LUẬN VĂN: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm ở Công ty Chế tạo máy điện Việt Nam - Hungary
lượt xem 69
download
Từ trước đến nay vấn đề chất lượng sản phẩm luôn là điểm yếu kéo dài nhiều năm ở nước ta. Mặc dù trước đây trong nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, vấn đề chất lượng đã từng được đề cao và được coi là một mục tiêu quan trọng. Nhưng kết quả chưa mang lại là bao do cơ chế tập trung sản xuất theo kế hoạch, tiêu thụ theo kế hoạch, sản phẩm sản xuất ra không đủ cung cấp cho thị trường nên không có sự so sánh, cạnh tranh về sản phẩm...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: LUẬN VĂN: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm ở Công ty Chế tạo máy điện Việt Nam - Hungary
- LUẬN VĂN: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm ở Công ty Chế tạo máy điện Việt Nam - Hungary
- LờI NóI Đầu Từ trước đến nay vấn đề chất lượng sản phẩm luôn là điểm yếu kéo dài nhiều năm ở nước ta. Mặc dù trước đây trong nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, vấn đề chất lượng đã từng được đề cao và được coi là một mục tiêu quan trọng. Nhưng kết quả chưa mang lại là bao do cơ chế tập trung sản xuất theo kế hoạch, tiêu thụ theo kế hoạch, sản phẩm sản xuất ra không đủ cung cấp cho thị trường nên không có sự so sánh, cạnh tranh về sản phẩm dẫn đến chất lượng sản phẩm dần bị mất đi ý nghĩa và không còn là một yếu tố quan trọng nữa mà vấn đề quan trọng lúc bấy giờ là chỉ tiêu số lượng. Trong hơn 10 năm tiến hành công cuộc đổi mới kinh tế xã hội, vấn đề chất lượng sản phẩm dần dần trở về đúng nghĩa của nó. Người tiêu dùng đã có ý thức về việc chọn lựa cho mình những sản phẩm có chất lượng, hàng hoá dịch vụ tốt nhất. Các nhà doanh nghiệp cũng đã nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này và bắt đầu tìm tòi nghiên cứu những cơ chế mới về chất lượng đảm bảo đáp ứng được nhu cầu của thị trường. Chất lượng sản phẩm ngày nay đang trở thành một nhân tố cơ bản để quyết định sự thắng bại trong cạnh tranh quyết định sự tồn tại, hưng vong của từng doanh nghiệp nói riêng cũng như sự thành công hay tụt hậu của nền kinh tế nói chung. Đảm bảo không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm đối với các doanh nghiệp là một yêu cầu cấp thiết nhằm góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển, tạo ra vị chí vững chắc trên thị trường góp phần vào việc nâng cao chất lượng đời sống của toàn xã hội. Công ty Chế tạo máy điện Việt Nam -Hungary là một trong những Công ty dẫn đầu trong ngành Máy điện Việt Nam. Công ty có đội ngũ cán bộ lành nghề, với trang thiết bị máy móc hiện đại do Hungary trang bị thiết bị toàn bộ cùng với sự quản lý chặt chẽ và hợp lý. Do vậy sản phẩm của công ty đã có một vị thế đáng kể và có mặt ở hầu hết các thị trường trong nước. Không những thế hiện nay vấn đề quản lý chất lượng sản phẩm của Công ty đã được nhận thức đúng đắn và Ban lãnh đạo của Công ty luôn tìm mọi cách nhằm nâng cao hiệu quả quản lý chất lượng trong Công ty. Đặc biệt hiện nay Công ty đang áp dụng hệ thống đảm bảo chất lượng ISO 9001: 2000 để hoàn thiện và nâng cao chất lượng sản phẩm của mình. Tuy nhiên, so với nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng nhất là trong xu thế hội nhập toàn cầu như hiện nay, thì chất lượng sản phẩm của Công ty cần phải được ngày
- càng nâng cao hơn nữa để có thể đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của khách hàng nhằm đứng vững được trước mọi sự cạnh tranh quyết liệt của thị trường. Luận văn tốt nghiệp với đề tài: " Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm ở Công ty Chế tạo máy điện Việt Nam - Hungary. Đề tài này gồm: Phần I : Những vấn đề chung về chất lượng sản phẩm và quản lý chất lượng của doanh nghiệp. Phần II : Phân tích tình hình tổ chức và quản lý chất lượng sản phẩm của Công ty Chế tạo máy điện Việt Nam - Hungary. Phần III : Một số biện pháp nâng cao chất lượng sản phẩm ở Công ty chế tạo máy điện Việt nam – Hungary. Phần I
