LUẬN VĂN: Những giải pháp để phát triển KTTT theo định hướng XHCN ở Việt Nam
lượt xem 6
download
Ý nghĩa của đề tài nghiên cứu: Tất cả mọi người đều mong muốn một cuộc sống trong một xã hội tốt đẹp ngày càng tốt hơn. Một xã hội mà trong đó mọi người hạnh phúc bình đẳng ai ai cũng có việc là sống trong một môi trường trong sạch văn minh và hiện đại. Chính vì vậy mà bất cứ một xã hội nào mà trong đó chứ đựng những mâu thuẫn và đi ngược lại với mong muốn của con ngươì đều sẽ phải diệt vong thay thế vào đó một xã hội tốt hơn vì...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: LUẬN VĂN: Những giải pháp để phát triển KTTT theo định hướng XHCN ở Việt Nam
- LUẬN VĂN: Những giải pháp để phát triển KTTT theo định hướng XHCN ở Việt Nam
- phần mở đầu 1-Tính cấp thiết của đề tài : ý nghĩa của đề tài nghiên cứu: Tất cả mọi người đều mong muốn một cuộc sống trong một xã hội tốt đẹp ngày càng tốt hơn. Một xã hội mà trong đó mọi người hạnh phúc bình đẳng ai ai cũng có việc là sống trong một môi trường trong sạch văn minh và hiện đại. Chính vì vậy mà bất cứ một xã hội nào mà trong đó chứ đựng những mâu thuẫn và đi ngược lại với mong muốn của con ngươì đều sẽ phải diệt vong thay thế vào đó một xã hội tốt hơn vì thế mà xã hội loài người đã trãi qua nhiều giai đoạn phát triển biến đổi để hoàn thiện mình bắt đầu là xã hội nguyên thuỷ đến chiếm hữu nô lệ và đến phong kiến cao hơn gần đây là chủ nghĩa tư bản với sự phát triển vượt bậc về kinh tế và khoa học kỹ thuật với một nền kinh tế thị trường phát triển nhưng trong đó vẫn tồn tại nhiều khuýêt tật và có hiện tượng người bóc lột người rồi lần đầu tiên một nước xã hội chủ nghĩa đời trong đó mọi người bình đẳng ấm no hạnh phúc, sống trong một xã hội một nền kinh tế phát triển đó là Liên Xô. Để rồi sau đó một loạt các nước khác cũng đi theo chế độ xã hội chủ nghĩa tạo thành một hệ thống xã hội chủ nghĩa cân bằng với chủ nghĩa tư bản trên mọi mặt: kinh tế- xã hội. Sau cách mạng tháng 8 thành công, chính phủ thành lập ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà và xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền bắc và sau đó 1975 thống nhất đất nước Đảng và nhà nước ta đã quyết định đi theo con đường xã hội chủ nghĩa với cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Với sự giúp đỡ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa anh em. Nước ta đã có những thành tựu kinh tế xã hội khắc phục được những hậu quả chiến tranh để lại nhưng sau đó cùng với sự khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội và dẫn tới sự sụp đổ của Liên Xô và các nước Đông Âu, nước ta cũng không nằm ngoài sự ảnh hưởng đó nền kinh tế lâm vàota vẫn quán triệt đi theo CNXH và quyết định đổi mới chuyển đổi từ nèn kihn tế tập trtheo CNXH và quyết định đổi mới chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang một nền kinh tế nhiều thành phần mở cửa quan hệ với các nước trên thế giới qua các đaị hội Đảng VI, VII, nền kinh tế đã phục hồi và dần dần đạt được nhiều thành tích, đời sống được cải thiện và đến đại hội VIII xác định xây dựng một nền kinh tế thị trường dưới sự quản lí của Nhà nước định hướng XHCN nó phù hợp với sự khách quan và sự phát triển chung của nhân loại. Tuy vậy nước ta xuất phất từ một nước nông
- nghiệp và đi lên CNXH bỏ qua giai đoạn CNTB chịu sự ảnh hưởng lâu dài của chiến tranh không những vậy cơ chế quan liêu bao cấp đã in sâu vào trong dân vì vậy để phát triển kinh tế ở nước ta hiện nay như thế nào trong tình hình trong nước và quốc tế hiện nay vai trò của nhà nước như thế nào. Đứng trên góc độ một bài đề án về môn kinh tế chính trị và nhìn nhận của một sinh viên nên chỉ có thể nói lên vấn đề cơ bản và chung nhất về một nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, các giải pháp phát triển trong giai đoạn và trong đại hội Đảng IX đã ghi nhận. Do đó em đã chọn đề tài: ” Những giải pháp để phát triển KTTT theo định hướng XHCN ở Việt Nam”. 2-Cái mới của đề tài: Từ đề tài, có được cái nhìn đúng đắn hơn về nền kinh tế Việt Nam trong thời kì đổi mới và hoàn thiện vốn kiến thức của mình. 3-Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu: Lí luận dựa trên nghiên cứu của Chủ nghĩa C.Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. 4-Kết cấu của đề án: Được chia làm 3 phần: Phần 1: Phần mở đầu Phần 2: Phần nội dung chính Chương I : Cơ sở lí luận của vấn đề Chương II : Kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Chương III : Thực trạng nền kinh tế Việt Nam những năm qua và giải pháp cho nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Phần 3: Phần kết luận Phần Nội dung Chương I: Cơ sở lí luận về vấn đề (Lý luận của Mác-LêNin về kinh tế thị trường) 1-Sự hình thành và phát triển của nền kinh tế thị trường: 1.1- Quá trình chuyển từ kinh tế tự nhiên lên kinh tế hàng hoá: 1.1.1-Khái quát về kinh tế tự nhiên và kinh tế hàng hoá:
- Kinh tế tự nhiên và kinh tế hàng hoá là hai hình thức tổ chức kinh tế-xã hội đã tồn tại trong lịch sử hai hình thức này được hình thành trên cơ sở trình độ phát triển của lực lượng sản xuất xã hội, trình độ phân công lao động xã hội, trình độ phát triển và phạm vi của quan hệ trao đổi. Trong nền kinh tế tự nhiên, người sản xuất cũng đồng thời là người tiêu dùng. Tự sản xuất, tự tiêu dùng là đặc điểm nổi bật của kinh tế tự nhiên. Mục đích của sản xuất là họ tạo ra những giá trị sử dụng nhằm thoã mãn nhu câù tiêu dùng của chính bản thân người sản xuất, vì thế có thể nói quá trình sản xuất của nền kinh tế tự nhiên gồm hai khâu: sản xuất-tiêudùng. Các quan hệ kinh tế trong nền kinh tế tự nhiên đều mang hình thái hiện vật. Trong nền kinh tế hàng hoá, mục đích sản xuất là trao đổi hay để bán. Mục đích đó được xác định từ trước quá trình sản xuất và có tính khách quan. Sản xuất và toàn bộ quá trình tái sản xuất đều gắn với thị trường . 1.1.2-Những tiền đề của quá trình chuyển từ kinh tế tự nhiên lên kinh tế hàng hoá. Sự ra đời và phát triển của kinh tế hàng hoá là quá trình khách quan. Nó bắt đầu khi kinh tế tự nhiên phát triển đến trình độ làm xuất hiện những tiền đề kinh tế hàng hoá. Trong lịch sử, những quan hệ hiện vật, tự nhiên và quan hệ hàng hoá-tiền tệ tồn tại đan xen và mâu thuẫn với nhau. Sự xuất hiện của kinh tế hàng hoá cũng chính là sự xuất hiện những tiền đề phủ định kinh tế tự nhiên và khẳng định kinh tế hàng hoá. Mỗi bước phát triển của kinh tế hàng hoá là một bước đẩy lùi kinh tế tự nhiên. Như vậy, quá trình vận động và quá trình phát triển của kinh tế hàng hoá đã phủ định dần kinh tế tự nhiên và khẳng định mình là một kiểu tổ chức kinh tế –xã hội độc lập. Quá trình xuất hiện vận động và phát triển của kinh tế hàng hoá diễn ra với sự tác động mạnh mễ của những tiền đề sau đây: Phân công lao động đã tạo ra những ngành nghề sản xuất khác nhau. Do phân công lao động xã hội nên mỗi người chuyên sản xuất một loại hàng hóa nhất định. Nhưng nhu cầu tiêu dùng của họ lại cần nhiều loại sản phẩm khác nhau. Để thoã mãn nhu câù này họ phải trao đổi sản phẩm cho nhau. Làm nảy sinh quan hệ kinh tế giữa những người sản xuất. Trong điều kiện tư hữu về tư liệu sản xuất, những người sản xuất độc lập với nhau và có lợi ích kinh tế khác nhau.
