ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
HOÀNG QUỲNH TRANG
NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG CỐT TRUYỆN VÀ NHÂN VẬT
TRONG NAM TRIỀU CÔNG NGHIỆP DIỄN CHÍ
CỦA NGUYỄN KHOA CHIÊM
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
THÁI NGUYÊN - 2017
1
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
HOÀNG QUỲNH TRANG
NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG CỐT TRUYỆN VÀ NHÂN VẬT
TRONG NAM TRIỀU CÔNG NGHIỆP DIỄN CHÍ
CỦA NGUYỄN KHOA CHIÊM
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60.22.01.21
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. Ngô Gia Võ
THÁI NGUYÊN - 2017
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất
cứ công trình nào khác.
Thái Nguyên, tháng 06 năm 2017
Tác giả luận văn
ii
Hoàng Quỳnh Trang
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn tốt nghiệp này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân
thành và sâu sắc nhất của mình tới TS. Ngô Gia Võ, người đã tận tình chỉ bảo,
hướng dẫn trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn các quý thầy cô trong Ban Giám hiệu, Ban chủ
nhiệm Khoa Ngữ Văn, Phòng Sau đại học Trường Đại học Sư Phạm- Đại học
Thái Nguyên, quý thầy cô trực tiếp giảng dạy, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian
học tập, nghiên cứu khoa học.
Và cuối cùng, tôi xin cảm ơn những người thân trong gia đình, bạn bè,
đồng nghiệp đã luôn bên tôi chia sẻ những khó khăn và giúp đỡ tôi rất nhiều để
tôi có được thành quả như ngày hôm nay.
Thái Nguyên, tháng 06 năm 2017
Tác giả luận văn
iii
Hoàng Quỳnh Trang
MỤC LỤC
Trang
Trang bìa phụ ........................................................................................................ i
LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................ ii
LỜI CẢM ƠN ..................................................................................................... iii
MỤC LỤC .......................................................................................................... iv
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài .......................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề............................................................................................... 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................ 6
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................... 6
5. Phương pháp nghiên cứu .............................................................................. 7
6. Những đóng góp mới của luận văn .............................................................. 8
7. Cấu trúc luận văn .......................................................................................... 8
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ............................................................. 9
1.1. Hoàn cảnh lịch sử - xã hội - văn hóa dẫn tới sự ra đời của tác phẩm
Nam triều công nghiệp diễn chí ....................................................................... 9
1.1.1 Hoàn cảnh lịch sử - xã hội ....................................................................... 9
1.1.2. Hoàn cảnh văn hóa ............................................................................... 11
1.2. Về tác giả và tác phẩm ............................................................................ 14
1.2.1. Tác giả Nguyễn Khoa Chiêm ............................................................... 14
1.2.2. Tác phẩm Nam triều công nghiệp diễn chí .......................................... 15
1.3. Một số vấn đề lý luận về nghệ thuật xây dựng cốt truyện và nghệ thuật
xây dựng nhân vật .......................................................................................... 19
1.3.1. Quan niệm chung về cốt truyện và nghệ thuật xây dựng cốt truyện .... 19
1.3.2. Nghệ thuật xây dựng cốt truyện trong tiểu thuyết chương hồi ............ 23
1.3.3. Quan niệm chung về nhân vật và nghệ thuật xây dựng nhân vật ......... 25
1.3.4. Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết chương hồi ............... 27
iv
1.4. Tiểu kết .................................................................................................... 28
Chương 2. NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG CỐT TRUYỆN TRONG NAM
TRIỀU CÔNG NGHIỆP DIỄN CHÍ .................................................................. 30
2.1. Nghệ thuật xây dựng cốt truyện theo thời gian tuyến tính ...................... 30
2.1.1. Đặc điểm chung .................................................................................... 30
2.1.2. Nghệ thuật xây dựng cốt truyện theo thời gian tuyến tính trong Nam
triều công nghiệp diễn chí .............................................................................. 31
2.2. Nghệ thuật xây dựng cốt truyện theo tính chất đồng hiện ...................... 36
2.2.1. Đặc điểm chung .................................................................................... 36
2.2.2. Nghệ thuật xây dựng cốt truyện theo tính chất đồng hiện trong Nam
triều công nghiệp diễn chí .............................................................................. 37
2.3. Nghệ thuật đặc tả các biến cố .................................................................. 41
2.3.1. Đặc điểm chung .................................................................................... 41
2.3.2. Nghệ thuật đặc tả các biến cố trong Nam triều công nghiệp diễn chí.. 41
2.4. Tiểu kết .................................................................................................... 46
Chương 3. NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT TRONG NAM
TRIỀU CÔNG NGHIỆP DIỄN CHÍ .................................................................. 48
3.1. Con đường từ hiện thực đến các hình tượng văn học ............................. 48
3.2. Bút pháp tả thực trong nghệ thuật xây dựng nhân vật ở Nam triều công
nghiệp diễn chí ............................................................................................... 50
3.3. Bút pháp hư cấu trong nghệ thuật xây dựng nhân vật ở Nam triều công
nghiệp diễn chí ............................................................................................... 58
3.3.1. Hư cấu trong sáng tạo nghệ thuật ......................................................... 58
3.3.2. Hư cấu trong Nam triều công nghiệp diễn chí của Nguyễn Khoa Chiêm 61
3.3.3. Sử dụng các yếu tố tâm linh ................................................................. 67
3.3.4. Sử dụng các yếu tố huyền thoại ............................................................ 74
3.4. Tiểu kết .................................................................................................... 78
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 81
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................. 84
v
PHỤ LỤC .......................................................................................................... 89
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Văn học Việt Nam là một dòng chảy liên tục, nối liền quá khứ, hiện tại
và tương lai, trong quá trình vận động và phát triển, mỗi thời kỳ văn học đều
để lại những thành tựu rực rỡ trên cả hai lĩnh vực: thơ ca và văn xuôi. Văn học
trung đại Việt Nam tính từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX là thời kỳ hình thành
và phát triển mạnh mẽ của nền văn học viết dân tộc. Có thể nói, những thành
tựu nền tảng của văn học viết Việt Nam được khẳng định ở thời kỳ này. Trong
gần mười thế kỉ ấy, văn học thế kỷ XVIII đã có những bước phát triển vượt
bậc và đạt được những thành tựu to lớn. Cùng với các thể loại văn học khác,
văn xuôi tự sự chữ Hán trong đó có tự sự lịch sử phát triển mạnh mẽ, mà một
trong những tác phẩm tiêu biểu là Nam triều công nghiệp diễn chí của Nguyễn
Khoa Chiêm.
Tiểu thuyết Nam triều công nghiệp diễn chí của Nguyễn Khoa Chiêm là
một tác phẩm văn xuôi tự sự chữ Hán khá thành công ở cả phương diện nội
dung và nghệ thuật, được đánh giá là một trong những tác phẩm có ý nghĩa mở
đầu nền tiểu thuyết chương hồi của Việt Nam. PGS.TS Nguyễn Đăng Na trong
tác phẩm Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, Tập 3, Nxb Giáo dục, Hà
Nội. Đã khẳng định: “Mặc dù đương thời chưa ra đời thể loại truyện ngắn lịch
sử, nhưng với Nam triều công nghiệp diễn chí thì tiểu thuyết lịch sử Việt Nam
viết theo lối chương hồi đã xuất hiện” [40, tr.23].
Tuy nhiên, các tài liệu nghiên cứu cũng như các bài viết về Nam triều
công nghiệp diễn chí hiện nay vẫn chưa nhiều. Khi nhắc đến tiểu thuyết
chương hồi Việt Nam, người ta vẫn thường chỉ nhắc tới Hoàng Lê nhất
thống chí của Ngô gia văn phái, đỉnh cao của tiểu thuyết chương hồi Việt
Nam, điều đó là hoàn toàn chính xác. Tuy nhiên, việc chưa có nhiều công
1
trình nghiên cứu về Nam triều công nghiệp diễn chí, thiết nghĩ là điều chưa
xứng đáng với tầm vóc và vị trí của tác phẩm “khai sơn phá thạch” cho thể
loại tiểu thuyết chương hồi này.
Đọc Nam triều công nghiệp diễn chí, ấn tượng đầu tiên là tác giả xây
dựng thành công cốt truyện có dung lượng dài, trong đó không chỉ là các câu
chuyện lịch sử, các cuộc xung đột chiến tranh để giành quyền lực giữa các tập
đoàn phong kiến, mà còn có cả các biến cố, sự kiện liên quan tới các nhân vật
cụ thể. Qua việc lựa chọn, xây dựng và sắp xếp các chi tiết, tình tiết để xây
dựng cốt truyện theo từng sự kiện và nhân vật, tác giả Nguyễn Khoa Chiêm đã
đánh dấu phong cách riêng khi viết tiểu thuyết của mình.
Bên cạnh đó, tác giả cũng rất thành công trong việc đưa các nhân vật
lịch sử vào tác phẩm văn học, xây dựng thành những hình tượng nghệ thuật hấp
dẫn. Các nhân vật trong tác phẩm vừa bảo lưu những đặc điểm, biến cố, sự kiện
có thật của cuộc đời mình vừa được hư cấu, sáng tạo thành những nhân vật văn
học thực sự chứ không đơn thuần là những nhân vật lịch sử cứng nhắc. Họ vừa
là những con người của lịch sử vừa là những hình tượng nghệ thuật có giá trị.
Theo tác giả Nguyễn Đăng Na: “Nếu so sánh với Nam triều công nghiệp diễn
chí thì Hoàng Lê nhất thống chí là một bước tiến dài trên con đường phát triển
tiểu thuyết lịch sử chương hồi Việt Nam. Nhưng việc miêu tả nhân vật, họ
Nguyễn có phần tiến bộ hơn” [41, tr. 83]. Vì vậy, tìm hiểu nghệ thuật xây dựng
cốt truyện và nhân vật trong Nam triều công nghiệp diễn chí là một hướng
nghiên cứu giúp cho chúng ta nhận thức được một trong những giá trị nghệ
thuật nổi bật của tác phẩm, góp phần lý giải vì sao đây lại là tác phẩm được coi
có ý nghĩa khai sinh nền tiểu thuyết lịch sử chương hồi Việt Nam.
Đặc biệt là hiện nay chương trình ngữ văn nhà trường từ bậc trung học
đến đại học đều chưa được tiếp cận tác phẩm Nam triều công nghiệp diễn chí
của Nguyễn Khoa Chiêm một cách trọn vẹn. Nhận thức được ý nghĩa và tầm
quan trọng của tác phẩm, chúng tôi đã dành thời gian và tâm huyết nghiên cứu
2
tác phẩm Nam triều công nghiệp diễn chí, trong đó tập trung nghiên cứu và tìm
hiểu về “Nghệ thuật xây dựng cốt truyện và nhân vật trong Nam triều công
nghiệp diễn chí của Nguyễn Khoa Chiêm”. Sau khi hoàn thành, luận văn sẽ
góp phần chỉ rõ những giá trị đặc sắc của một tác phẩm văn xuôi tự sự thời
trung đại, đồng thời khẳng định rõ hơn vị trí của tác giả Nguyễn Khoa Chiêm
trong nền văn học viết Việt Nam.
2. Lịch sử vấn đề
Là tác phẩm mở đầu nền tiểu thuyết chương hồi Việt Nam, nhưng Nam
triều công nghiệp diễn chí của Nguyễn Khoa Chiêm chưa được giới nghiên cứu
văn học quan tâm nhiều. Đặc biệt là những bài viết liên quan đến nghệ thuật
xây dựng cốt truyện và nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tác phẩm còn rất ít.
Điểm qua ý kiến của nhiều nhà nghiên cứu từ khi tác phẩm xuất hiện đến nay,
chúng ta sẽ nhận thức rõ hơn điều đó.
Tác giả Ngô Đức Thọ trong cuốn Việt Nam khai quốc chí truyện đã giới
thiệu rằng: Người đầu tiên nói đến tác phẩm Nam triều công nghiệp diễn chí
của Nguyễn Khoa Chiêm là danh sĩ triều Nguyễn Trịnh Hoài Đức (1765 -
1825) giữ chức Phó Tổng đài Sứ quán triều Minh Mệnh, tiếp sau đó là một học
giả Pháp tên là L.Cadiere.
Năm 1969 sử gia Phan Khoang khi nghiên cứu lịch sử xứ Đàng Trong đã
được tham khảo một truyền bản của Nam triều công nghiệp diễn chí có tên sách
là Nam triều Nguyễn chúa khai quốc công nghiệp diễn chí. Ông xác nhận: “Tác
phẩm Nam triều công nghiệp diễn chí của Nguyễn Khoa Chiêm có giá trị tư
liệu lịch sử quý giá” [27, tr. 6].
Năm 1974, Tập san Sử - Địa đăng bài khảo cứu công phu Đúng ba trăm
năm trước của giáo sư Hoàng Xuân Hãn. Nhân dịp chuyên đề “Kỷ niệm 300
năm ngưng chiến Nam - Bắc phân tranh thời Trịnh - Nguyễn”, giáo sư Hoàng
Xuân Hãn đã căn cứ vào tác phẩm của Nguyễn Khoa Chiêm để trình bày tóm
tắt những sự kiện chính của thời Trịnh - Nguyễn phân tranh. Ông viết: “...đối
3
với những triều chúa Nguyễn, sách này có giá trị tương đương với sách Hoàng
Lê nhất thống trí đối với các triều cuối Trịnh và đầu Tây Sơn... Tôi nghĩ rằng
về đại cương cũng như về chi tiết sách này khá đáng tin cậy, nhất là về khoảng
từ Chúa Sãi về sau” [Dẫn theo 23].
Trong cuốn Nam triều công nghiệp diễn chí, Ngô Đức Thọ - Nguyễn
Thúy Nga giới thiệu, dịch và chú thích (1994), Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
Trong lời giới thiệu: Nam triều công nghiệp diễn chí - tác giả - văn bản - tác
phẩm, tác giả Ngô Đức Thọ cũng chỉ nhắc đến rằng: “Trên bình diện những sự
kiện lịch sử từ nửa cuối thế kỷ XVI đến gần hết thế kỷ XVII, tác phẩm đã tái
hiện nhiều nhân vật văn võ ở cả hai miền” [59, tr.19].
Trong cuốn Từ điển văn học Việt Nam – từ nguồn gốc đến hết thế kỷ XIX
do các tác giả các tác giả Lại Nguyên Ân, Bùi Văn Trọng Cường biên soạn
(1995), Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. Trong mục từ Việt Nam khai quốc chí
truyện (một nhan đề khác của Nam triều công nghiệp diễn chí), các tác giả đã
nhận xét: tác giả Nguyễn Khoa Chiêm đã “mô tả kỹ được nhiều nhân vật lịch
sử với những nét tính cách riêng biệt”. Đồng thời đưa ra một số ví dụ: “Trịnh
Tùng như một võ tướng tài ba, lần lượt Đánh bại quân nhà Mạc nhưng cũng là
kẻ thâm hiểm tàn bạo đã quẳng xác Lê Kính Tông ở sân triều. Rốt cuộc chính
Trịnh Tùng bị thuộc hạ bỏ rơi và ốm chết ở Cầu Đơ (Hà Đông)”, “Nguyễn
Hoàng như một người có bản lĩnh, biết khôn khéo an dân, chú trọng khai thác
vùng đất mới”, “Chiêu Vũ: một viên tướng hết lòng với sự nghiệp nhà chúa”
[2, tr. 541].
Trong cuốn Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại- Tập 3, Nguyễn
Đăng Na giới thiệu và tuyển soạn (2000), Nxb Giaó dục, Hà Nội. Ở phần giới
thiệu chung: Tiểu thuyết chương hồi Việt Nam thời trung đại- quá trình hình
thành, phát triển và đặc trưng nghệ thuật, Nguyễn Đăng Na đã nói đến “cách
giới thiệu nhân vật” hay “lối tả người, giới thiệu nhân vật” [40, tr.30-33] của
Nam triều công nghiệp diễn chí trong sự đối sánh với Tam quốc diễn nghĩa của
4
La Quán Trung để thấy những nét tương đồng và nhất là những nét khác biệt và
độc đáo của Nguyễn Khoa Chiêm so với La Quán Trung. Tất cả nhằm khẳng
định Nam triều công nghiệp diễn chí của Nguyễn Khoa Chiêm không phải là sự
mô phỏng Tam quốc diễn nghĩa.
Trong Cuốn Từ điển văn học (bộ mới) do các tác giả Đỗ Đức Hiểu,
Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá (Đồng chủ biên) (2004), Nxb
Thế giới, Hà Nội.
Trong mục từ Nam triều công nghiệp diễn chí, các tác giả cũng đã đưa ra
nhận xét: “Trên nền những sự kiện lịch sử thế kỷ XVI - XVII, thân thế, hành
động, tính cách của nhiều nhân vật lịch sử là tướng văn, tướng võ ở cả Đàng
Trong và Đàng Ngoài như Nguyễn Kim, Trịnh Kiểm, Trịnh Tùng, Hàn Tiến,
Thuận Nghĩa, Đào Duy Từ, Nguyễn Hữu Dật, Phùng Khắc Hoan,… các chúa
Nguyễn Hoàng, Nguyễn Phúc Nguyên, Phúc Lan, Phúc Tần, Phúc Trăn,… các
vua Trang Tông, Trung Tông, Anh Tông, Thế Tông, Kính Tông,… cũng hiện lên
khá rõ. Ở một số trường hợp tác giả đã sử dụng lời đối thoại để góp phần bộc
lộ tính cách mưu lược của nhân vật” [24, tr.1033].
Gần đây, trong một số công trình nghiên cứu đã ít nhiều đề cập đến cốt
truyện và nhân vật trong Nam triều công nghiệp diễn chí của Nguyễn Khoa
Chiêm như bài viết: Hình ảnh Nguyễn Hữu Dật và Đào Duy Từ qua Nam triều
công nghiệp diễn chí của Nguyễn Khoa Chiêm của Th.S Trần Thị Thanh; một
số luận văn thạc sĩ như luận văn của Vi Thị Bích Thủy (2008): Nghệ thuật xây
dựng nhân vật trong tiểu thuyết Nam triều công nghiệp diễn chí của Nguyễn
Khoa Chiêm, luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thùy Linh (2012): Nghệ thuật tự sự
trong tiểu thuyết Nam triều công nghiệp diễn chí của Nguyễn Khoa Chiêm.
Trong các tài liệu trên, do mục đích viết khác nhau, các tác giả đã đề cập
đến việc xây dựng cốt truyện và nhân vật trong tiểu thuyết Nam triều công
nghiệp diễn chí ở những mức độ khác nhau. Nhưng nhìn chung tất cả mới chỉ
đề cập đến vấn đề với ý nghĩa là những nhận định chung nhất. Đó là những tư
5
liệu, gợi ý và điều kiện để người viết thực hiện đề tài này. Mong rằng với sự cố
gắng và nỗ lực hết mình, chúng tôi sẽ có những đóng góp thêm vào việc khám
phá những giá trị về nội dung nói chung, nghệ thuật nói riêng của tác phẩm
Nam triều công nghiệp diễn chí.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu trọng tâm của chúng tôi là: Nghệ thuật xây dựng
cốt truyện và nhân vật trong Nam triều công nghiệp diễn chí của Nguyễn
Khoa Chiêm.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi tập trung khảo sát cuốn tiểu thuyết
Nam triều công nghiệp diễn chí của Nguyễn Khoa Chiêm, do các tác giả Ngô
Đức Thọ và Nguyễn Thúy Nga giới thiệu, dịch và chú thích, Nxb Hội Nhà văn,
Hà Nội, 1994. Ngoài ra, chúng tôi còn tham khảo và sử dụng thêm một số cuốn
tiểu thuyết chương hồi tiêu biểu của văn học trung đại Việt Nam như Hoàng Lê
nhất thống chí, Việt Lam tiểu sử và bộ tiểu thuyết chương hồi Trung Quốc là
Tam quốc chí diễn nghĩa của La Quán Trung để làm cứ liệu so sánh.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn cố gắng làm nổi bật tài năng, tâm huyết của tác giả Nguyễn
Khoa Chiêm qua những nét đặc sắc về phương diện nghệ thuật xây dựng cốt
truyện và nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tác phẩm Nam triều công nghiệp
diễn chí. Từ đó, xác định rõ hơn vị trí văn học sử của Nguyễn Khoa Chiêm
trong nền văn xuôi Việt Nam thời kỳ trung đại.
Ngoài ra, chúng tôi còn có mong muốn qua việc thực hiện đề tài, sẽ rút ra
được những bài học thiết thực để nghiên cứu và giảng dạy tác phẩm văn học cổ
6
ở trường phổ thông.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn tập trung làm rõ giá trị tác phẩm Nam triều công nghiệp diễn
chí của Nguyễn Khoa Chiêm về phương diện nghệ thuật xây dựng cốt truyện và
nghệ thuật xây dựng nhân vật, đặt tiểu thuyết Nam triều công nghiệp diễn chí
trong sự đối sánh với một số tiểu thuyết chương hồi của nền văn học Việt Nam
về phương diện nghệ thuật xây dựng cốt truyện và nghệ thuật xây dựng nhân
vật, làm rõ những đóng góp của Nguyễn Khoa Chiêm trong nền tiểu thuyết
chương hồi Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu đề tài này, chúng tôi sử dụng chủ yếu các phương
pháp sau:
5.1. Phương pháp thống kê
Thông qua việc khảo sát tiểu thuyết Nam triều công nghiệp diễn chí
chúng tôi sẽ tiến hành thống kê các dữ liệu một cách chi tiết và cụ thể. Đó là
cơ sở khoa học chứng minh cho các luận điểm chúng tôi sẽ trình bày trong
luận văn.
5.2. Phương pháp phân tích, tổng hợp
Chúng tôi sẽ tiến hành phân tích các dữ liệu đã thống kê. Từ đó, đưa ra
nhận xét cho các đặc điểm đã nêu trong từng luận điểm, tìm hiểu những biểu
hiện cụ thể trong nghệ thuật xây dựng cốt truyện và nghệ thuật xây dựng nhân
vật của Nguyễn Khoa Chiêm. Trên cơ sở đó, chúng tôi sẽ đánh giá tổng hợp
các luận điểm theo từng hệ thống vấn đề, đưa ra kết luận về tài năng xây dựng
cốt truyện và nghệ thuật xây dựng nhân vật của Nguyễn Khoa Chiêm trong
Nam triều công nghiệp diễn chí.
5.3. Phương pháp so sánh
Bên cạnh việc sử dụng các phương pháp thống kê, phân tích,tổng hợp,
chúng tôi còn tiến hành so sánh, đối chiếu giữa tiểu thuyết Nam triều công
7
nghiệp diễn chí với một số tác phẩm cùng thể loại tiểu thuyết chương hồi trong
văn học Việt Nam về phương diện nghệ thuật xây dựng cốt truyện và nghệ
thuật xây dựng nhân vật để thấy được điểm tương đồng và khác biệt của
Nguyễn Khoa Chiêm với một số tác giả khác. Từ đó, khẳng định thêm giá trị
đặc sắc của Nam triều công nghiệp diễn chí trong tư cách tác phẩm mở đầu thể
loại tiểu thuyết chương hồi Việt Nam.
6. Những đóng góp mới của luận văn
- Là công trình nghiên cứu một cách hệ thống về nghệ thuật xây dựng cốt
truyện và nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết Nam triều công
nghiệp diễn chí của Nguyễn Khoa Chiêm.
- Luận văn được hoàn thành sẽ là một tài liệu tham khảo có ích cho sinh
viên khoa văn và giáo viên dạy văn ở trường phổ thông.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn được triển khai
thành ba chương sau đây:
Chương 1: Những vấn đề chung
Chương 2: Nghệ thuật xây dựng cốt truyện trong Nam triều công
nghiệp diễn chí
Chương 3: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong Nam triều công
8
nghiệp diễn chí
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Hoàn cảnh lịch sử - xã hội - văn hóa dẫn tới sự ra đời của tác phẩm
Nam triều công nghiệp diễn chí
1.1.1 Hoàn cảnh lịch sử - xã hội
Bức tranh lịch sử xã hội Việt Nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVII đã trải
qua rất nhiều biến động: chiến tranh loạn lạc, xã hội rối ren bởi những cuộc
nội chiến mà lịch sử gọi là các cuộc “huynh đệ tương tàn”, chế độ phong
kiến suy vong, các giá trị phong kiến lung lay, rạn vỡ, giai cấp phong kiến
tha hóa càng ngày càng phơi bày bộ mặt xấu xa, độc ác.
Sau mười năm kháng chiến chống quân Minh, Lê Lợi giành lại nền độc
lập, tự do cho đất nước, một trang sử vàng được mở ra khi Lê Lợi lên ngôi
hoàng đế, thiết lập nên triều Lê. Bắt đầu từ triều vua Lê Thái Tổ (1428) đến
triều vua Lê Thánh Tông (cuối thế kỷ XV), nhìn chung chế độ phong kiến Việt
Nam phát triển trên con đường hưng thịnh, xã hội thái bình, đời sống nhân dân
được no ấm yên vui. Bước sang thế kỷ XVI, chế độ phong kiến đi vào thời kỳ
khủng hoảng, suy tàn. Các vua sau đó như Lê Uy Mục, Lê Tương Dực.... thi
nhau ăn chơi sa đọa, bóc lột dân chúng đến tận xương tủy làm cho kỉ cương đất
nước bị đảo lộn, cuộc sống nhân dân đau thương cơ cực, triều Lê như một cỗ xe
lao nhanh xuống vực thẳm. Đứng trước tình cảnh đó, Mạc Đăng Dung, một võ
tướng nhà Lê sau khi đứng ra trấn áp các cuộc nổi dậy bên ngoài, nắm lấy
quyền hành triều Lê, đến năm 1527 thì phế truất Lê Cung Hoàng lập ra nhà
Mạc: “Tháng 7 năm 1519, Đăng Dung dẹp được Lê Do, bắt giết Do và Nguyễn
Sư. Trịnh Tuy bỏ chạy vào Thanh Hoá, Nguyễn Kính đầu hàng. Năm 1521,
Mạc Đăng Dung dẹp được Trần Cung (con Trần Cảo), quyền thế át cả Chiêu
Tông. Năm 1522, Chiêu Tông chạy ra ngoài gọi quân Cần vương. Đăng Dung
bèn lập em Chiêu Tông là Xuân lên ngôi, tức là Lê Cung Hoàng, tuyên bố phế
9
truất Chiêu Tông.Vua Chiêu Tông được một số đại thần ủng hộ, dàn quân đánh
nhau với Đăng Dung. Nhưng sau đó các tướng cần vương bất hòa, chia rẽ và
lần lượt bị Mạc Đăng Dung đánh bại. Năm 1524, Trịnh Tuy thua trận bỏ chạy
rồi chết. Năm 1525, Mạc Đăng Dung bắt được Chiêu Tông mang về Thăng
Long và giết chết năm 1526. Năm 1527, Mạc Đăng Dung phế truất Cung
Hoàng và lên làm vua, lập ra nhà Mạc” [67].
Tuy nhiên, thời Mạc xã hội vẫn chưa thái bình, cuộc sống của người dân
vẫn chưa được ổn định, giai cấp phong kiến ngày càng mâu thuẫn gay gắt, gây
nên các cuộc chiến tranh kéo dài và chia cắt lãnh thổ hơn một trăm năm, đó là
hai cuộc chiến tranh của các thế lực phong kiến: Nội chiến Lê - Mạc và chiến
tranh Lê - Nguyễn, đã đưa đất nước trong vòng 150 năm lâm vào cảnh nồi da
xáo thịt, huynh đệ tương tàn. Đó là bối cảnh Việt Nam thế kỷ XVI đến thế kỷ
XVII. Đến cuối thế kỷ XVII, mặc dù chiến cục ba bên đã chấm dứt nhưng đất
nước vẫn bị chia cắt: Đàng Trong và Đàng Ngoài, các tập đoàn thống trị vẫn ra
sức vơ vét tiền của, thóc gạo và sức lao động của nhân dân khiến cho cuộc sống
thêm cùng cực. Nhân dân Đàng Ngoài còn chịu cảnh một cổ hai tròng có vua
lại có chúa, trong khi đó, tình hình ở Đàng Trong cũng không tốt đẹp hơn. Từ
giữa thế kỷ XVIII, chính quyền nhà Nguyễn suy yếu dần, quan lại kết bè kéo
cánh bóc lột nhân dân, đua nhau ăn chơi xa xỉ. Nông dân phải nộp nhiều thứ
thuế, cuộc sống khốn khổ, lầm than từ đó bất bình oán giận dâng cao. Nhân dân
hai miền đều mơ ước về một cuộc khởi nghĩa chống lại chính quyền phong kiến
thống trị, thống nhất đất nước, xây dựng một xã hội ấm no thanh bình. Trước
nhu cầu cấp thiết và nóng bỏng thống nhất giang sơn của mỗi người dân, ba
anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ lập căn cứ ở Tây Sơn
thượng đạo vào mùa xuân 1771. Cuộc khởi nghĩa Tây Sơn bùng nổ, được sự
ủng hộ của nhân dân và với tài năng trí tuệ lớn, người anh hùng Nguyễn Huệ đã
đập tan tập đoàn Chúa Nguyễn ở Đàng Trong, quét sạch tập đoàn Lê - Trịnh ở
Đàng Ngoài, đánh tan hai mươi chín vạn quân Thanh, thống nhất giang sơn, lập
10
nên một triều đại mới - triều đại Quang Trung năm 1789.
Trong vòng hơn một thế kỷ, đất nước đã trải qua biết bao biến động,
bức tranh lịch sử - xã hội rộng lớn của thế kỷ XVI - XVII ấy đã được ghi lại
bởi hàng loạt các tác phẩm cụ thể. Vào cuối thế kỷ XVII, đã xuất hiện tác
phẩm Nguyễn Cảnh Thị Hoan Châu Ký, một cuốn tiểu thuyết lịch sử viết
dưới dạng gia phả của dòng họ Nguyễn Cảnh ở Châu Hoan. Cuốn tiểu thuyết
này đã tái hiện lại một giai đoạn lịch sử trên 270 năm của dân tộc, từ Vãn Hồ
(năm 1406) cho đến Lê Trung Hưng, đời Hy Tông, năm Vĩnh Trị thứ ba
(1678). Và, theo các nhà nghiên cứu thì đây chính là cuốn tiểu thuyết lịch sử
đầu tiên của nước ta.
Sinh ra khi cuộc nội chiến đã chấm dứt, nhưng thời đại Nguyễn Khoa
Chiêm sống là thời đại đất nước đổ nát, nhân dân kiệt quệ vì hệ quả các cuộc
nội chiến, các giá trị đạo đức bị lung lay. Là người có học, lại có chỗ đứng
trong xã hội lúc bấy giờ, bối cảnh đất nước chính là nguồn cảm hứng thôi thúc
tác giả viết một tác phẩm tái hiện lại các sự kiện lịch sử xảy ra cách thời đại của
ông một thế kỷ. Bằng tài năng và tư duy tổng hợp tuyệt vời, Nguyễn Khoa
Chiêm đã ghi lại toàn cảnh xã hội lúc bấy giờ về một thời đại với những sự
kiện và nhân vật lịch sử có thật trong tác phẩm Nam triều công nghiệp diễn chí.
1.1.2. Hoàn cảnh văn hóa
Tiểu thuyết chương hồi là một thể loại thuộc loại hình văn học trung
đại. Đây là một dạng thức tiểu thuyết trường thiên xuất hiện và phát triển
mạnh mẽ ở Trung Quốc từ thế kỷ XIV đến đầu thế kỷ XIX. Thể loại tiểu
thuyết này khi phát triển cực thịnh, đạt tới trình độ nghệ thuật cao đã lưu
truyền và ảnh hưởng sang các nước có quan hệ văn hóa lâu đời với Trung
Quốc trong đó có Việt Nam.
