LUẬN VĂN: Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực giao thông đường thủy ở tỉnh An Giang hiện nay
lượt xem 26
download
Tai nạn giao thông đã và đang là vấn đề được xã hội quan tâm sâu sắc, mang tính toàn cầu mà tất cả các quốc gia trên thế giới không phân biệt các nước phát triển, nước đang phát triển hay nước kém phát triển đều phải đương đầu và nó đã là thách thức lớn của cả thế giới. Về kinh tế, tai nạn giao thông và ùn tắc giao thông hàng năm làm thiệt hại từ 1% đến 3% GDP chi phí hàng năm của các nước đang phát triển, ước tính vào khoảng trên 100...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: LUẬN VĂN: Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực giao thông đường thủy ở tỉnh An Giang hiện nay
- LUẬN VĂN: Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực giao thông đường thủy ở tỉnh An Giang hiện nay
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Tai nạn giao thông đã và đang là vấn đề được xã hội quan tâm sâu sắc, mang tính toàn cầu mà tất cả các quốc gia trên thế giới không phân biệt các nước phát triển, nước đang phát triển hay nước kém phát triển đều phải đương đầu và nó đã là thách thức lớn của cả thế giới. Về kinh tế, tai nạn giao thông và ùn tắc giao thông hàng năm làm thiệt hại từ 1% đến 3% GDP chi phí hàng năm của các nước đang phát triển, ước tính vào khoảng trên 100 tỷ USD. Tai nạn giao thông ở Việt Nam cũng nằm trong tình trạng chung của các nước đang phát triển, TNGT ở Việt Nam tăng liên tục trong nhiều năm và tính nghiêm trọng ngày càng gia tăng (bình quân trên 13 nghìn người chết do TNGT và khoảng 29.000 ca chấn thương so não/năm). TNGT luôn là nỗi ám ảnh trong đời sống xã hội và là một trong những nguyên nhân cản trở sự phát triển kinh tế của đất nước. Những năm gần đây, Chính phủ Việt Nam đã nhận thức được mối hiểm hoạ của tai nạn giao thông, để kiềm chế và giảm thiểu TNGT Ban Bí thư TW, Chính phủ đã có nhiều văn bản chỉ đạo để ban hành và sửa đổi luật, các nghị định quy định và thực hiện các biện pháp cấp bách phù hợp với tình hình mới. Tuy nhiên, hiệu quả chưa cao do ý thức chấp hành luật của người tham gia giao thông thấp, hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông chưa đồng bộ và yếu kém, hiệu lực quản lý Nhà nước chưa cao. Ở Đồng bằng sông Cửu Long nói chung và tỉnh An Giang nói riêng có hệ thống sông, kênh đa dạng, mạng lưới giao thông thủy trãi rộng, nối liền các địa phương trong vùng đã tạo nên một hệ thống giao thông thủy thuận tiện, hiệu quả. Đồng thời loại hình vận tải thủy được xem là phương thức vận tải ưu việt và hiệu quả nhất vì giá cước rẻ, có thể vận chuyển được các loại hàng hóa cồng kềnh quá khổ, siêu trường, siêu trọng mà hệ thống hạ tầng đường bộ chưa đáp ứng được nên hoạt động vận tải đường thủy ở An Giang và Đồng bằng sông Cửu Long hoạt động rất sôi động. Trong những năm qua, Tỉnh ủy và UBND tỉnh An Giang đã huy động toàn bộ sức mạnh hệ thống chính trị của tỉnh vào cuộc để triển khai và thực hiện tốt các luật của Quốc hội, nghị định của chính phủ về đảm bảo ATGT, đặc biệt là giao thông đường thủy. Sau
- hơn 03 năm triển khai thực hiện Luật Giao thông đường thủy nội địa trên địa bàn tỉnh An Giang, bước đầu đã thu được những kết quả nhất định, tình hình trật tự an toàn giao thông phần nào được cải thiện và đã hạn chế tới mức thấp nhất số vụ, số người chết do TNGT. Tuy nhiên, hoạt động giao thông đường thủy vẫn còn nhiều bất cập, tai nạn giao thông tuy có giảm về số vụ và số người chết nhưng chưa bền vững, đặc biệt là tình hình vi phạ m pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn giao thông đường thủy nội địa có xu hướng ngày càng tăng. Nguyên nhân cơ bản là tình trạng pháp chế trong lĩnh vực giao thông đường thủy còn nhiều điểm hạn chế. Điều này thể hiện trên các mặt sau đây: Hệ thống văn bản pháp qui điều chỉnh lĩnh vực này tuy đã có tương đối đầy đủ, nhưng tính răn đe chưa cao và chưa phù hợp với tình hình thực tế nên khó triển khai thực hiện dẫn đến hiệu quả điều chỉnh của pháp luật còn hạn chế; cơ sở hạ tầng phục vụ hoạt động vận tải thủy trong thời gian dài chưa được quan tâm đầu tư đúng mức và tương xứng với vị trí quan trọng của ngành vận tải thủy và tốc độ phát triển của hoạt động này; trình độ hiểu biết và ý thức chấp hành pháp luật về giao thông của một số người khi tham gia giao thông vẫn còn thấp hoặc xem nhẹ; công tác quản lý nhà nước về các vấn đề liên quan đến hoạt động giao thông đường thủy của các cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành chưa thật sự hiệu quả; các vi phạm xảy ra nhưng không được phát hiện và ngăn chặn kịp thời, pháp luật về giao thông đường thủy không được chấp hành... Hậu quả đã dẫn đến tai nạn giao thông xảy ra làm chết người và thiệt hại về tài sản của nhân dân. Để góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn, tìm kiếm những giải pháp nhằm thiết lập lại trật tự an toàn giao thông nói chung và giao thông đường thủy nói riêng, nhằm mục tiêu bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân và trên hết là đảm bảo tính pháp chế XHCN trong trong lĩnh vực giao thông ở tỉnh An Giang, tôi chọn đề tài "Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực giao thông đường thủy ở tỉnh An Giang hiện nay" để nghiên cứu và viết luận văn Thạc sỹ. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Vấn đề pháp chế XHCN và pháp chế XHCN trên một số lĩnh vực cụ thể đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu. Tiêu biểu có các công trình như: - "Tăng cường tính thống nhất của pháp chế, nghiêm chỉnh tuân theo pháp luật và chấp hành pháp luật" của Đào Trí Úc, Tạp chí Cộng sản, tháng 3/1995.