- Phân công lao động xã hội phát triển cũng dẫn tới sự ra ôừi của ngành th ương nghiệp. Khi thương nghiệp ra đơì quan hệ trao đổi đã có màu sắc mới. Người sản xuất và người tiêu dùng có quan hệ với nhau qua nhân vật thứ ba là thương nhân.Thương nghiệp phát triển dẫn đến sản xuất và lưu thông hàng hoá cùng với lưu thông tiền tệ được phát triển nhanh chóng. Quan hệ trao đổi ngày càng được mở rộng và phát triển đòi hỏi hệ thống giao thông vận tải cũng phải mở rộng và phát triển đây là điều kiên vật chất làm tăng thêm các phương tiện trao đổi mở rộng thị trường. 1.2-Bước chuyển từ kinh tế hàng hoá giản đơn sang nền kinh tế thị trường 1.2.1-Khái niệm về kinh tế thị trường: Kinh tế hàng hoá và kinh tế thị trường chỉ khác nhau về trình độ phát triển ; kinh tế thị trường là hình thức phát triển cao của kinh tế hàng hoá. Kinh tế hàng hoá phát triển, điều đó có nghĩa là phạm trù hàng hoá, phạm trù tiền tệ và thị trường được phát triển và được mở rộng. Hàng hóa không chỉ bao gồm những sản xuất đầu ra của sản xuất mà còn bao gồm cả các yếu tố đầu vào của sản xúât. Đúng hướng thị trường và cơ cấu thị trường được mở rộng hoàn thiện. Mọi quan hệ kinh tế trong xã hội đều tiền tệ hoá. Khi đó người ta gọi kinh tế hàng hoá là kinh tế thị trường. 1.2.2-Những điều kiện hình thành kinh tế thị trường: Kinh tế thị trường được hình thành với những điều kiện sau: Một là: Sự xuất hiện của hàng hoá sức lao động và thị trường sức lao động. Cần khẳng định rằng sự xuất hiện hàng hoá sức lao động là một tiến bộ lịch sử. Người lao động của mình và là chủ thể bình đẳng trong việc thương lượng với người khác. Hai là: Phải tích luỹ được một số vốn nhất định để tiến hành sản xuất kinh doanh nhằm mục đích thu lợi nhuận. Ba là: Kinh tế tiền tệ, cho nên vai trò của tiền tệ vô cùng quan trọng. Vì vậy để hình thành kinh tế thị trường cần phải có hệ thống tài chính, tác dụng ngân hàng tương đối phát triển. Bốn là: Sự phát triển kinh tế thị trường đòi hỏi phải có một kết cấu hạ tầng tương đối phát triển. Trên cơ sở đó mới bảo đảmcho lưu thông hàng hoa và lưu thông tiền tệ để thuận lợi nhằm quan hệ trao đổi.
- Năm là: Tăng cường vai trò kinh tế của Nhà nước. Đối với nước ta, đây là vấn đề có tính then chốt để hình thành nên nền kinh tế thị trường. Với tác động của tất cả các tiền đề trên, nền kinh tế thị trường được xã hội hoá cao, các quan hệ kinh tế mang hình thái phổ biến là quan hệ hàng hóa -tiền tệ và nó được tiền tệ hoá. Các quy luật của kinh tế thị trường được phát huy một cách đầy đủ. 1.3-Những đặc trưng của kinh tế thị trường (KTTT) : Những đặc trưng chung nhất, vốn có của kinh tế thị trường: Một là: Tính tự chủ của các chủ thể kinh tế rất cao. Đây là đặc trưng quan trọng nhất của kinh tế thị trường. Đặc trưng này xuất phát từ đặc điểm khách quancủa việc tồn tại nền kinh tế hàng hoá. Đồng thời cũng là biểu hiện và yêu cầu nội tại của kinh tế hàng hoá. Hai là: Trên thị trường hàng hoá rất phong phú. Người ta tự do mua, bán hàng hoá. Trong đó người mua chọn người bán, người bán tìm người mua. Họ gặp nhau ở giá cả thị trường. Ba là: Giá cả để hình thành ngay trên thị trường. Giá cả thị trường vừa là biểu hiện bằng tiền của giá thị trường, vừa chịu sự tác động của quan hệ cạnh tranh và quan hệ cung cầu hàng hoá và dịch vụ. Trên cơ sở giá thị trường, giá cả là kết quả của sự thương lượng và thoả thuận giữa người mua và người bán. Đặc trưng này phản ánh yêu cầu của luật lưu thông hàng hoá. Bốn là: Kinh tế thị trường là một tất yếu của thị trường. Nó tồn tại trên cơ sở những đơn vị sản xuất hàng hoá độc lập và khác nhau về lợi ích kinh tế. Năm là: Kinh tế thị trường là hệ thống kinh tế mở. Nó rất đa dạng, phức tạp và được điều hành bởi hệ thốngtiền tệ và hệ thống pháp luật của Nhà nước. 2- Khái quát thị trường và cơ chế thị trường. 2.1-Thị trường: Thị trường gắn liền với quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá, nó ra đời và phát triển cùng với sự phát trỉên của sản xuất và lưu thông hàng hoá. Vậy thị trường là một địa điểm nhất định, nơi diễn ra các quá trình trao đổi và mua bán hàng hoá, thị trường có tính không gian và thơì gian theo nghĩa này thị trường có thể là hội chợ các địa dư hoặc các khu vực tiêu thụ theo các mặt hàng, ngành hàng.