- Những vấn đề chung về chất lượng sản phẩm và quản lý chất lượng sản phẩm trong doanh nghiệp I. Khái niệm chất lượng sản phẩm trong doanh nghiệp. Trong cơ chế thị trường việc sản xuất kinh doanh của bất kỳ một doanh nghiệp nào thành công hay thất bại đều phụ thuộc rất lớn vào chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp đó. Đây là một yếu tố quan trọng quyết định khả năng tiêu thụ sản phẩm, khả năng cạnh tranh trên thị trường. Trong quá trình chuyển sang cơ chế thị trường, vấn đề chất lượng sản phẩm hơn lúc nào hết được các doanh nghiệp quan tâm một cách nghiêm túc. Việc đưa chất lượng sản phẩm vào nghiên cứu như là một môn học chính đã đánh dấu một bước tiến quan trọng trong quá trình phát triển khoa học kinh tế ở nước ta. 1. Khái niệm chất lượng sản phẩm. Hiện nay, theo tài liệu các nước trên thế giới có rất nhiều định nghĩa khác nhau về chất lượng sản phẩm. Mỗi quan niệm khác nhau đều có những căn cứ khoa học và thực tiễn khác nhau và có những đóng góp nhất định thúc đẩy khoa học quản trị chất lượng không ngừng phát triển và hoàn thiện. Tuỳ thuộc vào góc độ xem xét, quan niệm của mỗi nước trong từng giai đoạn phát triển kinh tế xã hội nhất định và nhằm mục tiêu khác nhau. Người ta đưa ra nhiều khái niệm về chất lượng sản phẩm cũng khác nhau. Chất lượng - theo quan điểm triết học - là một phần tồn tại cơ bản bên trong các sự vật hiện tượng. Theo Mác thì chất lượng sản phẩm là mức độ, là thước đo biểu thị giá trị sử dụng của nó. Giá trị sử dụng của một sản phẩm làm nên tính hữu ích của sản phẩm đó và nó chính là chất lượng của sản phẩm. Theo quan điểm của hệ thống xã hội chủ nghĩa trước đây mà Liên Xô là đại diện thì chất lượng sản phẩm là tổng hợp những đặc tính kinh tế - kỹ thuật nội tại phản ánh giá trị sử dụng và chức năng của sản phẩm đó đáp ứng những nhu cầu định trước cho nó những điều kiện xác định về kinh tế - kỹ thuật. Đây là một định nghĩa xuất phát từ quan điểm của các nhà sản xuất. Về mặt kinh tế, quan điểm này phản ánh đúng bản chất của sản phẩm. Qua đó dễ dàng đánh giá được mức độ chất lượng sản phẩm đạt được nhờ đó xác định
- được rõ ràng những đặc tính và chỉ tiêu nào cần hoàn thiện. Tuy nhiên, chất lượng sản phẩm chỉ được xem xét một cách biệt lập, tách rời với thị trường, làm cho chất lượng sản phẩm không thực sự gắn với nhu cầu và sự vận động biến đổi của nhu cầu trên thị trường, với hiệu quả kinh tế và điều kiện cụ thể của từng doanh nghiệp. Khiếm khuyết này cũng dễ hiểu bởi vì cũng giống như nước ta, các nước XHCN sản xuất theo kế hoạch, tiêu thụ theo kế hoạch, sản phẩm sản xuất ra không đủ cung cấp cho thị trường nên không có sự so sánh, cạnh tranh về sản phẩm. Từ đặc điểm về điều kiện kinh tế - xã hội đã dẫn đến cách hiểu chưa đầy đủ về chất lượng sản phẩm và đây cũng là một yếu tố kìm hãm nền kinh tế của các nước XHCN nói chung và nước ta nói riêng. Bước sang cơ chế thị trường khi nhu cầu thị trường được coi là xuất phát điểm của mọi hoạt động sản xuất kinh doanh thì định nghĩa trên không còn phù hợp nữa. Quan điểm về chất lượng sản phẩm phải được nhìn nhận năng động thực tiễn và hiệu quả hơn. Tức là khi xem xét chất lượng sản phẩm phải gắn liền với nhu cầu của người tiêu dùng trên thị trường, với chiến lược cạnh tranh của doanh nghiệp. Những quan niệm mới đó được gọi là quan niệm chất lượng sản phẩm theo hướng khách hàng. Có rất nhiều tác giả theo quan niệm này, với nhiều cách diễn đạt khác nhau: Crosby: Chất lượng là sự phù hợp với những yêu cầu hay đặc tính nhất định. Feigenbaum: Chất lượng sản phẩm là tập hợp các đặc tính kỹ thuật, công nghệ và vận hành của sản phẩm, nhờ chúng mà sản phẩm đáp ứng được các yêu cầu của người tiêu dùng khi sử dụng sản phẩm. Juran: Chất lượng là sự phù hợp với sử dụng, với công dụng. Phần lớn các chuyên gia về chất lượng trong nền kinh tế thị trường coi chất lượng sản phẩm là sự phù hợp với nhu cầu hay mục đích sử dụng của người tiêu dùng. Các đặc điểm kinh tế – kỹ thuật phản ánh chất lượng sản phẩm khi chúng thoả mãn được những đòi hỏi của người tiêu dùng. Chất lượng được nhìn từ bên ngoài, theo quan điểm của khách hàng. Chỉ có những đặc tính đáp ứng được nhu cầu của hàng hoá mới là chất lượng sản phẩm. Mức độ đáp ứng nhu cầu là cơ sở để đánh giá trình độ chất lượng sản phẩm đạt được. Theo quan niệm này chất lượng sản phẩm không phải là cao nhất và tốt nhất mà là sự phù hợp với nhu cầu.