- - "Tác dụng của pháp chế đối với cách mạng văn hoá trong xây dựng nếp sống mới, con người mới xã hội chủ nghĩa" của Ngô Bá Thành, Tạp chí Luật học, số 1/1995. - Tăng cường pháp chế XHCN trong hoạt động của lực lượng công an nhân dân trên lĩnh vực bảo vệ an ninh quốc gia ở nước ta hiện nay", Luận án Phó Tiến sĩ Luật học của Nguyễn Phùng Hồng, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 1994. - "Tăng cường pháp chế XHCN trong lĩnh vực chăm sóc sức khoẻ nhân dân ở nước ta hiện nay", luận án Phó tiến sĩ Luật học của Nguyễn Nhật Hùng, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 1996. - "Tăng cường pháp chế XHCN về kinh tế trong quản lý nhà nước nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay", luận án Phó tiến sĩ Luật học của Quách Sỹ Hùng, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 1996. - "Tăng cường pháp chế XHCN trong hoạt động lập pháp lập qui ở nước ta hiện nay", luận án tiến sĩ Luật học của Đỗ Ngọc Hải, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2001. - "Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong xét xử các vụ án hình sự ở Nghệ An hiện nay", luận văn thạc sĩ luật của Lê Văn Thảo, 2004, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. - "Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực xử phạt vi phạm hành chính ở nước ta hiện nay", luận văn Thạc sĩ luật của Đặng Thanh Sơn, 2003; Trong lĩnh vực giao thông vận tải có các công trình như: - "Tai nạn giao thông đường bộ, thực trạng, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa của lực lượng cảnh sát giao thông", đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ Công an do Trần Đào chủ trì - 1998; - "Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực giao thông đường bộ ở nước ta hiện nay", luận văn Thạc sĩ luật của Nguyễn Huy Bằng, 2001, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh... Những đề tài khoa học và các công trình khoa học đã được công bố trên đây liên quan đến pháp chế XHCN đã nghiên cứu, đề cập đến một số vấn đề lý luận về pháp chế nói chung, đồng thời cũng đã đề cập đến một số vấn đề pháp chế XHCN trên một số lĩnh vực cụ thể. Tuy vậy, cho đến nay chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu một cách tương đối có hệ thống và toàn diện về "Pháp chế XHCN trong lĩnh vực giao thông đường thủy
- ở tỉnh An Giang". Mặc dù vậy, các công trình khoa học nêu trên đều là tài liệu tham khảo có giá trị để nghiên cứu đề tài này. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu c ủa luận văn 3.1. Mục đích: Trên cơ sở nghiên cứu vấn đề lý luận và thực tiễn về pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực giao thông đường thủy, luận văn đề xuất các giải pháp bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực giao thông đường thủy ở tỉnh An Giang hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ: Để thực hiện mục đích trên luận văn có nhiệm vụ sau: - Nghiên cứu cơ sở lý luận về pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực giao thông đường thủy; - Nghiên cứu, đánh giá thực trạng pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực giao thông đường thủy ở tỉnh An Giang thời gian qua; - Đề xuất các giải pháp trước mắt và lâu dài nhằm bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực giao thông đường thủy trên địa bàn tỉnh An Giang hiện nay; 4. Phạm vi nghiên cứu của luận văn Phạm vi nghiên cứu của đề tài giới hạn trong lĩnh vực giao thông thủy trên địa bàn tỉnh An Giang, thời gian số liệu nghiên cứu từ năm 2003 đến năm 2007 (trong đó tập trung vào khoảng thời gian 03 năm kể từ khi Luật giao thông đường thủy nội địa có hiệu lực thi hành - từ 01/01/2005 đến năm 2007). 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu - Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách pháp luật của nhà nước, kế thừa có chọn lọc hệ thống các công trình nghiên cứu có liên quan về pháp chế XHCN. - Phương pháp nghiên cứu: trong quá trình thực hiện đề tài luận văn sử dụng các phương pháp lịch sử - cụ thể, phân tích - tổng hợp, thống kê, so sánh để làm rõ những nội dung nghiên cứu của đề tài. 6. Đóng góp khoa học mới của luận văn - Đưa ra khái niệm và các đặc trưng của pháp chế XHCN trong lĩnh vực giao thông
- đường thủy; - Chỉ ra được thực trạng và nguyên nhân thực trạng pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực giao thông ở tỉnh An Giang; - Đề xuất giải pháp bảo đảm pháp chế XHCN trong lĩnh vực giao thông đường thủy tỉnh An Giang hiện nay. 7. Ý nghĩa của luận văn - Kết quả nghiên cứu của luận văn làm phong phú thêm lý luận về pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực cụ thể - lĩnh vực giao thông đường thủy; - Luận văn là tài liệu tham khảo có giá trị trước hết, cho việc xây dựng, tổ chức, thực thi pháp luật về giao thông đường thủy ở tỉnh An Giang. Đồng thời là tài liệu tham khảo có giá trị cho việc xây dựng chiến lược đảm bảo trật tự an toàn giao thông đường thủy và tăng cường pháp chế XHCN trong lĩnh vực này trong thời gian tới. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có 3 chương, 8 mục.
- Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁP CHẾ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG LĨNH VỰC GIAO THÔNG ĐƯỜNG THỦY 1.1. KHÁI NIỆM, NGUYÊN TẮC VÀ NHỮNG ĐIỀU KIỆN BẢO ĐẢM PHÁP CHẾ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA 1.1.1. Khái niệm pháp chế xã hội chủ nghĩa Pháp chế XHCN là lĩnh vực được nghiên cứu khá toàn diện trong khoa học pháp lý của các nước XHCN trước đây. Các công trình khoa học nghiên cứu về pháp chế XHCN một mặt khẳng định các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về pháp chế; mặt khác phát triển và làm phong phú thêm học thuyết Mác - Lênin về pháp chế XHCN. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, pháp chế XHCN là một hiện tượng xã hội phong phú và phức tạp. Nội hàm của khái niệm pháp chế rất rộng; trong các mối quan hệ khác nhau pháp chế cũng có nội dung riêng của mình. Ở Việt Nam hiện nay, qua các tài liệu đã được công bố cho thấy trong giới khoa học còn có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm pháp chế. Sự khác nhau đó xuất phát từ nhìn nhận, xem xét vấn đề pháp chế XHCN ở các góc độ khác nhau: pháp chế chung hay pháp chế từng lĩnh vực cụ thể của xã hội; hiểu theo nghĩa rộng hay theo nghĩa hẹp. Chẳng hạn: - Khi nhấn mạnh yêu cầu tuân thủ và thực hiện pháp luật thì pháp chế XHCN được hiểu là đòi hỏi sự tuân thủ và thực hiện pháp luật một cách nghiêm minh của các chủ thể. Như Từ điển tiếng Việt giải thích: "Pháp chế được hiểu là chế độ tuân thủ nghiêm chỉnh Hiến pháp và pháp luật của mọi chủ thể các quan hệ pháp luật [32, tr.159]. Còn Từ điển Luật học cho rằng: "Pháp chế là sự tôn trọng, tuân thủ, chấp hành nghiêm chỉnh Hiến pháp, pháp luật của các cơ quan, nhân viên nhà nước, của các tổ chức xã hội và mọi công dân" [21, tr.603]. Tài liệu nghiên cứu môn học lý luận chung nhà nước và pháp luật của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh định nghĩa: Pháp chế XHCN là sự đòi hỏi các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, các tổ chức kinh tế, các cán bộ, công chức nhà nước và mọi công dân phải triệt để tuân theo và chấp hành thường xuyên nghiêm chỉnh pháp luật.
- - Khi nhấn mạnh yếu tố cơ sở cần phải có của pháp chế là pháp luật thì pháp chế được hiểu là pháp luật trong cuộc sống của nó (trạng thái đang tác động vào đời sống xã hội của pháp luật). Theo quan niệm này pháp chế chính là "pháp luật" nhưng không phải pháp luật trên giấy mà "pháp luật đang sống" nghĩa là "ở trạng thái đang tác động vào đời sống xã hội". - Theo cách tiếp cận rộng hơn, GS TSKH Đào Trí Úc cho rằng "pháp chế là sự hiện diện của một hệ thống pháp luật cần và đủ để điều chỉnh các quan hệ xã hội, làm cơ sở cho sự tồn tại một trật tự pháp luật và kỷ luật, là sự tuân thủ và thực hiện đầy đủ pháp luật trong tổ chức hoạt động của Nhà nước, các cơ quan, đơn vị, tổ chức và đối với mọi công dân" [33]. Theo đó, pháp chế gồm ba nội dung chủ yếu: sự hiện diện của một hệ thống pháp luật; sự tồn tại một trật tự pháp luật và kỷ luật trên cơ sở pháp luật và sự tuân thủ, thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật của các chủ thể. Còn theo Giáo trình lý luận chung Nhà nước và Pháp luật của Trường Đại học Luật Hà Nội thì khái niệm pháp chế được hiểu là: "một chế độ đặc biệt của đời sống chính trị - xã hội đặc biệt, trong đó tất cả các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, nhân viên nhà nước, nhân viên tổ chức xã hội và mọi công dân đều phải tôn trọng và thực hiện pháp luật một cách nghiêm chỉnh triệt để và chính xác" [31, tr.524-525]. Theo quan niệm này, khái niệm pháp chế có nội hàm rộng, coi pháp chế là chế độ đặc biệt của đời sống chính trị xã hội; chứa đựng tư tưởng tôn trọng pháp luật của các chủ thể, đòi hỏi các chủ thể này phải chấp hành nghiêm chỉnh, triệt để và chính xác pháp luật. Theo quan điểm của chúng tôi, tất cả những quan niệm trên điều có chứa đựng nhân tố cần thiết của pháp chế và có tính hợp lý nhất định. Tuy nhiên để đưa ra khái niệm pháp chế đầy đủ cần hàm chứa các nội dung: - Cần phải có hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ, khoa học. - Đòi hỏi sự chấp hành, thực thi nghiêm chỉnh, triệt để, chính xác pháp luật của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật. Theo đó, pháp chế XHCN được hiểu là sự đòi hỏi các chủ thể tham gia vào các quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh phải nghiêm chỉnh chấp hành, tuân thủ và thực hiện đầy đủ, triệt để, tự giác các quy định của pháp luật.
- Với quan niệm pháp chế nêu trên, hoạt động pháp chế xã hội chủ nghĩa tập trung chủ yếu vào 3 nội dung: Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật: Trách nhiệm của nhà nước là phải thường xuyên quan tâm xây dựng pháp luật và hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, hệ thống pháp luật ngày càng hoàn chỉnh là cơ sở cho việc tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Quá trình đổi mới đòi hỏi phải có sự đổi mới tương ứng về pháp luật, do đó nhiệm vụ thường xuyên cập nhật và tiếp tục xây dựng hoàn chỉnh hệ thống pháp luật phù hợp với cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là hết sức cần thiết; thể chế hóa kịp thời đường lối, chính sách của Đảng thành pháp luật là phương hướng cơ bản và chủ yếu hiện nay của công tác xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống pháp luật; thường xuyên rà soát để loại bỏ những quy phạm pháp luật có nội dung chồng chéo và bổ sung quy phạm pháp luật mới; có kế hoạch xây dựng pháp luật trong từng giai đoạn cụ thể, đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học pháp lý, mở rộng hình thức để nhân dân tham gia vào hoạt động xây dựng pháp luật để phát huy dân chủ trong xây dựng pháp luật. Tổ chức thực hiện pháp luật: Pháp chế đòi hỏi các cơ quan nhà nước, các tổ chức kinh tế, các tổ chức xã hội, cán bộ, công chức nhà nước và mọi công dân phải triệt để tuân theo và chấp hành thường xuyên, nghiêm chỉnh pháp luật. Đây là khâu khó khăn nhất, việc tổ chức thực hiện pháp luật, đưa pháp luật vào cuộc sống và biến pháp luật thành hoạt động thực tiễn của nhân dân thông qua việc nâng cao ý thức pháp luật cho các chủ thể, tăng cường tuyên truyền, giáo dục pháp luật và giải thích pháp luật để cho nhân dân hiểu và làm theo pháp luật; chú trọng công tác đào tạo cán bộ pháp lý để có đủ trình độ; tổ chức và kiện toàn lại các cơ quan bảo vệ pháp luật, cơ quan xây dựng pháp luật; trong từng thời kỳ phải tiến hành sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm; tăng cường cơ sở vật chất trong việc thực hiện pháp luật. Đấu tranh kiên quyết, kịp thời với những hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm: Pháp chế xã hội chủ nghĩa nhằm bảo đảm kỷ cương, duy trì trật tự pháp luật và trật tự xã hội. Vì vậy, việc phát hiện và xử lý nghiêm minh những hành vi vi phạm pháp luật là vấn đề có tính nguyên tắc. Tính nghiêm minh của pháp luật hoàn toàn không phải ở chỗ hình phạt nặng mà ở chỗ đã phạm tội thì không thoát khỏi sự trừng ph ạt, không phân biệt vi phạm pháp luật nhỏ hay những vụ việc vi phạm pháp luật lớn gây nguy
