intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn: Một số giải pháp nâng cao chất lượng sản phẩm ở công ty TNHH Sao Việt

Chia sẻ: Nguyen Bao Ngoc | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:45

142
lượt xem
46
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trong nền kinh tế thị trường sôi động như hiện nay, thông tin kinh doanh đang được lợi dụng để làm giàu, nhiều nhà sản xuất, các đại lý đã có lúc xem nhẹ những lợi ích đích thực của người mua hàng, khi cung ứng cho họ những sản phẩm không đạt chất lượng. Đặc biệt khi lý thuyết marketing đã thực sự gia nhập vào đời sống, đã trở thành cứu cánh cho các nhà sản xuất đang cạnh tranh với nhau quyết liệt, để hòng chia sẽ thị trường, chiếm đoạt mức lợi nhuận mỗi ngày một...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn: Một số giải pháp nâng cao chất lượng sản phẩm ở công ty TNHH Sao Việt

  1. Luận văn Một số giải pháp nâng cao chất lượng sản phẩm ở công ty TNHH Sao Việt 1
  2. LỜI MỞ ĐẦU Trong nền kinh tế thị trường sôi động như hiện nay, thông tin kinh doanh đang được lợi dụng để làm giàu, nhiều nhà sản xuất, các đại lý đã có lúc xem nhẹ những lợi ích đích thực của người mua hàng, khi cung ứng cho họ những sản phẩm không đạt chất lượng. Đặc biệt khi lý thuyết marketing đã thực sự gia nhập vào đời sống, đã trở thành cứu cánh cho các nhà sản xuất đang cạnh tranh với nhau quyết liệt, để hòng chia sẽ thị trường, chiếm đoạt mức lợi nhuận mỗi ngày một khan hiếm hơn, thì chất lượng sản phẩm từ những người sản xuất, có lúc đã buộc cơ quan pháp luật phải can thiệp. Vì vậy cạnh tranh càng quyết liệt, yêu cầu nâng cao chất lượng sản phẩm, để thoả mãn các nhu cầu tiêu dùng, càng phải tăng lên. Sự đỗ vỡ sự nghiệp kinh doanh của nhiều hãng sản xuất, kể cả những hãng lớn trên thế giới, cũng bắt đầu từ sự đổ vỡ uy tín về chất lượng sản phẩm, từ sự xa lãnh của những người tiêu dùng, khi nhu cầu của họ không được thoả mãn. Chất lượng sản phẩm là chất keo gắn kết người tiêu dùng với các nhà sản xuất, là uy tín và sự sống còn của các công ty. Người bán không vì cái mà họ đang sản xuất, m à vì cái mà thị trường đang cần, trong đó trước hết là giá trị sử dụng và chất lượng của hàng hoá dịch vụ. Trong phương châm kinh doanh đó, hành vi bán của người sản xuất đã không chỉ vì lợi ích của người mua mà trước hết vì lợi ích sống còn của chính họ. N hư vậy chất lượng sản phẩm không chỉ là yêu cầu của tập hợp người tiêu dùng, không chỉ là sự ngang giá cho đồng tiền mà họ đã quyết định bỏ ra để mua hàng, mà hơn hết vì chính sự tồn tại để phát triển hay phá sản của doanh nghiệp. Nhận thức được ý nghĩa của vấn đề trên, trong thời gian ho àn thành báo cáo thực tập tốt nghiệp, tôi đã quyết định chọn đề tài: "Một số giải pháp nâng cao chất lượng sản phẩm ở công ty TNHH Sao Việt". 2
  3. Báo cáo tốt nghiệp ngo ài lời mở đầu và kết luận được chia thành 3 phần: - Phần I: Một số khái niệm về sản phẩm, chất lượng sản phẩm và yêu cầu nâng cao chất lượng sản phẩm trong kinh doanh. - Phần II: Tình hình tổ chức - quản lý và sản xuất kinh doanh ở Công ty TNHH Sao Việt và những nỗ lực nâng cao chất lượng sản phẩm in trong những năm gần đây. - Phần III: Một số giải pháp nâng cao chất lượng sản phẩm ở Công ty TNHH Sao Việt. 3
  4. PHẦN I MỘT SỐ KHÁI NIỆM VỀ SẢN PHẨM, CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM VÀ YÊU CẦU NÂNG CAO CHẤT LƯ ỢNG SẢN PHẨM Tất cả các doanh nghiệp sản xuất - kinh doanh trên thị trường đều có mục đích duy nhất là thoả mán các nhu cầu của người tiêu dùng từ đó tìm kiếm lợi nhuận. Có nghĩa là các sản phẩm làm ra của doanh nghiệp đều được đem bán, trao đổi trên thị trường. Đây là đặc điểm khác biệt giữa nền kinh tế hàng hoá (kinh tế thị trường) với nền kinh tế thời kỳ bao cấp trước đây. Thời kỳ bao cấp sản phẩm làm ra chỉ thoả mãn nhu cầu nội bộ hoặc đem phân phối theo yêu cầu Nhà nước, các sản phẩm đó chưa phải là hàng hoá. Trong nền kinh tế hàng hoá, sản phẩm làm ra của các doanh nghiệp phải được đem ra thị trường "cân, đo" giá trị của nó, thông qua trao đổi với các đơn vị giá trị khác, nếu không sản phẩm đó chưa được gọi là hàng hoá. "Sản phẩm được hiểu là tất cả mọi hàng hoá và dịch vụ có thể đem chào bán , có khả năng thoả mãn một nhu cầu hay mong muốn của con người, gây sự chú ý, kích thích sự mua sắm và tiêu dùng của họ". Với cách khái niệm đó, sản phẩm không có sự phân biệt với hàng hoá, vì quan niệm rằng, trong nền kinh tế thị trường, mọi sản phẩm là kết quả của khâu sản xuất, trước khi đi vào tiêu dùng, đều được trao đổi qua thị trường. Hay nói cách khác thị trường đ ã là hàng hoá mọi sản phẩm dịch vụ, đặt các nhu cầu mua, cũng như những hành vi sản xuất để bán, dưới sự điều tiết khắc nghiệt của các quy luật kinh tế khách quan của thị trường. Cũng trong khái niệm đó, sản phẩm hàng hoá gồm 2 loại: hàng hoá hữu hình và hàng hoá vô hình. H àng hoá vô hình là những lợi ích mà người tiêu dùng có thể nhận đ ược khi tiêu dùng chúng, nhưng không thể hiện dưới dạng vật chất cụ thể. Người ta gọi chúng là các dịch vụ. 4