- Để phát huy mặt tích cực và khắc phục những hạn chế của các quan niệm trên. tổ chức tiêu chuẩn chất lượng quốc tế (ISO) đã đưa ra khái niệm: “Chất lượng là tập hợp các đặc tính của một thực thể (đối tượng) tạo cho thực thể (đối tượng) có khả năng thoả mãn nhu cầu đã nêu hoặc tiềm ẩn” (Theo ISO 8402:1994). Dựa trên khái niệm này, cục đo lường chất lượng nhà nước Việt Nam đã đưa ra khái niệm: “Chất lượng sản phẩm của một sản phẩm nào đó là tổng hợp của tất cả các tính chất biểu thị giá trị sử dụng phù hợp với nhu cầu của xã hội trong những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định, đảm bảo các yêu cầu của người sử dụng nhưng cũng đảm bảo các tiêu chuẩn thiết kế và khả năng sản xuất của từng nước” (TCVN-5814-1994). Về thực chất, đây là những khái niệm có sự kết hợp của những quan niệm trước đây và những quan niệm trong nền kinh tế thị trường hiện đại. Bởi vậy những quan niệm này được chấp nhận khá phổ biến và rộng rãi hiện nay. Tuy nhiên quan niện chất lượng sản phẩm tiếp tục được phát triển, bổ xung hơn nữa. Để đáp ứng nhu cầu khách hàng, các doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm của mình nhưng không thể theo đuổi chất lượng cao với bất cứ giá nào mà luôn có giới hạn về kinh tế xã hội và công nghệ. Vì vậy đòi hỏi các doanh nghiệp phải nắm chắc các loại chất lượng sản phẩm: Chất lượng thiết kế: Là giá trị thể hiện bằng các tiêu chuẩn chất lượng được phác thảo bằng các văn bản, bản vẽ. Chất lượng tiêu chuẩn: Là chất lượng được đánh giá thông qua các chỉ tiêu kỹ thuật của quốc gia, quốc tế, địa phương hoặc ngành. Chất lượng thị trường: Là chất lượng bảo đảm thoả mãn những nhu cầu nhất định, mong đợi của người tiêu dùng. Chất lượng thành phần: Là chất lượng đảm bảo thoả mãn những nhu cầu mong đợi của một hoặc số tầng lớp người nhất định. Chất lượng phù hợp: Là chất lượng phù hợp với ý thích, sở trường, tâm lý người tiêu dùng. Chất lượng tối ưu: Là giá trị các thuộc tính của sản phẩm hàng hoá phù hợp với nhu cầu của xã hội nhằm đạt được hiêụ quả kinh tế cao nhất.
- II. Đặc điểm và các chỉ tiêu phản ánh chất lượng sản phẩm. 1. Đặc điểm của chất lượng sản phẩm. Chất lượng sản phẩm là một phạm trù kinh tế xã hội công nghệ tổng hợp, luôn luôn thay đổi theo không gian và thời gian, phụ thuộc chặt chẽ vào môi tr ường và điều kiện kinh doanh cụ thể của từng thời kỳ. Mỗi sản phẩm được đặc trưng bằng các tính chất, đặc điểm riêng biệt nội tại của bản thân sản phẩm. Những đặc tính đó phản ánh tính khách quan của sản phẩm thể hiện trong quá trình hình thành và sử dụng sản phẩm. Những đặc tính khách quan này phụ thuộc rất lớn vào trình độ thiết kế quy định cho sản phẩm. Nói tới chất lượng là phải xem xét sản phẩm đó thoả mãn tới mức độ nào nhu cầu của khách hàng. Mức độ thoả mãn phụ thuộc rất lớn vào chất lượng thiết kế và những tiêu chuẩn kỹ thuật đặt ra đối với mỗi sản phẩm, ở các nước tư bản qua phân tích thực tế chất lượng sản phẩm trong nhiều năm người ta đã đi đến kết luận rằng chất lượng sản phẩm tốt hay xấu thì 75% phụ thuộc vào giải pháp thiết kế, 20% phụ thuộc vào công tác kiểm tra, kiểm soát và chỉ có 5% phụ thuộc vào kết quả nghiệm thu cuối cùng. Chất lượng sản phẩm phải thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng trong những điều kiện hoàn cảnh cụ thể về kinh tế - kỹ thuật của mỗi nước, mỗi vùng. Trong kinh doanh, không thể có chất lượng như nhau cho tất cả các vùng mà căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể đề ra các phương án chất lượng cho phù hợp. Chất lượng chính là sự phù hợp về mọi mặt với yêu cầu của khách hàng. Nhiều khi chất lượng sản phẩm còn mang tính dân tộc, tính truyền thống, thị hiếu tiêu dùng. Chất lượng sản phẩm biểu hiện ở hai cấp độ và phản ánh hai mặt khách quan và chủ quan hay còn gọi là hai loại chất lượng: Thứ nhất, chất lượng trong tuân thủ thiết kế, thể hiện ở mức độ chất lượng sản phẩm đạt được so với tiêu chuẩn thiết kế đề ra. Khi sản phẩm sản xuất ra có những đặc tính kỹ thuật càng gần với tiêu chuẩn thiết kế thì chất lượng sản phẩm càng cao được phản ánh thông qua các chỉ tiêu như tỷ lệ phế phẩm, sản phẩm hỏng loại bỏ, sản phẩm không đạt