- hiểm cho xã hội. Để đấu tranh chống và phòng ngừa những vi phạm pháp luật và tội phạm có hiệu quả cần tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và đấu tranh kiên quyết kịp thời đối với các hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm; kịp thời xử lý các hành vi vi phạm pháp luật dù là vi phạm nhỏ, không được bỏ qua hành vi vi phạm pháp luật; chống lại những hành vi bao che, n ương nhẹ, nể nang. 1.1.2. Các nguyên tắc của pháp chế xã hội chủ nghĩa Nguyên tắc của pháp chế xã hội chủ nghĩa là những tư tưởng chỉ đạo thể hiện bản chất và đặc điểm của pháp chế xã hội chủ nghĩa và nó xuyên suốt trong cả quá trình vận động của pháp chế xã hội chủ nghĩa, bao gồm các nguyên tắc sau: Nguyên tắc bảo đảm tính thống nhất của pháp chế trên qui mô toàn quốc : nghĩa là pháp luật phải được thực hiện thống nhất trên phạm vi toàn lãnh thổ, bảo đảm cho các công dân ở mọi miền đều bình đẳng trước pháp luật; Pháp chế thống nhất trên qui mô toàn quốc và chỉ có một nền pháp chế duy nhất, không có và không thể có pháp chế của địa phương này hay pháp chế của địa phương khác. Đây là nguyên tắc bảo đảm tính thống nhất của pháp luật, tạo điều kiện cho hệ thống pháp luật đó phát triển ngày càng hoàn thiện. Nguyên tắc bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp và pháp luật: nhằm bảo đảm tính thống nhất của pháp luật xã hội chủ nghĩa. Trong hệ thống pháp luật, các văn bản pháp luật tồn tại trong mối quan hệ phụ thuộc và qui định lẫn nhau, Hiến pháp là văn bản có giá trị pháp lý cao nhất, Hiến pháp là đạo luật cơ bản của nhà nước, những văn bản qui phạm pháp luật kể cả văn bản luật đều phụ thuộc vào Hiến pháp, các văn bản qui phạm pháp luật của cấp dưới phải phù hợp Hiến pháp và pháp luật; Nguyên tắc bắt buộc chung đối với mọi người và không có ngoại lệ: tất cả các chủ thể phải thực hiện pháp luật một cách nghiêm chỉnh, đòi hỏi mọi chủ thể bình đẳng với nhau trước pháp luật, mọi vi phạm phải được xử lý, không được có sự phân biệt đối xử giữa các chủ thể. Pháp luật phải được triệt để tuân theo và chấp hành nghiêm chỉnh, sự tuân theo và chấp hành pháp luật là vô điều kiện. Nguyên tắc trách nhiệm pháp lý bắt buộc: Trách nhiệm pháp lý là bắt buộc đối với tất cả những ai đã vi phạm pháp luật. Những người vi phạm pháp luật nhất định phải bị xử lý. 1.1.3. Điều kiện bảo đảm c ủa pháp chế xã hội chủ nghĩa
- - Điều kiện đầu tiên để pháp chế XHCN tồn tại là phải có hệ thống pháp luật đồng bộ đầy đủ, vì pháp luật là tiền đề của pháp chế, không có pháp luật sẽ không có pháp chế và ngược lại, nếu không có pháp chế thì pháp luật sẽ không phát huy được hiệu quả, không điều chỉnh được những quan hệ xã hội, dẫn đến pháp luật chỉ nằm trên giấy. - Một yếu tố quan trọng có ý nghĩa quyết định về mặt chủ quan đối với việc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa là ý thức pháp luật, nếu không có ý thức pháp luật và am hiểu pháp luật thì không thể tự giác tuân theo và chấp hành nghiêm chỉnh, cũng như không thể áp dụng đúng pháp luật trong quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Để có ý thức pháp luật cần phải tiến hành giáo dục và tuyên truyền pháp luật cho tất cả các đối tượng có liên quan được pháp luật điều chỉnh, đây là nhiệm vụ chung của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể quần chúng từ trung ương đến cơ sở. - Việc tổ chức thực hiện pháp luật và hướng dẫn xã hội thực hiện pháp luật đòi hỏi phải có bộ máy được tổ chức khoa học và con người có đủ trình độ để đủ sức đảm đương nhiệm vụ một cách có hiệu quả nhất. Hiệu quả của việc tổ chức thực hiện pháp luật phụ thuộc rất lớn vào yếu tố này, vì nếu bộ máy không được tổ chức khoa học, con người thiếu trình độ và nhiệt tình thì pháp luật sẽ không được thực hiện đến nơi, đến chốn vì thiếu đi việc kiểm tra, giám sát của cơ quan quản lý nhà nước. N goài ra, pháp chế xã hội chủ nghĩa cũng không thể đ ược củng cố và tăng cường nếu thiếu đi tính dân chủ. Bởi vì, chính pháp chế là bảo đảm vững chắc để duy trì và thực hiện những nguyên tắc dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng tính tổ chức kỷ luật, thiết lập kỷ cương x ã hội và công bằng xã hội. Th ực hiện dân chủ sẽ đảm bảo cho mọi n gười tự giác tuân thủ thực hiện pháp luật và đấu tranh với các hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm. 1.2. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, NỘI DUNG CỦA PHÁP CHẾ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG LĨNH VỰC GIAO THÔNG ĐƯỜNG THỦY 1.2.1. Khái niệm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực giao thông đường thủy Để tìm hiểu khái niệm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực giao thông đường thủy, trước tiên cần tìm hiểu các khái niệm về lĩnh vực đường thủy. 1.2.1.1. Một số khái niệm về lĩnh vực đường thủy
- - Khái niệm về hoạt động giao thông đường thủy: Hoạt động giao thông là quan hệ xã hội xuất hiện trong quá trình vận động của con người và phương tiện, hoạt động trong lĩnh vực giao thông đường thủy bao gồm: Hoạt động của phương tiện thủy: là hoạt động của các tàu, bè, bến, cảng, phương tiện khai thác nguồn lợi thủy sản và tài nguyên d ưới lòng sông (bao gồm cả phương tiện không gắn động cơ và phương tiện có gắn động cơ). Hoạt động của người điều khiển phương tiện (người lái phương tiện) là người trực tiếp điều khiển (người lái tàu, thuyền) phương tiện và những người tham gia điều khiển phương tiện (thủy thủ, thợ máy, hoa tiêu, phục vụ...); Hoạt động của hành khách: là những người cùng tham gia giao thông nhưng với tư cách là người được chuyên chở bởi phương tiện và người điều khiển phương tiện; Hoạt động của cơ quan quản lý nhà nước đối với việc kiểm tra, kiểm soát các hoạt động sử dụng, xây dựng và khai thác giao thông đường thủy; hoạt động bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông đường thủy. Vì vậy, hoạt động giao thông đường thủy bao gồm tất cả các quan hệ giữa người, phương tiện liên quan đến giao thông đường thuỷ, nó mang tính xã hội cao, liên quan tới mọi tổ chức, cá nhân tham gia giao thông và nhiều cấp, nhiều ngành trải dài trên mọi tuyến sông, kênh, ven vịnh và đường ra đảo... Theo Luật Giao thông đường thủy nội địa năm 2004, tại khoản 1, điều 3 có qui định về hoạt động giao thông đường thủy nội địa như sau: Hoạt động giao thông đường thủy nội địa là hoạt động của người, phương tiện tham gia giao thông, vận tải đường thủy nội địa; qui hoạch phát triển, xây dựng, khai thác, bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông đường thủy nội địa và quản lý nhà nước về giao thông đường thủy nội địa [20]. - Khái niệm về tai nạn giao thông đường thủy: Tai nạn giao thông là một hiện tượng xã hội xuất hiện trong quá trình hoạt động giao thông vận tải của con người. Thuật ngữ tai nạn giao thông hiện nay được sử dụng rộng rãi trong phạm vi toàn cầu, song do mang đặc tính xã hội sâu sắc, tình trạng tai nạn giao thông ở mỗi quốc gia có những biểu hiện khác nhau. Sự khác nhau đó phụ thuộc vào các yếu tố kinh tế, văn hoá, xã hội, trình độ tổ chức quản lý của từng quốc gia. Thuật ngữ tai nạn giao thông ở nước ta được định nghĩa cũng đa dạng, chưa thống
- nhất, có thể khái quát thành các loại sau: Theo Từ điển bách khoa toàn thư: Tai nạn giao thông là việc xảy ra ngoài ý muốn chủ quan của người điều khiển phương tiện giao thông khi đang di chuyển trên đường, trên tuyến giao thông... do vi phạm các quy tắc an toàn đã gây ra thiệt hại nhất định cho người và tài sản. Theo một số nghiên cứu, tai nạn giao thông là tai nạn xảy ra trên lĩnh vực giao thông gây thiệt hại cho người và tài sản ngoài ý muốn chủ quan của người gây tai nạn. Tai nạn giao thông là sự việc xảy ra khi các đối tượng tham gia giao thông hoạt động trên đường, tuyến giao thông công cộng hoặc địa bàn công cộng gây thiệt hại về sức khoẻ và tính mạng con người hoặc tài sản. Tai nạn giao thông được mô tả như một biến cố, một sự việc xảy ra một cách bất ngờ, không dự liệu, có tính may rủi và không tránh được việc dẫn đến một hậu quả không hay, không mong muốn đã xảy ra. Từ những khái niệm về tai nạn giao thông, có thể hiểu tai nạn giao thông đường thủy là sự kiện bất ngờ, nằm ngoài ý muốn chủ quan của con người. Nó xảy ra, khi các đối tượng tham gia giao thông thủy đang hoạt động trên đường giao thông thủy, đường chuyên dùng hoặc ở một địa bàn giao thông thủy công cộng, nhưng do chủ quan, vi phạm các quy tắc an toàn giao thông hoặc do gặp phải các tình huống, sự cố đột xuất không kịp phòng tránh, đã gây ra những thiệt hại nhất định cho tính mạng, sức khoẻ con người hoặc tài sản. (Đường giao thông thủy công cộng, địa bàn giao thông công cộng: là các tuyến sông, kênh, hồ mà ở đó mọi người có thể tham gia giao thông; Đường chuyên dùng: là đường vào bến cảng, âu luồng bốc dỡ hàng hóa...). 1.2.1.2. Khái niệm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực giao thông đường thủy Trong mỗi lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội thì pháp chế XHCN có những nội dung đặc trưng riêng, cụ thể và tạo thành pháp chế trong lĩnh vực ấy. Vì vậy, trong lĩnh vực giao thông đường thuỷ, pháp chế cũng có những nội dung đặc trưng riêng của mình. Mặc dù vậy, pháp chế XHCN trong lĩnh vực giao thông đường thuỷ không tồn tại độc lập tuyệt đối và tách rời pháp chế XHCN nói chung; mà còn là bộ phận cấu thành hệ thống thống nhất của pháp chế. Bởi vậy, khi xem xét khái niệm pháp chế trong lĩnh vực giao thông đường thuỷ có thể tiếp cận từ các khía cạnh khác nhau như:
- - Không đưa khái niệm pháp chế XHCN vào lĩnh vực giao thông đường thuỷ vì pháp chế XHCN là thống nhất và chỉ có một pháp chế mà thôi. Pháp chế XHCN trong lĩnh vực giao thông đường thuỷ là biểu hiện cụ thể của pháp chế XHCN nói chung. Nếu theo cách tiếp cận này thì chỉ cần nghiên cứu các chủ thể tham gia hoạt động giao thông đường thuỷ thực hiện pháp luật về giao thông đường thuỷ như thế nào. Từ đó có các giải pháp tác động tích cực để các chủ thể thực hiện các hành vi của mình phù hợp với yêu cầu của pháp luật thì được hiểu là pháp chế XHCN trong lĩnh vực giao thông đường thuỷ. Với cách hiểu như vậy, không hàm chứa đầy đủ được nội hàm của pháp chế XHCN. - Với cách tiếp cận cho rằng, việc hình thành pháp chế XHCN trong lĩnh vực giao thông đường thuỷ là việc đưa thêm nội dung mới vào nội hàm của pháp chế XHCN nói chung. Cách tiếp cận này không phá vỡ nội hàm của pháp chế chung mà còn bổ sung làm phong phú thêm khái niệm pháp chế XHCN trong từng lĩnh vực cụ thể. Theo đó, tính thống nhất của pháp chế XHCN luôn được đảm bảo. Từ những phân tích trên đây có thể hiểu pháp chế XHCN trong lĩnh vực giao thông đường thuỷ như sau: Pháp chế XHCN trong lĩnh vực giao thông đường thuỷ là một bộ phận cấu thành pháp chế XHCN, trong đó Nhà nước thống nhất quản lý và bảo vệ các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực giao thông đ ường thuỷ bằng pháp luật. Đòi hỏi tất cả các cơ quan nhà n ước, các đ ơn vị vũ trang, các tổ chức chính trị, chính trị xã hội, tổ chức kinh tế, các cán b ộ công chức, viên chức nhà n ước và mọi công dân đ ều phải tôn trọng tuân thủ và thực hiện nghiêm chỉnh triệt để, tự giác pháp luật về giao thông đ ường thuỷ . Mọi hành vi vi phạm pháp luật giao thông đ ường thuỷ đều phải được phát hiện và xử lý nghiêm. Từ khái niệm trên cho thấy, hoạt động pháp chế XHCN trong lĩnh vực giao thông đường thuỷ bao gồm: - Xây dựng và ban hành hệ thống đồng bộ, toàn diện pháp luật giao thông đường thuỷ. - Tổ chức thực hiện pháp luật giao thông đường thuỷ. - Xử lý nghiêm minh những hành vi vi phạm pháp luật giao thông đường thuỷ. 1.2.2. Đặc trưng pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực giao thông đường thủy Với tư cách là bộ phận cấu thành pháp chế XHCN, pháp chế xã hội chủ nghĩa trong
- lĩnh vực giao thông đường thủy có những đặc trưng sau: - Một là, pháp chế XHXN trong lĩnh vực giao thông đường thuỷ được quy định bởi các quy phạm pháp luật trong lĩnh vực giao thông đường thuỷ do nhiều chủ thể có thẩm quyền ban hành. Giao thông đường thuỷ là lĩnh vực chuyên ngành nên các văn bản qui phạm pháp luật là do Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Bộ Giao thông Vận tải; các Bộ ngành khác tham gia với tư cách có liên quan Bộ Công an, Bộ Y tế, Bộ Tài nguyên & Môi trường, Bộ Nông nghiệp & PTNT, Bộ xây dựng ban hành, cụ thể: Quốc Hội: ban hành Luật Giao thông đường thủy nội địa, là văn bản qui phạm pháp luật chủ yếu để điều chỉnh các hoạt động về giao thông đường thủy nội địa; Chính phủ: ban hành các Nghị định qui định chi tiết hướng dẫn thực hiện Luật Giao thông đường thủy nội địa, qui định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa. Tính đến hết năm 2007, Chính phủ đã ban hành 07 Nghị định qui định và hướng dẫn thực hiện Luật Giao thông đường thủy nội địa và nhiều văn bản qui phạm pháp luật có liên quan; phê duyệt các quy hoạch, kế hoạch phát triển luồng, bến bãi, đội tàu... Bộ Giao thông Vận tải: ban hành các văn bản qui phạm pháp luật như hướng dẫn triển khai thực hiện Luật Giao thông đường thủy nội địa và Nghị định của Chính phủ, ban hành các quyết định về qui chế, qui định chế độ, qui tắc hoạt động cho người và phương tiện liên quan đến giao thông đường thủy thủy nội địa. Chủ tịch UBND cấp tỉnh ban hành các văn bản mang tính chất qui phạm pháp luật trong phạm vi cho phép như: Quyết định về việc công bố danh mục đường thủy nội địa trên địa bàn do cấp tỉnh, huyện quản lý; cấm lưu thông hặc hạn chế lưu thông trên các tuyến sống, kênh do tỉnh quản lý; qui hoạch vùng nuôi, trồng, đánh bắt thủy sản, vùng nước được phép khai thác tài nguyên khoáng sản... - Hai là, về hoạt động áp dụng pháp luật, do đây là lĩnh vực chuyên ngành nên việc áp dụng pháp luật giao thông đường thủy chủ yếu do các cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành về giao thông đường thủy thực hiện, bao gồm: lực lượng thanh tra giao thông đường thủy, cảnh sát giao thông đường thủy, cảng vụ, cơ quan quản lý đường sông, đăng kiểm thủy. - Ba là, về thẩm quyền xử phạt, do tính chất của các vi phạm trong lĩnh vực giao thông
- đường thủy chủ yếu là vi phạm hành chính, nên thẩm quyền xử phạt căn cứ theo Pháp lệnh về xử phạt vi phạm hành chính, nhưng chủ yếu vẫn là thủ trưởng các lực lượng lực lượng thanh tra giao thông đường thủy, cảnh sát giao thông đường thủy, cảng vụ, cơ quan quản lý đường sông, đăng kiểm thủy; Chủ tịch UBND huyện, thị xã, thành phố và Chủ tịch UBND tỉnh. 1.2.3. Nội dung hoạt động pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực giao thông đường thủy - Chất lượng pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực giao thông đường thủy phụ thuộc vào hệ thống văn bản quy phạm pháp luật liên quan về giao thông đường thủy, chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, pháp luật liên quan về giao thông đường thủy là tiền đề để thực hiện pháp chế xã hội chủ n ghĩa trong lĩnh vực giao thông đường thủy. Do đó hệ thống văn bản qui phạm pháp luật là hành lang pháp lý cho công tác qu ản lý Nhà nước chuyên ngành và mọi hoạt động trong lĩnh vực giao thông đường thuỷ, trong đ ó bao hàm các quy định pháp luật về bảo đảm an toàn giao thông đường thuỷ nội địa. Do đó phải chú trọng và đặc biệt quan tâm đếm công tác xây dựng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật để tạo ra khung pháp lý đủ sức bắt buộc mọi chủ thể tham gia vào hoạt động giao thông đường thủy phải chấp hành nghiêm. - Tổ chức thực hiện pháp luật về giao thông đường thủy, đây là một yếu tố không thể thiếu trong việc tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực giao thông đường thủy, việc tổ chức thực hiện pháp luật là đưa pháp luật vào cuộc sống xã hội, để có một nền pháp chế hiệu quả thì pháp luật về giao thông đường thủy cần phải được tôn trọng và các hoạt động liên quan đến giao thông đường thủy phải được thực hiện đúng pháp luật. Do đó, để pháp luật về giao thông đường thủy được tổ chức thực hiện một cách khoa học và có hiệu quả thì phải đưa pháp luật về giao thông đường thủy thật sự đi vào cuộc sống. Muốn vậy, công tác giáo dục tuyên truyền phải được thực hiện một cách đồng bộ, có chất chất lượng sao cho tất cả tổ chức, cá nhân khi tham gia các hoạt động liên quan đến giao thông đường thủy luôn có ý thức tôn trọng và tự giác chấp hành nghiêm pháp luật giao thông thủy. - Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát việc chấp hành pháp luật giao thông đường thủy và kịp thời phát hiện, kiên quyết xử lý nghiê m đối với các vi phạm pháp
- luật về giao thông đường thủy cũng là một trong những nội dung hết sức quan trọng. Điều này đòi hỏi cơ quan quản lý nhà nước về giao thông đường thủy phải chấp hành trước tiên pháp luật về giao thông đường thủy, bảo đảm việc thực hiện và áp dụng ph áp luật về giao thông đường thủy luôn được dân chủ; cán bộ thừa hành nhiệm vụ, người được trao quyền phải nghiêm túc thực hiện việc phát hiện, xử lý kịp thời đối với các vi phạm, kiên quyết chống lại các hành vi bao che, n ương nhẹ do nể nang để bảo vệ tính nghiêm minh của pháp luật. Thực hiện tốt nội dung này sự tuân thủ pháp luật trong xã hội sẽ được tăng cường, pháp chế sẽ luôn được bảo đảm. 1.3. CÁC ĐIỀU KIỆN BẢO ĐẢM PHÁP CHẾ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG LĨNH VỰC GIAO THÔNG ĐƯỜNG THỦY 1.3.1. Điều kiện chính trị tư tưởng Do tai nạn giao thông là có thể phòng và tránh được nên yếu tố ảnh h ưởng trực tiếp đến hoạt độn g giao thông đường thủy là ý th ức của chủ thể, nó phụ thuộc rất nhiều vào ý thức chủ quan của từng chủ thể khi tham gia các hoạt động giao thông. N gười tham gia giao thông, ph ương tiện tham gia giao thông và c ơ sở hạ tầng chuyên n gành đường thủy p hải thực hiện đúng và đầy đủ các qui tắc, qui đ ịnh trong hoạt động giao thông đường thủy nội địa. Vì vậy, việc hiểu biết và ý thức tôn trọng, tự giác chấp pháp luật khi tham gia các hoạt động giao thông đường thủy là hết sức cần thiết. Tuy nhiên đây là hai vế của vấn đề, việc giáo dục cho tất các chủ thể nắm bắt về pháp luật giao thông đường thủy là công việc khó khăn và chưa đủ, công việc khó khăn hơn là tuyên truyền cho những người đã nắm bắt có ý thức tự giác chấp hành pháp luật khi tham gia vào các hoạt động giao thông đường thủy. Trình độ dân trí cũng ảnh hưởng rất lớn đối với việc thực hiện pháp chế, những chủ thể có trình độ văn hóa thường có ý thức tự giác tôn trọng và chấp hành nghiêm các qui định của pháp luật về giao thông đường thủy hơn, vì trình độ dân trí cao là cơ sở để hình thành và nâng cao nhận thức về pháp luật của chủ thể; Một khi đã nhận thức được vấn đề thì tính răn đe của pháp luật sẽ tác động đến tâm lý của chủ thể khi tham gia hoạt động giao thông đường thủy một các nghiêm túc. 1.3.2. Điều kiện pháp lý Điều kiện tiên quyết là phải có hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về giao thông
- thủy đồng bộ, có tính khả thi cao, theo đúng đường lối phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Chính phủ tạo hành lang pháp lý cho công tác quản lý Nhà nước chuyên ngành và mọi hoạt động trong lĩnh vực giao thông đường thuỷ, trong đó bao hàm các quy định pháp luật về bảo đảm an toàn giao thông đường thuỷ nội địa. Đồng thời để bảo đảm được pháp chế phải bảo đảm tính thống nhất trong hệ thống văn bản qui phạm pháp luật về giao thông đường thủy, không được chồng chéo và có hiệu lực thi hành trên phạm vi toàn lãnh thổ thì việc xây dựng và ban hành văn bản pháp luật mới phải tuân thủ các nguyên tắc và trình tự nhất định và phải phù hợp với Hiến pháp và pháp luật. Bên cạnh việc xây dựng, ban hành văn bản pháp luật mới, cần phải thường xuyên rà soát các văn bản pháp luật hiện hành, để xem xét xóa bỏ, điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp với các chủ trương, chính sách của Đảng từ đó tạo thành hệ thống và hoàn chỉnh làm cơ sở pháp lý vững chắc bảo đảm hiệu lực quản lý nhà nước, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Tất cả mọi hành vi vi phạm pháp luật về giao thông đường thủy phải được xử lý kịp thời, nghiêm minh theo đúng qui định của pháp luật, kiên quyết không bỏ qua hay dung túng các hành vi vi phạm pháp luật về giao thông đường thủy, nhằm giáo dục cho mọi người tham gia vào hoạt động giao thông đường thủy nhận thức và có ý thức tự giác tuân thủ pháp luật. 1.3.3. Điều kiện kinh tế - xã hội Điều kiện về trình độ phát triển kinh tế - xã hội cũng ảnh hưởng không nhỏ đến bảo đảm pháp chế trong lĩnh vực giao thông đường thủy. Sự phát triển của cơ sở hạ tầng: cơ quan quản lý nhà nước việc thực hiện qui hoạch, xây dựng hệ thống hạ tầng giao thông đường thủy hoàn chỉnh, để các chủ thể tuân thủ và chấp hành nghiêm pháp luật khi tham gia hoạt động giao thông thủy thì luồng lạch, bến bãi, hệ thống phao tiêu tín hiệu phải được bảo đảm đầy đủ và đạt tiêu chuẩn kỹ thuật; Thực hiện việc tổ chức đào tạo, quản lý người điều khiển và phương tiện khi tham gia hoạt động giao thông đường thủy một các khoa học và hiệu quả, nhất là đối với các phương tiện thủy phục vụ sinh hoạt của nhân dân. Xây dựng chiến lược phát triển phương tiện: có kế hoạch để định hướng và phát triển phương tiện vận tải thủy theo hướng an toàn hiện đại đáp ứng nhu cầu vận tải ngày càng
- tăng cao. Tiểu kết chương 1 Cùng với sự phát triển của kinh tế - xã hội, loại hình vận tải thủy với tính ưu việt do giá thành rẻ và ít bị hạn chế bởi giới hạn về khối lượng và trọng lượng của hàng hóa vận chuyển, cộng với đặc thù của điều kiện sống gắn với vùng sông nước nên ở địa bàn vùng đồng bằng sông Cửu Long loại hình vận tải thủy có sự phát triển hơn ở những địa bàn khác. Chính vì đây là loại hình vận chuyển phổ biến và có sức ảnh h ưởng rất đến đời sống xã hội của nhân dân tại khu vực này như vậy, nên đòi hỏi phải có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh để làm cơ sở cho cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền, người dân hoạt động trong lĩnh vực vận tải thủy này làm thước đo chuẩn mực trong xử sự, đồng thời cũng làm cơ sở pháp lý cho việc ngăn chặn, xử lý các vi phạm pháp luật trong lĩnh vực giao thông đường thủy, nhằm mục đích bảo đảm trật tự an toàn giao thông đường thủy, phòng ngừa và hạn chế đến mức thấp những thiệt hại về người và tài sản khi có tai nạn giao thông thủy xảy ra. Vì vậy, vấn đề pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực giao thông đường thủy tại tỉnh An Giang cần phải được hết sức quan tâm. Mặt khác, ý nghĩa to lớn trong việc tăng cường pháp chế trong lĩnh vực giao thông đường thủy ở tỉnh An Giang còn là phương pháp giúp nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước trong lĩnh vực giao thông đường thủy, từng bước nâng nhận thức của nhân dân về pháp luật giao thông nói chung nhằm tạo ra mối quan hệ xã hội tiên tiến.