  5. H àng hoá hữu hình là những hàng hoá tồn tại dưới hình thái vật chất cụ thể mang ra trao đổi mua bán trên thị trường. Nhưng ngay trong một hàng hoá hữu hình cũng bao hàm cả yếu tố hữu hình và yếu tố vô hình. Dù là hàng hoá hay dịch vụ, nhu cầu tiêu dùng (tức là nhu cầu mua và có khả năng thanh toán) chỉ xuất hiện khi hàng hoá dịch vụ đó đem lại cho người mua một hay nhiều lợi ích nào đó. Như vậy những hàng hoá hay dịch vụ mà người kinh doanh đem bán chỉ là phương tiện truyền tải những lợi ích mà người tiêu dùng chờ đợi. Những lợi ích đó lại phụ thuộc vào nhu cầu và ước muốn của người tiêu dùng. Do vậy nhiệm vụ đặt ra cho các nhà kinh doanh là phải xác định chính xác nhu cầu, mong muốn và do đó, lợi ích mà người tiêu dùng cần được thoả mãn, để từ đó sản xuất và cung cấp những hàng hoá và dịch vụ có thể đảm bảo tốt nhất những lợi ích cho người tiêu dùng. H àng hoá mà doanh nghiệp cung cấp cho người tiêu dùng được xác định bằng các đơn vị hàng hoá. Đơn vị hàng hoá là một chỉnh thể riêng biệt đ ược đặc trưng bằng các thước đo khác nhau, có giá cả, hình thức bên ngoài và các đặc tính khác nữa về một sản phẩm hàng hoá. Những yếu tố, đặc tính và thông tin đó được sắp xếp theo 3 cấp độ tương xứng với tầm quan trọng của các cấp độ đó: + Cấp độ cơ bản nhất là sản phẩm - hàng hoá theo ý tưởng. Cấp sản phẩm hàng hoá theo ý tưởng có chức năng cơ bản là trả lời câu hỏi: Về thực chất, sản phẩm và hàng hoá này thoả m ãn những đặc điểm lợi ích cốt yếu nhất mà khách hàng sẽ theo đuôỉ là gì? Và chính đó là những giá trị mà nhà kinh doanh sẽ bán cho khách hàng. Những lợi ích cơ bản tiềm ẩn đó có thể thay đổi tuỳ những yếu tố hoàn cảnh của môi trường và m ục tiêu cá nhân của các khách hàng, nhóm khách hàng trong bối cảnh nhất định. Điều quan trọng đối với các doanh nghiệp là phải nghiên cứu tìm hiểu khách hàng để phát hiện ra những đòi hỏi về các khía cạnh lợi ích khác nhau tiềm ẩn trong nhu cầu 5
  6. của họ. Chỉ có như vậy họ mới tạo ra những hàng hoá có khả năng thoả mãn đúng và tốt những lợi ích mà khách hàng mong đợi. + Cấp độ thứ hai cấu thành một sản phẩm - hàng hoá là hàng hoá hiện thực. Đó là những yếu tố phản ánh sự có mặt trên thực tế của sản phẩm hàng hoá. Những yếu tố đó bao gồm: Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng, các đặc tính, bố cục bề ngoài, đ ặc thù, tên nhãn hiệu cụ thể và đặc trưng của bao gói. Trong thực tế, khi tìm mua những lợi ích cơ bản, khách hàng dựa vào những yếu tố này. Và cũng nhờ hàng loạt các yếu tố này nhà sản xuất khẳng định sự hiện diện của mình trên thị trường, để người mua tìm đ ến doanh nghiệp, họ phân biệt hàng hoá của hãng này so với hãng khác. + Cuối cùng là hàng hoá bổ sung. Đó là những yếu tố như: tính tiện lợi cho việc lắp đặt, những dịch vụ bổ sung sau khi bán, những điều kiện bảo hành... Nhờ các yếu tố này đã tạo ra sự định giá mức độ ho àn chỉnh khác nhau, trong nhận thức của người tiêu dùng, về mặt hàng hay nhãn hiệu cụ thể. Nó góp phần tăng cường sức cạnh tranh của các nhãn hiệu hàng hoá. Trước một quyết định tiêu dùng của người mua, lợi ích của hàng hoá và dịch vụ mang lại biểu hiện dưới nhiều tiêu thức khác nhau. Song chung qui lại, có thể lượng hoá lợi ích của hàng hoá và d ịch vụ trên 2 mặt chủ yếu: số lượng và chất lượng. Số lượng là khái niệm của chỉ lượng của sản phẩm mà người tiêu dùng nhận được khi họ trao đổi mua bán trên thị trường. Số lượng là hình thái hữu hình, là những hiện vật cụ thể mà con người có thể quan sát trực tiếp. Số lượng cũng là một nhu cầu cơ bản của loài người vì "con người thích nhiều hơn ít". Nhưng nhu cầu về số lượng thường nhanh đạt được sự thoả mãn, đ ặc biệt khi đời sống kinh tế - xã hội phong phú, thu nhập ngày một tăng cao. Khi nền kinh tế càng phát triển thì con người có xu hướng chuyển từ yếu tố số lượng sang yếu tố chất lượng. Với càng nhiều loại sản phẩm như nhau người ta tìm đ ến yếu tố chất lượng nhiều hơn và cao hơn. Chất lượng sản phẩm là khái niệm chỉ khả năng thích ứng cao của hàng hoá, nhằm thoả 6