- yêu cầu thiết kế. Loại chất lượng này phản ánh những đặc tính, bản chất khách quan của sản phẩm, do đó liên quan chặt chẽ đến khả năng cạnh tranh về chi phí. Thứ hai, chất lượng trong sự phù hợp hay còn gọi là chất lượng thiết kế. Nó phản ánh mức độ phù hợp của sản phẩm đối với nhu cầu của khách hàng. Chất lượng phụ thuộc vào mức độ phù hợp của sản phẩm thiết kế so với nhu cầu và mong muốn của khách hàng. Mức độ phù hợp càng cao thì chất lượng càng cao. Loại chất lượng này phụ thuộc vào mong muốn và sự đánh giá chủ quan của người tiêu dùng, vì vậy nó tác động mạnh mẽ khả năng tiêu thụ sản phẩm. 2. Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng sản phẩm. Khi nói tới chất lượng phải xem xét thông qua các chỉ tiêu đặc trưng mới khách quan và chính xác được. Mỗi sản phẩm được đặc trưng bởi các tính chất, đặc điểm là những đặc tính khách quan của sản phẩm thể hiện trong quá trình hình thành và sử dụng sản phẩm đó. Những đặc tính khách quan này phụ thuộc rất lớn vào trình độ thiết kế quy định cho sản phẩm đó. Mỗi tính chất được biểu thị bởi các chỉ tiêu cơ lý hoá nhất định có thể đo lường đánh giá được. Vì vậy nói đến chất lượng sản phẩm phải đánh giá thông qua hệ thống chỉ tiêu, tiêu chuẩn cụ thể, Đặc điểm này khẳng định những quan điểm sai lầm cho rằng chất lượng sản phẩm là cái không thể đo lường, đánh giá được. Hệ thống chỉ tiêu đó bao gồm: - Chỉ tiêu nội dung: đặc trưng cho các thuộc tính xác định chức năng chủ yếu mà sản phẩm phải thực hiện và quy định những việc sử dụng sản phẩm đó, trong đó chia thành: - Chỉ tiêu phân loại: Chỉ rõ sản phẩm được xếp vào một nhóm nhất định nào đó. - Chỉ tiêu chức năng: Đặc trưng cho hiệu quả sử dụng sản phẩm và tính tiên tiến của các giải pháp kỹ thuật đưa vào sản phẩm. - Chỉ tiêu kích thước; kết cấu, thành phần cấu tạo: Đặc trưng cho các giải pháp thiết kế cơ bản, sự thuận tiện, khả năng tổ hợp hoá. - Chỉ tiêu độ tin cậy: Đặc trưng cho tính chất của sản phẩm luôn giữ được khả năng làm việc trong một khoảng thời gian nhất định. - Chỉ tiêu lao động học: Đặc trưng cho quan hệ giữa người và sản phẩm bao gồm các chỉ tiêu: vệ sinh, nhân chủng, sinh lý của con người liên quan đến quá trình sản xuất và sinh hoạt.
- - Chỉ tiêu thẩm mỹ: Đặc trưng cho sự truyền cảm, sự hợp lý về hình thức và sự hài hoà về kết cấu, sự hoàn thiện với sản xuất và độ ổn định của hàng hoá. Chỉ tiêu công nghệ: Đặc trưng cho quá trình chế tạo, đảm bảo tiết kiệm lớn nhất các chi phí. - Chỉ tiêu thống nhất hoá: Đặc trưng cho mức độ sử dụng trong sản phẩm, các bộ phận được tiêu chuẩn hoá, thống nhất hoá và mức độ thống nhất với các sản phẩm khác. - Chỉ tiêu dễ vận chuyển: Đặc trưng cho sự thích ứng đối với việc vận chuyển, đặc trưng cho các công việc chuẩn bị và kết thúc liên quan đến vận chuyển, cụ thể là chi phí trung bình để vận chuyển một đơn vị sản phẩm. - Chỉ tiêu an toàn: Đặc trưng cho tính đảm bảo an toàn cho người sản xuất và sử dụng. - Chỉ tiêu về phát minh, sáng chế: Đặc trưng cho khả năng giữ bản quyền. - Chỉ tiêu tuổi thọ: Đặc trưng cho thời gian sử dụng của sản phẩm. - Chỉ tiêu về chi phí, giá cả: Đặc trưng cho hao phí xã hội cần thiết để tạo nên sản phẩm. Các chỉ tiêu này không tồn tại độc lập, tách rời mà có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Vai trò, ý nghĩa của từng chỉ tiêu rất khác nhau đối với mỗi sản phẩm khác nhau. Mỗi loại sản phẩm cụ thể sẽ có những chỉ tiêu mang tính trội và quan trọng hơn những chỉ tiêu khác. Mỗi doanh nghiệp phải lựa chọn và quyết định những chỉ tiêu quan trọng nhất làm cho sản phẩm của mình mang sắc thái riêng, phân biệt với những sản phẩm đồng loại trên thị trường. Hiện nay một sản phẩm được coi là có chất lượng cao ngoài các chỉ tiêu an toàn đối với người sử dụng và xã hội, môi trường ngày càng quan trọng, trở thành bắt buộc đối với các doanh nghiệp. Đặc biệt những là sản phẩm có ảnh hưởng trực tiếp đối với sức khoẻ và cuộc sống của con người. Để sản xuất kinh doanh một mặt hàng nào đó, doanh nghiệp phải xây dựng tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm, phải đăng ký và được các cơ quan quản lý chất lượng sản phẩm Nhà nước ký duyệt. Tuỳ theo từng loại sản phẩm, từng điều kiện của doanh nghiệp mà xây dựng tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm. Chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp phải đạt mức chất lượng đã đăng ký, đó là cơ sở kiểm tra, đánh giá, sản phẩm sản xuất.