- Sản xuất hàng hoá càng phát triển, lượng sản phẩm hàng hoá lưu thông trên thị trường ngày càng rồi rào và phong phú, thị trường được mở rộng. Được hiểu theo nghĩa đầy đủ hơn, thị trường là lĩnh vực trao đổi hàng hoá thông qua tiền tệ làm môi giới. Tại đây người bán tác động qua lại lẫn nhau để xác định giá cả và số lượng hàng lưu thông trên thị trường. Nói tới thị trường là nói tơí tự do kinh doanh, tự do mua bán, thuận mua vừa bán, tự do giao dịch. Quan hệ giữa các chủ thể bình đẳng. Thị trường có thể phân chia làm hai loại: Một là: Thị trường hàng tiêu dùng và dịch vụ: ở thị trường này người ta những tư liệu sinh hoạt như lương thực, thực phẩm, vải vóc, quần áo, các phương tiện sinh hoạt trong gia đình… ở thị trường này người ta mua bán những hàng hoá là kết quả của sản xuất. Hai là: Thị trường các yếu tố sản xuất. Trên thị trường này người ta mua bán các yếu tố cần thiết cho quá trình sản xuất như các loại nguyên vật liệu, thiết bị máy móc, sức lao động. Vai trò của thị trường: Thị trường là nơi trực tiếp trả lời các câu hỏi sản xuất caí gì?, sản xuất cho ai?, Và sản xuất như thế nào? Thị trường là nơi kiểm tra cuối cùng của các chủng loại hàng hoá, số lượng hàng hoá, cũng như chất lượng sản phẩm.Thị trường kiểm nghiệm tính phù hợp của sản xuất đối với tiêu dùng xã hội. Trên ý nghĩa đó có thể nói thị trường điều tiết sản xuất và là động lực của sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và ngày càng năng động hơn, sáng tạo hơn, hiệu quả hơn thị trường là nơi cuối cùng để chuyển lao động tư nhân cá biệt thành lao động xã hội. 2.2-Cơ chế thị trường: Nói tới cơ chế thị trường là nói tới bộ máy tự điều tiết quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá, điều tiết sự vận động của kinh tế thị trường. Hiện nay còn có nhiều khái niệm khác nhau về khái niệm cơ chế thị trường. Một cách khái quát hơn thì cơ chế thị trường chính là “bộ máy” kinh tế điều tiết toàn bộ sự vận động của kinh tế thị trường, điều tiết quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá thông quạ tác động của các quy luật kinh tế của nền kinh tế thị trường, đặc biệt là quy luật giá trị- quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất và lưu thông hàng hoá.
- Sự hoạt động của quy luật giá trị có biểu hiện: Gía cả thị trường lên xuống xung quanh giá trị thị trường của hành hoá, nghĩa là sự hình thành giá cả thị trường phải dựa trên cơ sở giá cả thị trường. Ngoài giá trị thị trường sự hình thành giá cả thị trường còn chịu sự tác động của quan hệ cung cầu hàng hoá. Tính quy luật của quan hệ giữa giá cả thị trường với giá trị thị trường trong sự tác động của quan hệ cung cầu được biểu hiện: -Nếu cung lớn hơn cầu thì giá cả thị trường sẽ nhỏ hơn giá trị thị trường -Nếu cung nhỏ hơn cầu thì giá cả thị trường sẽ lớn hơn giá trịn thị trường. Sự vận động của giá cả thị trường cũng có tác động đến quan hệ cung cầu hàng hoá. Nếu giá cả của một loại hàng hoá nào đó giảm xuống , nó sẽ kích thích mức cầu, làm cho mức cầu thị trường của loại hàng hoá này tăng lên. Đồng thời giá cả giảm xuống lại hạn chế mức cung làm cho mức cung giảm xuống. Ngược lại nếu giá cả của một loại hàng hoá nào đó tăng lên, nó sẽ kích thích mức cung làm cho mức cung tăng lên. Như vậy, có thể phân biệt được quan hệ cung cầu qua giá cả thị trường. Quan hệ cung cầu hàng hoá trên thị trường là biểu hiện của quan hệ giữa người bán và người mua cũng như quan hệ giữa người sản xuất và người tiêu dùng. Trên thị trường, người bán luôn muốn bán hàng hóa của mình với giá cao, người mua lại luôn muốn mua hàng hoá với giá thấp. Trên cơ sở giá trị thị trường, giá cả thị trường là kết quả của sự thoả thuận giữa người mua và người bán. Giá cả thị trường điều hoà được quan hệ giữa người mua với người bán. Thông qua sự biến động của giá cả trên thị trường, quy luật giá trị có tác dụng điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá. Điều tiết gía trị hàng hoá được hiểu theo nghĩa là điều tiết tư liệu sản xuất và sức lao động vào từng ngành kinh tế. Nếu giá cả trong một ngành kinh tế nào đó có xu hướng tăng lên thì ngành đó sẽ thu hút thêm lao động xã hội, làm cho quy mô sản xuất của ngành này tăng lên. Ngược lại nếu giá cả của hàng hoá coá xu hướng tăng lên sẽ làm cho những người sản xuất hàng hoá thu được nhiều lợi nhuận hơn. Điều này tạo ra động lực thúc đẩy kinh tế những người sản xuất hàng hóa khai thác những khả năng tiềm tàng, tranh thủ giá cả cao mở rộng quy mô sản xuất. Nếu giá cả giảm xuống thì diễn biến của sản xuất có xu hướng ngược lại, nghĩa là giá cả giảm xuống sẽ làm cho quy mô sản xuất thu hẹp lại. Như vậy, lợi nhuận là động lực thúc đẩy hoạt động của cơ chế thị trường. Theo C.Mác, những nhà kinh doanh dưới CNTB “ghét cay ghét đắng tình
- trạng không có lợi nhuận hay lợi nhuận quá ít, chẳng khác gì giới tự nhiên ghê sợ chân không”. Thông qua sự biến động của gía cả thị trường, quy luật giá trị còn có tác dụng điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá. Hàng hoá sẽ được vận chuyển từ thị trường có giá cả thấp đến những thị trừơng có gía cả cao. Khả năng tách rời giá trị của giá cả không phải là nhược điểm của quy luật giá cả mà trái lại nó là vẻ đẹp riêng của quy luật giá trị, là cơ chế hoạt động của quy lật giá trị . Nếu giá cả thị trường của hàng hoá luôn ngang bằng với giá trị của nó thì không có sự hoạt động của quy luật giá trị, nói cách khác đi điều đó có nghĩa là phủ định sự hoạt động của quy luật giá trị. Nói đến cơ chế thị trường cần phải nói tới sự cạnh tranh. Đó là sự ganh đua giữa các chủ thể kinh tế nhằm dành lại phần sản xuất và tiêu thụ hàng hoá có lợi cho mình để thu lợi nhuận cao. Cạnh tranh là môi trường tồn tại của cơ chế thị trường nó đòi hỏi mỗi chủ thể kinh tế phải chuẩn bị cho mình khả năng cạnh tranh thắng lợi trên thị trường. Sự tồn tại và phát triển của cơ chế thị trường là yêu cầu khách quan đối với những xã hội còn tồn tại nền kinh tế hàng hoá. Coi nhẹ hay bỏ qua vai trò của kinh tế thị trường là một trong nguyên nhân thất bại trên lĩnh vực kinh tế. Trong lịch sử cơ chế thị trường có được không gian rộng lớn ở giai đoạn cạnh tranh tự do TBCN vì vậy tác động của cơ chế thị trường được phát hiện khá sớm. Cơ chế thị trường được coi là “bàn tay vô hình” điều tiết sự vận đông của nền kinh tế hàng hoá. *Cơ chế thị trường có các ưu thế sau: Trước hết, cơ chế thị trường kích thích việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, tăng năng suất lao động, nâng cao trình độ xã hội hoá sản xuất. Hai là, cơ chế thị trường có tính năng động và khả năng thích nghi nhanh chóng. Vì trong kinh tế thị trường tồn tại một nguyên tắc ai đưa ra thị trường một loại hàng hoá mới và đưa ra sóm nhất thì sẽ thu được lợi nhuận nhiều nhất. Ba là, trong nền kinh tế thị trường hàng hoá rất phong phú và đa dạng. Do đó nó tạo điều kiện thuận lợi cho việc thoã mãn ngày càng tốt hơn những nhu cầu vật chất, văn hóa và sự phát triển toàn diện của mọi thành viên xã hội. * Khuyết tật của cơ chế thị trường:
- Cơ chế thị trường có những khuyết tật mà bản thân nó không tự giải quyết được. Thường xuyên tạo ra mất cân đối, bất hợp lý ở tầng vĩ mô làm giảm hiệu quả trên quy mô nền kinh tế quốc dân. Cơ chế thị trường cũng có những yếu tố làm giảm tốc độ phát triển kinh tế do nảy sinh độc quyền tù cạnh tranh tự do và việc giữ bí quýêt kinh doanh của từng đơn vị. Trong hoạt động thực tiễn của cơ chế thị trường do chạy theo lợi nhuận đơn thuần nên khó tránh khỏi các hiện tượng buôn gian, bán lận, đâù cơ, làm hàng giả… và nhiều bệnh trạng xã hội khác như phân hoá giàu nghèo, thất nghiệp, lạm phát, phá sản dẫn đến sựu phá hoại lực lượng sản xuất, vi phạm đạo đức, lối sống, gây ô nhiễm môi trường, phá hoại thiên nhiên… Trên phạm vi quốc tế, cơ chế thị trường dễ dẫn đến mâu thuẫn giữa các nước, các trung tâm kinh tế đặc biệt dễ tạo ra trật tự kinh tế bất công giữa các nước giàu và nước nghèo. Do những nhược điểm trên cần có sự điều tiết của nhà nước để hạn chế những khuyết tật của cơ chế thị trường. Chương II: KTTT theo định hướngXHCN ở Việt Nam Đảng cộng sản Việt Nam vẫn khẳng định có tính nguyên tắc là phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN và theo một cơ chế kinh tế, cơ chế quản lý được xác lập thích ứng với nguyên tắc đó. 1- Các giai đoạn hình thành kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở Việt Nam 1.1-Định hướng XHCN của kinh tế thị trường Việt Nam. Kinh tế thị trường ở Việt Nam sẽ được phát triển theo định hướng XHCN. Đó là sự định hướng của một xã hội mà sự hùng mạnh của nó nhờ vào sự giàu có và sự hạnh phúc của dân cư. Xã hội không còn chế độ người bóc lột người dựa trên cơ sở “nhân dân lao động làm chủ con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực , hưởng theo lao động có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân”. [Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ CNXH (NXB sự thật-1991)]. Xã hội có nền kinh tế phát triển cao trên c ơ sở khoa học, công nghệ và lực lượng sản xuất hịên đại.
- Định hướng xã hội chủ nghĩa nêu trên không chỉ phản ánh nguyện vọng và lí tưởng của Đảng, của Nhà nước và nhân dân ta mà còn phản ánh xu thế phát triển khách quan của thời đại cũng như quy luật tiến hoá của lịch sử. Định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường ở nước ta là cần thiết và có tính khách quan. Xây dựng nền KTTT không có gì mâu thuẫn voí định hướng XHCN. Đại hội VIII Đảng ta đã khẳng định “cơ chế thị trường đã phát huy tích cực to lớn đến sự phát triển kinh tế- xã hội. Nó chẳng những không đối lập mà còn là một nhân tố khách quan cần thiết của việc xây dựng và phát triển đất nước theo con đường XHCN ”. [Văn kiện Đại hội toàn quốc lần 8 (NXB chính trị quốc gia-1990)]. Theo ý kiến của đại đa số các nhà khoa học Việt Nam, có thể quan niệm định hướng XHCN của nền KTTT ở nước ta có những nội dung chính sau: Một là: Hai mặt nền kinh tế và xã hội của nền kinh tế thị trường nước ta được chủ động kết hợp với nhau ngay từ đầu thông qua pháp luật, chính sách kinh tế và chính sách xã hội trên cả tần quản lý kinh tế vi mô và vĩ mô. Hai là: Cùng với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế, môi trường sinh thái của đất nước được chủ động bảo vệ qua các dự án đầu tư môi sinh và qua việc chấp hành một cách đúng đắn pháp luật , chính sách môi trường của Nhà nước qua từng thời kỳ. Ba là: Nền KTTT theo định hướng XHCN là nền kinh tế có trình độ phát triển cao. Nếu như nền kinh tế tiền tệ kém phát triển ,tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân thấp kém dẫn đến mức thu nhập bình quân của dân c ư còn thấp không có tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế thì không thể gọi là định hướng XHCN được. Bốn là : Định hướng XHCN còn được thể hiện trong cơ cấu kinh tế nước ta. Để có định hướng XHCN, kinh tế Nhà nước phải phát huy được vai trò chủ đạo, nó cùng với nền kinh tế hợp tác là nền tảng của nền kinh tế. Năm là: Nhà nước XHCN quản lý nền kinh tế thị trường vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Trong thời kỳ chuyển sang KTTT, nhà nước ta thực hiện vai trò “bà đở” tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế thị trường phát triển đúng hướng. Vai trò đó được thể hiện bằng hệ thống pháp luật, bảo vệ quyền tự do dân chủ, công bằng xã hội và mở rộng phúc lợi xã hội cho nhân dân. Sáu là: Nền KTTT ở nước ta là nền kinh tế dân tộc hoà nhập với kinh tế quốc tế. Với xu hướng kinh tế mở, nội dung này có ý nghĩa rất lớn, một mặt nó phát huy được lợi thế so sánh của nền kinh tế nước ta về vị trí địa lý về lao động và về tài nguyên thiên nhiên.
- Mặt khác nó làm cho nền kinh tế nước ta từng bước hoà nhập vào nền kinh tế khu vực và thị trường thế giới, từ đó có điềukiện tiếp thu những thành tưụ mới của khoa học-kỹ thuật, công nghệ thế giới, thực hiện công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. 1.2-Các giai đoạn và biện pháp hình thành nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở Việt Nam. Thực tiễn hơn 10 năm đổi mới kinh tế, chúng ta đã khẳng định những thành tựu to lớn trong phát triển kinh tế xã hội. tốc độ tăng trưởng đạt khá cao, Việt Nam đã ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế, đời sống nhân dân càng ngày càng được cải thiện và đang bước thời kỳ mới như đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã chỉ rõ: thời kỳ tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh ,vững bước đi lên CNXH chúng ta phải giải quyết một loạt vấn đề quan trọng, trong đó có vấn đề lựa chọn mô hình kinh tế thị trường theo định hướng XHCN: Xây dựng quy hoạch phát triển kinh tế đúng đắn, xác định chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá như cơ cấu ngành, cơ cấu thành phần kinh tế, cơ cấu kinh tế vùng lãnh thổ, xây dựng và thực hiện đồng bộ cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Để thực hiện mục tiêu cuối cùng là vững bước đi lên CNXH, quá trình phát triển nền KTTT theo định hướng XHCN cần được tiến hành qua 3 giai đoạn sau : 1.2.1-Giai đoạn thứ nhất, giai đoạn quá độ chuyển từ nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN về mặt lịch sử giai đoạn này rất quan trọng là nghị quýêt hội nghị BCH trung ương lần thứ VI (khoá VI) tháng 9-1979. Về mặt logic giai đoạn này bắt đầu từ việc hình thành và củng cố những đơn vị sản xuất những đội sản xuất hàng hoá theo đúng nghĩa nhằm tạo ra mối quan hệ vừa tự chủ, vừa lệ thuộc lẫn nhau giữa các chủ thể sản xuất. Nội dung chủ yếu của giai đoạn này là khắc phục tính hiện vật của quan hệ trao đổi, hình thành quan hệ hàng hoá tiền tệ tên thị trường. Nội dung được thực hiện với một số giải pháp sau : -Hình thành và cũng cố những đơn vị sản xuất hàng hoá nhằm chuyển quan hệ trao đổi có tính hiện vật sang quan hệ hàng hoá tiền tệ. -Đẩy mạnh phân công lao động xã hội nhằm mở rộng thị trường.
- -Chuyển quan hệ sở hữu có tính đơn nhất sang quan hệ sỡ hữu có tính đa dạng với nhiều hình thức sở hữu khác nhau. -Đổi mới chính sách kinh tế nhằm chuyển các quan hệ kinh tế theo chiều dọc, sang các quan hệ kinh tế theo chiều ngang. Trong các chính sách kinh tế chúng ta đặc biệt quan tâm đến chính sách giá cả. 1.2.2-Giai đoạn hai: Giai đoạn phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN. Đại hội Đảng VI năm 1986 đã đặt nền móng vững chắc cho quan hệ phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta. Quan điểm này đã được khẳng định rõ hơn tại đại hội lần VII và VIII của Đảng ta. Nội dung chủ yếu của giai đoạn này là : phát triển và mở rộng quan hệ hàng hoá tiền tệ tạo điều kiện tiền đề cho kinh tế hàng hóa phát triển. Chúng ta đang thực hiện những giải pháp sau: -Chuyển dịch cơ cấu kinh tế thao hướng công nghiệp hoá- hiện đại hoá. -Chủ động tạo điều kiện cần thiết để xây dựng các yếu tố thị trường, phát triển những ưu thế và động lực của thị trường, đồng thời hạn chế những mặt tiêu cực của thị trường. -Hoàn thiện và tăng cường vận dụng các chính sách tài chính và tiền tệ nhằm tạo nguồn vốn và thực hiện việc đầu tư vốn theo mục tiêu phát triển, phân phối và phân phối lại thu nhập quốc dân tạo nhập sự ổn định về tiền tệ, về giá và tỷ giá hối đoái, qua đó tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển sản xuất hàng hóa phù hợp với cơ chế thị trường. -Bồi dưỡng và đào tạo cán bộ quản lý kinh doanh theo yêu cầu của thị trường. -Tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước nhằm phát huy những ưu thế và khắc phục những khuyết tật của cơ chế thị trường. 1.2.3-Giai đoạn ba: Giai đoạn hình thành và phát triển kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Nội dung chủ yếu của giai đoạn này là tiền tệ hoá các quan hệ kinh tế, tạo lập c ơ sở kinh tế cho các quy luật kinh tế của KTTT và phát huy một cách đầy đủ tác dụng, phát trỉên kinh tế trong nước và hoà nhập với kinh tế thế giới. -Phát triển cơ cấu kinh tế mở nhằm hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân. Đây là giải pháp có tính thơì đại cần lựa chọn các dự án đầu tư nước ngoài trên nhiều mặt theo hướng bảo đảm lợi thế so sánh và chủ quỳên nước ta.
- -Hoàn thiện và phát triển KTTT các yếu tố đáp ứng sản xuất nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn, về sức lao động và các điều kiện vật chất khác cho sản xuất. -Thiết lập cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. -Lựa chọn chính xác khoa học công nghệ và mục tiêu phát triển. Cần quan niệm khoa học và công nghệ là biến cố có ý nghĩa chiến lược của sự phát triển. Trên đây là các giai đoạn và một số phương hướng then chốt cho từng giai đoạn. Nước ta đã và đang thực hiện các giai đoạn này dần dần hình thành nền KTTT theo định hướng XHCN vận hành theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. 2-Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền KTTT theo định hướng XHCN ở Việt Nam. 2.1-Vai trò của Nhà nước: Nhà nước là một hiện tượng lịch sử, ngay từ khi ra đời nó đã có vai trò to lớn trong xã hội có giai cấp và trong quá trình phát triển của lịch sử nhân loại. Nhà nước, một mặt, nó là tổ chức xã hội; mặt khác, chính thông qua quản lý xã hội có hiệu quả mà nó thực hiện được sự thống trị của giai cấp thống trị đối với toàn xã hội. Bất cứ nhà nước nà cũng đều thực hiện chức năng hai mặt của nó, quy luật vận động của đơì sống sản xuất vật chất và tinh thần, tạo cơ sở mới, do đó đòi hỏi có sự thay đổi tương ứng trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước thì quản lý Nhà nước mới có hiệu quả, nhà nước mới có khả năng thúc đẩy sự phát triển kinh tế- xã hội. Từ Đại hội Đảng lần VI của Đảng (1986) Việt Nam đã chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, thực hiện dân chủ hoá mọi mặt đời sống xã hội, hoà nhập khu vực. Trong tư tưởng của các nhà kinh điển Mác-Lênin về vai trò của Nhà nước cần đặc biệt chú ý tơí hai luận điểm quan trọng: 2.1.1-Ph.Ăngghen đã từng nêu nguyên tắc có tính phương pháp luận về sự tác động của nhà nước đối với nền kinh tế rằng: sự tác động của Nhà nước nếu là hợp quy luật thì sẽ thúc đẩy kinh tế phát triển , ngược lại, nếu là sự tác động trái quy luật thì sẽ gây ra khủng hoảng và lãng phí cho xã hội. Đó là nguyên tắc đúng đắn, phổ biến đối với hoạt độgn quản lý của mọi kiểu Nhà nước. Đối với nhà nước XHCN nói chung, Nhà nước Việt Nam nói riêng, chúng ta có thể tìm hiểu ví dụ trong hoạt động của nó để minh hoạ cho hai cách tác động nói trên của nhà nước. Từ đó có thể dẫn đến kết luận: Nếu muốn bộ
- máy nhà nước quản lý có hịêu lực, hiệu quả thì phải tuân theo quy luật vận động khách quan của xã hội, trước hết là các quy luật kinh tế. 2.1.2-Nhà nước ta là nhà nước dân chủ, mà nhà nước dân chủ nếu muốn quản lý có hiệu lực, hiệu quả thì phải thu hút được nhân dân lao động tham gia một cách rộng rãi và thực sự bình đẳng vào quản lý công việc của nhà nước và xã hội. Theo C.Mác, chế độ dân chủ thực chất là chế độ “do dân tự quy định chế độ nhà nước, hướng tới con người hiện thực và được xác định là sự nghiệp của bản thân nhân dân và ở đây là chế độ nhà nước xuất hiệ với dân chủ đã làm đảo lộn mối quan hệ giữa nhà nước và nhân dân không còn là “thần dân của nhà nước” mà là “nhà nước của thần dân”. Do đó chế độ dân chủ là xuất phát từ con người và không phải chế độ nhà nước tạo ra nhân dân mà là nhân dân tạo ra chế độ nhà nước. Do vậy, trong nhà nước dân chủ này vai trò của nhà nước đối với xã hội về thực chất là vai trò tổ chức lại các quá trình dân chủa hoá. Thật ra, khi đất nước chuyển sang nền KTTT, nhà nước đã đóng vai trò tổ chức theo hướng dân chủ. Do đó, xuất hiện quá trình dân chủ hoá trên lĩnh vực kinh tế, khẳng định quyền sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quyền tự do kinh doanh theo pháp luật, quyền thừa kế tài sản hợp pháp của công dân. Nhưng ở đây ta muốn nói đến vai trò tổng thể của nhà nước trong sự quản lý của nhà nước trong nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. 2.2- Từ phần lí luận trên, tính tất yếu khách quan của sự quản lý nhà nước trong nền kinh tế nước ta được thể hiện như sau: ở Việt Nam, vai trò kinh tế của nhà nước được thể hiện thông qua nhiệm vụ tổ chức quản lý toàn bộ nền kinh tế quốc dân ở tầm kinh tế vi mô và vĩ mô, trong đó quản lý kinh tế vĩ mô là chủ yếu. Sở dĩ nhà nước ta có vai trò kinh tế nói trên là vì: Một là: Nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân là người đại diện cho toàn dân, cho toàn xã hội có nhiệm vụ quản lý đất nước về mặt hành chính-kinh tế. Hai là: Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, cùng với những mặt tích cực của nó không thể tránh khỏi được các khuyết tật vốn có. Bởi vậy, sự quản lý nhà nước sẽ góp phần khắc phục khuyết tật, phát huy mặt tích cực của cơ chế thị trường và là một tất yếu khách quan. Nhà nước thực hiện vai trò kinh tế của mình nhằm các mục tiêu sau: -Đảm bảo cho nền kinh tế phát triển ổn định, bền vững chánh những đột biến sấu.
- -Đảm bảo hiệu quả kinh tế- xã hội cao, thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế kết hợp với công bằng và tiến bộ xã hội. -Thực hiện nhiệm vụ quán triệt, tổ chức thực hiện đường lốicủa Đảng, đưa nền kinh tế phát triển theo định hướng XHCN. 2.3- Vai trò kinh tế của nhà nước. Với tư cách là người quản lý, điều hành nền KTTT nhà nước giữ vai trò đặc biệt quan trọngtrong việc định hướng nền KTTT theo CNXH. Vai trò kinh tế nói trên được thể hiện ở những đặc điểm sau: Thứ nhất: Nhà nước phát huy cao độ mặt tích cực của nền KTTT để phát triển kinh tế, phục vụ lợi ích của đa số nhân dân lao động nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, mục đích cuối cùng của sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta. Nhà nước lợi dụng cơ chế cạnh tranh của thị trường và tự do hoá sản xuất kinh doanh để giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất, khơi dậy các tiềm năng của mọi cá nhân, tập thể lao động và các cộng đồng dân tộc theo hướng hiện đại, phà hợp với xu thế phát triển khoa học và công nghệ, thực hiện dân giàu nước mạnh- xã hội văn minh. Muốn vậy nhà nước cần hạn chế tối đa những mệnh lệnh hành chính để cho hoạt động thị trường được đưa ra chủ yếu trên sự hướng dẫn của các quy luật của kinh tế thị trường. Nhà nước xây dựng thị trường thống nhất trong các nước, có tính đến đặc thù và trình độ phát triển không đồng đều của các vùng từng bước tích cực xây dựng thị trường đồng bộ, nhanh chóng tiếp nhận thị trường quốc tế. Trong quá trình xây dựng thị trường cần phải tuân thủ nguyên tắc là tốt thì để cho thị trường tự điều tiết. Nhà nước chỉ can thiệp khi hoạt động vi mô ảnh hưởng đến toàn cục, khi thị trường có những tiêu cực cần ngăn chặn nhà nước lợi dụng các phương tiện và công cụ của thị trường, kể cả kinh nghiênỵm kinh doanh và phương thức quản lý tiến bộ của chủ nghĩa tư bản vào mục tiêu XHCN. Thứ hai: Nhà nước ở tầm vĩ mô trên cơ sở nắm vững thị trường để điều tiết kinh tế và hạn chế những mặt trái KTTT, KTTT luôn thể hiện tính hai mặt: Một là động lực cho sự phát triển, mặt khác là khuyết tật như khủng hoảng kinh tế, lãng phí tài nguyên, phân hoá giàu nghèo…Từ tính chất hai mặt của KTTT, Nhà nước đóng vai trò rất quan trọng trong việc định hướng và điều tiết nền KTTT nhằm ổn định và tăng trưởng ở nước ta. Nhà nước xây dựng các cung cụ và chính sách vĩ mô để định hướng và điều tiết tổng thể nền
- kinh tế. Mục tiêu chính sách để công cụ kinh tế vĩ mô là hướng sức mạnh của thị trường đi đúng hướng, dựa và pháp luật để tạo ra môi trường và hành lang năng động có trật tự cho các chủ thể kinh doanh, làm lành mạnh các quan hệ thị trường. Các chính sách công cụ kinh tế vĩ mô tác động vào KTTT nước ta rất đa dạng trong đó có những chinhs sách công cụ lớn như luật pháp, tài chính, đầu tư… Thông qua chính sác công cụ nhà nước giảm đến mức thấp nhất mặt tiêu cực và hậu quả kinh tế xã hội do cạnh tranh gây ra nhawmf đảm bảo phác lợi cộng đồng cũng như công bằng xã hội và bảo vệ môi trường. Nhà nước gắn kế hoach vĩ mô định hướng với các chính sách và chương trình kinh tế tạo môi trường cho thị trường phát triển mạnh, đồng thời sử dụng các biện pháp hành chính cần thiết để hạn chế các mặt trái của KTTT. Vậy bằng các biện pháp và chính sách công cụ quản lý, điều tiết, nhà nước phục vụ mục tiêu xã hội, đây là nhiệm vụ trọng tâm và là tiền đề quan trọng để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội văn minh. KTTT luôn luôn vận động và phát triển do đó các chính sách kinh tế vĩ mô nhà nước phải thường xuyên được bổ xung hoàn thiện thì mới thực sự có hiệu quả. Thứ ba: Nhà nước điều tiết kinh tế và xây dựng thực hiện hệ thống chính sách xã hội sao cho bảo đảm sự thống nhất giữa tăng trưởng kinh tế và hiệu quả xã hội, khác với nền KTTT ở nước ta, ngay từ đầu nàh nước đã tham gia điều tiết vừa hạn chế mặt tiêu cực tự phát vừa bảo vệ lợi ích của xã hội, của con người. Nhà nước điều tiết nền kinh tế qua các quan hệ sản xuất và phân phối từ tư liệu sản xuất đến vốn, kỹ thuật, công nghệ , lao động , tiền lương, phúc lợi xã hội… Để vừa phát triển kinh tế vừa bảo đảm công bằng xã hội phù hợp với điều kiện xã hội ở nước ta. Sự điều tiết của nhà nước vừa nhằm tạo điều kiện cho nền kinh tế tăng trưởng ổn định, vừa nhằm đảm bảo lợi ích của người lao động, đảm bảo công bằng xã hội. Điều quan trọng là nhà nước cần xây dựng và thực hiện hệ thống chính sách xã hội nhằm kích thích được con người sáng tạo không ngừng sử lý được sự phân hoá giàu nghèo qua đáng, thực hiện được các vấn đề xã hội, phúc lợi xã hội và y tế xã hội, văn hoá phù hợp với trình độ phát triển của nền kinh tế. Thông qua ngân sách, Nhà nước thực hiện đièu tiết và tái phân phối hợp lý để vừa khuyến khích mọi người làm giàu chính đáng, vừa có nguồn để thực hiện các chính sách xã hội. Thứ tư: Nhà nước phải xây dựng được hệ thống kinh tế quốc doanh vì kinh tế quốc doanh là nhân tố quy định và đảm bảo tính định hướng xã hội chủ nghĩa : Thể hiện đầy đủ nhất tính ưu việt của chủ nghĩa cộng sản đảm bảo sựu thống nhất giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội, tiến bộ xã hội và bảo vệ mội trường sinh thái, thống nhất
- chính sách kinh tế với chính sách xã hội. Nhà nước vừa phải tôn trọng tính bình đẳng của các chủ thể kinh tế không kể ho ở thành phần nào, vừa phải có ý thức đầy đủ đến việc phát triển kinh tế quốc doanh để nó thực sự giữ vai trò chủ đạo. Nhà nước bằng các chính sách, biện pháp kinh tế để sao cho: -Kinh tế quốc doanh phải chiếm được các vị trí kinh tế then chốt có liên quan đến hoạt động của nền kinh tế cũng như an ninh, quốc phòng và các hoạt động cần thiết mà các thành phần kinh tế không có điều kiện hoặc không muốn đầu tư vì không sinh lãi hoặc ít lãi. Kinh tế quốc doanh phải chiếm được các ngành kinh tế có kỹ thuật và công nghệ hiện đại, tạo ra kiểu mẫu về năng suất chất lượng, hiệu quả để lôi cuốn các thành phần kinh tế khác theo quỹ đạo của CNXH. -Kinh tế quốc doanh phải tạo ra kết cấu hạ tầng đáp ứng được yeu cầu phát triển của nền KTTT, có giá trị tổng sản lượng và tỷ trọng hàng hoá ngày càng tăng, đóng góp tỷ lệ cao trong ngân sách nhà nước không ngừng nâng cao trình độ và đời sống của người lao động. -Kinh tế quốc doanh phải tạo ra môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, bảo đảm tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vững có hiệu quả và công bằng. Vậy là, KTTT theo định hướng XHCN đã đặt ra những nhiệm vụ cụ thể cho nhà nước mới hoàn thành được nhiệm vụ định hướng XHCN nền KTTT nước ta. ********************************** Chương III: Thực trạng nền kinh tế ở Việt Nam những năm qua và giải pháp cho nền KTTT theo định hướng XHCN. 1-Thực trạng của nền kinh tế Việt Nam những năm qua ( khi chuyển sang KTTT xã hội chủ nghĩa). Khi chuyển sang KTTT, chúng ta đứng trước một thực trạng là: đất nước đã và từng bước quá độ lên CNXH từ một xã hội vốn là thuộc địa nửa phong kiến với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất xã hội rất thấp đất nước lại trãi qua hàng chục năm chiến tranh, hậu quả để lại còn nặng nề. Những tàn dư thực dân phong kiến còn nhiều, lại chịu ảnh hưởng nặng nề của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Với những đặc điểm xuát phát như trên, có thể nhận xét rằng: Nền kinh tế nước ta không hoàn toàn là kinh tế tự nhiên tự cấp tự túc, nhưng cũng chưa phải là kinh tế hàng
- hoá theo nghĩa đầy đủ. Mặt khác, do đó có sự đổi mới về mặt kinh tế nước ta cũng không còn là nền kinh tế chỉ huy. Có thể nói thực trạng nền kinh tế nước ta khi chuyển sang KTTT là nền kinh tế kém phát triển, còn mang nặng tính tự cấp tự túc và chịu ảnh hưởng nặng nề của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Thực trạng đó được biểu hiện ở các mặt sau đây: 1.1-Kinh tế hàng hoá kém phát triển, nền kinh tế còn mang nặng tính tự cấp tự túc. Sự yếu kém của kinh tế hàng hoá nước ta được thể hiện ở những dấu hiệu có tính điển hình dưới đây: -Trình độ cơ sở vật chất –kỹ thuật và công nghệ sản xuất còn rất kém. -Hệ thống cơ cấu hạ tầng, dịch vụ sản xuất và dịch vụ xã hội chưa đủ để phát triển kinh tế thị trường ở trong nước và chưa có khả năng để mở rộng giao lưu với thị trường quốc tế. -Cơ cấu kinh tế còn mất cân đối và kém hiệu quả. -Chưa có thị trường theo đúng nghĩa của nó. -Năng suất lao động xã hội và thu nhập quốc dân tính theo đầu người còn thấp. Phần này phản ánh tổng hợp thực trạng kinh tế hàng hoá còn kém phát triển. Do trình độ cơ sở vật chất kỹ thuật và công nghệ thấp, kết cấu hạ tầng dịch vụ sản xuất và dịch vụ xã hội còn kém: cơ cấu kinh tế còn mất cân đối, thị trường trong nước chưa phát triển…cho nên năng suất lao động và thu nhập bình quân tính theo đầu người ở nước ta tất yếu vẫn còn thấp kém. Tình hình này được phản ánh qua các số liệu sau đây: Theo gía hiện 1988 1989 1990 1991 1992 hành (tỷ đồng) GNP 13.266 2.308 2.308 69.959 101.870 Tổng đầu tư 1.906 2.817 2.817 Tiêu dùng (C) 13.291 24.358 24.356 66.610 94.883 Tiết kiệm (S) -25 -50 -10 3.349 6.987 (Nguồn : Tình hình kinh tế Việt Nam 1986-1991. Niên giám thống kê-92) Theo số liệu thống kê của ngân hàng thế giới năm 1992 thì mức thu nhập bình quan tính theo đầu người của nước ta so với các nước đang phát triển ở Đông nam á vào loại thấp nhất. Theo sự tính toán của các nhà kinh tế Việt Nam thì mức GNP người mua của
- nước ta hiện nay là 200 USD. Trong số đó GNO/ người vào năm 1990 của trung quốc là 370 USD, Inđonesia là 570 USD, ấn độ là 350 USD, Philippin là 730 USD, Thái lan là 1420 USD, Malayxia là 2320 USD, Nam triều tiên là 5400 USD. 1.2-ảnh hưởng của mô hình kinh tế chỉ huy với cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Do nhận thức chủ quan duy ý trí về nền kinh tế XHCN cho nên trong nhiều thập kỷ vừa qua ở nước ta đã tồn tại mô hình kinh tế chỉ huy với cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Thực tiễn hoạt động kinh tế đã chứng minh mô hình này có nhiều nhược điểm, nó gần như đối lập với kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị trường. Hai cơ chế cũ và mới (cơ chế tập trung quan liêu bao cấp được gọi là cơ chế cũ, còn cơ chế thị trường được gọi là cơ chế mới ) có nhiều quan điểm khác nhau, trong đó có điểm khác nhau là ở chỗ: cơ chế cũ hình thành trên cơ sở thu hẹp hoặc gần như xoá bỏ quan hệ hàng hoá tiền tệ làm cho nền kinh tế bị “ hiện vật hoá”. Cơ chế mới hình thành trên cơ sở mở rộng quan hệ hàng hoá, tiền tệ. ở cơ chế cũ đó là cơ chế lệnh kế hoạch, kèm theo lệnh gía cả kinh doanh tài chính kinh doanh, tín dụng kinh doanh, tín dụng kinh doanh phục vụ nhu cầu mua bán của cả chủ thể sản xuất theo nguyên tắc hoạch toán kinh tế. Nh ư vậy, trong cơ chế cũ phạm trù giá cả, tài chính, lưu thông tiền tệ là phạm trù vốn, có cửa kinh tế hàng hoá mặc dù có được sử dụng như chỉ là hình thức. Việc mở rộng sản xuất và lưu thông hàng hoá là một tất yếu lịch sử, cho nên sự hạn chế quan hệ hàng hoá tiền tệ và quy luật giá trị trở thành sự cản trở tiến bộ kinh tế, kìm hãm nhân tố mới, do đó làm cho nàh nước không thể làm chủ những quá trình kinh tế khách quan mặc dù trong tay nhà nước có thực lưc kinh tế to lớn. Vì vậy, Đại hội Đảng lần VII của Đảng ta đã khẳng định “ xoá bỏ triệt để cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, hình thành cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước bằng kế hoạch chính sách và các công cụ khác. Xây dựng và phát triển đồng bộ các loại htị trường hàng tiêu dùng, vật tư, dịch vụ, tiền vốn, sức lao động… thực hiện giao lưu kinh tế thông suốt trong cả nước và với thị trường thế giới ” –Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên CNXH, NXB sự thật năm 1991. 1.3-Thực chất quá trình chuyển nền kinh tế Việt Nam sang nền KTTT theo định hướng XHCN. 1.3.1-Từ sự phân tích thực trạng của nền kinh tế nước ta khi chuyển sang KTTT có thể rút ra kết luận thực chất của quá trình chuyển nền kinh tế nước ta sang nền KTTT theo
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn " Những giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu mặt hàng thủy sản của Việt Nam sang thị trường EU"
58 p | 613 | 310
-
Luận văn: " Những giải pháp hoàn thiện hệ thống mạng lưới bán hàng sản phẩm của công ty TNHH Việt Thắng "
93 p | 338 | 154
-
Luận văn: Những giải pháp chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp huyện Quản Bạ - tỉnh Hà Giang
60 p | 415 | 136
-
Luận văn: Những giải pháp Marketing cho hoạt động kinh doanh du lịch lữ hành ở Công ty Cổ phần Du lịch và Thương mại Đông Nam Á
60 p | 277 | 97
-
Luận văn “ Những giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu mặt hàng thủy sản của Việt Nam sang thị trường EU trong những năm tới “
58 p | 304 | 94
-
Luận văn " Những giải pháp hoàn thiện hệ thống kênh phân phối sản phẩm của doanh nghiệp bánh cao cấp Bảo Ngọc "
92 p | 203 | 81
-
Luận văn: Những giải pháp nhằm đẩy nhanh tiến độ giải ngân nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) tại Việt Nam giai đoạn 2001-2005
72 p | 154 | 44
-
Luận văn: "Những giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao chất lượng khoán công trình ở công ty cơ giới và xây lắp số 12 trong giai đoạn hiện nay."
80 p | 141 | 43
-
Luận văn: Những giải pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Đà Nẵng trong giai đoạn hiện nay
112 p | 192 | 42
-
LUẬN VĂN: NHỮNG GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG TIÊU THỤ SẢN PHẨM NHỰA ĐƯỜNG CỦA CÔNG THƯƠNG MẠI VÀ XÂY DỰNG ĐÀ NẴNG
101 p | 163 | 30
-
LUẬN VĂN: Những giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tại NHNo&PTNT huyện Như Xuân tỉnh Thanh Hoá
64 p | 114 | 28
-
Luận văn: Những giải pháp cơ bản nâng cao hiệu quả quản lý chất lượng trong sản xuất kinh doanh của Công ty quan hệ quốc tế đầu tư sản xuất
78 p | 146 | 26
-
Luận văn: Những giải pháp để mở rộng các kênh huy động vốn của công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại kỹ thuật điện Hà Nội
73 p | 154 | 22
-
LUẬN VĂN: Những giải pháp hoàn thiện hệ thống mạng lưới bán hàng sản phẩm của công ty TNHH Việt Thắng
80 p | 123 | 22
-
LUẬN VĂN: Những giải pháp thực hiện mục tiêu giải quyết việc làm
35 p | 117 | 20
-
LUẬN VĂN: Những giải pháp cho con đường quá độ lên CNXH ở nước ta
26 p | 118 | 17
-
Luận văn Những giải pháp thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu nông sản xuất khẩu trong điều kiện tự do hoá thương mại
57 p | 99 | 8
-
Luận văn: NHỮNG GIẢI PHÁP NGĂN NGỪA VÀ CHỐNG THẤTTHOÁT LÃNG PHÍ TRONG ĐẦU TƯ Ở VIỆT NAM
30 p | 84 | 8
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn