intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN: Một số giải pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu chè ở Tổng Công ty chè Việt Nam

Chia sẻ: Nguyen Loan | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:100

111
lượt xem
19
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Xuất phát từ tình hình đổi mới của nền kinh tế thế giới, với những kinh nghiệm thực tiễn và bài học của nhiều nước trên thế giới. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã đề ra 3 chương trình mục tiêu lớn: “ Lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu”. Khẳng định vị trí hàng đầu của ngành nông nghiệp nước ta trong vài thập kỷ tới. Tiếp đến Đại hội VIII và IX lại khẳng định lại một lần nữa 3 chương trình kinh tế trên trong đó nông lâm nghiệp...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN: Một số giải pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu chè ở Tổng Công ty chè Việt Nam

  1. LUẬN VĂN: Một số giải pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu chè ở Tổng Công ty chè Việt Nam
  2. Lời nói đầu Xuất phát từ tình hình đổi mới của nền kinh tế thế giới, với những kinh nghiệm thực tiễn và bài học của nhiều nước trên thế giới. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã đề ra 3 chương trình mục tiêu lớn: “ Lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu”. Khẳng định vị trí hàng đầu của ngành nông nghiệp nước ta trong vài thập kỷ tới. Tiếp đến Đại hội VIII và IX lại khẳng định lại một lần nữa 3 chương trình kinh tế trên trong đó nông lâm nghiệp phải phát triển sản xuất hàng hoá theo hướng thị trường gắn với công nghiệp chế biến đáp ứng nhu cầu trong nước, đẩy mạnh xuất khẩu, phát huy lợi thế so sánh, bảo vệ tài nguyên môi trường… Trong số 10 mặt hàng nông sản, sản xuất xuất khẩu thì chè đang có xu hướng ngày càng gia tăng. Cây chè được trồng nhiều ở các tỉnh miền núi phía bắc và Lâm Đồng. Sản xuất chè trong nhiều năm qua đã phần nào đáp ứng được nhu cầu về chè uống trong nước, đồng thời còn xuất khẩu đạt kim ngạch hàng chục triệu USD mỗi năm. Tuy có những thời điểm giá chè giảm làm cho đời sống của những người trồng chè gặp không ít khó khăn nhưng nhìn tổng thể thì cây chè vẫn giữ vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, góp phần tạo việc làm, tăng thu nhập cho một bộ phận đáng kể nhân dân vùng trung du, miền núi, vùng cao, vùng xa và góp phần bảo vệ môi trường sinh thái. Vì vậy việc sản xuất và chế biến chè xuất khẩu là một hướng quan trọng nhằm thúc đẩy tốc độ tăng trưởng của nông nghiệp và kinh tế nông thôn nước ta. Việt Nam là một quốc gia có nhiều lợi thế để phát triển cây chè hơn các nước khác, chúng ta có điều kiện về khí hậu, thổ nhưỡng thích hợp cho cây chè phát triển, có nguồn lao động dồi dào trong nông nghiệp và thị trường tiêu thụ tiềm tàng trong và ngoài nước. Tuy nhiên lượng chè xuất khẩu còn rất hạn chế chỉ chiếm 2% tổng sản lượng xuất khẩu của toàn thế giới. Vì vậy, để ngành chè Việt Nam nói chung và Tổng Công ty chè Việt Nam nói riêng có được những bước phát triển mới trong việc xuất khẩu chè ra thị trường Thế giới đó là một vấn đề hết sức cấp thiết.
  3. Thực tế trong những năm vừa qua mặc dù đã có sự cố gắng nỗ lực trong việc giải quyết vấn đề xuất khẩu chè, nhưng Tổng Công ty vẫn đang gặp không ít khó khăn, vướng mắc cần phải được giải quyết. Chính vì vậy, qua thời gian nghiên cứu lý luận, tôi mạnh dạn chọn đề tài: “Một số giải pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu chè ở Tổng Công ty chè Việt Nam ”. Mặc dù thời gian qua đã có những nhiều Đề tài khoa học, luận án, chuyên đề… nghiên cứu vấn đề này, nhưng chuyên đề này sẽ cố gắng phân tích một cách hệ thống các vấn đề xuất khẩu chè và đưa ra các giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu chè của Tổng Công ty Chè Việt Nam . Chuyên đề ngoài phần mở đầu và kết luận gồm ba chương: Chương I : Xuất khẩu và vai trò của hoạt động xuất khẩu chè đối với doanh nghiệp sản xuất kinh doanh chè. Chương II : Phân tích thực trạng hoạt động xuất khẩu chè ở Tổng Công ty chè Việt Nam . Chương III: Phương hướng và giải pháp chủ yếu đẩy mạnh xuất khẩu chè trong thời gian tới. Do hạn chế về thời gian cũng như trình độ, nội dung chuyên đề chắc còn nhiều thiếu sót, nhiều vấn đề tiếp tục phải nghiên cứu và trao đổi, tôi mong muốn nhận được các ý kiến đóng góp. Tôi xin chân thành cảm ơn ! Hà Nội, tháng 9 năm 2002. Nguyễn Nam Hưng
  4. Chương I xuất khẩu và vai trò của hoạt động xuất khẩu chè đối với doanh nghiệp sản xuất kinh doanh chè I. Khái niệm xuất khẩu và vai trò của nó đối với doanh nghiệp sản xuất kinh doanh chè 1. Khái niệm về xuất khẩu Thương mại quốc tế nói chung và xuất khẩu nói riêng là quá trình trao đổi hàng hoá giữa các nước thông qua mua bán nhằm mục đích tối đa hoá lợi nhuận. Trao đổi hàng hoá là một hình thức của các mối quan hệ kinh tế xã hội và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau giữa những người sản xuất kinh doanh hàng hoá riêng biệt của các quốc gia. Xuất khẩu là lĩnh vực quan trọng nhằm tạo điều kiện cho các nước tham gia vào phân công lao động quốc tế, phát triển kinh tế và làm giàu cho đất nước. Ngày nay, xuất khẩu không chỉ mang ý nghĩa đơn thuần là buôn bán mà là sự phụ thuộc tất yếu giữa các quốc gia vào phân công lao động quốc tế. Vì vậy phải coi trọng xuất khẩu cũng như xem thương mại quốc tế như một tiền đề, một nhân tố phát triển kinh tế trong nước, trên cơ sở lựa chọn một cách tối ưu sự phân công lao động và chuyên môn hoá quốc tế. Xuất khẩu là một bộ phận của hoạt động ngoại thương trong đó hàng hoá và dịch vụ được bán, cung cấp cho nước ngoài nhằm thu ngoại tệ. Đây là hoạt động kinh doanh buôn bán trên phạm vi quốc tế, nó không chỉ là một hành vi buôn bán đơn lẻ mà là cả một hệ thống các quan hệ mua bán phức tạp có tổ chức bên trong và bên
  5. ngoài nhằm mục đích lợi nhuận, thúc đẩy hàng hoá sản xuất phát triển, chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế, ổn định và nâng cao mức sống của nhân dân. Mặt khác hoạt động này dễ đem lại hiệu quả đột biến nhưng có thể lại gây ra thiệt hại lớn vì nó phải đối đầu với một hệ thông kinh tế khác từ bên ngoài mà các chủ thể trong nước tham gia xuất khẩu không dễ dàng khống chế được. Hoạt động xuất khẩu được diễn ra trong mọi lĩnh vực, mọi điều kiện kinh tế, từ xuất khẩu hàng hoá tiêu dùng đến xuất khẩu tư liệu sản xuất, từ máy móc thiết bị cho đến các máy móc công nghệ kỹ thuật cao, từ hàng hoá hữu hình đến hàng hoá vô hình. Tất cả đều nhằm mục tiêu đem lại lại lợi ích cho các quốc gia tham gia. Hoạt động này diễn ra trong phạm vi rất rộng cả về không gian và thời gian. Nó có thể diễn ra trong một ngày hay kéo dài hàng năm; có thể diễn ra trên phạm vi lãnh thổ của một hay nhiều quốc gia khác nhau. Nếu xét dưới góc độ các hình thức kinh doanh quốc tế thì xuất khẩu là hình thức cơ bản đầu tiên mà các doanh nghiệp áp dụng khi bước vào lĩnh vực kinh doanh quốc tế. Mọi Công ty luôn hướng tới xuất khẩu những sản phẩm và dịch vụ của mình ra nước ngoài. Do vậy mà xuất khẩu được xem như chiến lược kinh doanh quan trọng của các Công ty. Có nhiều nguyên nhân khuyến khích các Công ty thực hiện xuất khẩu trong đó có thể là: + Sử dụng khả năng vượt trội (hoặc những lợi thế) của Công ty. + Giảm được chi phí cho một đơn vị sản phẩm do nâng cao khối lượng sản xuất. + Nâng cao được lợi nhuận của Công ty. + Giảm được rủi ro do tối thiểu hoá sự dao động của nhu cầu. Khi một thị trường chưa bị hạn chế bởi thuế quan, hạn ngạch, các quy định về tiêu chuẩn kỹ thuật hay năng lực của các tổ chức kinh doanh quốc tế chưa đủ thực hiện các hình thức cao hơn thì hình thức xuất khẩu được chọn vì ở xuất khẩu lượng vốn ít hơn, rủi ro thấp hơn và thu được hiệu quả kinh tế cao trong thời gian ngắn.
  6. Đối với các doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất khẩu trước khi bước vào nghiên cứu thực hiện các nghiệp vụ phải nắm bắt được các thông tin về nhu cầu hàng hoá, thị hiếu, tập quán tiêu dùng, khả năng mở rộng sản xuất, giá cả và xu hướng biến động của nó. Những điều này phải luôn trở thành nếp thường xuyên trong tư duy của mỗi nhà kinh doanh xuất khẩu, để có thể nắm bắt được các cơ hội kinh doanh trong Thương mại Quốc tế. Như vậy, hoạt động xuất khẩu phát triển chắc chắn sẽ góp phần to lớn trong sự đi lên của đất nước, hội nhập cùng vào nền kinh tế thế giới. Để có thể hiểu rõ hơn về hoạt động xuất khẩu, ta có thể tham khảo một số tư tưởng của các trường phái sau 2. Các lý thuyết về hoạt động xuất khẩu 2.1. Lý thuyết của trường phái trọng thương Lý thuyết trọng thương là nền tảng cho các tư duy kinh tế vào khoảng những năm 1450 đến năm 1650. Lý thuyết này cho rằng sự phồn vinh của một quốc gia được đo bằng bằng lượng tài sản mà quốc gia đó cất giữ và thường được tính bằng vàng. Theo lý thuyết này chính phủ nên xuất khẩu nhiều hơn nhập khẩu và nếu thành công họ sẽ nhận được giá trị thặng dư mậu dịch tính theo vàng từ các nước khác. Để một nước có thể thặng dư mậu dịch thì: + Thặng dư (mậu dịch) thương mại phải được thực hiện bởi các Công ty buôn bán độc quyền của Nhà nước, hoạt động nhập khẩu bị hạn chế và hoạt động xuất khẩu được trợ cấp. + Các cường quốc thực dân luôn cố tìm cách đạt được thặng dư mậu dịch với các thuộc địa của họ. Họ coi đây như là một phương tiện khác để có thu nhập. Đồng thời để thực hiện điều này không chỉ bằng cách giữ độc quyền thương mại thực dân mà còn ngăn cản các nước thuộc địa sản xuất. Do đó mà các nước thuộc địa phải xuất khẩu nguyên liệu thô, với giá trị kém hơn nhưng lại nhập khẩu những sản phẩm có giá trị cao.