- III. Những nhân tố tác động đến chất lượng sản phẩm: Chất lượng sản phẩm chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác nhau. Có thể chia thành hai nhóm chủ yếu: 1. Nhóm nhân tố bên trong doanh nghiệp. * Lực lượng lao động trong doanh nghiệp: Đây là nhân tố có ảnh hưởng quyết định tới chất lượng. Dù trình độ công nghệ hiện đại tới đâu nhân tố con người vẫn được coi là nhân tố căn bản nhất tác động đến chất lượng, các hoạt động chất lượng sản phẩm và các hoạt động dịch vụ. Trình độ chuyên môn, tay nghề, kinh nghiệm, ý thức trách nhiệm, tính kỷ luật, tinh thần hiệp tác phối hợp, khả năng thích ứng với sự thay đổi nắm bắt thông tin của mọi thành viên trong doanh nghiệp tác động trực tiếp đến chất lượng sản phẩm. Quan tâm đầu tư phát triển và không ngừng nâng cao nguồn nhân lực là nhiệm vụ quan trọng trong quản lý chất lượng của các doanh nghiệp. Đó cũng là con đường quan trọng nhất nâng các khả năng cạnh tranh về chất lượng của mỗi quốc gia. * Khả năng về công nghệ, máy móc, thiết bị của doanh nghiệp. Đối với mỗi doanh nghiệp, công nghệ luôn là một trong những yếu tố cơ bản có tác động mạnh mẽ nhất đến chất lượng sản phẩm. Mức độ chất lượng sản phẩm trong mỗi doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào trình độ hiện đại, cơ cấu tính đồng bộ, tình hình bảo dưỡng, duy trì khả năng làm việc theo thời gian của máy móc thiết bị, công nghệ, đặc biệt là những doanh nghiệp tự động hoá cao, dây chuyền và tính chất sản xuất hàng loạt. Trình độ công nghệ của các doanh nghiệp không thể tách rời trình độ công nghệ trên Thế giới. Muốn sản phẩm có chất lượng cao, đủ khả năng cạnh tranh trên thị trường, đặc biệt là thị trường quốc tế mỗi doanh nghiệp cần có chính sách công nghệ phù hợp cho phép sử dụng những thành tựu khoa học công nghệ của Thế giới, đồng thời khai thác tối đa nguồn công nghệ nhằm tạo ra sản phẩm có chất lượng cao với chi phí hợp lý. * Vật tư nguyên liệu và hệ thống tổ chức đảm bảo nguyên vật liệu của doanh nghiệp. Nguyên vật liệu là một yếu tố tham gia trực tiếp vào việc cấu thành nên sản phẩm. Những đặc tính của nguyên liệu sẽ được đưa vào sản phẩm, vì vậy chất lượng nguyên liệu ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sản phẩm sản xuất ra. Không thể có chất lượng cao từ
- nguyên liệu có chất lượng tồi. Chủng loại, cơ cấu, tính đồng bộ và chất lượng nguyên liệu ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sản phẩm. Ngoài ra chất lượng hoạt động của doanh nghiệp còn phụ thuộc rất lớn vào việc thiết lập được hệ thống cung ứng nguyên liệu thích ứng tạo trên cơ sở tạo dựng mối quan hệ lâu dài, tạo hiểu biết và tin t ưởng lẫn nhau giữa người sản xuất và người cung ứng đảm bảo khả năng tổ chức cung ứng đầy đủ kịp thời, chính xác đúng nơi cần thiết. * Trình độ tổ chức quản lý và tổ chức sản xuất của doanh nghiệp. Trình độ quản trị nói chung và trình độ quản trị chất lượng nói riêng là một trong những nhân tố cơ bản góp phần đẩy nhanh tốc độ cải tiến hoàn thiện chất lượng sản phẩm của các doanh nghiệp, các chuyên gia quản trị chất lượng đồng tình cho rằng trong thực tế có tới 80 % những vấn đề về chất lượng là do quản trị gây ra. Vì vậy nói đến quản trị chất lượng ngày nay người ta cho rằng trước hết đó là chất lượng của quản trị. Các yếu tố sản xuất như nguyên vật liệu, máy móc thiết bị, dây chuyền sản xuất và người lao động dù ở trình độ cao nhưng nếu không biết tổ chức quản lý hợp lý tạo ra sự phối hợp đồng bộ, nhịp nhàng giữa các khâu, các yếu tố của quá trình sản xuất thì không thể tạo ra được sản phẩm có chất lượng cao được. Thậm chí trình độ quản lý tồi còn làm giảm sút chất lượng sản phẩm, gây lãng phí nguồn lực sản xuất dẫn đến giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh. Chất lượng sản phẩm phụ thuộc rất lớn vào cơ cấu và cơ chế quản trị, nhận thức, hiểu biết về chất lượng và trình độ chất lượng của cán bộ quản trị, Khả năng xác định chính xác mục tiêu, chính sách chất lượng và chỉ đạo tổ chức thực hiện chương trình, thực hiện kế hoạch chất lượng. Chất lượng là vấn đề hết sức quan trọng do đó không thể phó mặc cho các nhân viên kiểm tra chất lượng sản phẩm, các doanh nghiệp phải coi chất l ượng là vấn đề thuộc trách nhiệm của toàn bộ doanh nghiệp. 2. Nhóm nhân tố bên ngoài doanh nghiệp. * Nhu cầu thị trường. Nhu cầu là xuất phát điểm của quá trình quản lý chất lượng tạo lực hút, định hướng cho cải tiến và hoàn thiện chất lượng sản phẩm. Cơ cấu, tính chất, đặc điểm và xu hướng vận động của nhu cầu tác động trực tiếp tới chất lượng sản phẩm. Chất lượng sản phẩm có
