intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng Phát triển Nông thôn Campuchia

Chia sẻ: Pham Thanh Vinh | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:93

47
lượt xem
14
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Ngân hàng phát triển nông thôn Campuchia là một trong những Ngân hàng thương mại nhà nước của nước Campuchia. Hiện nay, các hoạt động kinh doanh chính của ngân hàng phát triển nông thôn Campuchia là: Hoạt động huy động vốn; hoạt động sử dụng vốn và các hoạt động dịch vụ khác.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng Phát triển Nông thôn Campuchia

  1. 1 Luận văn Nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng Phát triển Nông thôn Campuchia
  2. 2 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Ngân hàng phát triển nông thôn Campuchia là một trong những Ngân hàng thương mại nhà nước của nước Campuchia. Hiện nay, các hoạt động kinh doanh chính của ngân hàng phát triển nông thôn Campuchia là: Hoạt động huy động vốn; hoạt động sử dụng vốn và các hoạt động dịch vụ khác. Trong số các hoạt động đó, hoạt động tín dụng là một hoạt động cơ bản và đóng vai trò hết sức quan trọng. Hoạt động này mang lại nguồn thu chủ yếu cho ngân hàng, nhờ hoạt động này mà Ngân hàng phát triển Nông thôn có thể bán chéo sản phẩm, tạo nền tảng thu hút hỗ trợ cho các hoạt động khác như: Bảo lãnh, thanh toán quốc tế, chuyển tiền… Tuy nhiên, chất lượng tín dụng của ngân hàng phát triển nông thôn Campuchia vẫn đang được đánh giá là thấp so với yêu cầu. Điều này sẽ gây ra nhiều rủi ro (như: Rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản…) và tổn thất cho ngân hàng. Trong bối cảnh khủng hoảng tài chính toàn cầu, sự cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng thương mại nhà nước và các ngân hàng khác, nâng cao chất lượng tín dụng sẽ là một trong những điều kiện để phát triển bền vững ngân hàng phát triển nông thôn Campuchia. Bởi vậy, nâng cao chất lượng tín dụng đang là một yêu cầu cấp bách được đặt ra hiện nay đối với ngân hàng phát triển nông thôn Campuchia. Xuất phát từ những yêu cầu trên, đề tài: “Nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng Phát triển Nông thôn Campuchia” được chọn làm đề tài thạc sỹ kinh tế. 2. Mục tiêu nghiên cứu - Phân tích những lý luận cơ bản về chất lượng tín dụng của Ngân hàng thương mại. - Đánh giá thực trạng chất lượng tín dụng tại Ngân hàng Phát triển Nông thôn Campuchia.
  3. 3 - Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng của Ngân hàng Phát triển Nông thôn Campuchia trong thời gian tới. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Chất lượng tín dụng của Ngân hàng thương mại. - Phạm vi nghiên cứu: Chất lượng cho vay của Ngân hàng Phát triển Nông thôn Campuchia. - Thời gian nghiên cứu: Từ năm 2010 đến 2012. 4. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp thống kê: là phương pháp khoa học dùng đề thu thập, tóm tắt, trình bày và phân tích số liệu. - Số liệu thứ cấp: là dữ liệu do người khác thu thập, sử dụng cho các mục đích có thể là khác với mục đích nghiên cứu của ngưởi nghiên cứu. 5. Những đóng góp của luận văn - Hệ thống hóa được những lý luận cơ bản về chất lượng tín dụng của Ngân hàng thương mại. - Phân tích thực trạng chất lượng tín dụng tại Ngân hàng Phát triển Nông thôn Campuchia. Phân tích các nguyên nhân dẫn đến sự thấp kém về chất lượng tín dụng của ngân hàng. - Đề xuất giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng của Ngân hàng Phát triển Nông thôn Campuchia trong thời gian tới. 6. Kết cấu của Luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luân, luận văn gồm 3 chương: Chương I: Cơ sở lý luận về chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại. Chương II: Thực trạng chất lượng tín dụng tại Ngân hàng Phát triển Nông thôn Campuchia. Chương III: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng Phát triển Nông thôn Campuchia.