  7. mãn tốt nhất một hay nhiều mong muốn của người mua chúng. Đây là yếu tố định tính, thường chỉ thông qua sự tiêu dùng hàng hoá mới nhận thức được một cách toàn diện và đầy đủ. Hay nói cách khác, chất lượng sản phẩm là cách hiểu, cách đánh giá của con người bằng kinh nghiệm, bằng nhận thức, băng ước đoán và mang nhiều đặc tính chủ quan hơn là cách đánh giá và hiểu về số lượng. Cái còn lại, lưu giữ mãi, những ấn tượng sâu sắc tốt đẹp với người tiêu dùng về một sản phẩm của doanh nghiệp nào đó là chất lượng sản phẩm. N gười tiêu dùng họ có thể quên kiểu dáng, kích cỡ... của hàng hoá, nhưng nhắc đến tên các hãng sản xuất hay các doanh nghiệp kinh doanh là họ nhớ ngay đến sản phẩm làm ra với những lời nhận xét mà chỉ chất lượng sản phẩm mới phản ánh được. Làm tan vỡ trong họ lòng tin về chất lượng một sản phẩm nào đó, cũng tức là lo ại bỏ hàng hoá đó khỏi các nhu cầu tiêu dùng, cũng đồng nghĩa với việc đóng cửa sản xuất. Chất lượng sản phẩm đã là thước đo năng lực cạnh tranh, uy tín và khả năng tồn tại của một doanh nghiệp trong cơ chế thị trường. Bởi vì trong cơ chế thị trường hiện nay, rất nhiều các doanh nghiệp mới ra đời, rất nhiều các sản phẩm mới đượ làm ra đa dạng phong phú, sự cạnh tranh càng trở nên gay gắt khốc liệt. Đặc biệt khi có sự trợ giúp của khoa học kỹ thuật công nghệ, một mặt giúp cho các doanh nghiệp có cơ hội thuận lợi hơn để phát triển, một mặt với sự phát triển như vũ bão nó lại đặt các doanh nghiệp trong những tình thế cạnh tranh mới. Các doanh nghiệp luôn luôn phải đổi mới mọi mặt, thích nghi trong mọi hoàn cảnh mà thị trường đặt ra cho nó. Trên thị trường không chỉ có một người sản xuất với một mặt hàng duy nhất của anh ta. Những người cùng sản xuất loại hàng hoá đó, cũng ngấm ngầm tìm giải pháp tranh giành khách hàng với đối thủ của mình. Họ cũng thay đổi mẫu m ã, hạ giá bán, mời chào người mua, hứa hẹn những dịch vụ tốt nhất với khách hàng "thị trường giống như cái sân chơi trên đó các nhà kinh doanh tha hồ thi thố tài lực của mình. Ai chiếm được nhiều 7
  8. phần sân chơi nhất, sẽ hành động thuận lợi, kinh doanh phát triển, ngược lại, ai đuối sức hơn, sẽ bị đối thủ cùng chơi lấn át, và kết cục, anh ta sẽ nhận lấy phần thất bại" (Paul Sammelson - K inh tế học tập I - Viện quan hệ quốc tế xuất bản - 1989). Do đó, để tránh phá sản, để chiếm lĩnh lòng tin của khách hàng để mở rộng thị trường tiêu thụ, đòi hỏi các doanh nghiệp phải bằng mọi biện pháp chạy đua với nhau, cạnh tranh với nhau. "Nâng cao chất lượng sản phẩm" là một biện pháp hữu hiệu nhất mà các doanh nghiệp sử dụng để tăng thêm uy tín, tăng sức cạnh tranh trên thị trường. Nó không chỉ giúp cho doanh nghiệp tồn tại, đứng vững và vươn lên ở hiện tại m à còn giúp cho doanh nghiệp có điều kiện phát triển mở rộng trong tương lai. Nâng cao chất lượng sản phẩm cũng là phương châm để duy trì "sự sống" của sản phẩm, cũng là cách duy trì sự sống của doanh nghiệp. Bởi vì nói như Kono Suke Matsuhita - Chủ tịch tập đoàn điện tử hàng đầu Nhật Bản :"Nếu cho rằng mọi hàng hoá có linh hồn, thì chất lượng chính là linh hồn của nó" (Bản lĩnh trong kinh doanh và cuộc sống - NXB chính trị quốc gia 1994). Nâng cao chất lượng sản phẩm cần đến nhiều nỗ lực và thái độ của các nhà sản xuất. Chỉ khi các nhà sản xuất thấy yêu cầu về chất lượng sản phẩm không phải từ phía người mua, mà từ chính sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, lúc đó chất lượng sản phẩm sẽ là m ột mục tiêu quan trọng không kém mục tiêu lợi nhuận. Nâng cao chất lượng sản phẩm có thể thực hiện thông qua hàng loạt các giải pháp, từ khâu định chiến lược kinh doanh, đ ến việc thuê mua các yếu tố đầu vào, tổ chức công nghệ sản xuất và cung ứng sản phẩm đến đối tượng tiêu dùng. Nó đặt ra không chỉ đối với những người trực tiếp sản xuất sản phẩm, mà còn là yêu cầu với những nhân viên bán hàng, những người làm dịch vụ phân phối... Về mặt lý thuyết, chất lượng sản phẩm liên quan đ ến các yếu tố sau: + Công nghệ khoa học kỹ thuật của doanh nghiệp trong việc sản xuất sản phẩm. 8
  9. + Tay nghề bậc thợ của lao động trực tiếp sản xuất, trình độ chuyên môn của các nhà quản lý trong việc tổ chức sản xuất. + Các quyết định về bao bì, mẫu mã sản phẩm, đóng gói, nhãn hiệu... + Các quyết định trong việc ưu đãi và quan tâm đến người lao động. + Các d ịch vụ khác đi kèm để thoả mãn tốt nhất các nhu cầu của người tiêu dùng. Chất lượng sản phẩm bao trùm trên mọi khâu, mọi giai đoạn của quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp. Mặt khác, chất lượng sản phẩm, từ muôn thủa luôn là lợi ích của người tiêu dùng. Nhưng chính nhu cầu tiêu dùng và khả năng thanh toán của họ lại trở thành mệnh lệnh và sự quyết định thành bại của các hãng kinh doanh. Do đó, phương châm "nâng cao chất lượng sản phẩm" là đ ặt ra với bất cứ doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nào trên thị trường. Nó giúp cho các doanh nghiệp đứng vững trong cạnh tranh, đánh bại các đối thủ cùng kinh doanh mặt hàng đó và nâng cao uy tín của doanh nghiệp. Nâng cao chất lượng sản phẩm, có thể tập trung vào các vấn đề sau: (+) Thứ nhất, tăng cường thiết bị công nghệ kỹ thuật hiện đại. Khoa học kỹ thuật công nghệ, với sự phát triển như vũ bão đã thổi vào các doanh nghiệp những luồng sinh khí mới. Nó giúp cho năng suất lao động tăng lên không ngừng, sản phẩm làm ra ngày một nhiều. Đặc biệt những công nghệ hiện đại đã tạo ra sản phẩm rất đa dạng phong phú, thoả mãn những nhu cầu ngày càng tăng và khắt khe của người tiêu dùng. Đầu tư vào việc mua sắm các thiết bị công nghệ hiện đại cũng đồng nghĩa với việc doanh nghiệp tăng cường năng lực sản xuất, tăng cường sức cạnh tranh trên thị trường. Sản phẩm làm ra đảm bảo độ chính xác cao hơn, có nhiều tính năng hơn, thu hút khách hàng nhiều hơn, và do đó tạo chỗ đứng vững chắc trong cơ chế cạnh tranh khốc liệt. Tuy nhiên khi đầu tư mua sắm các thiết bị công nghệ mới hiện đại phải chú ý một số điểm sau: 9
  10. - Các thiết bị mua sắm phải phù hợp với tình hình sản x uất chung của doanh nghiệp. Có nghĩa là các thiết bị lắp đặt phải hài hoà với đầu vào, đầu ra của doanh nghiệp. Nguyên nhiên vật liệu phải đảm bảo tối ưu sao cho công suất hoạt động của máy móc đạt tối đa. Mặt khác, việc tiêu thụ các sản phẩm sản xuất của doanh nghiệp phải là tốt nhất để thu hồi vốn nhanh, vòng sản xuất của doanh nghiệp không bị gián đoạn. - Thiết bị công nghệ được mua phải tương x ứng với trình độ hiểu biết và chuyên môn của người lao động trong doanh nghiệp. Có như vậy họ mới vận hành máy móc được chính xác, sản phẩm làm ra đảm bảo yêu cầu chất lượng. Đ áp ứng hai yêu cầu trên thì việc đầu tư công nghệ sản xuất của doanh nghiệp sẽ cho kết quả tốt, tránh sự lãng phí vốn sản xuất mà tình hình sản xuất không được cải thiện. (+)Th ứ hai, nâng cao tay nghề, bậc thợ cho người lao động trong doanh nghiệp. Đây là yếu tố quan trọng nhất để nâng cao chất lượng sản phẩm. Bởi lẽ máy móc thiết bị dù hiện đại đến đâu cũng do con người làm ra. Người lao động vận hành máy móc chính xác mới tạo ra các sản phẩm hoàn thiện, đa tính năng. Bên cạnh đó năng suất lao động của công nhân phản ánh năng suất lao động của to àn doanh nghiệp trình độ tay nghề chuyên môn, bậc thợ tay nghề của người lao động quyết định sự thành b ại của doanh nghiệp. Với cùng các yếu tố đầu vào các các yếu tố môi trường như nhau thì người lao động nào có trình độ hơn sẽ tạo ra được số sản phẩm nhiều hơn và đẹp bền hơn. Mà trong cơ chế thị trường cạnh tranh hiện nay, với các sản phẩm cùng loại, sản phẩm nào có sự cải tiến độc đáo, có giá trị sử dụng cao, tức là có các đặc tính thoả mãn những nhu cầu của người tiêu dùng, thì sản phẩm đó sẽ được người tiêu dùng ưa chuộng, tín dùng. Và vì vậy, sản phẩm đó sẽ tìm được một chỗ đứng trên thị trường, ngược lại các sản phẩm bị đào thải dần dần. Do đó yêu cầu nâng cao tay nghề, bậc thợ cho người lao động là một yêu cầu cấp bách của các doanh nghiệp. Nâng cao tay nghề bậc thợ cho người lao động cũng là 10
