ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

VŨ THỊ YẾN

DẠY HỌC ĐOẠN TRÍCH “HỒN TRƢƠNG BA, DA HÀNG THỊT” CỦA

LƢU QUANG VŨ (NGỮ VĂN 12, TẬP 2) THEO HƢỚNG TIẾP CẬN LIÊN

VĂN BẢN

LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM NGỮ VĂN

HÀ NỘI – 2017

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

VŨ THỊ YẾN

DẠY HỌC ĐOẠN TRÍCH “HỒN TRƢƠNG BA,

DA HÀNG THỊT” CỦA LƢU QUANG VŨ (NGỮ VĂN 12,

TẬP 2) THEO HƢỚNG TIẾP CẬN LIÊN VĂN BẢN

LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM NGỮ VĂN

CHUYÊN NGÀNH : LÝ LUẬN VÀ PHƢƠNG PHÁP DẠY HỌC

(BỘ MÔN NGỮ VĂN)

Mã số: 8140111

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Đoàn Đức Phƣơng

HÀ NỘI – 2017`

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành chƣơng trình cao học và viết luận văn này, trƣớc tiên tôi

xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các thầy cô giáo và cán bộ nhân viên các Phòng -

ban của trường Đại học Giáo dục - Đại học Quốc Gia Hà Nội và các thầy cô của

trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Đại học KHXH & NV - Đại học Quốc Gia Hà

Nội đã tận tình giảng dạy, hƣớng dẫn, giúp đỡ chúng tôi trong quá trình học tập và

nghiên cứu tại trƣờng.

Tôi xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến PGS.TS. Đoàn Đức Phƣơng ngƣời trực

tiếp hƣớng dẫn khoa học đã nhiệt tình chỉ dạy, hƣớng dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt quá

trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn tốt nghiệp.

Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Ban Giám hiệu, các thầy cô giáo và các

em học sinh của trƣờng THPT Gia Lộc II- Gia Lộc - Hải Dƣơng đã ủng hộ, giúp đỡ

tôi, tạo mọi điều kiện để tôi hoàn thành nhiệm vụ của mình.

Qua đây, tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, ngƣời thân và bạn bè đã

dành cho tôi sự quan tâm, khích lệ, chia sẻ và động viên tôi trong suốt thời gian học

tập và nghiên cứu.

Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhƣng trong quá trình tìm hiểu và nghiên cứu

không tránh khỏi những sai sót, tôi rất mong nhận đƣợc sự góp ý chân thành từ

phía thầy cô và các bạn đồng nghiệp.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, tháng 11 năm 2017

Tác giả

i

Vũ Thị Yến

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ĐC Đối chứng :

ĐHSP Đại học sƣ phạm :

ĐHQGHN Đại học quốc gia Hà Nội :

GD&ĐT Giáo Dục và Đào tạo :

GV Giáo viên :

HS Học sinh :

KNS Kĩ năng sống :

KTDH Kĩ thuật dạy học :

Nxb Nhà xuất bản :

NSND Nghệ sĩ nhân dân :

PPDH Phƣơng pháp dạy học :

PTDH Phƣơng tiện dạy học :

SGK Sách giáo khoa :

SGV Sách giáo viên :

THCS Trung học cơ sở :

THPT Trung học phổ thông :

TN Thực nghiệm :

ii

TLTK Tài liệu tham khảo :

MỤC LỤC

Lời cảm ơn .................................................................................................................. i Danh mục các chữ viết tắt ........................................................................................ ii Mục lục ..................................................................................................................... iii Danh mục hình ảnh .................................................................................................. vi Danh mục bảng biểu .............................................................................................. vii MỞ ĐẦU .................................................................................................................. 1 1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................... 1 2. Lịch sử nghiên cứu ............................................................................................... 3 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................... 8 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ....................................................................... 9 5. Phƣơng pháp nghiên cứu ...................................................................................... 9 6. Đóng góp của luận văn ....................................................................................... 11 7. Cấu trúc của luận văn: ........................................................................................ 11 CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI ............... 12 1.1 Lý thuyết liên văn bản ...................................................................................... 12 1.1.1 Nguồn gốc lý thuyết liên văn bản ................................................................. 12 1.1.2 Khái niệm liên văn bản .................................................................................. 14 1.1.3 Đặc trưng của liên văn bản ........................................................................... 23 1.1.4 Hình thức và nhiệm vụ liên văn bản ............................................................ 23 1.2 Tính khả thi, điều kiện và ý nghĩa của việc dạy học đọc hiểu văn bản văn học theo hƣớng tiếp cận liên văn bản trong chƣơng trình ngữ văn THPT .......... 25 1.2.1 Tính khả thi của việc dạy học đọc hiểu văn bản theo hướng tiếp cận liên văn bản trong chương trình ngữ văn THPT ......................................................... 25 1.2.2 Điều kiện để vận dụng có hiệu quả lý thuyết liên văn bản trong dạy học đọc hiểu văn bản trong chương trình Ngữ văn THPT ................................................. 28 1.2.3 Ý nghĩa của việc vận dụng lý thuyết liên văn bản trong dạy học đọc hiểu văn bản trong chương trình ngữ văn THPT .......................................................... 32 1.3 Thực tế việc vận dụng lý thuyết liên văn bản trong dạy học đọc hiểu ở THPT hiện nay .................................................................................................................... 36 1.3.1 Vận dụng không tự giác ................................................................................ 36 1.3.2 Vận dụng tự giác trên cơ sở hiểu biết lý thuyết liên văn bản ..................... 38

iii

1.3.3 Thành công và hạn chế trong việc vận dụng lý thuyết liên văn bản vào dạy học đọc hiểu văn bản văn học trong chương trình Ngữ văn lớp 12 .................... 40 1.4 Thực trạng dạy học đoạn trích “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của Lƣu Quang Vũ (Ngữ văn 12, tập2) trong trƣờng THPT hiện nay ............................... 44 1.4.1 Thực trạng dạy học Ngữ văn trong nhà trường THPT hiện nay ................ 44 1.4.2 Thực trạng dạy học đoạn trích “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của Lưu Quang Vũ (Ngữ văn 12, tập2) trong trường THPT hiện nay ............................... 47 Tiểu kết chƣơng 1.................................................................................................. 49 CHƢƠNG 2. NHỮNG ĐỊNH HƢỚNG, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP

DẠY HỌC ĐOẠN TRÍCH “HỒN TRƢƠNG BA DA HÀNG THỊT” CỦA LƢU QUANG VŨ (NGỮ VĂN 12, TẬP 2) THEO HƢỚNG TIẾP CẬN LIÊN VĂN BẢN ................................................................................................... 51 2.1 Những định hƣớng tổ chức hoạt động dạy học đoạn trích “Hồn Trương Ba da hàng thịt” trong chƣơng trình Ngữ văn lớp 12 ................................................ 51 2.1.1 Dạy học đoạn trích “Hồn Trương Ba da hàng thịt” của Lưu Quang Vũ theo hướng tích hợp và tích cực ............................................................................. 51 2.1.2 Dạy học đoạn trích “Hồn Trương Ba da hàng thịt” của Lưu Quang Vũ nhằm bồi dưỡng năng lực ngôn ngữ nghệ thuật cho học sinh lớp 12 ................. 52 2.1.3 Dạy học đoạn trích “Hồn Trương Ba da hàng thịt” của Lưu Quang Vũ nhằm bồi dưỡng nền tảng văn hóa, giáo dục đạo đức,và có cái nhìn mới về con người cho học sinh lớp 12 ........................................................................ 54 2.2 Nội dung vận dụng ........................................................................................... 56 2.2.1 Liên kết văn bản “Hồn Trương Ba da hàng thịt” của Lưu Quang Vũ với văn bản truyện dân gian ......................................................................................... 56 2.2.2 Liên kết văn bản “Hồn Trương Ba da hàng thịt” của Lưu Quang Vũ với các loại hình sáng tác khác .................................................................................... 70 2.2.3 Liên kết văn bản “Hồn Trương Ba da hàng thịt” của Lưu Quang Vũ với các lĩnh vực khác trong đời sống, văn bản văn hóa ............................................. 72 2.3 Phƣơng pháp vận dụng ..................................................................................... 75 2.3.1 Ưu tiên sự liên kết giữa văn bản Hồn Trương Ba da hàng thịt” của Lưu Quang Vũ với các văn bản từng quen thuộc với học sinh .................................... 75 2.3.2 Phá bỏ độc quyền vận dụng lý thuyết liên văn bản của giáo viên .............. 76 2.3.3 Xây dựng hệ thống câu hỏi sáng tạo mang tính liên văn bản ................... 78

iv

2.3.4 Tăng cường các bài tập liên hệ..................................................................... 79 Tiểu kết chƣơng 2.................................................................................................. 83

CHƢƠNG 3. THỰC NGHIỆM DẠY HỌC ĐOẠN TRÍCH “HỒN TRƢƠNG BA, DA HÀNG THỊT” CỦA LƢU QUANG VŨ ( NGỮ VĂN 12, TẬP 2) THEO HƢỚNG TIẾP CẬN LIÊN VĂN BẢN ............................ 85 3.1 Thực nghiệm thăm dò về tính khả thi và hiệu quả của việc vận dụng lý thuyết liên văn bản trong dạy học đọc – hiểu văn bản văn học ở trƣờng trung học phổ thông. ....................................................................................................................... 85 3.1.1 Mục đích thực nghiệm ................................................................................... 85 3.1.2 Đối tượng, thời gian và địa bàn thực nghiệm ............................................. 85 3.1.3 Nội dung thực nghiệm ................................................................................... 85 3.1.4. Tiến trình và kết quả thực nghiệm ............................................................... 86 3.1.5 Thiết kế giáo án thực nghiệm “Hồn Trương Ba da hàng thịt” của Lưu Quang Vũ (tiết 5, Ngữ Văn 12, tập 2, ban cơ bản) theo hướng tiếp cận liên văn bản. ........................................................................................................................... 91 Tiểu kết chƣơng 3................................................................................................ 108 KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ................................................................... 109 TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................. 111 PHỤ LỤC ............................................................................................................ 116

v

DANH MỤC HÌNH ẢNH

Hình 3.1 Tranh học sinh tìm hiểu về tác giả Lƣu Quang Vũ .......................... 94

Hình 3.2 Học sinh 12 I tìm hiểu về tác giả Lƣu Quang Vũ .......................... 101

Hình 3.3 Học sinh tìm hiểu về nhân vật Trƣơng Ba – kịch Lƣu Quang Vũ so

sánh với truyện cổ tích dân gian. .................................................................. 101

Hình 3.4 Liên kết "Hồn Trƣơng Ba, da hàng thịt" của Lƣu Quang Vũ với nghệ

thuật múa rối. ................................................................................................. 105

Hình 3.5 Liên kết "Hồn Trƣơng Ba, da hàng thịt" của Lƣu Quang Vũ với nghệ

thuật kịch hình thể. ........................................................................................ 106

vi

DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng 3.1. Kết quả HS các lớp đối chứng : ...................................................... 89

Bảng 3.2: Kết quả các lớp dạy thực nghiệm ................................................... 90

Bảng 3.3. Bảng so sánh kết quả lớp dạy thực nghiệm và lớp đối chứng ........ 90

Biểu đồ 3.1.Kết quả học tập các lớp đối chứng .............................................. 89

Biểu đồ 3.2. Kết quả học tập các lớp dạy thực nghiệm .................................. 90

vii

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

1.1 Từ sự đổi mới cấu trúc, nội dung chƣơng trình và mục tiêu, phƣơng

pháp dạy học của môn Ngữ văn bậc TH

Mục tiêu chung của môn Ngữ văn ở trƣờng trung học phổ thông hiện nay là

bồi dƣỡng và nâng cao thêm một bƣớc năng lực văn học cho học sinh, trong đó có

năng lực đọc – hiểu văn bản. Chính vì thế chƣơng trình đƣợc xây dựng theo hai

trục tích hợp: đọc văn và làm văn. Với nguyên tắc tích hợp, chƣơng trình hiện

nay vẫn dựa vào tiến trình lịch sử văn học dân tộc nhƣng mỗi giai đoạn sẽ lựa

chọn ra những thể loại tác phẩm văn học tiêu biểu để làm văn bản mẫu cho việc

dạy học đọc – hiểu. Theo tinh thần này dạy học văn có nhiệm vụ kép: thông qua

dạy kiến thức mà trang bị và rèn luyện cho học sinh cách đọc, phƣơng pháp đọc

để các em có thể tự mình đọc và hiểu những văn bản khác. Cùng với việc xác định

lại mục tiêu của việc dạy học văn, vấn đề đổi mới phƣơng pháp dạy học một lần

nữa đƣợc nhắc đến. Đó là đổi mới phƣơng pháp dạy học theo những yêu cầu của

quan điểm dạy học tích cực, tích hợp và tƣơng tác của lí luận dạy học ngày nay.

Theo quan điểm dạy học tích cực, giáo án không còn là phƣơng án trình diễn hoạt

động giảng dạy của giáo viên, không còn là kịch bản độc diễn của ngƣời dạy để

bằng cách đó giáo viên mang tới cho học sinh những kết luận có sẵn, mà là bản

thiết kế các hoạt động dạy xuất phát từ nhiệm vụ học tập của học sinh, khơi dậy

năng lực tự học và giúp các em có cơ hội tự mình chiếm lĩnh các tri thức, kĩ năng

trong bài học.

1.2 Từ tình hình đọc – hiểu văn bản văn học nói chung và vận dụng lý

thuyết liên văn bản và dạy học đoạn trích “Hồn Trƣơng Ba da hàng thịt” của

Lƣu Quang Vũ nói riêng

Sự ra đời của lý thuyết đọc hiểu trên thế giới và sự xâm nhập lý thuyết đó vào

Việt Nam những năm gần đây đã ảnh hƣởng nhiều đến phƣơng hƣớng nghiên cứu,

giảng dạy tác phẩm văn chƣơng trong nƣớc. GS.TS. Nguyễn Thanh Hùng cho rằng:

“Đọc-hiểu là một địa hạt mới, gợi ra nhiều vấn đề khoa học để phương pháp dạy

học văn phát triển thêm về mặt lý luận và vận dụng thực tế. Đọc hiểu cần tách ra

1

khỏi vòng kiểm soát chật hẹp của phương pháp để trở thành nội dung tri thức chung

gắn liền với lý thuyết tiếp nhận, lý thuyết giao tiếp, thi pháp học, lý luận dạy học

ngữ văn”.[13]

Xác định rõ vai trò của đọc – hiểu nhƣ vậy nhƣng trong nhà trƣờng phổ thông Việt

Nam hiện nay có một thực tế là không phải giáo viên nào cũng hiểu rõ bản chất của

đọc hiểu và có những biện pháp đọc hiểu phù hợp. Vấn đề này tƣởng nhƣ là mâu

thuẫn, bởi chƣơng trình sách giáo khoa mới đã đi đƣợc chặng đƣờng gần 10 năm.

Ở phƣơng diện lý luận, hiện nay các sách tham khảo, tài liệu chuẩn kiến thức

– kĩ năng, các bài viết đăng trên tạp chí … đều đề cập đến đọc – hiểu. Nhƣng giữa

các tác giả vẫn chƣa có sự thống nhất với nhau về thuật ngữ này. Có tài liệu ghi là

“đọc - hiểu”(Đọc - hiểu văn bản Ngữ văn (10, 11, 12) – Nguyễn Trọng Hoàn, Dạy

học văn là dạy học sinh đọc – hiểu văn bản – Trần Đình Sử), nhƣng cũng có tài

liệu ghi “đọc hiểu” (Mấy suy nghĩ về đọc hiểu văn bản) – Quách Duy Bình, Dạy

học đọc hiểu tác phẩm văn học nhằm hình thành khái niệm phong cách nhà văn

cho học sinh – Đỗ Tiến Sĩ ). Ở đây không phải là sai sót trong cách viết hay lỗi kỹ

thuật đánh máy mà xuất phát từ quan niệm của ngƣời viết. Nhƣ vậy, chúng ta

thấy rằng ngay cả một thuật ngữ có thể nói là phổ biến hiện nay vẫn có những quan

niệm, cách viết không giống nhau.

Ở phƣơng diện thực tiễn, có thể thấy rằng từ khi vấn đề đọc – hiểu đƣợc áp

dụng vào dạy học văn đã xuất hiện nhiều mô hình đọc – hiểu khác nhau của những

tác giả có uy tín, nhƣ mô hình của Vũ Dƣơng Quỹ, Phan Trọng Luận, Nguyễn

Trọng Hoàn…Mỗi mô hình đều có những đóng góp nhất định và trở thành nguồn

tài liệu tham khảo phong phú cho giáo viên. Và cũng không ít giáo viên đã vận

dụng một trong những mô hình trên để soạn giảng. Tuy nhiên, qua một số tiết dự

giờ, tham khảo các thiết kế bài học, cũng nhƣ qua trao đổi với các đồng nghiệp

trong các đợt tập huấn thay sách, chúng tôi thấy rằng vẫn còn không ít giáo viên

chƣa ý thức rõ về tinh thần đọc - hiểu nên còn lúng túng trong thiết kế và dạy học.

Do vậy trong rất nhiều giờ dạy mặc dù giáo viên khi thiết kế bài soạn là đọc

hiểu, rồi lên lớp hƣớng dẫn học sinh đọc hiểu, nhƣng việc làm này mới chỉ đơn

thuần là thay đổi một thao tác chứ thực chất để hiểu rõ xem có những cách thức đọc

hiểu nào và hƣớng dẫn học sinh đọc hiểu ra sao thì hầu hết giáo viên chƣa hiểu rõ

2

nguồn gốc của nó. Do vậy đây mới chỉ là việc làm thay một chiếc bình mới còn

rƣợu trong bình vẫn là rƣợu cũ. Nói cách khác, chúng ta đang khoác lên mình môn

Ngữ văn một chiếc áo mới của đọc – hiểu, còn các biện pháp sử dụng trong dạy học

vẫn là của giảng văn và phân tích.

Trong khi đó Bộ Giáo Dục và Đào tạo ngày càng đẩy mạnh quá trình phát

triển giáo dục, vận dụng các phƣơng pháp, kỹ thuật dạy học nhằm phát huy tính tích

cực học tập, sáng tạo của học sinh. Nhất là học sinh lớp 12 đang bƣớc vào giai đoạn

chuẩn bị cho các kì thi quan trọng và lựa chọn nghề nghiệp cho mình. Để hiện thực

hóa quan điểm dạy học tích hợp hiện nay một cách sống động, đạt hiệu quả cao thì

việc vận dụng lý thuyết liên văn bản trong các giờ đọc hiểu văn bản văn học đã trở

thành một đòi hỏi tất yếu. Một số nhà giáo, nhà nghiên cứu đã quan tâm và nghiên

cứu tìm hiểu đến vấn đề khá là thú vị và hấp dẫn, nhƣng cũng không kém phần gai

góc này trong các đề tài khác. Tuy nhiên, còn rất nhiều khía cạnh của vấn đề cần

bàn thảo, kỹ hơn và sâu hơn nhằm tạo thuận lợi cho giáo viên – với mục đích nâng

cao chất lƣợng đọc hiểu văn bản văn học, một hoạt động trọng yếu của dạy học ngữ

văn ở THPT nói chung và dạy học Ngữ văn với lớp 12 nói riêng.

Từ những lí do trên, chúng tôi thấy rằng việc “Dạy học tác phẩm Hồn

Trương Ba da hàng thịt của Lƣu Quang Vũ (Ngữ văn 12, tập 2) theo

hƣớng tiếp cận liên văn bản” cho học sinh lớp12 là việc làm thiết thực, có ý

nghĩa góp thêm tiếng nói về một trong những vấn đề có tính thời sự hiện nay.

2. Lịch sử nghiên cứu

2.1 Những công trình nghiên cứu về lý thuyết liên văn bản

Trong hơn hai chục năm gần đây, lý thuyết liên văn bản đã từng bƣớc đƣợc

giới thiệu ở Việt Nam cùng với cấu trúc luận, giải cấu trúc và cấu trúc hiện đại. Đã

có rất nhiều các công trình nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nƣớc nghiên

cứu về vấn đề này. Sau đây là một số công trình mà chúng tôi quan tâm:

Trƣớc hết là bài viết của Hoàng Trinh tập tiểu luận Ký, hiệu, nghĩa và phê

bình văn học (1993), tiếp đến là bài viết của Trần Đình Sử giới thiệu những cống

hiến của M.Bakhtin tính đối thoại và phức điệu trong tiểu thuyết (in trong tập tiểu

luận Lý luận và phê bình văn học.1996). Đỗ Đức Hiểu trong thi pháp hiện đại

3

(2000) đã đề cập khá trực tiếp về liên văn bản.

Những công trình dịch thuật về liên văn bản : Các khái niệm và thuật ngữ của

các trường phái nghiên cứu văn học ở Tây Âu và Hoa Kỳ thế kỷ XX (I.PIlin và E.A

Tzurgaanova chủ biên) nhóm tác giả Đào Tuấn Anh - Trần Hồng Vân - Lại Nguyên

Ân dịch năm 2003, Bản mệnh của lý thuyết- văn chương và sự cảm nghĩ thông

thường của Antoine Compagnon (Lê Hồng Sâm và Đăng Anh Đào dịch năm 2006),

Liên văn bản- sự xuất hiện của khái niệm về lịch sử và lý thuyết của vấn đề của L.P.

Rjanskaya (Ngân Xuyên dịch, năm 2007), công trình thi pháp của chủ nghĩa hậu

hiện đại của Liviu Petrescu (Lê Nguyên Cần dịch), Văn bản- liên văn bản- Lý thuyết

liên văn bản của G.K. Kosikov (Lã Nguyên dịch 2017)...

Cụ thể và có hệ thống nhất là bài viết của Nguyễn Minh Quân nhƣ Liên văn

bản- sự triển hạn đến vô cùng của tác phẩm văn học (2001); Nguyễn Nam Điểm

qua mấy hướng tiếp cận văn bản ở nước ngoài (2011); Nguyễn Nam (viện Harvard

– Yenching) có buổi thuyết trình về “Lý thuyết liên văn bản trong nghiên cứu văn

học và Hán Nôm” tại khoa Văn học, Đại học KHXH & NV, 2009, hay Nguyễn Văn

Thuấn với đề tài “Liên văn bản trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp”. Luận án đã

nghiên cứu nguồn gốc của lý thuyết liên văn bản và định hƣớng những cách tiếp cận

mới về sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, 2013.

Các bài nghiên cứu cụ thể và có hệ thống là các bài viết : Liên văn bản trong

Cây đàn ghi-ta của Lorca (Lê Huy Bắc), bài viết “Yếu tố liên văn bản trong tiểu

thuyết lịch sử Giàn thiêu của Võ Thị Hảo" tạp chí khoa học – Đại học Huế Số 7,

(2012), (Nguyễn Văn Hùng). Hay Phùng Phƣơng Nga có bài viết “Liên văn bản và

vấn đề đối thoại của tư tưởng trong văn xuôi đương đại”. Văn nghệ trẻ số 3 (741)

và số 13 (754); Liên văn bản trong tiểu thuyết Chân dung cát của Inrasara (Nguyễn

Thị Quỳnh Hƣơng); các hình thức liên văn bản trong tiểu thuyết của Pau Auster

(Nguyễn Thị Thanh Hiếu); Truyện ngắn Hồ Anh Thái từ góc nhìn liên văn bản của

Nguyễn Văn Thành (Luận văn thạc sĩ KHXH & NV tại đại học Đà Nẵng, năm

2013); luận văn thạc sĩ của Đỗ Thị Vui với đề tài "Dạy học văn học trung đại - Ngữ

văn 10 theo hướng liên văn bản" (Trƣờng đại học Giáo dục - Đại học quốc gia Hà

Nội - 2013); luận văn thạc sĩ Nguyễn Thị Châm "Dạy học truyện ngắn sau năm

1975 theo hướng tiếp cận liên văn bản" (Trƣờng đại học Giáo dục - Đại học QGHN,

4

2013); Vận dụng lý thuyết liên văn bản vào dạy học tác phẩm thơ mới chƣơng trình

Ngữ văn 11 - THPT của Phạm Thị Bích Phƣợng (Trƣờng đại học Giáo dục -

2015),...

Các bài nghiên cứu cùng các luận văn, luận án là minh chứng cho việc vận

dụng lý thuyết liên văn bản để nghiên cứu về tác giả, tác phẩm đang thu hút mạnh

mẽ các nhà nghiên cứu và phê bình văn học đƣơng đại trong những năm gần đây.

Tiếp cận liên văn bản từ lý thuyết liên văn bản đã mở ra một hƣớng tiếp cận mới, nó

kích thích quá trình tìm hiểu khoa học và khám phá thế giới văn hóa của ngƣời đọc,

mở ra vỉa tầng giá trị mới cho tác phẩm văn chƣơng.

Các công trình nghiên cứu của tác giả đi trƣớc là những gợi ý bổ ích cho đề

tài của tôi và có đóng góp lớn vào việc chỉ ra những con đƣờng, phƣơng pháp để

dạy học đoạn trích “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của Lƣu Quang Vũ theo hƣớng

tiếp cận liên văn bản.

2.2 Những công trình nghiên cứu về dạy học “Hồn Trƣơng Ba, da hàng

thịt” của Lƣu Quang Vũ

Kịch bản "Hồn Trương Ba, da hàng thịt" của tác giả Lƣu Quang Vũ trong

sách giáo khoa Ngữ văn lớp 12 (chƣơng trình chuẩn) là một tác phẩm mới đƣợc đƣa

vào giảng dạy năm học 2008-2009, song đã có nhiều bài viết định hƣớng phƣơng

pháp tiếp cận văn bản này. Chúng tôi quan tâm đến những công trình sau:

2.2.1 Những ý kiến bình phẩm về kịch Lưu Quang Vũ

- Cuốn "Phân tích Ngữ văn 12" của tác giả Trần Nho Thìn, Nxb Giáo dục

(2009) định hƣớng phân tích đoạn trích "Hồn Trương Ba, da hàng thịt": "Đối với

một văn bản tác phẩm kịch thì cách phân tích thuận tiện hơn cả là phân tích đối

thoại và xung đột giữa các nhân vật...". Tác giả cho rằng sự tồn tại của nhân vật

trong kịch là sự tồn tại thông qua các đối thoại. Song tác giả bài viết chƣa nói gì đến

tính liên văn bản của đoạn trích mà chỉ nói đến ý nghĩa nội dung của vở kịch "Từ

văn bản, các cuộc đối thoại giữa hồn Trƣơng Ba và xác hàng thịt, với ngƣời thân và

với Đế Thích, dễ nhận thấy có một triết lý quan trọng đƣợc quan tâm: hồn và xác là

hai thực thể quan trọng làm nên nhân cách của con ngƣời. Để là chính mình, để

không giả dối và phân thân, cần có cuộc sống hài hòa của thân xác và tâm hồn".

- Trong cuốn "Phân tích bình giảng tác phẩm văn học 12", chƣơng trình nâng

5

cao, NXB Giáo dục (2008) tác giả Lê Quang Hƣng định hƣớng phân tích kịch bản

văn học "Hồn Trương Ba, da hàng thịt" có nói đến sáng tạo nghệ thuật của Lƣu Quang

Vũ thông qua diễn biến của xung đột kịch và sự phân thân của nhân vật mà chƣa hề đề

cập đến vấn đề định hƣớng tiếp cận văn bản theo hƣớng tiếp cận liên văn bản.

- Bài "Nhân đọc và xem "Hồn Trương Ba, da hàng thịt" của tác giả Phan

Trọng Thƣờng nêu rõ: Vở kịch vừa mang ý nghĩa tự nó, vừa mang ý nghĩa cho nó.

Nghĩa tự nó của "Hồn Trương Ba, da hàng thịt" là sự hòa hợp và ý thức đạo lý về

phần hồn và phần xác của con ngƣời. Còn nghĩa cho nó là cuộc đấu tranh hoàn thiện

nhân cách của con ngƣời. Tác giả Phan Trọng Thƣờng trong bài nghiên cứu của

mình cũng có nói đến sáng tạo nghệ thuật của Lƣu Quang Vũ khi xây dựng vở kịch:

Khai thác triết lý nhân sinh trong truyện cổ tích "Hồn Trương Ba,da hàng thịt" ...Từ

triết lý nhân sinh trong truyện cổ tích, Lƣu Quang Vũ đã sáng tạo nên một tác phẩm

đa nghĩa.

Các nhà nghiên cứu tập trung khai thác hai đề tài chính trong kịch của Lƣu

Quang Vũ là đề tài khai thác mô típ truyện cổ dân gian và đề tài hiện đại viết về

cuộc sống mới để đƣa ra những nhận xét đánh giá về tài năng nghệ thuật, cội nguồn

sáng tạo nghệ thuật của Lƣu Quang Vũ. Đề tài hiện đại vẫn luôn là vấn đề cốt lõi,

xuyên suốt các sáng tác của Lƣu Quang Vũ cho dù nhà văn khai thác các yếu tố dân

gian trong vở kịch. Đạo diễn Phạm Thị Thành nhận xét: "Anh hay dùng câu chuyện

huyền thoại cổ tích để viết lên tâm sự của con ngƣời ngày hôm nay" [33,tr.174]. Tác

giả Cao Minh cũng có chung nhận xét khi viết về kịch "Hồn Trương Ba, da hàng

thịt": Từ một câu truyện cổ dân gian mang tính triết lý cao. Lƣu Quang Vũ đã sáng

tác vở kịch "Hồn Trương Ba, da hàng thịt". Vở kịch đi thẳng vào ngƣời xem về vấn

đề muôn thuở của con ngƣời cũng là vấn đề cấp bách của cuộc sống hiện tại"

[38,tr.322]. Nhà phê bình Lý Hoài Thu chỉ rõ trong vở kịch "Hồn Trương Ba, da

hàng thịt" của Lƣu Quang Vũ không lệ thuộc vào nội dung câu chuyện, đã tìm tòi,

vừa mở rộng kích thƣớc tự sự, vừa khơi sâu vào giá trị tƣ tƣởng để tạo vở kịch nổi

tiếng mà "hạt cơ bản" là giá trị nhân văn sâu sắc là giá trị nhân văn sâu sắc về lẽ tử

sinh" [39, tr.117]. Những ý kiến đánh giá về kịch Lƣu Quang Vũ đều có chung

nhận xét: tác giả Lƣu Quang Vũ là một tài năng lao động nghệ thuật, sức sáng tạo

6

đặc biệt, đề tài kịch Lƣu Quang Vũ rất đa dạng đặc biệt bắt nhịp với cuộc sống mới,

chất lƣợng kịch của Lƣu Quang Vũ hấp dẫn lôi cuốn ở cách tổ chức xung đột kịch, ở

ngôn ngữ và nghệ thuật xây dựng nhân vật.

Ngoài ra còn một số luận án và luận văn đã nghiên cứu một cách hệ thống về

kịch của Lƣu Quang Vũ và tác phẩm "Hồn Trương Ba, da hàng thịt" mà chúng tôi

quan tâm nhƣ: Đặc điểm kịch của Lưu Quang Vũ, Mảng kịch dựa trên tích truyện

dân gian của Lưu Quang Vũ, Thế giới nhân vật trong kịch Lưu Quang vũ,....

2.2.2 Những tài liệu hướng dẫn giảng dạy đoạn trích "Hồn Trương Ba, da

hàng thịt" của Lưu Quang Vũ

2.2.2.1 Sách giáo viên

- Sách giáo viên chƣơng trình chuẩn do GS Phan Trọng Luận làm tổng chủ

biên, đã định hƣớng tìm hiểu đoạn trích "Hồn Trương Ba, da hàng thịt" nhƣ sau:

+ Về nội dụng: Sách giáo viên hƣớng dẫn tìm hiểu trên 3 nội dung:

Thứ nhất: Hoàn cảnh trớ trêu của nhân vật hồn Trƣơng Ba: phải trú ngụ trong

xác hàng thịt, sống vay mƣợn, tạm bợ và trái tự nhiên, khiến tâm hồn nhân hậu,

thanh cao bị nhiễm độc và tha hóa bởi sự lấn át của thể xác thô lỗ, phàm tục.

Thứ hai: Về quan niệm con ngƣời là một thể thống nhất giữa hồn và xác, hồn

và xác phải hài hòa, sống thực cho ra con ngƣời quá không đơn giản.

Thứ ba: Vẻ đẹp tâm hồn của ngƣời lao động trong cuộc đấu tranh chống lại

sự giả tạo và dung tục, bảo vệ quyền đƣợc sống và khát vọng hoàn thiện nhân cách.

+ Về phƣơng pháp: Giáo viên định hƣớng học sinh tìm hiểu văn bản dựa trên

các câu hỏi ở mục "hƣớng dẫn học bài" trong sách giáo khoa.

- Sách giáo viên chƣơng trình nâng cao do GS Trần Đình Sử làm tổng chủ

biên định hƣớng khai thác nhƣ sau:

+ Về nội dung:

Phân tích tình huống kịch qua các đối thoại để làm nổi bật triết lý về hạnh

phúc, về lẽ sống chết: con ngƣời là một thể thống nhất giữa linh hồn và thể xác.

Sống nhờ, sống gửi, sống chắp vá, sống không đƣợc là chính mình thì cuộc sống đó

thật vô nghĩa.

Phê phán thói chạy theo ham muốn tầm thƣờng về vật chất, những kẻ lấy cớ

tâm hồn đáng quý mà chẳng chăm lo đến đời sống vật chất, không phấn đấu vì hạnh

7

phúc toàn vẹn.

+ Về phƣơng pháp:

Sách giáo viên cũng định hƣớng cho giáo viên giúp học sinh tìm hiểu văn bản

dựa trên 7 câu hỏi trong phần "hƣớng dẫn học bài" của sách giáo khoa.

2.2.2.2 Sách tham khảo

- Cuốn thiết kế bài học Ngữ văn của TS. Hoàng Hữu Bội, Nxb Giáo dục

(2008) định hƣớng tiếp cận đoạn trích "Hồn Trương Ba, da hàng thịt" ở các nội

dung sau:

+ Hƣớng dẫn tìm hiểu 3 xung đột miru tả trong đoạn trích.

+ Về phƣơng pháp: mỗi một xung đột cần tìm hiểu theo các chặng. Xây dựng

hệ thống câu hỏi phù hợp với nội dung bài học

- Cuốn thiết kế bài giảng Ngữ văn 12, tập 2 của tác giả Nguyễn Văn Đƣờng

chủ biên, Nxb Hà Nội (2008) đã đƣa ra hƣớng tiếp cận vở kịch:

+ Nội dung: Phân tích ba cuộc đối thoại trong vở kich, từ đó khám phá ra ý

nghĩa triết lý về lẽ sống của con ngƣời và ý nghĩa phê phán của vở kịch

+ Về phƣơng pháp: Tác giả đƣa ra 13 câu hỏi để tìm hiểu các cuộc đối thoại.

Nhìn chung các công trình và bài viết đều định hƣớng đi tìm hiểu đoạn trích

"Hồn Trương Ba, da hàng thịt" của Lƣu Quang Vũ theo đặc trƣng thể loại kịch.

Song chƣa có công trình bài viết nào quan tâm đến việc dạy học đoạn trích "Hồn

Trương Ba, da hàng thịt" của Lƣu Quang Vũ theo hƣớng tiếp cận liên văn bản.

Những đề xuất và gợi ý của các nhà nghiên cứu đi trƣớc là những đóng góp đáng kể

cho việc dạy học văn bản kịch "Hồn Trương Ba, da hàng thịt" trong chƣơng trình

Ngữ văn 12. Những thành tựu nghiên cứu khoa học đó là những tài liệu tham khảo

quý báu cho chúng tôi khi giải quyết và nghiên cứu đề tài này.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1 Mục đích nghiên cứu

- Về mặt lý thuyết: mở thêm hƣớng nghiên cứu từ hệ thống lý thuyết liên văn

bản thuộc trào lƣu giải cấu trúc thế kỉ XX.

- Vê mặt thực tiễn: Ứng dụng lý thuyết liên văn bản để phân tích khả năng

điều kiện và ý nghĩa của việc vận dụng lý thuyết liên văn bản trong dạy đọc hiểu

Ngữ văn cho học sinh THPT nói riêng và tác phẩm “Hồn Trương Ba da hàng thịt”

8

của Lƣu Quang Vũ nói riêng. Từ việc tìm ra tính liên văn bản trong đoạn trích

" Hồn Trƣơng Ba, da hàng thịt" của Lƣu Quang Vũ sẽ có những đánh giá sâu

sắc về giá trị nội dung tƣ tƣởng, tầng sâu văn hóa, tinh thần dân chủ trong sáng tác

kịch "Hồn Trương Ba, da hàng thịt" của Lƣu Quang Vũ. Qua đó khẳng định tài

năng nghệ thuật, vị tí tiên phong, vai trò khơi mở, tầm tƣ tƣởng lớn của nhà viết

kịch đồng thời cũng là nhà văn hóa lớn Lƣu Quang Vũ - một nhà văn, nhà viết kịch

xuất sắc thời kỳ đổi mới.

3.2 Nghiên cứu phạm vi, nội dung và phƣơng pháp vận dụng lý thuyết liên

văn bản trong dạy học tác phẩm “Hồn Trƣơng Ba, da hàng thịt” của Lƣu Quang

Vũ trong chƣơng trình Ngữ văn lớp 12.

3.3 Tiến hành thực nghiệm để khẳng định khả năng vận dụng lý thuyết

liên văn bản nhằm nâng cao chất lƣợng dạy học đoạn trích “Hồn Trƣơng Ba, da

hàng thịt” của Lƣu Quang Vũ cho sinh lớp 12.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

4.1 Đối tƣợng nghiên cứu

- Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là Dạy học đoạn trích “Hồn Trƣơng Ba

da hàng thịt” của Lƣu Quang Vũ (Ngữ Văn 12, tập 2) theo hƣớng tiếp cận liên

văn bản.

4.2 Phạm vi nghiên cứu

Vận dụng lý thuyết liên văn bản trong giờ Ngữ văn ở lớp 12 nói chung và giờ

dạy học đoạn trích “Hồn Trương Ba da hàng thịt” của Lƣu Quang Vũ (Ngữ văn 12,

tập 2) nói riêng.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng phối hợp các phƣơng pháp nghiên cứu thuộc hai nhóm

phƣơng pháp nghiên cứu lý thuyết và nghiên cứu thực tiễn:

- Phƣơng pháp lịch sử xã hội: Tìm hiểu lý thuyết liên văn bản trong các tiến

trình lịch sử và hình thành bối cảnh xã hội Châu Âu. Từ đó lƣợc giản những vấn đề

cốt lõi nhất của lý thuyết liên văn bản, ứng dụng khía cạnh của lý thuyết phù hợp để

phân tích tác phẩm "Hồn Trương Ba, da hàng thịt" của Lƣu Quang Vũ trong bối

cảnh xã hội Việt Nam. Ngƣời viết khi ứng dụng lý thuyết liên văn bản vào dạy học

đoạn trích "Hồn Trương Ba, da hàng thịt" của Lƣu Quang Vũ sẽ đặt tác phẩm vào

9

tiến trình vận động của văn học Việt Nam suốt chặng đƣờng từ năm 1945 đến hết

thế kỉ XX. Soi xét bối cảnh văn hóa xã hội, đặc biệt là xã hội Việt Nam những năm

80 của thời kì đổi mới, những yếu tố khách quan lẫn chủ quan có ảnh hƣởng và tác

động mạnh mẽ đến sáng tác kịch của Lƣu Quang Vũ nói chung và tác phẩm "Hồn

Trương Ba, da hàng thịt" nói riêng. Căn cứ vào bối cảnh xã hội có thể nhận xét

đúng đắn về vị trí và vai trò của nhà văn và tác phẩm.

- Phƣơng pháp loại hình: Xem xét và phân tích tác phẩm từ lí thuyết loại hình

(kịch) ngƣời viết sẽ chú ý đến xung đột kịch, hành động kịch, nhân vật kịch, ngôn ngữ

kịch để nghiên cứu cụ thể. Tuy nhiên đề tài của luận văn là dạy học đoạn trích "Hồn

Trương Ba, da hàng thịt" theo hƣớng tiếp cận liên văn bản nên khi xem xét tác phẩm

kịch "Hồn Trương Ba, da hàng thịt" của Lƣu Quang Vũ sẽ không đi sâu vào loại hình

kịch mà nhƣờng chỗ cho thuật ngữ liên văn bản mà ngƣời viết sẽ sử dụng.

- Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp lý thuyết: luận văn sẽ phân tích đoạn trích

"Hồn Trương Ba, da hàng thịt" của Lƣu Quang Vũ theo tiêu chí nhất định. Có thể

theo đề tài, theo chủ đề, theo kiểu nhân vật,...Trên cơ sở đó sử dụng phƣơng pháp

phân tích sâu một số nhân vật, hoặc tình tiết quan trọng của tác phẩm. Trên cơ sở

phân tích sẽ có những đánh giá mang tính tổng hợp, khái quát.

- Phƣơng pháp phân loại cấu trúc, hệ thống hóa lý thuyết: Ngƣời viết sẽ xem

xét cấu trúc của tác phẩm, mối quan hệ giữa tác giả, tác phẩm, ngƣời đọc, ngƣời

xem. Tìm hiểu sự vận động về nhận thức, tình cảm của nhà văn và nhân vật trong

quá trình sáng tác. Qua việc xem xét cấu trúc bên ngoài và bên trong của tác phẩm.

Ngƣời viết sẽ hệ thống theo cách diễn giải của thuật ngữ liên văn bản thành chƣơng

mục cụ thể.

- Phƣơng pháp mô hình hóa, quan sát, điều tra, thực nghiệm: để nắm bắt đƣợc

những khó khăn của học sinh và giáo viên khi dạy và học thể loại kịch nói chung và

cảm thụ đoạn trích "Hồn Trương Ba, da hàng thịt" của Lƣu Quang Vũ nói riêng

chúng tôi đã phát phiếu khảo sát thực trạng dạy và học đoạn trích "Hồn Trương Ba,

da hàng thịt" cho giáo viên dạy Ngữ văn và học sinh lớp 12 ở trƣờng THPT Gia Lộc

II ( Thị trấn Gia Lộc - Gia Lộc - Hải Dƣơng) để làm cơ sở cho đề tài nghiên cứu làm

cho việc nghiên cứu đề tài đƣợc sát thực, góp phần nâng cao hiệu quả trong dạyhocj

đoạn trích "Hồn Trương Ba, da hàng thịt" của Lƣu Quang Vũ theo hƣớng tiếp cận

10

liên văn bản.

Ngoài ra chúng tôi còn tiến hành thực nghiệm sƣ phạm bằng cách soạn giáo

án và giảng dạy đoạn trích "Hồn Trương Ba, da hàng thịt" của Lƣu Quang Vũ theo

hƣớng tiếp cận liên văn bản bằng những đề xuất của luận văn.

- Phƣơng pháp so sánh đối chiếu: Đối với đề tài ứng dụng vận dụng lý thuyết

liên văn bản trong một tác giả, tác phẩm cụ thể luôn phải dùng đến phƣơng pháp so

sánh đối chiếu. Ngƣời viết sẽ đói chiếu với các văn bản ra đời trƣớc đó. Đặc biệt đối

chiếu kịch bản "Hồn Trương Ba, da hàng thịt" của Lƣu Quang Vũ với truyện cổ tích

dân gian cùng tên để tìm ra sự tƣơng đồng và khác biệt, chỉ ra những sáng tạo của

nhà văn khi sử dụng liên văn bản. So sánh đối chiếu để thấy đƣợc những đặc sắc

trong nghệ thuật và cả tính sáng tạo, khả năng khơi mở những sáng tạo của nhà văn.

Ngoài ra, ngƣời viết có thể dùng phƣơng pháp thống kê phân loại, phƣơng

pháp liên hóa văn hóa - văn học, văn học và sân khấu. Tất cả các phƣơng pháp sẽ

mở ra những tiếp cận thú vị cho sự sản sinh vô tận "tính năng sản" của văn bản- một

thuộc tính cơ bản của tính liên văn bản.

6. Đóng góp của luận văn

6.1 Với đề tài Dạy học đoạn trích “Hồn Trương Ba da hàng thịt” của Lưu

Quang Vũ ( Ngữ văn 12, tập 2) theo hướng tiếp cận liên văn bản, ngƣời viết cố gắng

hệ thống hóa những kinh nghiệm vận dụng lý thuyết liên văn bản trong dạy đọc

hiểu văn bản văn học ở THPT.

6.2 Đồng thời, đề xuất những biện pháp khả thi nhằm vận dụng lý thuyết liên

văn bản vào dạy học tác phẩm “Hồn Trương Ba da hàng thịt” của Lƣu Quang Vũ

trong chƣơng trình Ngữ văn lớp 12, nhằm nâng cao chất lƣợng và hiệu quả của việc

dạy Ngữ văn ở nhà trƣờng THPT hiện nay.

7. Cấu trúc của luận văn:

Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận

văn gồm 3 chƣơng:

- Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài

- Chƣơng 2: Phạm vi, nội dung và phƣơng pháp dạy học đoạn trích “Hồn

Trương Ba da hàng thịt” của Lƣu Quang Vũ (Ngữ Văn 12, tập 2) theo hƣớng tiếp

cận liên văn bản

- Chƣơng 3: Thực nghiệm sƣ phạm: Dạy học đoạn trích “Hồn Trương Ba da

11

hàng thịt” của Lƣu Quang Vũ (Ngữ văn 12, tập 2) theo hƣớng tiếp cận liên văn bản

CHƢƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI

1.1 Lý thuyết liên văn bản

1.1.1 Nguồn gốc lý thuyết liên văn bản

“Thuật ngữ liên văn bản (intertextuality) lần đầu tiên xuất hiện do J.Kristeva

sử dụng trong một tham luận về sáng tác của M.M. Bakhtin đọc tại Xeemina do

R.Barthes chủ trì vào mùa thu năm 1966. Mùa thu năm 1967, tham luận đƣợc công

bố dƣới dạng một bài báo có nhan đề : Bakhtin, lời nói, đối thoại và tiểu thuyết. Và

ngoài ra còn hàng loạt các công trình của J. Kristeva liên quan trực tiếp đến bài báo

này, ví nhƣ “Lời nói đầu” viết cho bản dịch sang tiếng Pháp cuốn Những vấn đề thi

pháp Dostoevski (Một nền thi pháp học sụp đổ, 1970), hoặc tuyển tập Semeiotikē.

Những công trình nghiên cứu lí thuyết biểu nghĩa (1969) và cuốn Văn bản tiểu

thuyết (1970)

Dù nhận đƣợc sự ủng hộ nhiệt tình của nhóm “Tel Quel” đứng đầu

là Philippe Sollers, lí thuyết liên văn bản của Kristeva, một cô gái Bungaria mới 25

tuổi, đƣợc giới trí thức Pháp ở Paris thời ấy tiếp nhận hết sức dè dặt. Sau này, phải

nhờ vào uy tín của R. Barthes, ngƣời hết lòng ủng hộ và phát triển một cách độc đáo

– trong cuốn S/Z (1970), và những bài báo, tiểu luận, ví nhƣ Từ tác phẩm đến văn

bản (1971), Văn bản (lí luận văn bản) (1973), Khoái cảm văn bản (1973) của ông –

những luận điểm cơ bản của lí thuyết liên văn bản mới đƣợc cấp “quyền công dân”,

nhập vào đời sống khoa học, trở thành đối tƣợng phân tích và giải thích rộng rãi.

Trƣớc tiên, phải nhấn mạnh, việc phân tích và diễn giải nguyên tắc “đối thoại” của

Bakhtin đƣợc Kristeva thực hiện dƣới ánh sáng “triết học đa bội” của chủ nghĩa hậu

cấu trúc (J. Derrida, G. Deleuze…), cho nên cần chỉ ra sự tƣơng đồng và khác biệt

giữa triết học này và triết học của M. Bakhtin.”

Liên văn bản là một trong những thuật ngữ đƣợc sử dụng nhiều nhất nhƣng

đồng thời cũng là một trong những thuật ngữ khó xác định nhất trong lý thuyết văn

học nửa sau thế kỷ XX. Kể từ khi đƣợc gọi tên bởi nhà nghiên cứu trẻ ngƣời Pháp

gốc Bulgaria, Julia Kristeva vào khoảng những năm 1966-1967, lý thuyết về tính

12

liên văn bản cho đến nay đã có một lịch sử gần nửa thế kỷ. Trong quá trình hình

thành và phát triển, lý thuyết này đã đƣợc sử dụng với nhiều tên gọi khác nhau: Đối

thoại, liên ý thức, tiếp xúc văn bản, ngữ cảnh,...Đồng thời cách tiếp cận lý thuyết

liên văn bản của mỗi nhà nghiên cứu: triết học, mỹ học và lý luận, phê bình văn

học,…lại có những lập trƣờng và lý giải tƣơng đối khác biệt.

M.Bakhtin và N. Voloshilov sử dụng liên văn bản để nghiên cứu trong các

công trình nghiên cứu ngôn ngữ và văn học, thi pháp học và phƣơng pháp luận xã

hội, chống hình thức chủ nghĩa và ngữ nghĩa học mĩ học. Thuật ngữ liên văn bản lần

đầu tiên đƣợc J.Kristeva sử dụng (1967) trên cơ sở phân tích quan niệm "tiểu thuyết đa

thanh" của M.Bakhtin. [1]

Liên văn bản theo nghĩa nguyên khởi của thuật ngữ là cơ chế vận hành hiện

thực đƣợc văn bản hóa, nằm ngoài ý muốn của tác giả văn bản lại do tâm thức của thế kỉ

XX sinh ra. Chính trong thế kỉ này liên văn bản đã trở thành quan niệm trung tâm về

một bức tranh thế giới xác định, cụ thể là quan niệm thế giới nhƣ một văn bản, điều này

đƣợc thể hiện trong nhiều tác phẩm văn học hiện đại. Chính khái niệm liên văn bản đã

làm thay đổi cả cách nhìn về tính điển phạm, dẫn đến việc lật đổ các hệ thống giá trị

cũ, mở ngỏ cho sự lên ngôi của nhiều luồng văn học vốn trƣớc đó bị xem là ngoài lề,

thậm chí hoàn toàn bị quên lãng.

Tiếp cận liên văn bản xem mỗi sự sinh thành của văn bản là một hiện tƣợng

quan hệ, một quá trình kết nối, tƣơng tác, đối thoại của văn bản trong mạng lƣới diễn

ngôn xã hội. Văn bản có những mối quan hệ liên văn bản trong mạng lƣới từ cấp độ vi

mô đến vĩ mô: kí ức ngôn ngữ, sự biến tấu và tái sinh các thủ pháp, mô-típ, hình

tƣợng, sự mô phỏng, nhại, vay mƣợn, trích dẫn, chuyển thể, chuyển dịch, biến đổi,

ảnh hƣởng, đọc sai, ám chỉ, đạo văn, pha trộn thể loạiTrong cách tiếp cận này, bất cứ một

văn bản nào cũng có tiềm năng trở thành chất liệu của một văn bản khác ra đời sau nó, bất

cứ một văn bản nào cũng đƣợc giả thiết là sự đối thoại, chồng xếp, đồng quy vô số

văn bản khác nhau. Tiếp cận liên văn bản đòi hỏi ngƣời nghiên cứu tiến dẫn văn bản

vào mạng lƣới văn bản xã hội, diễn ngôn ý thức hệ và diễn ngôn tập thể, trong đó bất

kì văn bản nghệ thuật nào cũng là kết quả của thực tiễn thƣơng thỏa nghệ thuật, nơi

13

mà những gì biệt lập, cô lập đều bất khả và không có tƣơng lai.

1.1.2 Khái niệm liên văn bản

1.1.2.1 Sơ lược về lý thuyết liên văn bản

Liên văn bản là một khái niệm đƣợc sử dụng rộng rãi nhất trong giới, phê bình

văn học thế giới nửa cuối thể kỉ XX và những năm đầu thế kỉ XXI. Có thể nói việc

phát hiện ra liên văn bản đã tạo nên một cuộc "cách mạng" trong tƣ duy văn học,

thay đổi một cách mạnh mẽ các quan niệm về văn chƣơng. Định nghĩa một cách khái

quát và tƣơng đối, ngƣời ta chia ra hai loại liên văn bản: Kinh Điển và Hậu hiện đại.

Liên văn bản theo quan niệm kinh điển, biểu hiện bởi sự liên hệ trực tiếp giữa

văn bản này và những văn bản khác. Khái niệm liên văn bản gắn liền với ba tên tuổi

Jacques Derrida, Roland Barthes và Julia Kristeva - những lý thuyết gia tiên phong

trong trào lƣu giải cấu trúc và phê bình hậu hiện đại. Nếu Jacques Derrida là ngƣời

đầu tiên khởi động ý tƣởng "không có gì ngoài văn bản" để manh nha những ý thức

phôi thai về vai trò của liên văn bản (intertextuality) thì Roland Barthes mới là kẻ đi

đầu trong sự cổ xuý và quảng bá tƣ tƣởng này nhƣ một bƣớc đột phá lớn - đƣa văn học

từ điểm nhìn gò bó và tù hãm dựa trên hệ lý thuyết cấu trúc luận (structualism) sang

một cách nhìn rộng hơn, sâu hơn và nhiều tự do hơn của lý thuyết giải cấu trúc

(deconstruction). Chính văn bản mới là động lực hƣớng dẫn sự hành ngôn chứ không

phải chủ thể của hành động hành ngôn - một khi đã bắt đầu, tính chất liên văn bản sẽ

khởi động một động hƣớng có tính cách dây chuyền để làm bộc lộ càng lúc càng

nhiều thêm những văn bản khác. Kết quả, ngƣời đọc (và cả ngƣời viết) sẽ có một cuộc

du hành kỳ thú qua nhiều chặng đƣờng lịch sử, xã hội, tâm lý hay trải nghiệm sự tƣơng

tác giữa các nền văn hoá khác nhau.

Khái niệm liên văn bản nảy sinh từ tƣ tƣởng cơ bản của chủ nghĩa hậu hiện đại về

vai trò tích cực của môi trƣờng văn hóa - xã hội trong quá trình khám phá và tri nhận

thế giới. Khái niệm liên văn bản nhắc nhở cho ngƣời đọc nhận biết một cách có ý thức

rằng mỗi văn bản tồn tại trong sự liên hệ với văn bản khác, có thể xuất hiện trƣớc hoặc

cùng thời. Thực tế văn bản lệ thuộc vào những văn bản khác còn nhiều hơn vào

chính ngƣời tạo ra nó. Tính chất này đã đƣợc Michel Foucault, cha đẻ của một trong

những trƣờng phái Tân Lịch Sử (New Historicism) thuộc trào lƣu hậu hiện đại nhấn

mạnh: "Những biên thuỳ của một cuốn sách không bao giờ rõ ràng, bên kia trang bìa

14

ghi ra tựa đề cuốn sách bắt đầu từ những dòng đầu tiên cho đến khi cuốn sách ngưng

lại ở dấu chấm cuối cùng, vượt ra ngoài cấu trúc nội tại và hình thức tự thân của

cuốn sách ấy" [58, tr. 23]

Khái niệm liên văn bản trong trào lƣu hậu hiện đại đã tạo nên một lối đọc mới,

lạ và mang tính chất cách mạng khi tiếp cận một văn bản, để thƣởng thức đối với

ngƣời thuần tuý biết đọc hay để thẩm định, phân tích dƣới quan điểm của một nhà phê

bình. Sẽ không còn biên giới của văn bản, của thể loại, sẽ không còn có bất cứ nghi

vấn nào về trong hay ngoài văn bản, ngay cả sự phân biệt giữa văn bản và ngữ cảnh

(context) cũng dần dần biến mất khi ứng dụng lý thuyết liên văn bản. Một kịch bản

chuyển thể từ tác phẩm văn học sang phim ảnh là một ví dụ minh hoạ điển hình cho sự

xoá đi các biên cƣơng của văn bản, hay ngƣợc lại một cuốn sách đƣợc viết sau khi một

bộ phim đã trình chiếu. Những lý thuyết gia hậu hiện đại còn cho rằng: văn bản trong

bất cứ môi trƣờng nào, không nhất thiết phải là văn bản điện tử (hypertextualtext), đều

chứa đựng một đặc tính tƣơng tự; một kịch bản có thể liên hệ đến nhiều văn bản văn học,

lịch sử, văn hoá, xã hội hoặc ngƣợc lại.

Khái niệm liên văn bản về cơ bản có thể hiểu: Chiều ngang (chủ thể - ngƣời

nhận) và chiều dọc (văn bản - văn cảnh) cùng hiện diện làm sáng tỏ một thực tế quan

trọng. Mỗi từ (văn bản) là một giao tuyến của từ (các văn bản) nơi mà ít nhất một từ

khác (văn bản khác) có thể đọc đƣợc. Kristeva quy cho văn bản trong giới hạn của hai

trục: trục ngang kết nối giữa tác giả và ngƣời đọc văn bản, trục dọc kết nối giữa văn bản

với các văn bản khác. [58, tr.6-9]

Mọi văn bản đều là liên văn bản ở những cấp độ khác nhau, trong hình thức

đƣợc nhận biết ít hay nhiều, bao giờ cũng hiện diện những văn bản khác những văn

bản của văn hoá trƣớc đó và những văn bản của văn hoá bao bọc xung quanh. Theo

nghĩa rộng nhất khái niệm này có thể đƣợc xác định là "sự tương tác của các văn bản",

nhƣng tùy thuộc vào các lập trƣờng triết học và nghiên cứu của nhà khoa học mà

nội dung cụ thể của nó có thể biến đổi. Chúng tôi đƣa ra quan niệm "Liên văn bản là

sự đồng hiện của hai hay nhiều văn bản (ra đời trước đó hay cùng thời) trong một văn

bản (cùng thời hoặc sau đó) được tác giả tạo lập bằng ý thức hoặc vô thức. Người đọc

tiếp nhận trong thực tiễn giao tiếp nghệ thuật bằng vốn sống, trải nghiệm, tri thức

15

của bản thân họ. Từ đó các giá trị văn hóa sẽ không ngừng nảy sinh từ văn bản.

1.1.2.2 Liên văn bản như là một thuộc tính của văn bản

Từ khái niệm liên văn bản mà J. Kristeva đã nêu ra, Roland Barthes đã tạo

cho nó một cái tên ngắn gọn và mạnh mẽ hơn: văn bản. Barthes nhấn mạnh, về mặt

thuật ngữ, “văn bản” có nghĩa là “tấm dệt”, “mạng lƣới”, “tấm vải”, và nếu vào

những năm 1970, nguyên mẫu của văn bản của Barthes thƣờng là “thiên hà của

Gutenbeg”, hoặc “thƣ viện” của Borges, thì ngày nay, hình ảnh thích hợp nhất với

nó là “siêu văn bản” máy tính - một “tấm dệt”, “mạng lƣới toàn thế giới”.

Vào năm 1970, trong cuốn S/Z, Barthes đã mô tả văn bản dƣới dạng mở rộng

nhƣ là tính “đa bội đắc thắng”: “một văn bản lý tưởng như thế nào đầy ắp vô lối đi

giao cắt nhau ở bên trong, không áp chế lẫn nhau, nó là mạng lưới của những cái

biểu đạt, chứ không phải là cấu trúc của những của những cái được biểu đạt, nó

không có mở đầu, nó không mang tính khả hồi, có thể thâm nhập vào đó qua vô

khối cửa ngõ, nhưng không một lối nào được coi là chính đạo, chuỗi mã do nó khởi

động đã biến mất ở đâu đó trong cõi xa xăm vô tận, chúng “bất khả giải”, cho nên

mọi sự giải quyết mang tính ngẫu nhiên, nhiều hệ thống ngữ nghĩa khác nhau có

khả năng sở đắc cái văn bản cực kì đa bội ấy, nhưng phạm vi của chúng không khép

kín, bởi vì mực thước của những hệ thống như vậy là tính vô tận của bản thân ngôn

ngữ”. [55, tr14 -15]

Có những đặc điểm chính yếu đƣợc Barthes đề cập đến trong khái niệm văn

bản (liên văn bản, siêu văn bản) : “Liên văn bản đƣợc hiểu nhƣ là thuộc tính bản thể

của mọi văn bản, “bất kỳ văn bản nào cũng là liên văn bản”[58, tr 444-445] - tức là

đƣợc nhận định nhƣ là sự xóa nhòa ranh giới giữa các văn bản của các tác giả riêng

rẽ, giữa văn bản văn học cá nhân và văn bản vĩ mô của truyền thống, giữa các văn

bản thuộc các thể loại và loại hình khác nhau (không nhất thiết là mang tính nghệ

thuật) giữa văn bản và độc giả và cuối cùng, giữa các văn bản và hiện thực. Nhƣ

vậy, liên văn bản mô tả không phải các hiện tƣợng văn học, mà một quy luật khách

quan nào đấy của sự tồn tại của loại ngƣời nói chung (theo L.P.Rjanskaya - Liên văn

bản - sự xuất hiện của khái niệm về lịch sử và lý thuyết của vấn đề).

Chính đây là cách diễn dịch gốc “từ ruột mà ra” của thuật ngữ liên văn bản -

lần đầu tiên xuất hiện trong công trình của J.Kristeva Bakhtine, ngôn từ, đối thoại và

16

tiểu thuyết. Về sau, khái niệm liên văn bản đƣợc các nhà Hậu cấu trúc luận Pháp

(R.Barthes, J.Derrida) triển khai, vay mƣợn với ý nghĩa gần nhƣ nghĩa gốc. Theo

quan niệm của họ, thế giới hiện ra với chủ thể trong ngôn ngữ: cả thế giới, cả tâm lý

của chủ thể đều đƣợc cấu trúc theo các quy luật ngôn ngữ, ngôn ngữ bị mất đi chức

năng biểu hiện và không còn là cái biểu đạt siêu nghiệm, và nhƣ vậy, ý nghĩa nảy

sinh không phải trong sự mô phỏng mà trong ký hiệu, tức là trong trò chơi tự do với

nghĩa của các văn bản văn hóa - trò chơi ngôn ngữ.

Nhƣ R. Barthes viết: “mỗi văn bản đều là liên văn bản đối với một văn bản

khác”[18, tr.344] nhƣng không nên hiểu tính liên văn bản này theo kiểu là văn bản

có một nguồn gốc nào đó; mọi sự tìm kiếm “cội nguồn” và “ảnh hƣởng” là phù hợp

với huyền thoại về quan hệ huyết thống của tác phẩm, văn bản thì lại đƣợc tạo nên

từ những trích đoạn vô danh, không nắm bắt đƣợc nhƣng đồng thời lại đã từng đƣợc

đọc - những trích đoạn không để trong ngoặc kép. Tức là theo R.Barthes, bất kỳ văn

bản nào cũng đƣợc hiểu nhƣ một không gian đa chiều, nơi có rất nhiều văn bản va

đập và xáo trộn vào nhau mà không một cái nào là gốc cả. Vào nửa sau thập niên

80, các nhà Giải cấu trúc luận Mỹ - nhƣ M.Fucault - đã phát triển khái niệm liên văn

bản bao trùm “các kiểu thực hành diễn ngôn” trong tất cả các lĩnh vực tri thức: tôn

giáo, sử học, xã hội học...

Theo các nhà nghiên cứu quốc tế, phát hiện về tính liên văn bản vào giữa thập

niên 60 đƣợc đánh giá nhƣ vụ nổ khai thiên (Big Bang) trong lĩnh vực ngôn ngữ

học: nó phá vỡ khái niệm văn bản truyền thống và làm cho hai khái niệm văn bản và

liên văn bản trở thành đồng nghĩa; nó còn làm thay đổi hẳn trọng tâm của phê bình

và nghiên cứu văn học. Nó cũng làm thay đổi mối quan hệ giữa tác giả, tác phẩm và

ngƣời đọc...

Trƣớc hết, ta cần chú ý là: việc phát hiện ra tính liên văn bản đã làm thay đổi

hẳn khái niệm văn bản đã khá thông dụng trƣớc đó. Để làm nổi bật các đặc điểm của

văn bản (nhƣ một liên văn bản), R.Barthes đã so sánh khái niệm văn bản (text) với

khái niệm tác phẩm (work) theo ông, trong khi tác phẩm là một cái gì cụ thể, đã

hoàn tất, chiếm một không gian nhất định trong thế giới sách vở - thì văn bản lại chỉ

là một lĩnh vực mang tính phƣơng pháp luận; tác phẩm là những gì đƣợc phô bày ra,

văn bản lại là tiến trình hiện thực hóa việc phô bày ấy bằng ngôn ngữ. Nếu văn học

17

là thế giới của các kí hiệu, tác phẩm gần với những cái biểu đạt, vốn tƣơng đối dễ

diễn dịch thì văn bản lại là chuỗi dài của những cái đƣợc biểu đạt. Những cái đƣợc

biểu đạt này liên hệ đến những cái đƣợc biểu đạt khác, kết quả là văn bản chỉ có thể

tồn tại trong một động thái sản xuất, hình thành từ sự dao động miên man giữa sự có

mặt và vắng mặt của những cái đƣợc biểu đạt khác nhau. Những sự có mặt và vắng

mặt này vốn vô tận. Do đó, động thái sản xuất cũng kéo dài liên tục - và cũng do đó,

văn bản tất yếu mang tính đa nguyên, nó không giới hạn trong một ý nghĩa nhất định

và cố định nào cả; nó luôn luôn dẫn đến một cái gì khác, ngoài nó.

Tác phẩm và văn bản liên quan tới hai dạng khác nhau của ý thức con ngƣời.

Tác phẩm gắn với ý thức cá nhân của chủ thể ý chí (tác giả) còn văn bản - nhƣ đã

nêu trên - gắn với ký ức vô thức của văn hóa. Văn bản có sự phong phú ngữ nghĩa

vô hạn, còn phạm vi đọc và kinh nghiệm văn hóa đƣợc ý thức nói chung của mỗi tác

giả là có giới hạn, nó chỉ giành lại cho hoạt động liên văn bản của anh ta một lãnh

địa rất hẹp (bắt chƣớc, mô phỏng, nhại, trích dẫn kín đáo hay công nhiên, dùng điển,

hồi tƣởng theo kiểu mơ hồ, hỗn độn). Chính vì thế, phía sau mỗi tác phẩm bao giờ

cũng thấy nổi lên khối văn bản khổng lồ, trong đó cái “đƣợc nói” bao giờ cũng lớn

gấp bội so với điều bản thân tác phẩm “muốn nói”, vì văn bản không chỉ ghi nhớ

nền văn hóa trƣớc và cùng thời với tác giả, mà còn ghi nhớ cả nền văn hóa của

tƣơng lai. Theo Barthes, tác phẩm bao giờ cũng nghèo hơn gấp bội so với văn bản

của mình, và chính cảm giác về sự khiếm khuyết ngữ nghĩa của mình sẽ trở thành

động lực khêu gợi ý thức tác giả (cũng nhƣ ý thức ngƣời đọc) khát vọng vƣợt qua

bản thân và những giới hạn của mình. Tác giả cần phải “quên mình”, quên “cái tôi”

cá nhân và tác phẩm của mình, “vui vẻ chết nhƣ cày xong thửa ruộng” hân hoan

chết đi trong văn bản và khi ấy ký ức của văn bản, ký ức chứa vào bản thân “tất cả”,

sẽ tự nói lên ở trong đó. Từ đây, Barthes đi đến một kết luận quan trọng: tác giả

không còn là nguồn cung cấp và bảo chứng cho ý nghĩa của tác phẩm nữa. Thậm

chí, tác phẩm cũng không thể đƣợc xem nhƣ sự phát ngôn của tác giả: đó chỉ là nơi

ngôn ngữ hành động và trình diễn. Barthes đã có một cách diễn tả độc đáo và gây ấn

tƣợng thật mạnh: “Tác giả đã chết”. Từ năm 1968, Barthes đã nhạy bén chỉ ra “sự

cáo chung vai trò chủ quyền của tác giả - cũng là “sự ra đời” của ngƣời đọc và vận

mệnh văn bản không phải tùy thuộc vào xuất xứ mà đƣợc xác định bởi đích đến của

18

nó: “Ngƣời đọc”. Ta có thể hiểu một cách dung dị là: tính chất liên kết từ văn bản

này đến văn bản khác không phải chỉ hàm chứa hành động chủ ý của tác giả mà thực

ra, ở nhiều trƣờng hợp, ý nghĩa của văn bản nằm ngoài mọi hành động ý thức của

ngƣời viết, thay vào đó, nó đƣợc phát hiện bởi ngƣời đọc - ngƣời đọc và chỉ có

ngƣời đọc đã tạo nên tên tuổi của tác giả văn bản. Nhƣ thế, sự phát hiện ra tính liên

văn bản cũng đồng thời là sự phát hiện ra ngƣời đọc.

Đây là một trong những phát hiện quan trọng nhất trong sinh hoạt phê bình

văn học thế giới ở thế kỷ XX.

Trƣớc đây, trong thời kỳ văn học Cổ đại và Trung đại, chiếm vị trí trung tâm

trong tƣ tƣởng văn học với các nhà cổ điển phƣơng Tây là hiện thực và bản tính con

ngƣời, với các nhà cổ điển Trung Hoa và Việt Nam là “đạo”, “chí”, “khí” hay “lý”.

Mối quan tâm chính của họ không phải là các yếu tố tác giả, văn bản hay ngƣời đọc

mà là vấn đề bản chất, chức năng và thể loại của văn học.

Song đến khi, tập trung vào các vấn đề bản chất, chức năng và thể loại văn học

ngƣời ta đều phải đề cập đến quan hệ giữa con ngƣời với con ngƣời, với vũ trụ nên

các học giả phƣơng Tây cũng nhƣ phƣơng Đông không thể không nói đến vai trò của

ngƣời đọc (nhƣ Hàn Dũ nói đến “văn dĩ minh đạo”, Chu Đôn Di nói đến “văn dĩ tải

đạo”; hay khi Platon đòi đuổi các nhà thơ ra khỏi vƣơng quốc Cộng hòa, Aristotle nói

đến chức năng thanh tẩy cảm xúc của bi kịch...). Họ chỉ nghĩ đến vậy thôi chứ không

hề công nhận một vai trò nào của ngƣời đọc. Vị trí của ngƣời đọc vẫn ở bên lề (Dẫn

theo Nguyễn Hƣng Quốc [33, tr. 260-263]).

Từ cuối thế kỷ XVIII, với các nhà lãng mạn chủ nghĩa, yếu tố tác giả đã đánh

bật các yếu tố khác để chiếm vị trí trung tâm trong lĩnh vực phê bình, nghiên cứu

văn học. Trên sân khấu văn học, một mình tác giả hiện ra nhƣ những thiên tài với sự

nhạy bén và khả năng tƣởng tƣợng phi thƣờng đến mức trở thành cô đơn, lạc lõng

giữa cuộc đời phàm tục, nói nhƣ Xuân Diệu Ta là Một, là Riêng, là Thứ Nhất, hay

nói nhƣ Vũ Hoàng Chƣơng - nhƣ những kẻ “đầu thai lầm thế kỷ”. Và nhƣ thế, ngƣời

đọc bị đẩy lùi vào quên lãng. Một thời gian dài, ngƣời ta xem mục tiêu của việc đọc

thơ văn là để tìm tòi những bí ẩn giấu kín trong tâm hồn của những thiên tài. Dấu

vết của cách nhìn này vẫn tồn tại dai dẳng đến nay: đó là cảm giác sùng bái đối với

19

khái niệm “độc đáo”, “sáng tạo” và “cảm hứng”, ám ảnh về “cái tôi” của ngƣời nghệ

sĩ, sự nhấn mạnh quá đáng vào yếu tố cảm xúc - quan niệm cho việc đọc, trƣớc hết

là để tìm hiểu tâm tình của một nhà văn hay một nhà thơ.

Từ đầu thế kỷ XX, đã có nhiều cuộc “đảo chính” nổ ra nhằm lật đổ “ngai

vàng” của tác giả. Cả hình thức luận lẫn phê bình mới đều cho rằng những dòng chữ

trên giấy có giá trị hơn hẳn các yếu tố ngoài văn bản nhƣ tiểu sử, ý đồ của tác giả

hay bối cảnh lịch sử và ý thức hệ trong đó tác phẩm đƣợc hình thành - cả hai đều

chủ trƣơng truất phế tác giả nhƣ là một đối tƣợng nghiên cứu chính và cả hai hệ phái

ấy đều loại trừ ngƣời đọc: các nhà hình thức luận không hề quan tâm đến những hồi

âm của ngƣời đọc, còn các nhà phê bình mới thì tuyên bố việc phê bình dựa trên

những ấn tƣợng của ngƣời đọc chỉ là một thứ ngụy luận. Các nhà cấu trúc luận, trên

nguyên tắc, cũng không thừa nhận vai trò của ngƣời đọc trong lĩnh vực nghiên cứu

văn học.

Sang nửa sau thế kỷ XX, khi đi tìm cấu trúc làm nảy sinh ra ý nghĩa, ngƣời ta

dần dần khám phá ra tính liên văn bản, và từ tính liên văn bản, mới khám phá ra

ngƣời đọc. Từ đây, khuynh hƣớng phê bình căn cứ trên những hồi âm của ngƣời đọc

đƣợc ra đời và thay thế khuynh hƣớng phê bình chỉ dựa trên văn bản. Quá trình

khám phá này cũng chính là quá trình tiếp biến từ cấu trúc luận thành Hậu cấu trúc

luận và sau đó là Giải cấu trúc.

1.1.2.3 Vấn đề liên văn bản từ những góc nhìn khác nhau

Quan niệm về tính liên văn bản - một thành quả, phát hiện sáng chói của

J.Kristeva - nhanh chóng nhận đƣợc sự đồng tình ủng hộ của nhiều lý thuyết gia lớn trên

thế giới; những ngƣời sẽ khai triển tính liên văn bản theo nhiều chiều hƣớng khác nhau,

từ những góc nhìn khác nhau, mở rộng nội hàm của nó; biến nó thành một thuật ngữ vừa

đƣợc phổ biến rộng rãi, có tính thời thƣợng, lại vừa phức tạp - thậm chí, chứa đầy nghịch

lý. Sau đây, chúng tôi lƣợc thuật những ý kiến, quan điểm của các lý thuyết gia ấy để

có thêm cái nhìn đa chiều về khái niệm liên văn bản.

Trƣớc hết là M.Riffaterre - một nhà lý luận có vai trò trọng yếu trong việc

phát triển lý thuyết liên văn bản.

Ông đặc biệt quan tâm đến phƣơng diện quan trọng nhất của liên văn bản - sự

tiếp nhận của độc giả nhƣ nguồn cội của các liên văn bản; ông tin tƣởng vào sự tồn

20

tại của một liên văn bản cụ thể và vào khả năng nhận ra đƣợc đúng nó. Riffaterre chỉ

ra sự tƣơng tác giữa ngƣời đọc và văn bản là nguồn gốc biện chứng của ý nghĩa.

Văn bản và ngƣời đọc tạo nên sự thống nhất cần thiết trong hành động đọc, sự thống

nhất mà ông gọi là “hồi đáp có tính cƣỡng bách của ngƣời đọc” và “lực dẫn liên văn

bản”. Tiến trình liên văn bản đƣợc miêu tả đồng thời nhƣ sự hữu lý hóa và dẫn lực.

Hữu lý hóa là phần diễn giải, đi từ một ma trận còn thiếu của ý nghĩa và tính bất hợp

ngữ pháp đến một thông điệp hợp ngữ pháp và có tổ chức trong tiến trình hồi cố của

diễn giải. Trong cơ cấu của hành động đọc có sự hiện diện vô thức của liên văn bản

nhƣ dẫn lực của ngƣời đọc đến một văn bản ngoại lai. Sự hiện diện này có sẵn trong

văn bản nhƣ phần thiếu vắng hay bổ nghĩa. Ngƣời đọc đối diện với một thể hiện có

rào cản, và mong muốn tìm đƣợc phần ma trận không thể hiện ấy. Ông ví phần văn

bản mà ngƣời đọc có đƣợc nhƣ chiếc bánh rán khuyên tròn: trong khi tiêu thụ phần

bánh, ngƣời đọc vẫn cảm thấy chƣa đủ vì sự hiện diện của khoảng tròn trống không

ở giữa. Chính sự khát thèm phần thiếu vắng này mà tiến trình liên văn bản nảy sinh.

Phần thiếu vắng của một văn bản, đƣợc gọi là “liên văn bản”, tựa nhƣ một lời chú

gắn lên ngƣời đọc, buộc họ phải hồi đáp vì nhu cầu hoàn thiện tinh nguyên.

Michel Foucault thì chủ trƣơng “biên giới của một cuốn sách không bao giờ

thực rõ ràng: vượt ra ngoài nhan đề, dòng chữ đầu tiên và dấu chấm cuối cùng,

vượt ra ngoài cấu trúc nội tại và hình thức mang tính tự trị của nó, nó bị bắt gặp

quả tang là đang hòa lẫn vào một hệ thống quy chiếu đến các cuốn sách khác, các

văn bản khác, các câu văn khác: nó chỉ là cái gút trong một mạng lưới lớn. Cuốn

sách không phải là một vật thể chúng ta cầm trên tay... Sự thống nhất của nó thường

biến dạng và rất tương đối”.[58, tr.23]

Ứng dụng vào lĩnh vực thi pháp học trong khuôn khổ của cấu trúc luận,

G.Genette biến khái niệm tính liên văn bản thành tính xuyên văn bản, một khái niệm

khá rộng: thâu tóm cả năm khái niệm khác, nhỏ hơn - liên văn bản, bàng văn bản,

siêu văn bản, cực đại văn bản và cổ văn bản. Chính G.Genette là ngƣời chủ xƣớng

lý thuyết tự sự học về phân loại các kiểu tƣơng tác văn bản.

Harold Bloom tiếp cận khái niệm tính liên văn bản từ cả góc độ tu từ học lẫn

phân tâm học. Theo ông, tất cả mọi văn bản đều là liên văn bản, và liên văn bản lại

21

là sản phẩm của “sự lo lắng về ảnh hƣởng”.

Song, lý thuyết gia có nhiều đóng góp hơn cả trong việc khai triển khái niệm

tính liên văn bản không ai khác hơn là Roland Barthes. Trong bài viết Cái chết của

tác giả hoàn tất hai năm sau bài viết của Kristeva, R.Barthes cho văn bản không

phải là chuỗi từ ngữ toát ra một ý nghĩa duy nhất, cố định mà ngƣợc lại, nó thực

chất là một không gian đa kích thƣớc: ở đó, tụ hội vô số các văn bản đến từ vô số

các nền văn hóa khác nhau - tất cả đều tan loãng vào nhau và không có cái nào thực

sự là độc sáng cả. Ý nghĩa của một văn bản không hoàn toàn nằm bên trong bản

thân nó mà tồn tại trong mối tƣơng tác với các văn bản khác, nghĩa là: giữa các văn

bản khác nhau. Cả Kristeva lẫn Barthes đều nhấn mạnh đến tính ở giữa của văn bản.

Tìm ý nghĩa của một văn bản, dù muốn hay không; trong lúc phải đi sâu vào văn

bản với những từ, những vần, những nhịp, những hình ảnh và cấu trúc câu, đoạn;

ngƣời ta cũng phải đồng thời đi ra ngoài văn bản ấy. Việc đi ra ngoài văn bản nhƣ

thế mở rộng khả tính của ý nghĩa, làm cho ý nghĩa luôn luôn thuộc số nhiều và

không bao giờ thực sự ổn định, đừng nói gì là cố định.

Ngày nay ai cũng phải thừa nhận rằng, văn bản không phải chỉ là công cụ

đƣợc sử dụng để làm chất liệu kiến tạo nên một văn bản khác, văn bản còn là nền

tảng căn bản để tạo nên kinh nghiệm sống của hầu hết các thành viên trong xã hội.

Đơn giản thôi, phần lớn những gì chúng ta biết về thế giới chung quanh, về lịch sử,

về văn hóa, về cuộc sống của loài ngƣời là nhờ vào sách, báo, tạp chí. Chúng ta thu

nhận kiến thức không chỉ bằng cách đến trƣờng qua sách vở mà còn từ phim ảnh,

truyền hình, truyền thanh... rồi máy vi tính nối mạng internet. Một thế giới mới hiện

ra trƣớc chúng ta... khiến ta không thể không tự hỏi mình “Thế giới này đây, nhân

loại trẻ hay già?”.

Thực sự đời sống đƣợc kiến tạo và xây dựng nên từ văn bản ở một mức độ vô

cùng lớn lao và sâu rộng, nó đã trở nên tự động hóa trên chính đối tƣợng tiếp nhận

nhƣ chúng ta thƣờng lãng quên. Có lẽ chính khái niệm Liên văn bản sẽ kéo chúng ta

về với hiện thực, trong đó “chúng ta đang sống trong một xã hội, nơi mà những tri

thức, quan niệm trừu tƣợng của con ngƣời đã đƣợc biểu hiện nhƣ một hiện thực

22

cuộc sống, chứ không phải chúng ta thu nhận tri thức ấy qua cuộc sống.

Liên văn bản, không những xóa nhòa đi ranh giới giữa những văn bản (ở

nhiều thể loại khác nhau) mà còn làm biến mất sự phân chia giữa văn bản và thế

giới của kinh nghiệm” (Dẫn theo Nguyễn Minh Quân [32, tr. 150-163]).

1.1.3 Đặc trƣng của liên văn bản

Đứng ở một đầu là các tác giả hiểu liên văn bản nhƣ một thủ pháp văn học xác

định (trích dẫn, ám chỉ, bình giải, nhại, bắt chƣớc, vay mƣợn) cách hiểu nhƣ thế đòi

hỏi sự hiện diện của văn bản gốc đã có trƣớc và xu hƣớng của tác giả sử dụng văn bản

gốc đó. Trong cách tiếp cận này không có gì mới ngoài thuật ngữ đƣợc dùng để biểu

thị các hiện tƣợng văn học vốn cũng cổ xƣa nhƣ chính văn học.

Ở đầu bên kia liên văn bản đƣợc hiểu nhƣ là thuộc tính bản thể của mọi văn bản

("bất kỳ văn bản nào cũng là liên văn bản", R. Barthes) tức là đƣợc nhận định nhƣ sự

xóa nhòa ranh giới giữa các văn bản của các tác giả riêng rẽ, giữa văn bản văn học cá

nhân và văn bản vĩ mô của truyền thống, giữa các văn bản thuộc các thể loại và loại

hình khác nhau (không nhất thiết là mang tính nghệ thuật), giữa văn bản và độc giả,

giữa các văn bản và hiện thực. Nhƣ vậy liên văn bản mô tả không phải hiện tƣợng văn

học, mà là một quy luật khách quan nào đấy về sự tồn tại của loài ngƣời nói chung.

Nhƣ R. Barthes viết, "mọi văn bản đều là liên văn bản đối với một văn bản khác"

[18, tr.344] nhƣng không nên hiểu tính liên văn bản này theo kiểu là văn bản có một

nguồn gốc nào đó. Nếu liên văn bản nhƣ một thủ pháp văn học, nhƣ sự tƣơng tác của

các văn bản có tác giả bao giờ cũng tồn tại chỉ kiểu loại và những quy luật tƣơng tác

là thay đổi tùy thuộc vào các mã văn học của các thời đại, thì liên văn bản theo nghĩa

nguyên khởi của thuật ngữ - nhƣ là cơ chế vận hành của hiện thực đƣợc văn bản hóa,

nằm ngoài ý muốn của các tác giả văn bản - lại do tâm thức của thế kỷ XX sinh ra. Chính

trong thế kỷ này liên văn bản đã trở thành quan niệm trung tâm về một bức tranh thế giới

xác định, cụ thể là quan niệm thế giới nhƣ một văn bản, điều này đƣợc thể hiện trong

nhiều tác phẩm văn học hiện đại. Quan niệm về liên văn bản nhắc chúng ta mỗi văn bản

luôn tồn tại trong mối quan hệ với những văn bản khác, với ngƣời đọc và tác giả.

1.1.4 Hình thức và nhiệm vụ liên văn bản

1.1.4.1 Các hình thức liên văn bản

Với tham vọng thay thế khái niệm tính liên văn bản do Kristeva đƣa ra, Genette

23

đã đƣa ra năm hình thức liên văn bản theo hệ thống phân loại những kiểu tác động

qua lại giữa các văn bản : liên văn bản (intertextuality) là "mối quan hệ cùng hiện

diện giữa hai văn bản hay một vài văn bản trong một văn bản cụ thể". Cận văn bản

(paratextuality) là quan hệ của văn bản với bộ phận của nó (đầu đề, tiêu đề các

chƣơng, tựa, các ghi chú, đề từ). Cận văn bản biểu thị những yếu tố nằm trên

ngƣỡng cửa của sự diễn giải văn bản, chúng trực tiếp trợ lực và điều khiển sự tiếp

nhận của độc giả đối với phần chính của văn bản. Ngoa dụ văn bản là thuật ngữ

Genette dùng để chỉ hiện tƣợng một văn bản B nào đó (đƣợc ông gọi là hypertext) đƣợc

biến đổi từ một văn bản A nào đó đã tồn tại trƣớc đó (đƣợc gọi là hypotext) mà nó

không hẳn là chỉ bình luận. Thuật ngữ kiến trúc văn bản của Genette có thể hiểu là

mối quan hệ về mặt thể loại của các văn bản. Kiến trúc văn bản không chỉ liên quan

đến "tầm đón đợi" về mặt thể loại của độc giả khi tiếp xúc với văn bản mà còn liên

quan đến hành vi sáng tạo văn bản của nhà văn. Tất nhiên, chính Genette cũng lƣu ý

chúng ta là bản thân kiến trúc văn bản không phải là những "phạm trù riêng biệt và

thuần túy" mà là "sự va chạm, tƣơng tác và chồng lấn lên nhau" giữa các thể loại.

Loại cuối cùng là siêu văn bản. Khái niệm này đề cập đến việc một văn bản bình luận

rõ ràng hoặc không rõ ràng về một văn bản khác. Nhìn chung, Genette tuy trung thành

với những tƣ tƣởng cấu trúc luận nhƣng đã có những cách nhìn mới.

1.1.4.2 Các nhiệm vụ liên văn bản

Có ba nhiệm vụ đang đƣợc đặt ra khi nghiên cứu lí thuyết liên văn bản

- Thứ nhất, giới hạn chính đối tƣợng của lí thuyết liên văn bản, lí thuyết không

cần phát hiện sự gọi tên theo kiểu liên tƣởng, chủ quan các ý nghĩa mà cần phát hiện

các mối liên hệ trực tiếp, hiển nhiên và có thể chứng minh giữa các văn bản, tức là

giữa các trƣờng hợp có sự dịch chuyển ít hay nhiều một văn bản này sang văn bản khác.

- Thứ hai, nghiên cứu bình diện quan hệ của lí thuyết liên văn bản đó là "tổng

thể các quan hệ với những văn bản khác đƣợc tìm thấy bên trong văn bản" (vấn đề văn

bản trong văn bản)

- Thứ ba, đƣa chiều kích sáng tạo "chuyển đổi" liên văn bản lên bình diện thứ

nhất: mệnh đề "tổng hoà các quan hệ với những văn bản khác" trong trƣờng hợp này sẽ

không có nghĩa là sự cộng gộp hay đặt cạnh nhau một cách cơ học, mà là sự xử lí, tinh

chế tích cực. Tác phẩm liên văn bản sẽ kéo toàn bộ tập hợp các văn bản đƣợc nó hấp

24

thụ vào một đầu mối ý nghĩa thống nhất. Một mặt, chúng không triệt tiêu lẫn nhau, mặt

khác tác phẩm sẽ trở thành một chỉnh thể cấu trúc không bị rã ra: "Liên văn bản

không phải là sự tích tụ những tác động khác nhau một cách hỗn loạn và vô nghĩa lí,

mà là hoạt động biến đổi và đồng hoá vô số văn bản do văn bản - hạt nhân trung

tâm - loại văn bản luôn dành về phía mình vai trò ngữ nghĩa " [21,tr.355-391]

1.2 Tính khả thi, điều kiện và ý nghĩa của việc dạy học đọc hiểu văn bản

văn học theo hƣớng tiếp cận liên văn bản trong chƣơng trình ngữ văn THPT

1.2.1 Tính khả thi của việc dạy học đọc hiểu văn bản theo hƣớng tiếp cận

liên văn bản trong chƣơng trình ngữ văn THPT

1.2.1.1 Tính khả thi của việc vận dụng lý thuyết liên văn bản vào dạy học tác

phẩm văn học .

- Do đặc tính của văn bản tạo nên

Trong dạy học Ngữ văn ở trƣờng phổ thông, hoạt động cơ bản nhất là đọc

hiểu văn bản. Để đọc một văn bản cả giáo viên và học sinh đều phải thực hiện một

sự nối kết: nối kết văn bản này với những văn bản khác; không chỉ văn bản văn học

mà còn bao gồm những “văn bản” khác của hoạt động ngôn ngữ, của tập quán xã

hội, của tinh thần dân tộc và thời đại. Việc làm này đƣợc thực hiện tuân theo một

logic tất yếu, phù hợp với bản chất và đòi hỏi của văn bản đƣợc đọc. Đó chính là

đọc văn bản nhƣ một liên văn bản và nếu đƣợc thực thi với mức độ tự giác cao thì

có thể nói đó là đọc văn bản theo tinh thần của Lý thuyết liên văn bản. Hơn nữa, văn

bản còn đƣợc đặt trong mối quan hệ với ngƣời đọc với các văn bản khác để cùng

suy ngẫm về cuộc sống, về con ngƣời, về những điều đang xảy ra, đang đƣợc chứng

kiến, đang va đập vào chúng ta. Vận dụng lý thuyết liên văn bản không chỉ giúp

chúng ta hiểu sâu đặc tính của văn bản nói chung mà còn tạo điều kiện để ta tìm ra

cách tiếp cận phù hợp, đáng tin cậy đối với những tác phẩm mang tâm thức của thời

đại mới và chịu ảnh hƣởng của chủ nghĩa hậu hiện đại đã xuất hiện ngày càng nhiều

trong đời sống văn học cũng nhƣ trong chƣơng trình - sách giáo khoa ngữ văn phổ

thông hiện nay.

Chính vì thế mà ta có thể khẳng định: do đặc tính của văn bản - theo nghĩa

liên văn bản - việc vận dụng lý thuyết liên văn bản vào dạy học đọc hiểu văn bản

văn học ở THPT là hoàn toàn mang tính khả thi.

25

- Do đặc trưng hoạt động đọc làm chỗ dựa

Sự đọc liên văn bản đối với văn bản mang đặc điểm phá vỡ mọi công thức, gò

bó mang tính hình thức để nhằm phát huy cao độ khả năng liên tƣởng, tƣởng tƣợng

và năng lực nhạy bén, xử lý các vấn đề của ngƣời dạy, ngƣời học khi đối diện với

văn bản. Lối đọc này mang tính cách mạng khi tiếp cận một văn bản, giúp ngƣời

đọc (giáo viên, học sinh) không chỉ biết cảm nhận, thƣởng thức mà còn biết phân

tích, thẩm định một văn bản dƣới con mắt của nhà phê bình. Lý thuyết của việc đọc

mới - theo Nguyễn Minh Quân - cần chú ý đến những khía cạnh sau đây:

Tính tự giác: thƣờng thì một văn bản đƣợc viết theo lối liên văn bản một cách

có ý thức sẽ làm cho văn bản đó vƣợt hẳn ra ngoài chủ định của ngƣời viết. Tác

động của ngôn ngữ làm cho văn bản đi ra ngoài tầm nhận thức của chính tác giả -

ngƣời viết. Còn với văn bản đƣợc viết theo bản năng tự phát - bằng lối đọc liên văn

bản, ta có thể khám phá ra những động hƣớng ẩn tàng bên trong văn bản song khó

có thể triển hạn thật xa văn bản đó.

Tính biến đổi: tính chất biến đổi một sự kiện, một tƣ liệu, một văn bản gốc

bằng chính ý thức của ngƣời viết (bằng cách bắt chƣớc, châm biếm, xoáy vặn hoặc

sắp xếp lại những chất liệu sẵn có) càng tinh tế bao nhiêu, ý thức về liên văn bản của

ngƣời viết càng sâu sắc bấy nhiêu.

Tính minh bạch: nói đến những nguồn tƣ liệu lịch sử và văn học đƣợc sử

dụng để lịch sử hóa một tác phẩm văn học và văn học hóa một sự kiện lịch sử.

Tính phê bình trong sự nhận thức: quá trình đọc với một văn bản viết theo

lối liên văn bản cần đƣợc tiến hành theo bốn giai đoạn: phân tích, phá vỡ, kiến tạo

và diễn dịch.

Mức độ tiếp nhận và hợp nhất: ngƣời đọc nên ý thức về kỹ năng tiếp nhận,

đan xen và hợp nhất các chất liệu từ các nguồn khác nhau vào trong một văn bản bởi

nhiều khi, sự kết hợp khéo đến mức chúng ta khó nhận ra tính tƣơng liên của những

tầng ý nghĩa trong việc xếp đặt đó.

Tính vƣợt thoát cấu trúc: ngƣời đọc tìm hiểu xem văn bản đƣợc trình bày nhƣ

thế nào trong một bối cảnh lớn về thể loại, hoàn cảnh hay ngôn ngữ... để có thể phân

tích và diễn dịch - mà đầu tiên là cần phá bỏ trung tâm cấu trúc để giải phóng mọi

thành tố và tạo cho chúng một sự hoạt tác tự do - đây cũng là nơi thể hiện tài năng

26

của ngƣời đọc [32, tr. 150- 163].

- Do yêu cầu của mục tiêu dạy học

Dạy học ngữ văn - cụ thể là dạy đọc hiểu văn bản - ở trƣờng phổ thông không

phải là nghiên cứu phê bình văn học song lại có mối liên hệ tất yếu với nó. Trƣớc

khi nói đến các mục tiêu dạy học - đƣơng nhiên ngƣời dạy, ngƣời học phải có đƣợc

ý niệm đúng và có nhận thức sâu sắc về những văn bản văn học đƣợc dạy học trong

nhà trƣờng. Ngƣời giáo viên dạy văn không thể không tiếp cận các lý thuyết nghiên

cứu phê bình văn học “mới” (trong đó có Lý thuyết liên văn bản) để tự mình tìm

hiểu, khám phá, kiến tạo và từ đó, hƣớng dẫn học sinh cùng tìm hiểu, khám phá,

kiến tạo ý nghĩa những văn bản văn học đƣợc quy định dạy học trong nhà trƣờng.

Trong mục tiêu dạy học cần phải đạt tới của giờ học, cần xác định rõ trật tự

ƣu tiên: các tri thức về phƣơng pháp, tri thức về cách đọc là quan trọng hơn và phải

đứng ở vị trí hàng đầu so với tri thức cụ thể về một văn bản cụ thể (bởi vì, tri thức

cụ thể kia rõ ràng sẽ bị/ đƣợc thay đổi qua từng lần đọc, qua từng trƣờng hợp đọc).

Đƣa tinh thần lý thuyết liên văn bản vào dạy học đọc hiểu văn bản, chúng ta sẽ nhận

ra những bất cập của kiểu “tổng kết” bài học lâu nay, của cách thiết kế nội dung cho

mục Yêu cầu cần đạt hay mục Ghi nhớ trong sách giáo khoa Ngữ văn hiện hành.

Chính mục tiêu dạy học mới yêu cầu việc vận dụng lý thuyết liên văn bản

trong dạy học đọc hiểu văn bản văn học ở THPT hiện nay.

1.2.1.2 Tính khả thi của việc vận dụng lý thuyết liên văn bản vào dạy học tác

phẩm “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của Lưu Quang Vũ (Ngữ văn 12, tập 2).

Trong chƣơng trình Ngữ văn Trung học phổ thông việc dạy văn bản kịch có

tỷ lệ nhỏ so với các văn bản của các thể loại khác. Tài liệu viết về kịch không nhiều.

Kịch bản là tác phẩm văn học, có đầy đủ tính chất đặc điểm của nghệ thuật ngôn từ.

Nhƣng mặt khác, kịch bản viết ra để là để biểu diễn nên cũng mang đậm chất sân

khấu. Khi giảng dạy kịch bản văn học một mặt phải xem xét nó nhƣ một tác phẩm

văn học, mặt khác không thể tách rời nghệ thuật sân khấu. Vì thế, việc dạy đọc -

hiểu một văn bản kịch đòi hỏi nhiều công phu từ phía giáo viên.

Luật giáo dục, điều 28.2, đã ghi: “Phƣơng pháp giáo dục phổ thông phải phát

huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng

27

lớp học, môn học; bồi dƣỡng phƣơng pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm,

rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại

niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”.

Đƣợc sự quan tâm, chỉ đạo của các cấp, Sở GD&ĐT Hải Dƣơng mấy năm

gần đây đã tổ chức cho giáo viên cũng nhƣ các tổ trƣởng chuyên môn đƣợc tiếp cận,

cập nhật những nội dung chƣơng trình mới, những hƣớng tiếp cận bài mới để giáo

viên trong tỉnh có cơ hội trao đổi kinh nghiệm, học tập và trau dồi kiến thức để cùng

nhau tiến bộ, vận dụng hiệu quả các phƣơng pháp mới vào dạy học. Đặc biệt,

chƣơng trình Ngữ văn lớp 12 không chỉ giúp các em hình thành tri thức mà còn định

hƣớng giáo dục kỹ năng sống cho các em chuẩn bị hành trang bƣớc vào đời. Một

trong những văn bản có dung lƣợng số tiết phân phối chƣơng trình khá lớn đó là dạy

học đoạn trích “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của Lƣu Quang Vũ. Theo phân phối

chƣơng trình Ngữ văn lớp 12 của Sở GD & ĐT Hải Dƣơng năm học 2016 – 2017 thì

dạy học đoạn trích “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của Lƣu Quang Vũ trong 2 tiết.

Đó là một trong những điều kiện để vận dụng lý thuyết liên văn bản vào dạy học

đoạn trích có hiệu quả.

Đoạn trích “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của Lƣu Quang Vũ (Ngữ văn 12,

tập 2) đƣợc mƣợn từ tích truyện cổ dân gian cùng tên. Vì vậy, khi giáo viên dạy học

đoạn trích “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của Lƣu Quang Vũ theo hƣớng tiếp cận liên

văn bản là hoàn toàn khả thi, sẽ kích thích sự hứng thú và chủ động tiếp nhận kiến thức

của học sinh, đồng thời làm giàu vốn hiểu biết cho các em học sinh lớp 12.

1.2.2 Điều kiện để vận dụng có hiệu quả lý thuyết liên văn bản trong dạy

học đọc hiểu văn bản trong chƣơng trình Ngữ văn THPT

1.2.2.1 Điều kiện để vận dụng có hiệu quả tính liên văn bản trong chương

trình Ngữ văn 12

- Cần phải có vốn kiến thức văn học sâu rộng và khả năng liên tưởng tốt:

Dạy văn, học văn đều cần thiết phải có vốn kiến thức văn học và năng lực liên

tƣởng, tƣởng tƣợng.

Dạy đọc hiểu văn bản, văn học theo tinh thần vận dụng lý thuyết liên văn bản

càng cần phải có một phông văn hóa và khả năng liên tƣởng mạnh mẽ.

Nhƣ phần trên đã chỉ rõ, muốn hiểu văn bản này phải đặt nó trong mối liên hệ

28

với các văn bản khác, chứ không phải trong những mối quan hệ với những “nghĩa

đen” hay sự thật tuyệt đối, một quy phạm nào đó, phải đặt mọi thứ vào trƣờng diễn

ngôn của văn học.

Lý thuyết liên văn bản mở ra cho văn bản văn học nói chung và văn bản văn

học hậu hiện đại nói riêng một “kích thƣớc mới”. Theo Nguyễn Hƣng Quốc thì

trong một tác phẩm hậu hiện đại; bất kỳ chữ nào cũng có hai mối quan hệ, một là

mối quan hệ nội tại với những chữ khác trong văn bản (để tạo ý nghĩa) và hai là mối

quan hệ ngoại tại với những chữ khác trong các văn bản khác. Vì thế, nó là một

quần thể giả định của các văn bản khác, là sự đan dệt của rất nhiều các mảng màu

của những nền văn hóa khác nhau, trong đó mọi việc đã đƣợc nói đến vào một lúc

nào đó, trong một ngữ cảnh nào đó, một văn bản nào đó. Các yếu tố trong văn bản

đều ít nhiều có quan hệ với một hệ thống liên văn bản rộng lớn vƣợt ra ngoài tầm

kiểm soát của tác giả. Một hệ quả tất yếu đƣợc sinh ra từ mệnh đề này là sự lên ngôi

- sự tự do của ngƣời đọc [33, tr.261-263].

Vì thế, để vận dụng có hiệu quả lý thuyết liên văn bản vào dạy đọc hiểu văn

bản văn học ở THPT, rất cần phải có vốn kiến thức văn học sâu rộng; năng lực

nắm bắt và giải mã các ký hiệu, những kiến thức thu nhận trong quá trình sống,

trong môi trƣờng văn hóa của mình và cả những tiếp nhận từ bên ngoài... Từ đó,

ngƣời đọc (giáo viên - học sinh) chọn lựa cho mình một cách đọc thích hợp, kiến

giải tác phẩm theo quan điểm riêng của mình, tìm những kết luận cho tác phẩm và

đặc biệt là mở rộng thêm chiều kích cho các văn bản đó.

Cùng với đó là yêu cầu đòi hỏi ngƣời đọc phải có một khả năng liên tƣởng

mạnh mẽ để có thể nối kết những thành tố của hình tƣợng nghệ thuật, những giá trị

văn chƣơng ẩn tàng trong và ngoài tác phẩm. Đặc biệt, đối với các tác giả kịch lớn

nhƣ Lƣu Quang Vũ – ngƣời không chỉ mang đến cho làng kịch Việt Nam với nghệ

thuật viết kịch độc đáo mà còn thông qua tác phẩm “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”

muốn gửi gắm đến ngƣời đọc những triết lý nhân sinh vô cùng sâu sắc, năng lực liên

tƣởng mạnh mẽ của “ngƣời đọc” không chỉ giúp họ trở thành “tri âm - tri kỷ” với

văn bản văn học mà còn khám phá thêm những chân trời mới, những ý tƣởng thâm

thúy ẩn tàng sau văn bản mà thƣờng khi tác giả của nó không ngờ tới.

- Cần có tầm bao quát rộng rãi đối với các loại hình sáng tác không thuộc

29

phạm trù văn học

Ngày nay, xu hƣớng mở rộng khái niệm “văn bản” (liên văn bản) đã dung nạp

hầu nhƣ toàn bộ các phƣơng thức thể hiện mà không nhất thiết phải dựa trên phƣơng

tiện văn tự ghi ký (nhƣ văn bản văn học chẳng hạn). Nhƣ thế, một tác phẩm hội họa,

điện ảnh hay quảng cáo... đã trở thành văn bản và đƣợc “đọc” bằng nhiều phƣơng

thức khác nhau. Văn bản có thể đƣợc tạo nên từ nhiều nguyên tắc khác nhau ở phạm

vi ngữ cảnh rộng lớn, trong đó: lịch sử, xã hội và văn hóa... trở thành những nguồn

cung cấp chất liệu. Liên văn bản không những đã kết hợp, hòa trộn mà còn xóa đi tất

cả những ranh giới giữa các thể loại. Một tác phẩm có thể bắt đầu từ một mẩu quảng

cáo, liên kết với những dòng tin báo chí có thực và rồi xen kẽ những tƣởng tƣợng,

hƣ cấu của ngƣời viết. Nhƣng ngay cả trong những hƣ câu ấy, ngƣời ta vẫn tìm ra

dấu vết của những ảnh hƣởng về văn hóa, xã hội, môi trƣờng sống, kiến thức, tôn

giáo... đã tồn tại một cách tiềm tàng trong bản thân ngƣời viết.

Chính vì vậy mà điều kiện để vận dụng lý thuyết liên văn bản có hiệu quả trong

dạy học Ngữ văn là cần phải có một “phông văn hóa” - nhƣ đã nói ở phần trƣớc -

không chỉ về vốn kiến thức văn học mà còn phải có tầm bao quát rộng rãi đối với các

loại hình sáng tác không thuộc phạm trù văn học nhƣ: hội họa, điện ảnh, âm nhạc...,

những tri thức về lịch sử, địa lý, dân tộc, xã hội, tôn giáo... tóm lại là một vốn văn hóa -

vốn sống càng đầy dặn, phong phú bao nhiêu càng hiệu quả bấy nhiêu.

- Phải nắm được những quyền lực văn hóa chi phối hoạt động sáng tạo của

nhà văn

Đây là nội dung cơ bản của việc vận dụng lý thuyết liên văn bản trong dạy

học đọc hiểu văn bản song lại ít đƣợc chú ý trong dạy học ngữ văn ở THPT hiện

nay. Lâu nay, nhiều giáo viên đã thực hiện khá suôn sẻ những thao tác nhƣ: phân

tích bối cảnh lịch sử - thời đại của tác phẩm, tìm hiểu điều kiện, hoàn cảnh sống của

tác giả... Chí ít, cũng có thể xem đó là tiền đề lịch sử của phạm trù “khảo sát tính

liên văn bản của văn bản”. Song những điều đó chƣa thể đƣợc xem là căn cứ xác

đáng để nói rằng giáo viên Ngữ văn đã có ý thức (dù tự phát) về vấn đề liên văn bản

nhƣ một quan niệm học thuật mang tính đột phá.

Bởi vì quá trình tạo lập văn bản của nhà văn không chịu sự chi phối của các

sự kiện xã hội, sự kiện đời sống cá nhân theo kiểu trực tiếp mà theo kiểu gián tiếp,

30

qua khâu trung gian là muôn trùng văn bản, muôn trùng quyền lực diễn ngôn vây

bọc quanh ta. Nhƣng suy cho cùng, không thể có sự tồn tại khách quan tuyệt đối của

các sự kiện thực tế. Tất cả chúng đều đƣợc văn bản hóa bởi những diễn giải đa dạng,

đầy khác biệt và mâu thuẫn. Tƣ tƣởng này chƣa có dịp đƣợc truyền bá trong nhà

trƣờng hiện nay khi “phản ánh luận” Macxit còn chi phối trong tƣ duy nghiên cứu -

phê bình văn học của đội ngũ giáo viên (Theo Phan Huy Dũng [6]).

Áp lực của đời sống lên một thành viên xã hội (Cơm áo không đùa với khách

thơ) và áp lực nghệ thuật lên một nhà văn - ngƣời viết (khi họ chấp nhận cuộc chơi

văn bản - liên văn bản) thuộc về hai phạm trù khác nhau, có mối liên hệ với nhau

nhƣng không phải là một. Không nhận rõ điều này, sự lý giải của ta đối với tác

phẩm văn học sẽ hời hợt, vừa không thoát khỏi cái nhìn của quyết định luận xã hội

học vừa bỏ quên những quy luật riêng của sáng tạo văn học.

Theo cách nhìn của lý thuyết liên văn bản, nhà văn không phải bao giờ cũng

đƣợc tự do tung hoành trong “cõi sáng tạo” của mình (dƣờng nhƣ “cõi sáng tạo”

mang tính độc lập hoàn toàn kia chỉ là một sản phẩm tƣởng tƣợng của tâm thức lãng

mạn chủ nghĩa trong sáng tác cũng nhƣ trong phê bình.

Tựu trung, việc chỉ ra những quyền lực văn hóa chi phối hoạt động sáng tạo

của nhà văn có ý nghĩa quan trong dạy học đọc hiểu văn bản ở THPT theo hƣớng

tiếp cận liên văn bản. Công việc này về bản chất - khác với công việc dẫn giải về bối

cảnh xã hội - lịch sử, hoàn cảnh ra đời của sáng tác mà trƣớc nay ta vẫn quen làm.

1.2.2.2 Điều kiện của việc vận dụng lý thuyết liên văn bản vào dạy học tác

phẩm“Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của Lưu Quang Vũ (Ngữ văn 12, tập 2)

Khi dạy văn bản kịch trong nhà trƣờng phổ thông, giáo viên gặp không ít khó

khăn so với những văn bản thuộc các thể loại khác. Nhất là ngƣời dạy cần phải bám

sát đặc trƣng của kịch bản văn học nhƣ: lời thoại nhân vật, hành động kịch…ngoài

ra còn cần mở rộng kiến thức liên môn cho học sinh, tài liệu giảng dạy thể loại chƣa

nhiều. Chƣơng trình cũng nhƣ nội dung bài học có sự thay đổi về thời lƣợng tiết

dạy, cách ghi bảng, hƣớng tiếp cận bài dạy. Riêng dạy học đoạn trích “Hồn Trương

Ba, da hàng thịt” của Lƣu Quang Vũ (Ngữ văn 12, tập 2) theo hƣớng tiếp cận liên

văn bản thân ngƣời giáo viên có vai trò rất lớn. Bởi đây là một trong những phƣơng

31

pháp tiếp cận văn bản rất mới và chƣa đƣợc vận dụng đƣa vào giảng dạy một cách

phổ biến. Cho nên, để áp dụng tốt thì giáo viên cần phải am hiểu và nắm vững lý

thuyết liên văn bản, các kỹ thuật liên văn bản.

Để định hƣớng nội dung đề tài, tôi tìm hiểu các tài liệu có liên quan đến đặc

trƣng thể loại kịch nhƣ đọc một số tác phẩm của Lƣu Quang Vũ và tác phẩm “Hồn

Trương Ba, da hàng thịt”. Ngoài ra tôi còn tìm hiểu tài liệu Vấn đề giảng dạy tác

phẩm văn học theo thể loại của tác giả Trần Thanh Đạm; tài liệu nghiên cứu: Dẫn

luận thi pháp học của Trần Đình Sử, Văn học hậu hiện đại lý thuyết và tiếp nhận

của Lê Huy Bắc, Lý luận văn học của Lã Nguyên...Khi nghiên cứu và soạn giảng,

chúng tôi luôn bám sát các tài liệu giảng dạy theo quy định bộ môn của Bộ Giáo dục

& Đào tạo. Văn bản “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” đƣợc phân bố dạy trong thời

lƣợng 2 tiết. Số giờ dạy kịch bản văn học chiếm một tỷ lệ chƣa nhiều so với các văn

bản thuộc các thể loại khác trong chƣơng trình. Vì thế, việc chiếm lĩnh tác phẩm văn

chƣơng theo hƣớng tiếp cận liên văn bản giúp ta hiểu sâu sắc hơn về tác phẩm. Điều

đó, càng đòi hỏi ngƣời giáo viên nỗ lực hơn trong việc nghiên cứu những phƣơng

pháp giảng dạy theo hƣớng tiếp cận liên văn bản đối với mỗi văn bản văn học nhằm

đạt hiệu quả nhất.

1.2.3 Ý nghĩa của việc vận dụng lý thuyết liên văn bản trong dạy học đọc

hiểu văn bản trong chƣơng trình ngữ văn THPT

1.2.3.1 Vận dụng lý thuyết liên văn bản phát huy tính chủ động, sáng tạo của

học sinh

Việc vận dụng lý thuyết liên văn bản trong dạy đọc hiểu văn bản văn học ở

THPT đặt ra nhiều vấn đề thuộc phạm trù phƣơng pháp dạy học văn mà đầu tiên là

vấn đề xây dựng mô hình - cấu trúc của giờ học, nhất là giờ đọc hiểu văn bản. Hiện

nay, giờ đọc hiểu văn bản ở nhà trƣờng phổ thông - về cơ bản - vẫn đƣợc xây dựng

theo các bƣớc từng đƣợc Dƣơng Quảng Hàm đề xuất từ những năm 30, 40 của thế

kỉ XX - tuy có những điều chỉnh về tên gọi các bƣớc cũng nhƣ hình thức tổ chức

thực hiện chúng. Phƣơng pháp dạy học tuy không đồng nhất với cấu trúc chung của

giờ học, với hình thức tổ chức hoạt động dạy học nhƣng lại chịu sự chế ƣớc, chi

phối của chúng. Do vậy, việc duy trì mô hình - cấu trúc giờ học hiện nay (có thể tiện

cho việc kiểm soát và đánh giá hoạt động dạy học đọc hiểu văn bản, theo thói quen

32

đã hình thành từ lâu) sẽ là rất khó cho việc áp dụng phƣơng pháp mới đạt hiệu quả

mong muốn. Sẽ còn dài dài những lời ca thán về sự quá tải của chƣơng trình, sự hạn

hẹp về thời gian, cả những cách thức vận dụng lý thuyết bản đồ tƣ duy của Tony

Buzan vào dạy đọc hiểu văn bản cũng sẽ vấp phải nhiều trở ngại. Nhƣ vậy, việc xây

dựng một cấu trúc mở cho giờ dạy đọc hiểu văn bản nói riêng và giờ dạy học Ngữ

văn nói chung đã đến lúc cần thiết phải đặt ra. Cấu trúc mở ở đây là một cấu trúc

vận động, trong đó, ngƣời ta chấp nhận sự linh hoạt trong việc phát hiện ra các mối

tƣơng quan (bao hàm cả trật tự trình bày về các mối tƣơng quan) giữa các yếu tố cấu

thành đơn vị kiến thức, thành bài học mà ta phải dạy, học. Cấu trúc mở của giờ học

sẽ sẵn sàng thu nạp những tham số mới nảy sinh trong hoạt động của cả thầy và trò,

vƣợt ngoài dự kiến ban đầu vốn đƣợc thể hiện trong giáo án. Cấu trúc mở đó cũng

giúp ta nhận ra mối liên hệ hệ thống giữa giờ học này với giờ học khác, giữa hoạt

động trong giờ học với hoạt động ngoài giờ học.

Sự vận dụng lý thuyết liên văn bản sẽ phá vỡ mọi gò bó, câu thúc mang tính

hình thức nhằm phát huy cao độ khả năng của trƣờng liên tƣởng, tƣởng tƣợng...,

chính sự nhạy bén xử lý các vấn đề của ngƣời dạy, ngƣời học khi đối diện với văn

bản sẽ là một nhân tố hết sức năng động thúc đẩy sự tìm tòi đến với cấu trúc mở

đó của giờ dạy học Ngữ văn, nhất là giờ dạy học đọc hiểu văn bản.

1.2.3.2 Vận dụng lý thuyết liên văn bản nhằm nâng cao kết quả và chất lượng

học tập của học sinh lớp 12

- Tạo nên tính đặc thù của dạy học tích hợp ở môn Ngữ văn

Hơn mƣời năm nay (tính từ năm 2002), bộ sách Ngữ văn cùng với các bộ

sách giáo khoa khác dành cho học sinh THPT đã đƣợc biên soạn theo nguyên tắc

tích hợp - trên cơ sở quan niệm rằng tất cả hoạt động của con ngƣời (trong đó có

hoạt động dạy học) cũng nhƣ mọi đơn vị kiến thức đƣợc đƣa đến hình thành cho học

sinh đều có tính tích hợp. Điều này chi phối việc lựa chọn các đơn vị bài học, với

mục đích tạo ra đƣợc sự kết nối tích cực nhất - thuận lợi, tiết kiệm thời gian nhất -

với hàng loạt kiến thức mà học sinh đã có và cần phải có. Từ đây, nguyên tắc tích

hợp đƣợc xem là một nguyên tắc dạy học cơ bản, hiện đại và sự tích hợp đƣợc nhìn

nhận nhƣ là một tiêu chí quan trọng để đánh giá các giờ dạy học. Với dạy học theo

nguyên tắc tích hợp, giáo viên sẽ đánh thức mọi trữ lƣợng tinh thần của học sinh

33

trong tiếp nhận tri thức, không để cái gì có ý nghĩa từng đƣợc học sinh thu vào bộ

nhớ lại bị bỏ quên, vì tất cả đều có thể hữu ích. Nhờ đó, học sinh sẽ học đƣợc cách

tƣ duy tổng thể về thế giới, về sự vật; có thể nhận diện đƣợc hoặc sẵn sàng tìm ra

mối tƣơng quan qua lại chằng chịt giữa mọi vấn đề của cuộc sống và của văn học. Ở

đây, có sự tƣơng đồng giữa cách tƣ duy trên một vấn đề cụ thể của việc dạy học với

cách tƣ duy mà từ đó, ngƣời ta khám phá ra tính liên văn bản của mọi văn bản.

Chính sự phát triển của lý thuyết liên văn bản đã đƣa một số nhà nghiên cứu đi từ

việc nhận ra bản chất đích thực của văn bản đến việc khẳng định “bản chất văn bản”

của tất cả những gì tạo nên xã hội loài ngƣời, từ các biến cố lịch sử, sự kiện văn hóa

đến ý thức, vô thức - một văn bản thế giới.

Nhƣ vậy, đọc văn bản là đụng đến một mạng lƣới quan hệ vô cùng phức tạp.

Sự tích hợp trong hoạt động dạy và hoạt động học đã đƣợc thực hiện lâu nay dù ở

mức độ tự giác hay không tự giác. Nhƣng khi đề cao quan điểm và nguyên tắc dạy

học tích hợp thì nên tránh việc xem chúng nhƣ một “lý thuyết hiện đại”, hoàn toàn

mới, chƣa từng đƣợc biết. Sự thiếu tinh tế này đã khiến cho giáo viên rối trí, khiến

họ không khỏi có những “tƣởng tƣợng” sai lạc về “lý thuyết mới” và theo đó, đã vận

dụng chúng một cách máy móc, bị động. Trong thực tế dạy học hiện nay có thể thấy

trong nhiều Sách giáo viên và một số sách định hƣớng chƣơng trình - chứa nhiều

gợi ý quá cụ thể - gợi ý mà có tính ràng buộc - ví nhƣ: khi dạy bài này, đơn vị kiến

thức này phải chú ý tích hợp với bài kia, đơn vị kiến thức kia, nhiều khi trở nên

cứng nhắc và khiên cƣỡng. Ở chừng mực nào đó, chúng không những không thúc

đẩy sự tích hợp tự nhiên của hoạt động dạy học mà còn làm ngăn trở nó. Đó là chƣa

kể chúng có thể làm nhòa đi tính đặc thù trong dạy học tích hợp ở các bộ môn, chƣa

giúp giáo viên thấy đƣợc cái riêng trong dạy học tích hợp đối với môn Ngữ văn. Thế

nên, khi soạn giáo án và khi lên lớp, nhiều giáo viên đã phải căng óc ra để tìm nội

dung có thể tích hợp - những nội dung nằm ở đâu đâu, có khi thật xa vời - trong khi

lại bỏ qua những nội dung, những khả năng tích hợp thật tự nhiên, gần gũi mà chỉ

cần một chút nhạy cảm, họ có thể nhận ra đƣợc.

Trong môn Ngữ văn, để đọc hiểu một văn bản, cả ngƣời dạy và ngƣời học

đều phải thực hiện một sự nối kết: nối kết văn bản này với những văn bản khác,

không chỉ văn bản văn học mà còn cả những “văn bản” khác của hoạt động ngôn

34

ngữ, của tập quán xã hội, của tinh thần dân tộc và thời đại... Đó chính là đọc văn bản

theo tinh thần của lý thuyết liên văn bản. Và đƣơng nhiên, điều đó cũng tạo nên tính

đặc thù của dạy học tích hợp ở môn Ngữ văn.

- Góp phần làm giàu kiến thức văn học, văn hóa cho học sinh

Đọc một văn bản theo lý thuyết liên văn bản, chúng ta không chỉ biết về riêng

văn bản đó mà còn đƣợc biết và cần biết đến nhiều văn bản khác có liên quan. Hiểu

đƣợc bản chất của văn bản cũng nhƣ biết vận dụng lý thuyết liên văn bản, chắc chắn

là ngƣời dạy sẽ nhận thấy có một cơ hội lớn tạo ra để làm giàu kiến thức văn học,

văn hóa học, kiến thức về đời sống cho học sinh trong dạy học đọc hiểu văn bản.

Việc “làm giàu kiến thức” này bao hàm hai vấn đề có mối liên quan nhƣng

không phải là một, đó là củng cố và bổ sung kiến thức:

Củng cố: chƣơng trình ngữ văn THPT là một hệ thống chặt chẽ. Một văn bản

không xuất hiện trong chƣơng trình một cách ngẫu nhiên. Nó là một mắt xích trong

chuỗi xích, một điểm trên giao lộ, kết nối với nhiều ngả đƣờng khác nhau. Khi tìm

hiểu một văn bản, ngƣời dạy, ngƣời học đã có đƣợc những tiền đề thuận lợi, hình

thành qua việc chiếm lĩnh các văn bản đã dạy - học trƣớc đó. Những kiến thức tạo

nên tiền đề đó nếu bị quên thì cần đƣợc nhắc lại: đó là trƣờng hợp củng cố kiến

thức/ củng cố song hành với việc hình thành, tiếp nhận kiến thức mới.

Bổ sung kiến thức: trƣờng hợp ngƣời dạy hay ngƣời học thiết lập đƣợc đƣờng

dây liên hệ giữa văn bản đƣợc học với những văn bản khác chƣa từng đƣợc học mà

thực sự có giá trị soi tỏ ý nghĩa văn bản đƣợc quy định tìm hiểu trong chƣơng trình -

ta gọi đó là sự bổ sung kiến thức.

Đƣơng nhiên cách gọi bổ sung này chỉ mang ý nghĩa tƣơng đối, vì đối với

ngƣời này thì nó là sự bổ sung, thêm vào, nhƣng đối với ngƣời khác nó chỉ là sự

nhớ lại, nhắc lại. Nhìn chung, với sự bổ sung vừa để cập, điều có ý nghĩa quan

trọng là ngƣời dạy, ngƣời học nhìn ra đƣợc tiềm năng ý nghĩa vô hạn của tác

phẩm, rồi chính nó là động cơ kích thích họ tiếp tục khám phá. Hành trình kiến

tạo ý nghĩa là hành trình không có điểm dừng. Những cái vừa đạt đƣợc, đến lƣợt

mình sẽ tạo nên những điểm xuất phát mới cho việc chiếm lĩnh các văn bản tiếp

theo. Và những giờ dạy đọc hiểu văn bản đƣợc đánh giá cao thƣờng là những giờ

học đầy tính gợi mở - biết đánh thức bao mối liên hệ tiềm ẩn giữa văn bản và đời

35

sống bao quanh nó. Vấn đề không phải là từ đó học sinh ghi nhớ đƣợc bao nhiêu

mối liên hệ cụ thể xác định mà là học sinh ý thức đƣợc là: những mối liên hệ đó có

hay không hoàn toàn tùy thuộc vào sự hoạt động tích cực của chính mình - chủ thể

tiếp nhận, chủ thể của hoạt động học.

Nhƣ thế, vận dụng lý thuyết liên văn bản vào dạy học đọc hiểu văn bản ở

THPT sẽ góp phần làm giàu kiến thức văn học văn hóa đồng thời bồi bổ năng lực

sáng tạo của học sinh.

1.3 Thực tế việc vận dụng lý thuyết liên văn bản trong dạy học đọc hiểu ở

THPT hiện nay

1.3.1 Vận dụng không tự giác

1.3.1.1 Vận dụng còn máy móc, thiếu sáng tạo

Nhƣ các phần trên đã trình bày, chúng ta có thể khái quát về lý thuyết liên

văn bản một cách cô đọng: liên văn bản là liên kết các văn bản trong một văn bản

qua sự sáng tạo và tiếp nhận của “ngƣời đọc” với tính đối thoại một cách ý thức hay

vô thức. Hiện trạng thực tế tiếp cận lý thuyết liên văn bản ở các nhà trƣờng THPT

hiện nay, qua sự khảo sát của chúng tôi, phần lớn giáo viên Ngữ văn còn đang trong

tình trạng vô thức: vận dụng không tự giác - với những biểu hiện nhƣ sau:

Thứ nhất: giáo viên Ngữ văn THPT hiện đang vận dụng lý thuyết liên văn

bản trong dạy đọc hiểu văn bản văn học ở một cấp độ thấp. Trong các cấp độ của

liên văn bản có yếu tố trích dẫn và giáo viên khi thực hiện một thao tác so sánh, liên

tƣởng... hoặc xếp chồng văn bản một cách manh mún, thiếu hệ thống, nhất là chƣa

làm nổi bật cách thức mà nhà văn “đối thoại”, luận giải nhiều vấn đề trong trƣờng ý

nghĩa của tác phẩm văn chƣơng... Trong việc này, nhiều giáo viên thƣờng “mƣợn ý”

của các tƣ liệu tham khảo, các bài phê bình, bình giảng các tác phẩm văn học một

cách bị động, thiếu sáng tạo... Nguyên nhân chính ở đây là ngƣời dạy chƣa vƣợt

thoát đƣợc quan niệm xƣa cũ về văn bản: coi tác phẩm văn học là một thể độc lập,

một ốc đảo riêng biệt - dù nó tƣơi xanh đến mấy.

Thứ hai, giáo viên chƣa thực sự coi trọng vai trò của ngƣời đọc - học sinh -

trong giờ đọc hiểu văn bản văn học (trong khi R.Barthes đã tuyên bố “Tác giả đã

chết” và Lý thuyết liên văn bản đã đƣa đến “sự lên ngôi của ngƣời đọc”). Nói đúng

36

hơn là: cách thức làm thế nào để ngƣời đọc trở thành trung tâm thì ngƣời giáo viên

dạy Ngữ văn THPT hiện nay vẫn còn lúng túng, chƣa thực hiện đƣợc một cách

nhuần nhị.

Không thể phủ nhận một thực tế là, trong mƣơi năm trở lại đây, cùng với sự

thay đổi chƣơng trình - sách giáo khoa; việc đổi mới cách dạy - học văn đã đƣợc

tiến hành rộng khắp trong cả nƣớc, trong đó, mối quan hệ giữa ngƣời dạy và ngƣời

học đã khác trƣớc, các phƣơng tiện dạy học trong các trƣờng THPT cũng phong phú

hơn. Song cũng không thể không thấy rõ một thực tế là chƣa có sự đổi mới căn bản,

triệt để dựa trên đặc thù môn Ngữ văn phản ánh trong mối quan hệ bộ ba tƣơng liên:

giáo viên (ngƣời hƣớng dẫn, tổ chức) - học sinh (chủ thể tiếp nhận) - văn bản văn

học (đối tƣợng của sự tiếp nhận). Trong bài báo đăng trên Văn nghệ số 10, 7- 3-

2009, GS Trần Đình Sử đã từng đề cập đến thực trạng dạy học, đổi mới phƣơng

pháp dạy học văn hiện nay: “đó là kiểu dạy học lấy “thế bản” thay cho văn bản.

Chính sự lệ thuộc quá mức của học sinh vào tình trạng thụ động, luôn luôn chờ đợi

những kết quả mà ngƣời khác cảm nghĩ hộ, mất khả năng tự mình thâm nhập vào

thế giới nghệ thuật của tác phẩm văn chƣơng để nói lên cảm nhận, những rung động

của chính bộ óc, con tim của mình bằng chính lời lẽ của mình”. “Thế bản” mà GS

Trần Đình Sử nhắc đến ở đây là bài soạn của giáo viên (chủ yếu là đọc hiểu văn bản

văn học) và các tài liệu tham khảo. Trong khi đó, muốn đổi mới căn bản phƣơng

pháp dạy học văn, không có con đƣờng nào khác là phải trở về văn bản văn học.

Vận dụng lý thuyết liên văn bản trong dạy đọc hiểu văn bản văn học ở THPT càng

cấp thiết yêu cầu cả ngƣời dạy và ngƣời học phải tiếp xúc với văn bản; tạo cho

ngƣời học tâm thế đón nhận văn bản - tác phẩm văn học - với nội hàm đúng nghĩa

liên văn bản của nó.

Đó là chƣa nói đến một thực tế khá phổ biến trong vận dụng lý thuyết liên

văn bản một cách vô thức trong dạy học đọc hiểu văn bản văn học ở THPT hiện nay

là: sau khi đặt câu hỏi gợi mở, giáo viên thƣờng chỉ gọi một (nhiều lắm là hai) học

sinh trả lời; giáo viên hầu nhƣ không cho ý kiến nhận xét cụ thể nội dung trả lời của

học sinh... rồi sau đó, giáo viên mải miết trình bày “đáp án” đã soạn sẵn. Nhiều giáo

viên vừa nói vừa ghi bảng. Học sinh chỉ việc ngồi chờ giáo viên thuyết giảng rồi ghi

vào vở. Sau đó, lại tiếp tục với các câu hỏi khác. Lối dạy đọc hiểu tác phẩm văn học

37

nhƣ thế này thì làm sao phát huy đƣợc sự tích cực chủ động của ngƣời học; chƣa nói

đến việc giúp các em biết lƣu giữ và khai thác cái khả năng cảm xúc hồn nhiên,

nguyên sơ của tâm hồn nhân loại trong chính các em mà chính các nhà văn lớn đang

mê mải kiếm tìm.

Thứ ba, khi vận dụng lý thuyêt liên văn bản trong giờ dạy học đọc hiểu văn

bản, giáo viên thƣờng tiến hành kết nối văn bản văn học với các văn bản thuộc loại

hình nghệ thuật khác không đạt mấy hiệu quả. Đó là việc áp dụng công nghệ thông

tin với những tranh ảnh, clip,...trong dạy học Ngữ văn ở THPT đƣợc cho là kém

hiệu quả bởi chúng ta quan niệm nó đơn thuần chỉ là phƣơng tiện. Nhƣng theo các

lý thuyết gia liên văn bản thì: một bức tranh, một đoạn phim... nhƣ thế đều đƣợc coi

là một văn bản. Nhận thức đúng điều này, chúng ta có thể thấy việc ứng dụng công

nghệ thông tin - một trong những thao tác vận dụng lý thuyết liên văn bản vào dạy

học đọc hiểu văn bản văn học sẽ hiệu quả hơn.

1.3.2.2 Vận dụng chưa linh hoạt, còn khiên cưỡng

Việc vận dụng lý thuyết liên văn bản vào dạy học môn Ngữ văn những năm

gần đây của giáo viên đã đƣợc thực hiện tuy nhiên còn rất nhiều thiếu sót. Thực chất

phần lớn giáo viên vẫn chƣa hiểu đƣợc bản chất của lý thuyết liên văn bản cho nên

việc áp dụng vào dạy học còn rất khiên cƣỡng, thậm chí có áp dụng nhƣng áp dụng

một cách hời hợt, và đôi khi giống nhƣ đối phó. Mà thực chất giáo viên chƣa hề

hứng thú và tự giác vận dụng lý thuyết liên văn bản vào dạy học tác phẩm. Vì vậy

để vận dụng lý thuyết liên văn bản một cách hiệu quả nhất trong giảng dạy Ngữ văn

thì cần phải có biện pháp thúc đẩy sự tích cực tìm hiểu về lý thuyết liên văn bản của

giáo viên.

1.3.2 Vận dụng tự giác trên cơ sở hiểu biết lý thuyết liên văn bản

1.3.2.1 Áp dụng lý thuyết dạy học Ngữ văn nói chung và dạy đọc hiểu văn bản

văn học ở THPT nói riêng cần được thụ cảm một cách vừa chặt vừa khoáng hoạt

Nó vừa để ngƣời đọc - ngƣời học biết cảnh, biết ngƣời, biết nắm vững cách

điều khiển câu chữ... song bao trùm lên tất cả là phải làm sao nhuyễn thấm đƣợc

những cái hay, cái đẹp của văn chƣơng vào trong tâm hồn, biến nó thành nỗi khát

khao, thành động lực sống tốt hơn, trở thành ngƣời có ích hơn, đáng sống hơn.

Để tiếp cận đến cái đích này, ngƣời giáo viên Ngữ văn ở nhà trƣờng THPT

38

hiện nay có khá nhiều thuận lợi. Trƣớc hết đó là việc đổi mới chƣơng trình - sách

giáo khoa THPT từ hơn một thập kỷ qua trong đó có bộ sách giáo khoa Ngữ văn

hiện hành biên soạn theo tinh thần tích hợp. Có nhiều điểm mới trong bộ sách này,

đổi mới cả về mặt nội dung của chƣơng trình Ngữ văn và cả về mặt hình thức

chƣơng trình. Tiêu chí tuyển chọn các tác phẩm văn học vào sách giáo khoa Ngữ

văn - nhất là văn học hiện đại - không còn nằm trong phạm trù “đúng - sai” mà cơ

bản đã chuyển sang phạm trù “hay - dở”. Nhiều tác phẩm văn chƣơng mang tâm

thức của thời đại mới và chịu ảnh hƣởng của chủ nghĩa hậu hiện đại - những sáng

tác gắn liền với nhận thức mới về quyền năng của tác giả; về tính chức năng của

ngƣời viết trong quan hệ với văn bản; về sự tƣơng đối của điều mà trƣớc đây ngƣời

ta gọi là tính độc sáng trong một tác phẩm văn học - đã có mặt trong chƣơng trình

Ngữ văn THPT.

Tiếp theo đó là sự tác động của các lý thuyết về lý luận dạy học đến việc đổi

mới phƣơng pháp dạy học trong đó có lý thuyết liên văn bản trong dạy học Ngữ văn

ở THPT. Đây là các tiền đề, yếu tố thuận lợi cho giáo viên trong vận dụng lý thuyết

liên văn bản vào dạy đọc hiểu văn bản văn học.

Theo khảo sát của chúng tôi, hiện nay không ít giáo viên THPT đã có sự đầu

tƣ trong công việc soạn giáo án theo hƣớng: phát huy tính tích cực, chủ động, sáng

tạo của học sinh; có ý thức tự học, tự bồi dƣỡng để nâng cao tri thức chuyên môn,

tri thức về phƣơng pháp dạy học, tiếp nhận các lý thuyết mới về phê bình, nghiên

cứu và giảng dạy văn học. Điều đáng mừng là trong đó một bộ phận, một số ít giáo

viên đã biết vận dụng lý thuyết liên văn bản một cách tự giác trên cơ sở hiểu biết

lý thuyết liên văn bản ở các mức độ khác nhau và có những hƣớng vận dụng lý

thuyết văn bản trong dạy đọc hiểu văn bản văn học hiện đại và văn học đƣơng đại

ở mức độ tự giác. Đó là một trong những điều kiện thuận lợi để tiến hành vận dụng

lý thuyết liên văn bản vào đọc hiểu văn bản văn học trong chƣơng trình Ngữ văn

lớp 12 một cách có hiệu quả.

1.3.2.2 Vận dụng lý thuyết liên văn bản vào dạy học đọc hiểu nhằm phát huy

tính tích cực học tập của học sinh

Hiện nay, việc dạy học đang ngày càng đƣợc đổi mới, nhằm mục đích nâng

cao chất lƣợng cho dạy và học đáp ứng đƣợc yêu cầu đổi mới của nền giáo dục nƣớc

39

nhà. Một trong những điểm đƣợc quan tâm là dạy học phải làm sao phát huy đƣợc

tính chủ động, tích cực cho học sinh nhƣ vậy mới đem lại hiệu quả. Cho nên, trong

quá trình dạy học thì các phƣơng pháp truyền thống nhƣ: thuyết trình, vấn đáp... và

giáo viên là ngƣời truyền kiến thức nên ít phát huy đƣợc hết tác dụng. Và nó cũng

không đáp ứng đƣợc nhu cầu của giáo dục trong xã hội hiện nay là đào tạo ra những

con ngƣời năng động, tự tin và làm chủ kiến thức...Từ những yêu cầu đó đòi hỏi

ngƣời giáo viên phải sáng tạo, chọn lọc tri thức, phƣơng pháp trong tiết dạy để kích

thích sự ham học, tạo tâm thế chủ động lĩnh hội kiến thức mới, giúp học sinh ngày

càng tự tin và hoàn thiện bản thân mình hơn.

Dạy học theo hƣớng tiếp cận liên văn bản phát huy tính chủ động, sáng tạo

của học sinh nhờ cấu trúc mở khiến giờ học không nặng nề, học sinh không ở trong

tƣ thế bị động nữa, mà khiến cho học sinh sẵn sàng thu nạp những tham số mới nảy

sinh trong hoạt động của thầy và trò. Nhờ sự vận dụng lý thuyết liên văn bản vào

dạy học mà phá vỡ mọi gò bó, cấu trúc mang tính hình thức, nhằm phát huy cao độ

khả năng liên tƣởng, tƣởng tƣợng của học sinh...Khiến cho học sinh thích thú, các

em sẽ tự tìm tòi và khám phá những tri thức mới.

Không chỉ thế, dạy học theo hƣớng tiếp cận liên văn bản còn làm giàu thêm

kiến thức văn học, văn hóa cho học sinh. Đọc một văn bản theo lý thuyết liên văn

bản, học sinh không chỉ biết riêng về văn bản đó và còn cần biết đến nhiều văn bản

có liên quan. Hiểu đƣợc điều đó cũng nhƣ biết vận dụng lý thuyết liên văn bản, chắc

chắn ngƣời dạy sẽ nhận thấy có một cơ hội lớn tạo ra để làm giàu kiến thức văn học,

văn hóa và kiến thức về đời sống cho học sinh. Đó chính là động cơ kích thích cả

ngƣời dạy và ngƣời học đi tìm tri thức và tiếp thu tri thức một cách chủ động.

Nhƣ thế, vận dụng lý thuyết liên văn bản vào dạy học đọc hiểu văn bản ở

THPT sẽ góp phần làm giàu kiến thức văn học văn hóa đồng thời phát huy đƣợc tính

tích cực, năng lực sáng tạo của học sinh.

1.3.3 Thành công và hạn chế trong việc vận dụng lý thuyết liên văn bản vào

dạy học đọc hiểu văn bản văn học trong chƣơng trình Ngữ văn lớp 12

1.3.3.1 Thành công cơ bản

Trƣớc hết cần nói đến những yếu tố khách quan ít nhiều “thuận lợi” có tác

40

dụng kích hoạt cho những “lứa quả đầu mùa” này:

Đó là hệ thống các văn bản đọc hiểu trong chƣơng trình Ngữ văn THPT lƣu

hành từ 2002 đến nay. Bộ sách giáo khoa Ngữ văn hiện hành có những đổi mới cả

về mặt nội dung lẫn hình thức trên cơ sở của nguyên tắc tích hợp, giúp cho ngƣời

đọc học đƣợc cách tƣ duy tổng thể về thế giới, tìm ra mối tƣơng quan đa chiều giữa

mọi vấn đề của cuộc sống của văn học nghệ thuật, đặc biệt là sự góp mặt của nhiều

tác phẩm đƣơng đại Việt Nam và thế giới. Tuy còn xa mới đạt đến mức toàn bích,

song về cơ bản các văn bản văn học trong sách giáo khoa THPT hiện hành đã đáp

ứng đƣợc yêu cầu hiện đại, đổi mới (đó là so với chƣơng trình Ngữ văn THPT trƣớc

2002 và gần đây chúng ta đƣợc biết năm tới: 2018, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã quyết

định “đổi mới” toàn bộ chƣơng trình - sách giáo khoa phổ thông).

Cùng với điều đó là sự thúc bách phải đổi mới phƣơng pháp dạy học Ngữ văn

dƣới sự tác động của các lý thuyết mới về nghiên cứu phê bình văn học, về lý luận

dạy học - trong đó có lý thuyết liên văn bản. Sự thúc bách này còn đến từ thực trạng

học sinh THPT nhiều năm nay thờ ơ với bộ môn Ngữ văn và các môn khoa học xã

hội - nhân văn khác.

Về phía chủ quan: những giáo viên Ngữ văn THPT tâm huyết với nghề đã

vƣợt thoát những ám ảnh thời cuộc, lặng thầm và đổi mới cách dạy học văn, góp

phần đổi thay mối quan hệ giữa ngƣời dạy và ngƣời học, ngõ hầu đổi mới tƣ duy

của học sinh về văn học và cuộc sống.

Nhờ thế mà thực tế vận dụng lý thuyết liên văn bản trong dạy đọc hiểu văn

bản văn học ở THPT hiện nay đã có những thành công bƣớc đầu. Đã có sự khởi sắc

trong giờ dạy đọc hiểu văn bản văn học nói riêng và dạy học Ngữ văn nói chung.

Giờ dạy học đọc hiểu văn bản đã “mở” hơn, thông thoáng hơn, thực hiện nguyên tắc

dạy học tích hợp có hiệu quả hơn, học sinh có cơ hội chiếm lĩnh tri thức phƣơng

pháp, tri thức về cách đọc văn bản nhiều hơn. Những giờ dạy đọc hiểu văn bản văn

học giáo viên tiếp cận lý thuyết liên văn bản một cách tự giác đƣợc đồng nghiệp và

thanh tra đánh giá cao. Kết quả học tập môn Ngữ văn THPT ở những lớp đƣợc thực

nghiệm vận dụng lý thuyết liên văn bản cao hơn một mức so với các lớp đối chứng.

Một biểu hiện đáng mừng và nguồn động viên với giáo viên Ngữ văn THPT là: số

41

lƣợng học sinh yêu thích môn học và học tốt môn văn đã có sự tăng lên.

1.3.3.2 Hạn chế, tồn tại cần khắc phục

Về phía ngƣời dạy: đó là sự trì níu, “sức ỳ” đáng nghi ngại của lối dạy cũ - kể

cả lối dạy “nửa cũ nửa mới” tồn tại khá dai dẳng trong không ít giáo viên Ngữ văn

THPT không chỉ ở những ngƣời lớn tuổi. Đồng thời trong dạy học Ngữ văn ở

THPT, thực trạng hiểu biết, nhận thức về lý thuyết - kỹ thuật liên văn bản vào dạy

đọc hiểu văn bản văn học của giáo viên còn nhiều hạn hẹp. Một nguyên cớ nữa -

theo chúng tôi là việc vận dụng lý thuyết liên văn bản vào dạy đọc hiểu văn bản văn

học ở THPT đòi hỏi nhiều công phu, sự đầu tƣ của ngƣời dạy về thời gian, tâm lực

khá lớn, từ quá trình lên kế hoạch, soạn giáo án đến triển khai trên lớp.

Về phía ngƣời học: lối dạy, cách dạy của giáo viên đã tác động khá lớn đến

cách học của học sinh, chƣa nói đến tác động không cƣỡng lại đƣợc của “xã hội

công nghiệp hóa, hiện đại hóa” kéo theo sự lên ngôi của các môn khoa học tự nhiên,

kỹ thuật công nghệ, đâu còn mấy “dƣ địa” cho Ngữ văn và các môn xã hội nhân văn

khác. Nên chăng, với sự xuống cấp của “văn hóa đọc” học sinh THPT hiện nay cần

phải “xóa đói giảm nghèo” dài dài về kiến thức văn học cùng phƣơng pháp, cách

thức học Ngữ văn.

Tựu trung, sự phát triển của lý thuyết liên văn bản đã đƣa các lý thuyết gia đi

từ việc nhận ra bản chất đích thực của văn bản đến việc khẳng định “bản chất văn

bản” của mọi thứ tạo nên xã hội loài ngƣời từ: biến cố lịch sử, sự kiện văn hóa đến ý

thức, vô thức. Rõ ràng vận dụng lý thuyết liên văn bản trong dạy đọc hiểu văn bản

văn học ở THPT, dù tự giác hay không đã đƣợc thực hiện từ khá lâu, giúp giáo viên

Ngữ văn THPT nhìn ra đƣợc tiềm năng ý nghĩa vô hạn của tác phẩm tạo nên những

giờ học đầy tính gợi mở. Để đọc hiểu một văn bản, cả ngƣời dạy và ngƣời học đều

phải thực hiện sự nối kết: nối kết văn bản này với văn bản khác, từ văn bản học đến

các “văn bản” khác trong “văn bản thế giới”. Đây cũng chính là nội dung cốt lõi của

dạy học tích hợp đối với môn Ngữ văn.

Văn hào Lỗ Tấn từng nói: “Thực ra trên thế giới này nguyên làm gì có đƣờng.

Ngƣời ta đi nhiều thì thành đƣờng thôi”. Con đƣờng ứng dụng lý thuyết liên văn bản

trong dạy đọc hiểu văn bản văn học ở THPT hiện nay mới khai mở chặng đƣờng

đầu tiên song đã không ít gập ghềnh, phía trƣớc còn nhiều cái mốc, những ẩn số mà

42

chúng ta phải giải mã. Chúng tôi tin rằng trên con đƣờng đổi mới ấy, chúng ta sẽ

khắc phục đƣợc những hạn chế tồn tại, việc đổi mới sẽ đƣợc tiến hành bài bản, đồng

bộ. Nhất là xây dựng đƣợc một cơ sở lý luận khoa học vững chắc hơn.

1.3.3.3 Biện pháp khắc phục những hạn chế trong việc vận dụng lý thuyết liên

văn bản trong dạy học đọc hiểu chương trình Ngữ văn lớp 12

Để khắc phục đƣợc những hạn chế còn tồn tại khi sử dụng lý thuyết liên văn

bản vào dạy học Ngữ văn trong trƣờng THPT nói chung và trong chƣơng trình Ngữ

văn lớp 12 nói riêng thì trƣớc hết phải khắc phục ở đội ngũ giáo viên. Giáo viên cần

phải vận dụng tự giác trên cơ sở hiểu biết về lý thuyết liên văn bản, và nắm vững lý

thuyết liên văn bản. Nhƣ vậy để làm đƣợc điều này trƣớc hết Bộ Giáo Dục – Đào

tạo cần phải có những buổi tập huấn cho giáo viên kỹ lƣỡng về việc ứng dụng các

phƣơng pháp mới vào dạy học, vận dụng lý thuyết liên văn bản vào dạy học. Không

chỉ vậy, bản thân giáo viên với nhiệm vụ cao cả “trồng ngƣời” vì thế phải là ngƣời

luôn luôn biết tìm tòi, sáng tạo, trau dồi tri thức cho bản thân. Cho nên, giáo viên

phải chủ động đọc, tham khảo những công trình nghiên cứu về lý thuyết liên văn

bản và phƣơng pháp vận dụng lý thuyết liên văn bản vào dạy học đọc hiểu môn Ngữ

văn. Đồng thời có những kế hoạch cụ thể từ quá trình lên kế hoạch đến việc chuẩn

bị giáo án một cách kỹ lƣỡng trƣớc khi lên lớp…

Một trong những đóng góp thành công không nhỏ cho tiết học đó chính là đối

tƣợng tiếp nhận – học sinh. Để có thể khắc phục những hạn chế thiếu sót còn tồn tại

trong việc vận dụng lý thuyết liên văn bản trong dạy học đọc hiểu môn Ngữ văn lớp

12 thì cần phải chú ý đặc biệt đến ngƣời học. Xƣa nay, nói đến học văn là học sinh

đã có một cái nhìn ái ngại, thậm chí tƣ tƣởng mặc định sẵn ở các em là không thích,

không muốn học. Bởi văn chƣơng thiên về yếu tố cảm xúc, không những thế lại còn

là môn học xƣa nay đƣợc gắn mác – môn xã hội, ít tính ứng dụng, khiến học sinh

không mấy thích thú, thậm chí còn ám ảnh và sợ hãi. Trong khi đó, học sinh lớp 12

các em phải tiếp nhận biết bao nhiêu kiến thức cùng với áp lực của các kỳ thi, đặc

biệt là kỳ thi quan trọng nhất trong cuộc đời các em – kỳ thi THPT Quốc Gia.

Dƣờng nhƣ với tất cả các môn học với các em lúc này đều là áp lực. Cho nên, trƣớc

hết những ngƣời giáo viên dạy Ngữ văn phải làm sao xóa tan định kiến vốn có của

học sinh với môn học này, và cho các em thấy đƣợc tầm quan trọng của môn học

43

mình đang giảng dạy, để chuẩn bị cho các em luôn luôn có một tâm thế chủ động

tiếp nhận, chủ động tìm tòi và nghiên cứu các văn bản văn học. Có vậy việc vận

dụng lý thuyết văn bản vào dạy học đọc hiểu môn Ngữ văn mới có thể thành công.

1.4 Thực trạng dạy học đoạn trích “Hồn Trƣơng Ba, da hàng thịt” của

Lƣu Quang Vũ (Ngữ văn 12, tập2) trong trƣờng THPT hiện nay

1.4.1 Thực trạng dạy học Ngữ văn trong nhà trƣờng THPT hiện nay

1.4.1.1 Thực trạng việc dạy của giáo viên

Ngữ văn là một trong những môn học chính ở nhà trƣờng và đƣợc coi là môn

khoa học mang tính nghệ thuật, phản ánh chân thực cuộc sống bằng hình tƣợng

ngôn ngữ. Môn học tích hợp giữa ngôn ngữ với văn tự (chữ viết), ngôn ngữ với văn

bản, ngôn ngữ với văn hóa, ngôn ngữ nói với ngôn ngữ viết. Ngữ văn cũng chính là

môn học xây dựng và gìn giữ đạo đức xã hội, tác động nhiều đến nhân cách và tâm

hồn con ngƣời. Văn chƣơng có đặc thù riêng, là lĩnh vực thẩm mĩ của sáng tạo cá nhân, tác

phẩm văn chƣơng không chỉ đem lại thông tin mà còn là một hệ thống tín hiệu thẩm mĩ

đòi hỏi sự khám phá, liên tƣởng của ngƣời đọc. Dạy văn là một lĩnh vực hoạt động đòi

hỏi nhiều tìm tòi sáng tạo của giáo viên và học sinh. Tuy nhiên, nhìn vào thực trạng dạy

và học văn hiện nay, chúng ta không thể không thừa nhận một bƣớc thụt hậu khá dài về

nhận thức cũng nhƣ thực hành sƣ phạm so với bƣớc đi của một số nƣớc tiên tiến. Điều đó

do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan.

Xét về xã hội, thời đại chúng ta đang sống hiện nay là thời đại khoa học công nghệ,

hội nhập toàn cầu, đại đa số học sinh chỉ muốn học các ngành khoa học tự nhiên, kĩ

thuật, kinh tế. Văn chƣơng không nhiều tính năng ứng dụng. Vì vậy, học sinh ngày

càng xa rời, chƣa có niềm đam mê, thích thú khi học Ngữ văn và các môn học xã

hội. Học sinh ít tự nghiên cứu, thậm chí không đọc tác phẩm để tìm hiểu, khám phá

tác phẩm mà chủ yếu chép lại và dựa vào gợi ý hƣớng dẫn của các sách tham khảo,

văn mẫu. Những tài liệu này, vô hình chung, đã làm cho học sinh bỏ rơi sách giáo

khoa, thủ tiêu óc sáng tạo, suy nghĩ của ngƣời học, biến học sinh thành những ngƣời

quen suy nghĩ diễn đạt bằng những ý vay mƣợn, bằng những lời có sẵn. Lẽ ra học

sinh phải làm chủ tri thức thì lại trở thành nô lệ của sách vở.

Tuy nhiên ở đây còn có vấn đề thuộc phƣơng pháp dạy học ngữ văn của các thầy

cô.

44

- Trƣớc hết là phƣơng pháp dạy học cũ kĩ, chỉ dựa vào giảng, bình. Đối với

tác phẩm văn học thì chú trọng cái gọi là "giảng tác phẩm văn học". Dạy văn hầu

nhƣ chỉ có một đƣờng là "giảng", "bình", "luận", "phân tích". Giáo án soạn ra là để cho

giáo viên "giảng", biểu diễn trên lớp. Giáo viên nào tham kiến thức thì thƣờng "cháy"

giáo án, học sinh thụ động trong việc tiếp cận tri thức. Trong khi đó, các tác phẩm văn

học đƣợc sáng tác với mục đích cho mọi ngƣời đọc. Do đó giờ dạy học văn phải là giờ

dạy học sinh đọc văn bản, hình thành kĩ năng đọc - hiểu văn bản cho học sinh, từ đó

hình thành và phát triển các năng lực cần thiết khi tiếp cận tri thức văn chƣơng.

- Thứ hai là phƣơng pháp dạy học theo lối cung cấp kiến thức áp đặt, học sinh

phải học thuộc kiến giải của thầy. Giáo viên thuyết trình nội dung thông tin bằng

kênh lời và học sinh ghi chép lại, nhớ rồi làm bài. Giáo viên truyền thụ kiến thức

theo cách cảm, cách nghĩ của thầy, học sinh thụ động ghi chép một chiều mà không

hề có sự phản hồi hay ý kiến đóng góp. Thầy cô giáo chủ yếu kiểm tra trí nhớ của

học sinh chứ chƣa chú trọng vào việc phát huy năng lực cho học sinh. Bản chất học

tập không phải là tiếp nhận những gì đƣợc đƣa trực tiếp từ ngoài vào, mà là sự kiến

tạo tri thức mới dựa trên cơ sở nhào nặn các dữ liệu mới và kinh nghiệm đã đƣợc tích

luỹ. Học tập thực chất không phải là học thuộc mà là tự biến đổi tri thức của mình

trên cơ sở các tác động của bên ngoài và của hoạt động của ngƣời học. Do đó việc

áp đặt kiến thức chỉ có tác dụng tạm thời, học xong là quên ngay, không để lại dấu

ấn trong tâm khảm ngƣời học, không trở thành kiến thức hữu cơ của một bộ óc biết

suy nghĩ và phát triển.

- Thứ ba là phƣơng pháp dạy nhồi nhét cũng trở thành hiện tƣợng phổ biến

hiện nay. Thầy cô sợ cháy giáo án, sợ dạy không hết lƣợng kiến thức theo yêu cầu của

chuẩn kiến thức kĩ năng hay nội dung của văn bản. Thầy cô sợ dạy không kĩ, ảnh

hƣởng đến kết quả làm bài thi của học sinh, cho nên không lựa chọn trọng tâm,

không có thời gian nêu vấn đề cho học sinh trao đổi, thảo luận. Kết quả của lối dạy

này cũng làm cho HS tiếp thu một cách thụ động, một chiều. Giáo viên chƣa trao

cho các em tính chủ động trong học tập, chƣa chú trọng việc tổ chức cho học sinh tự

học, tự khám phá kiến thức đồng thời rút ra những bài học bổ ích cho bản thân. Học

sinh không biết tự học, không có nhu cầu tự tìm hiểu, nghiên cứu, không biết cách

chủ động tự đọc SGK để tìm hiểu kiến thức, không biết cách phân biệt đâu là nội dung

45

chính và phụ, không biết tìm kiến thức trọng tâm để học và khám phá bổ sung kiến

thức. Vì vậy năng lực tự học của học sinh cũng là một hạn chế trong thực trạng dạy

và học ngữ văn hiện nay.

- Một hiện tƣợng thƣờng thấy nữa là cách giảng văn trên lớp của thầy cô nhƣ cách

nghiên cứu văn học của các học giả, nhƣ cách học của sinh viên khoa văn học. Đó

là cách phân tích sâu về tâm lí, về kĩ thuật ngôn từ, về phƣơng pháp sáng

tácTrong khi đó đối với học sinh phần lớn theo khối A, B, chỉ cần dạy cho các em biết

đọc hiểu, tiếp nhận tác phẩm nhƣ một độc giả bình thƣờng, nghĩa là chỉ cần nắm bắt

đúng ý nghĩa, tƣ tƣởng của tác phẩm, một vài nét đặc sắc về nghệ thuật đủ để thƣởng

thức và gây hứng thú. Có khi phƣơng pháp học tập thiếu sự hợp tác giữa trò và

thầy, giữa trò với trò. Mỗi cá nhân trong quá trình học tập đều có hạn chế, bởi mỗi

ngƣời thƣờng chỉ chú ý vào một số điểm, bỏ qua hoặc không đánh giá hết ý nghĩa của

các kiến thức khác. Trong điều kiện đó, nếu biết cách hợp tác trong học tập giữa

giáo viên và học sinh, giữa học sinh với học sinh thì kiến thức của các em sẽ bổ sung,

hoàn chỉnh toàn diện và sâu sắc hơn.

- Cảm thụ văn học khác hẳn cảm thụ âm nhạc hay hội hoạ. Nếu trong hội họa

và âm nhạc là cảm thụ trực tiếp âm thanh và màu sắc, bố cục bức tranh thì trong

văn học chính ngƣời đọc phải tự kiến tạo bức tranh mà mình sẽ thƣởng thức. Đọc

không hiểu thì không có gì để cảm thụ cả. Vì thế không thể bỏ qua hoạt động đọc và

khái niệm đọc. Có ngƣời nói dạy văn là dạy học sinh lặp lại, đi trở lại con đƣờng của

ngƣời sáng tạo văn, tức nhà văn. Đó là nhầm lẫn giữa hoạt động sáng tạo của nhà

văn và sáng tạo của ngƣời đọc. Thực ra đó là hai hoạt động khác nhau, học sinh

trƣớc hết phải tiếp cận văn bản nhƣ một ngƣời đọc, sau đó những ai có năng khiếu

sáng tác mới đi lại con đƣờng của tác giả.

- Về dạy học làm văn nghị luận chủ yếu vẫn là dạy làm văn theo đề sẵn và văn

mẫu của bộ đề, thƣờng là chứng minh cho những nhận định, ý kiến của ai đó. Điều

đó cũng tốt, song không gian tƣ duy sáng tạo chật hẹp, thiếu phản bác, tranh luận

hoặc nêu ý kiến riêng của ngƣời viết. Chấm bài làm văn phần nhiều qua loa, chỉ cốt

cho điểm là chính. Phần nhiều coi nhẹ khâu chữa bài và hƣớng dẫn HS tự sửa bài để

nâng cao kĩ năng làm văn. Dạy tiếng Việt thì nặng về dạy lí thuyết, ít thực hành.

46

- Về mặt nội dung giảng dạy:

+ Giáo viên thƣờng chỉ chú trọng phân tích nội dung mà ít quan tâm đến hình

thức nghệ thuật của văn bản.

+ Giáo viên vẫn chƣa giảng dạy văn bản theo loại thể.

+ Trong quá trình giảng dạy, giáo viên cho học sinh tìm hiểu thể loại và

phƣơng thức biểu đạt của văn bản, nhƣng khi đi vào đọc hiểu, giáo viên lại chỉ chú

trọng đến nội dung mà quên mất kết hợp với thể loại của bài.

- Về mặt phƣơng pháp:

+ Theo cách truyền thống, giáo viên chủ yếu dùng phƣơng pháp thuyết trình

là chính. Vì vậy ít đem lại hiệu quả đáng kể, dẫn đến việc giáo viên gò ép học sinh

theo cảm nhận chủ quan của mình và vô tình triệt tiêu khả năng tƣ duy sáng tạo của

học sinh.

+ Trong khi phƣơng pháp truyền thống dần mất đi vị thế của mình thì nhiều

phƣơng pháp mới đƣợc ra đời. Tuy nhiên việc giáo viên vận dụng những phƣơng

pháp mới còn lúng túng.

1.4.1.2 Thực trạng việc học của học sinh

Hiện nay trong các nhà trƣờng phổ thông thái độ đối với môn Ngữ văn của

học sinh có sự phân lập rất rõ, số đông học sinh có thiên hƣớng thi vào các khối tự

nhiên (do dễ kiếm việc làm sau khi ra trƣờng), số còn lại rất ít dự thi vào hai khối

C, D thì học văn với động cơ rất thực dụng: Đề thi đại học, cao đẳng. Đặc biệt, một

thực tại mà giáo viên nào cũng nhận thấy: Sách tham khảo, sách hƣớng dẫn để học

tốt, sách chuẩn kiến thức, bài văn mẫu... quá nhiều, vô hình chung đã làm cho học

sinh bỏ rơi SGK. Khâu soạn bài của một số học sinh ở nhà chƣa thật tốt. Có nhiều

học sinh không tự tìm đọc trọn vẹn vở kịch và những tài liệu liên quan khác, nên

giờ dạy của giáo viên chƣa thật thuận lợi. Nhiều học sinh còn cảm thấy chƣa thật sự

hứng thú khi học tập thể loại này nên ít nhiều ảnh hƣởng đến cảm xúc ở tâm thế

tiếp nhận, đến việc lĩnh hội kiến thức mới của bài học.

1.4.2 Thực trạng dạy học đoạn trích “Hồn Trƣơng Ba, da hàng thịt” của

Lƣu Quang Vũ (Ngữ văn 12, tập2) trong trƣờng THPT hiện nay

Đoạn trích kịch bản “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” đƣợc đƣa vào giảng dạy

trong nhà trƣờng Trung học phổ thông từ năm học 2008 – 2009. Đây là một kịch

47

bản văn học dân gian mà hiện đại, phản ánh những vấn đề thời sự trong cuộc sống,

xã hội. Đó là những vấn đề còn khá xa lạ với lứa tuổi học sinh. Để đạt đƣợc kết quả

dạy học nhƣ mong muốn thì ngƣời giáo viên đã giảng dạy nhƣ thế nào? Thực tế dạy

học tác phẩm này ra sao? Chúng tôi đã tiến hành khảo sát về tình hình dạy học đoạn

trích của giáo viên nhƣ sau:

- Đối tƣợng khảo sát: Giáo viên trƣờng THPT Gia Lộc, và trƣờng THPT Gia

Lộc II (Thị trấn Gia Lộc - Huyện Gia Lộc - Tỉnh Hải Dƣơng). Đây là hai trƣờng

học đều có đối tƣợng học sinh là con em địa phƣơng thuộc tỉnh Hải Dƣơng. Mô

hình đào tạo về cơ bản giống nhau. Vì vậy, chúng tôi đã chọn làm đối tƣợng khảo

sát cho luận văn.

- Phƣơng pháp khảo sát: Chúng tôi lập phiếu khảo sát dƣới hình thức trắc

nghiệm, sau đó yêu cầu giáo viên trả lời bằng cách đánh dấu “x” vào ô trả lời.

- Kết quả khảo sát: Qua kết quả khảo sát, chúng tôi nhận thấy tình hình dạy

học đoạn trích “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” nhƣ sau:

+ Về định hƣớng dạy học: chiếm tới 46,7% giáo viên dạy học theo nội dung

của đoạn trích. Khi dạy, giáo viên chỉ nhấn mạnh về đối thoại kịch và ngôn ngữ

kịch. Hầu hết giáo viên đều có đọc truyện cổ tích “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”,

nhƣng lại không so sánh giữa truyện cổ tích và vở kịch.

+ Về khó khăn trong dạy học: đa số giáo viên đều gặp khó khăn trong việc

định hƣớng dạy học đoạn trích. Các giáo viên đều cho rằng vở kịch hay, song khó

định hƣớng dạy học. Một khó khăn nữa là học sinh không hứng thú học tác phẩm.

+ Về hứng thú của giáo viên khi dạy học đoạn trích “Hồn Trương Ba, da

hàng thịt”: Có 53,3% số giáo viên đều trả lời không thích dạy, chỉ có 26,7% giáo

viên có hứng thú dạy học đoạn trích. Cùng với khảo sát, chúng tôi đã tiến hành trao

đổi với một số giáo viên đã và đang giảng dạy lớp 12 ở trƣờng THPT Gia Lộc, và

trƣờng THPT Gia Lộc II, về việc dạy học đoạn trích “Hồn Trương Ba, da hàng

thịt”. Qua trao đổi, chúng tôi thấy có nhiều ý kiến trái ngƣợc nhau, cụ thể nhƣ sau:

Một số giáo viên cho rằng “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” là một vở kịch hay, vấn

đề đƣợc phản ánh trong tác phẩm dễ hiểu hơn so với một số kịch bản khác. Vì vậy

học sinh dễ tiếp nhận giá trị nội dung, cả giáo viên và học sinh đều có hứng thú khi

học tác phẩm. Tuy nhiên, khi hỏi về việc định hƣớng dạy học đoạn trích thì những

48

giáo viên này lại không khai thác đoạn trích theo đặc trƣng thể loại, mà dạy học

theo diễn biến cốt truyện, nhân vật. Đa số giáo viên đƣợc hỏi đều có chung một tâm

tƣ là không thích dạy đoạn trích kịch bản “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” và họ gặp

nhiều khó khăn trong quá trình dạy học, ví dụ nhƣ các ý kiến sau:

- Dạy kịch đã không thích rồi, dạy kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” càng

không thích.

- Không chỉ giáo viên mà học sinh cũng không có hứng thú học tác phẩm. Vì

học sinh không thích kịch, nội dung của vở kịch không phù hợp với lứa tuổi của các

em.

- Tôi cũng thấy vở kịch hay, song không biết dạy thế nào cho học sinh thấy

hay, cho khác biệt với những tác phẩm thơ và văn xuôi. Giáo viên khó khơi gợi

hứng thú cho học sinh khi dạy đoạn trích. Trao đổi về định hƣớng dạy học đoạn

trích, hầu hết giáo viên đều soạn giảng theo các tài liệu có sẵn, hoặc soạn giảng

giống nhƣ dạy các thể loại khác. Nhất là không có giáo viên nào hƣớng dẫn học sinh

so sánh giữa truyện cổ tích “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” với vở kịch, và cũng

chƣa giáo viên nào chú ý tới soạn giảng dạy học đoạn trích này theo hƣớng liên văn

bản, mà mới chỉ tích hợp liên môn trong tác phẩm mà thôi. Qua thực tế dạy học trên,

chúng tôi thấy, giáo viên còn lúng túng trong việc định hƣớng dạy học đoạn trích

này cho học sinh và học sinh chƣa phát huy đƣợc tính tích cực học tập của học sinh.

Vậy làm thế nào để cả giáo viên và học sinh có hứng thú với tác phẩm? Làm thế nào

để kết quả dạy học đƣợc nhƣ mong muốn? Dạy học theo cách nào để phù hợp với

đặc điểm nhận thức của học sinh? Đó là điều trăn trở của chúng tôi khi dạy học đoạn

trích kịch bản “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” theo hƣớng tiếp cận liên văn bản

Tiểu kết chƣơng 1

Những năm gần đây, cùng với sự phát triển và hội nhập kinh tế, văn hóa thế

giới đã có những tác động không nhỏ đến tƣ tƣởng, tính cách của học sinh. Cho nên

đòi hỏi ngành giáo dục cần phải đổi mới phƣơng pháp để nâng cao hiệu quả giáo

dục đạo đức cũng nhƣ khơi dậy tình cảm nhân văn cho các em ngay từ khi các em

ngồi trên ghế nhà trƣờng, mới mong đào tạo các em thành những công dân có ích

cho đất nƣớc.

Xuất phát từ tinh thần cơ bản của đổi mới phƣơng pháp dạy học văn ở trƣờng

49

THPT là kích thích sự chủ động sáng tạo, và giáo dục đạo đức cho học sinh. Cho

nên giáo viên dạy Ngữ văn trong những năm gần đây đã tích cực sử dụng những

phƣơng pháp và kỹ thuật dạy học mới vào dạy học. Một trong những phƣơng pháp,

kỹ thuật dạy học đƣợc giáo viên thƣờng xuyên sử dụng vào dạy học môn Ngữ văn

để nâng cao chất lƣợng học tập của học sinh đó là dạy học theo hƣớng tiếp cận liên

văn bản. Cho nên trong luận văn này ở chƣơng 1, chúng tôi đã trình bày cơ sở lí

luận và thực tiễn của đề tài nghiên cứu về các vấn đề liên văn bản, và dạy học đoạn

trích “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của Lƣu Quang Vũ (Ngữ văn 12, tập 2) theo

50

hƣớng tiếp cận liên văn bản.

CHƢƠNG 2

NHỮNG ĐỊNH HƢỚNG , NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP DẠY HỌC

ĐOẠN TRÍCH “HỒN TRƢƠNG BA DA HÀNG THỊT” CỦA LƢU QUANG

VŨ (NGỮ VĂN 12, TẬP 2) THEO HƢỚNG TIẾP CẬN LIÊN VĂN BẢN

2.1 Những định hƣớng tổ chức hoạt động dạy học đoạn trích “Hồn

Trƣơng Ba da hàng thịt” trong chƣơng trình Ngữ văn lớp 12

2.1.1 Dạy học đoạn trích “Hồn Trƣơng Ba da hàng thịt” của Lƣu Quang

Vũ theo hƣớng tích hợp và tích cực

Trong những năm gần đây, vấn đề dạy học theo hƣớng tích hợp, để kích

thích sự tích cực của học sinh đã trở thành một vấn đề “nóng”, đƣợc cả xã hội quan

tâm. Vì thế ngành Giáo dục đã có những hoạt động thiết thực, bổ ích nhƣ tổ chức

tập huấn giáo viên, tuyên truyền qua các phƣơng tiện thông tin đại chúng, tổ chức

các cuộc thi dạy học tích hợp liên môn, phát huy tính tích cực, sáng tạo, chủ động

của học sinh. Chính vì thế, đòi hỏi ngƣời giáo viên cũng phải bắt kịp xu thế chung

của ngành giáo dục. Nhất là bộ môn Ngữ văn, đã trở thành một trong những môn

học bắt buộc trong kì thi THPT Quốc Gia. Cho nên, giáo viên bộ môn Ngữ văn luôn

phải học hỏi, tìm tòi để đáp ứng đƣợc những đổi mới của ngành, cũng nhƣ nhu cầu

của học sinh. Tìm ra phƣơng pháp để giúp học sinh của mình không cảm thấy áp

lực, chán nản khi nghĩ tới môn văn, học văn.

Từ những đòi hỏi nhƣ vậy, cho nên mỗi văn bản văn học trong chƣơng trình

Ngữ văn, giáo viên cần phải tìm những phƣơng pháp cho phù hợp. Dạy học đoạn

trích “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của Lƣu Quang Vũ (Ngữ văn 12, tập 2) trƣớc

đây các giáo viên thƣờng áp dụng những phƣơng pháp truyền thống đó là : thuyết

trình, phát vấn, và sau đó là đọc chép,…Nhƣng trong những năm gần đây, giáo viên

đã áp dụng nhiều phƣơng pháp với các kỹ thuật dạy học mới để phát triển năng lực

và tƣ duy cho học sinh nhƣ : Đóng vai, dạy học dự án, dạy học theo góc, dạy học

trải nghiệm…Một trong những phƣơng pháp hiện nay hay đƣa vào giảng dạy nữa

đó là dạy học theo hƣớng tích hợp và tích cực.

Thông qua phƣơng pháp dạy học đọc hiểu tác phẩm “Hồn Trương Ba, da

51

hàng thịt” của Lƣu Quang Vũ (Ngữ văn 12, tập 2) theo hƣớng tích hợp liên môn để

phát huy tính tích cực của học sinh, giáo viên không chỉ giúp học sinh có kiến thức

về môn Ngữ văn mà còn giúp học sinh có những kiến thức sâu rộng hơn về các lĩnh

vực khác nhƣ văn hóa, tâm linh, tƣ tƣởng triết lý nhân sinh,… Từ đó học sinh lớp

12 các em sẽ hình thành những năng lực, tƣ duy sáng tạo và tự các em có ý thức tìm

tòi chủ động tiếp nhận tri thức, tích cực học tập.

2.1.2 Dạy học đoạn trích “Hồn Trƣơng Ba da hàng thịt” của Lƣu Quang

Vũ nhằm bồi dƣỡng năng lực ngôn ngữ nghệ thuật cho học sinh lớp 12

Ngôn ngữ kịch chủ yếu là ngôn ngữ nhân vật đƣợc thể hiện trực tiếp trong

những lời thoại. Đặc điểm ngôn ngữ kịch mang tính hành động thể hiện tranh luận,

biện bác, thuyết phục, phủ nhận, cầu khẩn, đe dọa,…rất phong phú. Thông qua dạy

học đoạn trích “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” (Ngữ văn 12, tập 2) xƣa nay các

giáo viên vẫn thƣờng chú trọng đến việc bồi dƣỡng năng lực ngôn ngữ nghệ thuật

cho họ sinh lớp 12. Vì vậy, giáo viên thƣờng hƣớng dẫn học sinh đọc hiểu tác phẩm

theo hai bƣớc nhƣ sau:

- Hƣớng dẫn học sinh khám phá đối thoại kịch.

- Từ đối thoại kịch giáo viên tiếp tục hƣớng dẫn học sinh khám phá những đặc

điểm về ngôn ngữ kịch Lƣu Quang Vũ trong vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”.

2.1.2.1 Hướng dẫn học sinh khám phá đối thoại kịch

Đối thoại kịch cũng là một sáng tạo nghệ thuật thể hiện đƣợc sâu sắc giá trị

nội dung tƣ tƣởng của đoạn trích cũng nhƣ của toàn vở kịch. Qua đối thoại, tính

cách, nội tâm của nhân vật đƣợc bộc lộ, đồng thời thể hiện kín đáo những trăn trở

của tác giả về cuộc sống, con ngƣời và xã hội.

Trong đoạn trích “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” (Ngữ văn 12, tập 2) có 3

đoạn đối thoại: giữa hồn Trƣơng Ba và xác anh hàng thịt; giữa hồn Trƣơng Ba với

ngƣời thân; giữa hồn Trƣơng Ba với Đế Thích. Mỗi cuộc hội thoại lại hàm ẩn một

triết lý nhân sinh và ý nghĩa phê phán sâu sắc. Chính vì thế, giáo viên phải giúp cho

học sinh thấy đƣợc giá trị và ý nghĩa của những cuộc đối thoại này. Để làm đƣợc

điều đó, thì giáo viên phải biết xây dựng hệ thống câu hỏi, giúp học sinh tự định

hƣớng và tìm đƣợc những triết lý nhân sinh mà Lƣu Quang Vũ gửi gắm. Qua đó,

học sinh biết khai thác giá trị nghệ thuật của kịch thông qua đối thoại kịch. Bởi đối

52

thoại kịch không đơn giản là thể hiện lời nói của nhân vật thông qua ngôn ngữ, mà

qua đó nó còn thể hiện tính cách, tâm trạng của nhân vật. Không chỉ thế mà cái độc

đáo trong ngôn ngữ nghệ thuật Lƣu Quang Vũ thể hiện trong đoạn trích “Hồn

Trương Ba, da hàng thịt” (Ngữ văn 12, tập 2) là ông còn lồng cả độc thoại trong

đối thoại. Để làm nổi bật đƣợc ngôn ngữ nghệ thuật ấy ngƣời giáo viên phải hết sức

linh hoạt và hƣớng dẫn học sinh đọc kỹ tác phẩm để giúp học sinh thấy rằng đây

không phải là đối thoại giữa hai nhân vật, giữa hai con ngƣời mà là đối thoại trong

một con ngƣời: giữa phần hồn với phần xác, và giữa phần hồn với phần xác không

phù hợp. Linh hồn Trƣơng Ba thì thanh cao, còn thân xác hàng thịt thì phàm tục,

thô lỗ. Từ đó giáo viên giúp học sinh tìm hiểu triết lý và giá trị nhân văn mà Lƣu

Quang Vũ thể hiện thông qua ngôn ngữ nhân vật.

2.1.2.2 Hướng dẫn học sinh khám phá đặc điểm ngôn ngữ kịch qua đoạn

trích “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của Lưu Quang Vũ (Ngữ văn 12, tập 2)

Yếu tố nghệ thuật ngôn từ trong kịch cũng là một trong những yếu tố tạo nên

thành công của tác phẩm kịch. Vì vậy trong quá trình dạy học đoạn trích cho học

sinh lớp 12 các giáo viên vẫn thƣờng khai thác yếu tố này để bồi dƣỡng năng lực

ngôn ngữ cho học sinh.

Ngôn từ trong kịch nói chung và ngôn ngữ trong đoạn trích“Hồn Trương Ba, da

hàng thịt” của Lƣu Quang Vũ (Ngữ văn 12, tập 2) nói riêng thƣờng là ngôn ngữ đối

thoại. Lời đối thoại giữa các nhân vật là điểm nổi bật trong kịch. Qua đối thoại của các

nhân vật trong đoạn trích, giáo viên thƣờng khai thác vào 3 đặc điểm nổi bật sau:

- Ngôn ngữ tự nhiên mang đậm tính khẩu ngữ, gần gũi với đời sống hàng ngày.

- Ngôn ngữ trong vở kịch cũng hết sức sắc sảo, giàu tính tạo hình, biểu cảm cao.

- Ngôn ngữ kịch của Lƣu Quang Vũ còn rất sâu sắc giàu sức gợi nghĩ, nhiều

lớp lang ý nghĩa.

Nhƣ vậy, định hƣớng tổ chức dạy học đọc - hiểu tác phẩm “Hồn Trương Ba

da hàng thịt” của Lƣu Quang Vũ nhằm bồi dƣỡng năng lực ngôn ngữ nghệ thuật

cho học sinh lớp 12 luôn là một trong những định hƣớng đƣợc giáo viên quan tâm,

để giúp học sinh khám phá những sáng tạo của nhà viết kịch tài ba Lƣu Quang Vũ.

Đây cũng là một trong những định hƣớng đáp ứng đƣợc sự đổi mới của dạy học đó

53

là phát huy đƣợc sự hứng thú và chủ động sáng tạo của học sinh.

2.1.3 Dạy học đoạn trích “Hồn Trƣơng Ba da hàng thịt” của Lƣu Quang

Vũ nhằm bồi dƣỡng nền tảng văn hóa, giáo dục đạo đức,và có cái nhìn mới về

con ngƣời cho học sinh lớp 12

Tác phẩm “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của Lƣu Quang Vũ không chỉ là

một tác phẩm văn học kịch có giá trị nghệ thuật ngôn từ phong phú, hấp dẫn, mà

đây còn là một vở kịch có giá trị giáo dục, ý nghĩa nhân văn lớn đối với đời sống

con ngƣời. Chính vì thế mà vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của Lƣu Quang

Vũ đã đƣợc đƣa vào chƣơng trình Ngữ văn THPT, nhằm giáo dục cho các em học

sinh những kỹ năng sống cơ bản nhất. Cho nên, khi giáo viên dạy học sinh đoạn

trích “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của Lƣu Quang Vũ (Ngữ văn 12, tập 2) bao

giờ cũng ƣu tiên việc giáo dục cho học sinh qua tiết học. Thông qua bài giảng của

mình các giáo viên bồi dƣỡng nền tảng văn hóa, giáo dục đạo đức cho các em qua

bài học triết lý mà Lƣu Quang Vũ đã gửi gắm.

Giá trị nhân văn của vở kịch chính là những thông điệp có tính triết lý về

nhân sinh mới mẻ, tích cực, đƣợc thể hiện tập trung trong cảnh 7 qua màn đối thoại

giữa hồn Trƣơng Ba với xác anh hàng thịt, đối thoại giữa Trƣơng Ba và Đế Thích

(Đoạn trích “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” Ngữ văn 12, tập 2, ban cơ bản). Qua

màn đối thoại giữa hồn Trƣơng Ba và xác anh hàng thịt tác giả nêu lên quan niệm:

con ngƣời luôn phải đấu tranh với bản thân để hoàn thiện nhân cách. Màn đối thoại

cho thấy con ngƣời có hai phần: linh hồn và thể xác, linh hồn có cơ sở vật chất để

trú ngụ đó là thể xác. Trong con ngƣời biểu hiện của linh hồn là những suy nghĩ, tƣ

tƣởng. Biểu hiện của thể xác là các nhu cầu nhƣ ăn, uống và các hoạt động trong đời

sống. Linh hồn và thể xác là một thể thống nhất, có quan hệ hữu cơ với nhau, trong

đó linh hồn giữ vai trò, vị trí chủ đạo. Vậy nên linh hồn phải chịu trách nhiệm cuối

cùng về hành động của thể xác, không thể thỏa mãn mọi nhu cầu ở mọi mức độ,

mọi lúc mọi nơi rồi đổ trách nhiệm cho thể xác. Cuộc đấu tranh giữa linh hồn và thể

xác thực sự là cuộc đấu tranh trong bản thân mỗi con ngƣời, để làm chủ những nhu

cầu, ham muốn, nhất là khi con ngƣời bị hoàn cảnh tác động. Đó là cuộc đấu tranh

để làm chủ bản thân và nhân cách của con ngƣời.

Trong màn đối thoại giữa Trƣơng Ba và Đế Thích, tác giả đã gửi gắm quan

54

niệm có ý nghĩa nhân sinh về hạnh phúc, về lẽ sống và về cái chết. Không đƣợc

sống là chính mình, phải trú nhờ thân xác hàng thịt, Trƣơng Ba ý thức rất rõ về cảnh

ngộ trớ trêu của mình vả vô cùng đau khổ. Khi gặp Đế Thích, Trƣơng Ba khẳng

định: “Không thể sống bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn

được là tôi toàn vẹn”. Trƣơng Ba kiên quyết trả lại xác anh hàng thịt, mặc dù Đế

Thích hết lời khuyên dụ, rồi Đế thích lại khuyên Trƣơng Ba hay là nhập vào xác cu

Tỵ, Trƣơng Ba có chút suy nghĩ đắn đo rồi kiên quyết chối từ không sống trong

thân xác cu Tỵ đƣợc vì sống nhƣ thế “còn khổ hơn cái chết”. Không chỉ vậy trƣớc

khi ra đi – trở về “cõi chết” hẳn Trƣơng Ba còn cầu xin Đế Thích hãy trả lại hồn

cho thân xác anh hàng thịt, cho anh ta sống lại , vì chị vợ anh ta “thật đáng

thương”, và hãy cho cu Tỵ sống lại “vì con trẻ” hãy hiểu nỗi đau khổ của ngƣời mẹ

phải mất đi đứa con của mình. Sự lựa chọn và ý muốn của Trƣơng Ba rất cao

thƣợng. Qua đó tác giả Lƣu Quang Vũ muốn gửi đến độc giả bức thông điệp : một

trong những điều quý giá nhất của con ngƣời là đƣợc sống trọn vẹn với những giá

trị mình có và theo đuổi. Nếu không đƣợc sống là chính mình mà phải sống gửi,

sống nhờ,…thì cuộc sống đó thật vô nghĩa, đầy tính bi hài.

Đoạn kết của vở kịch là khung cảnh hồn Trƣơng Ba chập chờn trong màu

xanh của cây, lá trong vƣờn, ở trên bậc cửa, trong ánh lửa, nơi cầu ao, trong cái cơi

đựng trầu,…Cho dù không còn trên cõi đời nhƣng Trƣơng Ba vẫn đƣợc ngƣời thân

yêu quý, quý mến nhƣ xƣa. Trong tâm trí mọi ngƣời Trƣơng Ba bất tử, vẫn là con

ngƣời “trong sạch, thẳng thắn”. Từ đó, Lƣu Quang Vũ khẳng định: thân xác của

từng con ngƣời tồn tại hữu hạn. Nhƣng sự sống và linh hồn của con ngƣời thì vô

hạn. Tƣ tƣởng triết lý về con ngƣời của Lƣu Quang Vũ vừa biện chứng, vừa lạc

quan, cao thƣợng.

Về mối quan hệ giữa linh hồn và thể xác trong vở kịch “Hồn Trương Ba, da

hàng thịt” của Lƣu Quang Vũ, giáo viên phải giúp đƣợc học sinh liên hệ tới mối

quan hệ giữa nội dung và hình thức trong mỗi sự vật. Khi nội dung và hình thức phù

hợp thì sự vật mới tồn tại và phát triển và ngƣợc lại khi nội dung và hình thức

không phù hợp thì sự phát triển bị kìm hãm, sự tồn tại của sự vật có thể bị đe dọa.

Từ đó giáo viên giáo dục cho học sinh lớp 12 kỹ năng sống và tồn tại, giáo dục đạo

đức cho các em hiểu những lẽ sống tốt đẹp mà Lƣu Quang Vũ gửi gắm để hoàn

55

thiện nhân cách, giúp cuộc sống của các em hoàn thiện tốt đẹp hơn.

2.2 Nội dung vận dụng

2.2.1 Liên kết văn bản “Hồn Trƣơng Ba da hàng thịt” của Lƣu Quang Vũ

với văn bản truyện dân gian

2.2.1.1 Cốt truyện kịch hay nhại cổ tích

Hồn và xác theo quan niệm dân gian vốn tồn tại trong một cơ thể sống, và chỉ

có cái chết mới có thể tách rời, chia lìa hồn và xác. Thế nhƣng bằng trí tƣởng tƣợng vô

biên và độc đáo của con ngƣời, dân gian đã tạo nên những câu chuyện thú vị về hồn và

xác. Và đặc biệt hơn nữa trong màu sắc của những câu chuyện dân gian, thì hồn và xác

lại muôn hình vạn trạng, hấp dẫn và li kì: hồn sống lại trong một thể xác khác,…

Trong truyện kể dân gian, vốn đề cao sự sống nên khi hồn đƣợc tái sinh bất

kể trong thể xác của ai, thì cuộc sống đều đáng sống. Và ngƣời kể chỉ quan tâm đến

hồn ngƣời sống chứ không hề quan tâm đến xác ngƣời chết. Và chính vì thế hành

động của ngƣời tƣớc quyền của trời đất thật rất đáng ngợi ca,…Nhƣng đó là câu

chuyện của dân gian nhiều ngàn năm trƣớc, khi mọi quan hệ xã hội đều rất giản

đơn. Nhƣng nhiều ngàn năm sau khi mọi chuyện trở nên phức tạp hơn. Quan hệ

giữa ngƣời với ngƣời, đặc biệt những nhu cầu xã hội và quan niệm về hạnh phúc

hoàn toàn khác và thậm chí trở nên rắc rối, đa hệ. Khi đó, bắt buộc con ngƣời phải

có cách nhìn mới. Vì thế nghệ nhân hậu hiện đại Lƣu Quang Vũ, nhân danh hạnh

phúc cá nhân con ngƣời đã đƣa ra cái nhìn toàn diện hơn, sao cho sự thâm nhập hồn

Trƣơng Ba vào thể xác hàng thịt tìm đƣợc sự bình yên đích thực khi cái xác cũng

đòi quyền lợi của nó? Sự sống lúc này vẫn đƣợc đề cao nhƣng cao hơn là chuyện

chất lƣợng sống. Ở đây có tính “đa trị” của “xác” và “hồn”. Xác này vừa là hiện

thân của thân thể hàng thịt vừa là dục vọng xác thịt, vừa là sức mạnh vật chất của

anh hàng thịt lẫn Trƣơng Ba,… còn hồn vừa là hồn ngƣời vừa là những giá trị tinh

thần cao cả, chứ không còn đơn giản là sự sống chết đơn thuần.

Hơn thế nữa, khi Lƣu Quang Vũ viết kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”

cũng là lúc nhân loại đang chuyển sang thời kì hậu hiện đại. Lúc này, yếu tố cá

nhân vẫn đƣợc xem xét nhƣng không còn là những nhân vị hoàn hảo, có thể phán

xét và trở thành biểu tƣợng cho một tiếng nói đơn nhất, độc tôn về thân phận con

ngƣời. Cá nhân bây giờ là những mảnh vỡ. Họ không thể đại diện cho bất kì ai và

56

ngay chính bản thân họ, họ vẫn đang mãi loay hoay kiếm tìm vô vọng lời giải đáp

cho câu hỏi của chính họ: Ta là ai? Ta đến từ đâu? Ta sẽ về đâu?

Những câu hỏi tƣởng chừng nhƣ đơn giản, dễ giải đáp. Nhƣng chính nó, đã

đƣa ngƣời ta vào bế tắc khi không tìm ra câu trả lời thỏa mãn cho mình. Vì thế, mà chính

bản thân họ lại rơi vào chính cái bẫy mà câu trả lời ấy đƣa ra. Nói tóm lại, trong kỉ

nguyên hậu hiện đại, sau khi không tìm thấy câu trả lời cuối cùng về bản thể, con ngƣời

chấp nhận một cuộc sống nội tại với sự chắp vá và không thể nào thấu triệt nó.

Lƣu Quang Vũ- nhà viết kịch hậu hiện đại, nhƣ bắt rõ đƣợc cái mạch này.

Chính vì thế, ông đã viết lại truyện cổ tích, một thể loại bao giờ cũng viên mãn với

những cái kết có hậu. Trong khi đó, thực tế thì cuộc đời luôn luôn khác. Các nhà

văn hậu hiện đại muốn đối thoại lại cổ tích bằng cách tái hiện cuộc đời theo đúng cái

hiện tồn của nó. Họ giữ lại phần đầu cốt truyện, nối thêm phần đuôi hoặc đan xen thêm

các chi tiết, sự kiện vào cốt truyện, và thế mọi chuyện đƣợc nhìn bằng ánh sáng khác,

cái ánh sáng đa trị, thật chói chang dƣới mặt trời với tất cả ƣu tƣ, phiền toái bất tận của

nó. Đây cũng là cách Lƣu Quang Vũ làm với hồn Trƣơng Ba.

Truyện cổ dân gian: Ngày xƣa, có một ngƣời tên là Trƣơng Ba, ngƣời còn trẻ

tuổi nhƣng đánh cờ tƣớng rất giỏi. Nƣớc cờ của anh dễ thƣờng thiên hạ không có

ngƣời nào địch nổi. Bao nhiêu giải cờ trong những hội hè mùa xuân đều về tay anh.

Tiếng đồn vang khắp nƣớc, sang đến tận Giang Nam. Buổi ấy, ở Trung Quốc, có

ông Kỵ Nhƣ cũng nổi tiếng cao cờ. Khi nghe tiếng Trƣơng Ba, Kỵ Nhƣ liền khăn

gói sang Nam tìm đến nhà địch thủ. Hai ngƣời đọ tài nhau trong mấy ván vẫn

không phân thua đƣợc. Nhƣng đến ván thứ ba, Trƣơng Ba dồn Kỵ Nhƣ vào thế bí.

Thấy đối phƣơng vò đầu suy nghĩ, Trƣơng Ba kiêu hãnh bảo:

“- Nước cờ này dù có Đế Thích xuống đây cũng không thể gỡ nổi.”

Bấy giờ Đế Thích là thần cờ ở thiên đình, bỗng nghe câu nói hỗn xƣợc của

Trƣơng Ba xúc phạm đến mình, liền cƣỡi mây xuống trần định cho y biết tay.

Trƣơng Ba và Kỵ Nhƣ đang đánh, chợt có một ông cụ già đến ngồi bên cạnh bàn cờ.

Ông cụ thủng thỉnh mách cho Kỵ Nhƣ mấy nƣớc. Tự nhiên, bên Kỵ Nhƣ cờ bại

thành thắng. Trƣơng Ba cau có, trong bụng tức giận ông già ở đâu đến làm cho mình

lâm vào thế bí. Nhƣng nhìn thấy ông cụ râu tóc trắng xóa, mặt mũi không có vẻ là

ngƣời trần tục, chợt hiểu, liền sụp xuống lạy mà rằng: “Ngài hẳn là thần Đế Thích

57

đây rồi, tôi ngƣời trần mắt thịt không biết, xin thứ lỗi”. Đế Thích cƣời bảo: “Ta nghe

như nhà ngươi tự phụ là cao cờ nên xuống xem cho biết”. Trƣơng Ba liền giữ Đế

Thích lại mua rƣợu, giết gà, khoản đãi rất chu tất. Đế Thích tuy mới gặp cũng rất

yêu mến Trƣơng Ba. Thấy anh khẩn khoản muốn học nƣớc cờ của mình, Đế Thích

bảo anh: “Ta thấy nhà ngươi có bụng chân thành, vậy ta cho một bó hương này, mỗi

lần cần đến ta thì thắp lên một cây, ta sẽ xuống”. Nói đoạn, cƣỡi mây bay lên trời.

Từ đó, Trƣơng Ba thỉnh thoảng lại dọn cờ mời thầy Đế Thích xuống chơi. Hai

bên rất tƣơng đắc. Nhƣng một hôm, Trƣơng Ba bị cái chết mang đi một cách đột

ngột. Sau khi chôn cất chồng, ngƣời vợ dọn dẹp nhà cửa, thấy có nén hƣơng giắt ở

mái nhà, chị ta vô tình lấy xuống đốt lên cắm trƣớc bàn thờ chồng. Ở thiên đình,

thần Đế Thích nhận đƣợc tin bằng mùi hƣơng liền xuống ngay. Thấy vắng mặt

Trƣơng Ba, Đế Thích ngạc nhiên: “Trương Ba đâu?”. Vợ Trƣơng Ba sụt sịt: “Nhà

tôi chết đã gần một tháng nay rồi!” - “Chết rồi! Sao lúc mới tắt thở không gọi ta

xuống ngay, để đến bây giờ còn làm thế nào được nữa?”. Suy nghĩ một chút, Đế

Thích lại hỏi thêm: “Trong xóm hiện nay có ai mới chết không?”. Vợ Trương Ba

đáp: “Có một người hàng thịt mới chết tối hôm qua”. Thần Đế Thích bảo chị ta dẫn

mình đến nhà ngƣời hàng thịt mà bảo: “Ta sẽ kiếm cách làm cho chồng nhà ngƣơi

sống lại”. Nói xong, thần hóa phép rồi trở về trời.

Nói chuyện trong nhà ngƣời hàng thịt lúc đó, mọi ngƣời đang xúm quanh linh

sàng khóc lóc kể lể thì tự nhiên thấy ngƣời chết ngồi nhỏm dậy. Hắn ta vứt tất cả

mọi đồ khâm liệm rồi chẳng nói chẳng rằng đi thẳng một mạch về nhà Trƣơng Ba. Vợ

Trƣơng Ba thấy ngƣời hàng thịt, biết là thần Đế Thích đã làm cho chồng mình sống lại,

mừng rỡ đón vào. Giữa lúc đó, thì vợ con ngƣời hàng thịt cũng chạy theo níu lấy chồng

nhƣng không những bị vợ Trƣơng Ba giằng lại, mà ngay chính chồng mình cũng

nhất định không chịu về. Đôi bên cãi cọ nhau, cuối cùng biến thành cuộc đấu khẩu

rất kịch liệt. Xóm làng không biết phân xử ra sao, đành đem việc đó lên quan.

Quan cho đòi các nhà hàng xóm tới hỏi cung thì ai cũng bảo ngƣời sống lại

đó là anh hàng thịt. Nhƣng chỉ có vợ Trƣơng Ba thì nhất định nhận ra là chồng

mình. Quan hỏi rằng: “Chồng chị ngày thường hay làm gì?”. Đáp: “chồng tôi chỉ

thạo đánh cờ mà thôi”. Quan lại hỏi vợ ngƣời hàng thịt: “chồng chị ngày thường

58

hay làm nghề gì?”. Đáp: “chồng tôi chỉ thạo nghề mổ lợn”.

Nghe đoạn, quan sai đem một con lợn vào công đƣờng cho anh hàng thịt mổ,

nhƣng anh ta lúng túng không biết làm thế nào cả. Quan lại sai mấy ngƣời giỏi cờ

vào tỉ thí với ngƣời hàng thịt thì không ngờ, con ngƣời đó đi những nƣớc cờ rất cao

không ai địch nổi. Quan bèn phán cho về nhà Trƣơng Ba.

Với cốt truyện ngắn gọn, mang một tƣ tƣởng triết học có phần hơi đơn giản -

đề cao, tuyệt đối hóa linh hồn, không để ý đến mối quan hệ giữa thể xác và linh hồn,

tách rời linh hồn và thể xác, coi thể xác chỉ nhƣ cái túi đựng linh hồn - truyện cổ dân

gian Hồn Trương Ba, da hàng thịt phù hợp với quan niệm xƣa, qua bao thế kỷ vẫn

đƣợc kể, đƣợc yêu thích và không hề gây tranh cãi.

Nhƣng kịch hậu hiện đại thì không có cái kết có hậu theo kiểu ấy. Hồn

Trƣơng Ba phải day dứt, khốn cùng trong cái xác của anh hàng thịt. Và cái xác của anh

hàng thịt cũng bất hạnh nhƣ hồn Trƣơng Ba. Bởi lẽ anh ta cũng rất muốn làm những

điều mà hồn không cho phép. Để hiểu rõ những bi kịch của Trƣơng Ba ta nên tìm hiểu

kỹ nội dung của vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của Lƣu Quang Vũ.

Tóm tắt vở kịch của Lƣu Quang Vũ. “Nam Tào, Bắc Đẩu đang ngồi chấm

ngƣời phải chết trong ngày. Đế Thích đến tỏ ý muốn xuống hạ giới để tìm ngƣời cao

cờ đánh cho vui. Vì vội đi dự tiệc ở bên dinh Thái thƣợng nên Nam Tào gạch bừa

tên Trƣơng Ba.

Trƣơng Ba đang chăm vƣờn và trò chuyện cùng vợ, cháu gái nội, con trai,

con dâu thì Trƣởng Hoạt đến chơi cờ. Đế Thích xuất hiện, giúp Trƣởng Hoạt gỡ thế

cờ. Đế Thích cho Trƣơng Ba mấy nén hƣơng và bảo nếu cần thì thắp một nén là Đế

Thích xuống, thắp ba nén thì có thể lên thiên đình gặp Đế Thích. Sau đó, Trƣơng Ba

thấy trong ngƣời khó chịu và chết.

Nam Tào, Bắc Đẩu và Đế Thích đang trò chuyện thì vợ Trƣơng Ba lên (bà ta

vô tình thắp ba nén hƣơng cho chồng). Bà đòi trả mạng sống cho chồng. Nhân có

anh hàng thịt mới chết, thân xác chƣa tan rữa, Nam Tào, Bắc Đẩu cho hồn Trƣơng

Ba nhập vào xác anh hàng thịt để sống lại.

Gia đình ngƣời hàng thịt đang ngồi bên quan tài thì ngƣời hàng thịt đội nắp

quan tài lên, đòi về nhà Trƣơng Ba, không chịu ở lại nhà hàng thịt. Vợ Trƣơng Ba

đến xem phép mầu nghiệm ứng để đón chồng. Lúc đầu, mọi ngƣời đều ngỡ ngàng

59

nhƣng hồn Trƣơng Ba đã nói đƣợc những điều chỉ có Trƣơng Ba xƣa mới biết, nên

vợ Trƣơng Ba nhận chồng, Trƣởng Hoạt nhận bạn. Hồn Trƣơng Ba (trong xác anh

hàng thịt) về nhà Trƣơng Ba.

Nhƣng bà vợ băn khoăn vì thân xác chồng khác xƣa nhiều quá. Bà cũng thắc

mắc về việc chồng phải sang giúp chị hàng thịt mổ lợn mặc dù vụng về.

Anh con trai thì hy vọng với sức vóc mới, bố có thể cùng đi buôn lậu với

mình. Hồn Trƣơng Ba đã tát con với sức mạnh của cánh tay anh hàng thịt.

Lý trƣởng vào bắt hồn Trƣơng Ba phải về nhà hàng thịt. Anh con trai hối lộ, Lý

trƣởng xử: ban ngày ở nhà Trƣơng Ba, đêm về nhà hàng thịt. Anh con trai lại có lời, Lý

trƣởng cho phép Trƣơng Ba chỉ phải ở nhà hàng thịt đến nửa đêm thì đƣợc về.

Trời đã khuya, hồn Trƣơng Ba giúp chị hàng thịt mổ lợn, pha thịt xong, chuẩn

bị về thì chị ta giữ lại mời rƣợu rồi mời ở lại. Hồn Trƣơng Ba lúc đầu định xuôi theo

nhƣng đã đấu tranh tƣ tƣởng, gỡ tay chị ta, về nhà.

Trƣởng Hoạt sang phê phán Trƣơng Ba bắt đầu đổi tính: uống rƣợu, đòi ăn

ngon, nƣớc cờ đi cũng khác.

Lý trƣởng lại đến sách nhiễu. Cháu gái không nhận ông, ngƣời con dâu cũng

than phiền bố chồng thay đổi.

Một cuộc đối thoại giữa hồn Trƣơng Ba và xác ngƣời hàng thịt diễn ra; qua

đó, xác ngƣời hàng thịt khẳng định thế lấn tới của y đối với hồn Trƣơng Ba.

Hồn Trƣơng Ba đốt một nén hƣơng gọi Đế Thích xuống giải thoát cho mình.

Lúc đó, cu Tỵ nhà hàng xóm bị ốm nặng, sắp chết. Đế Thích bảo hồn Trƣơng Ba

nhập vào xác cu Tỵ. Trƣơng Ba từ chối, xin cho cu Tỵ sống, còn mình xin trả lại xác

cho ngƣời hàng thịt và chấp nhận cái chết.

Hồn Trƣơng Ba nhập vào màu xanh cây vƣờn trò chuyện với vợ”.

Trƣớc hết, Lƣu Quang Vũ có kế thừa tƣ tƣởng của truyện cổ dân gian. Ông

cũng nhấn mạnh vai trò cao hơn của linh hồn so với thể xác. Trƣơng Ba khi sống lại

trong thân xác anh hàng thịt thì nhận biết mình là Trƣơng Ba (dựa vào ký ức, tình

cảm và ý thức của hồn Trƣơng Ba) và về ngay nhà mình (nhà Trƣơng Ba). Vợ

Trƣơng Ba, sau khi kiểm tra ký ức của Trƣơng Ba (mới), cũng nhận là chồng mình

và giữ lại. Trƣởng Hoạt, bạn của Trƣơng Ba, khi kiểm tra ký ức của Trƣơng Ba

(mới) về tình bạn giữa hai ngƣời, cũng xúc động ôm hôn ngay bạn mình, mặc dù

60

anh ta lúc này đã mang thân xác xa lạ. Cô con dâu thì lại càng thƣơng cha chồng,

mặc dù cha lúc này mang vóc hình ông hàng thịt, vì điều chị ta tìm thấy ở ông là

đức tính nhân hậu hệt nhƣ cha chồng xƣa. Chị ta nói khá đúng, khá đủ, khá cơ bản

về linh hồn: “Đã gọi là hồn làm sao có hình thù, bởi nó không là vuông hay tròn,

mà là vui buồn, mừng giận, yêu ghét. Thầy vẫn dạy chúng con: Cái bề ngoài có

quan trọng gì, chỉ có tấm lòng yêu thương và trí tuệ cao sáng của con người ta là

đáng kể”.

Tuy nhiên, Lƣu Quang Vũ không dừng lại ở đó.

Đầu tiên, hồn Trƣơng Ba tỏ ra lạ lẫm, khó chịu với sự khác lạ của thân xác

mình. Rồi anh ta cảm thấy thân xác đó bắt đầu chi phối anh: cũng thích ăn tiết canh,

uống rƣợu, nói to và có sức khỏe (không đau lƣng, không hen nữa, tát con chảy máu

mồm).

Khi ông Lý xử anh phải sang nhà chị hàng thịt một số giờ trong ngày thì anh

cũng tấm tắc khen ngon mấy món ăn của chị ta. Chị hàng thịt thì biết linh hồn trong

thể xác chồng mình không phải là của chồng mình mà là của Trƣơng Ba, nhƣng chị

ta càng quý hơn vì nó tốt đẹp và dịu dàng, điều mà chị ta không thấy ở ngƣời chồng

thô bạo đã khuất. Sự cô đơn về thân xác và linh hồn khiến chị càng khao khát hồn

Trƣơng Ba. Hồn Trƣơng Ba cũng bị rung động trƣớc sự gần gũi với vợ ngƣời hàng

thịt và phải tự đấu tranh để thoát ra khỏi vòng tay âu yếm của thị. Vợ Trƣơng Ba

cũng dần cảm thấy chồng khác trƣớc và nảy sinh mặc cảm, tự ti về sức khỏe và nhan

sắc trƣớc hình vóc trẻ khỏe của hồn Trƣơng Ba. Đến đây, ta đã thấy sự tồn tại độc

lập của thân xác đối với linh hồn, sự chi phối của thân xác đối với linh hồn cùng

những phiền toái do sự không hòa hợp, không thống nhất giữa linh hồn và thân xác.

Dẫu sao thì Lƣu Quang Vũ cũng đứng về phía hồn, bởi cơ bản, ông vẫn chƣa

dứt hẳn ra cái vị trí của một nhà soạn kịch hiện đại – những ngƣời luôn bày tỏ chính

kiến và cái mà họ cho là chính nghĩa, công lý, tuy yêu tố hậu hiện đại đang đƣợc tập

trung dày đặc trong vở kịch nhƣng chƣa đƣợc nhà soạn kịch phát huy hết sức mạnh

tự thân của chúng. Và hành động chấp nhận cái chết, trả lại xác cho anh hàng thịt

của Trƣơng Ba là một hành động đúng đắn, một hành động dũng cảm và đạo đức.

Từ sự lý giải lại một cách biện chứng về quan hệ giữa thể xác và linh hồn trên triết

lý nhân sinh của thời đại, Lƣu Quang Vũ đã đi đến một quan niệm sống đẹp: sống

61

chân thật, mình phải chính là mình, cả linh hồn và thể xác, sống vì mọi ngƣời, vì

hạnh phúc và sự tốt đẹp của con ngƣời. Trƣơng Ba chết, nhƣng hồn Trƣơng Ba vẫn

sống - sống trong tình cảm của mọi ngƣời, sống mà không cần mƣợn đến thân xác

của ai hết.

Trƣớc khi kết thúc, tác giả còn đƣa nhân vật vào cuộc thử thách cuối cùng,

đặt nhân vật trƣớc một sự lựa chọn: chấp nhận cái chết hoặc nhập vào xác cu Tị -

một em bé hàng xóm vừa chết. Trƣơng Ba không thể tái diễn bi kịch sống trong thân

xác mƣợn của ngƣời khác: “Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo

được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”. Vì thế, ông đã xin cho cu Tị đƣợc sống lại,

còn mình thì xin đƣợc chết.

Thực chất, đó là lời tái khẳng định của tác giả đối với quan niệm sống đẹp mà

ta nhắc đến ở trên. Bi kịch xung đột giữa linh hồn và thể xác không thể đƣợc giải

quyết theo đúng cái cách đã tạo ra bi kịch. Đến đây, cái “chết hẳn” của Trƣơng Ba

lại thể hiện một chiến thắng thuyết phục của “tồn tại – người”, của nhân cách, của

khát vọng hoàn thiện nhân cách của con ngƣời.

Không phải chờ đến khi các nhà ngoại cảm và lý thuyết trƣờng sinh học xuất

hiện, Lƣu Quang Vũ đã khẳng định, theo cách của ông, thân xác của từng cá thể

ngƣời tồn tại hữu hạn, nhƣng sự sống và linh hồn của con ngƣời là bất tử. Tƣ tƣởng

triết lý của Lƣu Quang Vũ về con ngƣời vừa biện chứng, vừa lạc quan và cao

thƣợng. Điều này, cùng với tài năng sáng tạo nghệ thuật tác giả, đã làm cho vở kịch

có giá trị nhân văn cao, vƣơn tới tầm nhân loại.

Cốt truyện kich dựa vào cốt truyện dân gian, nhƣng trọng tâm của kịch đƣợc

bắt đầu ngay chỗ cốt truyện dân gian đƣợc chấm dứt. Cốt truyện dân gian là kiểu cốt

truyện có hậu. Trƣơng Ba đƣợc sống lại, không có chút bận tâm với anh chàng hàng

thịt và cả cô vợ khốn khổ của anh kia mà ngay lập tức hạnh phúc và đoàn tụ với vợ

con. Và điều kì lạ là vợ con của Trƣơng Ba không hề mảy may ngại ngần trƣớc “cái

lốt” của anh hàng thịt.

Cốt truyện của Lƣu Quang Vũ tập trung khai thác bi kịch của hồn Trƣơng Ba

trong thể xác anh hàng thịt. Một mặt “hồn”- tƣợng trƣng cho thế giới tinh thần tinh

khiết, kết tinh văn hóa trác tuyệt của con ngƣời, muốn giữ vẻ thanh cao của mình.

Một mặt, linh hồn thì thấy ngày càng chịu sự cám dỗ mãnh liệt của thể xác- tƣợng

62

trƣng cho dục vọng, cho vật chất, cho bản năng xấu của con ngƣời. Bi kịch là hồn

chẳng bao giờ tìm đƣợc sự bình yên trong chính thể xác ấy, trong chính gia đình

mình hay gia đình của anh hàng thịt.

Sự vong thân đƣợc diễn ra ngay trong chính thân thể của một ngƣời. Hồn ý

thức đƣợc sự nhầm lẫn không thể nào cứu chữa của Đế Thích. Cuối cùng, hồn chọn

giải pháp giải thoát và chấp nhận đƣợc cái chết để trả xác anh hàng thịt về cho anh

hàng thịt. Sự sống chỉ có ý nghĩa khi hồn đƣợc sống trong chính thân xác đích thực

của mình. Ngay cả khi hồn Trƣơng Ba đƣợc Đế Thích gợi ý sống lại trong xác cu Tị

hoặc xác của chính tiên ông Đế Thích, hồn vẫn kiên quyết chối từ. Cổ tích đã bị nhại

ngay ở chính cốt truyện của nó.

2.2.1.2 So sánh truyện cổ tích"Hồn Trương Ba, da hàng thịt” với tác phẩm

kịch cùng tên của Lưu Quang Vũ

“Hồn Trương Ba, da hàng thịt” là một tác phẩm kịch đƣợc chuyển thể rất

thành công của Lƣu Quang Vũ. Để thấy đƣợc sự sáng tạo của Lƣu Quang Vũ khi

xây dựng vở kịch, luận văn tiến hành so sánh hai văn bản truyện cổ tích và vở kịch.

Qua so sánh sẽ thấy rõ đƣợc sự khác nhau giữa hai tác phẩm, từ đó thấy rõ đƣợc yếu

tố chuyển thể ở đây dùng nhƣ thế nào, cái gì đƣợc kế thừa và cái gì đƣợc phát triển,

bổ sung thêm. Các yếu tố cụ thể cần xem xét khi chuyển thể: cốt truyện; nhân vật;

ngôn ngữ; kết cấu; thời gian, không gian; nội dung và hình thức nghệ thuật.

* Điểm khác nhau về cốt truyện:

- Về cơ bản, cốt truyện của truyện cổ tích và vở kịch “Hồn Trương Ba, da

hàng thịt” là giống nhau, đều là những câu chuyện, mâu thuẫn, xung đột xoay

quanh cái chết và sự sống lại của Trƣơng Ba. Cốt truyện mang tính xung đột xã hội.

Đều là cốt truyện đơn tuyến, chỉ tập trung xoay quanh một vấn đề cải tử hoàn sinh

(trong truyện cổ tích), triết lí nhân sinh (trong kịch). Nhƣng Lƣu Quang Vũ đã

không bị lệ thuộc vào nội dung câu chuyện mà đã tìm tòi, mở rộng kích thƣớc tự sự,

khiến cho cốt truyện của vở kịch khác với truyện cổ tích. Trƣớc hết là sự khác nhau

về số lƣợng sự kiện. Sự kiện trong vở kịch nhiều hơn so với truyện cổ tích. Truyện

cổ tích chỉ có các sự kiện: Trƣơng Ba chết, nhập vào xác hàng thịt, hai bà vợ của

Trƣơng Ba và vợ anh hàng thịt tranh giành chồng, sau đó quan đã xử cho vợ Trƣơng

Ba đƣợc nhận chồng. Câu chuyện kết thúc ở đó, còn trong vở kịch của Lƣu Quang

63

Vũ có thêm rất nhiều chi tiết: từ khi Trƣơng Ba đƣợc sống lại trong xác anh hàng

thịt. Sau một thời gian sống nhờ trong xác anh hàng thịt, hồn Trƣơng Ba đã gặp rất

nhiều phiền toái: bị thân xác phàm tục, thô thiển của anh hàng thịt chi phối làm thay

đổi hẳn bản chất, bị ngƣời thân trong gia đình xa lánh, không thừa nhận hồn Trƣơng

Ba trong xác hàng thịt. Hồn Trƣơng Ba rơi vào khổ đau, dằn vặt và tìm đến Đế

Thích để trả lại thân xác cho anh hàng thịt, xin cho cu Tỵ sống lại, còn mình thì chết

hẳn. Cuối cùng hồn Trƣơng Ba nhập vào cỏ cây trong sự thƣơng nhớ của vợ con và

cháu gái. Các sự kiện trong vở kịch của Lƣu Quang Vũ cũng khác so với truyện cổ

tích: Chi tiết cái chết của Trƣơng Ba trong truyện cổ dân gian là do bị ốm, Ðế Thích

tiếc cái tài đánh cờ của ông mà cho ông sống lại trong xác anh hàng thịt. Còn cái

chết của Trƣơng Ba trong vở kịch thì lại là hậu quả của việc làm tắc trách của các vị

quan chức trên trời là Nam Tào, Bắc Ðẩu. Qua đó, nhà viết kịch hàm ý phê phán

thói quan liêu, tắc trách của một bộ phận cán bộ hiện thời. Sự kiện hồn Trƣơng Ba

sau khi đƣợc nhập vào xác hàng thịt trong truyện cổ tích là Trƣơng Ba đƣợc sống

yên ổn bên những ngƣời thân trong gia đình, còn trong kịch thì hồn Trƣơng Ba đã

gặp biết bao hệ lụy khi trú ngụ trong thân xác anh hàng thịt. Kết thúc vở kịch hồn

Trƣơng Ba chết vĩnh viễn để cho những ngƣời khác đƣợc sống lại. Đặc biệt trong vở

kịch, Lƣu Quang Vũ đã dựng lên ba sự kiện – ba cuộc đối thoại mà trong truyện cổ

tích không có: đối thoại giữa hồn Trƣơng Ba với xác hàng thịt; đối thoại giữa hồn

Trƣơng Ba với những ngƣời thân trong gia đình; đối thoại giữa hồn Trƣơng Ba với

Đế Thích. Qua các cuộc đối thoại ấy, nhà viết kịch tài ba Lƣu Quang Vũ đã gửi gắm

bao điều suy ngẫm sâu sắc về triết lí nhân sinh và hiện trạng xã hội.

* Điểm khác nhau về nhân vật:

- Nhân vật trong cả hai tác phẩm truyện cổ tích và vở kịch “Hồn Trương Ba,

da hàng thịt” đều là những nhân vật có tên rõ ràng. Nhƣng hệ thống nhân vật trong

hai tác phẩm này có sự khác biệt nhau: Truyện cổ tích số nhân vật ít (sáu nhân vật):

hai vợ chồng Trƣơng Ba, hai vợ chồng anh hàng thịt, Tiên Đế Thích và ông quan

huyện. Nhân vật ở đây không đƣợc chú trọng lắm về địa vị xã hội. Đồng thời không

nổi lên rõ ràng về tính cách, thái độ. Điều này là do tính chất của câu chuyện chỉ

nhằm phục vụ cho việc nói đến vấn đề cải tử hoàn sinh. Nhân vật nhƣ là phƣơng

tiện để truyền tải tƣ tƣởng của truyện là vấn đề cải tử hoàn sinh - chủ đề chính, mọi

64

nhân vật và chi tiết lớn nhỏ trong truyện đều có quan hệ trực tiếp hoặc gián tiếp với

vấn đề này. Vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của Lƣu Quang Vũ có số nhân

vật đông đảo (17 nhân vật), bao gồm:

+ Các nhân vật ở trên thƣợng giới: Bắc Đẩu, Nam Tào, Đế Thích, bà Tây

Vƣơng Mẫu.

+ Các nhân vật trong gia đình Trƣơng Ba: Trƣơng Ba, Vợ Trƣơng Ba, anh

con trai, chị con dâu, cái Gái.

+ Các nhân vật ngƣời hàng xóm: cu Tị, chị Lụa (mẹ cu Tị), Trƣởng Hoạt,

anh hàng thịt, vợ anh hàng thịt, lái lợn 1, lái lợn 2.

+ Các nhân vật đại diện cho quan chức địa phƣơng: Lí trƣởng, Trƣơng Tuần.

Số lƣợng nhân vật đông đảo với nhiều tình tiết, mỗi nhân vật có tên gọi, tính cách

riêng và địa vị xã hội rõ ràng: Trƣơng Ba

Mỗi nhóm nhân vật đều hàm chứa ý đồ tƣ tƣởng của tác giả vở kịch. Nhân

vật trong tác phẩm kịch hiện lên rõ mồn một, từng động tác, hành vi, lời nói và tính

cách. Nhân vật nào cũng tạo đƣợc ấn tƣợng đối với khán giả.

* Điểm khác nhau về nội dung tƣ tƣởng:

- Theo GS Hoàng Tiến Tựu, trong cuốn “Bình giảng truyện cổ tích”, nội

dung chủ yếu đƣợc đặt ra và tập trung giải quyết ở truyện cổ tích “Hồn Trương Ba,

da hàng thịt" là vấn đề cải tử hoàn sinh đối với con ngƣời. Mọi nhân vật đều có

quan hệ trực tiếp hoặc gián tiếp với vấn đề này. Việc Trƣơng Ba đánh cờ giỏi, có

tính kiêu căng, tự phụ, ốm chết đột ngột đều là những chi tiết chuẩn bị, tạo tiền đề

và điều kiện dẫn đến sự cải tử hoàn sinh. Sự xuất hiện của anh hàng thịt và cái chết

của anh ta cũng chỉ là điều kiện cần thiết phải có để giải quyết vấn đề cải tử hoàn

sinh đối với Trƣơng Ba mà thôi. Nhƣ vậy, truyện nêu lên ba nhân tố, ba điều kiện

cần thiết cho việc cải tử hoàn sinh: một là phải có nguyện vọng và nhu cầu tha thiết

của ngƣời sống muốn cải tử cho ngƣời đã chết (lời cầu khẩn của vợ Trƣơng Ba); hai

là phải có một vị tiên trên thiên đình có phép cải tử hoàn sinh giúp đỡ (Đế Thích);

ba là ngƣời chết muốn cải tử hoàn sinh thì xác phải còn nguyên vẹn, không bị hƣ

hỏng (vì xác Trƣơng Ba không còn nên phải mƣợn xác hàng thịt). Thực ra trong

truyện cổ tích còn mang một triết lí sâu sắc về con ngƣời: Con ngƣời ta có hai phần:

phần hồn và phần xác, trong đó phần hồn quan trọng hơn. Bởi vì, dựa vào phần hồn

65

ngƣời ta có thể nhận ra đó là ai? Anh hàng thịt với cái xác kềnh càng nhƣng lại

mang hồn Trƣơng Ba nên mọi ngƣời đều coi là Trƣơng Ba: vợ Trƣơng Ba thừa nhận

là chồng mình nên hồn Trƣơng Ba về sống với vợ tại nhà mình rất yên ổn; ông quan

huyện cũng xử kiện dựa vào phần hồn: ông ta đem ra một con lợn, một bàn cờ để

thử thách. Kết quả, hồn Trƣơng Ba mổ lợn lúng túng, chơi cờ thì rất giỏi. Quan cho

rằng, đánh cờ giỏi là do phần trí tuệ, phần linh hồn. Vì vậy quan khẳng định cái xác

kềnh càng ấy chính là Trƣơng Ba và xử cho Trƣơng Ba đƣợc về nhà với vợ. Còn

“Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của Lƣu Quang Vũ là một vở kịch đa nghĩa, hàm

chứa những tƣ tƣởng triết học, mang đậm tính nhân văn và ý nghĩa phê phán sâu

sắc. Qua các xung đột, mâu thuẫn giữa các nhân vật và trong nội tâm nhân vật tác

giả gửi gắm thông điệp về triết lí nhân sinh, về lẽ sống của con ngƣời. Trƣớc hết, tác

giả đƣa vào vở kịch triết lí có sẵn trong truyện cổ tích để cho hồn Trƣơng Ba trú

trong thân xác anh hàng thịt nhƣng mọi ngƣời quen biết đều thừa nhận đó là Trƣơng

Ba: vợ Trƣơng Ba cũng thừa nhận, ông Trƣởng Hoạt, bạn chơi cờ với Trƣơng Ba

cũng thừa nhận đó là Trƣơng Ba… Sau đó nhà viết kịch Lƣu Quang Vũ mới bổ

sung vào triết lí ấy của ngƣời xƣa những điểm mới khác: Con ngƣời ta có phần hồn

và phần xác, cả hai phần đó đều có tác động qua lại với nhau; phần hồn là quan

trọng và phần xác cũng quan trọng; phần xác còn có khả năng làm biến đổi phần

hồn. Bởi vậy, nếu chỉ coi trọng phần hồn mà không coi trọng phần xác là sai lầm

trong nhận thức. Cuộc đối thoại giữa hồn Trƣơng Ba với xác hàng thịt trong vở kịch

đã nói rõ điều trên. Hàm nghĩa của cuộc đối thoại vừa nêu lên triết lí nhân sinh vừa

phê phán thực trạng xã hội. Ý nghĩa triết lí: Quan tâm tới con ngƣời là phải quan

tâm cả thể xác lẫn tâm hồn. Con ngƣời ta lại không chỉ sống với những nhu cầu bản

năng, mà phải tự đấu tranh với bản thân để có đƣợc một cuộc sống cao cả, có ý

nghĩa. Ý nghĩa phê phán: phê phán những nhận thức sai lầm của con ngƣời, chỉ

quan tâm đến tƣ tƣởng tinh thần mà không chăm lo đến đời sống vật chất. Tác giả

còn đƣa vào vở kịch xung đột giữa hồn Trƣơng Ba với những ngƣời trong gia đình

(vợ, con trai, con dâu, cháu nội) để nêu ra hậu quả của việc hồn Trƣơng Ba mang

xác anh hàng thịt. Tác giả đã gửi gắm vào đây một thông điệp nữa: Con ngƣời phải

là một thể thống nhất, hài hòa giữa thể xác và tâm hồn. Mỗi ngƣời cần sống chân

thật, sống đúng là mình, sống có bản lĩnh, để khỏi tự đánh mất mình. Nhân đó, tác

66

giả phê phán hiện trạng lối sống giả dối trong xã hội ta. Đối thoại giữa hồn Trƣơng

Ba với Đế Thích ở cuối vở kịch cho thấy xung đột ngay trong chính hồn Trƣơng Ba.

Hồn Trƣơng Ba đã tự đấu tranh với chính bản thân mình để đi đến một quyết định:

không thể sống trong thân xác ngƣời khác, quyết chết để trả lại xác cho anh hàng

thịt và đề nghị cho cu Tỵ đƣợc sống lại. Ở đây Lƣu Quang Vũ muốn gửi gắm một tƣ

tƣởng triết học về lối sống: Con ngƣời không chỉ phải sống cho chân thật với chính

mình, mà phải sống cao cả, sống vì mọi ngƣời, biết hi sinh vì hạnh phúc cho ngƣời

khác. Vở kịch ra đời và đƣợc công diễn vào những năm tám mƣơi của thế kỉ trƣớc

nhƣng đến nay ý nghĩa thời sự vẫn còn rất sâu sắc. Một số lời thoại của các nhân vật

trong vở kịch đã là những lời cảnh báo sự suy thoái về đạo đức, lối sống của con

ngƣời trong xã hội ta. Cuộc đối thoại giữa hồn Trƣơng Ba với xác hàng thịt đƣợc

miêu tả nhƣ là cuộc đấu tranh giữa hai mặt tích cực và tiêu cực, giữa phần bản năng

và lí trí trong bản thể mỗi ngƣời. Cái “lí lẽ thật ti tiện” của xác hàng thịt ẩn chứa một

“hạt nhân hợp lí”, một sự thực mà nhà viết kịch hàm ý phê phán. Qua cuộc đối

thoại, tác giả phê phán một quan niệm, một thái độ từng tồn tại trong một thời gian

dài trong xã hội ta: Chỉ coi trọng tƣ tƣởng chính trị, lập trƣờng giai cấp mà coi nhẹ

đời sống vật chất của con ngƣời. Cuộc đối thoại giữa hồn Trƣơng Ba với con trai, lại

cho ta thấy một ẩn ý khác mà tác giả muốn gửi gắm trong vở kịch: Sự suy thoái về

đạo đức, lối sống của lớp trẻ. Vì những nhu cầu về vật chất mà họ có thể làm bất cứ

việc gì: lừa gạt, gian dối… Cùng với đó là những biểu hiện tiêu cực trong xã hội:

nạn tham ô, hối lộ (anh con trai hối lộ Lí trƣởng để đi buôn lậu, hối lộ để Lí trƣởng

xử cho hồn Trƣơng Ba đƣợc về nhà mình). Cuộc đối thoại giữa hồn Trƣơng Ba với

Đế Thích lại mang một hàm ý khác: phê phán những hiện tƣợng quan liêu, tắc trách

của một bộ phận cán bộ thời bấy giờ; phê phán một số tật xấu của con ngƣời: nói

một đằng làm một nẻo, hay bệnh thành tích… Rõ ràng từ một câu chuyện làm nên

một câu nói quen thuộc trong dân gian: “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”, nhà viết

kịch Lƣu Quang Vũ đã xây dựng nên một vở kịch hàm chứa xung đột muôn thuở

mang tính toàn nhân loại: xung đột giữa cái cao cả và cái thấp hèn. Từ cốt truyện

dân gian, Lƣu Quang Vũ đã xây dựng lại thành một vở kịch nói hiện đại và lồng vào

đó nhiều triết lí nhân văn về cuộc đời và con ngƣời.

67

* Khác nhau về hình thức nghệ thuật:

- Thứ nhất, phải nói tới các yếu tố không gian, thời gian trong tác phẩm của

Lƣu Quang Vũ. Có thể nói không gian và thời gian của vở kịch đa chiều hơn so với

truyện cổ tích. Thời gian trong truyện cổ tích là thời gian tuyến tính. Với phƣơng

thức tự sự, tác giả kể lại chuyện xảy ra trong quá khứ. Ở tác phẩm này yếu tố thời

gian không rõ ràng, mang tính phiếm chỉ: “Ngày xƣa”, “Buổi ấy”, “Bấy giờ”, “Từ

đó”, “Nhƣng một hôm”…Kiểu thời gian này rất phù hợp cho việc đặt truyện vào

chuyện kể tự do của tác giả dân gian. Đồng thời cũng dễ nhớ và dễ hiểu, dễ cảm

nhận đối với ngƣời nghe truyện. Trong vở kịch này, thời gian không phải là tuyến

tính vì đƣợc chia thành nhiều hồi, cảnh. Trong cùng một thời gian nhƣng ở hai địa

điểm diễn ra hai sự việc khác nhau (có liên quan đến nhau và bám sát cốt truyện). Ví

dụ nhƣ trong khi vợ Trƣơng Ba lên trời thì ở nhà anh hàng thịt, ngƣời vợ đang làm

đám tang cho anh ta với sự tham gia của hai nhân vật: lái lợn 1 và lái lợn 2. Trong

vở kịch này tuy không đề cập đến thời gian cụ thể diễn ra các sự kiện nhƣng những

mốc thời gian gắn với nhân vật lại khá rõ: lúc Trƣơng Ba “trạc hơn 50 tuổi”. Không

gian trong vở kịch cũng rất cụ thể gắn với từng cảnh:

+ Cảnh 1: Ở trên thiên đình .

+ Cảnh 2: Ở dƣới hạ giới, nhà Trƣơng Ba .

+ Cảnh 3: Trở lại cảnh thiên đình.

+ Cảnh 4: Ở nhà ngƣời hàng thịt.

+ Cảnh 5: Hồn Trƣơng Ba và bà vợ ở nhà Trƣơng Ba.

+ Cảnh 6: Ở nhà ngƣời hàng thịt .

+ Cảnh 7: Ở nhà Trƣơng Ba

Mỗi cảnh đều có không gian, địa điểm cụ thể hơn, sống động hơn, nhƣ: trong

vƣờn, trong nhà, ngoài sân... Thay vì điểm nhìn của tự sự, cổ tích mở đầu bằng mô

típ quen thuộc “Ngày xửa ngày xƣa…”, còn vở kịch của Lƣu Quang Vũ lại mở màn

bằng không gian tiên giới - khung cảnh trên thiên đình với sự xuất hiện của các quan

nhà trời Bắc Đẩu, Nam Tào và Đế Thích. Sau đó là cảnh hạ giới với sự ra đi đột

ngột của ông Trƣơng Ba và nỗi bàng hoàng thƣơng tiếc của những ngƣời ruột thịt,

xóm giềng. Lần thứ hai không gian thiên đình lại hiện hữu để ngƣời xem có dịp

chứng kiến một sự “sửa sai” ngoài sức tƣởng tƣợng: ông Trƣơng Ba đƣợc sống lại

68

bằng thân xác của anh hàng thịt nhờ cái tâm và phép màu của Đế Thích. Mô hình

không gian này không xuất hiện trong câu chuyện cổ tích nhƣng đối với Lƣu Quang

Vũ, sự trở lại không gian này đã tạo một bƣớc ngoặt quan trọng để tạo lực đẩy kịch

tính cho cốt truyện.

- Thứ hai, ngôn ngữ trong vở kịch cũng có nhiều điểm khác biệt so với ngôn

ngữ trong truyện cổ tích. Ở truyện cổ tích, với kết cấu tự sự, giọng điệu đƣợc thể

hiện ở đây chủ yếu là giọng kể của tác giả dân gian. Vì vậy, ngôn ngữ chủ yếu là

ngôn ngữ kể hết sức bình dị, dễ hiểu. Ngôn ngữ của kịch chủ yếu là ngôn ngữ đối

thoại - một hình thức đặc thù của văn bản kịch. Những màn đối thoại, độc thoại

trong vở kịch làm cho ngôn ngữ ở đây mang đậm tính khẩu ngữ, gần gũi và quen

thuộc với đời sống hàng ngày. Ngôn ngữ trong vở kịch hết sức sắc sảo, có tính tạo

hình, biểu cảm cao, có khi lên đến mức gay gắt, quyết liệt. Qua ngôn ngữ của chính

nhân vật, tính cách của nhân vật đƣợc bộc lộ.

- Thứ ba, xung đột trong vở kịch xảy ra gay gắt hơn nhiều so với trong

truyện cổ tích. Ở đây xung đột xảy ra thƣờng trực ngay trong sự vận động nội tại

của những hành động và ngay trong lòng của vở kịch. Cuộc tranh giành giữa hai

ngƣời vợ không đƣợc giải quyết đơn giản nhƣ truyện cổ tích, mà từ đây mọi xung

đột mới thực sự bƣớc vào giai đoạn cao trào. Cảnh VII là cảnh có xung đột gay gắt

nhất và cũng là cảnh có vai trò “thắt nút” và “mở nút” của vở kịch. Còn trong truyện

cổ tích, xung đột ít và đơn giản hơn rất nhiều, chỉ thể hiện qua đoạn vợ Trƣơng Ba

và vợ anh hàng thịt tranh giành chồng với nhau và đƣợc quan huyện giải quyết cho

hồn Trƣơng Ba về nhà Trƣơng Ba. Và câu chuyện kết thúc ở đó.

- Thứ tƣ, hành động của nhân vật cũng có điểm khác nhau. Truyện cổ tích ít

hành động, còn trong kịch là một chuỗi hành động. Lời thoại là hành động đầy kịch

tính. Qua hành động, tính cách, tâm trạng của nhân vật đƣợc bộc lộ. chẳng hạn nhƣ

lời thoại sau của Trƣơng Ba: “Không! Không! Tôi không muốn sống nhƣ thế này

mãi! (...) Cái thân thể kềnh càng thô lỗ này, ta bắt đầu sợ mi, ta chỉ muốn rời xa mi

tức khắc!”. Lời thoại trên đã cho ta thấy sự suy nghĩ quyết liệt trong nội tâm con

ngƣời Trƣơng Ba, đồng thời ta cũng thấy đƣợc tình cảnh linh hồn không hòa hợp

với thân xác và muốn thoát khỏi thân xác của Trƣơng Ba.

- Thứ năm, kết cấu của truyện cổ tích cũng có sự khác biệt so với kịch. Trong

69

truyện cổ tích, kết cấu tự sự (kể chuyện), vì thế ngƣời kể chuyện đóng vai trò kể, từ

đầu đến cuối là lời của ngƣời kể chuyện dẫn dắt câu chuyện, những lời thoại của

nhân vật, dù có cũng chỉ là do ngƣời kể chuyện thuật lại và đƣợc đặt trong dấu

ngoặc kép. Những cử chỉ, hành động của nhân vật đều đƣợc biểu hiện qua lăng kính

của ngƣời kể chuyện Còn vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của Lƣu Quang

Vũ lại có kết cấu chƣơng hồi, chia thành nhiều lớp, cảnh (nhằm tạo ra sự trùng khớp

giữa thời gian, địa điểm và hành động kịch, đồng thời làm cho cái đƣợc trình diễn

mang màu sắc xác thực của đời sống). Mỗi cảnh có một chủ đề, địa điểm riêng

(nhƣng vẫn bám sát cốt truyện và phục vụ cho cốt truyện). Ở đây nhân vật tự bộc lộ

mình bằng ngôn ngữ, động tác... lời của ngƣời dẫn chuyện ở đây rất ít. Kết cấu của

kịch đƣợc xây dựng thành các giai đoạn: phát triển, cao trào, thắt nút, mở nút. Qua

so sánh, đối chiếu hai văn bản chúng ta có thể khẳng định rằng: Xung đột kịch của

Lƣu Quang Vũ chỉ thực sự bắt đầu và thăng hoa khi câu chuyện cổ tích đã kết thúc.

Có nghĩa là, bi kịch của nhân vật Trƣơng Ba không đơn giản ở việc bị chết oan mà

đau đớn mà vật vã hơn bội phần lại là cái sự đƣợc sống lại. “Hồn Trương Ba, da hàng

thịt” là vở kịch hiện đại đƣợc gợi “tứ” từ một câu chuyện cổ tích. Các yếu tố tự sự dân

gian với độ đậm nhạt khác nhau đã ít nhiều có sự thâm nhập, chuyển hoá vào tác phẩm

kịch. Tuy nhiên, phần sáng tạo ngoài văn bản, chính xác hơn là nối tiếp, kéo dài ý

tƣởng của văn bản khiến vở kịch trở nên một “vĩ thanh” độc đáo, đặc sắc của câu

chuyện cổ tích mới thực sự là phần đóng góp nổi bật của Lƣu Quang Vũ.

2.2.2 Liên kết văn bản “Hồn Trƣơng Ba da hàng thịt” của Lƣu Quang Vũ

với các loại hình sáng tác khác

2.2.2.1 Liên kết văn bản “Hồn Trương Ba da hàng thịt”của Lưu Quang Vũ

với loại hình tuồng cổ và kịch hình thể

Vở kịch “Hồn Trương Ba da hàng thịt” của Lƣu Quang Vũ dựa trên cốt

truyện cổ tích dân gian và đƣợc coi là tác phẩm ra đời khi tài năng Lƣu Quang Vũ

đang ở độ “chín” với sức sáng tạo mạnh mẽ nhất, đƣợc coi là tác phẩm xuất sắc

nhất, tiêu biểu cho sự nghiệp sáng tạo của Lƣu Quang Vũ. Vở kịch mang tính triết lý

sâu sắc từng khiến nhiều thế hệ khán giả ám ảnh và day dứt qua tài năng dàn dựng

bậc thầy sân khấu đạo diễn của nghệ sỹ nhân dân Đình Nghi trƣớc đây.

Vở kịch do Lƣu Quang Vũ soạn không chỉ gây đƣợc tiếng vang theo lối diễn

70

truyền thống nữa, mà những năm gần đây nó còn có ảnh hƣởng vô cùng mạnh mẽ

đến các loại hình nghệ thuật khác. Nó là nguồn cảm hứng vô tận cho các nhà nghiên

cứu và các nghệ nhân khai thác. Và một trong những loại hình nghệ thuật đã đƣợc

khán giả ủng hộ hết mình đó là hình thức kịch hình thể. Nghệ sỹ nhân dân Lan

Hƣơng đã mạnh dạn mƣợn loại hình nghệ thuật hình thể để kể cho khán giả câu

chuyện “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của Lƣu Quang Vũ. Sự độc đáo của NSND

Lan Hƣơng là đã đƣa loại hình nghệ thuật hình thể kết hợp với vũ đạo và âm nhạc

của nghệ thuật tuồng cổ để giải mã vở kịch.

Sự táo bạo mới mẻ của vở kịch hình thể “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” đƣợc

thể hiện rõ nhất ở cách biểu hiện sự chông chênh khi hồn Trƣơng Ba đang ở trong

tâm trạng vô cùng bức bối bởi không thể nào thoát ra khỏi thân xác mà hồn ghê tởm

và đau khổ khi không còn là mình nữa.

Ý thức đƣợc linh hồn Trƣơng Ba dằn vặt, đau khổ và quyết định chống lại

bằng cách tách ra khỏi xác thịt để tồn tại độc lập, không lệ thuộc vào thân xác đƣợc

NSND Lan Hƣơng xử lý khéo léo, bằng những động tác hình thể, ngƣời xem vẫn

thấy đƣợc nhân vật đang phải vật lộn để thoát ra khỏi những “lỹ lẽ ti tiện” của thân

xác hàng thịt.

Tuy nhiên, cũng có đôi chỗ trong “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” còn có

những màn biên đạo múa thiếu tinh tế, và còn chƣa làm toát đƣợc nội tâm nhân vật

qua lời thoạị. Và vở diễn còn thiên về “thoại” nhiều hơn là “hình thể”. Thế nhƣng,

vở kịch “HồnTrương Ba, da hàng thịt” của Lƣu Quang Vũ vẫn mang đậm triết lý

nhân sinh và hạnh phúc, phê phán một số biểu hiện tiêu cực trong lối sống lúc bấy

giờ và đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Với loại hình kịch hình thể “Hồn Trương Ba,

da hàng thịt” đã mang đến cho khán giả cái nhìn mới mẻ về kịch và giá trị triết lý

mà vở kịch muốn nói.

2.2.2.2 Liên kết văn bản “Hồn Trương Ba da hàng thịt”của Lưu Quang Vũ

với loại hình nghệ thuật múa rối

“Hồn Trương Ba, da hàng thịt” là kịch bản vốn đã trở nên quen thuộc với

nhiều loại hình sân khấu nhƣ: kịch nói, chèo, tuồng, kịch hình thể,... Thế nhƣng ở

loại hình nghệ thuật rối cạn, vở diễn này đƣợc nhận xét mang đến với nghệ thuật sân

khấu đƣơng đại, đồng thời truyền tải đến công chúng thông điệp ý nghĩa, đặt ra

71

nhiều vấn đề mới mẻ có ý nghĩa tƣ tƣởng và triết lý nhân văn sâu sắc.

Vở kịch rối cạn “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của Lƣu Quang Vũ đã đƣợc

nghệ sỹ ƣu tú Đăng Tiến đã chuyển thể kịch bản còng trong khoảng thời gian ngắn

65 phút và đã đƣợc chọn những trích đoạn, những nội dung, hình ảnh cô đọng nhất,

thể hiện để có thể hấp dẫn ngƣời xem mà không làm mất đi giá trị của tác phẩm.

Một trong những cảnh ấn tƣợng nhất đối với ngƣời xem đó chính là ý tƣởng

sân khấu với bàn cờ âm dƣơng, kèm theo là những tạo hình sân khấu với thiết kế 3

tầng tƣợng trƣng cho thiên đình và hạ giới, ngƣời trần và tiên cảnh. Bên cạnh với

tạo hình sân khấu là phần âm nhạc của vở diễn cũng gây ấn tƣợng mạnh với ngƣời

xem với những tiếng dép, tiếng guốc loẹt quẹt hòa quyện thành môt bản nhạc mang

đậm âm hƣởng dân gian trong khu chợ đông đúc huyên náo, cũng chính là ảnh của

vở diễn.

Điều đặc biệt, vở diễn đƣợc đạo diễn Lê Chí Kiên kết hợp với nhiều loại hình

truyền thống nhƣ: chèo, hát xẩm, hát văn, múa,...trên nền của rối cạn và có sự kết

hợp thành công giữa con ngƣời và rối một cách tự nhiên mà không bị “kênh” dù thể

hiện ở nhiều tầng sân khấu. Để từ đó ngƣời xem có thể cảm nhận rõ ràng bi kịch của

con ngƣời khi bị đặt vào nghịch cảnh phải sống nhờ, sống tạm trên thân xác ngƣời

khác. Trái với tự nhiên, khiến tâm hồn nhân hậu bị tha hóa trƣớc lấn át của thể xác

phàm tục, thô lỗ.

Cùng với những sáng tạo và sự hết mình vì nghệ thuật, các nghệ sỹ đã đem

một hơi thở mới cho kịch.

2.2.3 Liên kết văn bản “Hồn Trƣơng Ba da hàng thịt” của Lƣu Quang Vũ

với các lĩnh vực khác trong đời sống, văn bản văn hóa

Nhƣ phần đầu của luận văn về lý thuyết liên văn bản, khái niệm liên văn bản

hòa điệu với các khái niệm khác, nhƣ “ảnh hƣởng” văn hóa - chính trị - xã hội... để

cùng suy ngẫm về cuộc sống, về con ngƣời. Vì thế, trong nội dung vận dụng lý

thuyết liên văn bản ở THPT, không thể xem nhẹ việc kết nối văn bản văn học với

văn bản đời sống, văn bản văn hóa chi phối việc tạo lập nên tác phẩm đang đƣợc

dạy - học ở nhà trƣờng. Vấn đề đặt ra đối với ngƣời giáo viên Ngữ văn trong giờ

dạy học đọc hiểu văn bản văn học là biết lựa chọn các “văn bản” đời sống - văn hóa

tƣơng hợp, với “liều lƣợng” vừa đủ để làm phong phú thêm hàm nghĩa của tác phẩm

72

đang đƣợc dạy - học, đem lại sức sống tƣơi mới cho nó.

- Kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” gắn bó chặt chẽ với đời sống văn hóa

Việt Nam.

Khi tiếp cận cửa ngõ của một nền văn hóa, vấn đề quan trọng nhất là phải đề

cập đến bản sắc của nền văn hóa đó, nó đƣợc coi nhƣ giá trị đặc biệt, biểu trƣng và

thƣớc đo cho sự sáng tạo của cộng đồng và tộc ngƣời, tồn tại qua không gian, thời

gian trƣớc những hỗn dung giao thoa để trụ vững và hòa hợp, đồng thời làm mới

mình, tiếp tục khẳng định cái riêng trong cái chung rộng lớn.

Đã có, nhƣng ít hơn những hƣớng nhìn tìm về bản sắc văn hóa dân tộc trong

sân khấu kịch, nhất là kịch của Lƣu Quang Vũ. Đây là điều dễ hiểu bởi giống nhƣ

tân nhạc hay tranh sơn dầu, kịch nói đến từ Phƣơng Tây và xuất hiện muộn trong

tiến trình lịch sử dân tộc. Với chiều dài thời gian non một thế kỷ loại hình nghệ

thuật này không thể sánh với các loại hình nghệ thuật lâu đời nhƣ : chèo, tuồng, múa

rối nƣớc,…Nhƣng nói vậy không phải là trong kịch không mang đậm sắc thái văn

hóa nhƣ các loại hình nghệ thuật truyền thống có trƣớc. Mà bên cạnh tính thời sự thì

trong kịch cũng thể hiện bản sắc văn hóa Việt Nam qua các tác phẩm kịch một cách

rõ nét. Tiêu biểu là trong vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của Lƣu Quang

Vũ đặc trƣng văn hóa Việt thể hiện ở sự tích hợp và khai thác yếu tố dân gian để

làm nên một vở kịch bất hủ.

Trong “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” đƣợc cấu thành từ đậm đặc chất liệu

văn hóa dân gian với các yếu tố tâm linh đã và đang thành công rực rỡ trên sân khấu

kịch với hình ảnh một ông Trƣơng Ba bị sự tắc trách của quan Nam Tào, Bắc Đẩu

gọi nhầm về trời, để sau đó các vị quan trên thiên đình sửa sai bằng một cái sai

nghiêm trọng hơn, đó là cho hồn ông Trƣơng Ba nhập vào xác anh hàng thịt gần

nhà…và cứ thế mâu thuẫn giữa nội tâm và ngoại diên, mâu thuẫn giữa hồn và xác,

giữa thực tế bản thể và cái gò ép khiên cƣỡng đã đƣa mâu thuẫn dẫn đến xung đột

kịch là sự phá vỡ dứt bỏ…câu chuyện đã vang bóng trong lòng khán giả Việt vài

thập kỷ vừa qua.

Không gian trong kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của Lƣu Quang Vũ là

những không gian gắn bó chặt chẽ với nhân dân Việt Nam trong các mối quan hệ

73

làng xóm, gia đình, bạn bè…

+ Không gian gia đình: Ngƣời Việt luôn nhấn mạnh vai trò quan trọng của gia

đình. Mỗi gia đình đều cố gắng ổn định cuộc sống bằng việc xây dựng một ngôi nhà

trong mối quan hệ: vợ - chồng, cha - con, ông – cháu,.. Dƣờng nhƣ, Lƣu Quang Vũ

đã tận dụng tối đa không gian gia đình trong vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng

thịt” của mình để tạo ra hàng loạt các mâu thuẫn đẩy xung đột kịch lên cao trào.

Trƣớc tiên phải nói đến, không gian gia đình của tác phẩm kịch “Hồn Trương Ba, da

hàng thịt” gắn liền với đời sống văn hóa ngƣời Việt với những cái gì gần gũi nhất từ

mảnh vƣờn mà Trƣơng Ba chăm sóc với đủ các loại cây trái, từ cái bàn thờ mang

văn hóa thờ cúng tổ tiên của ngƣời Việt,…Mối quan hệ giữa các thành viên trong

gia đình Trƣơng Ba, nhƣ biết bao gia đình khác của ngƣời Việt. Họ yêu thƣơng

nhau, đùm bọc nhau và biết nghĩ cho nhau. Sự gắn kết giữa các thành viên là dựa

trên tình yêu thƣơng. Vợ Trƣơng Ba vì muốn nghĩ cho chồng nên nhiều lúc muốn đi

đâu đó thật xa, để ông đƣợc sống mạnh khỏe và yên ổn, nhƣng cũng vì thƣơng

chồng mà nhiều lúc bà ghen tuông rồi giày vò. Còn cô con dâu thƣơng bố chồng vì thấy

ông mỗi ngày một khác, dần không còn là Trƣơng Ba của ngày trƣớc, hiền lành và

nhân hậu. Trƣơng Ba vì thƣơng vợ, thƣơng cái Gái mà ông quyết định sẽ là chính mình

“nguyện vẹn, và ngay thẳng”. Để rồi Trƣơng Ba lựa chọn cái chết để sống mãi.

+ Không gian xóm làng: Làng là đơn vị cƣ trú cơ sở, một cơ cấu kinh tế - xã

hội, văn hóa quan trọng trong đời sống cộng đồng của ngƣời Việt. Trong vở kịch

“Hồn Trương Ba, da hàng thịt”, Lƣu Quang Vũ không quên khai thác mối quan hệ

trong cộng đồng làng xã Việt Nam để đƣa vào tác phẩm của mình với những mối

quan hệ làng xóm. Đó là mối quan hệ trong làng nƣớc với nhau: đứng đầu là lý

trƣởng (ngƣời cai quản trông nom trong làng xã) là tình cảm của các gia đình với

nhau: nhà hàng thịt (hàng xóm của nhà Trƣơng Ba), nhà cu Tỵ (hàng xóm của nhà

Trƣơng Ba),…Thế rồi mối quan hệ này trở nên mật thiết và thậm chí có phần phức

tạp khi Trƣơng Ba chết đi, rồi Đế Thích cho hồn Trƣơng Ba nhập vào xác anh hàng

thịt – hàng xóm vừa mới chết, dẫn đến việc hai bà vợ tranh chồng, rồi sự đấu tranh

trong tâm hồn Trƣơng Ba với thể xác anh hàng thịt diễn ra ngày càng mãnh liệt với

những xung đột chồng chất. Và rồi Trƣơng Ba muốn thoát ra khỏi thể xác hàng thịt

thì Đế Thích lại gợi ý Trƣơng Ba nhập hồn vào xác cu Tỵ (cậu bé lên 10, hàng xóm

74

của Trƣơng Ba). Nhƣng Trƣơng Ba hết sức suy nghĩ. Cuối cùng ông chối từ, rồi xin

cho anh hàng thịt cùng với cu Tỵ sống lại. Chung quy mối quan hệ làng xóm ngƣời

Việt xƣa nay vốn mật thiết, gần gũi và tình cảm.

Kết thúc vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” tuy là Trƣơng Ba chết,

nhƣng đã tìm đƣợc sự thanh thản trong tâm hồn của mình, và anh hàng thịt cùng với

cu Tỵ đƣợc sống lại. Có thể coi đây là một kết thúc có hậu, hợp lý và thuận tình với

quan điểm của nhân dân Việt Nam xƣa nay

Nhƣ vậy, có thể nói rằng cùng với sức mạnh của loại hình sân khấu kịch nói

và kết hợp với những văn hóa bản địa với tâm hồn và tình cảm ngƣời Việt Nam tác

phẩm kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của Lƣu Quang Vũ đã mang một hơi thở

đƣơng đại nhƣng lại bắt nhịp cùng mạch nguồn truyền thống, tạo nên một vở kịch

nói đầy màu sắc dân tộc trên phông nền sân khấu kịch nói hiện đại Phƣơng Tây.

2.3 Phƣơng pháp vận dụng

2.3.1 Ƣu tiên sự liên kết giữa văn bản Hồn Trƣơng Ba da hàng thịt” của

Lƣu Quang Vũ với các văn bản từng quen thuộc với học sinh

Vận dụng lý thuyết liên văn bản trong dạy đọc hiểu văn bản văn học là điều

khá mới đối với thực tiễn dạy học Ngữ văn ở THPT hiện nay - nhất là đối với học

sinh, dù ở mức độ tự phát hay tự giác. Mặt khác, nội hàm “văn bản - liên văn bản”

trong nghiên cứu - phê bình ở Việt Nam cũng đã mở ra một trƣờng nghĩa khá rộng

đến “văn bản thế giới” - “thế giới nhƣ một văn bản”. Từ đó, để vận dụng kỹ thuật

liên văn bản trong nội dung kết nối các văn bản cho có hiệu quả, phù hợp với thực tế

dạy học ngữ văn ở THPT, giáo viên cần dành một khoảng rộng ƣu tiên cho sự kết

nối giữa các văn bản hay các thành tố văn bản từng trở nên quen thuộc với học sinh.

Ở đây, chúng tôi muốn đề cập đến hai bình diện. Thứ nhất là các văn bản, các thành

tố văn bản hình thành qua việc chiếm lĩnh các văn bản đã dạy học trƣớc đó trong

chƣơng trình - sách giáo khoa, một tiền đề thuận lợi để học sinh có thể kết nối với

văn bản đang đƣợc dạy học. Đây cũng là cơ hội để học sinh củng cố, khắc sâu và từ

đó làm giàu kiến thức cho mình. Đƣơng nhiên, giáo viên cũng nên khuyến khích học

sinh thiết lập đƣờng dây liên hệ giữa văn bản đƣợc học với những văn bản thành tố

văn bản khác chƣa từng đƣợc học (mà các em có thể đã nghe, đã đọc) mà thực sự có

75

giá trị nhằm soi tỏ ý nghĩa văn bản đƣợc quy định tìm hiểu trong chƣơng trình.

Thứ hai là các “văn bản” trong thực tại cuộc sống, trong vốn sống, trong

“phông văn hóa” quen thuộc và thông dụng với học sinh hiện nay khi mà số đông

các em đã tiếp cận các kênh thông tin “văn bản” mới, trong đó có “văn bản điện tử”.

Thực hiện “sự ƣu tiên” này để tạo ra hiệu quả ban đầu cho sự kết nối song

giáo viên cũng đừng quên tạo dựng cho học sinh ý thức nhận ra đƣợc tiềm năng ý

nghĩa vô tận của tác phẩm từ đó mà kích thích các em tiếp tục khám phá sáng tạo

đồng thời cũng giúp học sinh nhận thức đƣợc vấn đề: những mối liên hệ, kết nối đó

có hay không, nhiều hay ít là tùy thuộc vào hoạt động tích cực của chính các em,

ngƣời đọc - ngƣời học.

Với các văn bản, thành tố văn bản “quen thuộc” ấy, giáo viên cần chuẩn bị

các câu hỏi gợi mở hoặc gợi ra “những tình huống có vấn đề” để học sinh nhớ lại và

có dịp “kết nối” với văn bản đang học.

Với các văn bản thuộc các loại hình nghệ thuật khác (nhƣ những bộ phim

điện ảnh, phim truyền hình, các bài hát - cả tân nhạc và cổ nhạc - các bức tranh, tấm

ảnh,...) khá phổ biến trong đời sống xã hội, có thể trở nên “quen thuộc” với học

sinh, thì giáo viên cần biết gợi dẫn để học sinh có thể tham gia “kết nối” một cách

hiệu quả, sinh động trong giờ đọc hiểu văn bản văn học

2.3.2 Phá bỏ độc quyền vận dụng lý thuyết liên văn bản của giáo viên

Giáo sƣ Đặng Thai Mai đã từng kể về tiên ông Lã Động Tân (một trong Bát

tiên bên Tàu) nhƣ thế này: Lã Động Tân có ngón tay kì diệu phi phàm có thể chỉ đá

hóa vàng. Kết thúc khóa học, trƣớc khi tiễn môn sinh hạ sơn hành đạo, ông bảo môn

sinh mỗi ngƣời mang đến một hòn đá rồi trỏ ngón tay biến hóa chúng thành những

hòn vàng để tặng cho họ làm lộ phí “vào đời”. Duy có một học trò không mang một

hòn đá nào đến mà chỉ đứng vòng tay và cất lời thỉnh cầu, xin sƣ phụ ban cho cái

ngón tay “chỉ đá hóa vàng” kia...

Chúng tôi liên tƣởng đến chuyện này trong dạy đọc hiểu văn bản văn học ở

THPT hiện nay. Không ít giáo viên trong quá trình vận dụng lý thuyết liên văn bản

trong giờ dạy học Ngữ văn - dù ở mức độ tự phát hay tự giác - đã biến học sinh

thành ngƣời thụ động tiếp nhận tri thức, cả đến cảm xúc về văn bản đƣợc học từ

ngƣời thầy của mình. Mặc dù phƣơng châm “thầy chủ đạo, trò chủ động” và nguyên

76

tắc tích hợp trong dạy học ở trƣờng phổ thông đã lan tỏa vào môi trƣờng học đƣờng

nhiều năm nay cùng với việc vận dụng lý thuyết liên văn bản trong dạy đọc hiểu văn

bản văn học - song nó chƣa thực sự nhuần thấm vào hoạt động dạy học của ngƣời

thầy. Việc hợp tác hoạt động giữa giáo viên và học sinh còn rời rạc, lỏng lẻo - dù

không còn phổ biến cảnh tƣợng “thầy đọc - trò ghi” nhƣ trƣớc - song dƣờng nhƣ còn

không ít giáo viên chƣa từ bỏ thói quen “độc quyền” trong vận dụng lý thuyết liên

văn bản ở các giờ dạy đọc hiểu văn bản văn học.

Thực ra thì chính luận đề “sự lên ngôi của ngƣời đọc” trong tiếp cận lý thuyết

liên văn bản đã chỉ rõ sự cần thiết phải phá bỏ độc quyền vận dụng kỹ thuật liên văn

bản của giáo viên trong giờ dạy học, bởi “ngƣời đọc” ở đây đƣơng nhiên không chỉ

là giáo viên mà còn là học sinh nữa.

Bây giờ, có lẽ còn ít giáo viên đã “đắc đạo” nhƣ Lã Động Tân và cũng thật là

hy hữu những học sinh nhƣ “môn sinh đặc biệt” kia; nhƣng rõ ràng là, với ý nghĩa

cách tân của lý thuyết liên văn bản - việc rèn tập, hình thành, nuôi dƣỡng và phát

huy năng lực vận dụng lý thuyết liên văn bản cho học sinh trong giờ dạy học đọc

hiểu văn bản văn học đã trở thành một việc không thể không làm và có thể làm đạt

hiệu quả tốt.

Ở đây, trong việc chuẩn bị giáo án - kế hoạch dạy học trên lớp, giáo viên cần

hình dung cho mình càng nhiều càng tốt việc kết nối các “văn bản” này đồng thời

cần thiết hơn là dự kiến đƣợc những “kết nối” có thể có từ phía học sinh trên cơ sở

hiểu đƣợc khả năng thực tế - cả tiềm năng nữa - của học sinh lớp mình phụ trách.

Trong giờ lên lớp, ngƣời giáo viên có kinh nghiệm thƣờng biết tiết chế sự triển khai

hạn chế “vận dụng” của mình mà dành thời gian thích đáng để học sinh phát biểu,

thực hành diễn ngôn, đối thoại... trong cộng đồng lớp học, đƣợc “truyền lửa” bởi sự

kích hoạt, dẫn dắt của ngƣời thầy. Thực hành điều này, đòi hỏi giáo viên phải có

đức “nhẫn”, tránh nôn nóng “quy hồi”, lại cần linh hoạt “liệu cơm gắp mắm” trên

tinh thần thƣơng yêu và tôn trọng học sinh. Thêm nữa cần bổ sung ở cuối giờ học -

việc hƣớng dẫn, định hƣớng cho học sinh chuẩn bị ở nhà - mà trọng tâm là “vận

dụng lý thuyết liên văn bản” cho giờ học sắp tới.

Cũng cần phải nói thêm rằng, cái nguồn giúp học sinh từng bƣớc chủ động

77

tham gia vận dụng lý thuyết liên văn bản trong giờ đọc hiểu văn bản ở THPT - xuất

phát chính từ vốn “văn hóa đọc” của các em mà trong hiện trạng xã hội hiện nay,

bởi nhiều lý do, nó đang lép vế, đang bị lấn sân so với văn hóa nghe - nhìn.

2.3.3 Xây dựng hệ thống câu hỏi sáng tạo mang tính liên văn bản

Xây dựng hệ thống câu hỏi là một trong những yếu tố vô cùng quan trọng để

tạo nên thành công của giờ học. Nhất là trong quá trình đổi mới nền giáo dục nhƣ

hiện nay thì giáo viên phải biết cách xây dựng câu hỏi để có thể phát huy tối đa

đƣợc tích cực của học sinh và có thể hƣớng học sinh tự đi tìm đƣợc tri thức, giúp

các em vận động suy nghĩ và phát huy năng lực sáng tạo của học sinh.

Trong các tiết học để thực nghiệm đề tài Dạy học đoạn trích “Hồn Trương

Ba, da hàng thịt” của Lƣu Quang Vũ (Ngữ văn 12, tập 2) theo hƣớng tiếp cận liên

văn bản. Chúng tôi sẽ đi vào xây dựng hệ thống câu hỏi sáng tạo mang tính liên văn

bản nhƣ sau:

2.3.3.1 Tiểu dẫn

Câu hỏi nhớ: Em có thể trình bày những hiểu biết của bản thân về nhà viết

kịch Lƣu Quang Vũ?

Câu hỏi gợi ý: Cuộc đời Lƣu Quang Vũ cần lƣu ý gì? Sự nghiệp văn học của

ông có gì đặc biệt?

Câu hỏi nhớ: Em biết gì về vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”?

Câu hỏi gợi ý: Vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của Lƣu Quang Vũ

mƣợn cốt truyện từ truyện cổ tích dân gian nào? Hãy kể tóm tắt lại câu truyện cổ

tích đó?

2.3.3.2 Đọc hiểu văn bản

Câu hỏi khám phá: Theo em hồn Trƣơng Ba có những hành động nhƣ thế nào?

Câu hỏi khám phá: Trƣơng Ba có những tâm sự gì trƣớc khi đối thoại với xác

hàng thịt?

Câu hỏi đọc – hiểu: Theo em, cuộc đối thoại giữa hồn Trƣơng Ba và xác hàng

thịt diễn ra nhƣ thế nào?

Câu hỏi gợi ý: Mục đích, hoàn cảnh, cách xƣng hô, giọng điệu, cử chỉ, vị

thế…của hai nhân vật : hồn Trƣơng Ba và xác anh hàng thịt?

Câu hỏi khám phá: Theo em, những ngƣời thân của Trƣơng Ba đã phản ứng

78

nhƣ thế nào khi thấy Trƣơng Ba là xác hàng thịt?

Gợi ý: Bà vợ Trƣơng Ba phản ứng thế nào? Cái Gái (cháu nội) phản ứng nhƣ

thế nào? Cô con dâu thì phản ứng ra sao?

Câu hỏi khám phá: Tâm trạng của Trƣơng Ba sau khi đối thoại với ngƣời

thân trong nhà là nhƣ thế nào?

Câu hỏi phân tích: Em có thể so sánh màn đối thoại giữa Trƣơng Ba với xác

hàng thịt và ngƣời thân trong nhà?

Câu hỏi khám phá: Trƣơng Ba và Đế Thích quan niệm nhƣ thế nào về sự sống?

Câu hỏi khám phá: Tại sao khi đƣợc phép nhập vào xác cu Tỵ ngây thơ,

Trƣơng Ba lại chối từ? sự từ chối đó thể hiện điều gì trong nhận thức, tính cách

Trƣơng Ba?

Câu hỏi đọc – hiểu : Qua đoạn trích, em hãy trình bày những giá trị cơ bản

của tác phẩm (ý nghĩa phê phán, giá trị nhân văn)

Câu hỏi vận dụng:

- Suy nghĩ của em về câu nói: “Không thể ở bên trong một đằng, bên ngoài

một nẻo đƣợc. Tôi muốn là tôi toàn vẹn”?

- Giả định Đế Thích cho Trƣơng Ba đƣợc quyền sống trong xác xu Tỵ và

Trƣơng Ba đồng ý. Theo em cuộc sống của Trƣơng Ba sau đó sẽ nhƣ thế nào? Trình

bày ý tƣởng của em về những rắc rối sẽ xảy ra và viết một lớp kịch ngắn về điều đó?

- Em hãy tƣởng tƣợng và viết một kết thúc khác cho vở kịch?

2.3.4 Tăng cƣờng các bài tập liên hệ

Câu 1: Từ bi kịch của Trƣơng Ba em hãy liên hệ về lối sống của giới trẻ trong

cuộc sống hiện đại ngày nay: có còn hiện tƣợng sống giả, sống không là chính mình,

mục đích sống chỉ chạy theo sự ham muốn tầm thƣờng, dung tục không?

Câu 2: Để không rơi vào bi kịch nhƣ hồn Trƣơng Ba, em phải sống thế nào?

Có phải chỉ cần sự nỗ lực hoàn thiện của mỗi cá nhân hay còn có vai trò của xã hội,

cộng đồng

Gv chốt, có thể giới thiệu cho Hs một số bài viết hay:

Câu 1: Chúng ta đang sống trong thời đại mới - thời đại văn minh, khoa học,

nhất là sự phát triển vƣợt bậc của ngành công nghệ thông tin; nó đã làm cho cuộc

sống con ngƣời ngày đƣợc nâng cao. Đáng tiếc thay giá trị đạo đức đang bị xói mòn

79

bởi chủ nghĩa thực dụng, duy vật chất, kéo theo đó là cả một hệ lụy. Hơn nữa, giới

trẻ ngày nay chạy theo lối sống hƣởng thụ, mà họ cho là hợp thời, sành điệu; họ bỏ

qua những giá trị đạo đức là nền tảng cốt yếu của con ngƣời. Vấn đề này đang là

thách đố cho các nhà giáo dục cũng nhƣ những ngƣời có trách nhiệm.

Tình trạng đạo đức của giới trẻ

“Giới trẻ là tƣơng lai của Giáo hội và nhân loại”. Đó là câu khẳng định nhiều

ngƣời đã biết. Nhƣng đối diện với thực tế thì ai cũng thấy lo lắng cho tƣơng lai ấy.

Liệu nó có tốt đẹp nhƣ ngƣời ta tƣởng không? Cứ nhƣ thực tế hiện nay thì nhân loại

sẽ đi tới đâu, khi giới trẻ sống thực dụng chỉ chạy theo những giá trị vật chất mà bỏ

quên những giá trị tinh thần.

Tình trạng giới trẻ sống buông thả, không coi trọng những giá trị đạo đức đã

và đang diễn ra ở nhiều nơi. Bằng chứng là các phƣơng tiện truyền thông đã liên

tiếp đăng tải các bài viết phản ánh về thực trạng này. Chúng lôi kéo bè cánh để đánh

nhau (cả trai lẫn gái), thậm trí hành hung cả thầy cô giáo, rồi con giết cha, anh giết

em; trẻ vị thành niên cũng gây ra nhiều vụ án mạng. Những hành vi tàn bạo này

đƣợc đăng trên mặt báo chỉ là tảng băng nổi, thực tế còn nhiều hơn nữa. Cách đây

không lâu ngƣời ta choáng váng vì một đoạn video clip nữ sinh đánh bạn đăng tải

trên Internet. Trong clip này, một cô bé đang bị một nữ sinh tóc ngắn vừa đánh tới

tấp vào mặt vừa chửi tục với kiểu "dạy dỗ" rất “anh chị”. Trong khi đó, nhiều học

sinh khác ngồi chễm chệ ở ghế đá và thản nhiên nhìn vụ đánh hội đồng này. Một

thái độ vô cảm không thể ngờ đƣợc! Sau đó, dƣ luận lại đau lòng và kinh hãi trƣớc

tình trạng gia gia tăng bạo lực học đƣờng của nữ sinh Việt Nam đƣợc phản ánh liên

tục trên các phƣơng tiện truyền thông. Đáng báo động hơn nữa, hiện tƣợng sinh

viên, học sinh đánh giáo viên cũng gia tăng. Có những giáo viên đang giảng bài, bất

ngờ bị học trò lấy mã tấu trong cặp xông lên bục giảng chém trọng thƣơng.

Bên cạnh đó, tình trạng sống thử và quan hệ tình dục trƣớc hôn nhân ngày

càng tăng cao. Theo Tiến sĩ Tâm lý Huỳnh Văn Sơn, Đại học Sƣ phạm Tp. HCM,

việc các bạn trẻ quan hệ trƣớc hôn nhân không chỉ ảnh hƣởng của văn hóa Phƣơng

Tây mà còn do lối sống quá dễ dãi, đánh mất truyền thống tốt đẹp của ngƣời Á

Đông, đó là: tôn trọng lễ nghĩa gia phong, nam nữ thọ thọ bất tƣơng thân, nét đẹp

của ngƣời con gái là thùy mị nết na…. Đồng thời, tình trạng nạo pha thai cũng đang

80

ở mức báo động. Theo GS.BS Nguyễn Thị Ngọc Phƣợng - giám đốc Bệnh viện Phụ

sản Từ Dũ, TP.HCM - cho biết: thực trạng nạo phá thai rất đáng lo ngại. Mỗi năm,

tại Việt Nam, có khoảng 700.000 phụ nữ nạo phá thai. Riêng ở TP.HCM, với

khoảng 7 triệu dân, mỗi năm có khoảng hơn 100.000 ca sinh nhƣng số ca nạo phá

thai cũng tƣơng đƣơng. Tại BV Từ Dũ, mỗi năm tổng số sinh khoảng 45.000 ngƣời

nhƣng nạo phá thai hơn 30.000 ngƣời và tổng số 1,2-1,6 triệu ca mỗi năm. Cả nƣớc

có 5% em gái sinh con trƣớc 18 tuổi và 15% sinh con trƣớc 20 tuổi”

Hơn nữa, một số đông bạn trẻ đang chạy theo vòng xoáy của “văn hóa tốc

độ”. Từ những sách báo không lành mạnh, đến những băng đĩa phim sex đƣợc trao

cho nhau cách dễ dàng, từ những quán Karaoke buổi tối đến những vũ trƣờng, quán

bar thâu đêm, rồi vào những ngôi nhà nghỉ. Mặt khác, tình trạng đua xe diễn ra ở

nhiều nơi. Ngay tại Thị xã Thủ Dầu Một, vào những đêm cuối tuần, khoảng 200 bạn

trẻ tụ tập đua xe làm cho Cảnh sát Giao thông cũng phải “bó tay”.

Câu 2: Mỗi người cần phải nhận thức được ý nghĩa của sự sống và cần có sự

tác động của nhiều yếu tố:

* Về phía bản thân

Mỗi bạn trẻ chúng ta hãy sống đúng chuẩn mực đạo đức của con ngƣời, trau

dồi, học hỏi những bài học trong cuộc sống về sự công bằng, bác ái với những ngƣời

xung quanh và phải có quyết tâm muốn thay đổi chính bản thân mình. Ngoài ra, cần

phải học hỏi những tấm gƣơng của những ngƣời đạo đức trong xã hội hiện tại.

Chẳng hạn nhƣ cô Huỳnh Tiểu Hƣơng có lòng nhân ái: Cô Huỳnh Tiểu Hƣơng là

một tấm gƣơng sáng ngời về lòng nhân ái. Cô đã lấy hạnh phúc của những ngƣời bất

hạnh làm hạnh phúc của mình. Lòng thƣơng ngƣời của cô đã làm rung động bao trái

tim con ngƣời Việt Nam. Vƣơn lên từ cuộc đời bất hạnh, cô Huỳnh Tiểu Hƣơng,

ngay từ tuổi thơ ấu đã bị ức hiếp, tủi nhục, cay đắng trăm chiều. 22 năm phải sống

trên đƣờng phố, Tiểu Hƣơng đã bị ép chích ma tuý, bị cắt chân tay để buộc phải đi

ăn xin, bị đốt lửa trên cơ thể, thậm chí bị hãm hiếp trong tủi nhục. 3 lần bị ném

xuống chân cầu Sài Gòn cho chết đi, nhƣng may mắn là cô vẫn sống. Để rồi, giờ

đây, Huỳnh Tiểu Hƣơng không còn là một cô bé lang thang vỉa hè, không cửa

không nhà, mà là một nữ doanh nhân thành đạt, một ngƣời mẹ của hơn 200 đứa trẻ

81

mồ côi, bất hạnh.

* Về phía gia đình

Gia đình đóng một vai trò rất quan trọng trong việc hình thành nhân cách con

ngƣời. Gia đình là ngôi trƣờng đầu tiên của con ngƣời, từ đó những đứa trẻ học

đƣợc nhân cách làm ngƣời. Vì thế, muốn cho con cái trở nên tốt, gia đình phải là nơi

mọi ngƣời sống yêu thƣơng, nâng đỡ và đùm bọc lẫn nhau. Các thế hệ cùng chung

sống phải biết quan tâm tới nhau, thì ngƣời trẻ sẽ có nền tảng đạo đức tốt. Hay nói

cách khác, giới trẻ sống trong gia đình đó sẽ rập theo nếp sống của cha ông họ.

Đồng thời, gia đình phải sống hạnh phúc, nơi đó cha mẹ và con cái sống hài hoà với

nhau, ngƣời trẻ sẽ cảm nhận đƣợc những giá trị cao đẹp nhƣ: hạnh phúc, lắng nghe,

yêu thƣơng, tha thứ, nâng đỡ và chấp nhận những khác biệt của nhau…

Bên cạnh đó, trong một thế giới đang đề cao sự thỏa mãn tức thời, những ham muốn

bản năng, thì gia đình có vai trò rất quan trọng trong việc khơi dậy ý thức về cái tốt

và cái xấu, về cái đáng làm và không nên làm. Theo chuyên viên tƣ vấn Lý Thị Mai,

Trung tâm Tƣ vấn Hôn nhân và Gia đình TPHCM cho biết: “Cha mẹ đóng vai trò

rất lớn trong việc giáo dục con cái cũng nhƣ dạy con cách sống, cách làm ngƣời”.

* Về phía nhà trường

Môi trƣờng giáo dục nhà trƣờng không chỉ là nơi trang bị kiến thức mà còn

phải quan tâm đến việc giáo dục nhân cách, đạo đức cho các bạn trẻ. Một khi nhà

trƣờng biết quan tâm đúng mức về giáo dục đạo đức cho giới trẻ thì kết quả sẽ khả

quan hơn. Vấn đề này thấy rõ trong các trƣờng Công giáo và các cơ sở nội trú của

các nhà dòng. Các học sinh, sinh viên khi đƣợc giáo dục ở đó, họ không chỉ biết

sống lễ phép với mọi ngƣời mà còn sống gƣơng mẫu, ngoan ngoãn, biết quan tâm

yêu thƣơng mọi ngƣòi. Theo Tiến sĩ Huỳnh Văn Sơn, Trƣởng khoa Tâm lý Đại học

Sƣ phạm TPHCM cho rằng: “Nhà trƣờng không nên chú tâm vào việc dạy kiến thức

mà quên đi việc dạy các em nên ngƣời. Hơn nữa, mỗi thầy cô giáo phải là tấm

gƣơng đạo đức cho các em noi theo”.

* Về phía xã hội

Xã hội nên quan tâm đến giới trẻ, tạo những cơ hội cho họ, giúp họ sống theo

chuẩn mực đạo đức của xã hội, nhất là những ngƣời lầm lỡ, giúp họ trở thành những

con ngƣời có ích cho xã hội. Tiến sĩ Tâm lý Đinh Phƣơng Duy cho biết: “Giới trẻ

82

ngày nay, không phải là họ không muốn sống cho ra ngƣời mà còn muốn sống tốt

hơn nữa”. Có ngƣời đã nói: “Cơn khát làm một ngƣời sống lƣơng thiện, sống đạo

đức cháy âm ỉ trong tâm khảm của họ. Chính vì thế, họ đang cần đƣợc xã hội quan

tâm giúp đỡ, nhất là mở những lớp học về cách ứng xử trong cuộc sống. Đồng thời

họ mong muốn những ngƣời có trách nhiệm nên làm gƣơng cho họ”.

 Để phát triển xã hội bền vững, những nhà giáo dục và những ngƣời có trách

nhiệm phải có một hƣớng đi đúng đắn cho thế hệ trẻ hôm nay. Trong giá trị đạo đức,

cần định hƣớng để họ có một lý tƣởng sống, biết xây dựng cuộc sống trên những giá

trị cao đẹp. Đồng thời, mọi ngƣời cần quan tâm đến những giá trị đạo đức, nhất là

cần áp dụng những cách giáo dục mới vào việc đào tạo thế giới trẻ, vì họ là rƣờng

cột của xã hội. Giáo dục theo lối mới là giáo dục bằng tình thƣơng yêu, nâng đỡ.

Hơn nữa, chúng ta cần nhìn vào tình hình thực tế để cảnh giác hơn đối với

những cạm bẫy đang cám dỗ giới trẻ, nhƣ nhà báo Lƣu Đình Triều, khi đọc xong

cuốn sách “Sài Gòn by night, những hồi chuông cảnh báo” đã phát biểu: “Là một sự

nhắc nhở. Nhắc cha, nhắc mẹ, nhắc anh chị, nhắc nhà trƣờng, nhắc đoàn thể xã hội

đừng lơ là, mất đi sự cảnh giác đối với những cạm bẫy đang giăng chờ con em

mình… Hãy ngăn chặn cái xấu từ xa, trƣớc khi nó hình thành và phát triển”. (Cù

Mai Công, Sài Gòn by night, tr. 120). Toàn xã hội cần phải làm nhiều hơn nữa để

giáo dục một thế hệ trẻ có đạo đức, có lý tƣởng sống để có thể đứng vững trƣớc mọi

thách thức và sóng gió trong cuộc đời.

Tiểu kết chƣơng 2

Kịch là một thể loại văn học mang nhiều giá trị nghệ thuật cũng nhƣ tính nhân

văn. Vì vậy, kịch đã đƣợc đƣa vào trong chƣơng trình Ngữ văn THPT để các em học

sinh có thể thấu hiểu đƣợc một thể loại văn học cũng nhƣ một loại hình nghệ thuật

đặc sắc của dân tộc. Nhƣng thực trạng dạy và học thể loại kịch của giáo viên và học

sinh trong nhà trƣờng THPT vẫn còn nhiều lúng túng và chƣa thích thú. Từ đó đòi

hỏi ngƣời giáo viên dạy Ngữ văn cần phải có những phƣơng pháp để tiếp nhận kịch,

để giúp cho học sinh cảm nhận kịch dễ hơn, yêu thích kịch cũng nhƣ văn học Việt

Nam hơn.

“Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của Lƣu Quang Vũ là một tác phẩm kịch

mang những triết lý nhân sinh đẹp đẽ. Đoạn trích “Hồn Trương Ba, hàng thịt” của

83

Lƣu Quang Vũ (Ngữ văn 12, tập 2) đã đƣợc đƣa vào giảng dạy để giáo dục đạo

đức, nhân cách của học sinh và qua đó giúp các em hình thành lối sống đẹp cho bản

thân. Cũng từ đó giáo viên phải tìm tòi các phƣơng pháp để khai thác dạy học đoạn

trích đạt hiệu quả. Thấu hiểu đƣợc điều đó, trong chƣơng 2, chúng tôi đã đề xuất các

biện pháp để dạy học đoạn trích “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của Lƣu Quang Vũ

(Ngữ văn 12, tập 2) theo hƣớng tiếp cận liên văn bản nhƣ: đọc hiểu “Hồn Trương

Ba, da hàng thịt” của Lƣu Quang Vũ theo hƣớng tích cực và tích hợp, đọc hiểu

“Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của Lƣu Quang Vũ nhằm bồi dƣỡng năng lực ngôn

ngữ cho học sinh lớp 12, đọc hiểu “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của Lƣu Quang

Vũ nhằm bồi dƣỡng nền tảng văn hóa giáo dục đạo đức và có cái nhìn mới về con

ngƣời cho học sinh lớp 12,…Và liên kết văn bản “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”

của Lƣu Quang Vũ với văn bản truyện dân gian, liên kết văn bản “Hồn Trương Ba,

da hàng thịt” của Lƣu Quang Vũ với các lĩnh vực khác trong đời sống , văn bản văn

hóa, … Các biện pháp này có mối quan hệ chặt chẽ, tác động hỗ trợ lẫn nhau đến

việc giáo dục đạo đức cho học sinh qua bài học. Chúng tôi tin rằng, khi áp dụng các

biện pháp nêu trên trong việc dạy học đoạn trích “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”

của Lƣu Quang Vũ (Ngữ văn 12, tập 2) theo hƣớng tiếp cận liên văn bản sẽ đạt hiệu

quả cao, góp phần đổi mới phƣơng pháp dạy học Ngữ văn và giáo dục nhân cách

84

cho học sinh đáp ứng yêu cầu của thực tiễn.

CHƢƠNG 3

THỰC NGHIỆM DẠY HỌC ĐOẠN TRÍCH “ HỒN TRƢƠNG BA,

DA HÀNG THỊT” CỦA LƢU QUANG VŨ ( NGỮ VĂN 12, TẬP 2)

THEO HƢỚNG TIẾP CẬN LIÊN VĂN BẢN

Để thực hiện chƣơng này, tôi tiến hành thiết kế giáo án giờ đọc hiểu văn bản

“Hồn Trương Ba da hàng thịt” của Lƣu Quang Vũ (Ngữ văn 12, tập 2).Trong giáo

án, tôi chú ý việc vận dụng lý thuyết liên văn bản vào dạy học đoạn trích. Đồng thời

tôi cũng dùng giáo án này để dạy thực nghiệm nhằm thăm dò tính khả thi cũng nhƣ

hiệu quả thực sự của việc vận dụng lý thuyết liên văn bản vào việc dạy học đọc –

hiểu văn bản ở trƣờng phổ thông.

3.1 Thực nghiệm thăm dò về tính khả thi và hiệu quả của việc vận dụng

lý thuyết liên văn bản trong dạy học đọc – hiểu văn bản văn học ở trƣờng trung

học phổ thông.

3.1.1 Mục đích thực nghiệm

Vận dụng các biện pháp đã đề xuất ở chƣơng 2 vào soạn giảng đoạn trích

“Hồn Trương Ba da hàng thịt” của Lƣu Quang Vũ trong chƣơng trình Ngữ văn lớp

12. Qua đó khẳng định tính khả thi của các biện pháp đã đƣợc đề xuất Dạy học đoạn

trích “Hồn Trương Ba da hàng thịt” của Lưu Quang Vũ (Ngữ Văn 12, tập 2) theo

hướng tiếp cận liên văn bản cho học sinh lớp 12.

3.1.2 Đối tƣợng, thời gian và địa bàn thực nghiệm

Chúng tôi lựa chọn văn bản “Hồn Trương Ba da hàng thịt” của Lưu Quang

Vũ (tiết 5 Ngữ Văn 12, tập 2, ban cơ bản) để thiết kế giáo án thực nghiệm xuất phát

từ đối tƣợng, thời gian và địa bàn thực nghiệm.

- Đối tƣợng thực nghiệm: Học sinh lớp 12 ban cơ bản

+ Lớp thực nghiệm: lớp 12A (42 HS), 12B (43 HS)

+ Lớp đối chứng : lớp 12 H (42 HS), 12I (43 HS)

- Thời gian thực nghiệm: Năm học 2016 - 2017

- Địa bàn thực nghiệm: Trƣờng THPT Gia Lộc II – Huyện Gia Lộc – Hải Dƣơng

3.1.3 Nội dung thực nghiệm

Dạy học đoạn trích “Hồn Trương Ba da hàng thịt” của Lƣu Quang Vũ ( Ngữ

85

Văn 12, tập 2) theo hƣớng tiếp cận liên văn bản ở lớp 12A

3.1.4. Tiến trình và kết quả thực nghiệm

3.1.4.1 Tiến trình thực nghiệm.

Chúng tôi tiến hành thực nghiệm đề tài theo những bƣớc sau:

Thứ nhất, tiến hành kiểm tra trình độ ban đầu của học sinh lớp thực nghiệm

và lớp đối chứng.

Thứ hai, chuẩn bị đầy đủ các phƣơng tiện dạy học, thiết kế giáo án có vận

dụng lý thuyết liên văn bản cho học sinh trong giờ dạy học và dạy ở các lớp thực

nghiệm, dạy ở các lớp đối chứng theo các phƣơng pháp không có thiết kế vận dụng

lý thuyết liên văn bản.

Thứ ba, tiến hành thực nghiệm và dạy học đối chứng ở các lớp đã chọn.

Thứ tƣ, nghiệm thu kết quả đƣợc tiến hành sau khi hoàn thành bài dạy bằng

hình thức kiểm tra trực tiếp đề 45 phút ở cuối bài dạy “HồnTrương Ba, da hàng

thịt” của Lƣu Quang Vũ (Ngữ văn 12, tập 2).

3.1.4.2 Nội dung thực nghiệm.

Chúng tôi tiến hành thực nghiệm dạy học tác phẩm “Hồn Trương Ba, da

hàng thịt” của Lƣu Quang Vũ (Ngữ văn 12, tập 2). Ý thức rất rõ việc rèn kỹ năng

đọc hiểu tác phẩm kịch hay năng lực đọc hiểu văn bản văn học theo hƣớng tiếp cận

liên văn bản là cả một quá trình rèn luyện thƣờng xuyên, liên tục. Bởi thế, chúng tôi

đã tiến hành dạy thực nghiệm ở đoạn trích “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của Lƣu

Quang Vũ (Ngữ văn 12, tập 2, ban cơ bản).

3.1.4.3 Phương pháp thực nghiệm.

* Cách tiến hành.

- Các lớp thực nghiệm và đối chứng đƣợc giảng dạy trong cùng một thời gian

cùng một nội dung Dạy học đoạn trích “Hồn Trương Ba da hàng thịt” của Lưu

Quang Vũ (Ngữ Văn 12, tập 2) theo hướng tiếp cận liên văn bản cho học sinh lớp 12

- Các lớp thực nghiệm dạy theo hƣớng áp dụng nội dung các biện pháp đã đề xuất.

- Các lớp đối chứng dạy theo phƣơng pháp vẫn đang sử dụng phổ biến hiện nay.

- Để thực nghiệm Dạy học đoạn trích “Hồn Trương Ba da hàng thịt” của

Lưu Quang Vũ ( Ngữ Văn 12, tập 2) theo hướng tiếp cận liên văn bản cho học sinh

lớp 12 tôi tiến hành các bƣớc sau:

86

+ Bƣớc 1: Xây dựng kế hoạch dạy học và chuẩn bị giáo án.

+ Bƣớc 2: Tổ chức các hoạt đông tự học trên lớp.

+ Bƣớc 3: Kiểm tra để đánh giá kết quả học tập của học sinh

Sau giờ dạy đoạn trích “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của Lưu Quang Vũ

( Ngữ Văn 12, tập 2) theo hướng tiếp cận liên văn bản chúng tôi yêu cầu hai lớp làm

một bài kiểm tra 45 phút cùng đề bài để đánh giá hiệu quả tiếp thu kiến thức và

hình thành kỹ năng cho các em.

Với học sinh:

- Bƣớc 1: Tự đọc hiểu bài học ở nhà theo hƣớng dẫn của giáo viên và hƣớng

dẫn học bài trong sách giáo khoa.

- Bƣớc 2: Hợp tác với bạn, với giáo viên thông qua các hoạt động tự học ở trên lớp.

- Bƣớc 3: Kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của bản thân.

Ở bƣớc 1, Học sinh tự học ở nhà theo hƣớng dẫn của giáo viên qua phiếu học

tập: thu thập tƣ liệu về tác phẩm “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của Lƣu Quang

Vũ (Ngữ văn 12, tập 2) theo hƣớng tiếp cận liên văn bản. Sau đó, học sinh xử lí

thông tin đã thu nhận đƣợc để giải quyết vấn đề bằng việc trả lời các câu hỏi khác

trong phiếu học tập và câu hỏi trong hƣớng dẫn học bài SGK.

Ở bƣớc 2: HS đem kết quả đọc hiểu của mình trao đổi với bạn, với thầy thông qua

hƣớng dẫn, tổ chức của giáo viên.

Ở bƣớc 3: HS tự kiểm tra đánh giá kết quả học tập của mình qua hợp tác với

bạn, với thầy đồng thời kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của bản thân qua phần

kiểm tra của giáo viên.

* Cách đánh giá

- Để đánh giá kết quả thực nghiệm sƣ phạm, tôi chọn hình thức so sánh kết

quả học tập của học sinh thông qua bài kiểm tra sau khi dạy học xong bài học giữa

lớp thực nghiệm và lớp đối chứng. Ở bài kiểm tra này, các câu hỏi đƣa ra vừa kiểm

tra kiến thức trọng tâm học sinh cần nắm sau bài học vừa kiểm tra kĩ năng đọc hiểu

văn bản thơ trữ tình theo đặc trƣng thể loại của học sinh.

- Để việc đánh giá kết quả thực nghiệm sƣ phạm đƣợc khách quan hơn, tôi đã mời

giáo viên trong tổ dự giờ trao đổi rút kinh nghiệm để nắm bắt ý kiến đánh giá của đồng

87

nghiệp về cách thức tổ chức dạy học và các biện pháp áp dụng.

3.1.4.4 Kết quả thực nghiệm và thông số điều tra:

* Nhận xét chung về kết quả thực nghiệm

- Việc tự học bài ở nhà đƣợc học sinh thực hiện khá nghiêm túc. Nhiều học sinh tỏ

ra khá hứng thú trong việc thu thập các thông tin liên quan đến bài học. Qua phỏng

vấn trao đổi với một số học sinh lớp 12A, 12B các em cho rằng: việc chuẩn bị bài theo

hƣớng dẫn của giáo viên mất thời gian hơn nhƣng thú vị hơn vì chính bản thân các em

đƣợc thể nghiệm và trải nghiệm; từ đó các em thu nhận đƣợc nhiều thông tin hơn và biết

cách thu thập thông tin cho hiệu quả. Việc rèn kĩ năng thu thập thông tin này không chỉ

thực hành khi học đoạn trích “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của Lƣu Quang Vũ mà còn

có thể áp dụng cho những phần học khác, môn học khác. Một số học sinh đƣợc hỏi

cũng cho rằng: nếu thực hiện đúng theo hƣớng dẫn các thao tác khi xử lí thông tin về bài

học các em sẽ dễ dàng hơn khi tự mình tìm ra kiến thức cần nắm về bài học.

- Nhìn chung do có sự tự học tích cực ở nhà nên học sinh tham gia các hoạt

động dạy học khá tích cực, không khí học tập sôi nổi. Đa số học sinh nhiệt tình

tham gia tất cả những hoạt động học tập: trao đổi, thảo luận, lắng nghe, phát biểu ý

kiến, nêu những vấn đề thắc mắc tạo nên không khí lớp học khá thoải mái, dân chủ.

- Đa số giáo viên dự giờ cho rằng, các biện pháp rèn kĩ năng tự học áp dụng phù

hợp với đặc trƣng của thể loại, với đối tƣợng. Học sinh tỏ ra khá chủ động trong việc

tiếp thu kiến thức, trong việc phối kết hợp với các bạn trong nhóm, trong lớp và với

giáo viên. Nhiều học sinh tỏ ra khá tự tin trong việc

trình bày, tranh luận để bảo vệ ý kiến của cá nhân hoặc của nhóm

*. Kết quả thực nghiệm cụ thể

Kết quả đánh giá dựa trên các chỉ tiêu sau:

- Dựa vào bài viết của học sinh : kết quả này đƣợc đánh giá theo thang điểm

10 đƣợc chia làm 4 bậc:

+ Loại giỏi: 8; 9; 10 điểm

+ Loại khá: 7 điểm

+ Loại trung bình: 5; 6 điểm.

+ Loại yếu: 0- 4 điểm

- Dựa vào mức độ hứng thú của học sinh trong giờ học

88

Phƣơng tiện đánh giá kết quả :

- Giáo án thể nghiệm

- Hƣớng dẫn chuẩn kiến thức, kỹ năng môn Ngữ văn 12.

Kết quả học tập của học sinh.

Sau khi triển khai dạy học đoạn trích “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của Lƣu

Quang Vũ (Ngữ Văn 12, tập 2) theo hƣớng tiếp cận liên văn bản, tôi tiến hành cho

học sinh làm một bài kiểm tra 45 phút để đánh giá kiến thức, kĩ năng đã thu đƣợc

của ngƣời học sau giờ dạy thực nghiệm. Ở lớp đối chứng, tôi cũng cho làm đề bài

nhƣ vậy, sau khi chấm bài, tôi thu đƣợc kết quả nhƣ sau:

Bảng 3.1. Kết quả HS các lớp đối chứng :

Giỏi Khá TB Yếu

Điểm 9 - 10 Điểm 7- 8 Điểm 5- 6 Điểm 0 - 4 Khối Lớp Sĩ số

SL (%) (%) SL (%) SL (%) SL

12H 42 1 2,4 28,6% 21 50% 8 19% 12

12 12I 43 2 4,8% 10 23,2% 21 48,8% 10 23,2%

89

Biểu đồ 3.1.Kết quả học tập các lớp đối chứng

Bảng 3.2: Kết quả các lớp dạy thực nghiệm

Giỏi Khá TB Yếu Sĩ Điểm 9 - 10 Điểm 7- 8 Điểm 5- 6 Điểm 0 - 4 Khối Lớp số SL (%) SL (%) SL (%) SL (%)

12A 9 22,0% 25 61,0% 7 17,0% 0 0% 41 12 12B 8 18,2% 23 52,3% 12 27,3% 01 2,2% 44

Biểu đồ 3.2. Kết quả học tập các lớp dạy thực nghiệm

Bảng 3.3. Bảng so sánh kết quả lớp dạy thực nghiệm và lớp đối chứng

Lớp 12A, 12B 12H,12I

Thang điểm (Lớp dạy thực nghiệm) (Lớp dạy đối chứng)

Giỏi Điểm 9 - 10

Khá Điểm 7- 8

TB

Điểm 5- 6 Yếu Điểm 0 - 4 Tổng số học sinh 17/85 HS (20%) 48/85 HS (56,5%) 19/85 HS (22,3%) 01/85 HS (1,2%) 100% (85 HS) 3/85 HS (3,5%) 22/85 HS (25,9%) 42/85 HS (49,4%) 18/85 HS (21,2%) 100% (85 HS)

Sau khi chúng tôi thực nghiệm xong đề tài, chúng tôi nhận thấy đa phần học

90

sinh đã hiểu đƣợc nội dung kiến thức mà giáo viên dẫn dắt, định hƣớng đồng thời:

- Đáp ứng đƣợc phƣơng pháp dạy học tích cực.

- Tạo đƣợc hứng thú, phản ứng nhanh nhạy cho học sinh khám phá văn bản.

- Tránh sự nhàm chán trong quá trình tiếp nhận tri thức của học sinh.

- Tổng hợp, phát huy sức mạnh của các phƣơng pháp dạy học.

- Không đánh mất vai trò của ngƣời giáo viên mà còn phát huy tích cực vai

trò ngƣời giáo viên nhƣ: quan sát lớp, nhóm làm việc, đi sâu vào hƣớng dẫn cho các

học sinh yếu, cá biệt làm việc đạt hiệu quả.

Và dựa trên các kết quả thực nghiệm sƣ phạm thông qua việc xử lý số liệu

thu đƣợc, chúng tôi nhận thấy: chât lƣợng học tập của lớp thực nghiệm cao hơn lớp

đối chứng. Ở lớp thực nghiệm hầu hết các em trẻ lời tốt câu hỏi của đề bài đƣa ra,

đi đúng hƣớng và trả lời đúng trọng tâm…Trong khi làm bài, ác em đã biết chọn

lọc kiến thức cơ bản, vận dụng kiến thức tƣơng đối tốt, thể hiện sự tìm tòi khám

phá, sáng tạo. Các giờ dạy thực nghiệm thì lớp thực nghiệm số học sinh đạt điểm

giỏi khá là: 76,5%. Tỉ lệ này ở lớp đối chứng là 29,4%. Chất lƣợng học tập của lớp

thực nghiệm cũng nâng lên đáng kể. Tuy nhiên, vẫn còn 1,2% học sinh điểm yếu

dƣới 5. Điều này chứng tỏ, việc rèn kỹ năng phải thƣờng xuyên, liên tục mới đạt

hiệu quả nhƣ mong đợi. Mặc dù thí điểm thực nghiệm ở một bài học, ở hai lớp học

nhƣng đã đem lại kết quả khác biệt. Điều đó, là một tín hiệu đáng mừng bởi phần

nào đã giảm tình trạng học sinh quay lƣng với môn văn trong nhà trƣờng phổ thông

hiện nay và cho thấy tín hiệu khả thi của đề tài khi áp dụng vào thực tế dạy học văn

bản văn học theo hƣớng tiếp cận liên văn bản cho học sinh THPT hiện nay

3.1.5 Thiết kế giáo án thực nghiệm “Hồn Trƣơng Ba da hàng thịt” của

Lƣu Quang Vũ (tiết 5, Ngữ Văn 12, tập 2, ban cơ bản) theo hƣớng tiếp cận liên

văn bản.

Thiết kế bài học này nhằm giải tỏa những vƣớng mắc của học sinh khi tiếp nhận

văn bản “ Hồn Trƣơng Ba, da hàng thịt” theo hƣớng tiếp cận liên văn bản để giúp học

91

sinh có thể tiếp thu đƣợc những giá trị về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.

Tuần 26

Ngày soạn giáo án: 12/03/2017

Ngày bắt đầu dạy : 19/03/2017

Đọc văn – Tiết 74+75:

HỒN TRƢƠNG BA, DA HÀNG THỊT

- Lƣu Quang Vũ-

A. MỤC TIÊU BÀI HỌC:

1. Về kiến thức:

Giúp học sinh:

- Hiểu đƣợc bi kịch Trƣơng Ba khi tâm hồn thanh cao phải nấp trong thân

xác anh hàng thịt thô thiển và lý giải mong ƣớc đƣợc giải thoát của nhân vật này, ý

nghĩa phê phán, chiều sâu tƣ tƣởng nhân văn của vợ kịch.

- Thấy đƣợc kịch Lƣu Quang Vũ đặc sắc trên cả hai phƣơng diện: kịch bản

văn học và nghệ thuật sân khấu với tính hiện đại kết hợp giá trị truyền thống; sự

phê phán mạnh mẽ, quyết liệt và chất trữ tình đằm thắm, bay bổng.

- Hiểu đƣợc nội dung tƣ tƣởng sâu sắc của vở kịch: ý nghĩa triết lý nhân sinh

và ý nghĩa mang đậm tính nhân văn.

- Sau giờ học, học sinh có thể thuộc, ấn tƣợng sâu sắc về một số lời thoại

hay, hàm ẩn nhiều ý nghĩa trong đoạn trích.

2. Kỹ năng:

- Rèn luyện học sinh kỹ năng về tìm hiểu tác phẩm kịch

3. Thái độ:

- Cảm nhận đƣợc vẻ đẹp tâm hồn của những ngƣời lao động trong cuộc đấu

tranh lại sự dung tục, bảo vệ quyền đƣợc sống trọn vẹn, hài hòa giữa thể xác và tâm

hồn, vật chất và tinh thần cùng khát vọng hoàn thiện nhân cách.

- Giáo dục học sinh có lối sống cao đẹp, sống là chính mình, sống có bản lĩnh

để không đánh mất mình và biết sống vì ngƣời khác.

- Biết tự hoàn thiện bản thân về thể xác và tâm hồn. Biết kêu gọi, đấu tranh

cho sự hoàn thiện vẻ đẹp nhân cách con ngƣời.

92

4. Các năng lực cần phát triển

- Năng lực chung: tự học, giải quyết vấn đề, tƣ duy, tự quản lý, giao tiếp, hợp

tác, sử dụng ngôn ngữ.

- Năng lực chuyên biệt: Nghe, đọc hiểu, hiểu đƣợc ý nghĩa của văn bản tự sự,

tạo lập đƣợc văn bản kịch.

B. Phƣơng pháp và phƣơng tiện dạy học:

1. Phƣơng pháp:

+ Phƣơng pháp và và kĩ thuật dạy học: Thảo luận, đàm thoại gợi mở, thuyết

trình…

+ Hình thức tổ chức dạy học: cá nhân, nhóm, lớp.

2. Phƣơng tiện dạy học:

- Chuẩn bị của GV: sách giáo khoa, giáo án và tài liệu dạy học cần thiết.

- Chuẩn bị của học sinh: sách giáo khoa, vở soạn.

C. HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC

1. Ổn định lớp:

2. Kiểm tra bài cũ: Nêu tác dụng của hàm ý?

Tác dụng và hiệu quả của cách nói có hàm ý:

Tuỳ thuộc vào hoàn cảnh giao tiếp, hàm ý có thể mang lại:

- Tính hàm súc cho lời nói: lời nói ngắn gọn mà chất chứa nhiều nội dung, ý

nghĩa

- Hiệu quả mạnh mẽ, sâu sắc với ngƣời nghe

- Sự vô can, không phải chịu trách nhiệm của ngƣời nói về hàm ý (vì hàm ý

là do ngƣời nghe suy ra)

- Tính lịch sự và thể diện tốt đẹp trong giao tiếp bằng ngôn ngữ

3. Bài mới:

- Dẫn vào bài mới:

“Hồn Trương Ba, da hàng thịt”- một trong những truyện cổ tích dân gian

lưu giữ và kết tinh những giá trị văn hóa của người Việt Nam với những nét đẹp

thống và ước mơ, khát vọng của con người. Cuối thế kỉ XX Lưu Quang Vũ – nhà

viết kịch tài ba trong làng kịch nói Việt Nam đã mượn cốt truyện cổ tích để tái hiện

93

lại cảnh xưa với những nét mới mẻ độc đáo, để thể hiện triết lý sống cao đẹp của

mình. Chúng ta sẽ cùng đi tìm hiểu về đoạn trích “Hồn Trương Ba, da hàng thịt

của”Lưu Quang Vũ để thấy được những ý nghĩa mà ông thể hiện.

TIẾT 1:

Hình 3.1 Tranh học sinh tìm hiểu về tác giả Lƣu Quang Vũ

(Nguồn: học sinh lớp 12I – Trƣờng THPT Gia Lộc II làm)

Hoạt động của GV và HS Kiến thức cần đạt

I. Giới thiệu:

Hoạt động 1: GV hướng dẫn 1. Tác giả:

HS tìm hiểu về tác giả, tác -Lƣu Quang Vũ (1948- 1988) quê gốc ở Đà

Nẵng, sinh tại Phú Thọ trong một gia đình trí phẩm.

thức. Cha là nhà viết kịch Lƣu Quang Thuận. Thao tác 1: Tìm hiểu chung về

- Từ năm 1965 ông gia nhập quân ngũ, đến năm tác giả.

1970 ông xuất ngũ và làm đủ mọi nghề để mƣu

-GV hƣớng dẫn hs làm việc cá sinh .

nhân qua phiếu học tập số 1 - Từ năm 1978 ông làm biên tập viên tập chí sân

+ HS làm việc cá nhân rồi trình khấu và bắt đầu sáng tác kịch nói.

bày. - Ông mất vào ngày 29/8/1988 trong một tai nạn

+ GV chốt lại giao thông ở Hải Dƣơng.

GV giới thiệu: - Ông là một nghệ sĩ đa tài: làm thơ, vẽ tranh,

Với những vở kịch gây chấn viết truyện, viết tiểu luận,… và soạn kịch.

94

động dƣ luận: Lời nói dối cuối - Kịch là phần đóng góp đặc sắc nhất của Lƣu

cùng, Chết cho điều chưa có, Quang Vũ.

Hồn Trương Ba, da hàng  Lƣu Quang Vũ trở thành 1 hiện tƣợng đặc

thịt…, Kịch của ông phản biệt của sân khấu, kịch trƣờng những năm 80

ánh nhiều vấn đề nóng bỏng có của thế kỉ trƣớc, nhà sọan kịch tài năng nhất của

tính chất thời sự của đời sống nền văn học nghệ thuật hiện đại.

Đóng góp thiết thực vào công - Tác phẩm chính:

cuộc đấu tranh đổi mới đất nƣớc + Thơ: Hương cây (in chung 1968), Mây trắng

- GV: Em hãy kể tên các tác của đời tôi (1981), Tôi và chúng ta (1984), Ông

phẩm chính trong sự nghiệp vua hóa hổ (1985), Hoa cúc xanh trên đầm lầy

sáng tác của Lƣu Quang Vũ? (1987), Lời thề thứ 9 (1988),…

- HS: trả lời + Kịch: Sống mãi tuổi 17 (1979), Hồn Trương

GV: chốt ý. Ba, da hàng thịt (1981), Tôi và chúng ta (1984),

Ông vua hóa hổ (1985), Hoa cúc xanh trên đầm

lầy (1987), Lời thề thứ (1988)

=>Lƣu Quang Vũ đƣợc tặng giải thƣởng Hồ Chí Thao tác 2: Tìm hiểu chung về

Minh về văn học nghệ thuật năm 2000. vở kịch.

2. Tác phẩm:

-GV: Cung cấp hoàn cảnh sáng a) Xuất xứ:

tác của tác phẩm. - Viết 1981, đƣợc công diễn 1984

+ Hãy giới thiệu xuất xứ ? - Vở kịch đƣợc hƣ cấu 1 cách sáng tạo từ 1 cốt

+ HS giới thiệu truyện dân gian.

+ GV chốt lại Tác giả mƣợn truyện dân gian, nhƣng có nhiều

- Từ một cốt truyện dân gian, sáng tạo:

tác giả đã xây dựng thành một - Ở truyện dân gian Hồn Trƣơng Ba cứ việc

vở kịch nói hiện đại, đặt ra sống trong xác anh hàng thịt một cách bình

nhiều vấn đề mới mẻ có ý nghĩa thƣờng.

tƣ tƣởng, triết lí và nhân văn sâu - Ở tác phẩm Lƣu Quang Vũ có sự sáng tạo:

sắc. + Diễn tả tâm trạng trớ trêu, nỗi đau khổ dày vò

-GV hƣớng dẫn HS ôn lại kiến của Trƣơng Ba.

thức về kịch + Quyết định cuối cùng giàu tính nhân văn.

95

+ HS trả lời b) Thể loại: Kịch

+ GV chốt lại - Phản ánh cuộc sống bằng những khám phá,

phát hiện những mâu thuẫn xung đột trong đời

-GV hƣớng dẫn HS tóm tắt tác sống rồi diễn đạt bằng hành động và ngôn ngữ

phẩm đối thoại.

+ GV gọi HS tóm tắt vở kịch - Quá trình vận động của vở kịch gồm 4 giai

- GV Giới thiệu đoạn: Thắt nút phát triển cao trào mở nút

+ Khi nhập vào xác hàng thịt, c) Tóm tắt vở kịch: (Sau khi học sinh tóm tắt

Trƣơng Ba bắt đầu thay đổi giáo viên tổng kết và nhận xét)

tâm tính mọi ngƣời xa lánh, “Hồn Trƣơng Ba, da hàng thịt” là một vở kịch

bản thân đau khổ chấp nhận có nguồn gốc từ truyện cổ dân gian cùng tên,

cái chết để giải thoát. thuộc thể loại kịch nói, toàn vở kịch gồm 7 cảnh

+ Phần kết: Hồn Trƣơng Ba và phần kết:

nhập vào màu xanh cỏ cây trong - Cảnh 1: Nam Tào, Bắc Đẩu và Đế Thích trên

vƣờn, trò chuyện với vợ, cu Tị thiên đình.

và bé Gái. - Cảnh 2: Cảnh dƣới hạ giới, nhà Trƣơng Ba.

Tình huống kịch đẩy lên đến - Cảnh 3: Cảnh trên thiên đình.

mức cao nhất, xung đột kịch - Cảnh 4: Nhà ngƣời hàng thịt.

đến đỉnh điểm. - Cảnh 5: Nhà ngƣời hàng thịt.

- Cảnh6: Nhà ngƣời hàng thịt.

- Cảnh 7: Nhà Trƣơng Ba. - Thao tác 3: Tìm hiểu về

đoạn trich 3. Đoạn trích:

- Nêu vị trí đoạn trích? - Trích từ cảnh 7 và phần kết của vở kịch

- Tóm tắt đoạn trích - Thuộc phần cao trào và mở nút trong quá trình

vận động

* Hoạt động 2: Tìm hiểu và so 4. So sánh vở kịch “Hồn Trƣơng Ba, da hàng

sánh tích truyện dân gian cùng thịt” của Lƣu Quang Vũ với truyện cổ tích

tên với vở kịch “Hồn Trương cùng tên.

Ba da hàng thịt” của Lƣu * Khác nhau về cốt truyện:

Quang Vũ. - Số lƣợng sự kiện trong vở kịch nhiều hơn so

GV: Sau khi hƣớng dẫn học với truyện cổ tích .

96

sinh tìm hiểu xong phần tiểu - Các sự kiện trong vở kịch của Lƣu Quang Vũ

dẫn giáo viên cho học sinh cũng khác so với truyện cổ tích: Trƣơng Ba chết

thuyết trình thêm về sự khác là do sự tắc trách của Nam Tào, Bắc Đẩu. Sau

nhau giữa vở kịch “Hồn Trương khi sống lại trong thân xác anh hàng thịt, hồn

Ba, da hàng thịt” của Lƣu Trƣơng Ba rơi vào bi kịch và cuối cùng đã từ

Quang Vũ với truyện cổ tích chối sự sống do Đế Thích ban cho và chọn cái

cùng tên: chết vĩnh viễn để đƣợc là chính mình

“Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một

nẻo được. Tôi muốn là tôi toàn vẹn”.

GV: Chia 4 nhóm, sau đó * Khác nhau về nhân vật:

hƣớng dẫn học sinh so sánh (đã - Truyện cổ tích có 6 nhân vật, các nhân vật

giao về nhà đọc kịch “Hồn không có tính cách, tâm trạng mà chỉ có hành

Trương Ba, da hàng thịt” của động.

Lƣu Quang Vũ và tìm hiểu - Vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của

truyện cổ tích dân gian cùng tên Lƣu Quang Vũ có số lƣợng nhân vật đông đảo

sau khi kết thúc tiết học trƣớc) (17 nhân vật), bao gồm:

+ Nhóm 1: So sánh sự khác + Các nhân vật ở trên thƣợng giới: Nam Tào,

nhau về cốt truyện kịch “Hồn Bắc Đẩu, Đế Thích, bà Tây Vƣơng Mẫu.

Trương Ba, da hàng thịt” của + Các nhân vật trong gia đình Trƣơng Ba:

Lƣu Quang Vũ và tìm hiểu Trƣơng Ba, vợ Trƣơng Ba, con trai Trƣơng Ba,

truyện cổ tích dân gian cùng tên cô con dâu, cái Gái.

+ Các nhân vật hàng xóm: anh hàng thịt, vợ anh .

+ Nhóm 2: So sánh sự khác hàng thịt, cu Tị, mẹ cu Tị (chị Lụa), Trƣởng

nhau về hệ thống nhân vật trong Hoạt, lái lợn 1, lái lợn 2.

kịch “Hồn Trương Ba, da hàng + Các nhân vật đại con quan địa phƣơng: Lí

thịt” của Lƣu Quang Vũ và trƣởng, Trƣơng Tuần.

truyện cổ tích dân gian cùng tên Mỗi một nhân vật trong vở kịch của Lƣu Quang

Vũ đều có tên gọi riêng, có tính cách riêng, có .

+ Nhóm 3: So sánh sự khác địa vị xã hội rõ ràng. Nhân vật nào cũng hiện lên

nhau về chi tiết trong kịch “Hồn với từng động tác, hành vi, lời nó và tính cách

Trương Ba, da hàng thịt” của riêng của mình một cách rõ nét chứ không

97

Lƣu Quang Vũ và truyện cổ tích chung chung nhƣ trong truyện cổ tích.

dân gian cùng tên. * Khác nhau về chi tiết:

Nó về các chi tiết trong truyện cổ tích dân gian

+ Nhóm 4: So sánh sự khác so với vở kịch “ Hồn Trƣơng Ba, da hàng thịt”

nhau về nội dung tƣ tƣởng trong của Lƣu Quang Vũ thì truyện cổ tích dân gian ít

kịch “Hồn Trương Ba, da hàng chi tiết hơn : ví dụ chi tiết Trƣơng Ba chết là do

thịt” của Lƣu Quang Vũ và ốm, còn kịch Trƣơng Ba chết là do Nam Tào và

truyện cổ tích dân gian cùng Bắc Đẩu vì mải đi dự tiệc nên đã gạch bừa sổ

tên. thiên tào. Chính vì thế mà gạch nhầm tên

Trƣơng Ba đã bị chết oan. Trƣơng Ba trong

HS: làm việc theo nhóm ra truyện cổ tích dân gian sống lại trong thân xác

bảng phụ (giấy A0) trên lớp. hàng thịt thì vẫn chấp nhận và có cuộc sống yên

GV: sau khi học sinh trình bày ổn. Nhƣng Trƣơng Ba trong kịch của Lƣu

xong chốt lại vấn đề một cách Quang Vũ thì gặp rất nhiều phiền toái khổ đau

ngắn gọn. và xung đột vô cùng mạnh mẽ trong tâm hồn:

Hoạt động 3: Hướng dẫn HS chuyện hai bà vợ chèo kéo và hồn Trƣơng Ba

đọc hiểu văn bản cũng là đàn ông đâu thể làm ngơ trƣớc những

+ Có thể chia đoạn trích mấy cám dỗ của xác thịt, đặc biệt của cô vợ hàng thịt,

phần? ngƣời trẻ hơn và lúng liếng hơn, thêm nữa đứa

+ HS trả lời cháu không chịu nhận ông nội. Tệ hơn, ông còn

+ GV chốt lại có gã con trai lƣời lao động đồng áng, cục cằn,

Gọi HS đọc phần đối thoại học đòi phƣờng gian xảo, mải mê buôn gian bán

giữa hồn Trƣơng Ba và xác lận, móc ngoặc kiếm lời, lúc nào cũng mang

hàng thịt (phân vai đọc). chuyện kiếm tiền nuôi sống gia đình ra chạnh

- Học sinh 1: đọc những lời dẫn chọe hỗn xƣợc với bố. Xung quanh ông còn có

của tác giả tên lí trƣởng đồi bại, nhận của đút lót một cách

- Học sinh 2: Nhập vai hồn trắng trợn, tiếp tay cho gã Cả - Con trai của

Trƣơng Ba. Trƣơng Ba làm điều xấu. Lại nữa là những bậc

- Học sinh 3: Nhập vai xác hàng tiên thánh trên trời quan liêu, vô trách nhiệm, cố

thịt. tình lấp liếm lỗi lầm...

- Học sinh 4: Nhập vai vợ * Khác nhau về nội dung tư tưởng:

98

Trƣơng Ba. Vở kịch “ Hồn Trƣơn Ba, da hàng thịt” của Lƣu

- Học sinh 5: Nhập vai cái Gái. Quang Vũ là một vở kịch đa nghĩa, hàm chứa tƣ

- Học sinh 6: Nhập vai chị con tƣởng triết học, mang đậm tính nhân văn và ý

nghĩa phê phán sâu sắc. Qua các xung đột, mâu dâu

- Học sinh 7: Nhập vai Đế thuẫn giữa các nhân vật và trong nội tâm nhân

vật tác giả gửi gắm thông điệp về triết lý nhân Thích

- Trƣơng Ba: Giọng đau khổ sinh, về lẽ sống của con ngƣời.

- Hàng thịt: Giọng đắc thắng Truyện cổ tích chỉ đề cập đến vấn đề phần hồn

quan trọng hơn hay phần xác quan trong hơn * Chú ý:

- Lời dẫn tác giả: giọng đọc trong mỗi con ngƣời.

chậm rãi Truyện cổ tích chỉ đề cập đến vấn đề phần hồn

- Trƣơng Ba: giọng đau khổ quan trọng hơn phần xác trong mỗi con ngƣời.

- Hàng thịt: giọng đắc thắng II. Đọc hiểu văn bản:

*Áp dụng phƣơng pháp động não, đóng vai:

- Phân công nhiệm vụ: Chọn 2 học sinh đóng vai 2 nhân vật: Hồn Trƣơng

Ba – Xác hàng thịt (có sự chuẩn bị ở nhà), tái hiện một đoạn kịch nhỏ về màn

đối thoại giữa Hồn và Xác trên sân khấu.

* Áp dụng phƣơng pháp hoạt động nhóm: chia lớp làm 4 nhóm, có sự

chuẩn bị theo yêu cầu của GV:

Nhóm 1: Nhóm 2: Nhóm 3: Nhóm 4:

Lập bảng nhận xét Vẽ sơ đồ tƣ Lập bảng nhận xét Vẽ sơ đồ tƣ duy

cuộc đối thoại giữa duy miêu tả cuộc đối thoại giữa miêu tả diễn

hồn Trƣơng Ba và diễn biến hồn Trƣơng Ba và biến cuộc đối

xác hàng thịt ở các cuộc đối xác hàng thịt ở các thoại giữa Hồn

phƣơng diện: Mục thoại giữa phƣơng diện: Mục Trƣơng Ba và

đích, cử chỉ, xƣng Hồn Trƣơng đích, cử chỉ, xƣng ngƣời thân?

hô, giọng điệu, vị Ba và ngƣời hô, giọng điệu, vị

thế.? thân? thế.?

1. Màn đối thoại giữa hồn Trƣơng Ba với xác hàng thịt:

* Dựa trên phần thuyết trình của HS, GV chốt vấn đề: (trong quá trình

99

HS trình bày, GV có thể trình chiếu nội dung).

Phƣơng diện Hồn Trƣơng Ba Xác xác hàng thịt

Phủ định sự lệ thuộc của linh hồn Khẳng định sự âm u, đui

vào xác thịt, coi xác thịt chỉ là cái mù của thể xác có sức

vỏ bề ngoài, không có ý nghĩa. mạnh ghê gớm, có khả

Khẳng định linh hồn vẫn có đời năng điều khiển linh hồn Mục đích

sống riêng: nguyên vẹn trong cao khiết. Dồn Trƣơng Ba

sạch, thẳng thắn. vào thế đuối lí buộc phải

thỏa hiệp, quy phục.

Ôm đầu, đứng vụt dậy, Lắc đầu

nhìn chân tay, bịt tai lại Cử chỉ

 Uất ức, tức giận, bất lực  Tỏ vẻ thƣơng hại

Mày – Ta Ông – Tôi

 Khinh bỉ, xem thƣờng  Ngang hàng, thách thức Xƣng hô

Giận dữ, khinh bỉ, mắng mỏ, Ngạo nghễ thách thức, thì

đồng thời ngậm ngùi tuyệt vọng thầm ranh mãnh Giọng điệu

Bị động, kháng cự yếu ớt, đuối lí, Chủ động đặt nhiều câu

tuyệt vọng  Ngƣời thua cuộc, hỏi phản biện  Kẻ thắng Vị thế chấp nhận trở lại xác hàng thịt thế, buộc đƣợc hồn

Trƣơng Ba quy phục mình

* Khái quát, mở rộng: Hàm ý tác giả muốn gửi gắm qua đoạn đối thoại này?

* GV chốt: Là ẩn dụ về cuộc đấu tranh giữa tâm hồn và thể xác trong 1 con

ngƣời. Đó là tiếng nói của bản năng và những tác động ghê gớm vào linh hồn. Linh

hồn luôn đấu tranh để vƣợt lên những đòi hỏi không chính đáng của thể xác.

- Cảnh báo khi con ngƣời sống chung với dung tục, sẽ bị cái dung tục lấn át,

thắng thế và tàn phá những gì tốt đẹp cao quý trong con ngƣời.

* GV chuyển

Một tâm hồn tỉnh táo là tâm hồn phải luôn cảnh giác, phải luôn luôn đấu

100

tranh để vƣợt lên những đòi hỏi sai lạc của thể xác. Một triết lí đƣợc đƣa ra khi con

ngƣời sống chung dung tục sẽ bị dung tục lấn át. Làm thế nào để bảo vệ, hoàn thiện

nhân cách là 1 vấn đề lớn. Vậy nhân vật Trƣơng Ba sẽ tiếp tục cuộc đấu tranh của

mình nhƣ thế nào, chúng ta cùng tiếp tục tìm hiểu tiếp màn đối thoại giữa Hồn

Trƣơng Ba và những ngƣời thân.

TIẾT 2

2. Màn đối thoại giữa hồn Trƣơng Ba với ngƣời thân

* Nhóm 2,4 treo bảng vẽ sơ đồ tƣ duy và thuyết trình -> Gv chốt.

Nhóm 2: Đại diện nhóm 2 lên trình bày, các nhóm khác nhận xét, bổ sung.

Hình 3.2 Học sinh 12 I tìm hiểu về tác giả Lƣu Quang Vũ

(Nguồn: chụp tại lớp 12I – Trƣờng THPT Gia Lộc II – Hải Dƣơng)

Hình 3.3 Học sinh tìm hiểu về nhân vật Trƣơng Ba – kịch Lƣu Quang Vũ so

sánh với truyện cổ tích dân gian.

101

(Nguồn: học sinh lớp 12I – Trƣờng THPT Gia Lộc II vẽ)

Nhóm 4: Đại diện nhóm 4 lên trình bày, các nhóm khác nhận xét, bổ sung

NGƢỜI THÂN HỒN TRƢƠNG BA

MQH Phản ứng Nguyên nhân Tâm trạng Nguyên

nhân

Buồn bã đau khổ Nhận thấy sự Vẻ mặt: Thẫn thờ, Hiểu Vợ

muốn chết, có ý thay đổi của lặng ngắt nhƣ tảng những gì

định bỏ đi nhƣờng chồng và không đá. mình đã,

chồng cho cô vợ muốn sống cảnh - Cử chỉ: Tay ôm đang và sẽ

hàng thịt chồng chung đầu làm cho

- Điệu bộ: Run rẩy, ngƣời

lập cập. thân là rất Quyết liệt và dữ Tâm hồn tuổi thơ Cháu

- Giọng điệu: Nhẫn tệ hại mặc dội không nhận vốn trong sạch, gái

nhục, cầu cứu dù không ông nội không chấp nhận

hề muốn sự tầm thƣờng,

=> Vô cùng đau dung tục

đớn, bế tắc. Thông cảm, xót Thấu hiểu nhƣng Con

thƣơng. đau lòng nhận dâu

thấy bố ngày một

đổi khác

* Mở rộng: Hãy so sánh tâm trạng Trƣơng Ba ở màn đối thoại với xác hàng

thịt. Từ đó nêu suy nghĩ của em về sự phát triển của xung đột kịch ?

* So với màn đối thoại với xác hàng thịt

Màn đối thoại với xác hàng thịt Màn đối thoại với ngƣời thân

Đau khổ, bất lực khi bản thân phải Đau khổ đến tột cùng khi nhận thấy không

chịu sự điều khiển chỉ mình chịu khổ mà ngƣời thân cũng

chịu đau khổ. Thậm chí họ còn đau khổ

hơn lúc chôn ông xuống.

 Bi kịch đƣợc đẩy lên đến đỉnh điểm buộc nhân vật phải đứng trƣớc sự lựa chọn.

102

* Lời độc thoại nội tâm của Trƣơng Ba

- Những câu mang tính chất tự vấnBộc lộ 1 thái độ quyết liệt trong đấu

tranh

- Đi đến 1 quyết định dứt khoát là không chung sống với thể xác dung tục của

hàng thịt.

Đỉnh điểm của bi kịch là nhân vật không thỏa hiệp mà đấu tranh mạnh mẽ

quyết liệt

 Vẻ đẹp tâm hồn ngƣời lao động trong cuộc đấu tranh với cái dung tục để

hoàn thiện nhân cách.

* GV chuyển ý: Hồn quyết không khuất phục xác nữa. Giải pháp của hồn là

không cần cuộc sống do xác kia mang lại Thắp hƣơng gọi Đế Thích

3. Màn đối thoại giữa hồn Trƣơng Ba với Đế Thích:

- Thao tác 3: Hƣớng dẫn học sinh 3. Màn đối thoại giữa hồn Trƣơng Ba

tìm hiểu cuộc trò chuyện giữa hồn với Đế Thích:

Trƣơng Ba với Đế Thích a) Sự khác nhau trong quan niệm của

* Thảo luận theo cặp. Gv phát Trƣơng Ba và Đế Thích về ý nghĩa sự

phiếu học tập. sống:

- Hãy chỉ ra sự khác nhau trong quan - Đế Thích: Khuyên Trƣơng Ba chấp nhận

niệm của Trƣơng Ba và Đế Thích về vì thế giới không toàn vẹn  Cái nhìn

ý nghĩa sự sống? quan liêu hời hợt về cuộc sống con ngƣời

- Lời thoại nào của hồn Trƣơng Ba -Trƣơng Ba:

mà em cho là sự biến chuyển nhận + Không thể bên trong một đằng,... Tôi

thức của nhân vật và bộc lộ tƣ tƣởng muốn đƣợc là tôi toàn vẹn.

của tác giả? + Sống nhờ vào đồ đạc,..., nhƣng sống thế

- Ý nghĩa tƣ tƣởng gì? nào thì ông chẳng cần biết!

+ Đại diện nhóm trình bày  Vấn đề quyết định không phải là sống,

+ GV chốt lại mà là sống nhƣ thế nào! Điều này có ý

nghĩa

+ Tại sao khi đƣợc phép nhập vào xác Con ngƣời là 1 thể thống nhất, hồn xác

cu Tị ngây thơ, Trƣơng Ba từ chối ? phải hài hòa đồng thuận. Dù khiếm

Sự từ chối đó thể hiện điều gì trong khuyết về tinh thần hay thể xác cũng là 1

103

nhận thức, tính cách Trƣơng Ba? cuộc sống không trọn vẹn

+ HS trả lời cá nhân. Sống thiếu chân thực với mình là cuộc

+ GV chốt ý. sống vô nghĩa, bất hạnh.

+ Chi tiết cu Tị chết có ý nghĩa gì đối  Khát vọng hoàn thiện nhân cách của

với diễn biến vở kịch? Trƣơng Ba Tƣ tƣởng, ý nghĩa triết lí

+ HS trả lời của tác giả.

+ GV chốt lại: Chi tiết này có ý nghĩa b) Trƣơng Ba từ chối không nhập vào

đẩy diễn biến kịch đến chỗ mở nút xác cu Tị

buộc Trƣơng Ba phải giải quyết - Trƣơng Ba yêu thƣơng cu Tị

nhanh chóng, dứt khoát. Tác giả đã - Ông không chấp nhận tái diễn lại bi kịch

dựng tả quá trình đi đến quyết định đó sống trong thân xác ngƣời khác

1 cách tự nhiên thuyết phục và hợp lí.  Con ngƣời nhân hậu, sáng suốt, giàu

HS đọc giọng thanh thản ấm áp lòng tự trọng và có ý thức cao về ý nghĩa

cuộc sống Thao tác 4: Hƣớng dẫn HS tìm hiểu

màn kết: 4. Màn kết

+ Trong lời hồn Trƣơng Ba nói với - Cuộc sống lại tuần hoàn theo quy luật

vợ Tôi vẫn ở đây…, 2 lời của cái Gái muôn đời.

đã nói hộ tƣ tƣởng gì của tác giả? - Cái thiện, cái đẹp và sự sống đích thực

+ HS trả lời cá nhân đã chiến thắng.

+ GV chốt lại  Sự bất tử của con ngƣời nằm trong ý

nghĩa sự sống và sự hóa thân vào cuộc sống

Hoạt động 3: Hƣớng dẫn HS tổng xung quanh ta chứ không phải ở độ dài thời

kết, củng cố bài học gian.

+ Qua đoạn trích, em hãy trình bày III. Tổng kết:

những giá trị cơ bản của tác phẩm (ý 1. Ý nghĩa phê phán:

nghĩa phê phán, giá trị nhân văn) - Phê phán 2 quan niệm sống lệch.

- Phê phán lối sống giả tạo, làm con

+ Hãy nhận xét về nghệ thuật viết ngƣời có nguy cơ đánh mất mình.

kịch của Lƣu Quang Vũ?. - Phê phán những tiêu cực xã hội.

2. Giá trị nhân văn:

- Kêu gọi, đấu tranh cho sự hoàn thiện vẻ

104

đẹp nhân cách con ngƣời.

- Khẳng định: con ngƣời phải sống nhƣ

chính mình.

3. Giá trị nghệ thuật:

- Nghệ thuật dựng tình huống độc đáo,

xây dựng, dẫn dắt xung đột kịch hợp lí.

- Nghệ thuật dựng hành động kịch, dựng

đối thoại sinh động.

* Giới thiệu cho học sinh về một số hình ảnh khi liên kết văn bản "Hồn Trƣơng

Ba, da hàng thịt " của Lƣu Quang Vũ với các loại hình nghệ thuật khác .

Hình 3.4 Liên kết "Hồn Trƣơng Ba, da hàng thịt" của Lƣu Quang Vũ với nghệ

thuật múa rối.

105

(Nguồn: Ảnh Tuyết Loan - báo nhandan.com chụp)

Hình 3.5 Liên kết "Hồn Trƣơng Ba, da hàng thịt" của Lƣu Quang Vũ với nghệ

thuật kịch hình thể.

(Nguồn: Ảnh Tô Tuấn - tạp chí văn nghệ chụp)

* Vận dụng, liên hệ bản thân

- Phƣơng pháp trò chơi: Chia bảng làm hai phần nên và không nên, chia lớp

thành hai nhóm. Học sinh mỗi nhóm thay nhau lên bảng ghi ra những bài học nên

hay không nên trong cuộc sống mà mình rút ra từ đoạn trích “Hồn Trương Ba da

hàng thịt”của Lƣu Quang Vũ. Thời gian quy định là 3 phút. Sau đó, học sinh của

nhóm này nhận xét, đánh giá mức độ đúng sai, phù hợp của các bài học nhân sinh

của nhóm kia. GV là trọng tài đánh giá điểm số của mỗi nhóm để phân định thắng,

thua. Phần thƣởng có thể chỉ là một túi kẹo cho nhóm thắng.

– Những bài học các em có thể viết ra:

+ Không nên:

– Biến thành nô lệ của những ham muốn bản năng, tầm thƣờng để trở thành kẻ

phàm tục, thô thiển.

– Quá coi trọng đời sống tinh thần mà bỏ bê thân xác khổ sở, nhếch nhác.

– Khi vƣớng vào những hành động bẩn thỉu, không nên chỉ đổ lỗi cho thân xác

để ru ngủ mình trong giấc mộng tinh thần cao quý, siêu hình.

– Sống giả dối, “bên trong một đàng, bên ngoài một nẻo”

106

– Không nên sống bằng mọi giá

– Không nên sống nhờ, sống đậu, sống tầm gửi, lệ thuộc vào ngƣời khác để rồi

đánh mất mình

– Không nên sống vô trách nhiệm nhƣ Nam Tào, Bắc Đẩu

– Không nên sửa cái sai này bằng cái sai khác để gây ra bao rắc rối, khổ đau

cho con ngƣời

+ Nên:

– Sống hài hòa thống nhất giữa hồn và xác, giữa nhu cầu vật chất và tinh thần

– Sống có ý thức, biết kiềm chế “phần con” – bản năng sinh vật trong chính

mình để vƣơn lên hoàn thiện nhân cách.

– Chịu trách nhiệm trƣớc những việc làm tội lỗi, dung tục của chính mình.

– Sống trung thực, thẳng thắn, là chính mình

– Sống có ý nghĩa, nhân hậu, giàu đức hi sinh.

– Chấp nhận cái chết khi sự sống không còn ý nghĩa, nhất là khi sự sống của

mình gây khổ đau cho ngƣời khác.

– Qua hoạt động này giúp học sinh xác định đƣợc những giá trị cuộc sống, tự

nhận thức cho mình những bài học nhân sinh bổ ích.

*Hoạt động 4: Bài tập về nhà.

– Phƣơng pháp viết sáng tạo

– GV chia lớp thành ba nhóm

+ Nhóm 1: Nếu là Trƣơng Ba thì trong cuộc đối thoại với tiên Đế Thích, em sẽ

giải quyết vấn đề của mình nhƣ thế nào? Vì sao?

+ Nhóm 2: Viết đoạn kịch về cuộc đối thoại giữa hồn hàng thịt và xác Trƣơng

Ba.

+ Nhóm 3: Em hãy đặt mình vào nhân vật Trƣơng Ba để viết tiếp vở kịch

– Những bài viết sáng tạo này giúp học sinh có điều kiện trải nghiệm trong

những tình huống giả định, rèn luyện kĩ năng giải quyết vấn đề, ra quyết định, tự

nhận thức, tự đánh giá về bản thân để hoàn thiện nhân cách.

D. HƢỚNG DẪN HỌC BÀI VÀ CHUẨN BỊ BÀI.

107

- Chuẩn bị bài tuần 27

Tiểu kết chƣơng 3

Nhƣ vậy, qua thực tế áp dụng và lấy ý kiến từ đồng nghiệp, chúng tôi khẳng

định đƣợc tính khoa học và tính khả thi của việc dạy học đoạn trích “Hồn Trương

Ba, da hàng thịt” của Lƣu Quang Vũ (Ngữ văn 12, tập 2) theo hƣớng tiếp cận liên

văn. Sử dụng tốt các biện pháp đề xuất nhƣ áp dụng linh hoạt các PPDH và KTDH

tích cực, thực hiện các bƣớc lên lớp trong dạy học đoạn trích “Hồn Trương Ba, da

hàng thịt” của Lƣu Quang Vũ (Ngữ văn 12, tập 2) hoàn toàn đem lại hiệu quả cho

giờ học.

Giáo viên có thể vận dụng các biện pháp dạy học mà chúng tôi đề xuất ở trên

vào dạy học các tác phẩm kịch khác trong chƣơng trình THPT cũng nhƣ vào dạy

học Ngữ văn nói chung. Tuy nhiên, khi vận dụng cần căn cứ vào nội dung cụ thể để

đƣa ra những biện pháp hợp lí, khả thi, sự vận dụng cũng cần hết sức linh hoạt,

108

tránh khiên cƣỡng, gò ép.

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

1. Kết luận

Liên văn bản là một trong những khái niệm lý thuyết trọng yếu có tầm ảnh

hƣởng sâu xa trong hệ thống lý thuyết văn học thế giới suốt nửa sau thế kỷ XX và

những năm đầu thế kỷ XXI. Ở Việt Nam, trong giới nghiên cứu phê bình văn học

(và phần nào đó, trong các nhà trƣờng) nó mới đƣợc tiếp nhận và quảng bá trong

khoảng mƣời năm trở lại đây. Đối với giáo viên dạy Ngữ văn ở bậc THPT, không

nên xem Lý thuyết liên văn bản chỉ mang tính thời thƣợng, phong trào mà cần biết

tiếp cận, sử dụng nó nhƣ một phƣơng thức hiệu quả nhằm góp phần đổi mới phƣơng

pháp dạy học Ngữ văn, đặc biệt là dạy học đọc hiểu văn bản văn học.

Cho đến nay, việc vận dụng lý thuyết Liên văn bản trong dạy đọc hiểu văn

bản văn học ở trƣờng THPT hầu nhƣ còn ít đƣợc nghiên cứu, thể nghiệm trong các

nhà trƣờng. Trong luận văn này, chúng tôi muốn thông qua việc thuyết minh làm rõ

các khái niệm then chốt của Lý thuyết liên văn bản; phân tích khả năng, điều kiện và

ý nghĩa của việc vận dụng lý thuyết liên văn bản; tìm hiểu thực tế vận dụng lý thuyết

liên văn bản; nghiên cứu phạm vi, nội dung và phƣơng pháp vận dụng đồng thời tiến

hành thực nghiệm để khả năng vận dụng lý thuyết liên văn bản nhằm góp phần nâng

cao chất lƣợng dạy học đọc hiểu văn bản văn học ở trƣờng THPT. Bên cạnh đó, để

đọc hiểu một tác phẩm văn chƣơng, còn rất cần có một trái tim chân thành, đam mê,

nồng đƣợm. Chúng tôi mong rằng sẽ có nhiều công trình nghiên cứu triển khai trên

lĩnh vực này, ngõ hầu tiếp thêm nguồn lực mới cho việc dạy học Ngữ văn ở trƣờng

THPT thực sự thăng hoa.

Với mong muốn góp phần vào mục tiêu chung là đổi mới căn bản và toàn

diện nền giáo dục nhất là đổi mới phƣơng pháp dạy học và kiểm tra đánh giá nhằm

nâng cao chất lƣợng dạy và học, chúng tôi hi vọng luận văn này nhƣ một đóng góp

nhỏ bé và sự nghiệp giáo dục nói chung và môn Ngữ văn trong nhà trƣờng trung học

phổ thông nói riêng.

2. Khuyến nghị

Để đổi mới phƣơng pháp dạy học đƣợc thành công thì phải đổi mới đồng

bộ. Vấn đề này rất lớn và phức tạp, song trƣớc mắt lên chú ý đổi mới những vấn đề

109

liên quan trực tiếp tới việc dạy và học:

Trước hết là đổi mới chương trình Sách giáo khoa vì chƣơng trình mà sách

giáo khoa hiện nay thiên về tính "hàn lâm" mà chƣa thực sự coi trọng thực hành.

Coi trọng từng phần từ phân môn song lại không đồng bộ dẫn đến sự vênh lệch

không cần thiết giữa lý thuyết và thực hành rất khó trong quá trình dạy và học.

Thứ hai là đổi mới cách ra đề thi và yêu cầu thi. Cái đích của ngƣời học lệ

thuộc vào "con đƣờng thoát thân" của họ. Nếu yêu cầu thì chỉ cần "thuộc, nhớ"

hoặc kỹ năng tối thiểu, ít tính sáng tạo dẫn đến phƣơng pháp học tƣơng ứng. Ngƣời

thầy có ý thức đổi mới mà vẫn phải dạy theo phƣơng pháp luyện thi "thầy đọc

chép, trò nghe chép". Cách ra đề thi phải phát huy đƣợc tính sáng tạo của học sinh,

các em có quyền bày tỏ chính kiến, quan điểm và cách nhìn cách cảm về nội dung

yêu cầu của đề.

Thứ ba là nên đề cao vai trò của nhà trường, của tổ nhóm chuyên môn.

Thành bại trong đổi mới Phƣơng pháp dạy học diễn ra ở nhà trƣờng, nên nhà

trƣờng, tổ nhóm chuyên môn phải đầu tƣ thoả đáng cho đổi mới phƣơng pháp dạy

học bằng những hành động cụ thể.Tổ chức nhiều hơn nữa các buổi hội thảo, ngoại

khóa về chuyên chuyên môn, phƣơng pháp dạy học và kiểm tra đánh giá các trƣờng

để giáo viên có điều kiện giao lƣu học hỏi kinh nghiệm. Khuyến khích động viên kịp

thời các trƣờng, các tổ chuyên môn, các thầy cô tích cực trong việc đổi mới phƣơng

pháp giảng dạy và kiểm tra đánh giá.

Đặc biệt coi trọng tài nghệ của người thầy. Tài nghệ của giáo viên trong công

tác giảng dạy cũng cần thiết không kém bất cứ một lĩnh vực sáng tạo nào khác. Vì

vậy giờ học cần phát huy đƣợc tính tích cực của cả hai chủ thể: ngƣời dạy tích cực,

ngƣời học chủ động. Học sinh cần nhận thức đƣợc vai trò và tầm quan trọng của

môn Ngữ văn. Nếu ngƣời giáo viên khéo léo phát huy tính tích cực, chủ động sáng

tạo của học sinh thì con ngƣời đang chịu tác động của giáo dục sẽ trở thành chủ thể

của giáo dục, họ sẽ chịu trách nhiệm về sự phát triển của bản thân, xã hội và lịch sử. Đổi

mới kiểm tra, đánh giá phải chuyển biến mạnh theo hƣớng phát triển trí thông minh

sáng tạo của học sinh, khuyến khích vận dụng linh hoạt các kiến thức kĩ năng đã

học vào những tình huống thực tế, học sinh đƣợc hoạt động nhiều hơn, thực hành

nhiều hơn, thảo luận nhiều hơn và quan trọng là đƣợc suy nghĩ nhiều hơn trên con

110

đƣờng chiếm lĩnh nội dung học tập.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. M. Bakhtin (2003), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết (Phạm Vĩnh Cƣ dịch). Nxb

Hội nhà văn, Hà Nội.

2. M. Bakhtin (1993). Những vấn đề thi pháp tiểu thuyết Doxtoiepxki. Nxb Giáo

dục, Hà Nội.

3. Lê Hy Bắc (2013), Liên văn bản (intertext) trong đàn ghita của Lorca,

http://vannghequandoi.com.vn

4. Nguyễn Đổng Chi (1972), Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, Nxb Khoa

học xã hội. Hà Nội.

5. Phan Huy Dũng, "Đàn ghita của Lorca" của Thanh Thảo dưới góc nhìn liên

văn bản, Tạp chí nghiên cứu văn học, số12

6. Phan Huy Dũng (2013), Về việc vận dụng lý thuyết liên văn bản vào dạy học

ngữ văn ở trường phổ thông, Lý thuyết phê bình văn học hiện đại (Tiếp nhận

& ứng dụng), Nxb Đại học Vinh.

7. Nguyễn Văn Đƣờng (2009), Thiết kế bài giảng Ngữ văn 12, tập 2, Nxb Hà

Nội.

8. Nguyễn Thị Ngọc Hà (2010), Phương pháp dạy học kịch bản văn học trong

trường Trung học phổ thông theo đặc trưng loại thể, luận văn th.s Sƣ phạm

Ngữ Văn, Đại học giáo dục- ĐHQGHN. Hà Nội.

9. Nguyễn Thị Hoa (2014), Vận dụng kỹ thuật liên văn bản trong dạy học đọc

hiểu văn bản văn học ở trường THPT, Luận văn thạc sĩ trƣờng Đại học Vinh

10. Trần Bá Hoành (2007), Đổi mới phương pháp dạy học, chương trình và sách

giáo khoa, Nxb Đại học Sƣ phạm. Hà Nội.

11. Nguyễn Nhật Huy (2013), Vận dụng lý thuyết liên văn bản vào dạy học các

tác phẩm thơ mới trong chương trình Ngữ văn 11 trung học phổ thông

12. Nguyễn Thanh Hùng (2000), Hiểu văn dạy văn, Nxb Giáo dục.Hà Nội.

13. Nguyễn Thanh Hùng (2002), Đọc và tiếp nhận văn chương, Nxb Giáo dục.

111

Hà Nội.

14. Nguyễn Thanh Hùng (chủ biên) - Lê Thị Diệu Hoa (2007), Phương pháp

dạy học Ngữ văn trung học phổ thông - Những vấn đề cập nhật, Nxb Đại học

Sƣ phạm. Hà Nội.

15. Nguyễn Thanh Hùng (2008), Đọc - hiểu tác phẩm văn chương trong nhà

trường phổ thông, NXB Giáo dục. Hà Nội.

16. Nguyễn Thanh Hùng (2012), "Yếu tố liên văn bản trong tiểu thuyết lịch sử

Giàn thiêu của Võ Thị Hảo", Tạp chí khoa học, Đại học Huế, (7)

17. N. M. Iacoplev (1976), Phương pháp và kỹ thuật lên lớp ở nhà trường phổ

thông, Nxb Giáo dục. Hà Nội.

18. I.P Ilin và E.A Tzurganova (2003), Các khái niệm và thuật ngữ của trường

phái nghiên cứu văn học ở Tây Âu và Hoa Kỳ thế kỷ XX, do Đào Tuấn Ảnh,

Trần Hồng Vân, Lại Nguyên Ân dịch, Nxb Đại học Quốc Gia Hà Nội.

19. Nguyễn Thị Ly Kha (2008), Ngữ pháp văn bản và luyện tập làm văn, Nxb

Giáo dục. Hà Nội.

20. F. Kharlamôp (1978), Phát huy tính tích cực học tập của học sinh như thế

nào, Nxb Giáo dục. Hà Nội.

21. G.Koshikov (2017) , Văn bản - liên văn bản - lý thuyết liên văn bản (in trong

Lý luận văn học - những vấn dề hiện đại), Lã Nguyên dịch,Nxb Đại học Sƣ

phạm, Hà Nội, tr355-391

22. Nguyễn Kỳ (1995), Phương pháp giáo dục tích cực, lấy người học làm trung

tâm, Nxb Giáo dục. Hà Nội.

23. Nguyễn Kỳ (1996), Mô hình dạy học tích cực, lấy người học làm trung tâm,

Nxb Trƣờng Cán bộ quản lý giáo dục I. Hà Nội.

24. Phan Trọng Luận (1998), Thiết kế bài học tác phẩm văn chương ở nhà

trường phổ thông, tập 2, Nxb Giáo dục. Hà Nội

25. Phan Trọng Luận (1999), Đổi mới giờ học tác phẩm văn chương ở trường

trung học phổ thông, Nxb Giáo dục. Hà Nội.

26. Phan Trọng Luận (2003), Văn chương - bạn đọc sáng tạo, Nxb Đại học

112

Quốc gia Hà Nội. Hà Nội.

27. - Phan Trọng Luận (2009), Thiết kế bài học Ngữ văn 12, tập 2, Nxb Giáo

dục. Hà Nội

28. Đặng Lƣu (2013), Liên văn bản và nghiên cứu phê bình văn học ở Việt Nam,

Nxb Đại học Vinh.

29. Robert J. Marzano (2011), Nghệ thuật và khoa học dạy học, Nxb Giáo dục

Việt Nam.

30. Robert J. Marzano, Debra J. Pickering - Jane E. Pollock (2011), Các

phương pháp dạy học hiệu quả, Nxb Giáo dục Việt Nam.

31. Lê Trƣờng Phát (chủ biên, 2012), Đọc - hiểu tác phẩm văn học dân gian

trong trường phổ thông, Nxb Giáo dục Việt Nam.

32. Nguyễn Minh Quân (2001), Liên văn bản - sự triển hạn đến vô cùng của tác

phẩm văn học, http://www.tienve.org

33. Nguyễn Hƣng Quốc (2005), "Văn bản và liên văn bản",

http://www.tienve.org

34. L.P.Rjanskaya (2007), "Liên văn bản - sự xuất hiện của khái niệm về lịch sử

và lý thuyết của vấn đề, Nghiên cứu văn học (11),

Http:www.vienvanhoc.org.vn/

35. James H. Stronge (2011), Những phẩm chất của người giáo viên hiệu quả,

Nxb Giáo dục Việt Nam.

36. Trần Đình Sử (2001), Đọc văn học văn, Nxb Giáo dục. Hà Nội.

37. Đỗ Ngọc Thống (2006), Tìm hiểu chương trình và sách giáo khoa Ngữ văn

Trung học phổ thông, Nxb Giáo dục. Hà Nội.

38. Lý Hoài Thu- Lƣu Khánh Thơ (tuyển chọn) (1994), Lưu Quang Vũ tài

năng và lao động nghệ thuật, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

39. Lý Hoài Thu (2009), Hồn Trương Ba, da hàng thịt nơi kết thúc cổ tích là

bắt đầu xung đột kịch, Tạp chí văn học số 3/2010

40. Nguyễn Văn Thuấn (2013), Liên văn bản trong sáng tác Nguyễn Huy Thiệp,

Luận án Tiến sĩ, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Học viện Khoa học

xã hội

41. Phạm Toàn (2000), Công nghệ dạy văn, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội

113

42. Nguyễn Văn Tùng (2000), Tác phẩm văn học trong nhà trường những vấn

đề trao đổi, Tập 1, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

43. Nguyễn Văn Tùng (2000), Tác phẩm văn học trong nhà trường những vấn

đề trao đổi, Tập 2, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

Tài liệu tiếng Anh:

(1981), The Pursuit of Signs: Semiotics, Literature,

44. Plett, H. (1991), Intertextuality: Research in Text Theory. Berlin: de Gruyter, pp. 1-4. 45. Kristeva, J. (1980), Desire in Language: A Semiotic Approach to Literature and Art. New York: Columbia University Press, pp. 66-9. 46. Culler, J. Deconstruction. London: Routledge & Kegan Paul, p. 105. 47. Coward, R. & Ellis, J. (1977), Language and Materialism: Developments in Semiology and the Theory of the Subject. London: Rouledge & Kegan Paul, p. 52. 48. Sturrock, J. (1986), Structuralism. London: Paladin, p. 87. 49. Goldschmidt, E.P. (1943), Mediaeval Texts and Their First Appearance in Print. Oxford: Oxford University Press, p. 88. 50. Barthe, R. (1977), Image-Music-Text. London: Fontana, p. 143. 51. Wimsatt, W.K. & Beardsley, M.C. (1954), The Verbal Icon: Studies in the Meaning of Poetry. Lexington, K.Y: University of Kentuckey Press. 52. Michael de Montaigne (1580), Of the Art of Conferring, Essay III, 8, translated by Charles Cotton. 53. Barthe, R. (1977), sđd, p. 146. 54. Barthe, R. (1968), “The Death of the Author” in trong Image-Music-Text, sđd. 148. 55. R. Barthes.- S/Z. - M.: Ad Marginem, (1994), tr. 14-15. 56. Jameson, Fredric (1984) “Postmodernism, or The Cultural Logic of Late Capitalism,” New Left Review, no. 146, 53-92. 57. Eagleton, T. (1983), Literary Theory: An Introduction. Oxford: Basil Blackwell, p. 12. 58. Foucault, M. (1974), The Archaeology of Knowledge. London: Tavistock, p. 23. Tài liệu internet:

59. http://luutrutailieuhoctap.wordpress.com

114

60. http://lyluanvanhoc.com

61. http://phebinhvanhoc.com.vn

62. http://www.tienve.org

63. http://trandinhsu.wordpress.com

115

64. http://www.vanhocviet.org

PHỤ LỤC

Phụ lục 1 (Dành cho học sinh)

Phiếu khảo sát thực trạng dạy và học đoạn trích “Hồn Trƣơng Ba, da hàng

thịt” của Lƣu Quang Vũ (Ngữ văn 12, tập 2)

Trƣờng............................................................................................................

Họ và tên ............................................................... Lớp.................................

Em hãy đánh dấu vào những câu trả lời mình cho là đúng

1. Em có hứng thú với giờ học văn hay không?

Có Không Bình thƣờng

2. Trong giờ học văn, giáo viên có liên hệ so sánh bài học với các văn bản

khác hay không?

Thƣờng xuyên Thỉnh thoảng Không bao giờ

3. Em có thích đọc và học các tác phẩm kịch không?

Rất thích Bình thƣờng Không thích

4. Ấn tƣợng chung của em sau khi học các tác phẩm kịch?

Thích thú Chán nản Không thích học

Cảm thấy khó hiểu Không ấn tƣợng gì

5. Sau khi học xong tác phẩm “Hồn Trƣơng Ba, da hàng thịt” của Lƣu Quang Vũ em

cảm thấy thế nào?

Khát khao sống mãnh liệt Thích thú Không cảm thấy gì

Ý kiến khác

.. ……………

..

116

Xin chân thành cảm ơn em!

Phụ lục 2 ( Dành cho giáo viên)

Phiếu khảo sát thực trạng dạy và học đoạn trích “Hồn Trƣơng Ba, da hàng

thịt” của Lƣu Quang Vũ” (Ngữ văn 12, tập 2)

Họ và tên giáo viên.............................................................................................

Trƣờng ...............................................................................................................

Xin thầy cô vui lòng đánh dấu vào câu trả lời mình cho là đúng

1. Khi phân tích đoạn trích “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của Lƣu Quang Vũ, thầy

cô thƣờng sử dụng phƣơng pháp nào là chủ yếu?

Đọc diễn cảm Giảng bình

Phân tích Đàm thoại và thảo luận

2. Khi giảng dạy các tác kịch “Hồn Trương ba, da hàng thịt” của Lƣu Quang Vũ,

Thầy (cô) cảm thấy thế nào

Khó – không thích dạy

Hay – Rất thích dạy

Bình thƣờng

3. Khi dạy đoạn trích “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của Lƣu Quang Vũ” hoạt

động nào của học sinh là chủ đạo?

Đọc văn bản và trả lời các câu hỏi trong sách giáo khoa

Thảo luận nhóm theo nội dung bài học

Lắng nghe giáo viên giảng, ghi bảng rồi chép lại

Ý kiến khác

...........................................................................................................................

..............................................................................................................................

..............................................................................................................................

..............................................................................................................................

117

..............................................................................................................................

4. Hƣớng tiếp cận nào thầy (cô) thƣờng sử dụng khi dạy học đoạn trích “Hồn

Trương Ba, da hàng thịt” của Lƣu Quang Vũ?

Tiếp cận từ nghệ thuật đến nội dung trong văn bản

Tiếp cận từ nội dung đến nghệ thuật của văn bản

Kết hợp các hƣớng tiếp cận khác nhau

Tiếp cận liên văn bản, liên môn.

Ý kiến khác................................................................................................

..............................................................................................................................

5. Tìm hiểu đoạn trích “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của Lƣu Quang Vũ theo hƣớng

liên văn bản có cần thiết hay không trong quá trình đổi mới PPDH?

Cần thiết

118

Không cần thiết

Phụ lục 3 ( Dành cho giáo viên)

Phiếu hỏi ý kiến giáo viên sau giờ dạy thực nghiệm

Họ và tên giáo viên dự giờ..................................................................................

Họ và tên giáo viên dạy.....................................................................................

Môn dạy..............................................................Trình độ...................................

Tên bài dạy....................................................................................................... Lớp

dạy.................................tiết thứ..............ngày ........tháng ......năm..............

Xin thầy (cô) đóng góp ý kiến cho ngƣời dạy về những vấn đề sau

1. Phƣơng pháp và phƣơng tiện dạy học

Tốt Khá Trung bình

2. Nội dung kiến thức cần đạt của giờ học

Đảm bảo Chƣa đảm bảo Sâu sắc

3. Cấu trúc và tiến trình của giờ học

Chƣa hợp lý Hợp lý

4. Thái độ học tập của học sinh

Tích cực, chủ động, sôi nổi Thiếu tích cực, chƣa chủ động

5. Đánh giá chung về giờ học

Khá Trung bình Tốt

119

Xin chân thành cảm ơn thầy (cô)!

Phụ lục 4 (Đề kiểm tra 45 phút)

Đề bài: Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu bên dƣới:

HỒN TRƢƠNG BA, DA HÀNG THỊT

(Trích)

“…Hồn Trƣơng Ba (một mình): Mày đã thắng thế rồi đấy, cái thân xác không phải

của ta ạ, mày đã tìm đƣợc đủ mọi cách để lấn át ta…(sau một lát). Nhƣng lẽ nào ta

lại chịu thua mày, khuất phục mày và tự đánh mất mình? “Chẳng còn cách nào

khác”! Mày nói nhƣ thế hả? Nhƣng có thật là không còn cách nào khác? Không cần

đến cái đời sống do mày mang lại! Không cần!

(Đứng dậy, lập cập nhưng quả quyết, đến bên cột nhà, lấy một nén hương châm

lửa, thắp lên. Đế Thích xuất hiện.

Đế Thích: Ông Trƣơng Ba ! (thấy vẻ nhợt nhạt của Hồn Trương Ba) Ông có ốm

đau gì không? Một tuần nay tôi bị canh giữ chặt quá, không xuống đánh cờ với ông

đƣợc, nhƣng ông đốt hƣơng gọi, tôi đoán là ông có chuyện khẩn, tôi liều mạng

xuống ngay. Có việc gì thế?

Hồn Trƣơng Ba: (sau một lát) Ông Đế Thích ạ, tôi không thể tiếp tục mang thân anh

hàng thịt đƣợc nữa, không thể đƣợc!

Đế Thích: Sao thế? Có gì không ổn đâu!

Hồn Trƣơng Ba: Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo đƣợc. Tôi muốn

đƣợc là tôi toàn vẹn.

Đế Thích: Thế ông ngỡ tất cả mọi ngƣời đều đƣợc là mình toàn vẹn cả ƣ? Ngay cả

tôi đây. Ở bên ngoài, tôi đâu có đƣợc sống theo những điều tôi nghĩ bên trong. Mà

cả Ngọc Hoàng nữa, chính ngƣời lắm khi cũng phải khuôn ép mình cho xứng với

danh vị Ngọc Hoàng. Dƣới đất, trên trời đều thế cả, nữa là ông. Ông đã bị gạch tên

khỏi sổ Nam Tào. Thân thể thật của ông đã tan rữa trong bùn đất, còn chút hình thù

gì đâu ông!

Hồn Trƣơng Ba: Sống nhờ vào đồ đạc, của cải của ngƣời khác đã là chuyện không

nên, đằng này đến cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn

giản là cho sống, nhƣng sống nhƣ thế nào thì ông chẳng cần biết!

120

Đế Thích: (không hiểu) Nhƣng mà ông muốn gì?

Hồn Trƣơng Ba: Ông từng nói : Nếu thân thể ngƣời chết còn nguyên vẹn, ông có

thể làm cho hồn ngƣời đó trở về. Thì đây, (chỉ vào người mình) thân thể anh hàng

thịt còn lành lặn nguyên xi đây, tôi trả lại cho anh ta. Ông hãy làm cho hồn anh ta

đƣợc sống lại với thân xác này.

Đế Thích: Sao lại có thể đổi tâm hồn đáng quý của bác lấy chỗ cho cái phần hồn

tầm thƣờng của anh hàng thịt?

Hồn Trƣơng Ba: Tầm thƣờng, nhƣng đúng là của anh ta, sẽ sống hòa thuận đƣợc

với thân anh ta, chúng sinh ra là để sống với nhau. Vả lại, còn …còn chị vợ anh ta

nữa…chị ta thật đáng thƣơng!

Đế Thích: Nhƣng thế hồn ông muốn trú vào đâu?

Hồn Trƣơng Ba: Ở đâu cũng đƣợc, chứ không ở đây nữa. Nếu ông không giúp, tôi

sẽ..tôi sẽ…nhảy xuống sông hay đâm một nhát dao vào cổ, lúc đó thì hồn tôi chẳng

còn, xác anh hàng thịt cũng mất….”

(Lưu Quang Vũ, SGK Ngữ văn 12, tập 2, Nxb GD 2008)

1. CÂU HỎI:

Câu 1 : Câu nói: “Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi

muốn được là tôi toàn vẹn” của hồn Trƣơng Ba có ý nghĩa gì?

A. Con ngƣời phải có khát vọng sống và lý tƣởng sống

B. Con ngƣời phải có cuộc sống đầy đủ về vật chất và tinh thần

C. Con ngƣời phải là một thể thống nhất hài hòa giữa hồn và xác

D. Con ngƣời phải có sự thống nhất giữa hành động và suy nghĩ

Câu 2: Qua cuộc đối thoại của hồn Trƣơng Ba với Đế Thích, tác giả Lƣu Quang Vũ

đã gửi gắm những quan niệm của mình về điều gì?

A. Cái chết

B. Hạnh phúc

C. Lẽ sống

D. Cả A, B, C

Câu 3: Câu nói: “Sống nhờ vào đồ đạc, của cải của người khác đã là chuyện

không nên, đằng này đến cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ

121

nghĩ đơn giản là cho sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết …” của

hồn Trƣơng Ba nói với Đế Thích đã khiến ngƣời đọc có liên tƣởng đến những cách

sống nào của con ngƣời trong xã hội?

Câu 4: Câu nói trên của hồn Trƣơng Ba với Đế Thích đã thể hiện ý thức sâu sắc của

ông về vấn đề sống và cách sống sao cho không vô nghĩa . Em có suy nghĩ gì về vấn

đề này trong thời đại ngày nay?

2. HƢỚNG DẪN CHẤM:

Câu 1:

Mục đích của câu hỏi nhằm đánh giá khả năng khái quát thông tin của câu nói trong

văn bản.

Mức đầy đủ

Mã 1: Phƣơng án C

Mức không tính điểm

Mã 0: Các phƣơng án khác

Mã 9: Không trả lời

Câu 2:

Mục đích của câu hỏi nhằm đánh giá khả năng đọc hiểu văn bản.

Mức đầy đủ

Mã 2: Phƣơng án D

Mức không đầy đủ

Mã 1: Nêu đƣợc 1 trong các phƣơng án A, B, C.

Mức không tính điểm

Mã 0: Có câu trả lời khác

Mã 9: KhôngMức đầy đủ

Mã 2: HS nêu đƣợc đầy đủ cách sống của con ngƣời trong xã hội: sống dựa dẫm

vào ngƣời khác; sống không đúng, không thật với chính mình; sống mất cân bằng

giữa vật chất và tinh thần; sống có ý nghĩa….

Mức không đầy đủ

Mã 1: Nêu đƣợc 1 trong các ý trên hoặc nêu đƣợc các ý nhƣng chƣa đầy đủ.

Mức không tính điểm

Mã 0: Có câu trả lời khác

122

Mã 9: Không trả

Câu 3

Mục đích của câu hỏi nhằm đánh giá khả năng liên tƣởng, vận dụng những kiến

thức đã học từ văn bản vào đời sống.

Mức đầy đủ

Mã 2: HS nêu đƣợc đầy đủ cách sống của con ngƣời trong xã hội: sống dựa dẫm

vào ngƣời khác; sống không đúng, không thật với chính mình; sống mất cân bằng

giữa vật chất và tinh thần; sống có ý nghĩa….

Mức không đầy đủ

Mã 1: Nêu đƣợc 1 trong các ý trên hoặc nêu đƣợc các ý nhƣng chƣa đầy đủ.

Mức không tính điểm

Mã 0: Có câu trả lời khác

Mã 9: Không trả ời.

Câu 4: Mục đích của câu hỏi nhằm đánh giá khả năng thể hiện cảm nhận của HS

về ý nghĩa triết lí sâu xa của câu nói trong văn bản.

Mức đầy đủ

Mã 3: HS trình bày đƣợc những ý sau:

Tạo lập đƣợc đoạn văn, đảm bảo logic về ý.

Thể hiện đƣợc cảm nhận của cá nhân về ý nghĩa của câu nói: sống cần phải

chân thật, sống là chính mình, không sống thừa, sống dựa dẫm …thì cuộc sống

mới có ý nghĩa, mới có giá trị….

Diễn đạt sáng rõ, đúng chính tả.

Mức không đầy đủ

Mã 2: Viết đƣợc đoạn văn, trình bày đƣợc một số ý, nhƣng chƣa thật đầy đủ, sâu

sắc.

Mã 1: Chỉ viết đƣợc 1 vài câu, ý sơ sài.

Mức không tính điểm

Mã 0: Viết sai lạc nội dung.

123

Mã 9: Không trả lời