- Chương 2 THỰC TRẠNG PHÁP CHẾ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG LĨNH VỰC GIAO THÔNG ĐƯỜNG THỦY Ở TỈNH AN GIANG 2.1. ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI, ĐẶC ĐIỂM Ý THỨC PHÁP LUẬT, CƠ SỞ HẠ TẦNG GIAO THÔNG ĐƯỜNG THỦY ẢNH HƯỞNG ĐẾN TÌNH HÌNH PHÁP CHẾ TRONG LĨNH VỰC GIAO THÔNG ĐƯỜNG THỦY Ở TỈNH AN GIANG 2.1.1. Điều kiện tự nhiên Đồng bằng sông Cửu Long được hình thành chủ yếu do phù sa của hai nhánh sông Tiền và sông Hậu thuộc hạ lưu sông MêKông bồi đắp, chịu ảnh hưởng của vùng khí hậu nóng ẩm quanh năm, chia làm 2 mùa rõ rệt là mùa nắng và mùa mưa - tương ứng với nó là mùa khô và mùa nước nổi (mùa lũ). An Giang là tỉnh đồng bằng thuộc vùng đầu nguồn hệ thống sông Cửu Long với dân số 2,283 triệu người, có diện tích tự nhiên là 3.424 km2; Địa hình An Giang, ngoài đồng bằng do phù sa sông Mê Kông tạo nên, còn có vùng đồi núi Tri Tôn - Tịnh Biên. Do đó, địa hình An Giang có 2 dạng chính là đồng bằng và đồi núi. - Đồng bằng phù sa ở đây là một bộ phận của ĐBSCL, có nguồn gốc trầm tích lâu dài của phù sa sông Mê Kông, với các đặc trưng cơ bản sau đây: Độ nghiêng nhỏ và theo 2 hướng chính. Hướng từ biên giới Việt Nam – Campuchia đến lộ Cái Sắn và hướng từ bờ sông Tiền đến giáp ranh tỉnh Kiên Giang. Độ cao khá thấp và tương đối bằng phẳng, có thể chia thành 3 cấp chính. Cao từ 3m00 trở lên nằm ở ven sông Hậu, sông Tiền và các khu vực đất thổ cư hoặc bờ kênh đào. Cao từ 1m50 đến 3m00 nằm ở khu giữa sông Tiền, sông Hậu. Cao d ưới 1m50 phổ biến nhất ở phía hữu ngạn sông Hậu. Hình dạng đồng bằng phù sa ở An Giang có 3 dạng chính và 1 dạng phụ. Đó là, dạng cồn bãi (cù lao), dạng lòng chảo (ở 2 bờ sông cao hơn và thấp dần vào trong đồng), dạng hơi nghiêng (cao từ bờ sông Hậu rồi thấp dần vào nội đồng đến tận ranh giới tỉnh Kiên Giang) và dạng gợn sóng (dạng phụ - gọi là xép và rạch tự nhiên bị bồi lấp). Đồng bằng ven núi ở An Giang được chia làm 2 kiểu: kiểu sườn tích và kiểu đồng bằng phù sa cổ; Đồng bằng ven núi kiểu sườn tích hình thành trong quá trình phong hóa và xâm thực từ các núi đá, sau đó được nước mưa bào mòn và rửa trôi, rồi được dòng chảy lũ
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
LUẬN VĂN: Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động kiểm toán nhà nước ở Việt Nam
121 p | 235 | 71
-
Luận văn tốt nghiệp: Tăng cường pháp chế XHCN trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội
123 p | 824 | 61
-
LUẬN VĂN: Tăng cường pháp chế XHCN trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội
121 p | 288 | 58
-
LUẬN VĂN: Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động tôn giáo ở tỉnh Quảng Ngãi hiện nay
136 p | 184 | 48
-
LUẬN VĂN: Vai trò của pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tổ chức và hoạt động của Hải quan Việt Nam
129 p | 273 | 44
-
Luận văn Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban nhân dân tỉnh Nghệ An
98 p | 300 | 42
-
LUẬN VĂN: Thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự ở tỉnh Thanh Hóa
110 p | 212 | 37
-
Luận văn Thạc sĩ Xã hội học: Di cư lao động nông thôn - đô thị từ góc độ người ở lại” (Nghiên cứu tại xã Hòa Phú, huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên)
92 p | 142 | 22
-
LUẬN VĂN: Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban nhân dân tỉnh Nghệ An
82 p | 136 | 20
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Vai trò của tổ chức xã hội đối với xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
84 p | 35 | 11
-
Luận văn Thạc sĩ Xã hội học: Văn hóa ứng xử trong công việc của cán bộ, công chức tại xã Tiền Yên, huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội
142 p | 45 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Xã hội học: Nhận thức và hành vi của trẻ em đường phố trước những nguy cơ và hành vi xâm hại tình dục trẻ em
81 p | 35 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Xã hội học: Vai trò của công đoàn trong bảo vệ quyền lợi cho người lao động tại công ty Dệt may Trio, Viêng Chăn, Lào
104 p | 22 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam và việc thực hiện trong giai đoạn xét xử sơ thẩm hình sự (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk)
116 p | 33 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự
93 p | 31 | 6
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong luật tố tụng hình sự Việt Nam và việc thực hiện trong giai đoạn xét xử sơ thẩm hình sự
15 p | 82 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động của Hải quan Việt Nam hiện nay - Qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên - Huế
112 p | 25 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn