intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN: Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động kiểm toán nhà nước ở Việt Nam

Chia sẻ: Nguyen Hai | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:121

236
lượt xem
71
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Điều 12 Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) khẳng định: "Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp, pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống các tội phạm, các vi phạm Hiến pháp, pháp luật. Mọi hành động xâm phạm lợi ích nhà nước quyền...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN: Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động kiểm toán nhà nước ở Việt Nam

  1. LUẬN VĂN: Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động kiểm toán nhà nước ở Việt Nam
  2. Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Điều 12 Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) khẳng định: "Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp, pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống các tội phạm, các vi phạm Hiến pháp, pháp luật. Mọi hành động xâm phạm lợi ích nhà nước quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của công dân đều bị xử lý theo pháp luật". Để hiện thực hoá điều này của Hiến pháp trong thực tiễn, ngày nay giới khoa học pháp lý Việt Nam không chỉ tiếp tục nghiên cứu khẳng định những giá trị của Học thuyết Pháp chế XHCN, mà còn hướng đi sâu nghiên cứu pháp chế trong từng lĩnh vực cụ thể. Đến nay, đã có nhiều công trình khoa học về pháp chế XHCN đã được công bố nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu về pháp chế XHCN trong hoạt động kiểm toán nhà nước. ở Việt Nam, Kiểm toán Nhà nước (KTNN) được thành lập và hoạt động theo Nghị định số 70/CP ngày 11/07/1994 của Chính phủ về việc thành lập cơ quan KTNN và Quyết định số 61/TTg ngày 24/1/1995 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Điều lệ tổ chức và hoạt động của KTNN. Đây là cơ sở pháp lý cho sự ra đời và hoạt động của Kiểm toán Nhà nước - một cơ quan mới, không có tổ chức tiền thân và chưa có tiền lệ hoạt động trong cơ cấu tổ chức bộ máy của Nhà nước ta. Trong 15 năm xây dựng và phát triển, các văn bản pháp luật về tổ chức và hoạt động của Kiểm toán Nhà nước không ngừng được bổ sung hoàn thiện, đặc biệt tại Kỳ họp thứ bảy, Quốc hội khoá XI đã thông qua Luật Kiểm toán nhà nước là một bước tiến to lớn về phương diện lập pháp đối với lĩnh vực kiểm toán nhà nước. Trên cơ sở các văn bản pháp luật này, tổ chức và hoạt động của Kiểm toán Nhà nước ngày càng đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới, tăng cường kiểm tra, giám sát của Nhà nước trong quản lý, sử dụng ngân sách,
  3. tiền và tài sản nhà nước; đồng thời, góp phần củng cố, tăng cường pháp chế XHCN trong tổ chức và hoạt động của Kiểm toán Nhà nước hiện nay. Thực tiễn cho thấy, thời gian qua, pháp chế XHCN trong hoạt động kiểm toán nhà nước không ngừng được tăng cường nhằm xây dựng Kiểm toán Nhà n ước trở thành công cụ mạnh của Nhà nước về kiểm tra tài chính nhà n ước và tài sản công; bảo đảm cho pháp luật kiểm toán nhà nước đi vào cuộc sống và được tuân thủ nghiêm chỉnh. Kiểm toán Nhà nước đã tiến hành hàng nghìn cuộc kiểm toán với quy mô lớn nhỏ khác nhau tại các đơn vị có sử dụng ngân sách nhà nước (NSNN) trên hầu khắp các lĩnh vực, kể cả lĩnh vực dự trữ quốc gia, an ninh, quốc phòng và ngân sách Đảng mà trọng tâm là kiểm toán báo cáo quyết toán của các bộ, ngành, các tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương, các Tổng công ty Nhà nước và các chương trình mục tiêu quốc gia, các dự án đầu tư xây dựng cơ bản (XDCB) trọng điểm của Nhà nước. Kết quả kiểm toán không chỉ giúp cho các bộ, ngành, địa phương điều chỉnh số liệu kế toán và báo cáo quyết toán, chỉ ra nhiều sai phạm chính sách, chế độ quản lý kinh tế, tài chính, kiến nghị tăng thu, tiết kiệm chi và đưa vào quản lý qua NSNN hàng chục nghìn tỷ đồng; mà điều quan trọng hơn là qua kiểm toán đã giúp các đơn vị được kiểm toán nhìn nhận và đánh giá đúng đắn thực trạng tình hình tài chính, khắc phục được những yếu kém sơ hở trong quản lý kinh tế và sản xuất kinh doanh, cải tiến và hoàn thiện hệ thống quản lý và kiểm soát nội bộ; đề xuất, kiến nghị với Chính phủ và các cơ quan chức năng về những sơ hở trong công tác quản lý, những bất cập nảy sinh trong cơ chế, chính sách hiện hành để kịp thời sửa đổi, bổ sung cho phù hợp; đồng thời, hoạt động của Kiểm toán Nhà nước đã góp phần đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, thất thoát công quỹ và tài sản quốc gia, xác lập trật tự, kỷ cương trong quản lý kinh tế, tài chính. Tuy nhiên, trước yêu cầu của công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, pháp chế XHCN trong hoạt động kiểm toán nhà nước vẫn còn nhiều tồn tại, khiếm khuyết, như: - Hệ thống pháp luật về tổ chức và hoạt động của Kiểm toán Nhà nước vẫn còn có nhiều bất cập: các chế định pháp luật về địa vị pháp lý, chức năng, nhiệm vụ, quyền và trách nhiệm của KTNN còn chưa tương xứng với vị trí, vai trò của Kiểm toán Nhà