  4. 4 CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1. Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại 1.1.1. Khái quát về Ngân hàng thương mại 1.1.1.1. Khái niệm Ngân hàng Thương mại Ngân hàng là một loại hình tổ chức có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế nói chung và đối với từng cộng đồng địa phương, chủ thể tham gia nói riêng. Với vai trò quan trọng như vậy, nhưng quan niệm như thế nào về một Ngân hàng, và sự phân biệt nó với các tổ chức phi Ngân hàng không phải là điều đơn giản. Rõ ràng, có thể định nghĩa Ngân hàng thông qua chức năng mà chúng thực hiện trong nền kinh tế. Tuy nhiên, vấn đề ở chỗ không chỉ chức năng của các Ngân hàng thay đổi, mà có sự “thâm nhập” vào chức năng hoạt động Ngân hàng của các đối thủ cạnh tranh. Do đó tuỳ theo điều kiện của mỗi nước và sự phát triển của hệ thống tài chính nước đó mà có những định nghĩa khác nhau về Ngân hàng. Theo luật Ngân hàng của Pháp thì Ngân hàng được định nghĩa:”Ngân hàng thương mại là những xí nghiệp hay cơ sở nào đó thường xuyên nhận của công chúng dưới hình thức ký thác, hay hình thức khác số tiền mà họ dùng cho chính họ vào nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính.” Còn luật pháp ấn độ lại có cái nhìn về Ngân hàng như sau, họ định nghĩa:” Ngân hàng thương mại là cơ sở nhận các khoản ký thác để cho vay hay tài trợ và đầu tư.” Đó là các quan niệm về Ngân hàng đứng trên giác độ luật pháp. Còn đứng trên giác độ tài chính Ngân hàng thì sao? Một định nghĩa khác về Ngân hàng được Giáo sư Peter Rose đưa ra như sau: ”Ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất -
  5. 5 đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán – và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.” Ở Việt Nam, theo quy định tại luật các tổ chức tín dụng thì Ngân hàng được định nghĩa như sau: “ Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán.” Như vậy thông qua một số khái niệm về Ngân hàng thương mại, ta có thể hiểu Ngân hàng thương mại là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh trên lĩnh vực tín dụng với mục đích thu lợi nhuận, và nó có những đặc trưng như sau: -Ngân hàng thương mại là một tổ chức được phép nhận ký thác của công chúng với trách nhiệm hoàn trả. -Ngân hàng thương mại là một tổ chức được phép sử dụng ký thác của công chúng để cho vay, chiết khấu và thực hiện các dịch vụ tài chính khác. Căn cứ vào tính chất và mục tiêu hoạt động, ở nước Việtnam các loại hình Ngân hàng thương mại được phép hoạt động theo luật tổ chức tín dụng bao gồm: Ngân hàng thương mại, Ngân hàng phát triển, Ngân hàng đầu tư, Ngân hàng chính sách, Ngân hàng hợp tác và các loại hình Ngân hàng khác. Tại nước Campuchia, hệ thống ngân hàng trước đây là hệ thống ngân hàng một cấp, vừa làm nhiệm vụ của ngân hàng phát hành, vừa thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ. Trước yêu cầu đổi mới nền kinh tế, hệ thống ngân hàng Campuchia đó được chuyển thành hệ thống ngân hàng hai cấp. Các ngân hàng thương mại được thành lập và hoạt động dưới sự điều chỉnh của pháp lệnh ngân hàng Nhà nước Campuchia, và theo quan điểm các tổ chức tín dụng Campuchia thì : Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng thực hiện toàn
  6. 6 bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan với mục tiêu lợi nhuận, góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế của nhà nước. 1.1.1.2. Các hoạt động chủ yếu của Ngân hàng Thương Mại Hoạt động của các ngân hàng thương mại là một loại hoạt động đặc biệt, đó là kinh doanh tiền tệ, với hai chức năng chủ yếu là tạo tiền và kinh doanh tiền tệ nhằm mục tiêu sinh lợi cho ngân hàng và góp phần chung vào sự phát triển của xã hội. Các hoạt động chủ yếu của một ngân hàng thương mại bao gồm:  Hoạt động huy động vốn Hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại là hoạt động trên lĩnh vực tiền tệ. Với mục đích đáp ứng nhu cầu vốn của khách hàng, ngoài nguồn vốn tự có của ngân hàng, các ngân hàng thương mại tiến hành huy động các nguồn vốn trong nền kinh tế dưới các hình thức khác nhau. Việc huy động vốn có thể thực hiện dưới các hình thức chủ yếu như: - Vốn chủ sở hữu (vốn tự có): Thông thường các ngân hàng thương mại, khi thành lập đều có một mức vốn nhất định, vốn này gọi là vốn điều lệ. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động các ngân hàng cảm thấy cần thiết mở rộng hoạt động kinh doanh, các ngân hàng thương mại có thể huy động thêm nguồn vốn bổ sung vào vốn điều lệ để tăng cường vốn kinh doanh của ngân hàng. - Nhận tiền gửi: Đây là nguồn tiền chủ yếu để bổ sung vào nguồn vốn kinh doanh của ngân hàng, vì hoạt động của ngân hàng về bản chất là trung gian, cầu lối giữa những người dư thừa tiền và người thiếu tiền để sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng, và nó là cơ sở của các khoản cho vay để đem lại lợi nhuận và sự phát triển của ngân hàng. Khách hàng gửi tiền vào ngân hàng với rất nhiều mục đích khác nhau hoặc để tiết kiệm hoặc để thanh toán, tuỳ theo mục đích của khách hàng ngân hàng có các hình thức huy động như: Tiền gửi
  7. 7 giao dịch, tiền gửi phi giao dịch. + Tiền gửi giao dịch: Đây là một trong những nguồn vốn biến động nhất, kỳ hạn của tiền gửi giao dịch là rất ngắn và bởi vì nó có thể được rút ra bất kỳ lúc nào mà không cần phải báo trước. Tiền gửi giao dịch gồm tiền gửi có thể phát hành séc, uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi... + Tiền gửi phi giao dịch: Đây là loại tiền gửi mang tính tiết kiệm của người gửi tiền, khoản tiền này thông thường có kỳ hạn gửi dài hơn và mang tính ổn định hơn, đây là nguồn tiền quan trọng để các ngân hàng thương mại thực hiện kinh doanh của mình. Tuy nhiên lãi suất của loại tiền gửi này cao hơn so với tiền gửi giao dịch. - Vay từ Ngân hàng Trung ương và các tổ chức tín dụng khác Ngân hàng Trung ương là ngân hàng của các ngân hàng, là người cho vay cuối cùng của các tổ chức tín dụng trong trường hợp họ không có đủ khả năng thanh toán. Trong trường hợp này các ngân hàng thương mại vay tiền để bù đắp thiếu hụt, đảm bảo khả năng thanh khoản trong trường hợp cần thiết. Việc huy động vốn một cách hợp lý, với chi phí và cơ cấu phù hợp sẽ góp phần không nhỏ vào hiệu quả kinh doanh của một ngân hàng. Ngoài ra khi cần thiết để thanh khoản tức thời, các ngân hàng thương mại có thể vay vốn từ các ngân hàng thương mại khác để đáp ứng nhu cầu thanh khoản tức thời của mình. Ngoài ra, các ngân hàng thương mại còn có thể huy động vốn thông qua việc phát hành kỳ phiếu, tiết kiệm trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi ... đây cũng là nguồn tiền quan trọng bổ sung cho nguồn vốn kinh doanh của ngân hàng.  Hoạt động sử dụng vốn Sau khi thành lập ngân hàng, với số vốn huy động được, ngân hàng thực hiện kinh doanh. Khi đó ngân hàng sẽ lập kế hoạch sử dụng nguồn vốn đó sao cho hợp lý và có hiệu quả nhất, các hoạt động sử dụng vốn chủ yếu của ngân hàng thương mại là: Hoạt động cho vay, hoạt động đầu tư, hoạt động bảo
  8. 8 lãnh... khi đó ngân hàng thương mại sẽ thu được một lượng lãi nhất định để bù đắp các chi phí của ngân hàng như: Trả lãi tiền gửi, chi phí kinh doanh, chi phí quản lý... phần dư thừa gọi là lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Khi nền kinh tế phát triển nhu cầu sử dụng vốn tăng lên, các doanh nghiệp, cá nhân phải tìm đến với ngân hàng như một chỗ dựa về tài chính, để họ có thêm vốn bổ sung vào vốn kinh doanh nhằm nâng cao lợi nhuận và ngược lại.  Các hoạt động khác Ngoài các hoạt động cho vay và đầu tư đã được kể trên thì trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng còn có các hoạt động khác như: Hoạt động thanh toán trong và ngoài nước, chuyển tiền, thu hộ, bảo lãnh, cung cấp thông tin về kinh doanh, đầu tư và quản trị doanh nghiệp, quản lý ngân quỹ, tư vấn tài chính, dự án, quản lý tài sản, kinh doanh ngoại tệ… các nghiệp vụ này được thực hiện theo sự uỷ nhiệm của khách hàng trên cơ sở khách hàng có tài khoản thanh toán tại ngân hàng. Trong những nước có thị trường tài chính, ngân hàng phát triển thì đây là mảng hoạt động dịch vụ mang lại nguồn thu lớn cho các ngân hàng thương mại. Mặt khác, khi các hoạt động dịch vụ này phát triển sẽ đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của khách hàng và nhu cầu phát triển của nền kinh tế. 1.1.2. Hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại 1.1.2.1. Khái niệm tín dụng của ngân hàng thương mại Tín dụng hiểu theo nghĩa rộng là quan hệ vay mượn, bao gồm cả đi vay và cho vay. Tuy nhiên, khi gắn tín dụng với chủ thể nhất định là ngân hàng (hoặc các trung gian tài chính khác) thì tín dụng chỉ bao hàm nghĩa là ngân hang cho vay. Việc xác định như thế này là rất quan trọng để định lượng tín dụng trong các công tác nghiên cứu cũng như các hoạt động kinh tế. Theo luật các tổ chức tín dụng của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
  9. 9 Nam, điều 49 ghi: "Tổ chức tín dụng được cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân dưới các hình thức cho vay, chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá khác, bảo lãnh, cho thuê tài chính và các hình thức khác theo quy định của ngân hàng nhà nước". Khi các ngân hàng có tiềm lực tài chính mạnh, huy động được nhiều vốn, các ngân hàng luôn tìm kiếm cơ hội để đầu tư, cho khách hàng vay, nhằm sử dụng tối đa nguồn vốn mà ngân hàng có để có thể thu được lợi nhuận lớn nhất. Tín dụng ngân hàng không chỉ đáp ứng nhu cầu vốn lưu động ngắn hạn cho các tổ chức kinh tế, cá nhân mà tín dụng ngân hàng cũng đáp ứng cả các nhu cầu về vốn dài hạn của khách hàng, thập chí các ngân hàng cũng đáp ứng các yêu cầu của chính ngân hàng. Vì vậy, tín dụng ngân hàng ngày càng trở thành một hoạt động quan trọng nhất và không thể thiếu được trong nền kinh tế thị trường, đặc biệt đối với các nước kém và đang phát triển trong đó có nước Campuchia. 1.1.2.2. Các hình thức tín dụng của Ngân hàng thương mại Căn cứ vào mục đích - Cho vay bất động sản: Bao gồm các khoản cho vay xây dựng ngắn hạn và giải phóng mặt bằng cũng như các khoản cho vay dài hạn tài trợ cho việc mua đất canh tác, nhà, trung tâm thương mại và mua các tài sản nước ngoài. Đối với loại hình cho vay này, ngân hàng được bảo đảm bằng chính tài sản thực: đất đai, toà nhà và các công trình khác. - Cho vay đối với các tổ chức tài chính: bao gồm các khoản tín dụng dành cho ngân hàng, công ty bảo hiểm, công ty tài chính và các tổ chức tài chính khác. - Cho vay công nghiệp và thương mại: giúp doanh nghiệp trang trải các chi phí như mua hàng, nhập kho, trả thuế, trả lương cho cán bộ công nhân viên.
  10. 10 - Cho vay nông nghiệp: nhằm hỗ trợ nông dân trong hoạt động gieo trồng, thu hoạch và bảo quản sản phẩm. - Cho vay đối với các cá nhân: giúp tài trợ cho việc mua ô tô, nhà ở, trang thiết bị gia đình, vật liệu xây dựng để sửa chữa, hiện đại hóa nhà cửa hay trang trải các khoản viện phí và các chi phí cá nhân khác. - Cho vay khác: gồm các khoản cho vay không được xếp ở trên và các khoản cho vay kinh doanh chứng khoán. Căn cứ vào thời hạn tín dụng - Cho vay ngắn hạn: những khoản cho vay có kỳ hạn tối đa đến 12 tháng, được xác định phù hợp với chu kỳ sản xuất, kinh doanh và khả năng trả nợ của khách hàng. - Cho vay trung, dài hạn: những khoản cho vay được xác định chủ yếu để đầu tư mua sắm tài sản cố định, đổi mới trang thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án có quy mô thu hồi vốn lớn. Loại cho vay này đang ngày càng được các ngân hàng chú trọng phát triển, một mặt chúng đáp ứng nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp, mặt khác chúng cũng phù hợp với khả năng vốn của các ngân hàng thương mại. Thời hạn cho vay trung hạn là từ 12 tháng đến 60 tháng, thời hạn cho vay dài hạn từ 60 tháng trở lên nhưng không quá thời hạn hoạt động còn lại theo quyết định thành lập hoặc giấy phép thành lập đối với pháp nhân và không quá 15 năm đối với cho vay các dự án đầu tư phục vụ đời sống. Căn cứ vào phương thức cho vay - Cho vay từng lần: mỗi lần vay vốn khách hàng và ngân hàng tiến hành thực hiện những thủ tục vay vốn cần thiết và ký kết hợp đồng tín dụng. Phương thức này áp dụng với những khách hàng có nhu cầu vay vốn không thường xuyên, sản xuất không ổn định, kinh doanh theo thời vụ, thương vụ. - Cho vay theo hợp đồng tín dụng: ngân hàng và khách hàng xác định,
  11. 11 thoả thuận một hạn mức tín dụng duy trì trong một thời hạn nhất định hoặc theo chu kỳ sản xuất, kinh doanh. - Cho vay theo dự án đầu tư: ngân hàng cho khách hàng vay vốn để thực hiện đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và các dự án đầu tư phục vụ đời sống. - Cho vay hợp vốn: một nhóm tổ chức tín dụng cùng cho vay đối với một dự án vay vốn hoặc phương án vay vốn của khách hàng. Trong đó có một tổ chức tín dụng làm đầu mối dàn xếp, phối hợp với các tổ chức tín dụng khác. Ngoài ra cho vay hợp vốn còn phải thực hiện theo quy chế đồng tài trợ của các tổ chức tín dụng do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành. Cho vay hợp vốn có ưu điểm là san sẻ được rủi ro song nhược điểm là nới lỏng việc kiểm soát tiền vay khách hàng. - Cho vay trả góp: khi vay vốn, ngân hàng và khách hàng xác định và thoả thuận số lãi vốn vay phải trả cộng với số nợ gốc chưa được chia ra để trả nợ theo nhiều kỳ hạn trong thời hạn cho vay. - Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng: Tổ chức tín dụng chấp thuận cho khách hàng được sử dụng số vốn vay trong phạm vi hạn mức tín dụng để thanh toán tiền mua hàng hoá, dịch vụ và rút tiền mặt tại máy rút tiền tự động hoặc điểm ứng tiền mặt là đại lý của tổ chức tín dụng. Khi cho vay phát hành và sử dụng thẻ tín dụng, tổ chức tín dụng và khách hàng phải tuân theo các quy định của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước về phát hành và sử dụng thẻ tín dụng. - Cho vay theo hạn mức tín dụng: khách hàng và ngân hàng xác định và thoả thuận một hạn mức tín dụng duy trì trong một khoảng thời gian nhất định. Việc cho vay và thu nợ đan xen nhau, không phân định ranh giới, thời điểm cụ thể lúc nào cho vay, lúc nào thu nợ. Phương thức này áp dụng đối với các khách hàng có nhu cầu vay trả thường xuyên, tình hình kinh doanh ổn
