

Huyện Thống 30 47 1.148,03 63.8 763.37 66.5 9 Nhất

47 52 818.693 90.4 626.693 76.5 10 Huyện Xuân Lộc

36 1.760,86 29.00 80.6 902.44 51.3 11 Huyện Cẩm Mỹ

Tổng cộng 996 24.672,3 488 49 5.850,9 23.7

Nguồn: Báo cáo Nghị Quyết số 06-NQ/TU

Phụ lục số 2:

98

BẢNG TỔNG HỢP TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CÔNG TÁC BỐ

TRÍ TÁI ĐỊNH CƯ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẾN NĂM 2014

Số hộ phải bố trí tái định cư

STT Đơn vị

Đã xét TĐC Chưa xét TĐC Thời gian dự kiến bố trí Tổng số hộ phải bố trí TĐC Số hộ đã bố trí TĐC (7/2014) Số hộ chưa bố trí tái định cư (7/2014)

Thành phố Biên Hòa 2.205 1617 588 588 1 0 Trong năm 2014

11 2 Thị xã Long Khánh 47 36 36 0 Trong năm 2014

0 3 Huyện Long Thành 97 0 0 0

96 4 Huyện Nhơn Trạch 140 44 44 0

86 5 Huyện Trảng Bom 110 24 24 0 Trong năm 2014 Trong năm 2014 Trong năm 2014

0 6 Huyện Vĩnh Cửu 37 0 0 0

0 7 Huyện Định Quán 65 0 0 0

0 8 Huyện Tân Phú 1 0 0 0 Trong năm 2014 Trong năm 2014 Trong năm 2014

0 9 Huyện Thống Nhất 0 0 0 0

0 10 Huyện Xuân Lộc 0 0 0 0

0 11 Huyện Cẩm Mỹ 0 0 0 0

- Tổng cộng 2.702 1.810 692 692

Nguồn: Báo cáo Nghị Quyết số 06-NQ/TU.

99

Phụ lục số 3:

BẢNG TỔNG HỢP TÌNH HÌNH TÁI ĐỊNH CƯ PHÁT SINH PHẢI

BỐ TRÍ TÁI ĐỊNH CƯ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẾN NĂM 2014

Số hộ phát sinh

STT Đơn vị

Thời gian dự kiến bố trí Chưa xét TĐC Đã xét TĐC Số hộ chưa bố trí tái định cư (7/2014) Số hộ tái định cư phát sinh phải bố trí đến tháng 7/2014 Tổng số hộ còn nợ TĐC đến tháng 7/2014 mà chưa bố trí

Trong năm Thành phố 588 178 0 766 1 2014 Biên Hòa

Thị xã Trong năm Long 2 36 0 0 36 2014 Khánh

Huyện Trong năm 3 24 0 0 24 Trảng bom 2014

Huyện Trong năm Nhơn 4 44 210 0 254 2014 Trạch

Trong năm Huyện Tân 5 0 57 0 57 2014 Phú

1.137 Tổng cộng 692 445

Nguồn: Báo cáo Nghị Quyết số 06-NQ/TU.

100

Phụ lục số 4:

BẢNG TỔNG HỢP DANH MỤC CÁC DỰ ÁN TÁI ĐỊNH CƯ ĐÃ VÀ

ĐANG TRIỂN KHAI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẾN NĂM 2014

Diện Kết quả STT Tên công trình Huyện tích Ghi chú đến nay (ha)

Đã sử Long Đã có QĐ 21.08 dụng 1 Khu tái định cư Bảo Vinh Khánh giao đất 18,53ha

Khu tái định cư - khu dân cư - Đã có QĐ Long Thành 20.15 2 TTTM & TTHC

giao đất Đã có QĐ Nhơn Trạch 6.49 3 Khu tái định cư

giao đất Đã có QĐ Thống Nhất 6.30 4 Khu tái định cư Bàu Hàm II

giao đất Đã có QĐ Trảng Bom 7.00 5 Khu tái định cư phục vụ di dời

Khu tái định cư phường Long giao đất Đã có QĐ Biên Hòa 4.00 6 Bình (khu X28)

giao đất Đã có QĐ Long Thành 0.30 7 Khu tái định cư

giao đất Đã có QĐ Vĩnh Cửu 0.80 8 Khu tái định cư khu phố 8A

giao đất Đã có QĐ Khu tái định cư đường tránh QL Long Thành 48.17 thu hồi 9 1A

đất Đã có QĐ Dự án khu tái định cư đường Trảng Bom 24.06 thu hồi 10 tránh QL1A đất

Vĩnh Cửu 27.50 Đã có QĐ 11 Khu tái định cư

101

Diện Kết quả STT Tên công trình Huyện Ghi chú tích đến nay (ha)

thu hồi

đất Đã có QĐ Khu dân cư Vũng Rễ (di dân Mã Vĩnh Cửu 50.00 thu hồi 12 Đà)

đất Đã có QĐ

Vĩnh Cửu 27.79 thu hồi 13 Khu tái định cư

đất Đã có QĐ Khu tái định cư khu phố 8A Biên Hòa 9.95 thu hồi 14 (GĐ2)

đất Đã có QĐ Khu tái định cư Tân Biên mở Biên Hòa 16.00 thu hồi 15 rộng

đất Đã có QĐ

Biên Hòa 7.77 thu hồi 16 Khu dân cư và khu tái định cư

đất Đã có QĐ Khu tái định cư Thống Nhất - Biên Hòa 14.50 thu hồi 17 Tân Mai

đất Đã có QĐ Khu dân cư - tái định cư phục vụ Xuân lộc 53.00 thu hồi 18 cụm công nghiệp

đất Đã có QĐ Long Thành 244.00 19 Khu tái định cư Bình Sơn

Khu dân cư và tái định cư Lộc GTĐĐ Đã có QĐ Long Thành 282.35 20 An - Bình Sơn GTĐĐ

102

Diện Kết quả STT Tên công trình Huyện Ghi chú tích đến nay (ha)

Đã có QĐ Long Thành 64.23 21 Khu tái định cư

GTĐĐ Đã có QĐ Long Thành 30.00 22 Khu tái định cư GTĐĐ

Khu nhà ở biệt thự và tái định cư Đã có QĐ (Cty TNHH Tín Nghĩa và Cty cổ Long Thành 164.00 23 GTĐĐ

phần Golf Long Thành) Khu dân cư, tái định cư Phú Đã có QĐ Nhơn Trạch 30.00 24

Hữu, Phú Đông Khu dân cư - tái định cư (KDC GTĐĐ Đã có QĐ Nhơn Trạch 20.69 25

ấp Xóm Hố) Khu dân cư phục vụ TĐC của GTĐĐ Đã có QĐ Nhơn Trạch 20.00 26

KCN Ông Kèo (Tín Nghĩa) Khu TĐC Phước Khánh (giai GTĐĐ Đã có QĐ Nhơn Trạch 40.00 27 đoạn II)

GTĐĐ Đã có QĐ Vĩnh Cửu 3.34 28 Cụm tái định cư ấp Thái Sơn

Khu tái định cư phường Xuân Long GTĐĐ Đã có QĐ 0.13 29

An Khu tái định cư phường Xuân Khánh Long GTĐĐ Đã có QĐ 0.17 30 Bình Khánh

GTĐĐ Đã có QĐ 37.00 31 Cụm tái định cư (di dân Mã Đà) Vĩnh Cửu

GTĐĐ Đã có QĐ Tân Phú 32 Khu tái định cư giao đất

Tổng cộng 1290,4

Nguồn: Sở Tài nguyên và môi trường tỉnh Đồng Nai.

103

Phụ lục số 5:

BẢNG TỔNG HỢP DANH MỤC CÁC DỰ ÁN CHUYỂN TIẾP THỰC

HIỆN VÀ PHÂN BỔ TRONG QUY HOẠCH SỬ DỤNG ĐẤT

NĂM 2010 ĐẾN NĂM 2020

Diện tích Ghi ST Tên công trình Huyện chú

T 1 Khu dân cư, tái định cư xã Nhân Nghĩa 2 Khu di dân lòng hồ 3 Tái định cư 4 Đường và khu tái định cư 5 Khu dân cư phục vụ khu công nghiệp 6 Khu tái định cư Cẩm Mỹ Định Quán Định Quán Định Quán Long Khánh Long Thành (ha) 9.48 10.00 10.50 20.00 25.51 9.30

Khu tái định cư cho trung tâm hội chợ Quốc 7 Long Thành 5.00

tế Khu Dân cư và tái định cư (quỹ đầu tư phát 8 Long Thành 60.00 triển Đồng Nai)

Nhơn Trạch Nhơn Trạch Tân Phú Trảng Bom Trảng Bom Trảng Bom 9 Khu dân cư, tái định cư Hiệp Phước 3 10 Khu tái định cư 11 Khu dân cư tránh lũ 12 Khu tái định cư KCN Hố Nai 13 Khu tái định cư 14 KDC phục vụ tái định cư 12.50 14.00 44.00 4.00 12.00 15.82

Khu dân cư, tái định cư phục vụ di dân Vĩnh Cửu 15 12.86 trong rừng

16 Khu TĐC (đường cộ) / 2007 Vĩnh Cửu 17 Khu tái định cư (Sonadezi) Vĩnh Cửu 18 Cụm dân cư và tái định cư ấp Ông Hường Vĩnh Cửu 19 Cụm tái định cư và dân cư Vĩnh Cửu 20 Khu tái định cư Xuân Lộc 21 Khu tái định cư Xuân Lộc 22 Khu tái định cư Xuân Lộc 23 Khu tái định cư Xuân Lộc 24 Khu chung cư, tái định cư Biên Hòa Biên Hòa 25 Khu tái định cư cho khu cảnh quan bờ sông 26 Khu dân cư, tái định cư và công viên cây xanh Biên Hòa 31.64 38.12 4.60 5.00 3.00 2.00 2.96 72.20 6.20 5.40 15.83

104

ST Diện tích Ghi Tên công trình Huyện chú

T 27 Khu tái định cư 28 Khu tái định cư (khu nhà ở thuỷ sản) 29 Khu tái định cư 30 Khu tái định cư 31 Khu tái định cư sân golf (mở rộng) 32 Khu dân cư tái định cư 33 Khu tái định cư kết hợp du lịch 34 Khu tái định cư và dân cư -KP1 Biên Hòa Biên Hòa Nhơn Trạch Nhơn Trạch Trảng Bom Vĩnh Cửu Biên Hòa Biên Hòa (ha) 2.65 9.00 12.00 15.45 2.10 30.00 1.41 1.14

Khu nhà ở tái định cư (trường ĐH Lạc Biên Hòa 0.14 35 Hồng)

36 Khu tái định cư tại Trảng Dài Biên Hòa 27.93

Khu nhà ở phục vụ tái định cư dự án cầu Biên Hòa 2.10 37 Đồng Nai (công ty An Hưng Phát)

Biên Hòa Biên Hòa Biên Hòa Biên Hòa Biên Hòa 3.65 3.65 10.95 1.66 10.77 38 Khu dân cư tái định cư 1 39 Khu dân cư tái định cư 2 40 Khu tái định cư tại Tam Phước (2 khu) 41 Khu tái định cư kết hợp du lịch 42 Khu dân cư phục vụ tái định cư

Khu tái định cư (trường CĐ kỹ thuật công Biên Hòa 1.51 43 nghệ)

Biên Hòa 4.53 44 Khu tái định cư

Khu nhà ở TĐC và đất ở cho các hộ thuộc 45 Biên Hòa 15.65

diện chính sách Khu dân cư và tái định cư (công ty CP 46 Biên Hòa 24.23

TM&DV Phước Tân ) khu 1 Khu dân cư và tái định cư (Cty CPTM&XD 47 Biên Hòa 15.84

Phước Tân) khu 2 Khu dân cư và tái định cư (công ty Tín 48 Biên Hòa 123.47 Nghĩa và Cty CPTM&XD Phước Tân)

49 Khu chung cư cao tầng, tái định cư Biên Hòa 4.51

Khu dân cư kết hợp tái định cư phường 50 Biên Hòa 5.13 Quang Vinh

51 Khu tái định cư Tân Biên mở rộng Biên Hòa 2.07

105

ST Diện tích Ghi Tên công trình Huyện chú

T 52 Khu dân cư TĐC kết hợp TMDV 53 Khu tái định cư xã Bảo Bình 54 Khu định canh, định cư ấp 5 55 Đường và khu tái định cư La Ngà 56 Khu tái định cư Phú Cường 57 Khu tái định cư tại Xuân Tân 58 Khu tái định cư phường Xuân Bình Biên Hòa Cẩm Mỹ Định Quán Định Quán Định Quán Long Khánh Long Khánh (ha) 3.98 4.30 9.03 14.50 4.10 1.80 0.17

Khu tái định cư và nhà ở công nhân KCN Long Thành 34.40 59 Phước Bình

60 Khu tái định cư Phước Khánh Nhơn Trạch 29.02

Khu dân cư phục vụ TĐC của KCN Ông 61 Nhơn Trạch 6.34

Kèo (phần mở rộng) 62 Khu tái định cư Sông Mây Trảng Bom Trảng Bom 63 Khu TĐC phục vụ KCN Hưng Thịnh 64 Khu dân cư, tái định cư phía Đông chợ mới Trảng Bom Trảng Bom 65 Khu tái định cư để di dời, giải tỏa sân golf Trảng Bom 66 Khu dân cư, tái định cư UBND huyện Thống Nhất 67 Khu tái định cư tại Quang Trung Thống Nhất 68 Khu dân cư tái định cư Tân Phú 69 Khu tái định cư ấp 4 Vĩnh Cửu 70 Mở rộng khu tái định cư Phú Lý Xuân Lộc 71 Khu tái định cư trường bắn 4.00 11.55 5.00 4.34 9.40 4.10 15.10 7.00 1.00 53.00

Tổng cộng 1.005,5

Nguồn: Sở Tài nguyên và môi trường tỉnh Đồng Nai.

106

Phụ lục số 6:

MỘT SỐ ƯU ĐÃI ĐẦU TƯ

Tiền thuê đất và ưu đãi tiền thuê đất, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế

thu nhập cá nhân, thuế nhập khẩu thuế trị giá gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt

và các ưu đãi khác tại Đồng Nai

1. Tiền thuê đất và ưu đãi tiền thuê đất tại các khu công nghiê ̣p có

Doanh nghiê ̣p đầu tư hạ tầng

Giá thuê đất có hạ tầng (USD/m2/năm) Tên KCN Diê ̣n tích 5 năm đầu Từ năm thứ 6

Giá đất Phí hạ tầng Giá đất Phí hạ tầng

KCN Amata 361 ha Giá thương lượng Giá thương lượng

KCN Loteco 100 ha Giá thương lượng Giá thương lượng

KCN Biên Hoà 1 335 ha 0,80 0,40 0,80 0,40

KCN Biên Hoà 2 365 ha 2,25 1,00 2,25 0,50

KCN Long Thành 510 ha 0,05 22USD/50năm 0,05 22USD/50năm

KCN Tam Phước 323 ha Giá thương lượng Giá thương lượng

Giá thương lượng Giá thương lượng KCN An Phước 130 ha

KCN Gò Dầu 184 ha 1,00 1,00 1,00 0,75

KCN Sông Mây 227 ha 0,09 1,45 0,09 1,01

KCN Hố Nai 230 ha 0,09 1,45 0,09 1,01

KCN Nhơn Trạch 1 430 ha 0,09 1,45 0,09 1,01

KCN Nhơn Trạch 2 350 ha 0,09 1,45 0,09 1,01

KCN Nhơn Trạch 3 720 ha 0,09 1,45 0,09 1,01

KCN Nhơn Trạch 5 302 ha 0,09 1,45 0,09 1,01

KCN Nhơn Trạch6 319 ha Giá thương lượng Giá thương lượng

KCN Dệt may 184 ha Giá thương lượng Giá thương lượng

Nhơn Trạch

KCN Định Quán 54 ha Giá thương lượng Giá thương lượng

107

2. Thuế thu nhập doanh nghiệp

(Trích Nghị định 164/2003/NĐ-CP ngày 22/12/2003, Nghị định

152/2004/NĐ-CP ngày 06/8/2004 của Chính phủ và Quyết định số

53/2004/QĐ-TTg ngày 5/4/2004 của Thủ tướng Chính phủ).

Trong khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao:

Lĩnh vực đầu tư Thuế thu nhập doanh nghiệp

Dịch vụ trong KCN 20% trong 10 năm kể từ ngày sản xuất kinh doanh,

miễn 2 năm và giảm 50% trong 6 năm tiếp theo. Từ

năm thứ 11 thuế suất 28%.

Sản xuất trong KCN 15% trong 12 năm, miễn 3 năm và giảm 50% trong 7

Dịch vụ trong KCX năm tiếp theo. Từ năm thứ 13 thuế suất 28%.

DN chế xuất trong 10% trong 15 năm, miễn 4 năm và giảm 50% trong 7

KCN hoặc KCX năm tiếp theo. Từ năm thứ 16 thuế suất 28%.

Dự án đầu tư thuộc 10% trong 15 năm, miễn 4 năm và giảm 50% trong 9

ngành nghề đặc biệt năm tiếp theo. Từ năm thứ 16 thuế suất 28%.

khuyến khích đầu tư

Doanh nghiệp công 10% trong suốt thời hạn hoạt động, miễn 4 năm và

nghệ cao đầu tư vào giảm 50% trong 9 năm tiếp theo.

Khu công nghệ cao

3. Thuế thu nhập cá nhân

(Theo Nghị định 147/2004/NĐ-CP ngày 23/7/2004)

Thuế thu nhập cá nhân tại Việt Nam áp dụng đối với người có thu nhập

cao. Thu nhập chịu thuế bao gồm thu nhập thường xuyên và thu nhập không

thường xuyên tính theo các mức thuế suất cụ thể sau:

* Thuế suất đối với thu nhập thường xuyên:

- Đối với công dân Việt Nam ở trong nước và cá nhân khác định cư tại

Việt Nam áp dụng biểu thuế luỹ tiến từng phần, như sau:

108

Bậc Thu nhập bình quân tháng/người Thuế suất (%)

Đến 5 triệu đồng 1 0

Trên 5 đến 15 triệu đồng 2 10

Trên 15 đến 25 triệu đồng 3 20

Trên 25 đến 45 triệu đồng 4 30

Trên 40 triệu đồng 5 40

- Đối với người nước ngoài cư trú tại Việt Nam và công dân Việt Nam

lao động, công tác ở nước ngoài áp dụng biểu thuế luỹ tiến từng phần, như

sau:

Bậc Thu nhập bình quân tháng/người Thuế suất (%)

Đến 8 triệu đồng 1 0

Trên 8 đến 20 triệu đồng 2 10

Trên 20 đến 50 triệu đồng 3 20

Trên 50 đến 80 triệu đồng 4 30

Trên 80 triệu đồng 5 40

- Đối với người nước ngoài không cư trú tại Việt Nam, áp dụng thuế suất

25% trên tổng thu nhập chịu thuế.

4. Thuế nhập khẩu

(Trích Điều 57, 58 Nghị định 24/2000/NĐ-CP ngày 31/7/2000 và Nghị

định 27/2003/NĐ-CP ngày 19/3/2000).

Doanh nghiệp được miễn thuế nhập khẩu đối với hàng hóa nhập khẩu để

tạo tài sản cố định, bao gồm:

+ Thiết bị, máy móc;

+ Phương tiện vận tải chuyên dùng nằm trong dây chuyền công nghệ và

phương tiện vận chuyển dùng để đưa đón công nhân (ô tô từ 24 chỗ ngồi trở

lên, phương tiện thuỷ);

+ Linh kiện, chi tiết, bộ phận rời, phụ tùng, gá lắp, khuôn mẫu, phụ kiện

đi kèm với thiết bị, máy móc, phương tiện vận chuyển và vận tải chuyên dùng

quy định tại điểm b khoản này.

109

+ Nguyên liệu, vật tư nhập khẩu để chế tạo thiết bị, máy móc trong dây

chuyền công nghệ hoặc để chế tạo linh kiện, chi tiết, bộ phận rời, phụ tùng, gá

lắp, khuôn mẫu, phụ kiện đi kèm với thiết bị, máy móc;

+ Vật tư xây dựng mà trong nước chưa sản xuất được.

5. Thuế trị giá gia tăng

(Trích Điều 60 Nghị định 24/2000/NĐ-CP ngày 31/7/2000, Nghị định

27/2003/NĐ-CP ngày 19/3/2000, Điều 7 Nghị định số 158/2003/NĐ-CP ngày

10 tháng 12 năm 2003 và Nghị định 148/NĐ-CP ngày 23/7/2004)

Doanh nghiệp không phải nộp thuế giá trị gia tăng đối với:

- Thiết bị, máy móc, phương tiện vận tải chuyên dùng nằm trong dây

chuyền công nghệ thuộc loại trong nước chưa sản xuất được, nhập khẩu để

tạo tài sản cố định của doanh nghiệp .

Trường hợp dây chuyền thiết bị, máy móc đồng bộ nhập khẩu thuộc diện

không chịu thuế giá trị gia tăng, nhưng trong dây chuyền đồng bộ đó có cả

loại thiết bị, máy móc trong nước đã sản xuất được thì cũng không tính thuế

giá trị gia tăng cho cả dây chuyển thiết bị, máy móc đồng bộ;

- Vật tư xây dựng trong nước chưa sản xuất được để tạo tài sản cố định

của doanh nghiệp.

- Nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất sản phẩm cung cấp cho các doanh

nghiệp trực tiếp sản xuất ra sản phẩm xuất khẩu.

Ngoài ra áp dụng mức thuế suất 0% đối với một số loại hàng hóa, dịch

vụ xuất khẩu.

6. Thuế tiêu thụ đặc biệt

STT Hàng hoá, dịch vụ Thuế suất (%)

I Hàng hoá

1 Thuốc lá điếu, xì gà

a) Thuốc lá điếu có đầu lọc sản xuất chủ yếu bằng nguyên

liệu nhập khẩu, xì gà 65

b) Thuốc lá điếu có đầu lọc sản xuất chủ yếu bằng nguyên 45

110

liệu sản xuất trong nước

c) Thuốc lá điếu không đầu lọc 25

2. Rượu

a) Rượu từ 40 độ trở lên 75

b) Rượu từ 20 độ đến dưới 40 độ 30

c) Rượu dưới 20 độ, rượu hoa quả 20

d) Rượu thuốc 15

3. Bia

a) Bia chai, bia hộp, bia tươi 75

b) Bia hơi 30

4. Ô tô

a) Ô tô từ 5 chỗ ngồi trở xuống 80

b) Ô tô từ 6 đến 15 chỗ ngồi 50

c) Ô tô từ 16 đến dưới 24 chỗ ngồi 25

5. Xăng các loại, chế phẩm tái hợp (reformade component) 10

và các chế phẩm khác dùng để pha chế xăng

6. Điều hoà nhiệt độ có công suất dưới 90.000 BTU 15

7. Bài lá 40

8. Vàng mã, hàng mã 70

II. Dịch vụ

1. Kinh doanh vũ trường, Massage, Karaoke 30

2. Kinh doanh casino, trò chơi bằng máy jackpot 25

3. Kinh doanh giải trí có đặt cược 25

4. Kinh doanh gôn (golf); bán thẻ hội viên, vé chơi gôn 10

5. Kinh doanh xổ số 15

7. Ưu đãi khác tại Đồng Nai

111

7.1. Các dự án đầu tư vào khu công nghiệp tại các huyện Tân Phú, Định

Quán, Xuân Lộc, Cẩm Mỹ:

Được miễn phí sử dụng hạ tầng trong 5 năm kể từ khi bắt đầu sản xuất

kinh doanh. Ngoài ra nếu dự án đầu tư ngành nghề thuộc danh mục ngành

nghề đặc biệt khuyến khích đầu tư và danh mục ngành nghề khuyến khích đầu

tư theo quy định của Chính phủ được miễn tiền thuê đất trong thời hạn thuê

đất; các dự án đầu tư thuộc các ngành nghề còn lại được miễn tiền thuê đất

trong thời gian 15 năm kể từ khi ký hợp đồng thuê đất.

7.2. Các doanh nghiệp thuê đất đầu tư xây dựng nhà ở cho công nhân

của doanh nghiệp (không kinh doanh) được miễn tiền thuê đất trong thời hạn

thuê đất.

Nguồn: http://www.dongnai.gov.vn/Đăng ngày: 29/07/2010