  11. cách nâng cao chất lượng sản phẩm làm ra cuả doanh nghiệp, cũng là cách để duy trì sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Nâng cao tay nghề, bậc thợ cho người lao động có thể thực hiện bằng nhiều cách khác nhau: - Doanh nghiệp có thể cử một bộ phận lao động của mình đi học, bồi dưỡng thêm kiến thức chuyên môn đang công tác, hoặc đ ào tạo cho họ một lĩnh vực mới, một chuyên môn mới phù hợp. - Có thể đào tạo, nâng cao tay nghề tại chỗ: các công nhân có tay nghề bậc thợ cao trực tiếp hướng dẫn, truyền kinh nghiệm cho những người lao động có trình độ thấp. - Tổ chức sắp xếp lại bộ máy làm việc cho phù hợp, gọn nhẹ, tận dụng tối đa năng suất lao động của từng người trong doanh nghiệp. Phân các công việc hợp với khả năng và trình độ của họ... Tuỳ từng điều kiện cụ thể mà các doanh nghiệp có thể sử dụng biện pháp đào tạo tại chỗ hay nhờ đào tạo, hay phối kết hợp nhiều biện pháp sao cho hiệu quả đ ào tạo là tốt nhất. (+) Thứ ba, nâng cao chất lượng sản phẩm còn liên quan đến bao bì, mẫu mã, đóng gói và nhãn hiệu sản phẩm. Sự thay đổi về kiểu dáng, mẫu mã cũng là một biện pháp lôi kéo các khách hàng tiêu dùng. Mẫu m ã, bao gói, nhãn hiệu phải thay đổi thường xuyên liên tục đáp ứng thị hiếu của người tiêu dùng. Người tiêu dùng ưa chuộng sản phẩm đẹp về thẩm mỹ, gọn nhẹ về kiểu dáng. Do đó đòi hỏi các doanh nghiệp có những bí quyết hữu hiệu trong việc thường xuyên cải tiến mẫu mã, nhãn hiệu hàng hoá, dịch vụ, không chỉ thoả mãn nhu cầu tiêu dùng tức thời, mà còn kích thích những nhu cầu mới ở dạng tiềm năng khuyếch đại thị trường, kể cả những thị trường "khó tính" mà đối thủ của nó phải bó tay. Thành công trong cạnh tranh là "Doanh nghiệp biết làm những việc mà doanh nghiệp không thể làm được". (+) Thứ tư, m ọi cán bộ, nhân viên doanh nghiệp như gia đ ình của mình, họ nỗ lực vì sự thịnh vượng của doanh nghiệp, đồng thời sự phát triển của 11
  12. doanh nghiệp lại là tiền đề để tăng thu nhập và những phúc lợi giành cho họ. Bí quyết quản lý và cách sử dụng con người để phát huy hiệu quả các hoạt động kinh doanh hiện đ ược xem là lợi thế cạnh tranh mạnh nhất của các doanh nghiệp. Suy cho cùng, chiến lược, sáng tạo những phương thức kinh doanh độc đáo đều được thực hiện bởi con người và vì mục tiêu do con người vạch ra. Các doanh nghiệp phải có các chính sách ưu đãi, khuyến khích người lao động, tạo cho họ niềm say mê gắn bó hơn với công việc sản xuất. Có như vậy toàn bộ người lao động trong doanh nghiệp mới là một khối đoàn kết thống nhất, cùng cố gắng nỗ lực cho sự phát triển của doanh nghiệp. (+) Thứ năm, để nâng cao chất lượng sản phẩm còn kết hợp nhiều yếu tố khác nữa. Đó là đ ẩy mạnh hoạt động của hệ thống dịch vụ Marketing của doanh nghiệp, nhằm đảm bảo cho doanh nghiệp nắm vững thị trường m à nó đang phục vụ, hiểu về đối thủ, cung cấp cho người quản lý những thông tin nhanh, chuẩn xác về mọi khâu của quá trình tái sản xuất, về nhu cầu của người tiêu dùng, giúp cho doanh nghiệp hoàn thiện hơn các sản phẩm nó đang cung ứng. Đó là việc doanh nghiệp tổ chức các dịch vụ đi kèm bổ trợ cho sản phẩm như dịch vụ hướng dẫn, tư vấn, dịch vụ lắp đặt... Nó làm tăng thêm tính hoàn chỉnh của sản phẩm tới tay người tiêu dùng, cũng từ đó nâng cao chất lượng sản phẩm. Nói tóm lại, chất lượng sản phẩm là 1 chỉ tiêu khái quát. Trong thực tế nó thường được phản ánh qua những tham số và đặc tính khác nhau tuỳ thuộc từng loại hàng và nhất thiết phải do quan niệm của người tiêu dùng quyết định. Nâng cao chất lượng sản phẩm vừa là mục tiêu, vừa là điều kiện, vừa đặt ra yêu cầu, vừa tạo động lực giúp các doanh nghiệp đứng vững trong cạnh tranh. Nâng cao chất lượng sản phẩm đòi hỏi các doanh nghiệp phối kết hợp nhiều yếu tố, tạo ra các sản phẩm có nhiều tính năng đáp ứng được nhu cầu ngày càng đa dạng của người tiêu dùng. 12
  13. PH ẦN II: TÌNH HÌNH TỔ CHỨC, QUẢN LÝ VÀ SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA CÔNG TY IN HÀNG KHÔNG VÀ NHỮNG NỖ LỰC NÂNG CAO CH ẤT LƯỢNG SẢN PHẨM IN TRONG MỘT SỐ NĂM GẦN ĐÂY. 1. Đặc điểm sản xuất kinh doanh của công ty in hàng không In là một hoạt động sản xuất dịch vụ chuyên ngành. Sản phẩm của công nghiệp in vừa có tính sản xuất vật chất vừa là một dịch vụ văn hoá. Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung nhiều cơ sở in thường thực hiện các chức năng phục vụ, khép kín, sản xuất nhỏ lẻ hỗ trợ ngành kinh doanh chính. Công ty in hàng không cũng có một thời kỳ như vậy. Tiền thân của công ty in hàng không là xưởng in hàng không dân dụng, thành lập ngày 1 - 4 - 1985 theo quyết định số 250/TCHK của Tổng cục trưởng Tổng cục hàng không dân dụng Việt nam. Trước đó, xưởng in hàng không cũng là một cơ sở in Typo của binh đoàn 678 - Bộ Quốc phòng. Chức năng nhiệm vụ chủ yếu của xưởng in hàng không là in ấn các tài liệu, mẫu biểu, chứng từ, vé, một số nhãn mác của ngành. Xưởng in là một đơn vị phục vụ, hạch toán phụ thuộc, đáp ứng một số yêu cầu nhỏ thường nhật với chất lượng không cao của Tổng cục hàng không dân dụng. Lúc mới thành lập xưởng có 34 cán bộ CNV (chuyển từ Bộ Quốc phòng sang) với lực lượng thiết bị chính gồm: 3 máy in Typo loại 4 trang, 6 trang và 8 trang của Trung Q uốc, một số máy chữ, hệ thống tạo màu, chế bản nửa cơ khí. Những thiết bị của xưởng in là loại có công suất thấp, đã qua sử dụng nhiều năm, công nghệ lạc hậu. Mặc dù là một xưởng phục vụ cho công tác in ấn của ngành, nhưng nhiều tài liệu, mẫu biểu, đặc biệt là vé máy bay, ngành vẫn phải thuê ngoài. Trong giai đoạn từ 1985 - 1 990, ho ạt động của xưởng ho àn toàn theo kế ho ạch của Tổng cục, hầu như không làm dịch vụ cho ngoài ngành, không phải cạnh tranh, không phải tính toán lỗ lãi. Tổ chức sản xuất và quản lý của xưởng vẫn mang dáng dấp của một đ ơn vị phục vụ quân đội. Tính chất bao 13
  14. cấp trong sản xuất rất nặng nề. Vốn, thiết bị và nhân lực có được sự bổ sung nhưng chưa thể tạo ra sự thay đổi lớn về sản xuất kinh doanh của xưởng. Đ ến năm 1990 do tổ chức lại hoạt động của ngành hàng không dân dụng theo hướng hiện đại hoá, đáp ứng yêu cầu của cơ chế quản lý mới, các đ ơn vị phục vụ, phù trợ của ngành cũng được tổ chức lại. Ngày 3 - 3 - 1990 theo quyết định số 174/ TCHK của Tổng cục trưởng Tổng cục hàng không dân dụng Việt Nam, x ưởng in chuyển thành xí nghiệp in hàng không, là một đơn vị kinh tế hạch toán độc lập. Cũng năm này, xí nghiệp được trang bị một máy in ofset, in màu nhiều trang, vố n do Tổng cục hàng không dân dụng giao là 300 triệu, tổng số cán bộ CNV là 52 người. Một số cán bộ quản lý được cử đi đào tạo nâng cao, nhiều công nhân đứng máy in Typo trước đây được chuyển nghề và nâng cao trình độ để phục vụ máy in hiện đại hơn. Xí nghiệp đã đ ảm nhận thêm nhiều phần việc in ấn phục vụ sản xuất kinh doanh của ngành hàng không dân dụng, kể cả một số dịch vụ trước đây phải thuê ngoài. Tuy nhiên, do chưa dứt hẳn khỏi cơ chế quản lý bao cấp, đồng thời năng lực thiết bị và trình độ đội ngũ CNV chưa đủ đáp ứng yêu cầu của cơ chế cạnh tranh, nên sản xuất kinh doanh của xí nghiệp về cơ bản, vẫn là một đ ơn vị phục vụ, khép kín, qui mô sản xuất hàng năm chưa lớn, chưa vươn ra thị trường đứng vững bằng sức mạnh của mình. K hi toàn bộ ngành hàng không dân d ụng đã chuyển hẳn sang mô hình tổ chức Tổng công ty và thực hiện hạch toán, tự trang trải và tự chịu trách nhiệm về các hoạt động kinh doanh của mình, ngày 14 - 9 - 1994 xí nghiệp in hàng không được tổ chức lại dưới hình thức công ty in hàng không, theo quyết định số 1481/QD - TCCB - LD của Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải. V ề tổ chức sản xuất, công ty in có 5 bộ phận chuyên môn hoá và một bộ phận phục vụ, phù trợ. Tổng số cán bộ công nhân đến 1999 là 141 người trong đó cán bộ quản lý gián tiếp là 26 chiếm 19,8%. Khi thành lập công ty, tổng số vốn được giao là 2,3 tỉ, đến 1999 công ty vay bổ sung là 15 tỉ và vốn 14
  15. tự có là 3 tỉ. So với khi mới thành lập, qui mô nguồn vốn của công ty đã có sự tăng trưởng rất nhanh, trong vòng 5 năm vốn cho sản xuất kinh doanh được hình thành từ nhiều nguồn đã tăng lên gấp 8 lần. N hiệm vụ sản xuất chính của công ty in hàng không là in ấn các tài liệu phục vụ công tác quản lý của ngành, các m ẫu biểu, vé máy bay, in nhãn mác, của ngành trên các chất liệu, sản xuất giấy vệ sinh các lo ại ... Ngoài ra, công ty còn nhân làm dịch vụ gia công cho một số đ ơn vị sản xuất kinh doanh ngoài ngành, in vé và sản xuất giấy thơm, giấy vệ sinh cho hãng hàng không Lào. V ề công nghệ sản xuất, có hai loại: công nghệ in trên máy ofset (in tờ rời) và công nghệ in Flexo (in cuốn trên mọi chất liệu). Qui trình công nghệ in gồm các công đoạn sau: Gia công Hoàn thiện SP In trên máy Tạo mẫu Chế bản in H ình thức tổ chức sản xuất của công ty theo từng bộ phận chuyên môn hoá. Có 5 bộ phận, trong đó hai bộ phận chính là phân xưởng in ofset và in Flexo, 3 bộ phận còn lại trực tiếp hỗ trợ, nối tiếp với dây chuyền chính là: phân xưởng chế bản (bao gồm cả phần tạo m àu vi tính và chế bản in), phân xưởng sản xuất giấy, khăn ăn của hãng hàng không và phân xưởng sách. Bộ phận phục vụ được tổ chức dưới hình thức tổ cơ - điện, có nhiệm vụ bảo dưỡng thiết bị, bảo đảm điện, nước cho sản xuất và sửa chữa theo nhu cầu của các phân xưởng chính. Về tổ chức bộ máy quản lý, với 26 cán bộ nhân viên, biên chế thành 3 phòng chức năng: kế toán, kế hoạch và tổ chức hành chính. Công ty tổ chức quản lý theo mô hình trực tiếp, tham mưu. Giám đốc, với 1 phó giám đốc giúp việc, trực tiếp chỉ đạo sản xuất kinh doanh đến các phân xưởng. Các phòng nghiệp vụ có chức năng tham m ưu, giúp giám đốc theo phần việc đã được chuyên môn hoá. 15
  16. Phòng kế hoạch gồm 6 cán bộ nhân viên, có nhiệm vụ chuẩn bị kế hoạch sản xuất hàng tháng, quí và năm, xây dựng các kế hoạch về vật tư, cung ứng, tiêu thụ những hợp đồng gia công sản xuất với các đơn vị ngoài ngành, làm các cân đ ối và giúp giám đốc vạch tiến độ sản xuất kinh doanh cho các bộ phận của công ty. Phòng tổ chức hành chính gồm 10 cán bộ, nhân viên giúp giám đốc các nhiệm vụ về quản lý nhân sự, điều phối lao động thực hiện các chính sách, chế độ theo qui định của Nhà nước đối với cán bộ CNV, tổ chức bảo vệ nội bộ, văn thư, hành chính, bảo đảm các điều kiện làm việc cho bộ máy quản lý. Phòng kế toán có 8 cán bộ, nhân viên giúp giám đốc quản lý và sử dụng các nguồn tài chính, bảo đảm vốn (bằng tiền và hiện vật) cho sản xuất kinh doanh, thực hiện các biện pháp bảo toàn và phát triển vốn, quản lý chi phí tính giá thành, tính lương, khấu hao và thực hiện nghĩa vụ về tài chính đối với Nhà nước. Mô hình quản lý và tổ chức sản xuất của công ty in hàng không như sau: Giám đốc P. Giám đốc P. kế hoạch P . kế P. TC - HC toán PX ofset PX FLexo PX sách PX Chế bản PX giấy VS Tổ cơ - điện 16
  17. Chi nhánh phía Nam Chi nhánh phía nam được tổ chức thành một phân xưởng, vừa sản xuất vừa thực hiện các hoạt động dịch vụ, đại diện và kinh doanh sản xuất. Nhiệm vụ sản xuất của chi nhánh là giấy vệ sinh, túi nôn, giấy thơm đóng hộp phục vụ vận tải hàng không. Về tổng quát, công ty in hàng không là một loại doanh nghiệp Nhà nước có qui mô nhỏ, tổ chức bộ máy quản lý gọn thích ứng với nhiệm vụ sản xuất kinh doanh, là một đơn vị hạch toán độc lập thuộc Tổng công ty hàng không dân d ụng Việt nam. Khi chuyển sang mô hình công ty, nhờ nguồn vốn được bổ sung với qui mô lớn, tài sản và thiết bị có sự tăng trưởng nhanh. Đến 1999, trên hai dây chuyền sản xuất chính, thiết bị kỹ thuật được đổi mới về cơ bản. Dây chuyền Flexo được trang bị hai máy in cuốn, 4 màu của Đ ài Bắc và Hàn Quốc, một bộ dây chuyền chế bản in hiện đại cũng của Đài bắc. Dây chuyền ofset được trang bị 5 máy in màu nhiều trang, tờ rời, một bộ hoàn chỉnh phục vụ chế bản in của Công hoà liên bang Đức. Để tăng công suất làm việc của công đoạn tạo màu, công ty trang bị một d àn máy vi tính hiện đại, phục vụ cho cả hai dây chuyền. Năm nay công ty đang xúc tiến việc mua một máy in 7 màu của Mỹ, để nhằm thực hiện tăng thêm 20% khối lượng in ấn hàng năm. Tổng số cán bộ nhân viên toàn công ty, đến năm 1999 là 134. Số CNV trực tiếp sản xuất là 115, chiếm 81,5%. Đến nay hầu như 100% công nhân được đào tạo nghiệp vụ chuyên ngành in, 57,4% công nhân sản xuất có tuổi đời dưới 35; 36,8% công nhân ở độ tuổi từ 35 - 45; 5,6% có tuổi từ 45 - 50. So với nhiều đơn vị khác của ngành in, công nhân của công ty in hàng không khá trẻ, một bộ phận lớn vừa tuyển vào trong mấy năm gần đây và được đ ào tạo cơ b ản, có ý thức nghề nghiệp và thích ứng với yêu cầu của công nghiệp 17
  18. hiện đại. Toàn công ty có 13 cán bộ có trình đ ộ từ đại học trở lên (1 Thạc sĩ kinh tế); 18 người có trình độ trung cấp, chiếm 12,7% và 68 người là công nhân kỹ thuật chiếm 48,2%. Bên cạnh những thuận lợi về tổ chức sản xuất, tổ chức quản lý đã nêu ra ở trên, hiện tại công ty cũng có những khó khăn, thách thức khá lớn. Đó là: - Thứ nhất, sự cạnh tranh của thị trường in mỗi ngày một quyết liệt. H àng năm công ty chỉ nhận được đơn đặt hàng của Tổng công ty hàng không dân dụng từ 45 - 50% khối lượng trang in, một nửa công suất thiết bị và nhân lực của công ty tuỳ thuộc vào khả năng khai thác từ thị trường ngoài ngành. N goài một số bạn hàng khá ổn định như Viện Thú ý trung ương, công ty bóng đèn phích nước Rạng đông, hãng hàng không quốc gia Lào... Công ty phải cạnh tranh để mở rộng đối tượng phục vụ, nhận in gia công trên bao bì, cung ứng giấy vệ sinh, giấy ăn thơm... cho một số đơn vị khác. Hình thức tổ chức in của tư nhân với thiết bị hiện đại dịch vụ linh hoạt, bộ máy gọn nhẹ, có thể trốn thuế đang là đối thủ cạnh tranh rất mạnh với công ty in hàng không nói riêng và các cơ sở in quốc doanh nói chung. - Thứ hai, sự cạnh tranh đầu tư đổi mới kỹ thuật hiện đại của ngành in. Chất lượng sản phẩm in phụ thuộc rất căn bản vào chất lượng hoạt động của máy móc thiết bị. Gần 1/2 thế kỷ qua kỹ thuật và công nghệ in đ ã phát triển rất nhanh, tạo sức cạnh tranh cho nhiều cơ sở có vốn lớn. Tuy vậy, giá thành máy in hiện đại vẫn rất cao, vượt quá khả năng của những doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nếu công ty vay vốn để đổi mới thiết bị, thường phải trả lãi rất lớn đội giá thành khó giữ được thị phần, kể cả những đ ơn đặt hàng của ngành hàng không dân dụng Việt Nam. Nếu chờ tích luỹ từ nội bộ, thường khó thực hiện, hoặc không thể mua sắm được những thiết bị hiện đại. Bài toán về tạo nguồn vốn và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn huy động, đang là một thách thức đối với những người quản lý công ty. 18
  19. - Thứ ba, trình đ ộ đội ngũ cán bộ CNV của công ty mặc dù đã có sự tăng trưởng khá nhanh về lượng và chất, nhưng về cơ bản vẫn cần có sự đầu tư lớn hơn và qui hoạch phát triển cao hơn. Thiết bị kỹ thuật hiện đại chỉ là một điều kiện cần, nhưng nhân tố có tính quyết định để sử dụng thiết bị, kỹ thuật đó là con người. Đội ngũ lao động lành nghề, trình độ quản lý cao, ý thức trách nhiệm của công nhân, lao động về chất lượng sản phẩm được tạo ra, là lợi thế mạnh mẽ của cạnh tranh. Những yêu câu như vậy đối với công ty in hiện nay là một thách thức lớn. 2. Chất lượng sản phẩm in và những nỗ lực nâng cao chất lượng sản phẩm của công ty In hàng không những năm gần đây. N hư phần lý thuyết đã nêu, in là một hoạt động sản xuất, dịch vụ chuyên ngành. Sản phẩm của công ty in vừa có tính sản xuất vật chất, vừa là một dịch vụ văn hoá. Do đó yêu cầu đối với một sản phẩm in rất đa dạng và khắt khe. Có những sản phẩm in thoả mãn những yêu cầu của nhóm người này nhưng lại không phù hợp với yêu cầu của nhóm người khác. Có những người tiêu dùng ưa thích hình dáng bên ngoài phải nổi, phải hoa mỹ. Có những người tiêu dùng lại chuộng phần trình bày và trang trí bên trong, người ưa thích màu này, người lại ưa màu khác... Chất lượng sản phẩm in được người tiêu dùng quan niệm rất khác nhau, với những yêu cầu cao, và đặc biệt chất lượng sản phẩm in phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố. Để có đ ược một sản phẩm in tới tay người tiêu dùng phải trải qua những giai đoạn, những quá trình. Thực hiện chính xác mỗi khâu, mỗi quá trình trong công đo ạn sản xuất là sự đảm bảo cho tính hoàn thiện của sản phẩm in. Chất lượng sản phẩm in chịu sự tác động của nhiều yếu tố, nhưng trong đề án này với khối lượng dữ liệu về công ty In hàng không hiện có, chúng tôi phân tích những nỗ lực của công ty trên các phương diện sau: 19
  20. + Công nghệ kỹ thuật in: biểu hiện qua việc đầu tư vốn sản xuất mua sắm trang bị các thiết bị kỹ thuật công nghệ in hiện đại của khu vực và thế giới của công ty qua một một số năm. + Đội ngũ cán bộ công nhân viên của công ty thông qua chỉ tiêu về lực lượng lao động ngày càng tăng về số lượng và chất lượng, tay nghề người lao động không ngừng được nâng cao đáp ứng sự phát triển của khoa học kỹ thuật ngành công nghiệp in và đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của thị trường. + Các chính sách đối với người lao động của công ty qua các chỉ tiêu: chế độ ưu đãi với cán bộ CNV, các chính sách đòn b ẩy kinh tế khuyến khích người lao động (tiền lương, tiền thưởng, trợ cấp...) + Một số dịch vụ triển khai để nâng cao hơn chất lượng sản phẩm in như dịch vụ cung ứng nguồn nguyên liệu đầu vào, d ịch vụ cung cấp điện, nước, phù trợ khác cho qúa trình sản xuất... Đ ương nhiên, còn rất nhiều yếu tố khác nữa hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp tác động tới chất lượng sản phẩm, nhưng với giới hạn vạch ra của chuyên đề thực tập ở trên, bài viết chỉ tập trung phân tích 4 yếu tố cơ bản nhất liên quan tới chất lượng sản phẩm, thông qua đó cho phép đánh giá tương đối to àn diện những nỗ lực mà công ty In hàng không đã cố gắng, và đạt được những thành công đáng kể trong mấy năm gần đây. 2.1. Các yếu tố về công nghệ kỹ thuật. V ới ngành công nghệ in nói chung và với công ty In hàng không nói công nghệ in là m ột yếu tố quan trọng quyết định chất lượng sản riêng phẩm in cũng như quyết định sự tồn tại và phát triển của công ty trên thị trường. Công nghệ in được chú trọng đầu tư và thường xuyên đổi mới giúp cho chất lượng sản phẩm in ngày càng nâng cao và tăng cường sức cạnh tranh của công ty. Có thể phân tích điều này qua các giai đoạn phát triển của công ty. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2