  12. 12 định, vòng quay vốn nhanh và có tín nhiệm trong quan hệ tín dụng. - Cho vay theo hạn mức thấu chi: Là việc cho vay mà tổ chức tín dụng thoả thuận bằng văn bản chấp thuận cho khách hàng chi vượt số tiền có trên tài khoản thanh toán của khách hàng phù hợp với các quy định của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước về hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán. - Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng: Tổ chức tín dụng cam kết đảm bảo sẵn sàng cho khách hàng vay vốn trong phạm vi hạn mức tín dụng nhất định. Tổ chức tín dụng và khách hàng thoả thuận thời hạn hiệu lực của hạn mức tín dụng dự phòng, mức phí trả cho hạn mức tín dụng dự phòng... Căn cứ vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng - Tín dụng không có bảo đảm: là loại tín dụng không có tài sản thế chấp, cầm cố hay bảo lãnh của người thứ ba, việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách hàng. Ngân hàng không nắm giữ một loại tài sản nào của người vay để thanh lý nhằm thu hồi khoản vay khi có vi phạm hợp đồng mà thay vào đó là những điều kiện: phương án kinh doanh được ngân hàng đánh giá có tính khả thi, có khả năng đem lại lợi nhuận cao; doanh nghiệp phải kinh doanh có lãi trong hai năm liền kề thời điểm vay vốn. Khách hàng là những khách hàng tốt, trung thực trong kinh doanh, khả năng tài chính lành mạnh, quản trị có hiệu quả, khi đó ngân hàng dựa vào uy tín của khách hàng mà không cần nguồn thu nợ bổ sung. - Tín dụng có bảo đảm: là hình thức tín dụng dựa trên cơ sở ngân hàng nắm giữ các tài sản thuộc sở hữu trực tiếp của người đi vay hoặc thuộc sở hữu của người bảo lãnh. Các hình thức bảo đảm thường gặp là: thế chấp, cầm cố, hoặc bảo lãnh. Mục đích của việc này là khi có sự vi phạm hợp đồng tín dụng ngân hàng có quyền xử lý các tài sản đó để thu hồi tiền cho vay. Sự bảo đảm này là căn cứ pháp lý để ngân hàng có thêm một nguồn thứ hai, bổ sung cho
  13. 13 nguồn thu nợ thứ nhất thiếu chắc chắn. Các tài sản bảo đảm ở đây thường là các bất động sản, động sản thuộc quyền sở hữu của bên đi vay, được phép giao dịch, không có tranh chấp, tài sản được bảo hiểm theo quy định của pháp luật. Căn cứ vào xuất xứ của tín dụng - Cho vay trực tiếp: ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho những khách hàng có nhu cầu, đồng thời người đi vay trực tiếp hoàn trả nợ vay cho ngân hàng. - Cho vay gián tiếp: là khoản cho vay được thực hiện thông qua việc mua lại các khế ước hoặc chứng từ nợ được phát sinh và còn trong thời hạn thanh toán. Các hình thức này gồm có: chiết khấu, mua lại các phiếu bán hàng, nghiệp vụ thanh lý. 1.2. Chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại 1.2.1. Khái niệm chất lượng tín dụng của Ngân hàng thương mại Để hiểu chất lượng tín dụng, ta đi từ chất lượng của hàng hoá và dịch vụ thông thường. Vậy, chất lượng của hàng hoá dịch vụ nói chung được đánh giá bởi sự tín nhiệm của khách hàng, nó là một trong những yếu tố để thu hút khách hàng. Như vậy, cũng giống như chất lượng hàng hoá dịch vụ thông thường, chất lượng tín dụng là yếu tố sống còn đối với hoạt động của một ngân hàng thương mại bởi chất lượng tín dụng thể hiện ở khả năng hoàn trả nợ đúng hạn của người đi vay cho ngân hàng. Các khoản tín dụng của ngân hàng đối với khách hàng được coi là có chất lượng khi ngân hàng có thể thu hồi được khoản nợ, khoản vay đó phù hợp với khả năng đáp ứng của ngân hàng và mang lại lợi nhuận cho ngân hàng. Chính vì vậy, trước khi cấp tín dụng ngân hàng phải thẩm định kĩ khách hàng trên các lĩnh vực vay vốn đồng thời tính toán một mức lãi suất cho vay hợp lý để có thể mang lại nguồn thu cho ngân hàng. Như vậy, Chất lượng tín dụng quyết định khả năng thu hồi gốc và lãi cho
  14. 14 ngân hàng, hạn chế các rủi ro có thể xảy đến với ngân hàng. Do đó, chất lượng tín dụng có ảnh hưởng lớn đến kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Chất lượng tín dụng tốt không chỉ nhằm đảm bảo an toàn cho hoạt động của mỗi ngân hàng riêng lẻ mà còn cho cả hệ thống ngân hàng nói chung. Ở mỗi một góc độ khác nhau ta có thể những quan điểm khác nhau về chất lượng tín dụng thì: “Chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại là sự đáp ứng kịp thời, hợp lý những yêu cầu về vốn của khách hàng phù hợp với các quy định của pháp luật hiện hành, với một mức chi phí hợp lý, đảm bảo sự phát triển