Đặc điểm của tiểu thuyết chương hồi rất đa dạng và phong phú. Dưới
đây là những đặc điểm nổi bật của thể loại này: Tiểu thuyết chương hồi thường
phân chia cốt truyện ra làm hồi, quyển, tiết. Mỗi hồi bao giờ cũng có tiêu đề
11
nêu rõ nội dung trình bày trong mỗi hồi. Kết thúc mỗi hồi thường có một bài
thơ ngắn để tóm tắt lại các sự kiện chính diễn ra trong hồi và sau đó kết thúc
bằng câu như: Muốn biết sự việc như thế nào hồi sau sẽ rõ hoặc hồi sau phân
giải. Căn cứ theo dung lượng các hồi, có thể chia tiểu thuyết chương hồi thành
hai loại lớn và nhỏ. Loại lớn gồm các tiểu thuyết có dung lượng từ một trăm
hồi trở lên như tiểu thuyết diễn nghĩa Tam quốc diễn nghĩa, tiểu thuyết anh
hùng như Thủy hử, tiểu thuyết tình yêu như Hồng lâu mộng...
Nội dung phản ánh của các thể loại tiểu thuyết chương hồi rất đa dạng.
Nó có thể là toàn bộ diễn biến và vận mệnh của một dân tộc, những cuộc đấu
tranh phong kiến, quá trình giải phóng giai cấp của các tầng lớp, ca ngợi các vị
anh hùng có công lao to lớn trong các cuộc đấu tranh đó.
Nhân vật trong tiểu thuyết chương hồi hết sức phong phú, bên cạnh
những nhân vật chính làm trung tâm như các vị vua chúa, quan lại, quân tướng,
các vị liệt nữ… còn xuất hiện những nhân vật đám đông, góp phần tạo nên số
lượng đông đảo các nhân vật khiến cho tiểu thuyết chương hồi có quy mô
hoành tráng.
Thời gian trong tiểu thuyết chương hồi thường là thời gian đơn tuyến và
một hướng. Đó là kết cấu thời gian theo dòng tuyến tính, mọi sự kiện, chủ đề
đều xoay quanh nhân vật chính theo dòng thời gian lịch sử.
Tác giả trong tiểu thuyết chương hồi thường đứng ở ngôi thứ ba dẫn
dắt câu chuyện, nhân vật tự suy nghĩ và hành động. Tác giả cũng đưa vào đó
những lời bình luận hay các đoạn thơ ngắn thể hiện ý kiến cá nhân về các
nhân vật, sự kiện.
Tóm lại, tiểu thuyết chương hồi là thể loại tiểu thuyết được viết theo kết
cấu chương hồi. Thể loại này có nguồn gốc từ Trung Quốc, bắt đầu hình thành
từ đời Ngụy Tấn Nam Bắc Triều, trải qua đời Đường, Tống đến thời Minh
Thanh tiểu thuyết chương hồi Trung Hoa phát triển mạnh mẽ và khẳng định vị
12
trí vững chắc của mình trong nền văn học Trung Quốc với hàng loạt các tác
phẩm nổi tiếng như: Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung, Thủy hử của Thi
Nại Am, Hồng lâu mộng của Tào Tuyết Cần…..
Với sự phát triển mạnh mẽ như vậy, tiểu thuyết chương hồi đã có ảnh
hưởng sâu xa đối với tiểu thuyết các nước châu Á như Triều Tiên, Nhật Bản
trong đó có Việt Nam. Tiểu thuyết chương hồi Trung Quốc được du nhập sang
Việt Nam thời Trung đại từ thế kỷ X đến thế kỷ XIX và thể hiện rõ nét nhất
trong bộ phận văn học chữ Hán. Mặc dù du nhập vào Việt Nam khá sớm nhưng
phải đến cuối thế kỷ XVII - đầu XVIII trong những điều kiện lịch sử - xã hội
nhất định, tiểu thuyết chương hồi mới chính thức ra đời và phát triển ở nước ta.
Có thể nói, tiểu thuyết chương hồi là một hiện tượng độc đáo của văn
học Việt Nam trong bối cảnh các nền văn học trong khu vực đều chịu ảnh
hưởng sâu sắc của văn học Hán. Tiểu thuyết chương hồi trung đại Việt Nam đã
có bước đi riêng, phản ánh chủ đề khác so với những tiểu thuyết ra đời trước,
và hầu như không đề cập đến đề tài tình yêu nam nữ mà chỉ đề cập đến các đề
tài lịch sử. Thể loại tiểu thuyết chương hồi trong văn học trung đại Việt Nam
gắn liền với lịch sử, phản ánh các sự kiện lịch sử mang tính thời đại, lấy lịch sử
làm đề tài chính nhưng vẫn thể hiện tinh thần nhân văn, chất văn chương đậm
đà qua nội dung cũng như hình thức của tác phẩm.
Dù ra đời sau và cách xa so với tiểu thuyết chương hồi Trung Quốc cả về
mặt số lượng và chất lượng, song tiểu thuyết chương hồi Việt Nam đã để lại
dấu ấn dậm nét trong kho tàng văn học dân tộc. Trải qua quá trình phát triển
gian nan dưới sự kìm kẹp của tư tưởng Nho giáo, tiểu thuyết chương hồi đã góp
phần tái hiện lại được hoàn cảnh đất nước trong những giai đoạn lịch sử đầy
biến động. Người đặt nền móng cho tiểu thuyết chương hồi Việt Nam chính là
Nguyễn Khoa Chiêm. Tác phẩm Nam triều công nghiệp diễn chí của ông được
coi như là tác phẩm khai sinh nền tiểu thuyết lịch sử chương hồi của Việt Nam
13
và đem lại cho văn học Việt Nam một diện mạo mới.
1.2. Về tác giả và tác phẩm
1.2.1. Tác giả Nguyễn Khoa Chiêm
Tác giả Nguyễn Khoa Chiêm sinh năm Kỷ Hợi 1659, mất năm Bính
Thân 1736, người huyện Hương Trà, nay là Thừa Thiên Huế. Nguyễn Khoa
Chiêm xuất thân Nho học, có tiếng văn thơ, tự Bàng Trung, được bổ làm Thủ
hạp đời chúa Nguyễn. Ông từng làm quan to, được phong tước Bảng Trung hầu
ở vùng cát cứ của chúa Nguyễn.
Nguyễn Khoa Chiêm là người quê gốc ở Hải Dương, ông nội là Nguyễn
Đình Thân, thuộc hạ của Nguyễn Hoàng, theo làm tùy tùng khi Nguyễn Hoàng
vào trấn thủ xứ Thuận Hóa ( năm 1558), sau đó nhập tịch ở huyện Hương Trà,
trấn Thuận Hóa (nay thuộc huyện Hương Điền, Thừa Thiên Huế). Nguyễn
Đình Thân làm tướng trải hai triều chúa là Nguyễn Hoàng và Nguyễn Phúc
Nguyên. Kể từ đó, con cháu ông thay nhau làm quan cho các chúa Nguyễn:
Nguyễn Đình Khôi (1594-1678) con ông Nguyễn Đình Thân, tước Thuần
Mỹ nam. Năm 1636, chúa Nguyễn Phúc Lan dời phủ chúa từ vùng
Bắc Thuận Hóa về làng Kim Long (huyện Hương Trà, Thừa Thiên), ông
Khôi cũng đến nhập tịch ở huyện ấy và được phép chúa Nguyễn cho đổi
thành họ Nguyễn Khoa. Nguyễn Khoa Danh (1632-1697), con ông Khôi,
tước Cảnh Lộc bá. Nguyễn Khoa Chiêm chính là người con duy nhất của
ông Danh và bà Lê Thị Am.
Nguyễn Khoa Chiêm cưới Trần Thị Mận (1670- 1743) là con gái Cai bạ
Trần Đình Ân làm vợ. Ông bà có cả thảy 12 người con, gồm 8 trai và 4 gái.
Nguyễn Khoa Chiêm là người có học vấn, am hiểu nhiều lĩnh vực, từng
được bổ chức Thủ hạp. “Năm 1701, ông cùng Trần Ðình Khánh theo Cai cơ
ngoại tả Tôn Thất Diệu vào Quảng Bình đốc suất việc đắp lũy. Năm 1710, ông
được thăng chức Cai hạp kiêm Tri bạ. Nhờ bố vợ là Cai bạ Trần Đình Ân tiến
cử, ông được chúa Nguyễn Phúc Chu (1691 -1725) tin dùng. Năm 1715, được
14
thăng chức Câu kê kiêm Tri bạ, được dự bàn quân cơ trong dinh của chúa
Nguyễn. Năm 1718 ông được thăng chức Cai bạ Phó đoán sự. Năm 1724, ông
được thăng làm Thám chính chánh đoán sự. Từ đấy ông vạch định mọi kế
hoạch trong nước, làm đến Thượng thư Bộ Lại, tước Bảng Trung hầu. Lúc tuổi
già, ông trí sĩ rồi mất ở quê nhà. Sau khi mất, được tặng hàm Đại lý Thượng
khanh, được ban tên thụy là Thuần Hậu”[59, tr. 6].
Thời đại Nguyễn Khoa Chiêm sống là thời đại có nhiều biến động lịch sử
như đã nói ở trên mục 1.1.1. Và đó chính là cội nguồn cảm hứng thôi thúc tác
giả viết nên tác phẩm, ghi lại những sự kiện lúc bấy giờ bằng tư duy sáng tạo,
óc quan sát tinh tường. Tác phẩm thảo xong năm 1719 (Năm thứ 22 đời
chúa Nguyễn Phúc Chu), khi ông ở tuổi 60 và đang giữ chức Cai bạ kiêm Phó
đoán sự triều Hiển Tông Nguyễn Phúc Chu.
1.2.2. Tác phẩm Nam triều công nghiệp diễn chí
Nam triều công nghiệp diễn chí là bộ sách gồm các quyển viết bằng chữ
Hán do tác giả Nguyễn Khoa Chiêm biên soạn xong vào năm 1719 tức năm thứ
mười hai đời chúa Minh Vương Nguyễn Phúc Chu. Tác phẩm có tên ban đầu
Nam triều công nghiệp diễn chí, về sau các nhà biên soạn đổi nhan đề thành
Công nghiệp diễn chí hay Việt Nam khai quốc chí truyện diễn âm, hay Nam
triều Nguyễn chúa khai quốc công nghiệp chí tân soạn. Bộ sách có Dương
Thận Trai đề tựa, Nguyễn Giản viết lời bạt và Dương Công Tòng nhuận
chính. Sách gồm 2 tập, mỗi tập 8 quyển, gồm 30 hồi. Nội dung thuật lại sự
nghiệp khai phá Đàng Trong của các chúa Nguyễn khởi từ Đoan quốc
công Nguyễn Hoàng đem quân vào Thuận Hóa vào năm Mậu Ngọ (1558) và
kết thúc khi chúa Nguyễn Phúc Trăn mất vào năm Tân Mùi (1691). Tác phẩm
sau này được dịch, xuất bản với các tên Trịnh - Nguyễn diễn chí (1986),
Mộng bá vương (1990).
Tác phẩm Nam triều công nghiệp diễn chí lần đầu tiên được giới thiệu
bởi danh sĩ triều Nguyễn Trịnh Hoài Đức. Trong Gia Định thành thông chí,
15
ông dẫn ghi chép của Bảng Trung hầu Nguyễn Khoa Chiêm để so sánh với Phủ
biên tạp lục của Lê Quý Đôn: “An Nguyễn Bảng Trung hầu, Nam Việt chí viết
Nặc Ô Đài; Lê Quý Đôn, Phủ biên tạp lục viết Nặc Đài [9, tr. 6].
Ngoài ra, các Sử quán triều Nguyễn còn sử dụng một truyền bản của
Nam triều công nghiệp diễn chí để làm tài liệu tham khảo trong khi biên soạn
phần chép về thời kỳ các chúa Nguyễn như Đại Nam thực lục Tiền biên, Đại
Nam liệt truyện Tiền biên, Khâm định Việt sử thông giám cương mục.
Trong quá trình nghiên cứu về Nam triều công nghiệp diễn chí, có hai
học giả là người nước ngoài. Đầu tiên là học giả Pháp L.Cadiere. Ông đã sử
dụng một truyền bản của Nam triều công nghiệp diễn chí với tên gọi Việt Nam
khai quốc chí truyện làm tư liệu để trình bày cuộc chiến tranh Trịnh - Nguyễn
trong tập khảo cứu Le mur de Đồng hới. Sau này, một sử gia người Pháp khác
là Henri Maspero đã mượn lại bản của L.Cadiere sao chép lại và bổ sung hoàn
chỉnh thêm cho bản của Cadiere. H.Maspero còn chép một bản cho Viện Viễn
Đông Bác cổ ở Hà Nội. Các sử gia trong nước như Phan Khoang khi nghiên
cứu lịch sử xứ Đàng Trong đã được tham khảo một truyền bản của Nam triều
công nghiệp diễn chí có tên sách là Nam triều Nguyễn chúa khai quốc công
nghiệp diễn chí. Ông xác nhận tác phẩm của Nguyễn Khoa Chiêm có giá trị tư
liệu lịch sử quý giá. Tập san Sử - Địa đăng bài khảo cứu công phu Đúng ba
trăm năm trước của giáo sư Hoàng Xuân Hãn. Nhân dịp chuyên đề “Kỷ niệm
300 năm ngưng chiến Nam - Bắc phân tranh thời Trịnh - Nguyễn”, giáo sư
Hoàng đã căn cứ vào tác phẩm của Nguyễn Khoa Chiêm để trình bày tóm tắt
những sự kiện chính của thời Trịnh - Nguyễn phân tranh.
Về tên gọi của tác phẩm, mặc dù có khá nhiều tên gọi khác nhau trải qua
mỗi thời kỳ nhưng có hai cái tên được dùng nhiều nhất là Nam triều công
nghiệp diễn chí và Việt Nam khai quốc chí truyện.
Gia phả dòng họ Nguyễn Khoa cũng ghi Nguyễn Khoa Chiêm soạn sách
Nam triều công nghiệp diễn chí vào năm thứ 22 đời chúa Minh Vương 1719.
16
Điều này cũng phù hợp với việc gọi tên tác phẩm trong các bộ sử lớn nước ta
thời trung đại như: Đại Nam liệt truyện tiền biên, Đại Nam nhất thống chí.
Những bộ chính sử có độ tin cậy cao, đó là cơ sở đầu tiên để ta khẳng định rằng
Nam triều công nghiệp diễn chí là tên gọi chính xác của tác phẩm, hơn nữa
quốc hiệu Việt Nam ra đời vào năm 1804, trong khi tác phẩm hoàn thành năm
1719, cho nên hai chữ Việt Nam trong tác phẩm không phải do Nguyễn Khoa
Chiêm đặt. Mặt khác, tác phẩm của Nguyễn Khoa Chiêm phản ánh lịch sử xã
hội thời kỳ đất nước chia cắt thành Nam - Bắc triều nên hai chữ Nam triều là
hoàn toàn phù hợp.
Tác phẩm Nam triều công nghiệp diễn chí lần đầu tiên được dịch sang
chữ quốc ngữ vào năm 1986 bởi dịch giả Ngô Đức Thọ dưới tên gọi Trịnh -
Nguyễn diễn chí. Sau đó, Ngô Đức Thọ tiếp tục sửa chữa và xuất bản lại dưới
nhiều tên gọi khác nhau: năm 1987 và 1990 là Mộng bá vương, năm 1994 lấy
tên là Việt Nam khai quốc chí truyện và cuối cùng vào năm 2003 ông lại sửa và
lấy tên Nam Triều công nghiệp diễn chí.
Nam triều công nghiệp diễn chí là một tiểu thuyết lịch sử chương hồi
nhưng tác phẩm không hề cứng nhắc như các truyện lịch sử khác. Ta thấy bên
cạnh các yếu tố mang tính lịch sử còn mang đậm dấu ấn văn học. Điều này
không chỉ thể hiện ở ngay nhan đề tác phẩm mà tác giả đặt là diễn chí, ông có
ý khẳng định rằng đây là một tác phẩm văn học, ông viết văn chứ không viết
sử, cho nên có nhiều chi tiết lịch sử trong tác phẩm ông đề cập đến nhưng có
thể chưa chính xác, hoặc bị làm chệch đi. Việc xuất hiện các yếu tố hư cấu
khá dày đặc đã đem lại chất văn chương cho tác phẩm. Điều đó làm nên một
tiểu thuyết chương hồi hấp dẫn, vừa có sự tin cậy lịch sử vừa có giá trị văn
học đặc sắc, xứng đáng là một tác phẩm mở đầu cho nền tiểu thuyết lịch sử
chương hồi Việt Nam.
Tác phẩm Nam triều công nghiệp diễn chí phản ánh khá chân thật lịch sử
xã hội Việt Nam trong vòng hơn một trăm năm từ giữa thế kỷ XVI đến cuối thế
17
kỷ XVII, trong đó chủ yếu miêu tả quá trình hình thành Nam - Bắc triều từ
1558 và đặc biệt là cuộc nội chiến Nam - Bắc triều trong vòng 45 năm từ 1627
đến 1672. Truyện bắt đầu từ sự kiện Mạc Đăng Dung, một cường thần cướp
ngôi nhà Lê lập nên nhà Mạc. Cựu thần nhà Lê là An Tĩnh hầu Nguyễn Kim
dùng danh nghĩa phù Lê diệt Mạc, chiêu binh mã đón con vua Lê Chiêu Tông
là Lê Ninh lúc đó đang trốn ở Ai Lao cùng với mẹ về làm vua. Sau này Nguyễn
Kim bị tướng Mạc trá hàng hại chết. Con rể là Trịnh Kiểm và con trai là
Nguyễn Hoàng tiếp tục sự nghiệp phò Lê. Tuy nhiên, Trịnh Kiểm vì mong
muốn thâu tóm quyền lực đã tìm cách hãm hại Nguyễn Hoàng, khiến Nguyễn
Hoàng phải lập mưu xin vào trấn thủ vùng Thuận Hóa năm 1558. Sau khi đánh
nhau với các tướng nhà Mạc để giành được vùng đất này, Nguyễn Hoàng một
mặt vẫn giữ lễ phiên thần với vua Lê chúa Trịnh một mặt xây dựng cơ đồ riêng
ở phương Nam. Sau khi Nguyễn Hoàng qua đời, con trai là chúa Sãi Nguyễn
Phúc Nguyên lên ngôi, đã xảy ra sự kiện Trịnh Tráng sai Nguyễn Khải mang
năm nghìn quân vào bờ bắc sông Nhật Lệ khai mào cho thời kỳ nội chiến Trịnh
- Nguyễn phân tranh. Cuộc chiến giữa chúa Nguyễn và chúa Trịnh xảy ra liên
tiếp với bảy lần đại chiến từ năm 1627 đến năm 1672. Cả hai bên đã dốc toàn
bộ nhân tài vật lực vào các trận chiến, nổi lên rất nhiều nhân vật tài giỏi về
quân sự - chính trị như Đào Duy Từ, Nguyễn Hữu Dật, Nguyễn Hữu Tiến ở
Nam triều, chúa Trịnh Tráng, Trịnh Căn, Trịnh Tạc ở Bắc triều. Và sau bảy trận
chiến với quy mô lớn, hai bên đi vào thế đình chiến. Cuộc chiến tranh huynh đệ
tương tàn đã khiến cho cuộc sống của người dân thêm khốn khó, kinh tế kiệt
quệ, các giá trị đạo đức thêm xuống cấp, tất cả đều nhằm thỏa mãn lòng tham
của các thế lực phong kiến. Bên cạnh việc miêu tả các sự kiện lịch sử, tác phẩm
còn đề cập đến nhiều vấn đề nổi bật ở Bắc triều và Nam triều, đó là sự mâu
thuẫn trong nội bộ chính quyền cả ở Đàng Trong và Đàng Ngoài, sự tranh
quyền đoạt lực, anh em chém giết lẫn nhau thường xuyên xảy ra. Qua đó,
người đọc thấy được sự thối nát, mục ruỗng của các thế lực phong kiến, vì
18
lòng tham mà đẩy đất nước vào tình trạng khủng hoảng, binh biến suốt một
khoảng thời gian dài. Truyện kết thúc vào đời chúa Nguyễn Phúc Trăn vào
khoảng năm 1689.
Tác phẩm Nam triều công nghiệp diễn chí với lối viết độc đáo, sáng tạo
của loại hình tiểu thuyết chương hồi khiến cho tác phẩm dù có dung lượng dài
trên sáu trăm trang, cốt truyện với nhiều sự kiện, tình tiết đan xen phức tạp, hệ
thống nhân vật đông đảo, nhiều tuyến nhưng vẫn lôi cuốn người đọc. Bên cạnh
lối viết phát huy, kế thừa những đặc trưng nổi bật của thể loại tiểu thuyết
chương hồi, tác giả đã dày công tạo dựng nên tất cả từ cốt truyện, tình tiết, sự
kiện cho đến nhân vật. Điều đó khiến cho tác phẩm không chỉ mang tính nghệ
thuật cao mà vẫn đảm bảo trung thành với lịch sử, quả thực là một tác phẩm
văn học chứ không đơn thuần là một bộ sách lịch sử.
1.3. Một số vấn đề lý luận về nghệ thuật xây dựng cốt truyện và nghệ thuật
xây dựng nhân vật
1.3.1. Quan niệm chung về cốt truyện và nghệ thuật xây dựng cốt truyện
Cốt truyện không phải là yếu tố tất yếu, phổ biến của tất cả các tác phẩm
văn học thuộc các thể loại khác nhau nhưng là bộ phận chủ yếu và có ý nghĩa
vô cùng quan trọng trong các tác phẩm thuộc loại hình tự sự và kịch. Cốt truyện
có vai trò lớn trong việc bộc lộ chủ đề và tư tưởng của tác phẩm, thể hiện tính
cách của nhân vật, thế giới nghệ thuật của tác phẩm. Nói cách khác, một tác
phẩm tự sự thành công, hấp dẫn và lôi cuốn người đọc hay không phụ thuộc rất
nhiều vào nghệ thuật xây dựng cốt truyện.
Với vai trò quan trọng trong tác phẩm văn học, từ trước đến nay, có rất
nhiều nghiên cứu, phát biểu về cốt truyện, khởi nguồn có thể kể đến nhà lý luận
cổ đại Aristote. Trong tác phẩm Nghệ thuật và thi ca, ông cho rằng cốt truyện
chính là “linh hồn và cơ sở của bi kịch”, là cái quan trọng nhất làm thành mục
đích của bi kịch. Xuất phát từ quan điểm nghệ thuật là sự mô phỏng, Aristote
chú ý đến hành động, bởi hành động gắn liền với tính cách là yếu tố quan trọng
19
quyết định số phận nhân vật. Việc sắp xếp các hành động mới là điểm cốt yếu,
“cốt truyện phải được sắp xếp như thế nào để bất kỳ ai, dù không được xem
biểu diễn, mà chỉ nghe qua về những sự việc xảy ra đó cũng phải rùng mình và
cảm thấy xót thương theo trình tự phát triển của các sự kiện trong truyện”
[53]. Bàn về việc sắp xếp các hành động của truyện Aristote rất chú ý đến vấn
đề quy mô và tính chỉnh thể của các yếu tố cốt truyện. Trên cơ sở nền tảng của
Aristote, các nhà lí luận về sau như A.Veselovski, G.N.Pospelov, L.I.Timofeep,
E.Dobin, Kojikov, B.Tomachevski, V.Shklovski, P.Cobley, J.Culler, J.Lotman, đã
đề cập vấn đề cốt truyện ở nhiều mức độ và trên nhiều phương diện khác nhau.
Chẳng hạn, V.Propp định nghĩa: “Cốt truyện là chuỗi các hành động của nhân
vật hay sự kiện trong cuộc sống của chúng”, L.I.Timofeep đưa ra cách hiểu
“Cốt truyện là hệ thống các sự kiện” [53, tr. 90].
Trong cuốn 150 thuật ngữ văn học, tác giả Lại Nguyên Ân đưa ra
định nghĩa về cốt truyện là: “sự phát triển hành động; tiến trình các sự
việc, các biến cố trong tác phẩm tự sự và kịch, đôi khi cả trong tác phẩm
trữ tình” [1, tr.112].
Trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học của các tác giả Lê Bá Hán, Trần
Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (chủ biên), cốt truyện được hiểu là “hệ thống sự
kiện được tổ chức theo yêu cầu tư tưởng và nghệ thuật nhất định, tạo thành bộ
phận cơ bản, quan trọng nhất trong hình thức động của tác phẩm văn học
thuộc các loại tự sự và kịch”, “cốt truyện là một phương diện bộc lộ nhân vật,
nhờ cốt truyện, nhà văn thể hiện sự tác động qua lại giữa các tính cách nhân
vật. Mặt khác, cốt truyện còn là phương tiện để nhà văn tái hiện các xung đột
xã hội” [22, tr. 99-100].
Tác giả Đoàn Đức Phương trong Lí luận văn học do Hà Minh Đức (Chủ
biên) cũng đưa ra định nghĩa về cốt truyện: “là một hệ thống các sự kiện phản
ánh những diễn biến của cuộc sống và nhất là các xung đột xã hội một cách
20
nghệ thuật, qua đó các tính cách hình thành và phát triển trong những mối
quan hệ qua lại của chúng nhằm làm sáng tỏ chủ đề và tư tưởng tác phẩm”
[19, tr.137].
Trong giáo trình Lí luận văn học (tập 2), Trần Đình Sử (chủ biên), các
tác giả cũng đưa ra định nghĩa về cốt truyện: “Cốt truyện là chuỗi các sự kiện
được tạo dựng trong tác phẩm tự sự và kịch, nằm dưới lớp trần thuật, làm nên
cái sườn của tác phẩm. Một số văn bản trữ tình cũng có yếu tố cốt truyện. Khái
niệm cốt truyện được tách ra làm hai phần: Một phần là chuỗi sự kiện rất đặc
trưng cho thể loại tự sự và kịch, và một phần khác quan trọng không kém là
các yếu tố miêu tả, lời kể, lời bình. Thiếu các yếu tố này thì cốt truyện không
thể thành truyện” [53, tr. 92].
Như vậy, trong thuật ngữ “cốt truyện”, yếu tố “cốt” đóng vai trò chính
nên nó được hiểu như là “cốt lõi”, “cái sườn”, “bộ xương” của truyện nhưng
chưa thể thành một câu chuyện hoàn chỉnh. Chuỗi các sự kiện trong cốt truyện
qua sự miêu tả, với các lời kể, lời bình của tác giả sẽ trở thành một thế giới
nghệ thuật, một truyện hoàn chỉnh với ý nghĩa nghệ thuật đầy đủ.
Qua những định nghĩa của các nhà nghiên cứu về cốt truyện, có thể thấy
các sự kiện là cơ sở, là chất liệu cơ bản để tạo thành cốt truyện. Hệ thống sự
kiện là yếu tố làm nòng cốt cho diễn biến câu chuyện, là cơ sở cho sự phát triển
tính cách nhân vật và các mối quan hệ trong tác phẩm, là nhân tố cơ bản cấu
thành cốt truyện của một tác phẩm. Từ những nghiên cứu đã có, chúng tôi đưa
ra một cách hiểu chung nhất về cốt truyện như sau: Cốt truyện là hệ thống
những sự kiện, biến cố, hành động giữ vai trò nòng cốt trong tác phẩm tự sự,
qua đó phản ánh cuộc sống và những xung đột xã hội, thể hiện tính cách nhân
vật trong những hoàn cảnh xã hội nhất định và làm sáng tỏ chủ đề, tư tưởng
của tác phẩm.
Cũng theo các tác giả trong cuốn Lí luận văn học (tập 2), cốt truyện có
hai tính chất cơ bản: “Một là, các sự kiện trong chuỗi có mối quan hệ nhân quả
21
hoặc quan hệ bộc lộ ý nghĩa, có mở đầu và kết thúc. Hai là, cốt truyện có tính
liên tục về thời gian” [53, tr. 92-92]. Trong tác phẩm tự sự, cốt truyện có vai
trò quan trọng vì nó tạo ra một trường hành động cho các nhân vật, tạo ra một
thao trường cho nhân vật bộc lộ tính cách, qua đó thể hiện chủ đề tư tưởng, ý
nghĩa nghệ thuật của tác phẩm. Qua hệ thống các sự kiện tạo thành cốt truyện,
tác giả bộc lộ, lí giải tính cách của nhân vật, qua đó xây dựng những hình tượng
nghệ thuật trong tác phẩm. Có thể khái quát các chức năng cơ bản của cốt
truyện: “một là, nó gắn kết các sự kiện thành một chuỗi và tạo thành lịch sử
của một nhân vật, thực hiện việc khắc họa nhân vật; hai là, bộc lộ các xung
đột, mâu thuẫn của con người (xã hội, tâm lí, đạo đức…), tái hiện bức tranh
đời sống; ba là, tạo ra một ý nghĩa về nhân sinh có giá trị nhận thức; bốn là,
gây hấp dẫn đối với người đọc, bởi người đọc luôn luôn quan tâm tới số phận
nhân vật” [53, tr. 94]. Có thể nói, cốt truyện có vai trò vô cùng quan trọng
trong sự thành công của các tác phẩm tự sự. Thành công trong nghệ thuật xây
dựng cốt truyện góp phần tạo nên thành công chung, sức hấp dẫn của tác phẩm:
“nắm bắt đúng chuỗi các sự kiện là bước khởi đầu để hiểu nhân vật, hiểu bức
tranh đời sống, hiểu ý nghĩa của tác phẩm và tìm thấy hứng thú khi đọc tác
phẩm” [53, tr. 94].
Như vậy, chuỗi các sự kiện là yếu tố quan trọng cấu thành chỉnh thể cốt
truyện của toàn bộ tác phẩm, góp phần tạo nên một tác phẩm hoàn chỉnh. Trong
đó, các tác giả thường triển khai cốt truyện theo các thành phần chính. Phần mở
đầu, giới thiệu một cách khái quát về bối cảnh xã hội-lịch sử, các điều kiện,
nguyên nhân làm nảy sinh xung đột và các nhân vật. Phần thắt nút, là phần
đánh dấu sự kiện mà từ đó xuất hiện các mâu thuẫn, xung đột. Ðây chính là
biến cố đầu tiên của cả hệ thống biến cố tạo thành xung đột của cốt truyện.
phần thắt nút có nhiệm vụ bộc lộ trực tiếp những mâu thuẫn đựơc tích tụ một
cách âm ỉ từ trước, các nhân vật sẽ đứng trước những thử thách, đòi hỏi phải
bày tỏ những thái độ, chọn lựa cách xử sự, hành động, phản ứng, từ đó bộc lộ
22
rõ tính cách. Phần phát triển, đây là phần quan trọng và dài nhất của cốt truyện
bao gồm nhiều cảnh ngộ, sự kiện và biến cố khác nhau, tính cách nhân vật chủ
yếu được xác định trong phần này. Phần đỉnh điểm, còn được gọi là cao trào, là
phần bộc lộ cao nhất của xung đột. Lúc này, xung đột đã phát triển đến độ gay
gắt, quyết liệt, đòi hỏi phải được giải quyết theo một chiều hướng nhất định.