  7. Lý thuyết trọng thương mang lại lợi ích cho các cường quốc thực dân, vì thế chính sách ngoại thương của trường phái này theo hướng: - Giá trị xuất khẩu càng nhiều càng tốt, nghĩa là không những số lượng hàng hoá xuất khẩu phải nhiều mà còn phải ưu tiên xuất khẩu những hàng hoá có giá trị cao. Đồng thời đánh giá thấp việc xuất khẩu nguyên liệu và cố sử dụng nguyên liệu để sản xuất trong nưóc rồi đem xuất khẩu sản phẩm. - Giữ nhập khẩu ở mức độ tối thiểu, giành ưu tiên cho nhập khẩu nguyên liệu, hạn chế hoặc cấm nhập khẩu thành phẩm nhất là hàng xa xỉ. - Khuyến khích chở hàng hoá bằng tàu của nước mình vì như vậy vừa bán được hàng và tận dụng được cả những món lợi nhuận khác như: cước vận tải, phí bảo hiểm... ảnh hưởng của lý thuyết trọng thương đã bị mờ nhạt đi sau năm 1650. Lúc này các cường quốc thực dân thường hạn chế sự phát triển công nghiệp của các nước thuộc địa của họ, nhưng các thủ đoạn hợp pháp vẫn buộc chặt quan hệ thương mại của các nước thuộc địa với chính quốc. Tuy nhiên quan điểm “Nội thương là hệ thống ống dẫn, ngoại thương là máy bơm. Muốn tăng của cải phải có ngoại thương nhập dẫn của cải qua nội thương”, cho đến nay vẫn luôn được các quốc gia khai thác và phát triển một cách tối ưu nhất. 2.2. Lý thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam Smith Khác với trường phái trọng thương, AdamSmith cho rằng: “ Sự giàu có của mỗi quốc gia phụ thuộc vào số hàng hoá và dịch vụ có sẵn hơn là phụ thuộc vào vàng”. Theo Adam Smith, nếu thương mại không bị hạn chế theo nguyên tắc phân công thì các quốc gia có lợi ích từ thương mại quốc tế - nghĩa là mỗi quốc gia có lợi thế về mặt điều kiện tự nhiên hay do trình độ sản xuất phát triển cao sẽ sản xuất ra những sản phẩm mà mình có lợi thế với chi phí thấp hơn so với các nước khác. Ông phê phán sự phi lý của lý thuyết trọng thương và chứng minh rằng: mậu dịch sẽ giúp cả hai bên đều gia tăng tài sản. Theo ông, nếu mỗi quốc gia đều chuyên môn hoá vào những ngành sản xuất
  8. mà họ có lợi thế tuyệt đối, thì họ có thể sản xuất được những sản phẩm có chi phí thấp hơn so với nước khác để xuất khẩu, đồng thời lại nhập khẩu những hàng hoá mà nước này không sản xuất được hoặc sản xuất được nhưng có chi phí cao hơn giá nhập khẩu. Nhờ sự chuyên môn hoá các nước có thể gia tăng hiệu quả của mình bởi vì người lao động sẽ lành nghề hơn do công việc được lặp lại nhiều lần, họ không mất thời gian trong việc chuyển sản xuất sản phẩm này sang sản phẩm khác, do làm một công việc lâu dài nên người lao động sẽ có nhiều kinh nghiệm, các sáng kiến và các phương pháp làm việc tốt hơn. Mặc dù Adam Smith cho rằng, thị trường chính là nơi quyết định nhưng ông vẫn nghĩ lợi thế của một nước có thể là do lợi thế tự nhiên hay do nỗ lực cả nước đó. Lợi thế tự nhiên liên quan đến các điều kiện tự nhiên và khí hậu. Lợi thế do nỗ lực là lợi thế có thể có được do sự phát triển của kỹ thuật và sự lành nghề. Ngày nay người ta thường buôn bán, trao đổi các loại hàng hoá đã được sản xuất công phu hơn là các nông phẩm hay tài nguyên thiên nhiên nguyên khai thác hoặc sản phẩm thô. Quá trình sản xuất ra loại hàng hoá này phần lớn phụ thuộc vào lợi thế do nỗ lực, thường là kỹ thuật chế biến và khả năng sản xuất các loại sản phẩm khác biệt với những sản phẩm khác. Lợi thế tuyệt đối so sánh số lượng của một loại sản phẩm được sản xuất ra ở hai nước khác nhau với cùng một điều kiện sản xuất. Giả sử Việt Nam có lợi thế tuyệt đối so với Hàn Quốc về sản xuất gạo trong khi đó Hàn Quốc có lợi thế tuyệt đối về sản xuất vải. Đó là lợi thế tuyệt đối tương hỗ, trong trường hợp nếu mỗi nước chuyên môn hoá loại sản phẩm mà nước đó có lợi thế tuyệt đối thì tổng sản phẩm của cả hai nước có thể tăng lên. 2.3. Lý thuyết lợi thế so sánh của David Ricardo Theo lý thuyết này, nếu một quốc gia có hiệu quả thấp hơn so với các quốc gia khác trong việc sản xuất tất cả các loại sản phẩm thì quốc gia đó vẫn có thể tham gia vào thương mại quốc tế để tạo ra lợi ích. Nói cách khác trong điểm bất lợi vẫn có những điểm thuận lợi để khai thác khi tham gia vào hoạt động xuất khẩu, những quốc gia có hiệu quả thấp trong việc sản xuất ra các loại hàng hoá sẽ có thể chuyên môn
  9. hoá sản xuất hàng hoá ít bất lợi nhất để trao đổi với các quốc gia khác và nhập về những hàng hoá mà việc sản xuất ra nó gặp rất nhiều khó khăn và bất lợi. Từ đó tiết kiệm được nguồn lực của mình và thúc đẩy sản xuất trong nước. Ta có thể giải thích rõ điều này thông qua ví dụ sau: Giả sử 2 quốc gia Việt Nam và Mỹ có năng lực sản xuất vải và máy tính như sau: Quốc Gia Mỹ Việt Nam Mặt hàng Vải ( m/ 1 giờ công ) 4 2 Máy tính (cái/ giờ công) 6 1 Ta thấy cả hai quốc gia đều sản xuất hai mặt hàng vải và máy tính. Tuy nhiên nếu phân tích cụ thể thì ta sẽ thấy năng suất lao động của ngành chế tạo máy tính của Mỹ gấp 6 lần của Việt Nam trong khi đó ngành dệt chỉ gấp 2 lần. Như vậy, giữa chế tạo máy tính và sản xuất vải thì Mĩ có lợi thế tương đối trong việc sản xuất máy tính còn Việt Nam có lợi thế tương đối trong việc sản xuất vải. Theo quy luật của lợi thế so sánh hai quốc gia sẽ cùng có lợi nếu mỗi quốc gia chuyên môn hoá sản xuất loại sản phẩm mình có lợi thế so sánh hơn sau đó tiến hành trao đổi một phần sản phẩm cho nhau. Giả sử tỉ lệ trao đổi là 6 máy tính lấy 6 m vải thì Mỹ vẫn có lợi 2 m vải tức là đã tiết kiệm được 1/2 giờ công còn Việt Nam tiết kiệm được 3 giờ công do có lợi 3 máy tính. Như vậy qua ví dụ trên ta thấy được lợi ích của việc trao đổi sản phẩm giữa các quốc gia thông qua việc xuất nhập khẩu hàng hoá. Sự chuyên môn hoá sản xuất những sản phẩm mà mình có lợi thế để xuất khẩu và nhập khẩu những sản phẩm bất lợi hơn sẽ
  10. giúp cho việc sử dụng tốt nhất, hiệu quả nhất nguồn lực của mỗi nước. Bên cạnh đó còn làm tăng sản lượng và chất lượng sản phẩm, tạo điều kiện mở rộng khả năng tiêu dùng của mỗi quốc gia. Vì vậy đây chính là tính tất yếu của việc mở rộng hoạt động xuất nhập khẩu này. 3. Vai trò hoạt động xuất khẩu chè 3.1. Đối với nền kinh tế quốc dân nói chung Với xu thế ngày nay, trong sự khắc nghiệt của nền kinh tế thị trường và nền kinh tế Thế giới đã khẳng định: Một đất nước có được thiên nhiên ưu đãi đến đâu đi nữa, nhưng nếu không hội nhập vào thương mại quốc tế, thì nền kinh tế tự cung tự cấp đó sẽ bị kiệt quệ, yếu kém, không tài nào có thể vực dậy được, không theo kịp được xu hướng phát triển của nền kinh tế quốc tế và sẽ bị tụt hậu. Vì thế ở Đại hội VI Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta đã nhận thức một cách sâu sắc là: Chỉ có mở rộng ngoại thương, hội nhập thương mại quốc tế mới cho phép chúng ta đánh giá đúng khả năng trình độ, sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam. Vì vậy xuất khẩu đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân và hoạt động xuất khẩu chè cũng là sự đóng góp không nhỏ góp phần vào hoạt động xuất khẩu Việt Nam . - Xuất khẩu chè tạo nguồn vốn không nhỏ cho nhập khẩu thiết bị, công nghệ... phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đối với mọi quốc gia đang phát triển thì bước đi thích hợp nhất là phải công nghiệp hoá, hiện đại hoá để khắc phục tình trạng nghèo nàn, lạc hậu chậm phát triển. Tuy nhiên, quá trình công nghiệp hoá đòi hỏi phải có một số lượng vốn rất lớn để nhập khẩu máy móc thiết bị, công nghệ tiên tiến. Thực tế cho thấy, để có nguồn vốn nhập khẩu, một nước có thể sử dụng nguồn vốn huy động chính như sau: + Đầu tư nước ngoài, vay nợ các nguồn viện trợ. + Thu từ các hoạt động du lich, dịch vụ thu ngoại tệ trong nước. + Thu từ xuất khẩu.
  11. Tầm quan trọng của vốn đầu tư nước ngoài thì không ai có thể phủ nhận được, song việc huy động chúng không phải dễ dàng. Sử dụng nguồn vốn này, các nước đi vay thường phải chịu thiệt thòi, phải chịu các o ép và sẽ phải trả những khoản nợ sau sau này. Thực tế trong những năm vừa qua xuất khẩu chè của Việt Nam đã mang lại hàng chục triệu USD cho quốc gia. Một phần của lượng tiền này được đầu tư vào quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, phần còn lại được đầu tư tiếp cho quá trình tái sản xuất chè. Bởi vậy, xuất khẩu là nguồn vốn quan trọng nhất. Xuất khẩu tạo tiền đề cho nhập khẩu, quyết định đến quy mô, tốc độ tăng trưởng của hoạt động nhập khẩu. ở một số nước, một trong những nguyên nhân chủ yếu của tình trạng kém phát triển là do thiếu tiềm năng về vốn do đó nguồn vốn từ bên ngoài được coi là nguồn chủ yếu, song mọi cơ hội đầu tư vay nợ và viện trợ của nước ngoài chỉ thuận lợi khi chủ đầu tư và người cho vay thấy được khả năng sản xuất và xuất khẩu - nguồn vốn duy nhất để trả nợ thành hiện thực. - Xuất khẩu chè thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Dưới tác động của xuất khẩu, cơ cấu sản xuất và tiêu dùng của thế giới đã, đang và sẽ thay đổi mạnh mẽ. Xuất khẩu làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các quốc gia từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ. Có hai cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Thứ nhất, chỉ xuất khẩu những sản phẩm thừa so với nhu cầu tiêu dùng nội địa. Trong trường hợp nền kinh tế còn lạc hậu và chậm phát triển sản xuất về cơ bản chưa đủ tiêu dùng, nếu chỉ thụ động chờ ở sự thừa ra của sản xuất thì xuất khẩu chỉ bó hẹp trong một phạm vi nhỏ và tăng trưởng chậm, do đó các ngành sản xuất không có cơ hội phát triển. Thực tế trong những năm vừa qua thì số lượng chè sản xuất ra trong nước đã phần nào đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong nước, ngoài ra còn khoảng 27% sản lượng sản xuất để phục vụ cho xuất khẩu. Thứ hai, coi thị trường thế giới là mục tiêu để tổ chức sản xuất và xuất khẩu. Quan điểm này tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất, thể hiện:
  12. + Xuất khẩu chè tạo điều kiện cho các ngành cùng có cơ hội phát triển. Chẳng hạn, khi sản xuất chè xuất khẩu phát triển thì nó cần rất nhiều sự hỗ trợ của các ngành khác như : công nghiệp chế tạo máy móc, công nghiệp điện, giao thông vận tải… và nó cũng đỏi hỏi chính sự phát triển của các ngành này + Xuất khẩu chè tạo điều kiện mở rộng thị trường sản phẩm chè, góp phần ổn định sản xuất, tạo ra lợi thế kinh tế nhờ quy mô. + Xuất khẩu chè tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất chè, tăng thêm về nguồn nguyên liệu cho sản xuất và chế biến, mở rộng khả năng tiêu dùng của một quốc gia. Ngoại thương cho phép một nước có thể tiêu dùng tất cả các mặt hàng với số lượng lớn hơn nhiều lần giới hạn sản xuất của quốc gia đó. + Xuất khẩu chè còn có vai trò thúc đẩy chuyên môn hoá, tăng cường hiệu quả sản xuất chè của Việt Nam trên thị trường thế giới. Nó cho phép chuyên môn hoá sản xuất chè phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu. Ngày nay đối với việc sản xuất những sản phẩm công nghệ cao thì : mỗi một loại sản phẩm người ta nghiên cứu thử nghiệm ở nước thứ nhất, chế tạo ở nước thứ hai, lắp ráp ở nước thứ ba, tiêu thụ ở nước thứ tư và thanh toán thực hiện ở nước thứ năm. Như vậy, hàng hoá sản xuất ra ở một nước và tiêu thụ ở nhiều nước khác nhau cho thấy tác động ngược trở lại của hoạt động xuất khẩu đối với việc chuyên môn hoá sản xuất, tạo điều kiện cho chuyên môn hoá sâu. Đối với việc sản xuất chè xuất khẩu ở Việt Nam để được thị trường thế giới chấp nhận thì đòi hỏi cần có một sự chuyên môn hoá không về mặt sản xuất mà còn có chuyên môn hoá về thương mại cho sản phẩm chè. Với đặc điểm quan trọng là tiền tệ được sử dụng làm phương tiện thanh toán, xuất khẩu chè cũng góp một phần làm tăng dự trữ ngoại tệ của Việt Nam. Đặc biệt là đối với Việt Nam một nước đang phát triển, đồng tiền không có khả năng chuyển đổi thì ngoại tệ có được nhờ xuất khẩu đóng vai trò quan trọng trong việc điều hoà về cung cầu ngoại tệ, ổn định sản xuất, qua đó góp phần vào tăng trưởng và phát triển kinh tế.
  13. - Xuất khẩu chè có tác động tích cực tới việc giải quyết công ăn việc làm, xoá đói giảm nghèo cải thiện đời sống nhân dân tại các vùng đặc biệt là người lao động ở trung du, miền núi Những năm gần đây với việc triển khai giao đất và khoán vườn chè cho người lao động theo nghị định 01 - CP của chính phủ cùng với những giải pháp của ngành chè Việt Nam để giải quyết đủ việc làm cho cán bộ công nhân viên, cùng với cơ chế và phương thức mua chè thuận lợi cho người lao động đã tạo động lực khuyến khích người lao động phấn khởi chủ động đầu tư thâm canh vườn chè để đạt năng suất và chất lượng cao, ở trung du và miền núi người dân có tập quán trồng lúa nương, sẫn …Với thu nhập lúa nương trung bình 2-3 triệu/ha, còn trồng 1 ha chè trên vùng đồi núi khô cằn thu được 10-12 triệu /ha, sau khi đã trừ đi các chi phí đầu tư ban đầu 1 ha chè thu hoạch được bằng 3-4 lần lúa nương. Nhờ vậy đời sống người làm chè được cải thiện rõ rệt. Thu nhập bình quân toàn ngành năm 1996 chỉ đạt 250.000 đồng/người/tháng, năm 1997 đã tăng lên 350.000đồng /người /tháng, năm 1998 là 400.000 đồng /người /tháng, năm 1999 đã đạt năm 500.000 đồng /người/ tháng, năm 2000 là 550.000 đồng /người /tháng. Trong sản xuất nông nghiệp thu nhập bình quân năm 1997 đạt 400-500 nghìn đồng / người/tháng, năm 1998 là 500-600 nghìn đồng /người/ tháng, cho đến năm 1999 đã đạt 700-800 nghìn đồng /người/ tháng, năm 2000 đạt 850-900 nghìn đồng/người/tháng. Một số đơn vị sản xuất chè có thu nhập rất cao như :Trần Phú, Nghĩa Lộ, Yên Bái, Phú Sơn, Mộc Châu. Để tăng thêm thu nhập cải thiện người làm chè, các hộ làm chè đã kết hợp làm kinh tế gia đình theo mô hình VAC gắn liền kinh tế vườn nhà, vườn đồi, đem lại nguồn thu nhập đáng kể góp phần quan trọng để ổn định đời sống nhất là những khi việc sản xuất kinh doanh của xí nghiệp gặp khó khăn. Nhiều gia đình ở Công ty chè Sông Cầu, Phú Sơn, Trần Phú , …đạt mức thu nhập kinh tế gia đình (VAC) từ 18- 223 triệu đồng /năm/hộ , đặc biệt là Công ty chè Mộc Châu vùng đặc sản cây mơ, cây mận có giá trị kinh tế cao hàng năm có tới 30-40% số hộ gia đình có thu nhập từ cây mơ, cây mận đạt từ 12-18 triệu đồng/ năm, có gia đình thu nhập đạt 40-50 triệu đồng /năm .Nhờ có thu nhập từ các cây trồng khác và làm kinh tế phụ đã giúp cho
  14. cây chè phát triển ổn định, lâu dài và tạo thành một vùng sản xuất hàng hoá lớn. Do sản xuất và kinh doanh có hiệu quả mà đời sống vật chất và văn hoá của người làm chè được nâng lên. Theo báo cáo năm 1999 của Tổng Công ty chè thì có khoảng 30% hộ khá, giàu, 55% số hộ trung bình và số hộ nghèo đói là 15%, cho đến năm 2000 con số này lần lượt là 33% , 60%, 7%. Đây là dấu hiệu tích cực đối với ngành chè và người lao động. - Xuất khẩu chè là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy sự phát triển các mối quan hệ kinh tế đối ngoại. Xuất khẩu và các mối quan hệ kinh tế đối ngoại có mối tác động qua lại phụ thuộc lẫn nhau. Hoạt động xuất khẩu chè là một loại hoạt động chủ yếu cơ bản và là hình thức ban đầu của hoạt động kinh tế đối ngoại, từ đó nó thúc đẩy các mối quan hệ khác phát triển theo như du lịch quốc tế, bảo hiểm quốc tế, tín dụng quốc tế... Ngược lại, sự phát triển của các ngành này lại là những điều kiện tiền đề cho hoạt động xuất khẩu phát triển. Xuất khẩu nói riêng và ngoại thương nói chung dẫn tới sự thay đổi của những loại hàng hoá có thể tiêu dùng được trong nền kinh tế bằng hai cách: + Cho phép khối lượng hàng tiêu dùng khác với số hàng hoá được sản xuất ra. + Cho phép một sự thay đổi có lợi cho phù hợp với các đặc điểm của sản xuất. + Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của từng quốc gia mà các tác động của xuất khẩu đối với các quốc gia này không giống nhau. - Xuất khẩu chè góp một phần tăng GDP, GNP. Thật vậy, năm 1998 sản lượng chè búp của Việt Nam đạt 53 ngàn tấn, xuất khẩu 33,5 ngàn tấn, thu về 48,9 triệu USD, năm 1999 sản lượng thu được là 56 ngàn tấn, xuất khẩu 31,8 ngàn tấn và thu về 43 triệu USD, năm 2000 xuất khẩu 34,6 ngàn tấn, thu về 48,65 triệu USD, năm 2001 xuất khẩu 35 ngàn tấn và thu về 50 triệu USD 3.2. Đối với doanh nghiệp sản xuất kinh doanh chè Ngày nay, xu hướng vươn ra thị trường nước ngoài là một xu hướng chung của tất cả các quốc gia và các doanh nghiệp, việc xuất khẩu chè đã mang mang lại cho doanh nghiệp sản xuất chè rất nhiều lợi ích cụ thể là:
  15. - Thông qua xuất khẩu, các doanh nghiệp sản xuất chè trong nước có cơ hội tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường chè thế giới về giá cả và chất lượng chè. Những yếu tố đó đòi hỏi các doanh nghiệp chè phải hình thành một cơ cấu sản xuất của mình phù hợp với thị trường thế giới. Do đó đòi hỏi doanh nghiệp tự nâng cao năng lực và trình độ sản xuất của mình để tạo ra những sản phẩm chè có chất lượng cao, phù hợp với nhu cầu của từng thị trường. - Xuất khẩu tạo điều kiện cho doanh nghiệp sản xuất chè mở rộng thị trường, mở rộng quan hệ kinh doanh với các bạn hàng trong nước và nước ngoài, trên cơ sở hai bên cùng có lợi, tăng doanh số và lợi nhuận, đồng thời phân tán và chia sẻ rủi ro, mất mát trong hoạt động kinh doanh, tăng cường uy tín kinh doanh của doanh nghiệp. - Xuất khẩu buộc các doanh nghiệp chè phải luôn đổi mới và hoàn thiện công tác quản trị kinh doanh, luôn tìm tòi và đưa ra mô hình sản xuất, chế biến, tổ chức, tiêu thụ sao cho có hiệu quả nhất. Thêm vào đó hoạt động xuất khẩu còn khuyến khích sự phát triển các mạng lưới kinh doanh của doanh nghiệp chè chẳng hạn như hoạt động đầu tư nghiên cứu và phát triển, các hoạt động sản xuất, marketing và sự phân phối, sự mở rộng trong việc cấp giấy phép xuất nhập khẩu các mặt hàng khác. - Sản xuất chè xuất khẩu giúp doanh nghiệp thu hút được nhiều lao động, tạo ra thu nhập ổn định, tạo ra ngoại tệ để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng, các dây chuyền công nghệ có liên quan đến sản xuất và chế biến chè, vừa đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của nhân dân và thu được ngoại tệ để phục vụ cho qua trình tái đầu tư. - Doanh nghiệp tiến hành hoạt động xuất khẩu chè có cơ hội mở rộng quan hệ buôn bán kinh doanh với nhiều đối tác nước ngoài có thể thông qua đối tác tiêu thụ chè của mình mà doanh nghiệp có được những thông tin, nguồn sản phẩm mới, công nghệ mới mà ngay thị trường trong nước đang cần. Thông qua hoạt động xuất khẩu chè mà doanh nghiệp có điều kiện, cơ hội để liên doanh, liên kết hợp tác để sản xuất, tiêu thụ những loại sản phẩm mới ngay tại nước mình hoặc các nước khác. Ngoài ra việc xuất khẩu đưa mặt hàng chè ra thị trường quốc tế còn giúp ngành chè hiểu, xác định được mình nên chú trọng vào loại chè nào. Cần nâng cao chất
  16. lượng, đổi mới mẫu mã, bao bì và hạ giá thành cho phù hợp nhất với thị hiếu của thị trường quốc tế nhằm thu được lợi nhuận tối đa. II. Các hình thức xuất khẩu chè Với mục tiêu là đa dạng hoá các hình thức kinh doanh xuất khẩu, nhằm phân tán và chia sẻ rủi ro, từ trước tới nay các doanh nghiệp chè thường lựa chọn các hình thức xuất khẩu chủ yếu là: 1. Xuất khẩu trực tiếp Kinh doanh xuất khẩu chè trực tiếp là việc xuất khẩu các loại chè do chính doanh nghiệp sản xuất ra hoặc thu mua từ các đơn vị sản xuất trong nước sau đó xuất khẩu những mặt hàng này ra nước ngoài với danh nghĩa là hàng của doanh nghiệp mình. Đây là hình thức mà các doanh nghiệp ở Việt Nam thường áp dụng nhất kể từ khi nhà nước cho phép mọi doanh nghiệp đều được tham gia xuất khẩu. Các bước tiến hành một thương vụ xuất khẩu chè trực tiếp trong trường hợp doanh nghiệp không tự sản xuất ra chè để xuất khẩu. - Ký hợp đồng với các doanh nghiệp chế biến chè khác trong nước, mua hàng và trả tiền. - Ký hợp đồng xuất khẩu chè với các doanh nghiệp nước ngoài, giao hàng và thanh toán tiền . Hình thức này có ưu điểm là lợi nhuận mà đơn vị kinh doanh xuất khẩu chè thường cao hơn các hình thức khác. Doanh nghiệp đứng ra với vai trò là người bán trực tiếp, do đó nếu mặt hàng chè có quy cách, chất lượng, mẫu mã tốt sẽ nâng cao được uy tín cho doanh nghiệp mình trên thị trường, nhất là trong điều kiện hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Tuy nhiên, trước hết hình thức này đòi hỏi doanh nghiệp phải xuất khẩu phải có vốn khá lớn ứng trước để tự sản xuất, thu mua, chế biến mặt hàng chè xuất khẩu nhất là những hợp đồng có giá trị lớn. Đồng thời loại hình xuất khẩu này lại cũng có những rủi ro lớn như : chè kém chất lượng, sai quy cách phẩm chất, mẫu mã không đạt yêu cầu dẫn tới không xuất khẩu được, đặc biệt là đối với những loại chè mà doanh nghiệp thu mua để xuất khẩu thì tỷ lệ này rất cao, do
  17. công tác kiểm tra chất lượng chè khi thu mua kém, không chu đáo, làm việc thiếu chất lượng… hoặc là kiểm tra bị khiếu lại do thanh toán chậm, do doanh nghiệp chế biến gặp khó khăn, do thiên tai, mất mùa nên ký hợp đồng song không có hàng để xuất khẩu, hoặc do biến động của tỷ giá hối đoái hoặc do lãi xuất ngân hàng tăng…. 2. Xuất khẩu uỷ thác Trong hình thức xuất khẩu chè uỷ thác doanh nghiệp ngoại thương đóng vai trò là trung gian xuất khẩu làm thay cho các doanh nghiệp sản xuất chè những thủ tục xuất khẩu cần thiết để xuất khẩu chè được hưởng phần trăm(%) theo giá trị lô hàng xuất khẩu. Tỷ lệ phần trăm này là do hai bên tự thoả thuận và ký kết hợp đồng, thông thường là 0,5%giá trị. Hình thức này chỉ được áp dụng khi doanh nghiệp xuất khẩu một lượng hàng nhỏ hoặc trước kia doanh nghiệp không có giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp. Hình thức xuất khẩu uỷ thác được tiến hành theo các bước sau: - Ký hợp đồng nhận uỷ thác xuất khẩu chè cho doanh nghiệp chế biến trong nước. - Thay mặt ký hợp đồng với phía nước ngoài, làm thủ tục giao hàng và thanh toán tiền. - Về phần tìm kiếm doanh nghiệp nhập khẩu chè ở nước ngoài là do sự thoả thuận giữa doanh nghiệp chế biến chè và doanh nghiệp ngoại thương. - Nhận phí uỷ thác xuất khẩu chè từ doanh nghiệp chế biến trong nước. Ưu điểm của hình thức xuất khẩu này là mức độ rủi ro thấp do không phải chịu trách nhiệm về giá cả tăng hay giảm bất thường, người đứng ra xuất khẩu chè không phải là người chịu trách nhiệm cuối cùng. Đặc biệt, với tình hình khan hiếm vốn như hiện nay các doanh nghiệp ngoại thương thường áp dụng hình thức này do không cần huy động vốn để mua chè. Tuy nhận tiền ít nhưng nhận tiền nhanh cần ít thủ tục và tương đối tin cậy. 3. Xuất khẩu theo nghị định thư giữa hai chính phủ Đây là hình thức xuất khẩu chè (thường là để trả nợ) được ký theo nghị định thư giữa hai chính phủ. Xuất khẩu chè theo hình thức này có nhiều ưu đãi như : khả
  18. năng thanh toán chắc chắn ( do nhà nước trả cho doanh nghiệp chế biến chè xuất khẩu), giá cả chè nhìn chung có thể chấp nhận được, doanh nghiệp chế biến không phải lo nghĩ về đầu ra cho chè mà mình sản xuất …Trên thực tế hiện nay, thì hình thức này rất ít được áp dụng. Nhà nước chỉ giao nhiệm vụ cho doanh nghiệp nào có khả năng về tài chính, năng lực sản xuất nhất. Thông thường thì Tổng Công ty chè Việt Nam thực hiện hình thức này. Hình thức này còn thực hiện là việc trả nợ cho Nga và các nước Đông Âu, theo chương trình đổi dầu lấy lương với iraq của Liên Hợp Quốc. III. Nội dung hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp sản xuất kinh doanh chè Nội dung cơ bản của hoạt động xuất khẩu chè cũng tương tự như nội dung cơ bản của hoạt động kinh doanh chè trong nưóc, nhưng khác biệt là có yếu tố nước ngoài tham gia và mang tính phức tạp, nhiều rủi ro hơn so với hoạt động mua bán trong nước. Hoạt động trên thị trường quốc tế, tất cả các doanh nghiệp chè dù đã có nhiều kinh nghiệm hay mới bắt đầu tham gia vào kinh doanh đều phải tuân thủ một cách nghiêm túc những công đoạn của một thương vụ làm ăn thì mới có khả năng tồn tại lâu dài được. Hoạt động xuất khẩu chè được tổ chức thực hiện với nhiều nghiệp vụ, nhiều khâu. Mỗi nghiệp vụ này đều phải được nghiên cứu một cách đầy đủ, kỹ lưỡng và đặt trong mối quan hệ lần nhau, tranh thủ nắm bắt được những lợi thế nhằm bảo đảm cho hoạt động xuất khẩu đạt hiệu quả cao. Để việc tổ chức xuất khẩu chè được tốt và có hiệu quả thì các doanh nghiệp chè phải nắm được những vấn đề cơ bản của hoạt động xuất khẩu. 1. Lựa chọn thị trường Đây là một quá trình hết sức quan trọng trong hoạt động kinh doanh. Trong nhiều trường hợp, doanh nghiệp không thể hoạt động trên toàn bộ thị trường của quốc gia nào đó mà chỉ có thể hoạt động trên một đoạn hoặc một số đoạn thị trường nào đó, dựa vào việc phân đoạn thị trường trên cơ sở các tiêu thức dùng để phân loại. Tuy nhiên, cũng có nhiều trường hợp doanh nghiệp có thể hoạt động trên phạm vi quốc
  19. gia, khu vực hoặc toàn cầu. Việc lựa chọn thị trường xuất khẩu chè đòi hỏi doanh nghiệp phải phân tích tổng hợp nhiều yếu tố bao gồm cả những yếu tố vĩ mô, những yếu tố vi mô và khả năng của doanh nghiệp, thường đó là các yếu tố về văn hoá - xã hội, luật pháp, kinh tế, chính trị, khoa học công nghệ... và các yếu tố thuộc môi trường tài chính. Đây cũng là một quá trình đòi hỏi nhiều thời gian chi phí. 2. Lựa chọn mặt hàng xuất khẩu Sau khi lựa chọn được thị trường phù hợp với doanh nghiệp mình thì doanh nghiệp phải xác định những loại chè nào mà mình định kinh doanh. Trên thực tế, doanh nghiệp có sự lựa chọn mặt hàng xuất khẩu chè như sau: - Doanh nghiệp xuất khẩu những loại chè mà mình sản xuất. - Doanh nghiệp xuất khẩu những loại chè mà thị trường cần. - Doanh nghiệp sản xuất những loại chè giống như thị trường thế giới không phân biệt sự khác nhau về văn hoá, xã hội, ngôn ngữ, phong tục tập quán... và biên giới quốc gia. Sản phẩm chè cũng giống như các sản phẩm khác là cũng tồn tại một chu kỳ sống của sản phẩm. Chu kỳ này là tiến trình phát triển việc tiêu thụ một loại chè cụ thể bao gồm 4 giai đoạn như sau : Thâm nhập – Phát triển – Bão hoà - Thoái trào. Việc xuất khẩu chè đang ở giai đoạn 1 và 2 gặp thuận lợi nhất. Tuy nhiên, có khi sản phẩm chè đã ở giai đoạn 4 nhưng nhờ việc thực hiện các biện pháp xúc tiến tiêu thụ (quảng cáo, cải tiến hệ thống tổ chức tiêu thụ, giảm giá bán, khuyến mãi…) người ta có thể đẩy mạnh được xuất khẩu. Ngày nay, xu hướng xuất khẩu những loại chè mà thị trường cần và xuất khẩu những loại chè giống nhau ra các thị trường là phổ biến. Còn xuất khẩu những loại chè mà doanh nghiệp sản xuất ra chỉ bó hẹp trong một lĩnh vực… Như vậy, việc lựa chọn loại chè xuất khẩu, ngoài yêu cầu phải đạt tiêu chuẩn chất lượng quốc tế, đáp ứng nhu cầu thị trường thì còn phải phù hợp với khả năng cũng như kinh nghiệm của từng doanh nghiệp chế biến chè xuất khẩu. Điều này đòi hỏi phải có sự phân tích đánh giá cẩn thận những đặc điểm nội tại của doanh nghiệp chế biến chè xuất khẩu đó cũng như dự đoán được cơ hội hay bất lợi khi đưa sản
  20. phẩm chè của mình ra thị trường quốc tế. Đồng thời doanh nghiệp cần dự đoán xu hướng biến động của thị trường cũng như cơ hội và thách thức mà mình sẽ gặp phải trên thị trường thế giới. 3. Lựa chọn khách hàng Sau khi đã lựa chọn được loại chè và thị trường xuất khẩu phù hợp, doanh nghiệp muốn thâm nhập vào thị trường đó thì cần phải lựa chọn các đối tác đang hoạt động trên thị trường đó để thực hiện các kế hoạch kinh doanh của mình. Việc lựa chọn đúng đối tác giao dịch sẽ tránh cho doanh nghiệp sản xuất chè những phiền toái không đáng có, những mất mát, rủi ro dễ gặp phải trong quá trình kinh doanh chè xuất khẩu trên thị trường quốc tế. Là những người xuất nhập khẩu trực tiếp với bạn hàng kinh doanh thì doanh nghiệp sẽ không phải chia sẻ lợi nhuận kinh doanh. Tuy nhiên trong trường hợp thị trường hoàn toàn mới thì cách tốt nhất là phải thông qua các đại lý hoặc các Công ty uỷ thác xuất khẩu, trung tâm giao dịch chè để giảm bớt chi phí cho việc thâm nhập thị trường. Do vậy, cần phải lựa chọn bạn hàng với những đặc điểm sau: + Quen biết, uy tín trong kinh doanh. + Có thực lực tài chính. + Có thiện chí trong quan hệ làm ăn. Để có thể tìm hiểu chính xác được bạn hàng làm đối tác, ngoài việc dựa trên những mối quan hệ bạn hàng có sẵn, đã hiểu biết và có uy tín kinh doanh với nhau thì cần phải thông qua các Công ty tư vấn, các sở giao dịch, Phòng Thương mại và Công nghiệp các nước có quan hệ buôn bán. Việc lựa chọn bạn hàng có căn cứ khoa học là điều kiện cần thiết để thực hiện thắng lợi các hợp đồng kinh doanh song nó cũng phụ thuộc nhiều vào kinh nghiệm của người giao dịch 4. Lựa chọn phương thức giao dịch Phương thức giao dịch là những cách thức mà doanh nghiệp sản xuất kinh doanh chè sử dụng để thực hiện các mục tiêu và kế hoạch kinh doanh của mình trên thị trường thế giới. Những cách thức này quy định thủ tục cần thiết, các điều kiện
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
10=>1