- thể được đánh giá cao ở thị trường này nhưng lại không cao ở thị trường khác. Điều đó đòi hỏi phải tiến hành nghiêm túc, thận trọng trong công tác điều tra nghiên cứu nhu cầu thị trường, phân tích môi trường kinh tế – xã hội, xác định chính xác nhận thức của khách hàng, thói quen, truyền thống, phong tục, tập quán, văn hoá, mục đích sử dụng và khả năng thanh toán... nhằm đưa ra những sản phẩm phù hợp với từng loại thị trường. Thông thường khi mức sống xã hội còn thấp, sản phẩm khan hiếm thì yêu cầu của người tiêu dùng chưa cao, người ta chưa quan tâm đến chất lượng sản phẩm cao. Nhưng khi đời sống xã hội tăng lên thì đòi hỏi về chất lượng sản phẩm sẽ tâng cao, ngoài tính năng sử dụng còn cả giá trị thẩm mỹ... Người ta chấp nhận mua với giá cao để có sản phẩm ưng ý. Chính vì vậy, các nhà sản xuất phải sản xuất những sản phẩm có chất lượng đáp ứng được nhu cầu thị trường. Lúc đó việc nâng cao chất lượng sản phẩm mới đi đúng hướng. * Trình độ tiến bộ khoa học công nghệ. Trong thời đại ngày nay không có sự tiến bộ kinh tế xã hội nào không gắn liền với tiến bộ khoa học công nghệ trên thế giới. Bắt đầu từ cuộc cách mạng khoa học công nghệ lần thứ nhất, chủng loại, chất lượng sản phẩm không ngừng thay đổi với tốc độ hết sức nhanh. Tiến bộ của khoa học công nghệ có tác dụng như lực đẩy tạo khả năng to lớn đưa chất lượng sản phẩm không ngừng tăng lên. Nhờ khả năng to lớn của tiến bộ khoa học công nghệ sáng chế những sản phẩm mới, tạo ra và đưa vào sản xuất những công nghệ mới có các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật cao hơn, thay thế nguyên vật liệu mới, tốt, rẻ hơn, hình thành phương pháp và phương tiện kỹ thuật quản trị tiên tiến góp phần giảm chi phí nâng cao chất lượng sản phẩm. * Cơ chế quản lý chính sách của Nhà nước. Khả năng cải tiến, nâng cao chất lượng sản phẩm của mỗi doanh nghiệp phụ thuộc chặt chẽ vào cơ chế quản lý của Nhà nước. Cơ chế quản lý vừa là môi trường vừa là điều kiện cần thiết tác động đến phương hướng, tốc độ cải tiến và nâng cao chất lượng sản phẩm của các doanh nghiệp. Thông qua cơ chế và các chính sách quản lý vĩ mô của Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi kích thích: + Tính độc lập, tự chủ sáng tạo trong cải tiến chất lượng của các doanh nghiệp.
- + Hình thành môi trường thuận lợi cho huy động công nghệ mới, tiếp thu ứng dụng những phương pháp quản trị chất lượng hiện đại. + Sự cạnh tranh lành mạnh, công bằng, xoá bỏ sức ỳ, tâm lý ỷ lại, không ngừng phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật hoàn thiện chất lượng. * Điều kiện tự nhiên: + Khí hậu: Các doanh nghiệp cần quan tâm đến khí hậu, phân tích mức độ ảnh hưởng khí hậu từng mùa đến từng loại sản phẩm của mình. + Bức xạ mặt trời: ảnh hưởng của các tia hồng ngoại trong ánh sáng của mặt trời, những tia này có thể làm thay đổi về mùi vị màu sắc của sản phẩm. + Mưa, gió, bão: Làm cho sản phẩm bị ngấm nước, độ ẩm cao, quá trình ô xy hoá mạnh hơn dẫn đến biến đổi chất lượng sản phẩm. + Vi sinh vật, côn trùng: Chủ yếu tác động vào một số loại sản phẩm tạo ra quá trình lên men, phân huỷ làm cho sản phẩm nát rữa ố màu... * Nhân tố kinh tế xã hội. + Các yếu tố kinh tế: Sự tác động của các qui luật kinh tế trong nền kinh tế thị trường như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh. + Mức thu nhập của người tiêu dùng cao thì đòi hỏi sản phẩm có chất lượng cao, nó đặc trưng cho những tiêu dùng ở khu vực đô thị và ngược lại. + Trình độ văn minh của người tiêu dùng cũng như thị hiếu của người tiêu dùng. Ngày nay người tiêu dùng ưa thích những sản phẩm có chất lượng cao, thuận tiện và dễ sử dụng. Phần II phân tích tình hình tổ chức và quản lý chất lượng sản phẩm của công ty chế tạo chế tạo máy điện việt nam - hungary
- I) Quá trình hình thành và phát triển của Công ty 1. Lịch sử hình thành Công ty động cơ điện Việt nam - Hungari, nay là Công ty chế tạo máy điện Việt nam - Hungary, tên giao dịch là VIHEM được thành lập ngày 04/12/1978 do Hungari trang bị thiết bị toàn bộ - Địa chỉ: Thị trấn Đông Anh Hà Nội (trên quốc lộ 3, cách Hà Nội 25 km về phía bắc). - Số CBCNV là: 503 - Số tốt nghiệp đại học trở nên: 93 - Số công nhân bậc cao (bậc 5/7 trở nên ): 209 - Sản phẩm chính của Công ty là các loại máy điện quay và Balat đèn huỳnh quang. - Sản lượng theo thiết kế: 15.000máy điện quay/năm 400.000 Balat/năm - Hiện nay Công ty có trên 90 chủng loại sản phẩm, thế hệ động cơ 3K, 4K, công suất đến 1000 KW, điện áp 220 V đến 6000V, tốc độ quay từ 450 - 3000 vg/ph. - Tháng 10/1994 phòng thí nghiệm động cơ điện và quạt điện được Tổng cục TC - ĐL - CL công nhận là Phòng thí nghiệm chuẩn quốc gia, thuộc hệ thống VILAS của Việt Nam. - Năm 1994 hoàn thành đề tài cấp Bộ: Nghiên cứu, thiết kế và chế tạo động cơ điện 1 pha. Chủ trì đề tài KC40 - 93 cấp Nhà nước: Nghiên cứu, thiết kế và chế tạo động cơ điện 3 pha rô to dây quấn, điện áp 6000 V với mục tiêu giảm chi phí nguyên vật liệu đến 30%. Sau 2 năm thực hiện đề tài nhiều loại động cơ rô to dây quấn từ 55 KW đến 600 KW được thiết kế, chế tạo đang hoạt động trên nhiều lĩnh vực cán thép, mía đường, xi măng, thuỷ lợi, ( Công ty Biên Hoà, cán thép Nhà Bè, cán thép Tân Thuận... ) - Công ty đã nhận 47 Huy chương vàng, 11 bằng khen cho các sản phẩm mới tham gia hội chợ triển lãm quốc tế hàng công nghiệp. Công ty được nhà nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam tặng Huân chương lao động hạng 3, Huân chương lao động hạng 2, Huân chương lao động hạng nhất, Huân chương chiến công hạng 3 về công tác bảo vệ an ninh Tổ quốc.