Ðiểm đỉnh thường là một khoảnh khắc, một thời điểm ngắn nhưng có tác dụng
quyết định đối với nhân vật trung tâm.Phần kết thúc, đây là phần giải quyết
xung đột của tác phẩm một cách cụ thể. Tại đây, tác giả trình bày những kết
quả của toàn bộ xung đột của cốt truyện. Một cốt truyện hấp dẫn và thành công,
phần kết thúc bao giờ cũng được giải quyết một cách tự nhiên, phù hợp với qui
luật của cuộc sống. Tuy nhiên trong văn học cổ thường có phần kết thúc phù
hợp với ước muốn chủ quan của tác giả. Những thành phần chính trên đây tạo
thành một cốt truyện đầy đủ. Tuy nhiên, trong thực tế văn học, không phải lúc
nào cốt truyện cũng đầy đủ cả năm thành phần đồng thời cũng không phải được
trình bày theo thứ tự như trên. Các tác giả xây dựng cốt truyện theo các hình
thức khác nhau để thể hiện ý đồ nghệ thuật của mình. Để triển khai xây dựng
cốt truyện một cách sinh động, hấp dẫn, nhà văn phải sử dụng kết hợp các biện
pháp kết cấu khác nhau. Cốt truyện có thể chia ra thành nhiều kiểu kết cấu khác
nhau như: cốt truyện đơn tuyến, cốt truyện đa tuyến, cốt truyện biên niên, cốt
truyện đồng tâm, cốt truyện tự thuật, cốt truyện kí ức... Có thể nói, “chính sức
lôi cuốn, hấp dẫn của cốt truyện sẽ góp phần tạo nên sức mạnh thuyết phục của
chủ đề và tư tưởng tác phẩm […]. Và nếu không có cốt truyện hay, hấp dẫn thì
sự hoạt động của các tính cách cũng trở nên buồn tẻ, những đặc điểm bản chất
của từng tích cách cũng không được khẳng định rõ nét và mất đi tính sinh động
cần phải có của nó” [19, tr.136].
1.3.2. Nghệ thuật xây dựng cốt truyện trong tiểu thuyết chương hồi
Trong tác phẩm tự sự, cốt truyện đóng vai trò quan trọng trong kết cấu
23
của tác phẩm. Cốt truyện là một đơn vị nghệ thuật của tiểu thuyết, gắn bó chặt
chẽ với các yếu tố nghệ thuật khác. Khi bàn về tiểu thuyết, không thể không
nhắc tới cốt truyện.
Cốt truyện trong tiểu thuyết chương hồi là chuỗi các sự kiện lịch sử, khái
quát một hệ thống những biến cố phức tạp, nhằm tái hiện lại các bình diện đời
sống, bộ mặt chung của một giai đoạn trong lịch sử quốc gia, dân tộc. Qua hệ
thống các sự kiện được miêu tả, góp phần tái hiện sinh động những diễn biến
trong cuộc đời của các nhân vật lịch sử, những cuộc tranh quyền đoạt vị giữa
những tập đoàn phong kiến. Cốt truyện trong tiểu thuyết chương hồi là loại cốt
truyện lấy nguyên mẫu từ đời sống, từ sự thật lịch sử như nên tính chính xác,
chân thực của sự kiện, nhân vật lịch sử được các tác giả đặc biệt chú ý.
Với đặc trưng của tiểu thuyết chương hồi lịch sử: tác phẩm miêu tả
những sự kiện, biến cố lịch sử phức tạp, bao quát một phạm vi không gian rộng
lớn và thời gian dài lâu, điều đó dẫn đến sự đa dạng, tầng tầng lớp lớp của hệ
thống sự kiện cũng như tính phức tạp tất yếu của cốt truyện. Vì vậy, cốt truyện
trong tiểu thuyết chương hồi thường là cốt truyện đa tuyến, trong đó hệ thống
sự kiện được chia thành nhiều dòng, nhiều tuyến nhân vật. Để tổ chức hệ thống
sự kiện đó trong toàn bộ chỉnh thể cốt truyện thành một câu chuyện có ý nghĩa,
đồng thời tạo nên tính sinh động, hấp dẫn nhưng vẫn khiến người đọc có thể
tiếp nhận được câu chuyện với sự phức tạp vốn có, tác giả phải tổ chức cốt
truyện theo nhiều kiểu kết cấu khác nhau. Trong tiểu thuyết chương hồi lịch sử,
lối kết cấu theo trình tự thời gian biên niên, tuyến tính luôn giữ vai trò quan
trọng, nòng cốt. Nó là cơ sở cho sự phát triển của hệ thống sự kiện. Cốt truyện
được tổ chức theo lối xâu chuỗi các sự kiện theo trình tự thời gian, sự kiện
được tổ chức theo các hồi, đoạn và các đoạn được xâu chỗi lại theo một kết cấu
hoàn chỉnh, đảm bảo tính thống nhất cho tác phẩm. Đồng thời, lối kết cấu theo
trình tự thời gian, liên tiếp các sự kiện xảy ra trước sau vừa tạo cho người đọc
dễ dàng tiếp nhận diễn biến câu chuyện, vừa tạo cho người đọc sự logic theo
24
quan hệ thời gian, nhân quả trước sau. Bên cạnh lối kết cấu theo trình tự thời
gian biên niên, để tạo nên tính hấp dẫn của câu chuyện, tác giả còn sử dụng
nghệ thuật đồng hiện các sự kiện, tạo sự mới mẻ của hình thức kể chuyện,
hướng sự chú ý của người đọc vào từng sự kiện có ý nghĩa quan trọng, những
biến cố có ý nghĩa bước ngoặt hay những nhân vật có vai trò quan trọng trong
sự phát triển của lịch sử, của toàn bộ câu chuyện được kể. Nghệ thuật đồng
hiện điểm xuyết trên nền tảng kết cấu thời gian tuyến tính vừa tạo cho câu
chuyện phát triển theo quy luật lịch sử vốn có, vừa nhấn mạnh được những sự
kiện quan trọng; vừa tạo nên sự trải dài theo thời gian, vừa tạo nên sự miêu tả
chiều sâu lịch sử theo không gian.
1.3.3. Quan niệm chung về nhân vật và nghệ thuật xây dựng nhân vật
Khi nói đến giá trị của văn chương, nhà văn Nga M. Goocky đã từng nói
“Văn học là nhân học”, điều này có nghĩa là văn học bao giờ cũng là chuyện
của con người, văn học là nghệ thuật khám phá con người. Đối tượng chung
của văn học là cuộc đời nhưng trong đó con người luôn giữ vị trí trung tâm.
Văn học không thể thiếu nhân vật, bởi nhân vật chính là hình thức cơ bản nhất
để văn học phản ánh thế giới một cách hình tượng. Đọc một tác phẩm, cái đọng
lại sâu sắc nhất trong lòng người đọc thường là tính cách, số phận, tình cảm,
cảm xúc, suy tư của những con người được nhà văn thể hiện. Nhân vật văn học
có thể là con người có tên riêng( như Cô Tấm,Lão Hạc, Chí Phèo, Chị Dậu…),
cũng có thể không có tên như: (thằng bán tơ, chị thợ nhuộm, bà lão mù lòa, ông
ăn mày…) hay có thể là một đại từ nhân xưng nào đó (như các nhân vật xưng
tôi trong các tiểu thuyết hiện đại, như mình- ta trong ca dao). Theo Từ điển
thuật ngữ văn học: “Nhân vật văn học là một đơn vị nghệ thuật đầy tính ước lệ,
không thể đồng nhất nó với con người trong đời sống” [22, tr.235]. Tác giả Lại
Nguyên Ân trong cuốn 150 thuật ngữ văn học viết: “Nhân vật văn học là một
đơn vị nghệ thuật, nó mang tính ước lệ không thể bị đồng nhất con người có
thật ngay khi tác giả xây dựng nhân vật với những nét rất gần với nguyễn mẫu
25
có thật. Nhân vật văn học là sự thể hiện quan niệm nghệ thuật của nhà văn về
con người. Nó có thể được xây dựng dựa trên quan niệm ấy” [1, tr.250]. Trong
tác phẩm tự sự, nhân vật là yếu tố không thể thiếu và nó biểu hiện là những con
người hành động. Nhân vật đặc biệt quan trọng đối với loại hình tự sự, nó là
một trong hai hạt nhân cơ bản cấu thành loại hình tự sự.
Việc nhà văn làm cho nhân vật hiện lên như thế nào trong tác phẩm đó là
nghệ thuật xây dựng nhân vật. Để xây dựng thành công một nhân vật văn học,
nhà văn phải là người có khả năng phát hiện ra những đặc điểm nổi bật của
nhân vật, đồng cảm với nhân vật, và điều này đòi hỏi nhà văn phải là người am
hiểu về cuộc đời và con người. Nhưng có một việc không kém phần quan trọng
là nhà văn phải miêu tả, khắc họa nhân vật một cách thuyết phục cho người
đọc. Đây là vấn đề liên quan đến những biện pháp xây dựng nhân vật trong tác
phẩm văn học. Nhân vật trong tác phẩm nghệ thuật thường được thể hiện qua
các phương diện: ngoại hình, hành động, thế giới nội tâm, ngôn ngữ, những nét
tính cách, các mối quan hệ xã hội… Nhân vật có thể được mô tả trực tiếp qua
ngôn ngữ của các nhà văn với tư cách là người kể chuyện, cũng có thể được thể
hiện bằng sự cảm nhận của những người xung quanh (những nhân vật khác)
trong tác phẩm. Và bởi lẽ đó, xây dựng nhân vật trong các tác phẩm văn học
chính là một nghệ thuật mang tính đặc thù gắn liền với các thể loại nhất định.
Hiện thực đời sống vô cùng đa dạng, phong phú, con người trong cuộc
sống cũng đa chiều, đa diện. Nhân vật văn học vì vậy cũng không cố định theo
những khuôn mẫu có sẵn nào. Các phương diện thể hiện nhân vật có thể giống
nhau, song các thủ pháp thể hiện các phương diện đó ở mỗi tác phẩm, mỗi tác
giả, mỗi nhân vật lại khác nhau.
Trong qua trình sáng tác nên đứa con tinh thần của mình, mỗi nhà văn
mặc dù vẫn chịu chi phối bởi những nguyên tắc chung của văn học thời đại,
nhưng vẫn luôn tồn tại sự khác biệt. Đó cũng là lý do để nhà văn và đứa con
26
tinh thần của mình tồn tại và thành công.
Nếu như nhân vật là yếu tố không thể thiếu của văn học, thì nghệ thuật
xây dựng nhân vật lại là điều làm cho nhân vật và tác phẩm văn học tồn tại.
Đồng thời, đó cũng là yếu tố thể hiện rõ nhất sự sáng tạo nghệ thuật, sự độc đáo
riêng biệt của mỗi nhà văn và cũng là điều làm nên sức hấp dẫn cho mỗi tác
phẩm văn học.
1.3.4. Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết chương hồi
Nhân vật là một trong những mảnh ghép quan trọng cùng với chủ đề, đề
tài... góp phần tạo nên một tác phẩm văn học hoàn chỉnh. Đặc biệt, các tác giả
tiểu thuyết chương hồi thường tập trung quan tâm đến các nhân vật lịch sử. Các
nhân vật hiện lên như thế nào trong tác phẩm là do tài năng xây dựng nhân vật
của nhà văn. Các nhân vật có thể được xây dựng qua các thủ pháp khác nhau
nhưng tựu trung, lại nó là sản phẩm tinh thần, tâm huyết của mỗi nhà văn.
Tiểu thuyết chương hồi chữ Hán Việt Nam tuân thủ những nguyên tắc
chung về xây dựng nhân vật trong văn xuôi trung đại. Theo tác giả Trần Đình
Sử :“Văn học trung đại là một loại hình văn học, sản phẩm của xã hội gây
dựng trên nền tảng các quan hệ phong kiến, văn học trung đại có nhiều thể loại
khác nhau và các thể loại cũng biến động qua các thời kỳ của loại hình này.
Nhưng nhìn chung con người trong nền văn học này có một số đặc điểm loại
hình như sau: Mang dấu ấn đẳng cấp dấu ấn của hệ tư tưởng, tôn giáo, của
sáng tác dân gian” [52, tr. 54].
Nhân vật trong văn học trung đại Việt Nam mang những dấu hiệu riêng,
thể hiện những đặc điểm về tư duy nghệ thuật của văn học trung đại lúc bấy
giờ. Dưới sự ảnh hưởng của quan niệm thiên địa nhân hợp nhất, người ta quan
niệm con người là cá thể của vũ trụ mang dấu ấn vũ trụ nên thường lấy thiên
nhiên làm thước đo chuẩn mực cho vẻ đẹp con người. Vì quan niệm này, chân
dung con người thường hiện ra dưới vẻ đẹp của những “dáng mai, tóc liễu, râu
rồng mắt phượng”. Cũng do ảnh hưởng của các quan niệm phong kiến, các tác
27
giả văn học trung đại thường xây dựng nhân vật theo bút pháp ước lệ tượng
trưng hay theo các mô tip có sẵn đối với từng loại hình nhân vật trong văn học
trung đại. Các dạng nhân vật mà ta thường gặp trong tiểu thuyết chương hồi
bao gồm các kiểu nhân vật như: minh chúa tôi hiền, nhân nghĩa, chính trực, trí
tuệ hơn người, gian hùng, tiểu nhân. Trong mỗi tác phẩm, có nhiều loại hình
nhân vật được nhắc đến, nhưng khi miêu tả nhân vật, các tác giả tiểu thuyết
chương hồi đều phải tuân thủ các nguyên tắc đã thành nguyên mẫu của văn học
trung đại.
Như vậy, qua việc tìm hiểu những vấn đề chung về nghệ thuật xây dựng
nhân vật, đặc biệt là nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết chương
hồi, chúng tôi nhận thấy đây là một vấn đề có ý nghĩa quyết định đến thành
công của tác phẩm. Mặc dù phải tuân thủ theo những đặc trưng chung của văn
học trung đại như tính ước lệ, tượng trưng, sự tôn vinh những nhân vật lịch sử
theo tư tưởng trung quân..., nhưng mỗi nhà văn với tư cách là một cá tính sáng
tạo riêng, với những điểm nhìn nghệ thuật riêng, năng lực ngôn ngữ riêng...,
vẫn có những đóng góp đặc sắc của riêng mình.
1.4. Tiểu kết
Qua việc tìm hiểu hoàn cảnh lịch sử - xã hội – văn hóa dẫn tới sự ra đời
của Nam triều công nghiệp diễn chí, cùng với việc tìm hiểu cuộc đời, thân thế
sự nghiệp của Nguyễn Khoa Chiêm, chúng tôi nhận thấy có mối liên hệ chặt
chẽ giữa nhà văn và thời cuộc, giữa lịch sử và văn học. Có rất nhiều lí do đã
đưa Nguyễn Khoa Chiêm đến với Nam triều và cũng có những cơ duyên khiến
ông gắn bó với thể loại tiểu thuyết chương hồi để từ đó trở thành tác giả mở
đầu cho thể loại tiểu thuyết chương hồi ở Việt Nam.
Trên cơ sở tìm hiểu một cách khái quát các vấn đề lý luận về nghệ thuật
xây dựng cốt truyện và nghệ thuật xây dựng nhân vật, hai vấn đề quan trọng có
ý nghĩa quyết định đến thành công của tác phẩm Nam triều công nghiệp diễn
chí. Người viết nhận thấy, tác giả Nguyễn Khoa Chiêm bên cạnh việc tuân thủ
28
các nguyên tắc nghệ thuật chung của văn học trung đại, đã có những sáng tạo
riêng trên cơ sở kế thừa, học hỏi và phát huy văn chương truyền thống. Kiến
tạo nên một tác phẩm văn chương đặc sắc, từ cốt truyện hấp dẫn có nội dung
phản ánh bức tranh hiện thực lịch sử xã hội rộng lớn với hệ thống sự kiện
phong phú, đến hệ thống nhân vật đông đảo, nhiều tuyến nhân vật thuộc các
29
tầng lớp khác nhau trong xã hội.
Chương 2
NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG CỐT TRUYỆN TRONG
NAM TRIỀU CÔNG NGHIỆP DIỄN CHÍ
2.1. Nghệ thuật xây dựng cốt truyện theo thời gian tuyến tính
2.1.1. Đặc điểm chung
Thời trung đại, người ta cảm nhận thời gian chủ yếu bằng sự quan sát
các hiện tượng tự nhiên. Con người nhận thức bước đi của thời gian bằng sự
vận động của thiên nhiên vạn vật. Qua những tín hiệu thời gian, qua sự vận
động của thiên nhiên, con người thời trung đại xác lập những quan niệm của
mình về thời gian. Từ kinh nghiệm trực cảm, người xưa nhận thức về thời gian
là tuyến tính, một đi không trở lại. Thời gian tuyến tính là thời gian của thế giới
đời thường, của những sự việc xảy ra trong cuộc sống hiện thực. Bên cạnh thời
gian tuyến tính, con người thời trung đại cũng nhận thức thời gian trên phương
diện thời gian tuần hoàn qua sự tuần hoàn của vũ trụ, hình thành quan niệm
thời gian chu kì. Tuy nhiên, đối với tác phẩm tự sự trung đại, với việc tái hiện
cốt truyện và hệ thống sự kiện trong một giai đoạn lịch sử dài lâu, thời gian
trong tác phẩm được nhìn nhận chủ yếu ở phương diện thời gian của lịch sử,
của đời sống hiện thực, tức là quan niệm thời gian tuyến tính. Xuất phát từ
quan niệm và đặc trưng thể loại như trên, thời gian trong tác phẩm tự sự trung
đại nói chung và tiểu thuyết chương hồi trung đại nói riêng chủ yếu là thời gian
tuyến tính.
Tiểu thuyết chương hồi thường là những tác phẩm có dung lượng lớn,
được phát triển từ hình thức giảng sử thoại bản đời Tống. Câu chuyện được
những nghệ nhân hay những người kể chuyện trong dân gian kể lại. Với đặc
trưng tác phẩm phản ánh bối cảnh lịch sử - xã hội rộng lớn, với tầm khái quát
chiều rộng của không gian xã hội và chiều dài của thời gian lịch sử, câu chuyện
được chia thành các hồi, nội dung mỗi hồi là một câu chuyện nhỏ tương đối độc
30
lập. Mỗi chương, mỗi hồi thường gắn liền với một khoảng thời gian trong chuỗi
thời gian tuyến tính của toàn bộ tác phẩm. Ở mỗi hồi, tác giả thường tái hiện
một giai đoạn phát triển tương đối trọn vẹn trong toàn bộ cốt truyện. Với đặc
điểm thể loại như trên, tác phẩm chủ yếu được kể theo trình tự thời gian tuyến
tính, theo trình tự phát triển tự nhiên của thời gian: sự kiện nào xảy ra trước kể
trước, sự kiện nào xảy ra sau kể sau. Các sự kiện được sắp xếp, xâu chuỗi lại và
lần lượt xuất hiện không bị đứt quãng. Việc tổ chức thời gian như vậy giúp
người đọc dễ dàng trong việc theo dõi trình tự diễn biễn của câu chuyện. Các
hồi trong tác phẩm vừa được liên kết chặt chẽ với nhau bằng trật tự thời gian
tuyến tính của sự kiện và cốt truyện, đồng thời liền mạch với nhau bằng cả hình
thức dẫn truyện đặc trưng của thể loại. Hình thức dẫn truyện điển hình trong
tiểu thuyết chương hồi là cách mở đầu mỗi hồi bằng lối viết: “Lại nói…”,
“Trước nói…”,… và kết thúc mỗi hồi thường là lối gợi mở nối tiếp cho hồi
sau: “Muốn biết câu chuyện thế nào, xem hồi sau sẽ rõ…”,… Tuy nhiên, với
Nam triều công nghiệp diễn chí, việc chuyển tác phẩm từ loại hình văn chương
thành loại hình lịch sử với tên gọi Việt Nam khai quốc chí truyện đã làm mất đi
hình thức chương hồi của tác phẩm, mặc dù vậy vẫn có thể tìm thấy những dấu
vết của hình thức dẫn truyện đặc trưng trong tiểu thuyết chương hồi còn rớt lại.
Như vậy, kết cấu theo thời gian tuyến tính là đặc điểm tiêu biểu, đồng
thời là kiểu kết cấu đặc trưng, nòng cốt của tiểu thuyết chương hồi nói chung.
2.1.2. Nghệ thuật xây dựng cốt truyện theo thời gian tuyến tính trong Nam
triều công nghiệp diễn chí
Nam triều công nghiệp diễn chí của Nguyễn Khoa Chiêm là tác phẩm có
ý nghĩa mở đầu, tác phẩm khai sinh thể loại tiểu thuyết chương hồi trong văn
học trung đại Việt Nam. Tác phẩm tập trung phản ánh chân thực lịch sử xã hội
Việt Nam những năm giữa thế kỉ XVI đến cuối thế kỉ XVII – một giai đoạn với
biết bao biến cố, thăng trầm, đất nước chìm trong máu lửa của những cuộc nội
chiến triền liên miên giữa Bắc triều và Nam triều, Đàng Ngoài và Đàng Trong.
31
Đó là các cuộc chiến tranh giảnh quyền lực, địa vị giữa các tập đoàn phong
kiến: giữa nhà Lê với nhà Mạc, tiếp đó là chúa Nguyễn và chúa Trịnh hay cuộc
chiến của vua Lê chúa Trịnh. Với dung lượng đồ sộ, tác phẩm được chia thành
tám quyển với hơn 600 trang viết, miêu tả bức tranh xã hội Việt Nam trong
khoảng thời gian hơn một trăm năm đầy biến động.
Từ hệ thống sự kiện được trình bày trong bảng thống kê ở phần Phụ lục,
có thể thấy toàn bộ hệ thống sự kiện trong tác phẩm Nam triều công nghiệp
diễn chí của Nguyễn Khoa Chiêm tuân thủ nghiêm nhặt nguyên tắc xây dựng
cốt truyện theo thời gian tuyến tính: sự kiện nào diễn ra trước kể trước, sự kiện
nào xảy ra sau kể sau. Là tác phẩm có ý nghĩa mở đầu cho nền tiểu thuyết
chương hồi Việt Nam, những đặc điểm đặc trưng trong nghệ thuật xây dựng
cốt truyện của tiểu thuyết chương hồi được tác giả tuân thủ. Tác giả xây dựng
cốt truyện hoàn toàn theo tuyến tính thời gian, nguyên tắc tuân thủ thời gian
tuyến tính trước sau được đặt lên hàng đầu, chuẩn xác và chi tiết. Thông qua
lối kể chuyện theo thời gian tuyến tính, tác giả từng bước đưa người đọc đi
vào khám phá nội dung tác phẩm theo trình tự diễn biến trước sau của dòng sự
kiện lịch sử.
Nam triều công nghiệp diễn chí miêu tả lịch sử Việt Nam từ năm Mậu
Ngọ, niên hiệu Chính Trị thứ nhất (1558) với sự kiện cựu thần nhà Lê là An
Tĩnh hầu Nguyễn Kim dùng danh nghĩa phù Lê diệt Mạc, lập con trai vua
Chiêu Tông là Lê Ninh lên làm vua, lấy hiệu Trang Tông. Tác phẩm miêu tả
chi tiết lịch sử hai miền Bắc triều và Nam triều với bao cuộc chiến giữa nhà
Mạc và họ Trịnh, những cuộc chiến tranh giành quyền lực giữa chúa Trịnh và
chúa Nguyễn, tình hình kinh tế, thiên tai hay cả những hiện tượng bất thường
của đất nước. Kết thúc tác phẩm là sự kiện chúa Nguyễn ở Đàng Trong sai
quân dẹp loạn Cao Miên, ban lệnh mới khuyến khích đào tạo nhân tài vào
tháng hai năm Kỷ Tị, niên hiệu Chính Hòa thứ mười (1689). Như vậy, lịch sử
32
Việt Nam trong khoảng 131 năm, trải qua năm đời vua Lê, bốn đời chúa Trịnh
ở Bắc triều và bốn đời chúa Nguyễn ở Nam triều đã được Nguyễn Khoa Chiêm
miêu tả chi tiết trong tác phẩm.
Sự chi tiết trong cách miêu tả sự kiện của Nam triều công nghiệp diễn
chí còn được thể hiện qua việc từng mốc thời gian được tác giả miêu tả cụ thể
đến tận can chi, tuế thứ, niên hiệu. Ba yếu tố đó luôn luôn được chú ý và miêu
tả đầy đủ qua mỗi sự kiện trong tác phẩm. Ở những mốc thời gian diễn ra nhiều
sự kiện quan trọng, tác giả chú ý kể chi tiết đến cả mùa, tháng và trong nhiều
trường hợp miêu tả tỉ mỉ đến cả ngày. Kết cấu tác phẩm theo kiểu biên niên,
tuân theo dòng thời gian tuyến tính của sự kiện là nhu cầu nội tại của tác phẩm:
Nguyễn Khoa Chiêm sáng tác Nam triều công nghiệp diễn chí, trong hoàn cảnh
“tái hiện các sự kiện lịch sử xảy ra cách thời ông mới một thế kỉ, bắt đầu từ
việc Nguyễn Hoàng vào Thuận Hóa lần thứ nhất năm 1558. Vả chăng, trước
Nguyễn Khoa Chiêm chưa có một bộ sử nào viết về “công nghiệp” của Nam
triều. Trong khi đó Nguyễn Khoa Chiêm lại muốn viết về một thời đại với
những nhân vật lịch sử có thật. Vậy là cùng một lúc ông phải thực hiện hai
nhiệm vụ: vừa viết văn lại vừa làm sử” [41, tr. 67]. Như vậy, lối kết cấu cốt
truyện theo thời gian tuyến tính là yêu cầu tất yếu để tác giả có thể sáng tác một
tác phẩm văn chương mà vẫn đảm bảo trung thành và miêu tả tỉ mỉ đối sự thật
lịch sử. Hơn thế nữa, sự chi tiết trong lối miêu tả thời gian của Nguyễn Khoa
Chiêm còn là hệ quả sự chi phối của chính đặc điểm sáng tác tác phẩm: tác giả
viết về một giai đoạn lịch sử trước khi ông ra đời một trăm năm cho đến ba
mươi năm đầu cuộc đời. Viết về lịch sử cách thời đại mình sống một thế kỉ là
độ lùi thời gian quá khứ không phải quá dài, đó là cơ sở then chốt để Nguyễn
Khoa Chiêm có thể miêu tả, ghi chép đầy đủ thời gian đến tận can chi, tuế thứ,
niên hiệu; tỉ mỉ đến cả mùa, cả tháng, cả ngày, thậm chí có những chi tiết đến
cả giờ. Đây là nét riêng, nét độc đáo của Nam triều công nghiệp diễn chí so với
33
các tác phẩm tiểu thuyết chương hồi cùng viết về lịch sử của Trung Quốc như
Tam quốc diễn nghĩa (La Quán Trung) hay với những tiểu thuyết chương hồi
Việt Nam ở giai đoạn sau như Hoàng Lê nhất thống chí (Ngô gia văn phái).
Trong tác phẩm, tác giả sử dụng lối kể chuyện quen thuộc trong tiểu
thuyết chương hồi để miêu tả các mốc thời gian lịch sử. Trước mỗi mốc thời
gian được kể, Nguyễn Khoa Chiêm thường dùng lối viết: “Lại nói năm…”,
“Nói tiếp năm…”, sau đó miêu tả chi tiết sự kiện diễn ra. Mặc dù việc chuyển
tác phẩm từ loại hình văn chương thành loại hình lịch sử với tên gọi Việt Nam
khai quốc chí truyện đã làm mất đi hình thức chương hồi của tác phẩm, nhưng
những dấu vết của hình thức kể chuyện theo lối chương hồi vẫn có thể tìm thấy.
Ở cuối quyển bốn viết: “Chưa biết bọn Tú Phượng vào Nam báo tin ra sao,
xem hồi sau sẽ rõ”; cuối quyển năm: “Chưa biết sự việc hư thực ra sao, xem
hồi sau sẽ rõ”. Cách dẫn truyện trên vừa là đặc trưng của lối dẫn truyện trong
tiểu thuyết chương hồi, vừa là cách thức tạo nên sự nối tiếp của mạch thời gian
tuyến tính trong câu chuyện được kể.
Từ những đặc trưng cơ bản của cốt truyện trong tiểu thuyết chương hồi
nói chung, với tiểu thuyết Nam triều công nghiệp diễn chí của Nguyễn Khoa
Chiêm, cốt truyện của tác phẩm cũng được kết cấu chủ yếu theo lối kết cấu thời
gian tuyến tính. Tác phẩm là hệ thống những biến cố lịch sử phức tạp, tầng tầng
lớp lớp những sự kiện chồng chéo, đan cài, xen kẽ vào nhau. Tính chất phức
tạp đó của cốt truyện là tất yếu do đặc điểm nội dung phản ánh của tác phẩm là
bức tranh xã hội Việt Nam trong giai đoạn nội chiến kéo dài đằng đẵng hơn
một trăm năm trong lịch sử chế độ phong kiến. Đó là cuộc chiến tranh Lê –
Mạc, Trịnh – Nguyễn hay cuộc chiến giữa vua Lê – chúa Trịnh, những cuộc
xung đột giữa các tập đoàn phong kiến Đàng Trong và Đàng Ngoài, chiến tranh
Nam – Bắc triều. Tác phẩm miêu tả bức tranh xung đột giữa các tập đoàn, phe
phái, những âm mưu, thủ đoạn tiếm ngôi đoạt quyền, cuộc chiến huynh đệ
tương tàn trong nội bộ chế độ phong kiến Việt Nam. Bộ mặt xã hội phong kiến
34
Việt Nam trong giai đoạn nội chiến liên miên, những cuộc chiến tranh tranh
giành quyền lực giữa các tập đoàn phong kiến được tác phẩm phản ánh sinh
động và chân thực. Tất cả những sự kiện lịch sử ấy được Nguyễn Khoa Chiêm
miêu tả trong tám tập truyện, với hơn 600 trang viết qua lối kết cấu cốt truyện
theo thời gian tuyến tính kết hợp, đan xen với lối đồng hiện sự kiện. Cách tổ
chức tác phẩm theo lối kết hợp các kiểu kết cấu ấy góp phần tổ chức bố cục câu
chuyện một cách hợp lí, đảm bảo sự phát triển biện chứng của hệ thống sự kiện,
đồng thời hướng đến mục đích thể hiện tính cách nhân vật và chủ đề tư tưởng
cuat tác phẩm. Qua tiểu thuyết Nam triều công nghiệp diễn chí, Nguyễn Khoa
Chiêm cho ta thấy một bức tranh bề thế và rộng lớn về một giai đoạn đầy biến
động của lịch sử dân tộc.
Lịch sử dân tộc trong khoảng thời gian 131 năm, từ năm 1558 đến năm
1689 – một giai đoạn cục diện hai miền rối ren, đất nước chìm trong máu lửa
của những cuộc nội chiến tranh giành quyền lực giữa các tập đoàn phong kiến,
đặc biệt công cuộc “công nghiệp” trên mảnh đất Nam triều của chúa Nguyễn –
được Nguyễn Khoa Chiêm miểu tả tỉ mỉ, chi tiết, chân thực trong tác phẩm
Nam triều công nghiệp diễn chí. Để đảm bảo tính chân thực của lịch sử, đồng
thời phù hợp với mục đích sáng tác một tác phẩm văn chương, hình thức cốt
truyện theo thời gian tuyến tính đã được tác giả vận dụng triệt để, sử dụng có
hiệu quả để tạo nên thành công chung của tác phẩm. Hơn một thế kỉ với bao
thăng trầm, biến động của đất nước được Nguyễn Khoa Chiêm miêu tả cụ thể
qua tám quyển tương đương hơn 600 trang viết. Dưới ngòi bút của ông, những
vấn đề chân thực của lịch sử nước nhà đã trở thành những chân thực về nghệ
thuật, nó không hề cứng nhắc, khô khan mà sinh động, lôi cuốn người đọc đi
vào khám phá. Tất nhiên, với hai nhiệm vụ viết văn và viết sử, cùng với việc
tuân thủ nghiêm nhặt thời gian tuyến tính của sự kiện, tác phẩm nhiều khi
không thể tránh khỏi việc kể lể dài dòng, ngôn ngữ ít nhiều chưa được chau
chuốt nhưng giá trị của tác phẩm qua việc miêu tả “nhiều sự kiện chính trị ở cả
35
Đàng Trong và Đàng Ngoài có liên quan cuộc chiến, nhiều âm mưu phế phế
lập biến loạn, nhiều trận đánh lớn được lược thuật bằng phong cách kể chuyện
chân xác, sinh động, tự nhiên và tương đối hấp dẫn” [24, tr.1033] là không thể
phủ nhận. Với tính chân thực của tác phẩm, nguyên tắc trung thành với sự thật
lịch sử của tác giả, tác phẩm không chỉ mang giá trị một tác phẩm văn học mà
còn là một tài liệu lịch sử quý giá, có ý nghĩa quan trọng trong nghiên cứu lịch
sử dân tộc.
2.2. Nghệ thuật xây dựng cốt truyện theo tính chất đồng hiện
2.2.1. Đặc điểm chung
Đồng hiện được hiểu là kể song song các sự kiện, không sự kiện nào
được kể hết dứt khoát, đang kể dang dở một sự kiện tác giả quay sang kể sự
kiện khác rồi lại trở về kể tiếp sự việc dang dở. Như vậy, đồng hiện theo nghĩa
đen được hiểu là cùng thể hiện. Trong tác phẩm, đây là một thủ pháp nghệ
thuật quen thuộc về kết cấu tác phẩm. Trước hết phải thấy rằng, “Kết cấu tác
phẩm là toàn bộ tổ chức tác phẩm phục tùng đặc trưng nghệ thuật và nhiệm
vụ nghệ thuật cụ thể mà nhà văn tự đặt ra cho mình” [53, tr.152-153]. Theo
đó, kết cấu là việc tổ chức, sắp xếp các yếu tố nội dung trong văn bản tác
phẩm để nó đạt hiệu quả nghệ thuật cao nhất. Thủ pháp đồng hiện góp một vai
trò quan trọng trong kết cấu, góp phần thể hiện ý nghĩa nghệ thuật của tác
phẩm. Bằng nghệ thuật xây dựng cốt truyện theo tính chất đồng hiện, hệ thống
nhân vật, chủ đề tư tưởng, ý nghĩa nghệ thuật của tác phẩm được thể hiện
hiệu quả.
Như đã nói ở trên, kiểu kết cấu nòng cốt của cốt truyện trong tiểu thuyết
Nam triều công nghiệp diễn chí là cốt truyện theo thời gian tuyến tính. Tuy
nhiên, đơn thuần cốt truyện theo thời gian tuyến tính là không đủ với yêu cầu
thể hiện nội dung cũng như chủ đề, tư tưởng của tác phẩm. Cốt truyện theo lối
biên niên, tuyến tính có thể thể hiện được chuỗi sự kiện theo dòng lịch sử, theo
chiều dài của thời gian nhưng không thể miêu tả đầy đủ những biến động của
36
một thời kì đầy bão táp trong chiều rộng của không gian đất nước, cả Đàng
Trong và Đàng Ngoài. Vì vậy, ở những thời điểm lịch sử diễn ra nhiều sự kiện,
nhiều biến cố có ý nghĩa bước ngoặt, chi phối sâu rộng đến vận mệnh đất nước
cũng như có ý nghĩa then chốt trong toàn bộ cốt truyện, nghệ thuật xây dựng
cốt truyện theo tính chất đồng hiện được sử dụng và đem lại hiệu quả nghệ
thuật đắc lực. Nét độc đáo của nghệ thuật đồng hiện là cùng một lúc các sự
kiện, các tình tiết được miêu tả trong một không gian hay ở những không gian
khác nhau. Nó tạo nên tính tầng bậc, đa chiều cho hệ thống sự kiện cũng như
tính đa dạng của cốt truyện. Lối kể chuyện có tính chất đồng hiện tạo sự mới
mẻ của hình thức kể chuyện, dẫn dắt người đọc đi vào chiều sâu sự kiện, qua
đó thể hiện sâu sắc chủ đề, tư tưởng của tác phẩm, đồng thời tính cách, tâm lí
nhân vật cũng được hiện lên rõ nét.
2.2.2. Nghệ thuật xây dựng cốt truyện theo tính chất đồng hiện trong Nam
triều công nghiệp diễn chí
Trong tiểu thuyết Nam triều công nghiệp diễn chí, với đặc điểm tác phẩm
tái hiện một giai đoạn lịch sử bão táp, miêu tả một hệ thống sự kiện phức tạp,
chồng chéo các biến cố ở một không gian lịch sử rộng lớn và thời gian lịch sử
dài lâu, nghệ thuật đồng hiện là một biện pháp nghệ thuật đắc lực trong việc thể
hiện thành công cốt truyện phức tạp.
Tác phẩm miêu tả lịch sử đất nước trong khoảng thời gian 131 năm (từ
năm 1558 đến năm 1689). Một giai đoạn lịch sử dân tộc chứng kiến tất cả
những rối ren, thăng trầm, tranh quyền đoạt vị giữa các tập đoàn phong kiến.
Đó là giai đoạn nội chiến kéo dài nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Tình
hình chính trị rối ren là nét chung nhất của cả giai đoạn lịch sử đằng đẵng hơn
một trăm năm, nhưng trong hành trình ấy có những thời điểm tình trạng rối ren
đạt đến đỉnh điểm. Với đặc điểm đó, nghệ thuật đồng hiện là phương tiện nghệ
thuật đắc lực để cùng lúc tác giả có thể miêu tả đầy đủ, chi tiết nhiều sự kiện
37
cùng diễn ra trong một thời điểm lịch sử.
Trong khoảng thời gian hơn một thế kỉ, nhìn lại đất nước trong giai đoạn
lịch sử đầy biến động ấy, có thể thấy cuộc chiến giữa hai thế lực họ Trịnh và họ
Nguyễn trong bảy lần đại chiến (1627 – 1672) là giai đoạn lịch sử rối ren, đất
nước chìm trong máu lửa nội chiến, giai đoạn lầm than đến cùng cực của tình
hình đất nước. Từ thực tế lịch sử ấy, nhìn vào tác phẩm Nam triều công nghiệp
diễn chí, có thể thấy Nguyễn Khoa Chiêm đã dành phần trang viết chủ đạo để
miêu tả giai đoạn lịch sử này. Trong 609 trang của toàn bộ tác phẩm để miêu tả
khoảng thời gian lịch sử kéo dài 131 năm, tác giả đã dành đến 424 trang viết
cho giai đoạn 45 năm máu lửa này, đó là một tỷ lệ áp đảo. Theo dõi tác phẩm
cũng có thể thấy, trong giai đoạn này, các sự kiện được miêu tả tỉ mỉ, chi tiết,
đồng thời hệ thống các sự kiện cũng thể hiện sự phức tạp, chồng chéo hơn so
với những giai đoạn khác. Nghệ thuật đồng hiện về thời gian có thể được tìm
thấy rất phổ biến trong những trang viết miêu tả lịch sử giai đoạn này. Để thấy
rõ hơn nghệ thuật đồng hiện trong tác phẩm có thể xem thêm qua phần Phụ lục,
ở đây chúng tôi chỉ xin dẫn một vài ví dụ điển hình để minh chứng rõ hơn.
Toàn bộ quyển bảy được viết trong 63 trang, tác giả chỉ dành năm dòng
cho việc để viết về năm 1673, còn lại toàn bộ dung lượng viết về năm 1672.
Quyển bảy bắt đầu bằng sự kiện người được sai đi do thám của trấn thủ doanh
Bố Chính là Triều Tín trở về báo tin: Tây Định vương Trịnh Tạc sai quân vận
chuyển lương thảo, bắc cầu phao cho quân qua sông Gianh, lại truyền lệnh
điểm mười tám vạn quân, rước vua Lê đi đánh, đích thân vương làm nguyên
soái quân bộ, thiếu bảo Phú quận công Trịnh Căn làm nguyên súy thủy quân,
đốc quân cả nước kéo vào chiếm đất phía Nam. Trận chiến giữa hai bên
Trịnh – Nguyễn được miêu tả trong quyển bảy có thể coi là trận giao chiến
lớn nhất trong Nam triều công nghiệp diễn chí. Chỉ trong một năm 1672, rất
nhiều sự kiện lớn đã diễn ra, nhiều trận giao tranh quyết liệt được tác giả
38
miêu tả tỉ mỉ, chi tiết.
Ở Bắc triều, Tây Định vương Trịnh Tạc truyền lệnh chỉnh đốn binh mã,
quân thủy bộ tất cả mười vạn nhưng nói phao lên là mười tám vạn, chọn ngày
hai tám tháng sáu đem quân xuất phát vào Nam. Trước thế lực quân Trịnh tiến
vào Nam, chúa Nguyễn phong cho công tử Hiệp Đức làm nguyên súy, vệ úy
Phú Lĩnh, ký lục Xuân Đài làm tham mưu, chọn ngày hai mươi tháng bảy sẽ
xuất quân.
Trận đánh đầu tiên, quân Trịnh thừa thế giành chiến thắng, ra sức giết hại
dân lành, cướp bóc của cải, tiếng kêu oán thán khắp nơi. Tây Định vương đem
quân vào đóng trong doanh Bố Chính, hai bên từ đó đều cố thủ. Chúa Hiền họp
bàn tướng sĩ tìm kế đánh quân Trịnh, cai cơ nội tả là Minh Lễ đưa ra kế sách
muốn lợi dụng việc quân Trịnh xa xôi tất thiếu lương thực, dễ sinh mệt mỏi,
hơn thế nữa địa thế đất Nam hiểm trở, đó là ưu thế của quân ta giành chiến
thắng. Thủ hạ Đông Triều cũng đưa ra kế “lấy rỗng, phá rỗng”, tuyển thêm
quân lính, lại nói phao lên đến hai mươi sáu vạn quân nhằm uy hiếp tinh thần
quân địch.
Cuộc giao tranh giữa hai phe Trịnh – Nguyễn vẫn diễn ra, hai bên vừa
đánh, vừa nghe ngóng tình hình, lui về cố thủ. Ngày 20 tháng 11 năm 1672,
cuộc giao tranh quyết liệt diễn ra khi quân Trịnh tiến đánh thành Trấn Ninh.
Quân Bắc kiên quyết đánh để phá thành, quân Nam phải cầu cứu Hiệp Đức và
Chiêu Vũ. Cuộc chiến quyết liệt khiến cả hai phía đều thương vong rất lớn,
quân lính hoang mang, kẻ ốm chết rất nhiều, lại càng thêm oán thán những
người cầm quyền. Trước tình hình đó, chúa Trịnh bàn với vua Lê cho rút quân
về điện Phù Lộ phía bắc sông Gianh, đến ngày mùng chín tháng mười hai lại
truyền lệnh đánh một trận lớn nhưng bị quân Nam dùng kế hư trương thanh thế
làm cho kinh sợ. Ngày mười ba tháng mười hai, cuộc giao tranh quyết liệt giữa
39
hai bên Trịnh – Nguyễn diễn ra ở thành Trấn Ninh, tướng Trịnh bỏ chạy, quân
sĩ như rắn mất đầu, chết nhiều không đếm xuể. Trận chiến này cũng đánh dấu
thắng lợi của quân Nam trước thế lực họ Trịnh ở Đàng Ngoài.
Như vậy, quyển bảy đã miêu tả chi tiết, tỉ mỉ những sự kiện trong trận
giao tranh quyết liệt giữa hai bên Trịnh – Nguyễn năm 1672. Đây cũng là trận
đánh cuối cùng quyết định thắng lợi của chúa Nguyễn, kết thúc giai đoạn chiến
tranh Trịnh – Nguyễn (1627 – 1672). Chỉ trong thời gian chưa đầy một năm,
biết bao sự kiện lớn diễn ra đều được tác giả dụng công miêu tả tỉ mỉ, chi tiết,
sinh động. Tác giả lôi cuốn người đọc vào hệ thống sự kiện của câu chuyện, sự
kiện sau nối tiếp sự kiện trước.
Để miêu tả nhiều sự kiện cùng diễn ra, tác giả thường sử dụng lối dẫn
chuyện: Lại nói…, Từ đó…, chẳng hạn: Lại nói chuyện ở Bắc triều…, Lại nói
nguyên súy Hiệp Đức…, Lại nói ngày năm tháng chín năm ấy…, Lại nói Hiền
vương chọn ngày hai mươi ba tháng ấy làm lễ tế cờ đạo…, Lại nói bên quân
Bắc… Cách dẫn chuyện đó vừa để xâu chuỗi, kết nối giữa các sự kiện, tạo nên
sự tiếp nối của mạch truyện, vừa cho thấy tầng tầng lớp lớp của hệ thống sự
kiện. Nhìn lại một trận chiến quyết liệt điển hình trong cuộc giao tranh Trịnh –
Nguyễn được miêu tả trong quyển bảy, có thể thấy nghệ thuật đồng hiện được
sử dụng khá phổ biến với những sự kiện lớn, những biến cố quan trọng trong
lịch sử cũng như trong hệ thống cốt truyện. Khi miêu tả những sự kiện quan
trọng, nghệ thuật đồng hiện thường được tác giả vận dụng đắc lực và đạt hiệu
quả biểu đạt cao. Nghệ thuật đồng hiện có ý nghĩa quan trọng, góp phần thể
hiện đầy đủ, chi tiết, sinh động các sự kiện lịch sử, tạo cho câu chuyện vừa phát
triển theo dòng thời gian tuyến tính của lịch sử, vừa đặc tả được những sự kiện,
chi tiết có ý nghĩa quan trọng, làm cho tác phẩm vừa trải dài theo thời gian, vừa
trải rộng theo không gian. Nghệ thuật đồng hiện điểm xuyết trên nền kết cấu
cốt truyện theo thời gian tuyến tính đã tạo nên sự hấp dẫn, sinh động và chiều
40
sâu lịch sử, chiều sâu nghệ thuật cho tác phẩm.
2.3. Nghệ thuật đặc tả các biến cố
2.3.1. Đặc điểm chung
Trong tác phẩm tự sự, sự kiện là đơn vị cơ bản của cốt truyện và những
sự kiện, biến cố lớn là yếu tố then chốt. Nó đánh dấu những sự thay đổi có ý
nghĩa bước ngoặt, những vấn đề có ý nghĩa then chốt của toàn bộ mạch truyện.
Sự việc diễn ra trong đời sống là vô tận, nhưng không phải tất cả sự việc đều
trở thành sự kiện, cũng như không phải toàn bộ sự kiện đều giữ một vai trò
ngang nhau trong toàn bộ cốt truyện. Cốt truyện hình thành nhờ sự xâu chuỗi
các sự kiện nối tiếp nhau, nhưng cốt truyện hay hay dở, hấp dẫn hay nhàm chán
là nhờ một phần rất lớn vào việc miêu tả các sự kiện lớn.
Sự kiện (biến cố) là cơ sở, là đơn vị cơ bản của mọi cốt truyện. Có thể
hiểu “Sự kiện nói chung là là những hành vi (việc làm) của nhân vật hay sự
việc xảy ra đối với nhân vật dẫn đến hậu quả, làm biến đổi hay bộc lộ một ý
nghĩa nào đó đối với mục đích của người kể” [53, tr. 89-90]. Như vậy, trong
cốt truyện của tác phẩm tự sự, sự kiện, biến cố lớn là những sự việc xảy ra gây
tác động mạnh, có ảnh hưởng lớn đến đời sống lịch sử - xã hội và có ý nghĩa
quan trọng trong kết cấu, trong mạch phát triển của cốt truyện nói chung.
Trên nền tảng của hệ thống các sự kiện được kể trong tác phẩm tự sự,
các sự kiện, biến cố lớn là những dấu mốc quan trọng, những bước ngoặt lịch
sử của toàn bộ tác phẩm. Miêu tả những sự kiện lớn vừa là điểm nhấn của sự
kiện trong toàn bộ cốt truyện, vừa thể hiện tài năng của nhà văn, thể hiện nét
độc đáo, riêng biệt trong nghệ thuật tự sự. Nghệ thuật đặc tả các sự kiện, biến
cố lớn có ý nghĩa quan trọng trong việc tạo nên tính hấp dẫn, sinh động của
nghệ thuật tự sự, đồng thời góp phần vào thành công chung của tác phẩm.
2.3.2. Nghệ thuật đặc tả các biến cố trong Nam triều công nghiệp diễn chí
Nam triều công nghiệp diễn chí là tác phẩm có cốt truyện phức tạp với hệ
thống nhân vật đông đảo, sự kiện chồng chéo, đan cài phức tạp, diễn tả tình
41
hình đất nước trong giai đoạn lịch sử hơn một thế kỷ đầy biến động. Với đặc
điểm đó, việc tổ chức, sắp xếp hệ thống sự kiện trong tác phẩm thành một
chỉnh thể nghệ thuật không hề đơn giản. Nếu tác phẩm chỉ đơn thuần là sự liệt
kê nối tiếp các sự kiện lớn nhỏ thì người đọc dễ nhìn nhận thấy ở đó sự bộn bề,
chồng chất của các sự kiện mà khó tìm thấy ở tác phẩm sự hấp dẫn. Để giải
quyết vấn đề này, Nguyễn Khoa Chiêm đã dành những trang viết chi tiết, tỉ mỉ
hơn để đặc tả các sự kiện lớn, những biến cố có ý nghĩa bước ngoặt đối với lịch
sử cũng như toàn bộ câu chuyện được kể. Đối với những sự kiện quan trọng,
tác giả thường dụng công, từ việc miêu tả chi tiết sự kiện đến việc thể hiện tính
cách, tài năng, khí phách của nhân vật. Điều đó tạo nên những điểm nhấn cho
tác phẩm, điểm nhấn cho những sự kiện then chốt giữa vô vàn những sự kiện
lớn nhỏ trong suốt 131 năm lịch sử nội chiến đầy rối ren.
Sự kiện trong Nam triều công nghiệp diễn chí là những sự kiện của đời
sống lịch sử dân tộc, nên những sự kiện quan trọng của tác phẩm cũng là những
biến cố quan trọng của thực tế lịch sử. Từ những lần xuất quân, mỗi trận giao
chiến, những lần vua chúa băng hà hay lên ngôi… đều được tác giả miêu tả đầy
đủ, ghi chi tiết đến từng năm, thậm chí đến tháng, đến ngày. Trong một giai
đoạn lịch sử dài ấy, có rất nhiều những sự kiện quan trọng, nhưng trong đó
được chú ý miêu tả hơn cả có lẽ là những trận giao tranh giữa các tập đoàn
phong kiến trong cuộc chiến tranh giành đất đai, quyền lực chính trị. Đó là
cuộc chiến giữa nhà Mạc và chúa Trịnh, giữa vua Lê – chúa Trịnh và nổi bật là
cuộc chiến giữa hai thế lực họ Trịnh ở Đàng Ngoài và họ Nguyễn ở Đàng
Trong. Có thể đưa ra một vài dẫn chứng tiêu biểu cho thấy đặc sắc trong nghệ
thuật đặc tả các sự kiện, biến cố lớn của tác giả Nam triều công nghiệp diễn chí.
Cuộc chiến gay go, quyết liệt nhất trong Nam triều công nghiệp diễn chí
là cuộc phân tranh kéo dài gần nửa thế kỷ giữa hai bên Trịnh – Nguyễn từ năm
1627 đến năm 1672. Trong gần nửa thế kỉ chiến tranh ấy đã diễn ra bảy lần
giao chiến: lần thứ nhất năm 1627, lần thứ hai năm 1633, lần thứ ba năm 1643,
42
lần thứ tư năm 1648, lần thứ năm từ năm 1655 đến năm 1660, lần thứ sáu vào
năm 1661 – 1662 và lần cuối cùng năm 1672. Trong tác phẩm, hai trận đánh
thứ ba (năm 1643) và thứ tư (năm 1648) không được tác giả miêu tả (các truyền
bản hiện còn trước khi sang quyển bốn đều thiếu đoạn từ sau năm 1642), còn
lại đều được tác giả miêu tả chi tiết..
Khi miêu tả các sự kiện quan trọng, tính chân thực, chính xác của lịch sử
luôn được tác giả quan tâm. Trong Nam triều công nghiệp diễn chí, những sự
kiện quan trọng, được tác giả tập trung xây dựng một cách chân thực và sống
động nhất đó là những trận đánh, những cuộc giao tranh giữa quân nhà Nguyễn
và quân Trịnh. Trong đó, sự kiện có ý nghĩa mở đầu cho cuộc chiến Trịnh –
Nguyễn, đó là năm 1627, quân Trịnh tìm cớ gây chiến với nhà Nguyễn ở Đàng
Trong, chúa Nam lúc này là Nguyễn Phúc Nguyên không nghe theo chỉ dụ của
nhà Trịnh nên khiến cho nhà Trịnh vô cùng tức giận, muốn cất quân đi đánh hai
xứ Quảng Nam, Thuận Hóa.
“Tháng ba năm 1627, Thanh Đô vương Trịnh Tráng đích thân thống
lĩnh đại quân thủy bộ rước theo xa giá vua Lê vào đánh xứ Nam”,
“Tháng tư, đại quân tiến đến cửa Nhật Lệ, chia quân đóng trại đồn trú,
làm thành thế trận để phối hợp tiến đánh”.
“ Bấy giờ Sãi vương được tin báo bèn triệu các quan văn võ vào phủ
định bàn, vương sai tướng người họ là Vệ làm tiết chế, Lương quận công làm
phó, quan văn Chiêu Vũ Nguyễn Hữu Dật làm giám chế đem bộ binh tiến theo
đường thượng đạo. Lại sai con là Trung Tín hầu làm tiết chế thủy binh đi tiếp
ứng cho bộ binh, dàn quân để đợi đánh quân Bắc triều”[ 9, tr .158].
“Lại nói, ngày mồng mười tháng ấy, tiết chế cánh quân đi xuống
thượng đạo là Vệ quận công, quan văn giám chiến là Chiêu Vũ, chia quân đóng
giữ các nơi hiểm yếu trong rừng núi, bất ngờ xông ra đánh quân Bắc triều. Hai
bên đánh lớn mấy trận chưa phân thắng bại. Bên Trịnh tung thêm quân ra sức
43
tiến đánh”[9, tr. 159].
“ Ngày mười ba, giám chiến Chiêu Vũ Nguyễn Hữu Dật, cùng với
Lương quận công Trương Phúc Gia bàn mưu thi hành kế phản gián. Sai gián
điệp lẻn ra miền Bắc tung tin đồn rằng: Anh em của chúa là bọn quận Gia,
quận Nhạc cùng mưu dấy loạn kinh đô muốn đoạt ngôi chúa. Chẳng mấy hôm
lời phao đồn bay đến Nam Hà, Thanh Đô vương nghe biết cả kinh. Từ đó vua
tôi anh em nghi ngờ lẫn nhau, trễ biếng việc đánh chắc, quân sĩ không muốn
chiến đấu. Thanh Đô Vương Trịnh Tráng bèn hạ lệnh rút quân về kinh đô để
giữ chắc căn bản”[9, tr.159].
Ngoài ra, chúng tôi xin dẫn chứng về trận giao chiến thứ sáu diễn ra từ
năm 1655 đến năm 1660 làm minh chứng cho nghệ thuật đặc tả các biến cố lớn
trong tác phẩm. Tác giả miêu tả cụ thể, chi tiết thời gian diễn ra các sự kiện,
chẳng hạn:
Ngày mười bốn, vào khoảng giờ Mùi, đốc chiến Chiêu Vũ truyền lệnh
mật cho trấn thủ dinh Quảng Bình là Nghĩa Lâm hầu sai người đến các Thủ
Cừ, Đông Hải chọn lấy một trăm chiếc ghe sắp sẵn chờ lệnh để chở quân bộ và
khí giới ở dinh Quảng Bình qua sông.
Lệnh cho thủy dinh Quảng Bình dùng hai mươi chiến thuyền chở đủ các
thứ quân nhu chiến cụ đậu sẵn ở của Nhật Lệ, chờ hiệu lệnh thủy bộ cùng tiến.
Ngày mười lăm, giờ Dậu, phát binh vượt biển đến bờ nam sông Gianh.
Ngày mười sáu, giờ Tý, trấn thủ Nghĩa Lâm đem quân bộ ở dinh Quảng
Bình ra đóng ở của Ròn đẻ chặn quân Trịnh ở đường hạ đạo. Hai chục chiến
thuyền của thủy quân Quảng Bình đến đậu ở xã Thạch Hà bờ nam sông. Quân
bộ ở Dinh Cũ (Cựu Dinh) vượt sông Gianh sang địa giới phía bắc, quân ở dinh
Bố Chính tiến theo phòng bị ở phía sau. Lại mật truyền cho Phù Dương, trấn
thủ dinh Bố Chính, sai người đến các xã Yên Náu, Thuận Cô, Lý Ninh chọn lấy
tám mươi chiếc ghe để nửa đêm ngày mười sáu chở quân của bản dinh từ cửa
Thuận Cô vượt thuyền qua sông Gianh đến đậu cùng một nơi với thủy binh
44
Quảng Bình, chờ quân chính đạo và quân ở Dinh Cũ cùng đến. Khoảng canh
tư, tất cả ghe thuyền đều buông chèo vượt sông sang bờ bắc, quân lính lên cả
trên bờ đợi lệnh. Các tướng chỉ huy xuống lệnh dừng lại chờ đến canh tư. Khi
các đội quân thủy bộ đều đã sang địa giới phía bắc, các tướng đều đến dưới
trướng của tiết chế chờ sai phái. [Quyển bốn]
Qua một đoạn rất nhỏ trong tác phẩm được trích dẫn ở quyển bốn, trang
236-237, có thể thấy sự kiện được tác giả miêu tả rất chi tiết. Tác giả miêu tả cụ
thể đến cả ngày tháng, chi tiết đến cả giờ, cả canh. Các nhân vật cũng được
miêu tả đầy đủ với tên, vị trí, chức quan mà họ nắm giữ. Các địa danh được kể
chi tiết, từng tên dinh, tên sông, tên xã cũng đều được ghi chép tỉ mỉ. Các sự
kiện được tác giả miêu tả đến từng chi tiết nhỏ, bao nhiêu chiến thuyền, bao
nhiêu chiếc ghe đều được nhắc đến trong tác phẩm. Có thể thấy sự chi tiết đến
tỉ mỉ trong nghệ thuật kể chuyện của tác giả, điều đó tạo nên tính chân thực, độ
tin cậy của mỗi sự kiện được miêu tả trong tác phẩm. Nếu như ở quyển một và
quyển hai, tác giả chủ yếu miêu tả sự kiện theo kiểu lược thuật vắn tắt, lướt qua
các sự kiện thì ở những quyển sau, đặc biệt ở những trận đánh quan trọng, tác
giả lại dụng công miêu tả rất chi tiết. Không khí chiến trận khốc liệt với hình
ảnh chiến thuyền, binh lính giao tranh, đầu rơi máu chảy, với âm thanh là
những tiếng kêu than oán thán, với nỗi đau của cảnh chiến trận, nỗi đau của
chúng sinh được ngòi bút của Nguyễn Khoa Chiêm đặc tả sinh động, chân thực,
khiến người đọc như đang hòa mình vào không khí lịch sử của thế kỷ XVII.
Ngòi bút miêu tả của Nguyễn Khoa Chiêm khi lướt nhanh, khi thì chậm lại,
xoáy sâu vào từng sự kiện, từng nhân vật, những tâm trạng đang hằn trên nét
mặt của những con người trong một thời đại đau thương, nếm trải nỗi đau loạn
ly chia cắt. Bởi vậy, mặc dù tác phẩm viết về lịch sử mà không hề khô khan,
nhàm chán. Đồng thời là một tác phẩm văn chương hấp dẫn, sinh động, lôi
45
cuốn mà vẫn đảm bảo được tính chân thực cốt yếu của lịch sử đương thời.
Như vậy, nghệ thuật đặc tả các biến cố trong Nam triều công nghiệp diễn
chí có ý nghĩa rất quan trọng, góp phần tạo nên tính sinh động, hấp dẫn của
hình thức kể chuyện trong tác phẩm, vừa tạo được mạch phát triển tự nhiên của
cốt chuyện, vừa nhấn mạnh, làm nổi bật những sự kiện quan trọng trong toàn
bộ tiến trình lịch sử xã hội thời bấy giờ. Đặc biệt qua nghệ thuật đặc tả các biến
cố, tác giả Nguyễn Khoa Chiêm đã đạt đến một trình độ mới trong nghệ thuật
xây dựng cốt truyện, khiến cho tác phẩm không đơn thuần chỉ là tác phẩm viết
về lịch sử, mà đây còn là một tác phẩm văn chương độc đáo, đầy sáng tạo, thể
hiện sự tìm tòi, kế thừa và phát huy trên cơ sở văn chương truyền thống.
2.4. Tiểu kết
Nam triều công nghiệp diễn chí của Nguyễn Khoa Chiêm là tác phẩm đặt
nền móng cho thể loại tiểu thuyết chương hồi trong văn học trung đại Việt Nam
trên nhiều phương diện, trước hết phải kể đến nghệ thuật xây dựng cốt truyện.
Đây là một tác phẩm có dung lượng dài, trên sáu trăm trang viết ghi lại
lịch sử dân tộc trong khoảng hơn một trăm năm với biết bao các sự kiện, nhân
vật. Bức tranh lịch sử xã hội, dưới ngòi bút của tác giả, hiện lên chi tiết cụ thể
từ các cuộc tranh giành quyền lực giữa hai nhà Lê- Mạc, Nguyễn- Trịnh cho
đến chân dung số phận của từng nhân vật, từng trận đánh. Để tác phẩm truyền
tải được chân thực nhất, rõ nét nhất những diễn biến của thời cuộc lúc bấy giờ,
tác giả đã xây dựng cốt truyện hết sức đặc sắc, hấp dẫn.
Cốt truyện trong tác phẩm được xây dựng chủ yếu theo hình thức cốt
truyện tuân theo thời gian tuyến tính, các sự kiện lần lượt được diễn ra theo
trình tự trước sau, theo quy luật nhân nào quả ấy, tạo nên sự tiếp nối, liền mạch
cho hệ thống sự kiện, giúp người đọc dễ dàng theo dõi được toàn bộ câu
chuyện. Bên cạnh đó, để miêu tả những thời điểm lịch sử diễn ra nhiều sự kiện,
nhiều xung đột khác nhau, tác giả đã sử dụng nghệ thuật đồng hiện, để đảm bảo
các sự kiện vẫn tuân theo thời gian tuyến tính mà vẫn được miêu tả đầy đủ, chi
46
tiết và tỉ mỉ. Đặc biệt là những sự kiện có ý nghĩa quan trọng, có vai trò chi
phối sâu sắc đến toàn bộ cốt truyện, tác giả dụng công miêu tả cụ thể, chi tiết,
khiến câu chuyện vừa sinh động, hấp dẫn, vừa có chiều sâu.
Nam triều công nghiệp diễn chí về cơ bản vẫn tuân thủ những nguyên tắc
nghệ thuật chung của thể loại tiểu thuyết chương hồi. Tuy nhiên bằng tài năng và
sự sáng tạo của mình, Nguyễn Khoa Chiêm khiến cho chất văn hòa quyện cùng
tính sử đã tạo nên một tác phẩm vừa có ý nghĩa văn chương đặc sắc mang đậm
dấu ấn tâm hồn người nghệ sĩ Việt Nam, đặt nền móng cho thể loại tiểu thuyết
chương hồi trong văn học trung đại Việt Nam, vừa để lại cho các thế hệ sau một
47
pho sách quý báu ghi lại lịch sử dân tộc một giai đoạn đầy biến động.
Chương 3
NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT TRONG
NAM TRIỀU CÔNG NGHIỆP DIỄN CHÍ
3.1. Con đường từ hiện thực đến các hình tượng văn học
Văn học cũng như văn nghệ nói chung là lĩnh vực của tình cảm thẩm mĩ,
nhưng vẫn là một loại hình thái ý thức xã hội, phản ánh tồn tại xã hội. Mối
quan hệ giữa văn học với hiện thực là mối quan hệ giữa cái phản ánh và cái
được phản ánh trong tác phẩm. Trong cuốn Lí luận văn học (tập 1) tác giả
Phương Lựu đã nhận xét: “Xét đến cùng bất kỳ nên văn nghệ nào cũng hình
thành trên một cơ sở hiện thực nhất định. Bất kỳ một nghệ sỹ nào cũng thoát
thai từ một môi trường sống nào đó. Bất kỳ tác phẩm nào cũng là sự khúc xạ từ
những vẫn đề trong cuộc sống” [35, tr.81].
Như ta đã biết, nội dung chính trong các tác phẩm tiểu thuyết chương hồi
Việt Nam thường đề cập và phản ánh những vấn đề mang tính lịch sử của dân
tộc. Xuất phát từ lịch sử, các tác phẩm tiểu thuyết chương hồi đều tập trung
phản ánh hiện đặc điểm hiện thực và đời sống xã hội lúc bấy giờ. Tuy nhiên
hiện thực trong tác phẩm được biểu hiện không chỉ qua tính chất khách quan
mà còn được phản ánh qua lăng kính chủ quan của tác giả. Cho nên hiện thực
phản ánh trong tác phẩm nhiều khi không đồng nhất với hiện thực lịch sử.
Xã hội Việt Nam từ thế kỷ XV - XIX với biết bao các sự kiện lịch sử
phức tạp đã diễn ra, tiểu thuyết chương hồi giai đoạn này chủ yếu là các tác
phẩm văn học có đề tài liên quan đến lịch sử. Đây chính là cơ hội cho các tác
giả thể hiện tài năng của mình, bằng tâm huyết, sự sáng tạo, các tác giả đã ghi
chép lại các vấn đề lịch sử nhưng dưới góc độ một tác phẩm văn chương đích
thực. Với tư cách là người đứng ngoài quan sát, các tác giả tiểu thuyết chương
hồi Việt Nam trung đại đã trở thành người thư ký trung thành bám sát các vấn
đề của lịch sử. Nam triều công nghiệp diễn chí của tác giả Nguyễn Khoa Chiêm
48
hoàn thành năm 1719, là cuốn tiểu thuyết mở đầu cho tiểu thuyết chương hồi
Việt Nam. Tác phẩm Nam triều công nghiệp diễn chí ra đời sau một thế kỷ
nhưng đã phản ánh khá chân thật lịch sử xã hội Việt Nam những năm giữa thế
kỷ XVI đến cuối thế kỉ XVII, trong đó tác giả chủ yếu tái hiện lại quá trình
hình thành Nam- Bắc triều từ năm 1558 và đặc biệt là cuộc nội chiến Nam- Bắc
triều trong vòng 45 năm từ 1627 đến 1672. Tuy nhiên, chúng ta không thể đồng
nhất bức tranh hiện thực này với chính hiện thực lịch sử của đất nước lúc bấy
giờ. Các nhân vật lịch sử trong tác phẩm được xây dựng dựa trên những con
người có thật trong lịch sử, nhưng khi nhân vật ấy đi vào trong văn học lại có
diện mạo riêng, những nét điển hình không hoàn toàn trùng khớp với hiện thực.
Và để có các hình tượng nhân vật độc đáo sống động, chân thực như vậy trong
tác phẩm, tác giả Nam triều công nghiệp diễn chí đã phải trải qua một quá trình
sàng lọc, sáng tạo hết sức công phu.
Lấy bối cảnh lịch sử những năm giữa thế kỷ XVI đến cuối thế kỉ XVII,
tác phẩm Nam triều công nghiệp diễn chí có giá trị như là tấm gương phản
chiếu hiện thực lịch sử qua cách tác giả viết về các sự kiện có thật xảy ra từ
năm 1558 cho đến năm 1689, tức là tác giả viết về hiện thực cuộc sống diễn ra
trước một thế kỷ và sau khoảng 30 năm khi tác giả ra đời (1659). Tác giả vừa
viết về quá khứ và vừa viết về hiện tại, nhưng hiện tại này được lắng đọng trên
một phần tư thế kỷ. Tác giả Nguyễn Khoa Chiêm sinh năm 1659, hoàn thành
Nam triều công nghiệp diễn chí năm 1719, sự kiện cuối cùng được nhắc đến
trong tác phẩm là vào năm 1689. Tác phẩm Nam triều công nghiệp diễn chí
mang những nét độc đáo và đậm đà bản sắc Việt Nam là do sự sáng tạo của tác
giả, không dựa trên một tác phẩm lịch sử có sẵn, các nhân vật chưa trải qua quá
trình dân gian hay truyền thuyết hóa. Vì vậy, tác giả phải tự mình kiến tạo nên
tất cả từ nội dung, cốt truyện, nhân vật cho tới các tình tiết làm sao đảm bảo
cho nó vừa trung thành với lịch sử lại có trình độ nghệ thuật khái quát cao.
Nguyên tắc bất di bất dịch trong xây dựng nhân vật của tiểu thuyết
49
chương hồi là trung thành với họ tên, năm sinh, hoàn cảnh gia đình quê hương.
Thống kê hơn hai trăm nhân vật trong Nam triều công nghiệp diễn chí ta thấy
Nguyễn Khoa Chiêm tuyệt đối tuân thủ nguyên tắc này. Đặc biệt ở những nhân
vật chính, những hình tượng vua chúa anh hùng, tác giả dành cho số câu chữ
và số trang viết nhiều nhất thì nguyên tắc này được đặt lên hàng đầu.
3.2. Bút pháp tả thực trong nghệ thuật xây dựng nhân vật ở Nam triều
công nghiệp diễn chí
Văn học bắt nguồn từ hiện thực cuộc sống, bao giờ cũng phải phản ánh
hiện thực đời sống theo một phương thức nghệ thuật nào đó. Nhà văn với tư
cách là những thư ký trung thành của thời đại luôn bám sát hiện thực cuộc
sống, phản ánh lại nó một cách chân thực và sống động. Vì vậy, hiện thực
chính là thuộc tính tất yếu của văn học. Mặc dù văn học phản ánh hiện thực đời
sống khách quan qua lăng kính chủ quan của tác giả nhưng chúng ta không thể
phủ nhận vai trò của hiện thực, chính hiện thực là nền tảng cho nhà văn thể
hiện cảm xúc thẩm mĩ, tư tưởng tình cảm của mình. Thế giới hiện thực trong
tác phẩm và hiện thực ngoài đời luôn có những nét tương đồng nhất định. Đặc
biệt là các tác phẩm tiểu thuyết chương hồi được xây dựng dựa trên các sự kiện
lịch sử thì tính hiện thực là điều được quan tâm đặc biệt. Xây dựng nhân vật dựa
trên nguyên mẫu lịch sử cho nên những chi tiết có thật, những vấn đề như quê
hương gia đình, dòng họ luôn được các nhà văn lựa chọn đầu tiên. Đưa những
nhân vật, những con người có thật ở ngoài đời vào trong tác phẩm tạo nên các
hình tượng nhân vật, Nguyễn Khoa Chiêm đã bám sát lịch sử để làm sao các
nhân vật vừa có những nét sinh động hấp dẫn lại vừa gần gũi với bạn đọc.
Trong Nam triều công nghiệp diễn chí, tác giả xây dựng các nhân vật
dựa trên những nguyên mẫu có thật ở ngoài đời, ít nhiều đều là những con
người quen thuộc với đông đảo quần chúng nhân dân. Khi miêu tả lại các
nhân vật lịch sử thì điều đầu tiên tác giả phải lưu ý đó là lưu lại chính xác tên
tuổi, nguồn gốc xuất thân, vị trí và vai trò cũng như môi trường, thời đại nhân
50
vật đó đang sống. Đặc biệt là đối với các tác phẩm tiểu thuyết chương hồi
Việt Nam có đề tài liên quan tới lịch sử, các sự kiện lịch sử thì vấn đề này
càng được chú ý hơn bao giờ hết. Và nhờ các yếu tố được bảo lưu này tạo nên
sự tương đồng nhất định giữa các nhân vật trong lịch sử với các nhân vật của
Nguyễn Khoa Chiêm.
Trong Nam triều công nghiệp diễn chí, tác giả Nguyễn Khoa Chiêm đã
xây dựng lên một hệ thống nhân vật hết sức đa dạng và phong phú, hầu hết đều
là những nhân vật có thực trong lịch sử được tác giả đưa vào trong tác phẩm.
Bên cạnh những nhân vật giữ vị trí quyền lực trong xã hội như vua, chúa, quan
lại, còn có cả những nhân vật anh hùng nổi tiếng trong lịch sử như Đào Duy
Từ, Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Hữu Dật, Phùng Khắc Khoan... Đây đều là
những con người có thật và quen thuộc trong lịch sử Việt Nam thời kỳ này.
Đầu tiên phải kể đến các vị chúa Nguyễn, cùng các vị quân tướng bên
cạnh họ, tác giả đã dành rất nhiều câu chữ khi miêu tả các nhân vật này.
Vị chúa Nguyễn đầu tiên được nhắc đến nhiều đó là Nguyễn Hoàng.
Chúa tiên sau khi tìm cách vào được Thuận Hóa để tránh sự mưu hại của anh rể
Trịnh Kiểm đã gây dựng nên một cơ đồ riêng ở Đàng Trong. Tác giả tập trung
miêu tả Nguyễn Hoàng là một vị chúa tài giỏi, đức độ, có lòng yêu thương và
chăm lo cho cuộc sống của nhân dân. Trong thời gian ở ngôi chúa, ông vẫn lễ
phiên thần và thực hiện thuế khóa đầy đủ với triều đình. Dưới ngòi bút của
Nguyễn Khoa Chiêm, Nguyễn Hoàng là vị chúa có đức có tài cai trị, góp phần
làm cho người dân xứ Nam được hưởng cuộc sống thái bình và thịnh vượng. Vị
chúa thứ hai là Sãi Vương Nguyễn Phúc Nguyên, đây cũng là vị chúa được
nhận xét là có tài có đức, giỏi việc cầm quân và thu phục nhân tài, yêu thương
dân chúng. Tuy nhiên, đến đời Sãi Vương thì mối quan hệ với vua Lê chúa
Trịnh bắt đầu nảy sinh những mâu thuẫn sâu sắc, việc nộp tô thuế đã không
còn được duy trì như trươc, chúa mang những mưu đồ lớn hơn như có ý định
thu phục kinh đô và tiếp tục phò Lê. Dưới triều chúa Sãi, có nhiều vị tướng tài
51
giúp cho sự nghiệp phù Lê - diệt Trịnh. Vị chúa thứ ba là Nguyễn Phúc Lan,
một vị chúa yêu dân, gần dân, nhân đức nhưng lại ham mê sắc dục. Vị chúa thứ
tư là Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần, được đánh giá là người có chí khí, có tầm
nhìn xa trông rộng, có tài sách lược đánh quân ra Bắc, thu phục nhân tài hào
kiệt. Vị chúa thứ năm là Nguyễn Phúc Trăn, tuy nhiên trong tác phẩm, ông ít
được nói đến.
Bên cạnh các vị chúa Nguyễn, tác giả còn tập trung miêu tả các nhân vật
anh hùng, danh sĩ, những người bên cạnh chúa Nguyễn trong cuộc đấu tranh
phò Lê diệt Trịnh. Tiêu biểu như các danh sĩ Đào Duy Từ, Thuận Nghĩa
Nguyễn Hữu Tiến, Chiêu Vũ Nguyễn Hữu Dật, công tử Hiệp Đức.
Danh sĩ Đào Duy Từ là một người nổi tiếng trong lịch sử. Trong tác
phẩm, ông là một vị tướng tài giỏi được các đời chúa Nguyễn tin dùng. Đào
Duy Từ, hiệu Lộc Khê (1572 - 1634), quê ở Thanh Hóa. Ông là một nhà quân
sự, nhà thơ thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên. Ông làm quan với nhà Nguyễn
một thời gian ngắn nhưng bằng tài năng và tâm huyết của mình, ông đã cùng
với các chúa Nguyễn gây dựng nên một đội quân hùng mạnh, đưa ra nhiều mưu
kế chính trị cho chúa Nguyễn.
Trong tác phẩm Nam triều công nghiệp diễn chí, Nguyễn Khoa Chiêm đã
khắc họa nên nhân vật Đào Duy Từ một người mưu sĩ tài ba có thể sánh ngang
với Gia Cát Lượng ở thời Tam quốc bên Trung Quốc, một con người tài năng,
thông kim bác cổ. Là người có tài nhưng không được triều đình Lê - Trịnh
trọng dụng, mang trong mình nỗi lòng bị thất sủng lại nghe chúa ở Đàng trong
biết trọng đãi người hiền nên ông tìm cách vào Đàng Trong, quyết tâm lập
nghiệp với chúa Nguyễn. Khi làm quan cho nhà Nguyễn, Đào Duy Từ tận tâm
tận sức giúp cho chúa Nguyễn có một đội quân hùng mạnh, một hệ thống
phòng ngự bất khả xâm phạm vừa giữ yên bờ cõi vừa tạo ra lợi ích về kinh tế,
khí hậu, lưu danh sáng lạng cho hậu thế. Bằng ngòi bút kể chuyện lịch sử dựa
vào sự thật cuộc đời của Đào Duy Từ, Nguyễn Khoa Chiêm đã dựng lên hình
52
ảnh của một người ẩn sĩ tài cao học rộng, lắm mưu nhiều kế, tinh thông kim cổ.
Ông là người đề xuất chúa Nguyễn đắp lũy Trường Dục, Lũy Thầy và trong
suốt thời kỳ nội chiến đã đưa ra nhiều ý kiến chính trị sáng suốt cho chúa
Nguyễn. Bằng ngòi bút tả thực, ít tô vẽ, nhân vật lịch sử Đào Duy Từ được hiện
lên bằng hình ảnh của một người mưu sĩ nổi danh của thời nội chiến. Công lao
của ông đối với chúa Nguyễn như Gia Cát Khổng Minh đối với Lưu Bị. Với sự
quan sát sáng suốt, sự ứng đối kịp thời để đánh bại đối phương mà ông và chiến
tướng Nguyễn Hữu Dật trực tiếp chỉ huy như đã được miêu tả trong Nam triều
công nghiệp diễn chí, Đào Duy Từ thật xứng đáng là một danh nhân của cả
nước nói chung và Quảng Bình nói riêng. Sự nghiệp hiển hách của ông ở thời
Trịnh - Nguyễn phân tranh hãy còn để lại nhiều di tích trên đất Quảng Bình.
Qua tác phẩm Nam triều công nghiệp diễn chí, Nguyễn Khoa Chiêm đã giúp
chúng ta hiểu thêm về thân thế sự nghiệp của con người đa mưu túc kế này.
Danh tướng Nguyễn Hữu Tiến, một danh tướng trong lịch sử cũng được
tác giả đưa vào trong tác phẩm. Nguyễn Hữu Tiến (1602 - 1666), hiệu Thuận
Nghĩa, quê ở Bình Định. Sinh ra trong một gia đình nghèo nhưng sớm có chí
lớn, giỏi võ nghệ và văn chương. Khi ra làm quan với triều Nguyễn, ông có
đóng góp nhiều công lao.
Trong tác phẩm, Nguyễn Hữu Tiến được miêu tả là một vị tướng tài ba,
dũng cảm, trung thành với nhà Nguyễn. Ông được nhận xét tựa như Quan Công
trong Tam quốc diễn nghĩa. Cùng với Chiêu Vũ Nguyễn Hữu Dật, ông đã góp
phần làm nên những chiến công vẻ vang đánh đuổi quân Trịnh trong sự nghiệp
phù Lê diệt Trịnh của nhà Nguyễn. Sau này, vì những hiềm khích mà ý định
khôi phục Trung đô không thành. Trong tác phẩm, tác giả đã khắc họa Nguyễn
Hữu Tiến như một hình tượng anh hùng sinh động và đẹp đẽ.
Cùng với Thuận Nghĩa Nguyễn Hữu Tiến, Chiêu Vũ Nguyễn Hữu Dật
cũng là một vị chiến tướng tài năng xuất chúng, có nhiều công lao đối với nhà
53
Nguyễn. Nguyễn Hữu Dật (1603-1681), là một vị tướng có công lao phò tá
nhiều đời chúa Nguyễn, một vị đại công thần từng giúp đánh lui nhiều cuộc tấn
công của quân Trịnh, giữ vững Đàng Trong, được phong chức Chiêu Vũ.
Trong toàn bộ tác phẩm Nam triều công nghiệp diễn chí, hình ảnh Chiêu
Vũ là hình ảnh của một chiến tướng oai hùng, đánh đâu thắng đó, danh vọng
vang lừng, một con người thông minh, có đức có tài. Nhân vật này có tác
phong quân sự tài tử như các viên tướng trong truyện Tam quốc chí diễn nghĩa.
Trải qua ba đời chúa với các chức vụ khác nhau, bằng tài năngvà trí lực ông đã
góp nhiều công lao trong việc đánh đuổi quân Trịnh. Cùng với các vị tướng tài
ba khác, Nguyễn Hữu Dật trở thành vị khai quốc công thần của nhà Nguyễn.
Ngoài ra, trong tác phẩm còn nhắc đến các nhân vật nổi tiếng trong lịch
sử khác như Phùng Khắc Khoan, một vị tướng am hiểu nhiều lĩnh vực, văn võ
song toàn, giỏi ứng xử. Công tử Hiệp Đức, một vị công tử tuổi trẻ tài cao, nhân
từ đức độ, có lòng hướng Phật, cùng với Nguyễn Hữu Dật đánh đuổi quân
Trịnh trong trận Trấn Ninh, giữ vững lãnh thổ của Nam Triều.
Song song với các nhân vật nhà Nguyễn, các nhân vật họ Trịnh cũng
được tác giả ưu ái dành cho nhiều trang viết.
Từ khi giúp vua Lê giành lại quyền hành từ tay nhà Mạc, gây dựng lại
đất nước cho đến khi chiếm quyền lực về tay mình, họ Trịnh trải qua năm đời
chúa từ Trịnh Kiểm cho đến Trịnh Căn. Đây đều là những nhân vật được ghi
chép trong sách sử và trong Nam triều công nghiệp diễn chí. Dưới ngòi bút của
Nguyễn Khoa Chiêm, tất cả hiện lên hết sức chân thực và sinh động. Nhân vật
được nhắc đến đầu tiên là Trịnh Kiểm, tức Thái sư Minh Khang vương, trong
tác phẩm được miêu tả là người tài giỏi, có công cùng với bố vợ là An Tĩnh hầu
Nguyễn Kim phò tá vua Lê giành lại ngôi báu từ tay nhà Mạc. Sau này, khi
Nguyễn Kim bị tướng nhà Mạc hại chết, Trịnh Kiểm trở thành người phò tá đắc
lực cho vua Lê. Tuy nhiên, càng về sau Trịnh Kiểm càng tìm cách thâu tóm
quyền lực vào tay mình, khiến vua Lê trở thành bù nhìn. Đồng thời Trịnh Kiểm
54
cũng là người tính toán khi ngầm mưu hại Nguyễn Hoàng ,con trai của Nguyễn
Kim, một nhân vật được nhìn nhận là tài giỏi hơn khiến Trịnh Kiểm lo sẽ lấn át
quyền bính. Tuy nhiên, Nguyễn Hoàng đã sớm đoán âm mưu của Trịnh Kiểm
nên tìm cách trốn vào Nam.
Sau khi Trịnh Kiểm mất, con trai là Trịnh Tùng tức Bình An vương lên
thay. Trong tác phẩm, Trịnh Tùng được miêu tả là vị chúa có tài cầm quân thao
lược, nhiều lần khi quân nhà Mạc đánh xuống ông đã đánh bại.
Sau Trịnh Tùng là Trịnh Tráng tức Thanh Đô vương, vị chúa thứ ba của
họ Trịnh cũng là người đầu tiên khai mào cho cuộc nội chiến Nam - Bắc triều
năm 1627. Vị chúa này được miêu tả là người hiếu chiến nhưng lại không có tài
cầm quân cho nên các trận giao chiến do Trịnh Tráng chỉ huy đều thất bại.
Vị chúa thứ tư là Trịnh Tạc tức Tây Định vương, khi ở ngôi chúa, Trịnh
Tạc đã hai lần đem quân đi đánh nhà Nguyễn, trận đánh lớn nhất là trận Trấn
Ninh năm 1672. Tuy nhiên, sau bảy lần tấn công thất bại, Trịnh Tạc phải rút
quân về Bắc chấm dứt nội chiến Nam- Bắc triều kéo dài hơn 45 năm.
Vị chúa cuối cùng được nhắc đến trong tác phẩm là Trịnh Căn, trong tác
giả miêu tả về nhân vật này khá mờ nhạt so với các nhân vật khác.
Khi miêu tả các nhân vật họ Trịnh, họ Nguyễn, tác giả đã ưu ái khi dành
rất nhiều câu chữ cho các nhân vật thuộc hai dòng họ này. Nếu như các nhân
vật họ Nguyễn được miêu tả với góc nhìn tích cực hơn nhưng cũng không hề ca
ngợi một chiều, tác giả vẫn chỉ ra những khuyết điểm của mỗi nhân vật. Trong
hơn hai trăm nhân vật gắn liền với chúa Nguyễn, tác giả tập trung vào miêu tả
các vị chúa và các đại thần gắn liền với công lao gây dựng nên Nam triều. So
với các vị chúa Nguyễn, chúa Trịnh hiện lên trong tác phẩm đều mang trong
mình những dã tâm chính trị, độc ác và tàn bạo hơn hẳn.
Nếu như các nhân vật họ Trịnh và họ Nguyễn được tác giả Nguyễn Khoa
Chiêm dành cho số lượng câu chữ lớn, dành nhiều trang để đặc tả thì các nhân
55
vật vua Lê, vua Mạc lại xuất hiện mờ nhạt hơn. Mặc dù các nhân vật được đưa
vào tác phẩm đều dựa trên đúng lịch sử nhưng những câu chữ khi nói về họ khá
ít, thậm chí nhiều nhân vật chỉ được điểm qua trong tác phẩm.
Trước hết phải kể đến các vị vua Lê. Sau khi bị nhà Mạc cướp ngôi rồi
được các vị công thần như Nguyễn Kim, Trịnh Kiểm giúp đỡ giành lại ngôi
báu, đặc biệt là khi họ Trịnh phò tá gây dựng lại triều đình thì các triều vua đã
không còn sức ảnh hưởng lớn, họ chỉ là con rối bị giật dây bởi các chúa Trịnh.
Vua Lê Chiêu Tông sau khi bị Mạc Đăng Dung cướp ngôi phải chạy về
Thanh Hóa, gây dựng lại quân đội tìm cách lấy lại kinh đô, nhưng cuối cùng bị
bắt và giết hại.
Con trai Lê Chiêu Tông là vua Lê Trang Tông tức Lê Ninh khi bị truy sát
đã cùng mẹ trốn sang Ai Lao. Sau này, khi Nguyễn Kim tìm cách gây dựng lại
sự nghiệp nhà Lê đã tìm đón về và lập nên làm vua.
Vua Lê Anh Tông là vị vua sau Lê Trang Tông, sau khi lên ngôi trị vì
được mười bảy năm, nhưng trong suốt quãng thời gian đó quyền hành đều
trong tay chúa Trịnh, ông chỉ là ông vua bù nhìn mà thôi.
Sau Lê Anh Tông mất, con trai là thái tử Duy Đàm lên ngôi tức vua Lê
Thế Tông. Do vua còn trẻ tuổi nên mọi việc trong triều đều do Trịnh Tùng
quyết định. Đây cũng là vị vua đầu tiên trở về kinh đô Thăng Long sau một thời
gian dài đóng đô ở Thanh Hóa.
Vị vua duy nhất không chịu làm bù nhìn và sự lấn át của chúa Trịnh là
Lê Kính Tông, ông đã tìm cách liên kết với con trai Trịnh Tùng là Trịnh Xuân
mưu giết Trịnh Tùng nhưng không thành. Vua bị ép thắt cổ chết, sau đó xác bị
vứt ngoài sân chầu.
Các vị vua còn lại khác của triều Lê như: Lê Duy Kỳ, Lê Duy Vũ, Lê
Duy Cối, Lê Duy Cáp lần lượt lên ngôi nhưng đều mờ nhạt, ít được nói đến
56
trong tác phẩm.
Khi miêu tả các vị vua nhà Lê, tác giả đã đưa các nhân vật vào trong tác
phẩm đúng như lịch sử ghi chép, điều này làm cho tác phẩm tuy là một tác
phẩm văn chương nhưng gắn liền với lịch sử và tôn trọng lịch sử.
Trong Nam triều công nghiệp diễn chí, các vị vua triều Mạc cũng được
tác giả chú ý miêu tả dù dành cho số câu chữ ít, các nhân vật không được khắc
họa nhiều.
Khi nhà Lê suy yếu, Mạc Đăng Dung nổi dậy cướp ngôi lập nên nhà
Mạc. Thời gian đầu mới lên ngôi, nhà Mạc giữ quyền hành trong tay nhưng sau
này khi nhà Trịnh phù Lê diệt Mạc, nhà Mạc bị đánh bại chạy lên Cao Bằng.
Thi thoảng các vua Mạc có đem quân đánh xuống kinh thành nhưng đều thua
chạy. Trong tác phẩm, một số nhân vật quan trọng của nhà Mạc cũng được
nhắc đến và đó hầu hết là các nhân vật được sách sử nói đến.
Mạc Đăng Dung là vị vua nhà Mạc đầu tiên, người đã cướp ngôi nhà Lê
để gây dựng nên nhà Mạc.
Vua Mạc Mậu Hợp niên hiệu là Sùng Khanh lên ngôi khi còn nhỏ, không
có nhiều đóng góp sau bị Trịnh Tùng giết hại. Nhà Mạc cũng bị lật đổ từ đây.
Khi mới lên ngôi do Mạc Mậu Hợp còn nhỏ, mọi việc chính sự đều do tể tướng
Mạc Kính Điển nắm quyền. Nhiều lần nhà Mạc đem quân về Thanh Hóa đánh
nhà Trịnh nhưng không thành.
Con trai Mạc Mậu Hợp là Mạc Đăng Hạo sau khi nhà Mạc mất đã trốn
lên Cao Bằng gây dựng lại cơ đồ lấy hiệu là Long Thái Vương.
Mạc Kính Chỉ con Mạc Kính Điển được các đồ đảng họ Mạc lập lên làm
vua lấy hiệu là Khang Hựu, sau này ông cũng bị Trịnh Tùng giết.
Các vua Mạc về sau như Mạc Kính Cung, Mạc Kính Thoan, Mạc Kính
Vũ, Mạc Kính Hoàn đều tìm mọi cách để giành lại ngôi báu, nhiều lần tìm cách
đánh nhà Lê nhưng đều thất bại.
Tác giả Nguyễn Khoa Chiêm đã xây dựng nên một hệ thống nhân vật hết
57
sức đa dạng trong Nam triều công nghiệp diễn chí. Trong đó các nhân vật họ
Trịnh, họ Nguyễn được chú ý hơn cả. Các nhân vật đã được tác giả kỳ công
miêu tả không chỉ ở chân dung ngoại hình, lai lịch quê quán mà còn được miêu
tả ở nội tâm, tính cách, các hành động cũng như ngôn ngữ đối thoại. Tất cả các
nhân vật từ vua chúa, quan lại, tướng lĩnh cho đến những con người bình
thường được miêu tả hết sức sinh động, người được miêu tả thoáng qua, người
lại được nói tới chi tiết. Dưới ngòi bút đa dạng, biến hóa tài tình, tác giả khiến
cho thế giới nhân vật trong Nam triều công nghiệp diễn chí vừa mang dấu ấn
lịch sử lại mang hơi thở của đời thực. Tất cả các nhân vật ấy đều góp phần tạo
nên thành công cho tác phẩm, cũng như phản ánh lại một thời kỳ lịch sử đầy
biến động của dân tộc..
Chính vì vậy, việc tìm hiểu nghệ thuật xây dựng nhân vật trong Nam
triều công nghiệp diễn chí của Nguyễn Khoa Chiêm sẽ góp phần soi sáng hơn
những đóng góp của nhà văn, vị trí văn học sử độc đáo của tác phẩm này.
Nam triều công nghiệp diễn chí là tác phẩm tiểu thuyết lịch sử, cho nên những
nhân vật, sự kiện được xây dựng trên cơ sở lịch sử là hoàn toàn phù hợp. Trên
cơ sở là đề tài lịch sử dân tộc, phản ánh những biến động của dân tộc trong
khoảng hơn một thế kỷ, từ những năm giữa thế kỷ XVI đến cuối thế kỷ
XVII cho nên các nhân vật trong Nam triều công nghiệp diễn chí vẫn bảo
lưu được những đặc điểm nhất định. Đó là tên tuổi, vị trí cũng như vai trò
của nhân vật trong lịch sử, những biến động chính trị diễn ra trong suốt
cuộc đời của nhân vật. Tác phẩm Nam triều công nghiệp diễn chí phản ánh
lịch sử xã hội Việt Nam giai đoạn từ thế kỷ XVI đến cuối thế kỉ XVII cho
nên nội dung tác phẩm là một bức tranh hiện thực chân thực.
3.3. Bút pháp hư cấu trong nghệ thuật xây dựng nhân vật ở Nam triều
công nghiệp diễn chí
3.3.1. Hư cấu trong sáng tạo nghệ thuật
Hư cấu là phương thức xây dựng hình tượng đặc sắc qua việc sáng tạo ra
58
những giá trị mới, những yếu tố mới, những tính cách, những số phận, những sự
kiện, cảnh vật, nhân vật trong một tác phẩm theo sự tưởng tượng của tác giả. Đây
là một yếu tố không thể thiếu của sáng tác văn học nghệ thuật. Văn học nghệ thuật
bắt nguồn từ cuộc sống nhưng không sao chép lại nguyên nó mà bao giờ cũng có
sự sáng tạo, biểu hiện cá tính, phong cách độc đáo và lí tưởng thẩm mĩ của nhà
văn. Từ những chất liệu thực tế, nghệ sĩ tổ chức, nhào nặn, sáng tạo ra những hình
tượng nghệ thuật sinh động, rõ nét và điển hình hơn, tuỳ thuộc chủ đề của tác
phẩm. Trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học viết: “Hư cấu là vận dụng trí tưởng
tượng để sáng tạo nên nhưng nhân vật, câu chuyện, những tác phẩm nhằm phản
ánh cuộc sống và thực hiện mục đích nhất định” [22, tr. 153]. Hư cấu lịch sử nhu
cầu thẩm mỹ tất yếu trong các tác phẩm văn chương viết về đề tài lịch sử.
Nhân vật lịch sử là con người có thật trong một thời kỳ lịch sử, có tiểu
sử, có hành trạng rõ ràng, được ghi chép trong sử sách cũng như trong trí nhớ
của cộng đồng . Nhân vật lịch sử được thể hiện trong kho tàng văn hoá dân tộc
thường gặp là loại truyện danh nhân. Truyện danh nhân là loại tự sự ghi lại cuộc
đời và công trạng của các danh nhân lịch sử. Ở thể tài này, người viết sắp xếp
các tình tiết, xâu chuỗi các nhân vật trong mối quan hệ xác thực, hình tượng hóa
nó lên để tăng cường sự hấp dẫn , tăng cường giá trị thẩm mỹ, người viết không
thêm bớt những tình tiết, đưa vào những sự kiện không có thực.Truyện danh
nhân chính là thể “ký” trong bình diện đề tài lịch sử (Truyện danh nhân đất
Việt- Nhiều tác giả ). Còn tác phẩm văn chương (Kịch, Truyện ngắn và Tiểu
thuyết lịch sử) thuộc thể loại cho phép người viết thêm bớt, sáng tạo xung
quanh cái sườn lịch sử. Tính chất văn chương tạo một khoảng rộng cho sự hư
cấu. Người viết tác phẩm văn chương - lịch sử không chỉ chọn lọc, sắp xếp các
sự kiện mà có thể thêm bớt, sáng tạo kể cả việc sử dụng các yếu tố ảo, vô thức,
các thế lực siêu nhiên .Giới hạn của việc tạo tác này là không đi ngược lại bản
chất của lịch sử, bản chất của nhân vật. Truyện danh nhân là “cái đã có”, còn
59
văn chương viết về lịch sử là “cái có thể có”.
Nếu các tác phẩm lịch sử quan tâm tới sự kiện và nhân vật theo tiến trình
của nó thì văn học quan tâm đến nhân vật. Nguyên tắc cơ bản nhất của lịch sử
là trung thành với sự thực, còn tiểu thuyết lịch sử lại coi trọng sự sáng tạo hư
cấu và nếu như lịch sử chỉ cho người đọc biết tới những câu chuyện của cuộc
sống đời thường thì văn học mà ở đây là tiểu thuyết đưa con người tới những
vùng đất mới qua trí tưởng tượng và óc sáng tạo của mình. Hư cấu được xem
như một đặc trưng của thể loại tiểu thuyết, một thao tác tư duy không thể thiếu
của thể loại này. Nhờ có hư cấu, tác giả có thể tái hiện lại các sự kiện lịch sử
trong tác phẩm của mình không theo hiện thực lịch sử và các nhân vật cũng
hoàn toàn không lệ thuộc vào lịch sử như nguyên mẫu. Nói đến tiểu thuyết là
nói đến tưởng tượng và hư cấu nghệ thuật, và nói đến tiểu thuyết lịch sử là nói
đến tài năng tưởng tượng lịch sử của nhà văn. Nhiệm vụ của các tác giả tiểu
thuyết là không chỉ cho người đọc thấy sự tồn tại của hoàn cảnh và nhân vật
lịch sử bằng các thủ pháp nghệ thuật mà còn làm sống lại lịch sử bằng sự hư
cấu và tài năng sáng tạo của mình. Nhà văn khi xây dựng các nhân vật lịch sử
không đơn giản chỉ kể lại các câu chuyện lịch sử mà là thi vị hóa các nhân vật ,
những người đóng vai trò chủ đạo trong các sự kiện lịch sử ấy. Đặc biệt, mối
quan tâm của các nhà tiểu thuyết lịch sử là làm sao để các nhân vật của mình
trở nên sinh động hơn, gần gũi hơn các nhân vật trong lịch sử, bởi các nhân
vật lịch sử thì đã sống, còn các nhân vật tiểu thuyết lịch sử lại đang sống.
Chính vì thế, hư cấu chính là yếu tố quan trọng bộc lộ tài năng nghệ thuật, sự
sáng tạo của nhà văn trong quá trình sáng tác nghệ thuật. Hà Minh Đức, trong
cuốn Nhà văn và tác phẩm văn học, viết:“Có khi nhà nghệ sĩ chỉ cần có một
vài khoảnh khắc trong đời sống của nhân vật lịch sử, có khi nghệ sĩ đưa vào
tác phẩm những điều phi lịch sử không quan trọng, thậm chí trong chừng mực
nào đó, có quyền vi phạm sự đúng đắn về mặt sự kiện lịch sử bởi vì tác giả chỉ
cần đúng đắn lý tưởng mà thôi” [17, tr. 27]. Chính vì vậy, Nguyễn Khoa
60
Chiêm trong qua trình sáng tác Nam triều công nghiệp diễn chí, dù làm công
việc viết văn đồng thời ghi lại những sự kiện lịch sử thì việc sáng tạo, hư cấu
là tất yếu.
3.3.2. Hư cấu trong Nam triều công nghiệp diễn chí của Nguyễn Khoa Chiêm
Như đã nói ở trên, giữa nội dung tác phẩm và hiện thực lịch sử cùng giai
đoạn có những điểm tương đồng nhất định. Tuy nhiên, ta cũng không thể phủ
nhận giữa chúng có những sự khác biệt, đặc biệt là về phương diện các nhân
vật. Qua tìm hiểu và nghiên cứu tác phẩm Nam triều công nghiệp diễn chí,
chúng ta thấy rằng bên cạnh việc đảm bảo tính trung thực của các sự kiện lịch
sử theo trình tự từ như niên đại, các đời vua, chúa, các sự kiện lịch sử, các nhân
vật,… tác giả còn chú ý tới những yếu tố mà các nhà sử học thường không mấy
khi bàn tới. Đó là quan tâm tới nhân vật không chỉ ở khía cạnh là các nhân vật
lịch sử, mà còn là những con người đời thường như bao con người bình thường
khác trong cuộc sống. Các yếu tố, từ hành động đến lời nói, tâm trạng, tính
cách được tác giả chú ý tái hiện, làm cho các nhân vật lịch sử hiện lên là những
con người của cuộc sống, chịu sự chi phối của chính cuộc sống đang diễn ra.
Cùng một sự kiện diễn ra trong cuộc đời của nhân vật nhưng được ghi lại trong
Nam triều công nghiệp diễn chí nó lại không hoàn toàn đơn thuần là những sự
kiện lịch sử như ở các cuốn lịch sử đã ghi chép. Các sự kiện này được nhìn
nhận, miêu tả ở những góc độ khác nhau và các chi tiết được ghi lại không
hoàn toàn giống với lịch sử. Đọc Nam triều công nghiệp diễn chí, và các cuốn
sử ghi chép cùng một giai đoạn lịch sử chúng ta dễ dàng nhận thấy điều này.
Nếu như trong các sách chính sử, các sự kiện được ghi chép một cách đầy đủ,
chi tiết thì trong Nam triều công nghiệp diễn chí tác giả đã chủ tâm lựa chọn
các sự kiện, các chi tiết cụ thể để tái hiện được những nhân vật như là những số
phận con người cụ thể. Đứng ở góc độ này, Nam triều công nghiệp diễn chí đã
miêu tả được nhiều trạng thái xã hội và nhiều số phận bi kịch bằng các tình tiết
61
chân thực và gần gũi. Ở đây, người viết chỉ dừng lại so sánh một vài sự kiện
chính được ghi chép trong chính sử và được Nguyễn Khoa Chiêm lựa chọn và
ghi lại trong tiểu thuyết Nam triều công nghiệp diễn chí.
Hư cấu trong Nam triều công nghiệp diễn chí trước hết tác giả xây dựng
nhân vật có những nét khác biệt so với nhân vật trong lịch sử.
Ví dụ như năm 1558, năm Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa,khởi
đầu sự nghiệp gây dựng Nam triều của Nguyễn Hoàng là một mốc hết sức quan
trọng. Trong Khâm định Việt sử thông giám cương mục các tác giả chỉ ghi lại
rất ngắn gọn: “Mậu Ngọ, năm Chính Trị thứ 1 (1558). (Mạc, năm Quang Bảo
thứ 5 - Minh, năm Gia Tĩnh thứ 3)… Tháng 10, mùa đông. Sai Thái Tổ Gia Dụ
hoàng đế ta vào trấn đất Thuận Hóa” [66, Quyển 28]. Trong Nam triều công
nghiệp diễn chí, sự kiện này được miêu tả một cách chi tiết, như một trong
những sự kiện thể hiện sự đối đầu xuất phát từ sự đố kỵ về tài năng, từ ý muốn
tranh giành quyền lực trong triều chính. Sự kiện ấy bắt đầu từ việc Nguyễn
Hoàng theo Trịnh Kiểm đi chinh chiến, “nhiều năm đều lập được nhiều chiến
công, được Trang Tông gia phong nhiều lần, làm đến chức hữu tướng” …
Trịnh Kiểm lo ngờ rằng Nguyễn Hoàng “ngày sau công danh không kém gì
Kiểm” [9, tr. 26] nên ghen ghét và muốn làm hại. Theo lời Thích quốc công bàn
tính, Nguyễn Hoàng sai người vào cầu cứu chị ruột là Nguyễn Thị, chính phi
của Trịnh Kiểm. Khi Nguyễn Thị vào tâu xin, Trịnh Kiểm nói “Em Đoan là kẻ
anh hùng tuấn kiệt, đủ trí nhiều mưu, có thể dùng vào việc lớn, nào phải là
người đần độn đâu. Ta sao nỡ đặt em vào nơi đất xấu ấy?” [9, tr. 27-28]. Mặc
dù nói như vậy nhưng lòng lại thầm nghĩ: “Xứ ấy có quân đồn trú của nhà
Mạc, cứ cho y đến đó, kể như mượn tay họ Mạc, ta khỏi phải mang tiếng không
biết dùng người” [9, tr. 28] cho nên Trịnh Kiểm đã tâu với vua cho Nguyễn
Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa. Như vậy, rõ ràng trong Nam triều công nghiệp
diễn chí, sự kiện Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa, đối với Nguyễn
Hoàng không đơn thuần là một nhiệm vụ mà là một kế để tránh khỏi sự đố kỵ,
62
tranh đoạt quyền lực một cách xấu xa trong triều chính, để được tự do trong
mọi quyết định của mình. Việc nhà vua đồng ý cho Nguyễn Hoàng vào trấn thủ
Thuận Hóa theo đề nghị của Trịnh Kiểm cũng là một cách để Trịnh Kiểm nhổ
đi cái gai trong mắt và có thể tóm gọn cả vương triều vào tay họ Trịnh. Đây
không phải là một quyết định vì sự nghiệp chung mà chỉ vì lòng đố kỵ, ghen
ghét đối với tài năng của Nguyễn Hoàng mà thôi.
Cùng một sự kiện năm 1600, Nguyễn Hoàng quay trở về đất Thuận Hóa
tiếp tục sự nghiệp gây dựng Nam triều. Trong cuốn Đại Việt sử ký toàn thư, các
tác giả chỉ ghi: “Canh Tý, Thận Đức năm thứ 1 (1600)… Mùa hạ, tháng 5,
nước to. Bấy giờ, Thái uý Đoan quốc công Nguyễn Hoàng ngầm sai bọn Kế
quận công Phan Ngạn, Tráng quận công Ngô Đình Nga, Mỹ quận công Bùi
Văn Khuê mưu phản. Bình An Vương cùng các quan đương bàn việc đánh dẹp,
Hoàng muốn kế của mình trôi chảy, giả vờ xin đem quân đuổi đánh, rồi đốt hết
doanh trại, trốn về Thuận Hoá. Bấy giờ trong nước loạn lạc, lòng người dao
động, Vương bèn hộ vệ hoàng thượng trở về (Tây Đô) để lo giữ đất căn bản”
[31, tr.208]. Trong Nam triều công nghiệp diễn chí, Nguyễn Khoa Chiêm đã
khai thác sự kiện này như một mưu kế để thấy được mong muốn được thoát
khỏi một nơi đầy sự đố kỵ, ghen ghét để được tự do thực hiện khát vọng gây
dựng đại nghiệp vì dân của chúa Nguyễn Hoàng. Sự kiện này bắt đầu từ việc
Trịnh Tùng thấy “Đoan quốc công Nguyễn Hoàng là người khí chất hùng vĩ
khác kẻ bình thường, được các quan trong triều nhiều người yêu mến ngưỡng
mộ” cho nên Trịnh Tùng “sinh lòng ngờ vực, muốn tính kế trừ đi để khỏi mối lo
về sau”. Nguyễn Hoàng “thầm hiểu ý ấy, ngày đêm tìm cách trở về Thuận
Hóa” [9, tr.72]. Nếu như trong Đại Việt sử ký toàn thư, các tác giả cũng coi
đó là một kế của Nguyễn Hoàng nhưng chỉ viết một cách khách quan trong
một đoạn văn ngắn gọn rằng: Nguyễn Hoàng “ngầm sai” bọn Phan Ngạn,
Bùi Văn Khuê mưu phản rồi “giả vờ xin đem quân đuổi đánh” để trốn về
Thuận Hóa [31, tr. 208], thì trong Nam triều công nghiệp diễn chí, Nguyễn
63
Khoa Chiêm lại ghi rõ tường tận ý định trở về Thuận Hóa đã có quá trình nung
nấu ngày đêm và được thực hiện có kế hoạch. Nguyễn Hoàng sai người đem vàng
bạc lễ vật đến biếu Trình quận công Nguyễn Bỉnh Khiêm “để hỏi kế giữ thân”.
Nhờ gợi ý của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Hoàng tìm cách trở về trấn cũ.
Nguyễn Hoàng đã lập kế li gián giữa bọn Ngạn, Khuê với chúa Trịnh khiến cho
bọn Ngạn, Khuê “quyết chí mưu phản” rồi Nguyễn Hoàng lại vào tâu xin “đem
đội thủy quân đi bắt chúng đem về dâng nộp trước mặt chúa thượng” [9, tr. 76].
Rồi cứ thế “thuận gió xuôi thuyền” trở về Nam triều [9, tr. 77]. Nguyễn Khoa
Chiêm đã dụng công ghi lại tường tận mưu kế này để phần nào làm nổi bật
được tài năng trí tuệ và khát vọng lớn lao của Nguyễn Hoàng.
Đọc Nam triều công nghiệp diễn chí, người đọc không thể không ấn
tượng bởi những cảnh được miêu tả rất chi tiết và chân thực, khiến cho các hình
tượng nhân vật hiện lên như là những số phận chứ không chỉ là những cá nhân
với vai trò nhất định trong diễn trình lịch sử. Nguyễn Khoa Chiêm đã tạo dấu
ấn của mình khi những yếu tố đời tư của nhân vật được khai thác. Điều này làm
cho nhân vật được xây dựng trong tác phẩm không chỉ là những anh hùng mà
còn là những con người rất đời thường có yêu- ghét, vui -buồn, tốt – xấu đan
xen. Chính các yếu tố đời thường của các nhân vật đã thể hiện cái nhìn đa chiều
đa diện của tác giả về con người, đây chính là một yếu tố thể hiện sự mới mẻ
trong nghệ thuật xây dựng nhân vật.
Những số phận như Trịnh Kiểm vì mong muốn thâu tóm quyền lực đã
tìm cách hãm hại ngay cả em vợ là Nguyễn Hoàng. Trịnh Xuân ít trí kém mưu
nhưng vì muốn tranh quyền đoạt chúa với anh, đã bị cha con Trịnh Đỗ lừa hại
chết thảm. Đào Duy Từ tài năng siêu việt, được ví như Gia Cát tái sinh, nhưng
vì xuất thân ca xướng nên không được đi thi, phải nuốt hận, tìm đường vào
Đàng Trong, trên đường đi phải làm kẻ chăn trâu cho phú hộ để kiếm sống chờ
thời cơ. Chiêu Vũ Nguyễn Hữu Dật tài năng, trung thành, lắm mưu kế nhưng vì
64
bị đố kị mà mưu sự khôi phục trung đô không thành.
Khi xây dựng nhân vật Hiền vương Nguyễn Phúc Tần, một trong những
vị Nam chúa được nói tới nhiều nhất trong Nam triều công nghiệp diễn chí,
Nguyễn Khoa Chiêm không chỉ làm hiện lên một vị chúa nhân đức, hết lòng vì
dân vì nước. Mà tác giả còn tập trung khắc họa chúa dưới góc độ một người
chồng, người cha có trách nhiệm, yêu thương con cái, một người chịu nhiều bất
hạnh trong cuộc đời.
Qua chi tiết, công tử Hiệp Đức thắng trận trở về, Hiền vương khôn giấu
được vui mừng và tự hào của một người cha trước con trai: “con ta quả là bậc
tướng tài, dương uy cõi Bắc,… Người xưa nói: “giống rồng sinh con rồng, hổ
phụ sinh hổ tử quả cũng không ngoa vậy” [9, tr. 575]. Và không khỏi đau đớn
xót xa tột cùng khi hai người con trai lần lượt qua đời. Tháng 6 năm 1675,
công tử Hiệp Đức bệnh nặng rồi mất. “Hiền vương đau xót ôm con, ngã vật
xuống giường gào khóc thảm thiết: Đau tiếc cho con ta tài đức đầy đủ, trug
hiếu vẹn toàn, xứng đáng là bậc anh hùng cái thế. Sao trời nhẫn tâm đoạt con
ta đi mau như thế?” [9, tr. 599]. Tháng 9 năm 1684, Đông cung thế tử Nguyễn
Phúc Diễn, người con mà Hiền vương muốn truyền ngôi, lâm bệnh và mất.
“Hiền vương gào khóc đau xót: Tiếc cho con trưởng của ta là người nhân từ
đại độ, biết thương yêu dân chúng, sắp ủy thác cho con nói nghiệp lớn của tổ
tiên, nắm giữ việc nước. Con nỡ nào phụ lòng ta mà đi!” [9, tr. 614].
Hay tình cảm sâu nặng của chúa dành cho Chu thị phu nhân cũng được
tác giả miêu tả rất chi tiết và chân thực. Chính phi của Hiền vương, sinh được
ba người con: con gái Nguyễn thị Nga chết sớm, Hiệp Đức và Phúc Mỹ hầu
đều đã qua đời, phu nhân buồn phiền ngày đêm thương khóc rồi cũng ốm
chết, thọ 60 tuổi. Hiền vương “ôm quàng lấy phu nhân mà khóc lớn: Đau xót
hiền khanh của ta, sau này có việc nhà ta biết nhờ cậy vào ai”, nói xong
thương khóc thảm thiết. Sau khi thái phu nhân mất, Hiền vương ngày đêm
thương nhớ, “từ khi thái phu nhân Chu thị qua đời, Hiền vương buồn rầu,
65
thương tiếc, mắt lệ ít khô, bữa ăn thường bỏ dở, đêm nằm vẫn đặt chung đôi
gối như khi thái phu nhân còn sống, các mỹ nhân trong cung không mấy khi
được gần” [9, tr. 615]
Thông qua việc miêu tả chi tiết về nhân vật Thuận Nghĩa Nguyễn Hữu
Dật vốn là một vị tướng tài năng quả cảm, hết lòng trung nghĩa, sát cánh cùng
với Chiêu Vũ Nguyễn Hữu Tiến để thực hiện sự nghiệp lớn của Nam triều.
Vậy mà cũng có lúc vì những hiềm khích cá nhân, thiếu sự tỉnh táo, sáng suốt
của một vị tướng. Đó là khi Chiêu Vũ ngày càng khiến chúa Nam tin tưởng vì
đã thể hiện lòng trung thành với chúa Nam bằng việc từ chối thư dụ của quân
Trịnh. Lại hêm việc Tộ Long từ Kinh đô vào báo tin cho Chiêu Vũ về tình hình
của cha con Ký Lục Hồ, mà không trực tiếp đến trình báo với Thuận Nghĩa,
khiến Thuận Nghĩa không vừa ý. Các tướng vì chuyện đó mà thêm chuyện, cho
rằng Chiêu Vũ tự ý quyền hành. Mặc dù, Chiêu Vũ có giải thích nhưng Thuận
Nghĩa bên ngoài vẫn nói lời tốt đẹp để giữ hòa khí “nhưng trong thâm tâm
càng thêm tức giận và nghi ngờ” [9, tr. 452], từ đó đã nảy sinh mối bất hòa và
có ý muốn lập mưu làm hại. Sự hiềm khích đã suýt khiến Chiêu Vũ và nhiều
binh lính phải bỏ mạng khi đối đầu với quân Trịnh, Thuận Nghĩa đã ngầm báo
cho các tướng rút quân về phía Nam mà không báo cho Chiêu Vũ biết. Để lại
Chiêu Vũ và số binh lính ít ỏi trước sự vây hãm của quân Trịnh, tuy nhiên nhờ
mưu trí Chiêu Vũ đã đánh lừa được quân Trịnh, bảo toàn tính mạng.
Khi miêu tả nhân vật, bên cạnh việc gắn liền với những diễn biến của
lịch sử thì những yếu tố đời tư, cá nhân đã góp phần làm cho các nhân vật hiện
lên toàn diện trong tác phẩm. Các nhân vật trong Nam triều công nghiệp diễn
chí không chỉ hiện lên là những con người của lịch sử mà họ còn là con người
của đời thường, gắn với những vui buồn của cuộc sống, họ không chỉ là những
con người mang vẻ đẹp tuyệt vời mà còn mang trong mình những trăn trở,
những suy tư, những hẹp hòi cá nhân, những bi kịch của số phận. Tác giả đi
sâu vào miêu tả cuộc sống riêng cá nhân của những con người cụ thể, thường là
66
những yếu tố không có thật trong lịch sử. Điều này có nghĩa là trong tác phẩm
có nhiều tình tiết, diễn biến trong cuộc đời nhân vật, cốt truyện đều rút ra từ thực tế lịch sử đương thời, nhưng cũng có nhiều chi tiết về đời tư cá nhân là do
sự hư cấu của tác giả, không hoàn toàn có thật hoặc không có thật trong lịch sử.
Qua những chi tiết tác giả miêu tả về cuộc sống cá nhân của một số
nhân vật, những chi tiết này có thật hay hư cấu điều đó không quan trọng
mà một điều quan trọng hơn cả là những chi tiết ấy đã được Nguyễn Khoa
Chiêm đưa vào tác phẩm của mình và làm nên điểm khác biệt giữa tác
phẩm này với các sách sử và tạo ra những hình tượng văn học thực thụ.
Nhân vật trong Nam triều công nghiệp diễn chí đã thực sự cho thấy một cái
nhìn đa diện đa chiều về con người của tác giả Nguyễn Khoa Chiêm, cái nhìn
ấy có dấu ấn của quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học hiện đại nói
chung và tiểu thuyết lịch sử nói riêng.
3.3.3. Sử dụng các yếu tố tâm linh
Văn học cũng muôn màu muôn vẻ như cuộc sống. Nhìn chung, cuộc
sống có cái gì, văn học cũng có cái đó. Tâm linh là một phần của cuộc sống
con người do vậy, phản ánh yếu tố tâm linh là điều thường thấy trong tác
phẩm văn học.
Tâm linh trong văn học gắn với ước mơ khát vọng cuộc sống hạnh phúc,
tốt đẹp, trường thọ, giàu có, mạnh mẽ, uy lực, khả năng vượt qua mọi trở lực,
vượt lên thế giới hữu hạn. Tuy nhiên, vị trí của yếu tố tâm linh trong văn học có
tính chất lịch sử. Vào thời cổ đại, trung đại, khi tư tưởng khai sáng chưa chiếu
rọi, yếu tố tâm linh chiếm địa vị chủ đạo, bởi tất cả mọi người đương thời chỉ
tồn tại trong thế giới tâm linh, mang giá trị tâm linh, được thể hiện trong diễn
ngôn tâm linh của thời đại. Nghiên cứu văn học trung đại mà bỏ qua diễn ngôn
tâm linh, bản thể tâm linh, chỉ giải thích hoàn toàn theo quan niệm chủ nghĩa
hiện thực, chủ nghĩa duy vật hiện đại là sự phiến diện và sai lầm lớn. Theo
Nguyễn Đặng Duy: "Tâm linh là cái thiêng riêng cao cả trong cuộc sống trần
67
thế, là niềm tin thiêng liêng trong đời sống tôn giáo, tín ngưỡng" [ Dẫn theo
15], như vậy có hai yếu tố quan trọng nhất là đức tin và sự linh thiêng. Tâm
linh là, thế giới của những mơ ước, khát khao và tưởng tượng, thế giới của
những hiện tượng văn hoá, thực tại xã hội, còn tồn tại lâu dài và mang tính
phổ biến toàn xã hội. Tâm linh gắn với các thế giới vô hình, siêu hình: thế
giới của những điều chưa biết, thế giới của truyền thuyết và thần thoại..
Tâm linh cũng được dùng theo nghĩa tín ngưỡng, có thể do các thuật ngữ
tiếng Anh spiritism (thông linh luận) hoặc spiritualism (duy linh luận), một
quan niệm xem hồn người chết có thể liên lạc với người sống qua giới đồng
cốt, về mặt khoa học, đó là giả thuyết cần bác bỏ.
Như vậy, tâm linh là khái niệm chỉ những hiện tượng liên quan đến linh
hồn của con người sau khi chết nên có tính huyền bí, mông lung dị thường mà
cũng linh ứng. Đó là sự tồn tại siêu hình của con người và trong một góc nhìn
nào đó còn cao hơn khái niệm đời sống tinh thần thực tại.
Tác phẩm Nam triều công nghiệp diễn chí của Nguyễn Khoa Chiêm bên
cạnh những giá trị chân thực lịch sử của từng sự kiện, nhân vật, luôn gây ấn
tượng mạnh với người đọc các yếu tố tâm linh, kì ảo.
Kỳ: là lạ lùng; ảo: cái không có thật. Từ đó có thể hiểu: cái kỳ ảo là cái
lạ lùng, không có thật, không thể bắt gặp trên thế gian này, nói chung là cái
siêu nhiên, huyền bí.
Việc sử dụng các yếu tố tâm linh, kỳ ảo cho tác phẩm, phải chăng tác giả
chịu ảnh hưởng của tác phẩm Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung, với
mục đích đưa các yếu tố hoang đường vào truyện để tăng thêm sự hấp dẫn và
tính tiểu thuyết cho tác phẩm.
Qua nghiên cứu và khảo sát tác phẩm Nam triều công nghiệp diễn chí,
chúng tôi đã thống kê lại số lần yếu tố tâm linh xuất hiện trong tác phẩm là hai
mươi chín, trong đó yếu tố tâm linh xuất hiện nhiều nhất ở quyển một và quyển
68
tám trong khi đó ở quyển hai, yếu tố tâm linh lại không xuất hiện.
Các yếu tố tâm linh được tác giả sử dụng dưới nhiều hình thức khác
nhau: khi là giấc mơ, giấc mộng của các nhân vật, khi lại gắn với các hiện
tượng thiên nhiên.
Chi tiết tâm linh xuất hiện đầu tiên trong tác phẩm là việc chúa Nguyễn
Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa, đánh dẹp nhà Mạc gây dựng nên Nam triều.
Lúc này quân đội còn ít, vũ khí thô sơ, chiến thuyền không nhiều, thế khó
chống cự, trong khi tướng nhà Mạc là quận Lập thì hùng mạnh. Vì vậy, chúa
Nguyễn Hoàng rất lo lắng, ngày đêm tìm phương kế để đối phó. Một đêm, chúa
đang đốt đuốc ngồi buồn, bỗng nghe bên bờ sông có tiếng dòng nước kêu vang
“Trảo trảo..” , chúa lấy làm lạ, bèn thầm khấn rằng: “Trên sông nếu có thần
linh xin phù hộ cho đánh tan quân giặc, sẽ xin lập miếu bốn mùa cúng thờ”.
Đêm ấy, chúa chiêm bao thấy một người đàn bà áo xanh tay cầm chiếc quạt the
đi đến thưa rằng: “Tướng quân muốn diệt trừ ngụy đảng cần lập kế dụ chúng
đến bãi cát bên sông, thiếp sẽ giúp sức trừ được, khỏi phiền nhiễu đến dân
trong miền” [9, tr. 28]. Chúa tỉnh dậy mới biết là nằm mộng, biết thần linh giúp
mình tất là sẽ thắng trong lòng hết sức vui mừng. Sau đó dựa vào giấc mộng,
Nguyễn Hoàng dùng kế mỹ nhân lừa diệt được quận Lập mà không hao binh
tổn tướng.
Hay sự tích xây chùa Thiên Mụ của chúa Nguyễn cũng mang nhiều yếu
tố tâm linh, kì ảo. Đó là một hôm chúa Nam đi du ngoạn các nơi núi non, sông
biển trong vùng, khi đi đến xã Hà Khê, huyện Hương Trà, thấy giữa chốn đồng
bằng nổi lên một gò cao dáng tựa như chiếc đầu rồng đang ngoái nhìn về phía
núi mẹ, Đoan Vương thấy làm ưa thích bèn trèo lên đồi cao ngắm nhìn khắp
xung quanh. Chợt thấy một đoạn hào đào cắt ngang dưới chân núi, chúa lấy
làm tiếc hỏi người dân địa phương thì được biết rằng khoảng đời Đường có
viên tướng đi khắp các nơi của nước ta xem nơi nào có vượng khí linh thiêng
thì cắt yểm đi. Đêm hôm ấy bỗng có một người đàn bà thể sắc trông còn trẻ
69
nhưng mày tóc bạc phơ, mình vận quần áo xanh ngồi dưới chân núi kêu gào
than vãn rồi cất tiếng nói to: “Đời sau nếu có bậc quốc chủ muốn bồi đắp mạch
núi để làm mạch cho Nam triều thì nên lập chùa thờ Phật, cầu xin linh khí trở
về núi này để phúc dân, giúp nước, tất không có gì phải lo” [9, tr. 84]. Người
đàn bà ấy nói xong thì biến mất, Chúa nghe thấy vậy mừng lắm vì biết đây là
lời thần linh báo điềm tốt cho việc gây dựng nên nghiệp lớn, sai người dựng
chùa Phật đặt tên là Thiên Mụ, từ đó dân chúng đến cầu khấn đều thấy linh
thiêng ứng nghiệm, cũng từ đó về sau, ta thấy dường như sự thịnh vượng đã về
với Nam triều. Những hiện tượng này, ta chưa thể lý giải được là có yếu tố thần
linh thật hay không, nhưng khi đưa chi tiết tâm linh, kì ảo vào tác phẩm, tác giả
đã có cách giải thích phù hợp với con người thời bấy giờ vốn rất tôn sùng thần
Phật. Và đây phải chăng cũng là cách giải thích cho sự thịnh trị, giàu mạnh mà
chúa Nguyễn Hoàng mang lại cho nhân dân xứ Đàng trong thời kỳ này.
Rồi chuyện về giấc chiêm bao của Chiêu Vũ Nguyễn Hữu Tiến câu cá
ngoài lũy Khu Độc và bài thơ của cụ già tóc trắng cũng như sự ứng nghiệm của
bài thơ ấy vào cuộc đời của vị tướng tài giỏi này góp phần giải thích yếu tố tâm
linh trong cuộc sống. Đó là việc, Chiêu Vũ sau ngày suy nghĩ mệt mỏi, tựa vào
thành ghế xem sách rồi chợp mắt thiu thiu ngủ, chiêm bao thấy mình đi câu cá
ngoài lũy Khu Độc, có con cá to cắn mồi, Chiêu Vũ giật dây liền hai lần, chỉ có
đầu nổi lên mặt nước còn đuôi thì vẫn chìm dưới sông. Bỗng lại có con cá lớn
khác bơi đến cắn đứt phần đuôi con cá mắc câu. Chiêu Vũ nghĩ mãi không biết
có cách gì bắt được, Chiêu Vũ ngoái đầu lại thấy một cụ già mày tóc bạc phơ,
râu dài quá rốn, mình khoác áo dài đạo sĩ màu xanh ung dung đĩnh đạc như
thần tiên đang đứng sau lưng mình. Lúc ấy, cụ già bèn đọc cho Chiêu Vũ một
bài thơ luật:
“Công danh đậu có thì
Tảng đá câu bên khe
Có đầu mà không cuối
70
Sử sách tên nửa ghi” [9, tr. 433].
Chiêu Vũ muốn đuổi theo hỏi cho rõ nghĩa nhưng cụ già đã đi xa rồi.
Tỉnh dậy, Chiêu Vũ suy nghĩ và đoán hiểu được ý nghĩa bài thơ và sự việc
mình đi câu cá như biết trước được tương lai con đường sự nghiệp của mình sẽ
dang dở, anh em bất hòa nên trong lòng lo nghĩ. Sau này, vì những nghi ngờ
giữa hai tướng Thuận Nghĩa và Chiêu Vũ mà sự nghiệp khôi phục trung đô
không thành, tướng Thuận Nghĩa dẫn quân về Nam bỏ lại Chiêu Vũ giữa sự
bao vây của quân Trịnh, tình thế hết sức hiểm nghèo. Trước hoàn cảnh này,
Chiêu Vũ đã ngửa mặt lên trời mà than rằng: “Chiêu Vũ tôi thờ chúa Nguyễn
chỉ biết lấy trung nghĩa, hòa ái làm đầu, đồng tâm hiệp lực cùng các tướng,
khó khăn cùng chia, ngọt bùi cùng hưởng. Ngờ đâu lại sinh ra sự bất hòa, anh
em mưu hại lẫn nhau, nếu muốn rút thì cùng rút quân về thì cứ nói thật, hẹn
ngày lên đường, Cớ sao lại để Chiêu Vũ này rớt lại giữa hang cọp” [9, tr. 473-
474]. Có thể nói giấc mơ câu cá và bài luật của cụ già tóc trắng hoàn toàn ứng
nghiệm khi tiên đoán về con đường công danh của Chiêu Vũ.
Hay câu chuyện về giấc mơ đi chơi núi Bồ Đà của công tử Hiệp Đức và
sự ứng nghiệm của giấc mơ đó vào chính cuộc đời của vị công tử tài giỏi này
cũng mang màu sắc tâm linh thần bí. Chuyện kể rằng công tử Hiệp Đức vốn là
một người mộ đạo hướng Phật, một hôm nằm mơ mình được đi dạo chơi ở núi
Bồ Đà ở Nam Hải cùng với các vị cao tăng, thiền sư và được một vị thiền sư
già ban cho một lời kệ, dặn hãy suy ngẫm cho kĩ và ghi nhớ trong lòng.
“Gọt tóc khai tâm trừ gai góc
Đài gương tuy sáng không ký ức
Của cải thành tro hóa bụi trần
Một trận gió tung ai lường trước” [9, tr. 596]
Tỉnh dậy, công tử nhớ lại bài kệ, cùng mọi người biện giải và thấy bài kệ
như báo trước số phận của mình, lòng không khỏi nỗi buồn. Tháng sáu năm ấy,
công tử mắc bệnh đậu mùa nặng và qua đời, trước khi mất còn khóc với cha là
71
Hiền Vương và nói rằng:“ Nay số trời đã hết, tự xét là ứng với lời kệ trong giấc
mộng năm xưa” [9, tr. 598]. Sau khi công tử Hiệp Đức mất, người ta mới hiểu
câu kệ: “Đĩnh trung minh kinh nguyên vô ức” nghĩa là: ngày rằm tháng sáu năm
nay công tử Hiệp Đức qua đời, bấy giờ người ta mới biết lời kệ thật huyền diệu,
ứng nghiệm không sai.
Ngoài ra, các yếu tố tâm linh xuất hiện trong một số hoàn cảnh khác như
sự việc xảy ra vào “năm Giáp Dần, niên hiệu Hoằng Định thứ mười lăm 1614,
mùa xuân, ngày hai mươi chín tháng hai là ngày giỗ vua Lê Thánh Tông. Bình
An vương Trịnh Tùng đang đứng làm lễ, chợt từ ngoài rèm có người bước vào,
liền lúc đó các cành hoa cắm trong ba lọ hoa đặt trên hương án không dưng
bỗng rơi xuống đất, bay vòng vòng rồi tung ra khắp nơi. Vương lấy làm lạ,
không biết có điềm gì gở không nhưng trong lòng cảm thấy rất buồn” [9, tr. 95].
Quả nhiên mùa thu, tháng hai thời tiết đại hạn, lúa má khô héo khiến cho trăm
họ sầu khổ, lòng dân oán thán. Thêm vào mùa đông năm ấy có sấm bất
thường kêu chuyển động cả trời đất, ai đấy đều lo lắng, có thể coi là điềm xấu
báo trước.
Hàng loạt các sự kiện xảy ra như “ năm Đinh Sửu, niên hiệu Dương Hòa
thứ ba 1637, tháng hai núi Tản Viên vô cớ bị sạt lở một góc dài hơn hai mươi
trượng, sâu chừng ba thước”, “tháng tư có ngôi sao băng to như chiếc đuôi
trâu dài hơn mười trượng, lướt từ đông sang phía tây, tiếng kêu rít như sấm
động” [9, tr. 207] và sau các hiện tượng trên thì tháng bảy thứ phi của Thanh
Đô vương là Tô thị chết.
Như vậy, khi miêu tả các nhân vật trong tác phẩm Nam triều công
nghiệp diễn chí, tác giả Nguyễn Khoa Chiêm bên cạnh việc miêu tả các chi
tiết gắn với cuộc sống đời thực đã có sự đan xen, cài đặt vào cuộc đời, hoàn
cảnh của các nhân vật nhiều yếu tố kì ảo mang màu sắc tâm linh huyền bí.
Đây thực ra không phải điều mới lạ trong các tác phẩm tiểu thuyết lịch sử,
bởi trước đó các nhà văn Trung Quốc đã sử dụng yếu tố này. Ở Việt Nam,
72
Nguyễn Dữ cũng vận dụng các yếu tố kì ảo, tâm linh vào trong tác phẩm
Truyền kỳ mạn lục. Tuy nhiên, khi vận dụng vào trong truyện, tác giả
Nguyễn Khoa Chiêm đã có cách xử lí riêng, tạo ra sự độc đáo và hấp dẫn
cho tác phẩm Nam triều công nghiệp diễn chí.
Về việc vận dụng các yếu tố tâm linh trong Nam triều công nghiệp diễn
chí, ta có thể giải thích được, trước hết người Việt từ thủa xa xưa đến ngày nay
đều vốn tôn sùng đạo Phật và có đời sống tâm linh phong phú. Điều này thể
hiện ở việc các dân tộc trên đất nước Việt Nam thờ rất nhiều thần linh, đó có
thể là các hiện tượng tự nhiên như thần Sông, thần Núi cho đến các vị Thành
Hoàng làng, Thổ công, Thổ địa… và cuộc sống con người ta chịu sự chi phối
bởi các yếu tố tâm linh thần bí chưa thể giải thích được. Cũng bởi nguyên nhân
ấy mà chính tác giả cũng chịu ảnh hưởng của cách nhìn tôn giáo. Bởi vậy, trong
tác phẩm, tác giả đã nhiều lần nói đến các vị thần tiên trong các giấc mộng của
các nhân vật giữ vai trò lãnh đạo nhằm báo trước một sự việc sắp xảy ra hoặc
trợ giúp họ vượt qua khó khăn giành thắng lợi như việc chúa Nguyễn Hoàng
được thần linh giúp đỡ đánh dẹp quận Lập nhà Mạc, hay tướng Chiêu Vũ được
báo mộng về con đường công danh, công tử Hiệp Đức được các vị thiền sư cho
bài kệ báo trước số mệnh…
Nam triều công nghiệp diễn chí, là một tác phẩm văn học mang tính lịch
sử nhưng tác giả Nguyễn Khoa Chiêm đã đưa thêm vào trong đó nhiều yếu tố
hư cấu mang tính chất hoang đường, kì ảo đậm màu sắc tâm linh nhằm tạo cho
tác phẩm chất tiểu thuyết đậm hơn một tác phẩm lịch sử thông thường, đồng
thời cũng qua đó phản ánh sinh động đời sống tâm linh của người Việt thời kỳ
này. Chính sự xuất hiện của các yếu tố hư cấu, hoang đường này đã tạo nên sự
hấp dẫn, cuốn hút người đọc vào câu chuyện vốn mang không khí lịch sử của
Nam triều công nghiệp diễn chí.
Bằng cách viết riêng, sự sáng tạo độc đáo trong việc vận dụng các yếu tố
thần bí, siêu nhiên, Nguyễn Khoa Chiêm đã mang tới cho người đọc một câu
73
chuyện lịch sử bằng văn hết sức đáng ngợi ca.
3.3.4. Sử dụng các yếu tố huyền thoại
Khái niệm “huyền thoại” (myth) có nguồn gốc từ tiếng Hi Lạp là muthos,
muthos có nghĩa đen là lời, lời nói, câu chuyện, là truyền thuyết, truyền thoại.
Trong khoa học về huyền thoại, huyền thoại thường được định nghĩa là những
truyện kể thiêng liêng, giải thích thế giới và con người đã hình thành và có
được dạng tồn tại hiện nay như thế nào. Huyền thoại theo nghĩa đó thường
được hiểu là những chuyện về các vị thần, các nhân vật được sùng bái hoặc có
quan hệ nguồn gốc với các vị thần, về các thế hệ xuất hiện trong thời gian ban
đầu (thời gian khởi nguyên), tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào việc tạo lập
thế giới cũng như việc tạo lập nên những nhân tố của nó - thiên nhiên và văn
hóa. Ngoài từ huyền thoại (myth) được hiểu theo nghĩa trên đây, còn có từ
huyền thoại (mythology) được dùng để chỉ tổng thể các câu chuyện hoang
đường về thế giới.
Trong quá trình nghiên cứu về thi pháp huyền thoại, người ta cũng đã chỉ
ra việc xác định các chủ đề, đề tài - cốt truyện huyền thoại, việc xác định và
miêu tả các nhân vật (các nhân vật bậc tiên tổ, đấng sáng tạo, anh hùng văn
hóa…), việc xác định thời gian…. Yếu tố huyền thoại đã trở thành một phương
thức nghệ thuật trong quá trình sáng tác, đặc biệt là đối với thể loại tiểu thuyết
mang yếu tố hư cấu.
Còn theo cách hiểu phổ biến, huyền thoại là những sáng tác không tưởng
từ xưa đến nay, những hiện tượng văn học mang tính chất của những sáng tác
văn hóa dân gian thời cổ. Huyền thoại chính là sản phẩm của kiểu tư duy cổ
xưa nguyên thủy nhất của nhân loại: tư duy huyền thoại. Ở hình thức có tính
tưởng tượng, huyễn hoặc và kì diệu, huyền thoại là một yếu tố có sức sống lâu
bền trong văn chương xưa nay. Ở thời cổ đại, huyền thoại là phương tiện nhận
thức thế giới, là phương tiện biểu đạt tình cảm, suy nghĩ, ước mơ, nguyện vọng
của con người. Đây chính là mối liên hệ giữa yếu tố văn hóa tâm linh với yếu tố
74
huyền thoại trong văn học, thể hiện đời sống tâm linh con người trung đại. Văn
xuôi thời kỳ này do đó chứa đựng trong nó khá nhiều yếu tố huyễn hoặc, siêu
nhiên, hoang đường.
Trong Nam triều công nghiệp diễn chí của Nguyễn Khoa Chiêm, ta thấy
yếu tố huyền thoại xuất hiện trong quá trình miêu tả các nhân vật, tác giả sử
dụng yếu tố này nhằm tôn vinh các nhân vật giữ vị trí lãnh đạo, thủ lĩnh trong
tác phẩm. Tiến hành nghiên cứu và khảo sát, chúng tôi thống kê được:một số
yếu tố huyền thoại xuất hiện trong tác phẩm.
Tác giả Nguyễn Khoa Chiêm, trong Nam triều công nghiệp diễn chí đã
tập trung đặc tả các nhân vật vua chúa, những nhân vật có công gây dựng nên
các triều đại như: Nguyễn - Trịnh. Trong đó nhiều nhân vật được thần thánh
hóa, một số nhân vật trở nên siêu phàm: từ hình dáng, tầm vóc, hành động cho
đến tài năng.
Các vị chúa Nguyễn, tiêu biểu như chúa tiên Nguyễn Hoàng được huyền
thoại hóa qua những hành động cụ thể trong những việc làm mang đến sự ấm
no, giầu mạnh cho Đàng Trong: chúa “ban phát ân đức, chiêu vỗ muôn dân,
thân yêu trăm họ”, “rộng ban ơn đức, thương yêu dân chúng, chậm bữa ăn để
đón người hiền quy phục, hào kiệt đến theo” [9, tr. 37]. Hay Chúa sai sửa sang
thành trì, thi hành nhân chính để vỗ về dân chúng làm cho “trăm họ yên bình,
muôn dân vui mừng thần phục”. “Từ đó Nguyễn Hoàng rộng ban ân đức, thu
phục cố kết lòng người” cho nên “anh hùng hào kiệt các nơi theo về giúp rập.
Trong cõi mưa thuận gió hòa, mùa màng lúa tốt, trăm họ vui ca, cho là đời
thái bình” [9, tr. 77,83]. Một vị chúa Nguyễn khác là Sái vương cũng được
miêu tả : “Sãi Vương cai quản binh dân hai xứ, rộng ban ân đức, thu phục
nhân tâm” khiến cho “bốn phương tám hướng đều chầu cận, con dân trăm
họ đều hoan hỉ vui ca” [9, tr. 94]. Hay tới đời chúa Thượng Vương cũng được
ngợi ca: “Thượng Vương từ khi mới ngồi cai trị trong miền, gần xa rộng ban ân
đức, đối xử với các tướng thân tình như anh em, thương yêu dân chúng như con
75
đỏ, nhẹ phu dịch, ít thuế khóa, thận trong ngục tụng, thương xót hình phạt” vì
vậy “thời bấy giờ trở nên thịnh trị” [9, tr. 202]. Chúa Hiền cũng được tác giả
miêu tả: “xét nghĩ chúa Hiền ở Nam triều từ khi lên ngôi năm 1648 đã phát
binh đánh đồn Tam Hiệu, lấy Dinh Cầu, giết Hàn Tiến, đuổi Quận Đông,
chiếm giữ miền sông Lam ở Nghệ An, thu phục được bảy tám châu huyện, anh
hùng hào kiệt theo về nhiều không kể xiết” [9, tr. 221].
Khi huyền thoại hóa các vị chúa Nam triều, tác giả đã sử dụng yếu tố
ngôn ngữ phóng đại để khắc họa các bậc đế vương qua đó gián tiếp ca ngợi tài
năng, đức độ, cũng như công lao to lớn của các vị chúa đối với nhân dân “anh
hùng quy phục, hào kiệt đến theo, dân chúng vui mừng thuần phục, đời sống
thái bình thịnh trị”.Những việc làm của họ không chỉ thu phục lòng người, mà
có các yêu tố liên quan, ảnh hưởng tới tự nhiên như “ mưa thuận gió hòa, mùa
màng tốt tươi”.
Hay khi miêu tả Phùng Khắc Khoan, tác giả đã huyền thoại hóa nhân vật
qua tài năng, trí tuệ siêu phàm, “bẩm tính thông minh sáng trí, hiểu biết hơn
người, có tài năng của Gia Cát, Lưu Cơ, có sức học của Nhan, Tăng, Mạnh,
Tử. Văn chương nhất đời, mưu lược hơn người, đáng là bậc trạng nguyên một
thời” [9, tr.66].
Ngoài ra, sự xuất hiện của Thuận Nghĩa Nguyễn Hữu Tiến được tác giả
sử dụng phương thức huyền thoại hóa thông qua giấc chiêm bao có gắn với
điển tích cổ xưa, đó là Lộc Khê hầu khi đang suy tính việc thu phục kinh đô
nhưng chưa được vẹn toàn, do mệt mỏi đã thiếp đi trên ghế. Trong giấc mơ
thấy khi mọi người đang tụ họp đông ở phía trước bàn binh giảng võ, dàn đặt
thế trận. “ Bỗng thấy một con hổ đen từ phía Nam nhảy vào trước sân lắc đầu
vẫy đuôi, giơ nanh vuốt rồi nhảy vào trong nhà ôm lấy chiếc cột trụ thứ ba, đầu
rướn lên trên, đuôi thõng xuống dưới. Lộc Khê hoảng hốt vội gọi quân lính ra
vây đánh. Bỗng nhiên con hổ đen từ hai bên nách mọc ra hai cánh rồi bay vút
lên trời về phía đông nam gầm vang như sấm” [9, tr.170]. Tỉnh dậy, Lộc Khê
76
nửa lo, nửa mừng suy nghĩ hồi lâu, Lộc Khê cho rằng thời xưa vua Tề Hoàn
Công, Tần Văn Công chiêm bao thấy con hùng con bi mà về sau có người hiền
tài tìm đến giúp làm nên nghiệp bá. Nay chiêm bao thấy con hổ mọc cánh bò
trườn rồi bay lên không, ắt cũng sẽ có kẻ hiền tài đến tìm mình để phò tá chúa
thượng thống ngự cơ đồ to lớn.
Và giấc chiêm bao này đã trở thành hiện thực khi có sự xuất hiện của
Nguyễn Hữu Tiến. Lộc Khê ngồi chờ đến giờ Tị thì thấy “từ phía nam có một
người thân thể tráng kiện, mặc áo đen đã sờn rách, tay cầm chiếc quạt lông
bước vào trước sân khẽ giọng xin xin chầu chẩn cấp cứu trợ”. Lộc Khê thấy
người anh hùng lẫm lẫm, tướng mạo đường đường, phong độ tư thế vượt khác
người thường, lại có sức mạnh dời núi nâng vạc, trong dạ rất mừng. Khi hỏi về
thân thế biết người đó “họ Nguyễn tên Tiến, biểu danh là Thuận Nghĩa, sinh
năm Nhâm Dần”, trong lòng nửa thương nửa mừng, bèn mời lên sảnh đường, “
Thuận Nghĩa bước lên sảnh thì đến bên chiếc cột thứ ba thì vòng tay ôm cột mà
đứng, một lúc sau Thuận Nghĩa nhìn về hướng đông nam mà đi ra” [9, tr.172].
Thấy dáng người và tướng mạo, cử chỉ người ấy ứng đúng như giấc mộng đêm
qua, Lộc Khê cả mừng, bèn gọi vào lưu lại nuôi dưỡng trong nhà. Tác giả qua
cách giới thiệu sự xuất hiện đậm chất huyền ảo, kỳ lạ của nhân vật, không chỉ
lôi cuốn người đọc vào câu chuyện, đặc biệt hơn còn thể hiện tài năng sáng tạo
nghệ thuật của mình.
Nhân vật Chiêu Vũ Nguyễn Hữu Dật, trong tác phẩm được tác giả sử
dụng yếu tố thần hóa khi miêu tả vẻ bề ngoài để làm toát lên phong thái uy
nghi, hùng dũng của nhân vật, khiến cho nhân vật được mang đậm màu sắc
thần thoại . Ví dụ như trong trận đánh truy đuổi Hàn Tiến, đến gò Đá Trắng sắp
qua Eo Gió, khi Hàn Tiến đang ngạo mạn vì không thấy bóng dáng quân Nam
mai phục, thì từ trên núi thấy một viên đại tướng xông ra: “người ấy mình hạc,
râu rồng, mày lân, mắt phượng, phong thái hùng mạnh đang vẫy quân đổ ào ào
xuống” [9, tr. 248]. Qua hình ảnh mang đậm dấu ấn của một vị thần, của một
77
viên tướng hàng đầu Nam triều, tác giả như đưa người đọc bước vào không khí
cổ xưa, thủa hồng hoang, nơi các vị thần đang thống lĩnh mặt đất. Đồng thời
gián tiếp ngợi ca vẻ đẹp hình thức cũng như tài năng của nhân vật.
Việc tác giả đưa các yếu tố huyền thoại vào tác phẩm phải chăng là sự kế
thừa và sáng tạo các tinh hoa văn hóa thủa xa xưa của dân tộc qua các sáng tác
trong sử thi, truyền thuyết về các bậc anh hùng, những người có công trong
buổi khai thiên lập địa. Qua các chi tiết mang màu sắc huyền ảo, huyền thoại,
các nhân vật hiện lên thật kỳ vĩ và hùng tráng về hình thức, anh dũng và tài
năng , họ là những con người có thật trong lịch sử nhưng mang những dấu ấn
khó phai trong lòng người đọc. Các chi tiết sáng tạo này của tác giả khiến cho
tác phẩm, không thuần túy là một tác phẩm lịch sử, kể về các nhân vật trong
lịch sử, mà đặc biệt hơn sự huyền ảo khiến cho tác phẩm thêm phần li kì và lôi
cuốn, đưa tác phẩm lên một tầm cao mới, mang những nét mới trên cơ sở kế
thừa những giá trị nghệ thuật truyền thống.
3.4. Tiểu kết
Nam triều công nghiệp diễn chí, tác phẩm có ý nghĩa đánh dấu sự mở
đầu của nền tiểu thuyết chương hồi Việt Nam, đã vận dụng yếu tố hư cấu như
một thủ pháp nghệ thuật đặc trưng trong sáng tác của mình.
Nguyễn Khoa Chiêm không chỉ tái hiện lại những nhân vật lịch sử, mà
ông còn cho người đọc thấy những nét riêng khác biệt giữa chính sử và ngoài
đời thực. Với hơn bốn trăm nhân vật từ vua chúa cho tới các vị tướng lĩnh
,quân lính và người dân. Bên cạnh việc tôn trọng lịch sử khi ông vẫn bảo toàn
những sự kiện chính, những yếu tố đã được sử sách ghi chép lại, Nguyễn Khoa
Chiêm còn mang đến sự hấp dẫn khi chỉ ra những nét khác biệt trong bút pháp
miêu tả nhân vật. Nhiều nhân vật được miêu tả không hoàn toàn giống với lịch
sử, họ được hư cấu về năm sinh năm mất, đặc biệt là khi miêu tả cảm xúc, tâm
trạng của các nhân vật trong cuộc sống đời thường, tác giả đã để họ hiện lên
với đủ các cung bậc cảm xúc vui buồn, yêu ghét, nghi ngờ, đố kị. Những bậc
78
vua chúa bên cạnh vẻ bề ngoài oai nghiêm hùng dũng nhưng vẫn ẩn chứa tình
cảm riêng tư, sâu đậm cho gia đình và người thân. Các vị tướng sĩ không chỉ
đồng tâm hiệp lực vì đại nghiệp mà còn có cả nghi ngờ, đố kị lẫn nhau…. Tác
giả sử dụng khá nhiều những trang viết khi nói về sự khác biệt của các nhân vật
khi so sánh với lịch sử đương thời. Đây chính là một yếu tố mới của tác phẩm
Nam triều công nghiệp diễn chí, làm nên sức hấp dẫn của tác phẩm.
Ngoài ra, để tạo sự đặc sắc và dấu ấn riêng cho Nam triều công nghiệp
diễn chí, Nguyễn Khoa Chiêm đã mang vào tác phẩm yếu tố tâm linh. Tác giả
không chỉ trực tiếp mượn yếu tố tâm linh để nói về sự xuất hiện hay lí giải cho
số phận của một số nhân vật mà còn qua yếu tố này thể hiện thái độ tư tưởng
của tác giả về cuộc sống, gián tiếp thể hiện tình cảm với các nhân vật và cả cái
nhìn của riêng ông với một thời đại.
Các yếu tố huyền thoại thông qua cách nói phóng đại, khoa trương của
tác giả khi xây dựng nhân vật không chỉ khắc họa sâu trong tâm trí người đọc
về hình ảnh các nhân vật, mà còn lôi cuốn, hấp dẫn người đọc, kích thích độc
giả đi sâu tìm hiểu và khám phá tác phẩm. Yếu tố huyền thoại được sử dụng khi
nói về các vị vua chúa, các vị tướng lĩnh có tần số nhiều hơn cả. Khiến cho
những sự kiện lịch sử thêm phần mềm mại, uyển chuyển, các nhân vật vừa có
sự chân thực vừa mang màu sắc phi thường, kì ảo.
Tóm lại qua sự khác biệt giữa các nhân vật trong lịch sử và ngoài đời
thực, kết hợp với tính chất kỳ lạ, siêu nhiên, mang sắc điệu thần kỳ, huyền ảo
trong bút pháp hư cấu thể hiện thế giới quan thần linh và chất huyền thoại, các
yếu tố văn hóa tâm linh thực sự trở thành yếu tố quan trọng tạo nên tư tưởng và
nghệ thuật đặc sắc cho tác. Nhờ yếu tố thần kỳ của văn hóa tâm linh, sự kỳ ảo
huyền thoại mà tác phẩm và tác giả có khả năng thể hiện tư tưởng, khái quát,
đánh giá và nhận thức cuộc sống, con người ở nhiều mặt khác nhau. Đồng thời
qua việc vận dụng các yếu tố hư cấu vào tác phẩm, tác giả còn góp phần vào xu
hướng văn học của thời đại, đưa người đọc đến những trải nghiệm thẩm mĩ mới
79
mẻ. Do vậy, chính nghệ thuật hư cấu trong xây dựng nhân vật của Nam triều
công nghiệp diễn chí là nhân tố cơ bản và quan trọng nhất tạo ra giá trị lớn của
tác phẩm này.
Tìm hiểu nghệ thuật hư cấu trong nghệ thuật xây dựng nhân vật của Nam
triều công nghiệp diễn chí, chúng tôi nhận thấy tuy tác giả Nguyễn Khoa
Chiêm chưa đạt tới nghệ thuật xuất sắc như các tác giả Ngô gia sau này,nhưng
ông đã thực sự tạo ra những nguyên tắc chung trong nghệ thuật hư cấu nhân vật
gắn liền với những đặc trưng của văn học trung đại Việt Nam. Nguyễn Khoa
Chiêm xứng đáng là tiểu thuyết mở đầu cho thể loại tiểu thuyết chương hồi ở
80
nước ta.
KẾT LUẬN
Tác phẩm Nam triều công nghiệp diễn chí của Nguyễn Khoa Chiêm là
một trong những tác phẩm có ý nghĩa với nền văn học trung đại nói riêng và
nền văn học Việt Nam nói chung. Đây là tác phẩm mở đầu cho nền tiểu thuyết
lịch sử chương hồi của Việt Nam. Trên cơ sở kế thừa và phát huy thành tựu của
các nhà nghiên cứu đi trước, luận văn của chúng tôi đã nỗ lực, cố gắng đi sâu
tìm hiểu và nghiên cứu về tác phẩm. Trong phạm vi giới hạn của luận văn,
người viết chủ yếu tập trung vào nghệ thuật xây dựng cốt truyện và nghệ thuật
xây dựng nhân vật của tác phẩm. Qua bước đầu khảo sát và nghiên cứu chúng
tôi rút ra một số kết luận chính như sau:
Tác phẩm Nam triều công nghiệp diễn chí của Nguyễn Khoa Chiêm ra
đời năm 1719, là tác phẩm phản ánh lịch sử dân tộc và được viết theo kết cấu
chương hồi. Tác phẩm không chỉ là kết tinh của quá trình phát triển lâu dài của
nền văn xuôi trung đại và sự tiếp thu ảnh hưởng của nền tiểu thuyết chương hồi
Trung Quốc đã đạt đến đỉnh cao. Đặc biệt, Nam triều công nghiệp diễn chí còn
là sự kết tinh tài năng, tâm huyết và vốn sống của Nguyễn Khoa Chiêm. Xét cả
về nội dung và hình thức thì đây là cuốn tiểu thuyết lịch sử - chương hồi đầu
tiên của Việt Nam, có ý nghĩa khai sinh cho nền tiểu thuyết trong tiến trình phát
triển của văn học dân tộc Việt Nam.
Một trong những thành công của tác phẩm Nam triều công nghiệp diễn
chí ,chính là nghệ thuật xây dựng cốt truyện. Tác giả đã xây dựng cốt truyện có
dung lượng lớn, bao gồm tám quyển phân bổ trong 632 trang (bản dịch), phản
ánh lại một cách chân thực mà không kém phần sinh động về một giai đoạn lịch
sử đầy biến động của đất nước những năm cuối thế kỷ XVI đến thế kỷ XVII.
Tác giả không chỉ xây dựng cốt truyện theo nguyên tắc chung của tiểu thuyết
chương hồi mà còn vận dụng, sáng tạo những yếu tố mới để cốt truyện thêm
81
phần hấp dẫn, lôi cuốn người đọc.
Trong Nam triều công nghiệp diễn chí, Nguyễn Khoa Chiêm tập trung
xây dựng cốt truyện theo thời gian tuyến tính, nhằm miêu tả lại bức tranh lịch
sử xã hội với các sự kiện lịch sử theo trình tự thời gian trước sau, đảm bảo tính
chân thực, cụ thể cho tác phẩm. Bên cạnh đó, tác giả còn kết hợp với nghệ thuật
xây dựng cốt truyện theo tính chất đồng hiện, để tái hiện các sự kiện lịch sử
trong cùng một khoảng thời gian, đảm bảo cho các sự kiện được miêu tả chi
tiết, rõ ràng góp phần giúp người đọc dễ dàng theo dõi diễn biến của câu
chuyện. Đặc biệt tác giả đã sử dụng nghệ thuật đặc tả các biến cố góp phần
nhấn mạnh vào các sự kiện quan trọng, các chi tiết đắt giá khiến cho câu
chuyện vừa đảm bảo sự thống nhất về hình thức mà hấp dẫn về nội dung.
Bên cạnh đó, tác giả cũng rất chú ý và dành nhiều tâm huyết trong nghệ
thuật xây dựng nhân vật. Hơn bốn trăm nhân vật trong Nam triều công nghiệp
diễn chí từ vua chúa, quan lại, tướng sĩ cho đến nhân dân đều là những nhân
vật có thật ở ngoài đời, đã được tác giả đưa vào tiểu thuyết khiến cho tác phẩm
có giá trị lớn về mặt lịch sử . Các nhân vật vừa đảm bảo tính chân thực và tôn
trọng lịch sử, đồng thời cũng mang những dấu ấn riêng trong sáng tạo nghệ
thuật của Nguyễn Khoa Chiêm. Tác giả đã vận dụng những nguyên tắc chung
khi xây dựng nhân vật của văn học trung đại đó là bút pháp tả thực, đồng thời
cũng tạo những nét độc đáo riêng trong việc dụng các thủ pháp. Một trong
những nhân tố góp phần tạo nên sự lôi cuốn, thu hút của Nam triều công nghiệp
diễn chí là do Nguyễn Khoa Chiêm đã vận dụng bút pháp hư cấu trong xây
dựng nhân vật. Các nhân vật trong tác phẩm không chỉ là những con người có
thực trong lịch sử, mà dưới ngòi bút tài hoa, sáng tạo của Nguyễn Khoa Chiêm,
họ còn mang những dấu ấn riêng với những nét khác biệt so với sử sách. Chính
sự mới lạ trong nghệ thuật xây dựng nhân vật của tác giả đã góp phần tạo ra
được những dấu ấn tiến bộ, có nét gần với văn học hiện đại của tác phẩm.
Ngoài ra sự đan xen giữa những nhân vật có thực, các sự kiện có thực với
82
những yếu tố tâm linh, chi tiết kì ảo, huyền bí khiến cho Nam triều công nghiệp
diễn chí không chỉ đậm tính sử mà còn đậm chất văn, làm nên sự đặc sắc của
tác phẩm. Tìm hiểu nghệ thuật xây dựng nhân vật trong Nam triều công nghiệp
diễn chí, chúng tôi nhận thấy tuy Nguyễn Khoa Chiêm vẫn không đi chệch ra
ngoài những nguyên tắc nghệ thuật của văn học trung đại nhưng ông vẫn có
cách thể hiện riêng, những đóng góp đặc sắc về thủ pháp và biện pháp nghệ
thuật. Vì vậy, thế giới nhân vật trong Nam triều công nghiệp diễn chí vừa là
những nhân vật mang dấu ấn của lịch sử đồng thời lại là những nhân vật đậm
chất văn chương. Người đọc không chỉ hiểu rõ, hiểu sâu về lịch sử đất nước
trong một giai đoạn đầy biến động mà còn được bước vào một thế giới đặc biệt
với những con người cụ thể và sinh động, những hình tượng nghệ thuật ám ảnh
lòng người.
Ra đời cách đây gần ba thế kỷ, tác phẩm đến nay không còn giữ được
nguyên vẹn như ban đầu, nội dung có những phần bị cắt xén, phần được thêm
vào. Tuy nhiên, Nam triều công nghiệp diễn chí vẫn cho thấy những giá trị đặc
sắc vốn có của nó. Một trong những giá trị đặc sắc của tác phẩm là nghệ thuật
xây dựng cốt truyện và nghệ thuật xây dựng nhân vật của Nguyễn Khoa Chiêm.
Đây chính là yếu tố giúp tác phẩm Nam triều công nghiệp diễn chí của Nguyễn
Khoa Chiêm xứng đáng là một tác phẩm đặt nền móng cho sự phát triển của tiểu
83
thuyết chương hồi nói riêng và nền tiểu thuyết Việt Nam nói chung.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lại Nguyên Ân (2003), 150 thuật ngữ văn học (Tái bản), Nxb Đại học
Quốc gia, Hà Nội.
2. Lại Nguyên Ân, Bùi Văn Trọng Cường (1995), Từ điển văn học Việt Nam
- từ nguồn gốc đến hết thế kỷ XIX, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
3. M. Bakhtin (2003), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết (Phạm Vĩnh Cư tuyển
chọn và dịch), Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
4. Phạm Tú Châu (1981), “Đọc văn bản Hoàng Lê nhất thống chí”, Tạp chí
Văn học, số 2.
5. Phạm Tú Châu (1997), Hoàng Lê nhất thống chí - văn bản, tác giả và
nhân vật, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
6. Nguyễn Huệ Chi (2002), “Con đường giao tiếp văn học cổ trung đại Việt
Nam trong mối liên hệ khu vực”, Tạp chí Văn học, số 5.
7. Nguyễn Huệ Chi (2003), “Mấy đặc trưng loại biệt của văn học Việt Nam
từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX”, Tạp chí văn học, số 3.
8. Nguyễn Huệ Chi, Vũ Thanh (1996), “Những đóng góp của Nguyễn Tử
Siêu cho loại hình tiểu thuyết lịch sử giai đoạn đầu thế kỷ”, Tạp chí Văn
học, số 5.
9. Nguyễn Khoa Chiêm (1994), Nam triều công nghiệp diễn chí (Ngô Đức
Thọ - Nguyễn Thúy Nga giới thiệu, dịch và chú thích), Nxb Hội Nhà văn,
Hà Nội.
10. Nguyễn Đình Chú (2002), “Hiện tượng Văn - Sử - Triết bất phân trong
văn học Việt Nam thời trung đại”, Tạp chí Văn học, số 5.
11. Quỳnh Cư, Đỗ Đức Hùng (2006), Các triều đại Việt Nam, Nxb Thanh
Niên, Hà Nội.
12. Nguyễn Văn Dân (2004), Phương pháp nghiên cứu văn học, Nxb Khoa
84
học xã hội, Hà Nội.
13. Đỗ Đức Dục (1968), Tính cách điển hình trong Hoàng Lê nhất thống chí,
Tạp chí Văn học, số 4.
14. Đinh Xuân Dũng (2004), Mối quan hệ giữa văn hóa và văn học, Nxb
Chính trị quốc gia.
15. Nguyễn Đăng Duy (2002), Văn hóa tâm linh, Nxb Văn hóa thông tin.
16. Trần Xuân Đề (2001), Tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
17. Hà Minh Đức (1971), Nhà văn và tác phẩm văn học, Nxb Giáo Dục,
Hà Nội.
18. Hà Minh Đức (Chủ biên) (2001), Những vấn đề lý luận và lịch sử văn học,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
19. Hà Minh Đức (2006), Lý luận văn học, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
20. Trần Thanh Giao (2009) - “Thuyết hư cấu lịch sử” - Báo Văn nghệ số 32.
21. Vũ Thanh Hà (2005), “Hoàng Lê nhất thống chí và thể loại tiểu thuyết
chương hồi trong văn học trung đại Việt Nam”, Tạp chí Văn học, số 6
22. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (chủ biên) (2007), Từ điển
thuật ngữ văn học (tái bản), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
23. Hoàng Xuân Hãn (1974), Đúng 300 năm trước, in trong tập san Sử Địa,
Sài Gòn, số 26.
24. Đỗ Đức Hiểu - Nguyễn Huệ Chi - Phùng Văn Tửu - Trần Hữu Tá (Đồng
chủ biên) (2004), Từ điển văn học (bộ mới), Nxb Thế giới, Hà Nội.
25. Nguyễn Xuân Hòa (1998), Ảnh hưởng của tiểu thuyết cổ Trung Quốc đến
tiểu thuyết cổ Việt Nam, Nxb Thuận Hóa.
26. Nguyễn Văn Hoàn (1973), “Phong trào khởi nghĩa nông dân và văn học
Việt Nam thế kỉ XVIII và nửa đầu thế kỉ XIX”, Tạp chí Văn học, số 4.
27. Phan Khoang (2001), Việt sử xứ Đàng Trong, Nxb Văn học.
28. Trần Trọng Kim (2002), Việt Nam sử lược, (tái bản), Nxb Văn hóa thông tin,
85
Hà Nội.
29. Ngô Sỹ Liên (1998), Đại Việt sử ký toàn thư, Tập 1 (Hoàng Văn Lâu, Ngô
Thế Long dịch và chú thích), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
30. Ngô Sỹ Liên (1998), Đại Việt sử ký toàn thư, Tập 2 (Hoàng Văn Lâu, Ngô
Thế Long dịch và chú thích), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
31. Ngô Sỹ Liên (1998), Đại Việt sử ký toàn thư, Tập 3 (Hoàng Văn Lâu, Ngô
Thế Long dịch và chú thích), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
32. Nguyễn Lộc (1997), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII đến hết thế
kỷ XIX (tái bản), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
33. Bùi Văn Lợi (1990), “Mối quan hệ giữa tính chân thực lịch sử và hư cấu
nghệ thuật trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX”, Tạp chí
Văn học, số 9.
34. Phương Lựu (2002), Góp phần xác lập hệ thống quan niệm văn học Việt
Nam trung đại, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
35. Phương Lựu (chủ biên) (2002), Lí luận văn học, Tập 1, Nxb Đại học Sư
phạm, Hà Nội.
36. Phương Lựu (2005), Lí luận văn học cổ điển phương Đông, Tập 1, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
37. Phương Lựu, Nguyễn Xuân Nam, Thành Thế Thái Bình (1988), Lý luận
văn học, Tập 3, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
38. Đặng Thai Mai (1961), “Mối quan hệ lâu đời và mật thiết giữa văn học
Việt Nam và văn học Trung Quốc”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 7.
39. Nguyễn Đăng Na (1997), “Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại - những
bước đi lịch sử”, Tạp chí Văn học, số 7.
40. Nguyễn Đăng Na (2000), Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, Tập 3,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
41. Nguyễn Đăng Na (2003), Đặc điểm văn học Việt Nam trung đại, những
86
vấn đề văn xuôi tự sự, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
42. Nguyễn Phong Nam (Chủ biên), Trần Hữu Duy, Huỳnh Kim Thành, Trần
Đại Vinh (1997), Những vấn đề lịch sử và văn chương triều Nguyễn, Nxb
Giao dục, Hà Nội.
43. Bùi Văn Nguyên (1978), Tư liệu tham khảo văn học Việt Nam (Từ thế kỉ
XI đến giữa thế kỉ XVIII), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
44. Trần Nghĩa (Chủ biên) (1997), Tổng tập tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam,
Tập 1, Nxb Thế giới, Hà Nội.
45. Nguyễn Khắc Phi (2001), Mối quan hệ giữa văn học Việt Nam và văn học
Trung Quốc - qua cái nhìn so sánh, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
46. Ngô gia văn phái (2006), Hoàng Lê nhất thống chí, Nxb Văn học, Hà Nội.
47. Nguyễn Hữu Sơn (2000), “Về thi pháp và việc nghiên cứu văn học trung
đại Việt Nam”, Tạp chí Văn học, số 7.
48. Nguyễn Hữu Sơn (2005), Văn học trung đại Việt Nam - quan niệm con
người và tiến trình phát triển, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
49. Trần Đình Sử (1998), Dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
50. Trần Đình Sử (1999), Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
51. Trần Đình Sử (Chủ biên) (2003), Tự sự học, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội.
52. Trần Đình Sử (2005), Thi pháp văn học trung đại Việt Nam, Nxb Đại học
Quốc gia, Hà Nội.
53. Trần Đình Sử (2014), Lí luận văn học, Tập 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội
54. Bùi Duy Tân (1992), “Mối quan hệ về thể loại giữa văn học Trung Quốc
và văn học Việt Nam thời trung đại: Tiếp nhận - cách tân - sáng tạo”, Tạp
chí Văn học, số 1.
55. Bùi Duy Tân (2005), Theo dòng khảo luận văn học trung đại Việt Nam,
Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
87
56. Bùi Việt Thắng (2000), Bàn về tiểu thuyết, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.
57. Nguyễn Quyết Thắng - Nguyễn Bá Thế (2006), Từ điển nhân vật lịch sử
Việt Nam, Nxb Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh.
58. Trần Nho Thìn (2003), Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn
hóa, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
59. Ngô Đức Thọ (1994), “Lời giới thiệu” sách Nam triều công nghiệp diễn
chí, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
60. Đỗ Lai Thúy (2001), Nghệ thuật như là thủ pháp, Nxb Hội Nhà văn,
Hà Nội.
61. Lương Duy Thứ (1996), “Lời giới thiệu” sách Tiểu thuyết cổ Trung Quốc,
Nxb Giáo dục, Hà Nội
62. La Quán Trung (2007), Tam quốc diễn nghĩa (Phan Kế Bính dịch) tái bản,
Nxb Văn học, Hà Nội.
63. Lê Trí Viễn (2000), Đặc trưng văn học trung đại Việt Nam, Nxb Văn nghệ
thành phố Hồ Chí Minh.
64. Trần Ngọc Vương (2003), “Một số vấn đề liên quan đến đặc thù của văn
học trung đại Việt Nam”, Tạp chí văn học, số 5.
65. Trần Ngọc Vương (Chủ biên) (2007), Văn học Việt Nam thế kỷ X - XIX,
những vấn đề lý luận và lịch sử, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
66. www.avsnonline.net/library/ebooks/vn/lichsu/kdvstgcm/index.html
88
67. https://vi.wikipedia.org/wiki/Nhà_Lê_trung_hưng
PHỤ LỤC
Quyển một:
Niên hiệu, tuế STT Năm Sự kiện thứ, can chi
Trịnh Kiểm cậy quyền thế muốn mưu hại Năm Mậu Ngọ, Nguyễn Hoàng, Nguyễn Hoàng tìm kế xin 1 1558 niên hiệu Chính vào trấn thủ hai xứ Quảng Nam, Thuận Trị thứ nhất Hóa
Trịnh Kiểm đánh lấy được miền Sơn Tây,
Năm Kỷ Tị, niên cho con trai là Trịnh Tùng đem quân đi
2 1569 hiệu Chính Trị thứ đánh giặc
mười hai Nguyễn Hoàng thu phục được hai xứ
Thuận, Quảng. Nhân dân an cư lạc nghiệp
Năm Canh Ngọ, Trịnh Kiểm mất, con trai là Trịnh Tùng
3 1570 niên hiệu Chính đem quân về chiếm giữ lũy Vạn Lại để cố
Trị thứ mười ba thủ
Năm Tân Mùi, Vua Lê phong Trịnh Tùng giữ chức đô 4 1571 niên hiệu Chính tướng, cai quản việc triều chính Trị thứ mười bốn
Vua Lê qua đời, thái tử Duy Đàm mới
mười bảy tuổi lên ngôi. Việc chính sự quốc Năm Quí Dậu, niên gia đều ủy thác cho Trịnh Tùng. 5 1573 hiệu Gia Thái năm Ở đàng Trong, con trai Nguyễn Hoàng là đầu Nguyễn Phúc Nguyên dẹp được người
phương Tây, nhân dân yên ổn.
89
Năm Giáp Tuất, Nhà Mạc trên dưới lìa lòng, dấy loạn nổi 6 1574 niên hiệu Gia Thái giặc, ai nấy đều muốn tranh công, dân
thứ hai chúng điêu linh, khốn khổ
Năm Gia Thái thứ 7 1577 Vua Lê đổi niên hiệu là Quang Hưng năm
Năm Mậu Dần, Trịnh Tùng đánh bại quân nhà Mạc ở lũy 8 1578 niên hiệu Quang Cổn Hưng năm thứ nhất
Năm Canh Thìn, Trịnh Tùng đánh bại quân nhà Mạc ở Cầu 9 1580 niên hiệu Quang Công Hưng thứ ba
Năm Quý Mùi, Quân nhà Mạc thua to, từ đó trong cõi 10 1583 niên hiệu Quang được yên ổn Hưng thứ sáu
Nguyễn Tạo vâng mệnh Trịnh Tùng vào Năm Bính Tuất, hai xứ Thuận Hóa, Quảng Nam đo ruộng 11 1586 niên hiệu Quang đất, cảm phục và có ý khuyên Nguyễn Hưng thứ chín Hoàng biệt lập cơ đồ
Năm Tân Mão, Trịnh Tùng cất quân đánh dẹp Sơn Tây, niên hiệu Quang 12 1591 quân Mạc chống cự không nổi, Mạc Hồng Hưng thứ mười Ninh phải chạy trốn về Đông kinh bốn
Năm Nhâm Thìn,
niên hiệu Quang Quân nhà Mạc thua to, Mạc Hồng Ninh bị 13 1592 Hưng thứ mười giết
lăm
90
Tiêu diệt hết đồ đảng nhà Mạc, đón vua Lê Năm Quý Tị, niên về Thăng Long. Nguyễn Hoàng nhân đó ra 14 1593 hiệu Quang Hưng chúc mừng, được ban chức Hữu thừa thứ mười sáu tướng
Trịnh Tùng ép vua Lê phong tước Bình An Năm Ất Mùi, niên vương, được mở vương phủ, từ đó nắm 15 1595 hiệu Quang Hưng mọi quyền hành, vua Lê chỉ ở trong thâm thứ mười tám cung
Năm Kỷ Hợi, niên Vua Lê qua đời, lập hoàng tử Duy Tân nối
16 1599 hiệu Quang Hưng nghiệp. Vua nhỏ tuổi, mọi việc đều do
thứ hai mươi hai Trịnh Tùng định đoạt
Năm Canh Tý, Nguyễn Hoàng dùng kế ly gián để Phan
17 1600 niên hiệu Hoằng Ngạn và Bùi Văn Khê tạo phản, sau đó
Định năm đầu quay về Nam triều
Năm Tân Sửu, niên Dư đảng nhà Mạc nổi dậy bị Trịnh Tùng 18 1601 hiệu Hoằng Định tiêu diệt, rước vua Lê trở lại kinh thành thứ hai
Năm Nhâm Dần, Nguyễn Hoàng ái mộ đạo Phật, cầu phúc, 19 1602 niên hiệu Hoằng tế độ chúng sinh Định thứ ba
Năm Quý Mão, Nguyễn Hoàng mời nhà sư trụ trì đứng ra
20 1602 niên hiệu Hoằng mở hội Đại pháp, thi hành nhiều việc chính
Định thứ tư sự giáo hóa, hợp lòng dân
Năm Bính Ngọ, Thứ phi họ Phạm của Trịnh Tráng sinh con 21 1606 niên hiệu Hoằng thứ là Trịnh Tạc, sau là Tây Định Vương Định thứ bảy
Năm Mậu Thân, Đàng Ngoài hạn hán, người dân chết đói,
22 1608 niên hiệu Hoằng ăn thịt lẫn nhau. Đàng Trong mưa thuận
Định thứ chín gió hòa, nhân dân an cư lạc nghiệp
91
Năm Tân Hợi, niên Ở Đàng Ngoài thiên tai, hỏa hoạn liên 23 1611 hiệu Hoằng Định miên, báo hiệu chẳng lành thứ mười hai
Nguyễn Hoàng mất, lập con trai là Nguyễn Năm Quí Sửu, niên Phúc Nguyên lên thay. 24 1613 hiệu Hoằng Định Đàng Ngoài kinh thành cháy lớn, dân thứ mười bốn chúng đói khổ
Đàng Ngoài thiên tai, hạn hán, dân chúng
Năm Giáp Dần, đói khổ, oán thán.
25 1614 niên hiệu Hoằng Đàng Trong, chúa Nam sai con trai vào
Định thứ mười lăm trấn thủ Quảng Nam để lấn Chiêm Thành,
yên trăm họ
Năm Ất Mão, niên Nguyễn Hữu Lễ dâng sớ điều trần “trừ bỏ
26 1615 hiệu Hoằng Định tám điều hại cho nước” để dẹp dứt các tệ
thứ mười sáu nạn
Năm Bình Thìn, Trịnh Tùng ban thưởng cho các quan có 27 1616 niên hiệu Hoằng công trong chuyện đi sứ Định thứ mười bảy
Trịnh Tùng thăng chức cho Nguyễn Hữu Năm Đinh Tị, niên Lễ và các quan trong xứ bộ. Thiên tai, hỏa 28 1617 hiệu Hoằng Định hoạn ở kinh thành khiến dân chúng chết thứ mười tám đói đầy đường
Năm Mậu Ngọ,
niên hiệu Hoằng Phùng Khắc Khoan bị chúa Trịnh Tùng 29 1618 Định thứ mười đem đi đày
chín
92
Vua Lê lập kế hợp sức với họ Mạc và con Năm Kỷ Mùi, niên trai Trịnh Tùng là Trịnh Xuân để trừ khử 30 1619 hiệu Hoằng Định Trịnh Tùng nhưng không thành, bị giết. thứ hai mươi Chúa lập thái tử Lê Duy Kỳ lên ngôi
Quyển hai:
Niên hiệu, tuế thứ, STT Năm Sự kiện can chi
Vua Lê ở ngôi nhưng giữ mình, chỉ biết
Năm Canh Thân, qua ngày đoạn tháng.
1 1620 niên hiệu Vĩnh Tộ Ở Đàng Trong, hai người em của chúa
thứ hai Nguyễn Phúc Nguyên mưu đồ tranh đoạt
ngôi chúa nhưng không thành
Nhà Mạc đánh kinh đô, Vinh quốc công
Năm Tân Dậu, niên đem quân dẹp yên nhà Mạc. 2 1621 hiệu Vĩnh Tộ thứ ba Ở Đàng Trong, chúa Nam dẹp yên nạn Ai
Lao quấy nhiễu
Bắc triều mở khoa thi chọn tiến sĩ. Trịnh Năm Quý Hợi, niên Tùng lâm bệnh nặng rồi mất, trong nước 3 1623 hiệu Vĩnh Tộ thứ tranh giành quyền lực, sau Trịnh Tráng lên năm ngôi chúa
Năm Giáp Tý, niên Trịnh Tráng thăng chức cho các quan 4 1624 hiệu Vĩnh Tộ thứ văn võ sáu
Chúa Trịnh đánh tan quân nhà Mạc, Mạc
Năm Ất Sửu, niên Kính Khoan dâng biểu xin hàng
5 1625 hiệu Vĩnh Tộ thứ Triều đình mở khoa thi nhưng không coi
bảy trọng người tài, Đào Duy Từ vào Nam
triều nuôi chí lớn
93
Năm Bính Dần, Chúa Trịnh muốn thu phục đất đai Nam 6 1626 niên hiệu Vĩnh Tộ triều thứ tám
Năm Đinh Mão,
7 1627 niên hiệu Vĩnh Tộ Chúa Trịnh tìm kế đánh phạt Nam triều,
thứ chín
Năm Mậu Thìn, Chúa Trịnh mở khoa thi hội, đồng thời
8 1628 niên hiệu Vĩnh Tộ phụng rước bài vị các hoàng đế và tiên
thứ mười vương về phụng thờ, tưởng nhớ công lao
Quyển ba:
Niên hiệu, tuế STT Năm Sự kiện thứ, can chi
Năm Tân Mùi, Đào Duy Từ khuyên chúa Nguyễn mưu 1 1631 niên hiệu Đức tính khôi phục Trung đô Long thứ ba
Năm Nhâm Thân, Chúa Nguyễn mưu tính việc lớn, chuẩn bị 2 1632 niên hiệu Đức binh lương Long thứ tư
Năm Quý Dậu, Chúa Trịnh đem quân đánh Nam triều 3 1633 niên hiệu Đức nhưng thua trận Long thứ năm
Năm Giáp Tuất, Trịnh Tráng thăng chức cho các quan văn 4 1634 niên hiệu Đức võ Long thứ sáu
Bắc triều trời đại hạn, nhân dân đói kém.
Năm Ất Hợi, niên Chúa Trịnh thay niên hiệu Đức Long làm
5 1635 hiệu Đức Long thứ Dương Hòa năm đầu, miễn tô thuế.
bảy Ở Nam triều, chúa Nguyễn qua đời,
94
Nguyễn Phúc Lan lên nối ngôi, tức
Thượng vương
Năm Bính Tý, niên Chúa Trịnh thấy Trịnh Phúc là người có tài
6 1636 hiệu Dương Hòa trí, ai nấy mến phục nên tìm kế hãm hại để
thứ hai khỏi phải lo sau
Năm Đinh Sửu, Chúa Trịnh mở khoa thi Hội, lấy đỗ hai 7 1637 niên hiệu Dương mươi tiến sĩ Hòa thứ ba
Năm Mậu Dần, Nhà Mạc đem quân đánh xuống Thái 8 1638 niên hiệu Dương Nguyên, bị chúa Trịnh đem quân đánh bại Hòa thứ tư
Năm Kỷ Mão, niên Thượng vương say mê, sủng ái Tống thị, 9 1639 hiệu Dương Hòa triều thần than giận, oán thán thứ năm
Năm Canh Thìn,
10 1640 niên hiệu Dương Bắc triều mở khoa thi Hội
Hòa thứ sáu
Năm Tân Tỵ, niên Thiên tai ở cả Bắc triều và Nam triều khiến 11 1641 hiệu Dương Hòa dân chúng điêu linh, đói khổ thứ bảy
Năm Nhâm Ngọ,
12 1642 niên hiệu Dương
Hòa thứ tám
Quyển bốn:
Niên hiệu, tuế STT Năm Sự kiện thứ, can chi
95
1 1655 Năm Ất Mùi, niên Chúa Nguyễn Phúc Tần sau khi lên ngôi
hiệu Thịnh Đức muốn mở mang bờ cõi. Cuộc chiến Trịnh –
thứ ba Nguyễn diễn ra quyết liệt
Năm Bính Thân, Dân Bắc triều nghiêng lòng hướng phục
2 1656 niên hiệu Thịnh chúa Nguyễn dấy binh đánh Trịnh, tình
Đức thứ bốn hình hai miền rối ren
Quyển năm:
Niên hiệu, tuế STT Năm Sự kiện thứ, can chi
Tú Phượng dâng khải văn và sổ ứng nghĩa
của những người cùng chí hướng phù
Nguyễn diệt Trịnh, mong chúa Hiền sớm Năm Đinh Dậu, tiến ra đàng Ngoài. 1 1657 niên hiệu Thịnh Ngày 18 tháng 4, chúa Trịnh Tráng mất, Đức thứ năm Trịnh Tạc lên ngôi chúa. Hai bên Trịnh –
Nguyễn giao chiến tranh giành lũy Đồng
Hôn
Năm Mậu Tuất, Binh lính và dân chúng theo chúa Nguyễn 2 1658 niên hiệu Thịnh ngày một đông Đức thứ sáu
Giao chiến giữa hai bên Trịnh – Nguyễn
vẫn tiếp tục, tình hình rối ren. Năm Kỷ Hợi, niên Quân Nam chiếm được bảy tám châu ở 3 1659 hiệu Thịnh Đức Nghệ An, thu tô thuế, quấy nhiễu nên mất thứ bảy lòng dân. Hai tướng Nam triều là Chiêu Vũ
96
và Thuận Nghĩa bất hòa.
Quyển sáu:
Niên hiệu, tuế STT Năm Sự kiện thứ, can chi
Năm Canh Tý, Giao chiến giữa hai bên Trịnh – Nguyễn
1 1660 niên hiệu Thịnh tiếp tục, tình hình đất nước rối ren, lòng
Đức thứ tám dân ly tán
Tháng giêng, Chiêu Vũ được chúa Nguyễn
Năm Tân Sửu, niên phong làm chưởng trấn thủ dinh Bố Chính.
2 1661 hiệu Thịnh Đức Tháng mười một, Trịnh Căn đem quân vào
thứ chín đánh Nam triều, trả thù việc năm trước
chúa Nguyễn xâm phạm bờ cõi
Quân Nam triều án binh bất động, không
đáp trả hành động khiêu khích của quân Năm Nhâm Dần, Bắc. Quân Nam tấn công, Bắc triều thua 3 1662 niên hiệu Thịnh chạy về Kinh đô. Đức thứ mười Tháng mười hai, vua Lê qua đời, hoàng
trưởng tử Lê Duy Vũ lên nối ngôi
Ở Nam triều, chúa Nguyễn thi hành đức Năm Quý Mão, chính, vỗ về yên trị muôn dân, sửa sang 4 1663 niên hiệu Cảnh Trị việc văn, giảng tập việc võ làm kế gìn giữ thứ nhất lâu dài
Năm Giáp Thìn, Ở Nam triều, Thuận Nghĩa xin từ quan,
5 1664 niên hiệu Cảnh Trị Chiêu Vũ lên thay giữ chức Tiết chế Trấn
thứ hai thủ đạo Lưu Đồn
97
Năm Ất Tỵ, niên Hiền vương xuống lệnh sửa sang binh pháp 6 1665 hiệu Cảnh Trị thứ để làm mạnh quân uy ba
Năm Bính Ngọ, Tháng hai, Hiền vương cho xây chùa trên
7 1666 niên hiệu Cảnh Trị bãi cát Trường Sa. Tháng tám, Thuận
thứ tư Nghĩa Nguyễn Hữu Tiến qua đời
Năm Đinh Mùi,
8 1667 niên hiệu Cảnh Trị Nam triều tổ chức khoa thi Hội
thứ năm
Năm Mậu Thân, Chúa Nguyễn theo lệnh vua Lê đốc suất
9 1668 niên hiệu Cảnh Trị đào kênh Thủy Liên làm cho việc đi lại dễ
thứ sáu dàng, mùa màng thuận lợi
Năm Kỷ Dậu, niên Tiến hành đo đạc ruộng đất ở Thuận Hóa, 10 1669 hiệu Cảnh Trị thứ Quảng Nam, đặt mức thu thuế bảy
Năm Canh Tuất, Thiên tai ở Nam triều, chúa Nguyễn làm lễ 11 1670 niên hiệu Cảnh Trị cầu đảo thứ tám
Chúa Trịnh sai người vào đòi Nam triều
Năm Tân Hợi, niên cống nộp sản vật, tô thuế nhưng chúa
12 1671 hiệu Cảnh Trị thứ Nguyễn không nghe. Chúa Trịnh định dấy
chín binh đánh phạt nhưng điều kiện không phù
hợp nên đành thôi
Quyển bảy:
Niên hiệu, tuế STT Năm Sự kiện thứ, can chi
98
Năm Nhâm Tý, Cuộc chiến Nam – Bắc triều diễn ra quyết 1 1672 niên hiệu Cảnh Trị liệt, kết quả quân Nam triều đại thắng thứ mười
Năm Quý Sửu, Chúa Nguyễn truyền lệnh đem quân về 2 1673 niên hiệu Dương Phú Xuân, mở tiệc mừng thắng trận Đức thứ hai
Quyển tám:
Niên hiệu, tuế STT Năm Sự kiện thứ, can chi
Người do thám của doanh Bố Chính báo
tin Bắc triều: Quận Tiến ý muốn chiếm
Năm Quý Sửu, đoạt ngôi chúa, bị chúa Trịnh Tạc xử tội
1 1673 niên hiệu Dương chết. chúa Nguyễn xuống lệnh miễn thuế,
Đức thứ hai nhân dân vui mừng cảm tạ ân đức.
Quốc vương Cao Miên là Nặc Ong Đài
mưu toan làm phản
Năm Giáp Dần, Chúa Nguyễn sai quân tiến đánh Cao
2 1674 niên hiệu Đức Miên. Cao Miên thua trận, nguyện làm
Nguyên thứ nhất phiên thần, hàng năm cống nạp
Năm Ất Mão, niên Tháng tư, chúa Nguyễn cho mở khoa thi. 3 1675 hiệu Đức Nguyên Tháng sáu, công tử Hiệp Đức qua đời. thứ hai
Năm Bính Thìn,
4 1676 niên hiệu Vĩnh Trị Dịch bệnh, hạn hán, dân chúng đói khổ
năm thứ nhất
Năm Đinh Tỵ, niên Thiên hạ thái bình, dân chúng an cư lạc 5 1677 hiệu Vĩnh Trị thứ nghiệp hai
99
6 1679 Năm Kỷ Mùi, niên Chúa Nguyễn tuyển duyệt quan lại ở hai
hiệu Vĩnh Trị thứ xứ Quảng Nam, Thuận Hóa.
tư Đoàn tàu Thủy nước Minh thua quân
Thanh chạy trốn dạt vào địa phận Nam
triều được chúa Nguyễn thương xót, ban
tiền gạo, vải vóc để an ủi
Năm Canh Thân,
7 1680 niên hiệu Chính Thiên tai, dân chúng mất mùa đói kém
Hòa thứ nhất
Năm Quý Dậu,
8 1681 niên hiệu Chính Chiêu Vũ Nguyễn Hữu Dật qua đời
Hòa thứ hai
Năm Nhâm Tuất, Những hiện tượng thiên nhiên bất thường 9 1682 niên hiệu Chính liên tiếp xảy ra Hòa thứ ba
Năm Quí Hợi, niên
10 1683 hiệu Chính Hòa Chúa Nguyễn mở khoa thi chọn kẻ sĩ
thứ tư
Chúa Nguyễn tuyển duyệt binh dân ở hai
Năm Giáp Tý, niên xứ Thuận Hóa, Quảng Nam.
11 1684 hiệu Chính Hòa Tháng ba, Trịnh Tạc mất, Trịnh Căn kế vị.
thứ năm Cũng năm đó, con trai trưởng của chúa
Hiền là Nguyễn Phúc Diễn mất
Năm Ất Sửu, niên Con trai thứ tư của chúa Nguyễn là Cương 12 1685 hiệu Chính Hòa lĩnh hầu qua đời thứ sáu
100
Năm Bính Dần, Chúa Nguyễn chọn chỗ rộng rãi để dựng 13 1686 niên hiệu Chính phủ mới dừng chân khi tuần du Hòa thứ bảy
Năm Đinh Mão, Chúa Nguyễn qua đời, thế tử Nguyễn Phúc 14 1687 niên hiệu Chính Trăn nối ngôi, gọi là chúa Nghĩa Hòa thứ tám
Năm Mậu Thìn,
15 1688 niên hiệu Chính Vua Cao Miên là Nặc Thu muốn làm phản
Hòa thứ chín
101
Chúa Nghĩa sai quân dẹp loạn Cao Miên. Năm Kỷ Tị, niên Tháng hai, chúa Nghĩa ban lệnh mới 16 1689 hiệu Chính Hòa khuyến khích đào tạo nhân tài, nho sĩ khắp thứ mười nơi vui mừng