an toàn, và lợi nhuận trong hoạt động tín dụng của ngân hàng và thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế”(PGS.TS Nguyễn Minh Tiến(2005, Giáo trình ngân hàng thương mại NXB thống kê, Hà Nội). Chất lượng tín dụng tốt sẽ tạo điều kiện cho ngân hàng tăng thu nhập, sự an toàn trong hoạt động tín dụng và là cơ sở để ngân hàng mở rộng quy mô tín dụng. Sự mở rộng một cách bền vững sẽ tạo đà cho sự tăng trưởng ổn định của ngân hàng. Đặc biệt như hiện nay, khi mà cuộc khủng hoảng kinh tế đang diễn ra toàn cầu và sự cạnh tranh ngày càng gay gắt trên thị trường tài chính, bất kỳ một ngân hàng nào cũng phải chú trọng đến vấn đề chất lượng tín dụng song song với việc quy mô tín dụng không ngừng tăng trưởng. Việc nâng cao chất lượng tín dụng sẽ giúp cho ngân hàng có điều kiện mở rộng quy mô tín dụng, tăng thị phần. Mặt khác, khi chất lượng tín dụng được nâng cao sẽ góp phần giúp cho ngân hàng tăng khả năng cung cấp dịch vụ. Tín dụng có hiệu quả cao sẽ tạo điều kiện cho ngân hàng có thể mở rộng huy động vốn, đồng thời tăng cường giới thiệu với khách hàng những dịch vụ mới, hiện đại mà ngân hàng cung cấp. Mặt khác, sẽ giải quyết tốt mối quan hệ giữa an toàn và sinh lợi. Do ngân hàng có thể giảm bớt những thiệt hại có thể xảy ra, giảm bớt những chi phí nghiệp vụ và chi phí quản lý. Bên cạnh đó, nguy cơ về rủi ro tín dụng cũng được giảm thiểu đến mức chấp nhận được.
  15. 15 Mặt khác, việc nâng cao chất lượng tín dụng sẽ giúp giảm thiểu những phiền hà mà khách hàng phải gánh chịu khi muốn vay ngân hàng. Điều này sẽ góp phần thu hút ngày càng nhiều khách hàng đến với ngân hàng. Thêm vào đó việc nâng cao chất lượng tín dụng sẽ giúp cho ngân hàng thực hiện và duy trì tình hình tài chính lành mạnh. Đây là cơ sở quan trọng giúp cho ngân hàng có thể tăng khả năng cạnh tranh của mình. Hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng chủ yếu dựa vào uy tín, vì thế một ngân hàng… 1.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng (1). Tỷ lệ tăng trưởng dư nợ Tỷ lệ tăng Dư nợ cho vay năm n - Dư nợ cho vay năm n - 1 = * 100% trưởng nợ Dư nợ cho vay năm n - 1 Chỉ tiêu này phản ánh mức độ tăng trưởng dư nợ tín dụng của một ngân hàng. - Nếu tỷ lệ này > 0: dư nợ tín dụng của ngân hàng có sự tăng trưởng. Điều này đồng nghĩa với việc qui mô tín dụng của ngân hàng được mở rộng. - Nếu tỷ lệ này < 0: Quy mô tín dụng của năm sau thu hẹp so với năm trước, điều này chứng tỏ ngân hàng đó có sự lựa chọn và sàng lọc khách hàng hoặc vì một lý do nào đó mà quy mô tín dụng của ngân hàng bị thu hẹp lại, hoặc chất lượng tín dụng của ngân hàng đang cung cấp không đáp ứng được yêu cầu của khách hàng, khi đó khách hàng không đến quan hệ. - Nếu tỷ lệ = 0: Quy mô tín dụng của năm sau như năm trước đó. (2). Tỷ lệ nợ quá hạn/ Tổng dư nợ Tỷ lệ nợ quá hạn Dư nợ quá hạn trong kỳ = * 100% Tổng dư nợ Tổng dư nợ trong kỳ Đây là tỷ lệ phản ánh sự an toàn trong hoạt động của các ngân hàng nên theo thông lệ quốc tế, tỷ lệ này ở mức 5% sẽ đảm bảo cho mức độ lành mạnh
  16. 16 của hoạt động tín dụng. Nếu một ngân hàng có tỷ lệ nợ quá hạn quá cao thì thu nhập ròng của ngân hàng sẽ được tăng lên nếu như khách hàng có khá năng trả nợ gốc, lãi và mức phí phạt quá hạn, tuy nhiên ngân hàng sẽ tiềm ẩn nhiều rủi ro về khả năng thu hồi vốn vay. Mặt khác, ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong việc mở rộng hoạt động tín dụng vì làm vỡ kế hoạch sử dụng vốn của ngân hàng, thêm vào đó khả năng thanh khoản của ngân hàng sẽ gặp khó khăn khi khách hàng nhận thấy uy tín của ngân hàng đã sụt giảm trầm trọng. (3). Chỉ tiêu nợ quá hạn phân theo nhóm nợ Tỷ lệ nợ quá hạn Nợ quá hạn thuộc nhóm phân loại nợ phân theo nhóm = * 100% Tổng dư nợ cho vay Như vậy, khi nợ quá hạn càng ở nhóm nợ phải trích lập ít thì chất lượng cho vay càng cao và ngược lại. (4). Tỷ lệ nợ xấu ngoại bảng/ Tổng dư nợ Nợ xấu ngoại bảng Tỷ lệ nợ xấu ngoại bảng = * 100% Tổng dư nợ Nợ xấu ngoại bảng bao gồm các khoản nợ đã xử lý rủi ro theo dõi ngoại bảng, nợ khoanh chờ xử lý, nợ tồn đọng theo chương trình cho vay chỉ định của Chính Phủ.v.v.. Các ngân hàng thường cố gắng hạn chế chỉ tiêu này ở mức thấp nhất. Khi xem xét chỉ tiêu này cần phân biệt rõ những khoản nợ này thuộc đối tượng khách hàng nào, thời điểm xử lý theo dõi ngoại bảng là khi nào. Tỷ lệ này cho biết nợ xấu ngoại bảng chiếm bao nhiêu phần trăm so với tổng dư nợ. Do các ngân hàng thường tìm cách ngăn ngừa nợ xấu ngoại bảng. Do đó, chỉ tiêu này càng nhỏ càng tốt. (5). Tỷ lệ nợ có tài sản đảm bảo/ Tổng dư nợ Tỷ lệ nợ có tài sản đảm bảo Dư nợ có tài sản đảm bảo = * 100% Tổng dư nợ Tổng dư nợ
  17. 17 Tài sản bảo đảm tiền vay là tài sản dùng để hạn chế rủi ro cho các khoản vay của doanh nghiệp. Khi khách hàng mất hoàn toàn khả năng thanh toán thì khi đó ngân hàng sẽ tiến hành phát mại tài sản bảo đảm để có thể thu hồi được vốn cho ngân hàng. Như vậy, chỉ tiêu này cho chúng ta biết được bao nhiêu phần trăm cho vay có tài sản bảo đảm và khi khách hàng không có khả năng trả nợ thì ngân hàng có thể thu được bao nhiêu phần trăm tổng dư nọ cho vay đối với các DNVVN. (6). Tỷ lệ tăng trưởng doanh thu từ hoạt động tín dụng Doanh thu từ hoạt động TD năm n – Doanh thu từ hoạt TD năm n-1 * 100% Doanh thu từ hoạt động tín dụng năm n-1 Chỉ tiêu này phản ánh mức độ tăng trưởng doanh thu từ hoạt động tín dụng của ngân hàng. Nếu tỷ lệ này > 0: Doanh thu từ hoạt động tín dụng có sự tăng trưởng. Nếu tỷ lệ này < 0: Doanh thu từ hoạt động tín dụng giảm so với năm trước Nếu tỷ lệ = 0: Doanh thu từ hoạt động tín dụng của năm sau bằng năm trước đó. 1.2.3. Nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại Chất lượng tín dụng theo đúng nghĩa của nó chính là vốn vay của Ngân hàng được khách hàng sử dụng vào quá trình sản xuất kinh doanh dịch vụ... để có thể tạo ra một số tiền lớn hơn vừa để hoàn trả Ngân hàng cả gốc lẫn lãi, trang trải các chi phí khác và lợi nhuận. Trong một quá trình luân chuyển vốn như vậy ngân hàng nhận được vốn và một phần lợi nhuận từ vốn đó còn khách hàng thì đạt hiệu quả trong kinh doanh. Như vậy, có thể nói chất lượng tín dụng phải được đảm bảo từ hai phía ngân hàng và khách hàng trong hoạt động của mình ngân hàng cũng như khách hàng luôn phải chịu tác động trực
  18. 18 tiếp của rất nhiều nhân tố cả trực tiếp lẫn gián tiếp mà chỉ một trong số đó có thể ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng tín dụng của ngân hàng. 1.2.3.1. Các nhân tố chủ quan: Các yếu tố bên trong thường liên quan đến sự phấn đấu của bản thân ngân hàng trên tất cả các mặt của hoạt động tín dụng như việc xây dựng chiến lược, sách lược trong quá trình phát triển, các chính sách tín dụng , xây dựng cơ cấu tổ chức ngân hàng nói chung và quản lý hoạt động tín dụng nói riêng, công tác kiểm tra, kiểm soát và thiết lập hệ thống thông tin... Vì vậy, các yếu tố bên trong thường có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng tín dụng ngắn hạn. Ta có thể nghiên cứu sự ảnh hưởng của chúng qua một số yếu tố sau: - Chính sách tín dụng: Chính sách tín dụng là quỹ đạo quyết định đến hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại, nó quyết định thành công hay thất bại của một ngân hàng. Một chính sách tín dụng đúng đắn sẽ thu hút được nhiều khách hàng đến với ngân hàng, đảm bảo khả năng sinh lời của hoạt động tín dụng trên cơ sở phân tán rủi ro, tuân thủ pháp luật, theo các đường lối, chính sách của Nhà nước và đảm bảo công bằng xã hội. Điều đó cũng có nghĩa là chất lượng tín dụng tuỳ thuộc vào việc xây dựng chính sách của ngân hàng thương mại có đúng đắn hay không. Bất cứ một ngân hàng thương mại nào muốn có chất lượng tín dụng đều phải có một chính sách tín dụng rõ ràng, phù hợp với bản thân ngân hàng mình. - Công tác tổ chức của ngân hàng: Tổ chức ngân hàng được sắp xếp một cách có khoa học, bảo đảm sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các phòng, ban trong từng ngân hàng, trong toàn bộ hệ thống ngân hàng cũng như giữa ngân hàng với các cơ quan khác như tài chính, pháp lý... sẽ tạo điều kiện đáp ứng kịp thời yêu cầu của khách hàng, quản lý sát sao các khoản huy động vốn cũng như các khoản vốn
  19. 19 cho vay. Đây là cơ sở để tiến hành các nghiệp vụ tín dụng lành mạnh và quản lý có hiệu quả nguồn vốn tín dụng. Tổ chức ngân hàng theo nguyên tắc tập trung có phân cấp là một khâu quan trọng trong quá trình quản lý chất lượng tín dụng đồng bộ, góp phần thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia trong từng thời kỳ. - Chất lượng nhân sự ngân hàng: Con người là một yếu tố hết sức quan trọng quyết định đến sự thành bại trong quản lý vốn tín dụng cũng như trong hoạt động của ngân hàng, xã hội ngày càng phát triển đòi hỏi chất lượng nhân sự ngày càng cao để đối phó kịp thời, có hiệu quả với các tình huống khác nhau của hoạt động tín dụng. Việc tuyển chọn nhân sự có đạo đức nghề nghiệp tốt và chuyên môn giỏi sẽ giúp cho ngân hàng ngăn ngừa được những sai phạm có thể xảy ra khi thực hiện một chu trình khép kín của một khoản tín dụng . - Quy trình tín dụng: Quy trình tín dụng bao gồm những quy định cần phải thực hiện trong quá trình cho vay, thu nợ nhằm bảo đảm an toàn nguồn vốn tín dụng. Nó được bắt đầu từ khi chuẩn bị cho vay, phát tiền vay, kiểm tra quá trình cho vay cho đến khi thu hồi được nợ. Chất lượng tín dụng có bảo đảm hay không tuỳ thuộc vào việc thực hiện tốt các quy định ở từng bước và sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các bước trong quy trình tín dụng. Trong quy trình tín dụng, Bước chuẩn bị cho vay là hết sức quan trọng, là cơ sở để định lượng rủi ro trong quá trình cho vay. Trong bước này,chất lượng tín dụng tuỳ thuộc vào chất lượng công tác thẩm định đối tượng được vay vốn cũng như quy định điều kiện và thủ tục vay ở từng ngân hàng thương mại. Kiểm tra quá trình cho vay giúp ngân hàng nắm được diễn biến của khoản vay đã cung cấp để có thể điều chỉnh hoặc can thiệp khi cần thiết, sớm
  20. 20 thấy được nguyên nhân và ngăn ngừa rủi ro có thể xẩy ra. Việc lựa chọn và áp dụng có hiệu quả các hình thức kiểm tra sẽ thiết lập được một hệ thống phòng ngừa hữu hiệu cho chất lượng tín dụng ngắn hạn. Thu nợ và thanh lý là khâu có ý nghĩa quyết định sự tồn tại của ngân hàng thương mại. Sự nhạy bén của ngân hàng thương mại trong việc phát hiện kịp thời những bất lợi xảy ra đối với khách hàng cùng các biện pháp xử lý chính xác, đúng lúc sẽ giảm thiểu các khoản nợ quá hạn và điều đó sẽ có tác động tích cực đối với chất lượng tín dụng ngắn hạn. Sự phối hợp nhịp nhàng giữa các bước trong quy trình tín dụng sẽ tạo điều kiện cho vốn tín dụng được luân chuyển bình thường, theo đúng kế hoạch đã định mà nhờ đó bảo đảm được chất lượng tín dụng ngắn hạn. - Thông tin tín dụng : Thông tin tín dụng có vai trò quan trọng trong quản lý chất lượng tín dụng. Nhờ có thông tin tín dụng , người quản lý có thể đưa ra các quyết định cần thiết có liên quan đến cho vay, theo dõi và quản lý tài khoản cho vay. Thông tin tín dụng có thể lấy được từ các nguồn sẵn có từ ngân hàng (hồ sơ vay vốn, thông tin giữa các tổ chức tín dụng, phân tích của các can bộ tín dụng ... ), từ các nguồn của khách hàng (theo chế độ báo cáo định kỳ, các dự án sản xuất kinh doanh), từ các cơ quan chuyên thông tin tín dụng trong và ngoài nước, từ các bộ, các ngành chủ quản... Số lượng và chất lượng thông tin thu nhận được có liên quan đến việc cho vay, theo dõi và quản lý tài khoản cho vay. Thông tin tín dụng có thể thu được từ các nguồn sẵn có ở Ngân hàng (hồ sơ xin vay, thông tin giữa các tổ chức tín dụng, phân tích của cán bộ tín dụng ... ); từ khách hàng( theo chế độ báo cáo định kỳ hoặc phản ánh trực tiếp); từ các cơ quan chuyên về thông tin tín dụng ở trong và ngoài nước; từ các nguồn thông tin khác. Số lượng, chất lượng của thông tin thu nhận được có liên quan đến mức độ chính xác trong việc phân tích, nhận định tình hình
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2