- - Hiện nay Công ty đã mở hai chi nhánh tại Thành phố Hồ Chí Minh và Thành phố Đà Nẵng có hơn 50 địa điểm bán hàng ở các thành phố lớn và các tỉnh trong toàn quốc. - Công ty nhận cung cấp động cơ điện cho các dự án, tham gia đấu thầu: Năm 1998 cung cấp cho liên doanh máy bơm Việt Nhật EBARA Hải Dương 50 động cơ 33 KW - 1000 vg/ph trúng thầu tại Tân Chi. - Sản phẩm của Công ty được công nhận thay thế hàng nhập ngoại. - Sản phẩm của Công ty trong 2 năm 2000 - 2001 đạt danh hiệu sản phẩm ưa thích được người tiêu dùng bình chọn, do hội tiêu chuẩn và bảo vệ người tiêu dùng Việt nam tổ chức năm 2001. - Mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của VIHEM được đảm bảo bởi hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế ISO 9001: 2000, hy vọng sẽ thoả mãn yêu cầu của khách hàng. 2. Quá trình phát triển Do Công ty được thành lập khá sớm (1978) trong nền kinh tế bao cấp với điều kiện khó khăn mọi mặt như điện, vật tư, lao động gặp muôn vàn khó khăn. Song với sự quyết tâm của lãnh đạo đơn vị và tập thể các bộ công nhân viên Công ty, Công ty đã bắt đầu đi vào sản xuất ổn định cùng với sự gia tăng về sản lượng và đa dạng hoá sản phẩm đánh dấu một bước trưởng thành của Công ty. Năm nào cũng hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu kế hoạch của Nhà nước giao, với mức tăng trưởng năm sau cao hơn năm trước Bước vào thời kỳ đổi mới đất nước, chế độ bao cấp dần được xoá bỏ. Kế hoạch sản xuất kinh doanh được đơn vị chủ quản phê duyệt. Sản phẩm Công ty sản xuất ra không còn được Nhà nước bao tiêu nữa. Đây là giai đoạn đầy khó khăn thử thách và cũng là cơ hội phát triển của Công ty. Công ty đã chủ động đa dạng hoá sản phẩm nhằm thoả mãn nhu cầu sử dụng của khách hàng và đã chiếm được ưu thế cạnh tranh trên thị trường. 3. Chức năng và nhiệm vụ của Công ty. Là một đơn vị kinh tế quốc doanh trực thuộc Bộ công nghiệp thực hiện kinh doanh, sản xuất, theo những quy định về lĩnh vực kinh doanh đã được cấp giấy phép. Mặt khác
- Công ty còn là một đơn vị tự hạch toán, tự chủ về tài chính, có tư cách pháp nhân, có tài khoản và có con dấu riêng. Xây dựng và tổ chức thực hiện các kế hoạch kinh doanh sản xuất bán buôn, bán lẻ thiết bị máy móc kỹ thuật điện dùng trong công nghiệp và nhu cầu sinh hoạt của nhân dân - kinh doanh vật tư kỹ thuật điện chuyên dùng, dịch vụ tư vấn chuyển giao công nghệ sản xuất, chế tạo động cơ điện. Nghiên cứu khả năng sản xuất, nhu cầu thị trường trong và ngoài nước để có biện pháp đẩy mạnh quan hệ kinh tế thương mại giữa doanh nghiệp và các doanh nghiệp nước ngoài. Công ty cung ứng dịch vụ lắp đặt, sửa chữa trên 90 chủng loại sản phẩm bao gồm: - Động cơ điện 1 pha: Công suất từ 0,125KW – 2,2KW Tốc độ quay 1500v/p – 3000v/p - Động cơ điện 3 pha: Thế hệ 3 kỳ và 4 kỳ Công suất từ 125KW – 1000KW Điện áp từ 0,4KV – 6KV Tốc độ quay 450v/p –3450v/p - Ba lát đèn ống loại: 20W – 40W Với phương châm thoả mãn khách hàng là mục tiêu cao nhất, chất lượng là chìa khoá của mọi sự thành công, vì vậy Công ty chế tạo máy điện Việt nam - Hungari đã không ngừng phấn đấu để xứng đáng là nhà cung cấp máy điện hàng đầu của Việt nam ) Tổ chức sản xuất kinh doanh của Công ty Với đặc điểm sản phẩm của Công ty có nhiều chi tiết, bộ phận phức tạp dẫn tới dây chuyền công nghệ sản xuất của Công ty cũng rất phức tạp, nhưng nhờ biết cách xắp sếp bố chí bộ máy tổ chức sản xuất kinh doanh hợp lý đã giúp cho Công ty hoàn thành các đơn đặt hàng phức tạp theo yêu cầu của khách hàng đồng thời luôn hoàn thành vượt mức kế hoạch đặt ra
- Mô tả quá trình sản xuất kinh doanh của Công ty Lưu đồ trách nhiệm Yêu cầu của khách hàng Phòng kinh doanh Xem xét - Phòng kinh doanh - Phòng kỹ thuật Hợp đồng / đặt hàng SP truyền Thiết hế SP Thiết kế SP thống đặc biệt mới / cải tiến