  4. nước, còn thiếu không ít các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ với các bên có liên quan và chưa đồng bộ, giữa nội dung và hình thức các văn bản pháp luật còn có những bất cập... ; chưa đáp ứng kịp thực tiễn đổi mới, mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế, chưa hoàn toàn phù hợp với khuyến cáo của Tổ chức Quốc tế các cơ quan Kiểm toán tối cao và thông lệ quốc tế. - Sự tuân thủ pháp luật và chấp hành pháp luật kiểm toán nhà nước của một bộ phận cán bộ, công chức Kiểm toán Nhà nước, đơn vị được kiểm toán và tổ chức, cá nhân có liên quan vẫn còn không nghiêm dẫn đến phát sinh tiêu cực, phiền hà; tham nhũng, gian lận trong quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước; không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ các kết luận, kiến nghị kiểm toán... điều này đã làm giảm hiệu lực và hiệu quả hoạt động của KTNN với tư cách là cơ quan kiểm tra tài chính nhà nước cao nhất của quốc gia. - Cơ chế đảm bảo cho việc tuân thủ và chấp hành nghiêm minh pháp luật, pháp chế kiểm toán nhà nước còn thiếu rõ ràng, minh bạch, chưa hiệu quả, cũng như chưa đủ tính cưỡng chế đảm bảo duy trì việc tuân thủ và thực hiện pháp luật kiểm toán nhà nước một cách thường xuyên, liên tục và đồng bộ... Từ những lý do trên đây việc tăng cường pháp chế trong lĩnh vực kiểm toán nhà nước ở nước ta hiện nay là vấn đề có tính cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn, do vậy, tác giả chọn đề tài: " Phỏp chế xó hội chủ nghĩa trong hoạt động kiểm toán nhà nước ở Việt Nam " làm luận văn tốt nghiệp cao học, chuyên ngành lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Pháp chế XHCN là một trong những phạm trù pháp lý cơ bản có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn của đời sống chính trị, kinh tế và xã hội. Vì vậy được nhiều học giả quan tâm nghiên cứu, xem xét trên nhiều bình diện và nhiều khía cạnh khác nhau. Các công trình nghiên cứu về pháp chế XHCN tiêu biểu cả trong và ngoài nước có thể chia thành hai nhóm: Nhóm một là các công trình nghiên cứu về pháp chế nói chung:
  5. Đến nay đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về pháp chế XHCN đề cập đến những vấn đề lý luận chung về pháp chế như khái niệm các mối quan hệ, nguyên tắc của pháp chế XHCN. Điều đó được thể hiện ở một số công trình khoa học như: - GS.TS Trần Ngọc Đường, Suy nghĩ về một trong những luận điểm của V.I.Lênin, Dân chủ và pháp luật, số 11, Hà Nội, 1997, tr.2-3. - Hồ Chủ tịch và pháp chế, TP. Hồ Chí Minh, Nxb Hội Luật gia Việt Nam, 1985, 266 trang. Sách giới thiệu những nội dung tư tưởng và yêu cầu của pháp chế của Hồ Chí Minh. - Triệu Tử Bình (Trung Quốc), Học tập quán triệt văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XVI - "Nghiên cứu sâu sắc Luật học, đẩy mạnh xây dựng nền pháp chế toàn diện", Tạp chí Luật học Trung Quốc số 1/2006 Bắc Kinh, Nxb Tạp chí Luật học Trung Quốc. Võ Khánh Vinh: "Pháp chế xã hội chủ nghĩa - một phương thức thể hiện và thực hiện quyền lực của nhân dân ", Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 1/1991; Hoàng Văn Hảo: "Vấn đề giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa dân chủ và pháp chế trong quá trình đổi mới ở nước ta", Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 2/1992; Đào Trí úc: "Tăng cường tính thống nhất của pháp chế, nghiêm chỉnh tuân theo và chấp hành pháp luật", Tạp chí Cộng sản, số 3/1995... Nhóm hai là các công trình tiêu biểu nghiên cứu pháp chế XHCN trên từng lĩnh vực cụ thể gồm có: - "Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động của lực lượng công an nhân dân trên lĩnh vực bảo vệ an ninh quốc gia ở nước ta hiện nay", Luận án Phó tiến sĩ luật học của Nguyễn Phùng Hồng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 1994; - "Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa về kinh tế trong quản lý nhà nước nền kinh tế thị trường định hướng pháp chế xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay", Luận án Phó tiến sĩ Luật học của Quách Sĩ Hùng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 1996;
  6. - "Tăng cường pháp chế trong lĩnh vực giao thông đường bộ ở nước ta hiện nay", Luận văn thạc sĩ Luật học của Nguyễn Huy Bằng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2001; - "Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội", Luận văn thạc sĩ Luật học của Nguyễn Chí Dũng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2003 ; - "Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực thi đua khen thưởng ở tỉnh Thanh Hoá hiện nay", Luận văn thạc sĩ Luật học của Nguyễn Xuân Hà, Học viện Chính trị – Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, 2008... Các công trình đều đưa ra khái niệm pháp chế XHCN nói chung và khái niệm, đặc trưng và giải pháp tăng cường pháp chế XHCN trên từng lĩnh vực cụ thể. Từ tình hình nghiên cứu trên cho thấy, đến nay chưa có công trình khoa học nào trực tiếp nghiên cứu "Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động kiểm toán nhà nước ở Việt Nam". Mặc dù vậy, các công trình đã công bố nêu trên là tài liệu tham khảo có giá trị để nghiên cứu và viết hoàn thiện đề tài luận văn. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn Mục đích của luận văn: Luận văn có mục đích nghiên cứu là trên cơ sở nghiên cứu lý luận và đánh giá thực trạng pháp chế XHCN trong hoạt động kiểm toán nhà nước, đề xuất các quan điểm và giải pháp nhằm bảo đảm và tăng cường pháp chế trong hoạt động kiểm toán nhà nước ở nước ta hiện nay. Nhiệm vụ của luận văn: Để thực hiện mục đích nghiên cứu trên nhiệm vụ của luận văn là: - Xây dựng khái niệm, đặc trưng của pháp chế XHCN trong hoạt động kiểm toán nhà nước. - Phân tích vai trò của pháp chế XHCN trong hoạt động kiểm toán nhà nước. - Phân tích các yếu tố bảo đảm pháp chế trong hoạt động kiểm toán nhà nước. - Đánh giá thực trạng pháp chế XHCN trong hoạt động kiểm toán nhà nước.
  7. - Đề xuất các quan điểm và giải pháp bảo đảm pháp chế trong hoạt động kiểm toán nhà nước ở nước ta hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn - Về đối tượng nghiên cứu của luận v ăn: Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về pháp chế XHCN, luận văn nghiên cứu đặc điểm và nội dung của pháp chế XHCN trong hoạt động kiểm toán nhà nước; nghiên cứu thực trạng, tìm hiểu nguyên nhân của thực trạng pháp chế XHCN trong hoạt động kiểm toán nhà nước; luận giải các giải pháp nhằm bảo đảm tăng cường pháp chế trong hoạt động kiểm toán nhà nước ở nước ta hiện nay. - Phạm vi nghiên cứu của luận văn: Luận văn nghiên cứu pháp chế XHCN trong hoạt động kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước từ khi được thành lập (11/7/1994) đến nay. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn - Cơ sở lý luận của luận văn: luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về pháp luật và pháp chế XHCN. - Phương pháp nghiên cứu của luận văn: dựa trên phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, luận văn đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: lịch sử - cụ thể, phân tích - tổng hợp, kết hợp với phương pháp xã hội học, thống kê, so sánh. 6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn Là luận văn là chuyên khảo đầu tiên nghiên cứu tương đối toàn diện và hệ thống "Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động kiểm toán nhà nước ở Việt Nam". Vì vậy, có những điểm mới cụ thể sau: - Xác định khái niệm, nội dung của pháp chế trong hoạt động kiểm toán nhà nước. - Chỉ ra được những đặc trưng của pháp chế XHCN trong hoạt động kiểm toán nhà nước.
  8. - Chỉ ra được những ưu điểm, tồn tại và nguyên nhân của những tồn tại về thực trạng pháp chế XHCN trong hoạt động kiểm toán nhà nước. - Xác lập hệ thống giải pháp có tính khả thi nhằm bảo đảm pháp chế XHCN trong hoạt động kiểm toán nhà nước ở nước ta hiện nay. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn được kết cấu thành 3 chương, 7 tiết.
  9. Chương 1 Cơ sở lý luận về pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động kiểm toán nhà nước 1.1. Khái niệm, đặc trưng của pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động kiểm toán nhà nước 1.1.1. Những vấn đề cơ bản về kiểm toán và Kiểm toán Nhà nước 1.1.1.1. Khái niệm, sự cần thiết khách quan, chức năng và phân loại kiểm toán a) Khái niệm kiểm toán Nhiều nhà nghiên cứu lịch sử cho rằng kiểm toán ra đời từ thời La Mã cổ đại vào thế kỷ thứ III trước Công Nguyên. Chính vì vậy, kiểm toán có gốc từ La tinh"Audit", nguyên bản là "Audire", gắn liền với nền văn minh của Ai Cập và La Mã cổ đại. Tuy kiểm toán ra đời đã hơn 2000 năm qua, nhưng nó cũng chỉ phát triển mạnh mẽ từ giữa thế kỷ XIX. Từ "Audire" có nghĩa là nghe. Hình ảnh kiểm toán cổ điển thường được tiến hành bằng cách người ghi chép về tài sản đọc to lên cho một bên độc lập "nghe" rồi sau đó chấp nhận thông qua việc chứng thực. ở Việt Nam, thuật ngữ "Kiểm toán" xuất hiện trở lại và được sử dụng nhiều từ những năm đầu của thập kỷ 90. Trước năm 1975, ở miền Nam Việt Nam đã có hoạt động của các công ty kiểm toán nước ngoài. Cho đến nay ở Việt Nam cũng như trên thế giới còn tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau về kiểm toán. Tuy nhiên quan niệm về kiểm toán được chấp nhận phổ biến hiện này là: "Kiểm toán là quá trình các kiểm toán viên độc lập và có năng lực tiến hành thu thập và đánh giá các bằng chứng về các thông tin được kiểm toán nhằm xác nhận và báo cáo về mức độ phù hợp giữa các thông tin này với các chuẩn mực đã được thiết lập" [23, tr.5]. Như vậy, thực chất của kiểm toán nói chung là việc kiểm tra và cho ý kiến nhận xét về mức độ phù hợp của thông tin được kiểm toán so với các tiêu chuẩn, chuẩn mực của thông tin đã được thiết lập; việc kiểm tra này được thực hiện bởi người độc lập và có năng lực. Nói cách khác, hoạt động kiểm toán là hoạt động thẩm định thông tin của kiểm toán viên. b) Sự cần thiết khách quan của kiểm toán trong nền kinh tế thị trường
  10. Kiểm toán ra đời, phát triển do yêu cầu quản lý và phục vụ cho quản lý. Kiểm toán là một công cụ quản lý phát triển từ thấp đến cao, gắn liền với hoạt động kinh tế của con người. Xã hội càng phát triển, nền kinh tế thị trường càng phức tạp, thông tin kinh tế càng có nguy cơ chứa đựng nhiều rủi ro, sai lệch, thiếu tin cậy. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến rủi ro thông tin: do sự cách trở thông tin, người ra quyết định khó có khả năng tiếp cận trực tiếp với thông tin được cung cấp; do động cơ của người cung cấp thông tin, các thông tin đôi khi bị méo mó do người cung cấp thông tin nhằm có lợi cho họ; do mức độ phức tạp của thông tin bởi dữ liệu quá nhiều hay mức độ phức tạp của các nghiệp vụ kinh tế mà người cung cấp thông tin không đủ khả năng xử lý. Để hạn chế rủi ro thông tin, người sử dụng thông tin có thể tự kiểm tra trước khi sử dụng. Điều này sẽ rất tốn kém và không thực tế bởi không phải người sử dụng thông tin nào cũng đủ điều kiện và thời gian để tự kiểm tra thông tin trước khi ra quyết định. Sẽ rất lãng phí khi mỗi người sử dụng thông tin đều phải tự mình đi kiểm tra. Đôi khi trên thực tế sẽ không thể kiểm tra được do sự cách trở về thời gian, không gian hay bởi trình độ nghiệp vụ. Để khắc phục yếu tố này một phương cách tốt nhất là các thông tin trước khi công bố cho bên thứ ba (người sử dụng thông tin) sẽ có một cơ quan, tổ chức kiểm toán để xác nhận mức độ tin cậy. Các tổ chức kiểm toán sẽ thực hiện kiểm toán các thông tin, xác nhận mức độ tin cậy và cung cấp cho người sử dụng. Người sử dụng thông tin có thể yên tâm tiếp nhận các thông tin phục vụ cho công tác quản lý của mình với mức rủi ro thấp nhất. Nếu chủ thể sử dụng thông tin là Nhà nước (Chính phủ, Quốc hội) thì sẽ thành lập cơ quan kiểm toán thuộc cơ cấu nhà nước (cơ quan Kiểm toán Nhà nước) để kiểm toán các thông tin trước khi sử dụng cho hoạt động quản lý của Nhà nước. Nếu là các tổ chức khác, các hãng kinh doanh sẽ phải sử dụng các dịch vụ kiểm toán được cung cấp bởi các doanh nghiệp kiểm toán. Các doanh nghiệp kiểm toán sẽ thực hiện kiểm toán theo yêu cầu của khách hàng và cung cấp thông tin xác thực phục vụ khác hàng. Với các cơ quan, đơn vị hay tổ chức kinh doanh có quy mô lớn, để phục vụ quản lý nội bộ sẽ thành lập bộ phận kiểm toán nội bộ trực thuộc ban lãnh đạo để kiểm toán các thông tin phục vụ cho việc ra quyết định quản trị nội bộ. Như vậy, với sự ra đời của kiểm toán, hoạt động kiểm toán đã góp phần hạn chế rủi ro về thông tin, chuẩn hoá
  11. thông tin, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý kinh tế, góp phần đảm bảo cho nền kinh tế tăng trưởng và phát triển. Đây là vai trò hết sức quan trọng của kiểm toán và chỉ có hoạt động kiểm toán mới có thể thực hiện được vai trò này. c) Chức năng của kiểm toán Từ định nghĩa chung về kiểm toán đã được nêu ở phần trên, ta có thể rút ra hai chức năng cơ bản của kiểm toán như sau: Thứ nhất: Chức năng xác nhận ( hay còn gọi là chức năng xác minh) Đây là chức năng được hình thành đầu tiên gắn liền với sự ra đời, hình thành và phát triển của kiểm toán. Bản thân chức năng này không ngừng phát triển mạnh mẽ cùng với sự phát triển của xã hội loài người nói chung và kiểm toán nói riêng, đồng thời chức năng này luôn thể hiện ở các mức độ khác nhau trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Ngay từ thời kỳ đầu, khi kiểm toán ra đời, chức năng kiểm tra và xác nhận được thể hiện dưới dạng chứng thực báo cáo tài chính (kiểm toán cổ điển), về sau chức năng này phát triển mạnh mẽ và được thể hiện cao hơn dưới dạng báo cáo kiểm toán. Thứ hai: Chức năng tư vấn (hay còn gọi là chức năng trình bày ý kiến) Đây là chức năng phát sinh và hình thành sau chức năng xác nhận. Chức năng tư vấn cũng có quá trình phát sinh và phát triển riêng của nó. Cùng với quá trình phát triển của kiểm toán, chỉ một chức năng xác nhận, kiểm toán không thể đáp ứng được yêu cầu của nhà quản lý. Chính từ yêu cầu thực tiễn quản lý đặt ra, đã xuất hiện chức năng tư vấn. ở thời kỳ ban đầu khi mới hình thành, chức năng này biểu hiện dưới dạng thư quản lý. Trong quá trình phát triển, sự biểu hiện của tư vấn cũng rất khác nhau theo từng giai đoạn lịch sử nhất định. Thực tế chức năng này chỉ phát triển mạnh mẽ vào giữa thế kỷ XX, nhưng lại giữ một vị trí đặc biệt quan trọng trong một nền kinh tế thị tr ường phát triển cao như hiện nay. Qua hai chức năng của kiểm toán ta thấy kiểm toán nhìn nhận đánh giá một cách toàn diện cả về quá khứ và tương lai. Về quá khứ, đối với các sự kiện đã nảy sinh, kiểm toán với tư cách là người kiểm tra xác nhận sự việc đã hoàn thành nhằm đáp ứng yêu cầu của người sử dụng thông tin. Như vậy, chức năng kiểm toán xác nhận hay xác minh là chức năng hướng về quá khứ. Mặt khác, để đáp ứng yêu cầu của người sử dụng thông
  12. tin trong tương lai, kiểm toán lại có thêm chức năng thứ hai đó là chức năng tư vấn hay chức năng trình bày ý kiến, chức năng này hướng về tương lai. Hai chức năng của kiểm toán hình thành và phát triển hoàn toàn khác nhau tuỳ theo từng giai đoạn lịch sử nhất định. ở thời kỳ đầu, người ta thường chỉ tập trung quan tâm đến chức năng kiểm tra xác nhận. Nhưng khi xã hội càng phát triển, người ta càng quan tâm nhiều hơn đến chức năng tư vấn của kiểm toán, đó là việc nhìn nhận, định hướng cho một tương lai đúng đắn để có những quyết định tối ưu và giành được thắng lợi trong cạnh tranh. d) Phân loại kiểm toán Việc phân loại kiểm toán thường được thực hiện theo hai cách cơ bản sau đây: Một là: Theo mục mục đích của kiểm toán (hay theo đối tượng trực tiếp của kiểm toán) Căn cứ vào mục đích cụ thể (hay đối tượng trực tiếp) của kiểm toán, người ta thường chia kiểm toán thành ba loại là: kiểm toán hoạt động (Performance Audit), kiểm toán tuân thủ (Compliance Audit) và kiểm toán báo cáo tài chính (Audit of Financial Statements). - Kiểm toán hoạt động Kiểm toán hoạt động là loại kiểm toán nhằm để xem xét và đánh giá về tính kinh tế, tính hiệu lực và hiệu quả của các hoạt động được kiểm toán. Tính kinh tế là sự tiết kiệm các nguồn lực. Hay đây còn gọi là nguyên tắc tối thiểu, nghĩa là để đạt được mục tiêu nhất định cần dùng một lượng nguồn lực ít nhất. Tính hiệu lực là khả năng về mức độ hoàn thành các nhiệm vụ và mục tiêu đã xác định của đơn vị. Tính hiệu quả là việc đạt được kết quả cao nhất với một lượng nguồn lực nhất định, hay đây còn gọi là nguyên tắc tối đa. Có rất nhiều lĩnh vực khác nhau cần phải kiểm tra và theo dõi về tính kinh tế, tính hiệu lực và hiệu quả nên đối tượng của kiểm toán hoạt động cũng rất phong phú và đa dạng. Chúng không chỉ giới hạn trong lĩnh vực tài chính mà còn có thể bao gồm nhiều lĩnh vực và hoạt động khác như việc đánh giá cơ cấu tổ chức, một phương án kinh doanh, một quy trình công nghệ, một hệ thống máy tính, hay một loại tài sản, thiết bị
  13. mới đưa vào hoạt động... Việc xác định các tiêu chuẩn, chuẩn mực để đánh giá về tính kinh tế, tính hiệu lực và hiệu quả của các hoạt động là việc làm rất khó khăn, việc lượng hoá các mặt trên thành các tiêu chuẩn để đánh giá là việc làm mang nặng tính chủ quan. Do vậy, việc đánh giá kết quả trong kiểm toán hoạt động cũng hết sức chủ quan. Để thực hiện cuộc kiểm toán hoạt động đòi hỏi người kiểm toán viên phải am hiểu nhiều lĩnh vực khác nhau như kế toán, tài chính, kinh tế, khoa học, kỹ thuật ... “Sản phẩm” của kiểm toán hoạt động là một bản báo cáo cho người quản lý về kết quả kiểm toán và những ý kiến đề xuất cải tiến hoạt động. - Kiểm toán tuân thủ Kiểm toán tuân thủ là loại kiểm toán nhằm để xem xét đơn vị được kiểm toán có tuân thủ các quy định mà các cơ quan có thẩm quyền cấp trên hoặc cơ quan chức năng của Nhà nước hoặc cơ quan chuyên môn đề ra hay không. Đối tượng của kiểm toán tuân thủ cũng khá linh hoạt. Nó có thể là việc tuân thủ các quy tắc do các cơ quan nhà nước cấp trên đề ra, như kiểm tra đánh giá về việc tuân thủ các quy định về thuế giá trị gia tăng, hay các quy định về bảo vệ môi trường, bảo vệ người lao động ..., hoặc việc tuân thủ những quy định do người quản lý cấp trên trong đơn vị đề ra, hoặc nó còn là việc tuân thủ những quy định của cơ quan chuyên môn đề ra như việc tuân thủ các quy trình và thủ tục giải ngân của kho bạc nhà nước, việc tuân thủ các điều kiện và thủ tục vay vốn của ngân hàng ... Các tiêu chuẩn, chuẩn mực để đánh giá thông tin ở loại kiểm toán này không phức tạp như kiểm toán hoạt động, chúng thường được xác định một cách dễ dàng gắn liền với các thủ tục, quy tắc được kiểm toán. Thông thường loại kiểm toán này được thực hiện để phục vụ cho nhu cầu của bản thân các đơn vị, hoặc nhu cầu của cơ quản lý cấp trên nên kết quả của kiểm toán tuân thủ nói chung được báo cáo cho người có trách nhiệm trong đơn vị được kiểm toán hoặc cơ quan quản lý cấp trên hơn là cho một phạm vi rộng người sử dụng. Trường hợp việc kiểm toán do một khách hàng, không phải đơn vị được kiểm toán có nhu cầu, như việc kiểm tra tính tuân thủ các quy định về thuế thu nhập doanh nghiệp ở một đơn vị do cơ quan thuế thuê, thì kết quả kiểm toán sẽ được báo cáo cho cơ quan thuế đã thuê kiểm toán đó.
  14. - Kiểm toán báo cáo tài chính Kiểm toán báo cáo tài chính là loại kiểm toán nhằm kiểm tra và xác nhận về tính trung thực, hợp lý của các báo cáo tài chính được kiểm toán. Báo cáo tài chính được kiểm toán thường là bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ và bản thuyết minh báo cáo tài chính của các đơn vị tổ chức kinh doanh. Ngoài ra, các báo cáo tài chính của các đơn vị khác như bảng cân đối kế toán, báo cáo quyết toán vốn, ngân sách của các đơn vị hành chính, sự nghiệp, của các dự án đầu tư ... cũng là những đối tượng thông tin của kiểm toán báo cáo tài chính. Tiêu chuẩn, chuẩn mực cho việc đánh giá thông tin của loại kiểm toán này thường là các chuẩn mực kế toán, các quy định pháp lý về kế toán và những quy định khác có liên quan. Hai là: Theo loại hình tổ chức kiểm toán (theo chủ thể thực hiện kiểm toán) Theo cách phân loại này, kiểm toán được chia làm ba loại là Kiểm toán Nhà nước, kiểm toán độc lập và kiểm toán nội bộ. - Kiểm toán Nhà nước: là cơ quan kiểm tra tài chính tối cao của quốc gia, thực hiện việc kiểm tra và báo cáo về việc quản lý và sử dụng các nguồn lực của Nhà nước ở các đơn vị. - Kiểm toán độc lập: được tổ chức dưới dạng doanh nghiệp kiểm toán (công ty hay hãng kiểm toán) nhằm cung cấp dịch vụ kiểm toán và các dịch vụ khác có tính chuyên môn cho xã hội. - Kiểm toán nội bộ: được tổ chức bên trong mỗi đơn vị, thực hiện kiểm tra và cho ý kiến về các đối tượng được kiểm toán nhằm giúp đơn vị thực hiện tốt các chức năng và nhiệm vụ của mình. Hiện nay, ở nước ta trong nền kinh tế quốc dân có cả 3 loại kiểm toán là Kiểm toán Nhà nước, kiểm toán độc lập và kiểm toán nội bộ. Ba loại kiểm toán này rất khác nhau về tổ chức bộ máy, phạm vi, đối tượng kiểm toán, hoạt động kiểm toán và giá trị pháp lý của báo cáo kiểm toán. Các tổ chức kiểm toán độc lập hoạt động dưới hình thức doanh nghiệp kiểm toán cung cấp dịch vụ kế toán kiểm toán có thu phí theo nguyên tắc tự nguyện của kinh tế thị trường; hoạt động theo chuẩn mực kiểm toán do Bộ Tài chính
  15. ban hành dựa trên chuẩn mực kiểm toán Quốc tế do Liên đoàn kế toán Quốc tế (IFAC) ban hành. Đối với kiểm toán nội bộ, đây là một bộ phận trong cơ cấu tổ chức của các đơn vị, của doanh nghiệp, kết quả kiểm toán không có giá trị pháp lý đối với bên ngoài. Kiểm toán Nhà nước là cơ quan kiểm tra tài chính nhà nước, thực hiện kiểm toán tất cả các cơ quan, đơn vị, tổ chức có quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước. Tổ chức và hoạt động của KTNN theo quy định của Luật Kiểm toán nhà nước. 1.1.1.2. Kiểm toán Nhà nước a) Bản chất và vai trò của Kiểm toán Nhà nước Sự hình thành và phát triển của Kiểm toán Nhà nước gắn liền với sự hình thành, ra đời và phát triển của tài chính nhà nước mà chủ yếu là ngân sách nhà nước; xuất phát từ yêu cầu đòi hỏi của việc kiểm tra, kiểm soát việc chi tiêu ngân sách và công quỹ quốc gia từ phía nhà nước. Kiểm toán Nhà nước trên thế giới đã có lịch sử phát triển hàng trăm năm nay ở các nước phát triển, kinh nghiệm của các nước đã khẳng định sự hiện diện và hoạt động của cơ quan Kiểm toán Nhà nước đã góp phần hữu hiệu vào việc thiết lập và giữ vững kỷ cương, kỷ luật tài chính, phát hiện và ngăn chặn các hành vi tham nhũng, thất thoát, lãng phí tiền, tài sản của Nhà nước, của nhân dân. Kiểm toán Nhà nư- ớc thực sự đã trở thành bộ phận hợp thành không thể thiếu được trong hệ thống kiểm tra, kiểm soát của Nhà nước. Với bản chất là cơ quan kiểm tra tài chính công của Nhà nước, vị trí, tác dụng của nó đã được xã hội công nhận và không một cơ quan chức năng nào khác thay thế được trong việc tăng cường kiểm soát, thực hiện mục đích sử dụng hợp lý và có hiệu quả các nguồn lực tài chính của các cơ quan công quyền, các tổ chức, đơn vị có sử dụng ngân sách nhà nước. Kiểm toán Nhà nước được khẳng định như một chức năng, một công cụ quan trọng không thể thiếu được của hệ thống quyền lực Nhà nước hiện đại. Xuất phát từ tầm quan trọng của hoạt động kiểm toán nhà nước, tuyên bố Lima của INTOSAI đã nhấn mạnh: Trong bối cảnh việc sử dụng thống nhất và hiệu quả các khoản công quỹ là một trong những đòi hỏi thiết yếu đầu tiên cho việc sử dụng hợp lý các nguồn tài chính công và hiệu năng các quyết định của các cơ quan có thẩm quyền; … Để đạt được mục tiêu này, không thể phủ nhận được rằng, mỗi
  16. quốc gia cần có một Cơ quan Kiểm toán Tối cao được pháp luật bảo đảm tính độc lập; trong bối cảnh các Cơ quan Kiểm toán Tối cao đang ngày càng trở nên cần thiết hơn khi nhà nước đã và đang mở rộng hoạt động của mình sang lĩnh vực kinh tế, xã hội và vì vậy, phải hoạt động tuân theo những quy định của khuôn khổ tài chính vốn có [60]. Tuy nhiên, sự quản lý, chỉ đạo và điều hành hoạt động đối với tổ chức Kiểm toán Nhà nước ở từng quốc gia lại tuỳ thuộc luật pháp cụ thể của từng nước. ở Việt Nam, cơ quan Kiểm toán Nhà nước được thành lập từ năm 1994 theo Nghị định số 70/CP ngày 11 tháng 7 năm 1994 của Chính phủ và là cơ quan thuộc Chính phủ. Trải qua hơn mười lăm năm hoạt động, Kiểm toán Nhà nước Việt Nam đã từng bước phát triển vững chắc, đóng góp quan trọng cho việc chấn chỉnh công tác quản lý tài chính nói riêng và việc chấp hành pháp luật nói chung. Hiện nay, theo Luật Kiểm toán nhà nước đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua tại kỳ họp thứ bảy Quốc hội khoá XI; “Kiểm toán Nhà nước là một cơ quan chuyên môn về lĩnh vực kiểm tra tài chính nhà nước do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” [50]. Theo quy định của Luật Kiểm toán nhà nước: “Hoạt động kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước là việc kiểm tra, đánh giá và xác nhận tính đúng đắn, trung thực của báo cáo tài chính; việc tuân thủ pháp luật; tính kinh tế, hiệu lực và hiệu quả trong quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước” [50]. Hoạt động kiểm toán nhà nước phục vụ việc kiểm tra, giám sát của Nhà nước trong quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước; góp phần thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng, thất thoát, lãng phí, phát hiện và ngăn chặn hành vi vi phạm pháp luật; nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước [50]. Việc kiểm toán của KTNN được thực hiện dưới hình thức Đoàn kiểm toán. Đoàn kiểm toán do Tổng KTNN thành lập gồm có Trưởng đoàn, Phó trưởng đoàn, các Tổ trưởng, các kiểm toán viên và các thành viên khác. Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm
  17. của các thành viên Đoàn kiểm toán được quy định tại các điều 45, 46, 47, 48, 49 của Luật Kiểm toán nhà nước. b) Chức năng của KTNN Để thực hiện được mục tiêu quản lý thống nhất nền tài chính quốc gia, nâng cao tính chủ động và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc quản lý và sử dụng ngân sách nhà nước, củng cố kỷ luật tài chính, sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả ngân sách nhà nước và tài sản nhà nước, ở hầu hết các quốc gia trên thế giới đều cần phải thiết lập một cơ quan Kiểm toán Nhà nước, mà theo thuật ngữ quốc tế thường gọi là cơ quan Kiểm toán tối cao (Supreme Audit Instutions = SAI). Vì vậy, Kiểm toán Nhà nước là một cơ quan trong bộ máy quyền lực của Nhà nước. Tuỳ thuộc vào thể chế chính trị và sự phân chia quyền lực của mỗi nước mà Kiểm toán Nhà nước có thể trực thuộc cơ quan lập pháp (Quốc hội), hành pháp ( Chính phủ) hoặc đứng độc lập với cả Quốc hội và Chính phủ, nhưng hoạt động của nó nhằm phục vụ cho cả ngành lập pháp và hành pháp. Tính đa dạng đó được thể hiện qua địa vị pháp lý và mô hình tổ chức các cơ quan Kiểm toán Nhà nước các nước trên thế giới. Là một trong ba phân hệ kiểm toán, Kiểm toán Nhà nước có đầy đủ các chức năng cơ bản của kiểm toán nói chung, bao gồm: - Chức năng xác nhận: nhằm khẳng định mức độ trung thực của số liệu, tài liệu và tính hợp pháp của các thông tin được kiểm toán; - Chức năng tư vấn: mục đích của kiểm toán không dừng lại ở chức năng "xác nhận", do yêu cầu phát triển kinh tế ngày càng đa dạng, các loại hình sở hữu tư liệu sản xuất ngày càng phong phú, các hình thức kinh doanh cũng như việc quản lý và sử dụng các nguồn kinh phí ngân sách nhà nước của chính phủ và các tổ chức đòi hỏi phải có hiệu quả hơn. Do đó chức năng tư vấn ngày càng đóng vai trò quan trọng. Ngoài hai chức năng cơ bản trên đây, tuỳ thuộc vào thể chế chính trị, tổ chức nhà nước và lịch sử, ở một số nước, Kiểm toán Nhà nước còn có những chức năng đặc thù như ở Cộng hoà Pháp và một số nước Châu Âu Kiểm toán Nhà nước (Toà Thẩm kế) còn có chức năng xét xử như một quan toà đối với các vi phạm của tổ chức và cá nhân trong việc quản lý và sử dụng công quỹ, hay như ở Mỹ Kiểm toán Nhà nước còn có chức năng của cơ quan điều tra tội phạm kinh tế...
  18. ở Việt Nam, theo quy định tại điều 14, Luật Kiểm toán Nhà nước: “Kiểm toán Nhà nước có chức năng kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán tuân thủ, kiểm toán hoạt động đối với mọi cơ quan, tổ chức có quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước [50]. Như vậy, Kiểm toán Nhà nước có chức năng thực hiện kiểm toán các tài liệu, số liệu kế toán, báo cáo quyết toán ngân sách của các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trước khi trình Hội đồng nhân dân và báo cáo quyết toán ngân sách nhà n ước của Chính phủ trước khi trình Quốc hội; báo cáo quyết toán của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan thuộc Quốc hội, Toà án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân, các đơn vị sự nghiệp công, các đoàn thể quần chúng, các tổ chức xã hội có sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước; báo cáo quyết toán của các chương trình dự án, các công trình đầu tư của Nhà nước và các doanh nghiệp nhà nước, v.v... Để xác nhận tính trung thực, hợp pháp của báo cáo quyết toán ngân sách các cấp, các đơn vị dự toán ngân sách nhà nước; báo cáo tài chính của các doanh nghiệp phục vụ cho việc phê chuẩn quyết toán. Ngoài việc thực hiện chức năng xác nhận, Kiểm toán Nhà nước kiến nghị với các cơ quan của Nhà nước sửa đổi, bổ sung các cơ chế chính sách về quản lý kinh tế, tài chính phù hợp với điều kiện cụ thể trong từng thời kỳ thông qua việc báo cáo kết quả kiểm toán với Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội ; Chủ tịch nước; Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ theo quy định của Luật Kiểm toán nhà nước, Luật Ngân sách nhà nước. c) Phạm vi đối tượng của Kiểm toán Nhà nước Là công cụ giúp cơ quan quyền lực nhà nước thực hiện việc kiểm soát nền tài chính nhà nước, đối tượng của Kiểm toán Nhà nước trước hết và đương nhiên là các hoạt động của các cơ quan, đơn vị, tổ chức liên quan tới thu - chi ngân sách và các công quỹ nhà nước, quản lý và sử dụng các nguồn kinh phí từ ngân sách nhà nước, tiền và tài sản nhà nước. Nói một cách khác, ở đâu có hoạt động liên quan đến thu, chi quản lý và sử dụng ngân sách nhà nước, các công quỹ và tài sản nhà nước thì ở đó phải thực hiện kiểm tra nhà nước. Các cơ quan, đơn vị, tổ chức có hoạt động là đối tượng của Kiểm toán Nhà nước bao gồm các cơ quan hành chính nhà nước các cấp, các cơ quan chức năng làm
  19. nhiệm vụ thu, chi và quản lý ngân sách, tiền và tài sản nhà nước, các tổ chức sự nghiệp nhà nước và tổ chức khác có sử dụng ngân sách nhà nước (các đơn vị thụ hưởng ngân sách), các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp được ngân sách nhà nước cấp một phần hoặc toàn bộ kinh phí, các doanh nghiệp nhà nước, các doanh nghiệp và tổ chức khác được ngân sách nhà nước trợ cấp, bảo lãnh, góp cổ phần... Về nguyên tắc, phạm vi của các hoạt động thuộc đối tượng của Kiểm toán Nhà nước không bị giới hạn, không có vùng cấm. Tuy nhiên, do phạm vi của các hoạt động đó rất rộng lớn và đa dạng, mặt khác do một số yếu tố đặc thù về chính trị - xã hội, pháp luật, ở nhiều nước phạm vi đối tượng của Kiểm toán Nhà nước có những giới hạn nhất định, đặc biệt là ở các lĩnh vực nhạy cảm và lĩnh vực tối mật quốc gia (an ninh, quốc phòng). ở nước ta, đối tượng của Kiểm toán Nhà nước được xác định xuất phát từ đặc điểm tổ chức ngân sách nhà nước (NSNN) theo nguyên tắc tập trung, thống nhất. Mỗi đơn vị dự toán là một bộ phận cấu thành của một cấp ngân sách, ngân sách cấp dưới là một bộ phận của ngân sách cấp trên. NSNN là số liệu tổng hợp toàn bộ số thu - chi của ngân sách trung ương và ngân sách của các cấp chính quyền địa phương. Do đó phạm vi kiểm toán rộng liên quan đến tất cả các bộ, ngành trung ương và ngân sách các tỉnh, thành phố, quận, huyện và ngân sách xã, ph ường; các đơn vị sử dụng ngân sách và có nguồn gốc từ NSNN, ngoài ra Kiểm toán Nhà nước còn có nhiệm vụ kiểm toán các quỹ ngoài ngân sách và các quỹ công khác. Điều 5, Luật Kiểm toán Nhà nước, quy định: “Đối tượng kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước là hoạt động có liên quan đến quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước [50], bao gồm các đơn vị được kiểm toán sau: các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các cơ quan khác ở trung ương; các cơ quan được giao nhiệm vụ thu, chi ngân sách nhà nước các cấp; Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân các cấp, cơ quan khác ở địa phương; các đơn vị thuộc lực lượng vũ trang nhân dân, kể cả Toà án Quân sự và Viện kiểm sát quân sự; các đơn vị quản lý quỹ dự trữ của Nhà nước, quỹ dự trữ của các ngành, các cấp, quỹ tài chính khác của Nhà nước; các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị- xã hội, tổ chức chính trị xã hội nghề nghiệp, tổ chức xã hội nghề nghiệp có sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước; các đơn vị sự nghiệp được ngân
  20. sách nhà nước đảm bảo một phần hoặc toàn bộ kinh phí; các tổ chức quản lý tài sản quốc gia; các ban quản lý dự án đầu tư có nguồn kinh phí ngân sách nhà nước hoặc có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước; các hội, liên hiệp hội, tổng hội, các tổ chức khác được ngân sách nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí hoạt động; doanh nghiệp nhà nước. Ngoài các cơ quan, đơn vị, tổ chức theo quy định trên, các đơn vị nhận trợ giá, trợ cấp của nhà nước, các đơn vị có công nợ được nhà nước bảo lãnh mà không phải là doanh nghiệp nhà nước có thể thuê doanh nghiệp kiểm toán kiểm toán nhưng các doanh nghiệp kiểm toán phải thực hiện theo chuẩn mực, quy trình Kiểm toán Nhà nước và gửi báo cáo kiểm toán cho cơ quan Kiểm toán Nhà nước [50]. d) Mô hình tổ chức và cơ chế hoạt động của Kiểm toán Nhà nước Mô hình tổ chức và cơ chế hoạt động của Kiểm toán Nhà nước ở tất cả các quốc gia trên thế giới dù được thiết kế khác nhau như thế nào nhưng đều phải tuân thủ nguyên tắc hoạt động là độc lập, khách quan, chỉ tuân theo pháp luật. ở 180 quốc gia là thành viên của Tổ chức Quốc tế các cơ quan Kiểm toán Tối cao (INTOSAI) mô hình tổ chức Kiểm toán Nhà nước rất đa dạng và có thể phân chia thành 3 mô hình cơ bản sau: mô hình Kiểm toán Nhà nước trực thuộc cơ quan lập pháp, mô hình Kiểm toán Nhà nước trực thuộc cơ quan hành pháp và mô hình Kiểm toán Nhà nước đứng độc lập với cơ quan lập pháp và cơ quan hành pháp. Hệ thống tổ chức có thể là một cấp (đơn tuyến) tập trung thống nhất bao gồm Kiểm toán Nhà nước ở trung ương và Kiểm toán Nhà nước khu vực trực thuộc Kiểm toán Nhà nước trung ương, không lập Kiểm toán Nhà nước ở địa phương hoặc có thể là tổ chức đa cấp, ở mỗi cấp chính quyền đều lập cơ quan Kiểm toán Nhà nước của cấp mình, cơ quan kiểm toán các cấp hoàn toàn độc lập với nhau. Cơ chế hoạt động của Kiểm toán Nhà nước các nước trên thế giới cũng chia ra làm 2 dạng: cơ chế thủ trưởng và cơ chế hội đồng (đồng sự). Với cơ chế thủ trưởng mọi hoạt động Kiểm toán Nhà nước đều do người đứng đầu (thủ trưởng) cơ quan Kiểm toán Nhà nước quyết định và chịu trách nhiệm trước pháp luật. Với cơ chế hội đồng, mọi hoạt động của kiểm toán đều do các uỷ viên Hội đồng quyết định tập thể theo đa số. Các uỷ viên hội đồng là người có vị trí pháp lý độc lập như một thẩm phán. Mỗi cơ chế hoạt
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
11=>2