- Phòng kinh doanh - Phòng kinh doanh - Phòng kỹ thuật Phòng kỹ thuật - Phòng kinh doanh - Các đơn vị sản xuất Phòng quản lý chất lượng Phòng kinh doanh Phòng kinh doanh - Phòng quản lý chất lượng - Phòng kinh doanh
- lưu đồ (tiếp) trách nhiệm - Phòng quản lý chất lượng Sản xuất - Phòng kinh doanh, Phòng thiết bị, Phòng kỹ thuật - Xưởng điện Gia công Gia công - Xưởng cơ khí (cơ khí) (điện) - Phòng kinh doanh Lắp ráp - Phòng kỹ thuật - Phòng quản lý chất lượng Xưởng điện Nhập kho - Phòng kinh doanh Giao hàng - Phòng quản lý chất lượng - Xưởng điện - Xưởng điện Dịch vụ giao - Phòng kinh doanh hàng sau bán Phòng kinh doanh - Phòng kinh doanh - Phòng quản lý chất lượng
- Mô tả quá trình sản xuất động cơ điện: Vật tư Rô to Lõi Bối Trục đúc thép dây nhôm Stato Stato nhôm Nắp Nắp Chi Rôto Stato Thân tiết trên trước sau lồng dây phụ trục Tẩm sấy
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản trị nhân sự tại công ty xe đạp- xe máy Đống Đa - Hà Nội
78 p | 2265 | 1290
-
Luận văn: “Một số giải pháp hỗ trợ và thúc đẩy xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của công ty xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ ARTEXPORT sang thị trường Nhật Bản”
85 p | 767 | 343
-
Luận văn: Một số giải pháp Marketing nhằm nâng cao khả năng tiêu thụ sản phẩm tại Công ty Thiết bị và phát triển chất lượng
67 p | 691 | 306
-
Luận văn "Một số giải pháp thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào VN"
63 p | 401 | 185
-
Luận văn: Một số giải pháp chủ yếu góp phần phát triển dịch vụ ngân hàng bán lẻ tại Ngân hàng ngoại thương Việt Nam trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế
106 p | 410 | 159
-
Luận văn - Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực quản lý ở công ty xây lắp – vật liệu xây dựng
76 p | 409 | 139
-
Luận văn: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng theo chuẩn mực và thông lệ Ngân hàng quốc tế
144 p | 304 | 111
-
Luận văn “Một số giải pháp nhằm tăng cường công tác quản lý và sử dụng nguồn Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay"
29 p | 268 | 102
-
Luận văn - Một số giải pháp nâng cao hiệu quả TTHH ở Công ty Thương Mại Gia Lâm Hà Nội
46 p | 213 | 82
-
Luận văn: Một số giải pháp nhằm phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của đạo đức tín đồ Công giáo trong quá trình đổi mới của địa phương và của đất nước
71 p | 527 | 81
-
Luận văn: " Một số giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu ở công ty dâu tằm tơ I- Hà Nội "
72 p | 240 | 79
-
Luận văn: "Một số giải pháp nâng cao sản lượng tiêu thụ xi măng đối với Công ty Vật tư Kỹ thuật Xi măng giai đoạn 2001 - 2005"
47 p | 213 | 61
-
Luận văn: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động kế toán và nâng cao chất lượng thông tin kế toán trong các doanh nghiệp Việt Nam
93 p | 248 | 58
-
Luận văn: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu tại Công ty Cổ phần xuất nhập khẩu thương mại Việt Tuấn
66 p | 198 | 48
-
LUẬN VĂN: Một số giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ tại công ty Artexport Việt Nam trong giai đoạn hậu khủng hoảng kinh tế thế giới
74 p | 214 | 36
-
Luận văn: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN TUYỂN DỤNG GIÁO VỤ TẠI CÔNG TY TNHH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THẦN ĐỒNG.
75 p | 170 | 22
-
Luận văn: Một số giải pháp mở rộng hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam
42 p | 162 | 21
-
Luận văn: Một số giải pháp tài chính chủ yếu nâng cao hiệu quả tổ chức sử dụng vốn kinh doanh tại công ty cổ phần Thiờn Tõn
52 p | 156 | 19
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn