intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN: Phát huy nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số ở Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới hiện nay (Qua thực tế tỉnh Điện Biên)

Chia sẻ: Nguyen Hai | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:92

115
lượt xem
31
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trong xã hội văn minh hiên đại, con người được khẳng định là “nguồn lực của mọi nguồn lực” là tài nguyên to lớn của mỗi quốc gia. Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều có chương trình mang tính chất chiến lược về đầu tư và phát triển nguồn lực con người của riêng mình, hướng theo một nguyên tắc chung là: Đặt con người vào trung tâm của sự phát triển kinh tế - xã hội. Sự thành bại của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở mỗi nước đang tuỳ thuộc...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN: Phát huy nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số ở Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới hiện nay (Qua thực tế tỉnh Điện Biên)

  1. LUẬN VĂN: Phát huy nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số ở Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới hiện nay (Qua thực tế tỉnh Điện Biên)
  2. Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong xã hội văn minh hiên đại, con người được khẳng định là “nguồn lực của mọi nguồn lực” là tài nguyên to lớn của mỗi quốc gia. Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều có chương trình mang tính chất chiến lược về đầu tư và phát triển nguồn lực con người của riêng mình, hướng theo một nguyên tắc chung là: Đặt con người vào trung tâm của sự phát triển kinh tế - xã hội. Sự thành bại của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở mỗi nước đang tuỳ thuộc vào những bí quyết về đào tạo, sử dụng và phát huy nguồn lực con người. Đảng Cộng sản Việt Nam đã có nhiều chính sách phát triển nguồn lực con người. Đại hội IX Đảng Cộng sản Việt Nam xác định: "đáp ứng yêu cầu về con người và nguồn nhân lực là nhân tố quyết định sự phát triển đất nước trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá". Vì vậy, chăm lo đào tạo, bồi dưỡng và phát huy nguồn nhân lực là nhiệm vụ trọng tâm trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001- 2020 của các cấp, các ngành từ trung ương đến địa phương trong cả nước. Do đặc điểm cấu trúc địa hình nước ta, dân tộc thiểu số sống rải rác khắp các tỉnh trong cả nước, đặc biệt là miền núi có tầm quan trọng chiến lược trên nhiều phương diện. Đảng và Nhà nước Việt Nam rất quan tâm đến việc sử dụng và đào tạo cán bộ người dân tộc thiểu số và xem đây là lực lượng chủ yếu tại địa phương để thúc đẩy sự phát triển toàn diện về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội của miền núi nói riêng và cả nước nói chung. Nghị quyết 22 của Bộ Chính trị (khoá VI) đã vạch rõ những chủ trương, chính sách lớn nhằm phát triển kinh tế xã hội miền núi. Đó là phương hướng quan trọng mang tinh thần đổi mới đối với vùng đồng bào các dân tộc thiểu số. Sau hơn 10 năm đổi mới, miền núi đã đạt được kết quả đáng mừng: nhiều mô hình mới phát triển kinh tế - xã hội, xoá đói giảm nghèo xuất hiện, việc chỉnh đốn tổ chức Đảng, chính quyền và kiện toàn đội ngũ cán bộ, tích cực đưa đường lối chính sách của
  3. Đảng, pháp luật của Nhà nước vào thực tiễn ngày càng được tăng cường. Những kết quả trên có được là nhờ sự đóng góp công sức của lực lượng lao động các dân tộc thiểu số, trong đó có lực lượng lao động có trí tuệ của tất cả các dân tộc thiểu số. Điện Biên là một tỉnh đông dân, với 3,5 triệu người, nguồn lao động dồi dào nhưng chất lượng nguồn nhân lực còn thấp chưa đáp ứng được yêu cầu mà công cuộc đổi mới trên địa bàn đòi hỏi. Miền núi Điện Biên chiếm 2/3 diện tích tự nhiên của toàn tỉnh với số dân gần 1 triệu người, gồm có 26 dân tộc anh em cùng chung sống, là vùng rừng núi rộng lớn tiềm năng đất đai, tài nguyên và lao động phong phú, nhưng trong thực tế vẫn chưa khai thác đầy đủ về nguồn nhân lực hiện có. Vì vậy, việc nghiên cứu thực trạng nguồn nhân lực làm cơ sở đề xuất các giải pháp nhằm phát huy nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số tỉnh Điện Biên trong công cuộc đổi mới hiện nay có ý nghĩa vô cùng quan trọng cả về lý luận và thực tiễn. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Vấn đề con người là một trong những vấn đề trung tâm của triết học và các học thuyết chính trị xã hội. Từ xưa đến nay mỗi trường phái triết học cũng như mỗi học thuyết chính trị xã hội nghiên cứu con người với góc độ khác nhau,trong đó tập trung chủ yếu bàn về mối quan hệ giữa con ngưới với giới tự nhiên, giữa con người với con người và với xã hội loài người. ở Việt Nam vấn đề con người được nhiều nhà khoa học và lý luận nghiên cứu, đặc biệt trong những năm gần đây có nhiều công trình nghiên cứu con người Việt Nam nói chung và dân tộc thiểu số nói riêng tạo nguồn lực tổng hợp đưa đất nước phát triển. Đó là: - Nguyễn Thế Nghĩa với “Nguồn nhân lực, động lực của CNH - HĐH đất nước”, Tạp chí Triết học, số 1 - 1996. - Nghiên cứu văn hoá, con người, nguồn nhân lực đầu thế kỷ XXI (2003) tư liệu hội thảo Quốc tế của đề tài nghiên cứu khoa học KX - 05 tổ chức tại Hà Nội. - Phát triển nguồn nhân lực, kinh nghiệm thế giới và kinh nghiệm nước ta, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996.
  4. - Phan Thanh Phố - An Như Hải với “Phát triển nguồn nhân lực để công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”, Tạp chí Kinh tế và phát triển, số 3/1995. - “Phát huy vai trò nhân tố con ngời trong sự nghiệp đổi mới hiện nay” của Đinh Lục, Luận văn thạc sĩ Triết học, 1993. - Đổi mới tư duy trong nghiên cứu lý luận và thực tiễn về vấn đề dân tộc ở nước ta để thực hiện tốt chính sách dân tộc của Đảng trong giai đoạn mới của Hoàng Thương Minh, Tạp chí Dân tộc học, số 1+2 - 1988. - Một số suy nghĩ trong việc vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin về vấn đề dân tộc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam Trần Đình Huỳnh, Tạp chí Dân tộc học, số 3 - 1988. - Một số vấn đề về cán bộ dân tộc học thiểu số của Vũ Phòng, Tạp chí Cộng sản, số 5 - 1993. - Nguyễn Quốc Phẩm, Hệ thống chính phủ cấp cơ sở và dân chủ hoá đời sống XH nông thôn miền núi, vùng dân tộc thiểu số các tỉnh miền núi phía Bắc n ước ta, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000. - Hà Quế Lâm, Xoá đói giảm nghèo ở vùng dân tộc thiểu số nước ta hiện nay - Thực trạng và giải pháp, sách tham khảo, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002. - Nguyễn Xuân Thắng, Đảng bộ tỉnh Ninh Thuận lãnh đạo thực hiện chính sách dân tộc thời kỳ 1992 - 2000, Luận án tiến sĩ Lịch sử, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2002. - Trịnh Quang Cảnh, Trí thức người dân tộc thiểu số ở Việt Nam trong công cuộc đổi mới (chủ yếu ở vùng dân tộc thiểu số phía Bắc). - Xây dựng đội ngũ cán bộ thiểu số ở nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH: Luận cứ và giải pháp, Tạp chí Lý luận chính trị, 2005. - Lê Hữu Nghĩa. Một số vấn đề về xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp huyện các dân tộc ở Tây nguyên. - Về một số chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội miền núi, Bộ Chính trị, Nghị quyết 22/NQ/TW ngày 27/11/1989.
  5. - Phạm Như Cương, Đi đến một nhận thức về vấn đề dân tộc và quan hệ dân tộc, Tạp chí Dân tộc học, số 11-1989, tr.3. - Trần Quang Nhiếp, Đổi mới trong việc thực hiện chính sách dân tộc hiện nay, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, số 4-1988, tr.12. - Tạ Nghiêm, Cần có một chính sách dân tộc toàn diện và hoàn chỉnh, một cơ cấu giải quyết vấn đề dân tộc thích ứng với tình hình mới, Tạp chí Dân tộc học, số 3-1990, tr.13. - Nông Đức Mạnh (1992), Mấy vấn đề bức thiết đối với các vùng dân tộc thiểu số hiện nay, Tạp chí Cộng sản, số 8-1992, tr.1. - Hà Quế Lâm, Làm tốt công tác đào tạo các hộ dân tộc thiểu số và cán bộ miền núi, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 7-1990, tr.23. Rõ ràng, đề tài đã được nghiên cứu ở những mức độ khác nhau trên nhiều bình diện cả về lý luận cũng như về thực tiễn. Tuy nhiên, đây là mảng đề tài cũ luôn hàm chứa những vấn đề mới, nhất là trong tình hình công cuộc đổi mới hiện nay. Hơn nữa, như nhiều tác giả khẳng định, đây là mảng đề tài khó, phức tạp, những vấn đề họ đặt ra cũng như chưa có điều kiện đặt ra đầy đủ luôn cần có sự đầu tư nghiên cứu thêm để có những kiến giải sâu sắc, khoa học hơn. Vì vậy, luận văn " Phát huy nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số ở Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới hiện nay (Qua thực tế tỉnh Điện Biên)" hy vọng sẽ đóng góp phần nhỏ và tình hình chung đó. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 3.1. Mục đích: Trên cơ sở phân tích tình hình sử dụng và phát huy nguồn lực con người các dân tộc thiểu số ở nước ta, luận văn đề xuất một số giải pháp phát huy nguồn lực con người các dân tộc thiểu số ở Điện Biên trong sự nghiệp đổi mới hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ: - Phân tích nguồn lực con người các dân tộc thiểu số ở nước ta hiện nay. - Nghiên cứu đánh giá thực trạng sử dụng và phát huy nguồn lực con người các dân tộc thiểu số ở nước ta, từ đó đề ra một số phương hướng và giải pháp nhằm phát huy nguồn lực con người các dân tộc thiểu số ở Điện Biên sự nghiệp đổi mới hiện nay. 4. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu của luận văn
  6. - Vấn đề phát huy nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số của nước ta nói chung đặc biệt là ở tỉnh Điện Biên. - Phạm vi địa bàn khảo sát là tỉnh Điện Biên. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn - Luận văn vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm của Đảng, Nhà nước về nguồn lực con người, về chính sách dân tộc, nâng cao nguồn lực dân tộc thiểu số trong việc phát triển đất nước. - Luận văn vận dụng, kế thừa công trình các tác giả đi trước về vấn đề này. - Luận văn sử dụng phương pháp: lịch sử và logic, trừu tượng và cụ thể, phân tích và tổng hợp, điều tra, thống kê, xã hội học… - Luận văn sử dụng những tài liệu của các cấp chính quyền, các ngành... ở tỉnh Điện Biên. 6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn Luận văn góp phần đánh giá thực trạng việc sử dụng, phát huy nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số ở Điện Biên. Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp chủ yếu để từng bước phát huy nguồn lực con người các dân tộc thiểu số trên địa bàn này nhằm đáp ứng yêu cầu trong sự nghiệp đổi mới hiện nay. 7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Những kết luận được rút ra và những giải pháp được trình bày trong luận văn nhằm phát huy nguồn lực con người các dân tộc thiểu sổ ở Việt nam hiện nay. - Là tài liệu tham khảo ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số cho việc xây dựng, hoạch định chính sách của Đảng, Nhà nước và chính quyền các cấp phát huy nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số trong sự nghiệp đổi mới đất nước nói chung và tỉnh Điện Biên nói riêng. 8. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.
  7. Chương 1 vấn đề phát huy nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số ở Việt Nam 1.1. Quan điểm mác xít về phát huy nguồn nhân lực 1.1.1. Con người và nguồn nhân lực - Vấn đề con người: Vấn đề con người, nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực là một trong những mục tiêu quan trọng của mỗi quốc gia và toàn th giới. Con ng ười vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội. Trong nhiều thế kỷ, người ta đã bị ám ảnh bởi cảnh nghèo đói đe doạ và mong muốn thoát khỏi nguy c ơ này, vươn tới cuộc sống no đủ, hạnh phúc hơn. Đó là nguyện vọng chính đáng. Từ những năm 90 của thế kỷ XX trở lại đây, sự phát triển con người và nguồn nhân lực được liên hợp quốc thừa nhận là vấn đề trung tâm và là thước đo để đánh giá, xếp loại mức độ phát triển của mỗi quốc gia. Hơn 100 năm trước, khi coi tiến trình phát triển lịch sử của xã hội loài người là sự phát triển nối tiếp nhau của các hình thái kinh tế xã hội, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin đã cho rằng, xu hướng chung của tiến trình phát triển lịch sử được quy định bởi sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội, bao gồm con người và những công cụ lao động do con người tạo ra. Sự phát triển lực lượng sản xuất tự nó nói lên trình độ phát triển của xã hội qua việc con người chiếm lĩnh, sử dụng ngày càng nhiều nguồn lực tự nhiên với tư cách là cơ sở vật chất cho hoạt động sống của chính con người và quyết định quan hệ giữa người với người trong sản xuất vật chất. Sản xuất vật chất ngày càng phát triển, tính chất xã hội của sản xuất ngày càng gia tăng, việc tiến hành sản xuất tập thể bằng lực lượng của toàn xã hội và sự phát triển mới của nền sản xuất do việc đó mang lại, sẽ cần đến con người hoàn toàn mới, những con người có năng lực phát triển toàn diện, đủ sức tinh thông toàn bộ hệ thống sản xuất. Đến lượt mình nền sản xuất đó "sẽ tạo nên những con người mới", sẽ làm cho những thành viên trong cả cộng đồng xã hội "có năng lực phát triển toàn diện". Điều đó cho thấy, trong quan niệm của các nhà máy sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin, phát triển sản xuất vì tiến bộ xã hội, vì cuộc sống ngày càng tốt đẹp
  8. hơn cho mọi thành viên trong cộng đồng, vì phát triển con người biết sử dụng ngày càng có hiệu quả tiềm năng sáng tạo của chính mình để "sản xuất ra những con người phát triển toàn diện". Hơn nữa, C. Mác còn coi sự kết hợp chặt chẽ giữa phát triển sản xuất và phát triển con người là "một trong những biện pháp mạnh nhất để cải biến xã hội. Trong học thuyết duy vật lịch sử của mình, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin coi con người không chỉ là chủ thể của hoạt động sản xuất vật chất, là yếu tố hàng đầu trong lực lượng sản xuất,mà hơn thế nữa, con người còn là chủ thể của lịch sử. Con người vừa là điểm xuất phát, vừa là điểm mục tiêu, vừa là trung tâm của mọi biến đổi lịch sử. Thông qua hoạt động sản xuất vật chất, con người sáng tạo ra lịch sử của chính mình, lịch sử của xã hội loài người. Cũng trong quá trình hoạt động sản xuất vật chất, con người tự hoàn thiện chính bản thân mình. Theo C.Mác, Ph.Ăngghen, các lĩnh vực hoạt động cơ bản đó là cơ sở để phát triển con người. Do vậy, "tiền đề đầu tiên của toàn bộ lịch sử nhân loại... là sự tồn tại của những cá nhân con người sống", đó là những con người hiện thực, "bằng xương bằng thịt" [25, tr.29] với hoạt động sản xuất vật chất của họ và trong những điều kiện sinh hoạt vật chất của họ. Từ quan niệm đó, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định: Sự phát triển lực lượng sản xuất, trước hết phải có nghĩa là "phát triển sự phong phú của bản chất con người, coi như là một mục đích tự thân". Theo đó, ý nghĩa lịch sử, mục đích cao cả của sự phát triển và tiến bộ xã hội là sự phát triển con người, nâng cao năng lực và phẩm giá con người, để con người được sống với cuộc sống đích thực là người. Con người không chỉ là chủ thể của hoạt động sản xuất vật chất, là yếu tố hàng đầu, đóng vai trò quyết định trong sự phát triển của lực lượng sản xuất, mà nó còn là chủ thể của quá trình lịch sử, của sự tiến bộ xã hội. Bằng hoạt động lao động sản xuất, con người đã cải tạo tự nhiên để thoả mãn những nhu cầu của mình, đồng thời cải tạo chính bản thân mình. Ph. Ăngghen đã viết "lao động là nguồn gốc của mọi của cải, là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ đời sống loài người, và như thế đến một mức mà trên một ý nghĩa nào đó, chúng ta phải nói: lao động đã sáng tạo ra bản thân con người" [26, tr.641]. Sống trong tự nhiên, con người không chỉ dựa vào tự nhiên, mà trong quá trình tác động vào tự nhiên, con người còn cải biến tự nhiên ấy và trên cơ sở đó, sáng tạo ra những điều
  9. kiện đảm bảo cho sự sinh tồn của bản thân mình, sáng tạo ra lịch sử của chính bản thân mình. Con người chinh phục, cải biến tự nhiên không phải chỉ với tư cách là những cá nhân riêng lẻ, mà còn với tư cách là những thành viên trong một cộng đồng xã hội. Sống trong một cộng đồng xã hội, con người tất yếu có quan hệ với nhau, trao đổi hoạt động với nhau, nhất là trong hoạt động lao động sản xuất. Con người không thể tách rời tự nhiên. Nó chỉ có thể tồn tại và phát triển dựa vào tự nhiên và trên cơ sở làm biến đổi tự nhiên. Không có tự nhiên và xã hội thì con người không thể tiến hành sản xuất được. Song, đến lượt mình, sản xuất xã hội lại trở thành điều kiện tiên quyết để con người cải biến tự nhiên, biến đổi xã hội, trở thành nhân tố quyết định trực tiếp sự tồn tại và phát triển của con người, của cả xã hội loài người. Trình độ sản xuất của con người càng cao thì con người càng có điều kiện để thoả mãn những nhu cầu vật chất của mình và do vậy, cũng làm phong phú thêm đời sống xã hội, đời sống tinh thần của con người. Qua đó, con người tự hoàn thiện chính bản thân mình, phát triển chính mình và thúc đẩy xã hội phát triển. Như vậy, có thể nói, trong quan niệm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin, thực chất của tiến trình phát triển lịch sử xã hội loài người là vì con người, vì sự phát triển con người, đưa con người "từ vương quốc của tất yếu sang vương quốc của tự do", làm cho "con người, cuối cùng làm chủ tồn tại xã hội của chính mình thì cũng do đó mà làm chủ tự nhiên, làm chủ cả bản thân mình, trở thành người tự do". Đó cũng chính là quá trình mà nhân loại tự tạo ra những điều kiện, những khả năng nhằm đem lại sự phát triển cho mỗi con người trong cộng đồng, tạo cho con người năng lực làm chủ tiến trình lịch sử và làm chủ mọi hoạt động của chính mình. Quan niệm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin về tiến bộ và sự phát triển xã hội lấy sự phát triển của con người làm mục đích càng phải được khẳng định trong thời đại ngày nay. Bởi lẽ, ngày nay, nhân loại đang sống trong bối cảnh quốc tế đầy những biến động, cộng đồng thế giới đang thể hiện hết sức rõ ràng tính đa dạng trong các hình thức phát triển của nó. Xã hội loài người, kể từ thời tiền sử cho đến nay, bao giờ cũng là một hệ thống, chỉnh thể, thống nhất song cũng đồng thời là một hệ thống hết sức phức tạp, đa dạng. Chính sự phức tạp và đa dạng trong tiến trình phát triển lịch sử xã hội
  10. đã tạo nên tính không đồng đều trong sự phát triển kinh tế - xã hội ở các nước, các khu vực, các châu lục khác nhau - điều mà cách đây hơn 80 năm, V. I. Lênin đã gọi là quy luật phát triển kinh tế không đồng đều. Đến lượt mình, tính không đồng đều của sự phát triển này lại hình thành nên những khuynh hướng hết sức đa dạng về phát triển xã hội. Song, dù phát triển theo hướng nào thì cuối cùng xu hướng chung của sự phát triển xã hội dưới sự tác động của các lực lượng tiến bộ cũng hướng tới giá trị nhân văn của nó - tới sự phát triển con người, hoàn thiện con người với tư cách là chủ thể của sự phát triển xã hội. Không phải cho đến nay chúng ta mới nhận thấy điều đó, mà ngay từ buổi đầu tiến hành sự nghiệp cách mạng của mình, Đảng ta đã nhiều lần khẳng định, con người là vốn quý nhất, chăm lo hạnh phúc của con người là mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta. Chăm lo hạnh phúc của mọi người, mọi nhà đã được Đảng ta đặt lên vị trí hàng đầu và coi đó là nhiệm vụ trung tâm. Chủ tịch Hồ Chí Minh, khi nói đến con người với tư cách là "người chủ xã hội" là cái "vốn quý nhất", là lực lượng xây dựng thành công CNXH, Người không chỉ nói đến trí tuệ, tài năng, sức khoẻ của con người, mà còn nói tới nhiều yếu tố khác của con người, trong đó có những giá trị xã hội được kết tinh trong bản thân từng con người thông qua hoạt động thực tiễn cách mạng và cải tạo xã hội. Nói đến con người XHCN với tư cách lực lượng đóng vai trò quyết định sự thành công của sự nghiệp xây dựng CNXH trên đất nước ta, Người nói đến tính hướng đích, tính định hướng về giá trị, phẩm cách, sự phát triển toàn diện và không ngừng vươn lên của con người trong việc cải tạo và xây dựng xã hội mới bằng hoạt động lao động sáng tạo của mình. Với quan điểm về sự phát triển con người toàn diện, trong suốt những năm tháng lãnh đạo công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chú trọng đến việc giáo dục và thường xuyên nâng cao trình độ văn hoá, khoa học kỹ thuật cho mọi người, không ngừng đào tạo "các lớp nhân tài" đồng thời không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho mọi tầng lớp nhân dân về ăn, mặc, ở, đi lại, học hành... Quán triệt quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của Đảng, cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Đảng ta một lần nữa khẳng định chủ trương "phát huy nhân tố con người trên cơ sở đảm bảo công bằng, bình đẳng về quyền
  11. lợi và nghĩa vụ của công dân; kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội; giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần; giữa đáp ứng các nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài; giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng xã hội" [5, tr.13]. Với thực tiễn của hơn 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới ở nước ta, với bối cảnh quốc tế và khu vực hiện thời, để phát triển con người Việt Nam, để "bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người" chúng ta "nhất thiết phải từng bước hiện đại hoá đất nước và đời sống xã hội. Chính vì thế mọi kế hoạch xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội phải được đặt trong mối liên hệ không thể tách rời với kế hoạch đầu tư cho chính sự phát triển về nhân cách, trí tuệ, tình cảm, niềm vui và hạnh phúc của mỗi người, mỗi gia đình và cả cộng đồng dân tộc Việt Nam, cho việc xây dựng và phát triển nguồn nhân lực nhiều về số lượng, mạnh về chất lượng, đủ sức đáp ứng những đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp đổi mới đất nước. Công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay đang bước vào thời kỳ mới. Nó đòi hỏi chúng ta phải nhận thức một cách sâu sắc, đầy đủ những giá trị to lớn và có ý nghĩa quyết định của nhân tố con người - chủ thể của mọi sáng tạo, nguồn "tài nguyên vô giá", vô tận của đất nước. Từ đó phải đổi mới cách nhìn, cách nghĩ về vai trò động lực và mục tiêu của con người trong sự nghiệp đổi mới. Thực hiện chiến lược phát triển con người, xây dựng và phát triển nguồn nhân lực phải coi việc bồi dưỡng, phát huy nhân tố con người Việt Nam hiện đại như một cuộc cách mạng - cách mạng về con người. Chính cuộc cách mạng về con người sẽ tạo ra động lực mạnh mẽ cho sự phát triển bền vững, đẩy mạnh tiến độ công cuộc đổi mới, thúc đẩy quá trình đổi mới toàn diện đất nước. Với ý nghĩa đó, con người Việt Nam không chỉ là mục tiêu, mà còn là động lực của quá trình đổi mới đất nước. - Vấn đề nguồn nhân lực: Trong thời đại hiện nay đối với bất cứ quốc gia nào việc xác định một cách đúng đắn và huy động có hiệu quả các nguồn lực đều được coi là điều có ý nghĩa to lớn đối với việc thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong sự nghiệp đổi mới. Vì thế có nhiều lý thuyết coi con người là một loài vốn đặc biệt "tư bản người" (Humancapital), "tài nguyên người", "nguồn lực có khả năng tái sinh", "nguồn lực của mọi nguồn lực",
  12. "nguồn lực cơ bản", "lực lượng sản xuất hàng đầu"... Nhân lực được hiểu là nguồn lực của con người bao gồm: Trí thức, tâm lực, thể lực, năng lực. Nguồn lực (Human Rersources) theo nghĩa rộng là tổng thể các tiềm năng (lao động) của con người của một quốc gia, một vùng lãnh thổ, một địa phương đã được chuẩn bị ở mức độ nào đó, có khả năng huy động vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước (hoặc một vùng, một địa phương cụ thể). Với cách tiếp cận này, nguồn nhân lực như một bộ phận cấu thành các nguồn lực của quốc gia như nguồn lực vật chất (trừ con người), nguồn lực tài chính, nguồn lực trí tuệ (chất xám). Những nguồn lực này có thể được huy động một cách tối ưu để phát triển kinh tế - xã hội. Nguồn nhân lực được nghiên cứu trên giác độ số lượng và chất lượng. Số lượng nguồn nhân lực được biểu hiện thông qua các chỉ tiêu quy mô và tốc độ tăng nhân lực. Các chỉ tiêu này có liên quan mật thiết tới chỉ tiêu quy mô và tốc độ tăng dân số. Chất lượng nguồn nhân lực được nghiên cứu trên các khía cạnh về sức khoẻ, trình độ học vấn, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, năng lực phẩm chất... Theo nghĩa tương đối hẹp: Nguồn nhân lực được hiểu là nguồn lao động. Khái niệm người lao động hiện nay cũng có những khác biệt giữa các quốc gia. Chẳng hạn: + ở Liên Xô (cũ): Nguồn lao động là toàn bộ những người lao động dưới dạng tích cực (đang tham gia lao động) và dạng tiềm tàng (có khả năng lao động nhưng chưa tham gia lao động). + ở Pháp: Nguồn lao động là toàn bộ những người có khả năng lao động (đang làm việc và chưa làm việc nhưng không bao gồm những người có khả năng lao động nhưng chưa tham gia). + ở Việt Nam: Hiện nay tương đối thống nhất hiểu nguồn lao động gồm những người đủ 15 tuổi trở lên có việc làm (gồm cả những người trên tuổi lao động, thực tế đang làm việc) và những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động nhưng chưa làm việc do: Thất nghiệp, đang đi học, đang làm nội trợ trong gia đình, không có nhu cầu làm việc. Theo nghĩa hẹp hơn: Nguồn nhân lực là toàn bộ lực lượng lao động trong nền kinh tế quốc dân (hay còn gọi là dân số hoạt động kinh tế), nghĩa là bao gồm những người
  13. trong một độ tuổi nhất định nào đó, có khả năng lao động, thực tế đang có việc làm và những người thất nghiệp. Về độ tuổi, hiện nay có nhiều quy định khác nhau. Đa số các nước có quy định tối thiểu thường là 15 tuổi, còn tối đa thường trùng với tuổi nghỉ hưu hoặc không giới hạn. ở Việt Nam, lực lượng lao động bao gồm những người trong độ tuổi lao động, đang có việc làm; những người ngoài độ tuổi lao động thực tế làm việc và những người thất nghiệp; nghĩa là không bao gồm những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động nhưng đang đi học; đang làm nội trợ trong gia đình; không có nhu cầu làm việc. - Các khái niệm liên quan đến nguồn nhân lực: + Đội ngũ lao động là những người lao động trong nguồn nhân lực đang làm việc trong nền kinh tế quốc dân (còn gọi là dân số hoạt động kinh tế tích cực). Đây là bộ phận quan trọng nhất đối với nguồn nhân lực của mỗi quốc gia, có ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế nói chung và phát triển kinh tế - xã hội nói riêng. Vì vậy, vấn đề mở rộng và nâng cao chất lượng đội ngũ lao động nhằm phát huy tàon bộ nguồn nhân lực luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm. + Vốn nhân lực là khái niệm tương đối mới, vốn nhân lực được hiểu là tiềm năng và khả năng phát huy tiềm năng về sức khoẻ, kiến thức của các cá nhân và là cái mang lại lợi ích trong tương lai cao hơn và lớn hơn những lợi ích hiện tại. Khái niệm "vốn" được hiểu là giá trị mang lại lợi ích (kinh tế - xã hội), để chỉ ra tầm quan trọng của việc đầu tư vào phát triển con người thông qua giáo dục - đào tạo, chăm sóc sức khoẻ nhằm tạo ra những người lao động có tri thức, có khả năng nhận thức và tiếp thu kiến thức, có kỹ năng nghề nghiệp và có sức khoẻ đáp ứng được những đòi hỏi ngày càng cao của công việc. Như vậy, không phải bất cứ con người nào cũng có thể trở thành vốn nhân lực được. Bởi lẽ, cũng giống như các nguồn lực khác, để có thể đem lại lợi ích thì bản thân nó phải có giá trị. Giá trị vốn nhân lực ở đây chính là giá trị sức lao động. Giá trị này cao hay thấp phụ thuộc vào trình độ và khả năng nghề nghiệp của mỗi người. Nói một cách khác, để trở thành vốn nhân lực, con người phải được giáo dục, được đào tạo để có những kiến thức chuyên môn càng cao, có sức khoẻ tốt. - Vấn đề phát huy nguồn nhân lực:
  14. Phát huy nguồn nhân lực là sự biến đổi về số lượng và chất lượng nguồn nhân lực được biểu hiện qua các mặt cơ cấu, thế lực, kỹ năng, kiến thức và tinh thần cần thiết cho công việc; nhờ vậy mà phát triển được năng lực của họ, ổn định được công ăn việc làm, nâng cao địa vị kinh tế - xã hội của họ và cuối cùng là đóng góp cho sự phát triển. Phát huy nguồn nhân lực là hoạt động nhằm tạo ra nguồn nhân lực đông đảo đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong mỗi giai đoạn phát triển cả về quy mô, cơ cấu, số lượng và chất lượng. Thực chất, phát huy nguồn nhân lực là quá trình tăng về số lượng và nâng cao về chất lượng nguồn nhân lực nhằm tạo ra quy mô và cơ cấu ngày càng phù hợp với nhu cầu về nhân lực phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội. Số lượng và chất lượng luôn gắn bó với nhau và ảnh hưởng lẫn nhau. Về mặt số lượng là tăng nguồn lao động (con người). Chất lượng bao gồm sức khoẻ, trình độ chuyên môn kỹ thuật và các phẩm chất cá nhân. Nghị quyết Trung ương lần thứ bảy (khoá VII) đã đề ra chủ trương phát triển nguồn nhân lực đồng bộ với công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đây là một chủ trương lớn rất quan trọng, đánh dấu bước chuyển giai đoạn của nền kinh tế - xã hội của đất nước ta giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hiện đại hoá. Phát huy nguồn nhân lực đáp ứng sự nghiệp đổi mới đất nước bao gồm các lĩnh vực như nâng cao chất lượng dân số, giáo dục, đào tạo, đảm bảo sức khoẻ, dạy nghề, tạo việc làm, quản lý và sử dụng có hiệu quả nhân lực. Với cơ cấu và thực trạng dân số lao động của nước ta và nhu cầu phát triển thị trường lao động trong những năm tới, chúng ta cần và có thể phát huy nguồn nhân lực một cách toàn diện theo các bình diện trên. Như vậy, phát huy nguồn nhân lực là quá trình biến đổi nhằm phát triển, khơi dậy những khả năng con người về năng lực vật chất và năng lực tinh thần, tạo dựng và ngày càng nâng cao, hoàn thiện cả về đạo đức, tay nghề, tâm hồn và hành vi từ trình độ chất lượng, sử dụng có hiệu quả hơn nguồn nhân lực trong sự nghiệp đổi mới đất nước. 1.1.2. Các đặc trưng cơ bản của nguồn nhân lực - Đặc trưng về sinh học
  15. Triết học Mác - Lênin khẳng định, lao động là hoạt động bản chất của con người. Con người bằng hoạt động lao động của mình đã làm biến đổi bản chất tự nhiên và tạo ra bản chất xã hội của chính mình. Con người không chỉ sống trong môi trường tự nhiên, mà còn sống trong môi trường xã hội, nên tự nhiên và xã hội trong mỗi con người không phải tồn tại cạnh nhau, mà hoà quyện vào nhau. Bản chất tự nhiên của con người chuyển vào hoạt động xã hội của con người và được cải biến ở trong đó, tạo nên con người trong thể thống nhất: tự nhiên và xã hội. Quan điểm Mác - Lênin cho rằng: Hoạt động của con người chủ yếu là hoạt động sản xuất, hoạt động cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội và thông qua những hoạt động này, con người cải tạo chính bản thân mình, làm cho con người ngày càng hoàn thiện. Chính những hoạt động này đã làm thay đổi mặt sinh vật không con người và làm cho nó ngày càng gần tính người hơn và cũng chính hoạt động thực tiễn ấy đã làm cho nhu cầu sinh vật ở con người trở thành nhu cầu xã hội. Ph. Ăngghen đã viết: Lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ đời sống loài người và như thế đến mức mà trên một ý nghĩa nào đó, chúng ta phải nói: Lao động sáng tạo ra bản thân con người. - Đặc trưng về số lượng: Được xác định dựa trên quy mô, cơ cấu tuổi, giới tính và sự phân bố theo khu vực và vùng lãnh thổ. ở nước ta, số lượng nguồn nhân lực được xác định bao gồm tổng số người trong độ tuổi lao động (nam 15 - 60, nữ 15 - 55) vì người lao động phải ít nhất đủ 15 tuổi và được hưởng chế độ hưu trí hàng năm khi có đủ điều kiện về tuổi đời (nam 60, nữ 55) và thời gian đóng bảo hiểm xã hội (20 năm trở lên). Đây là lực lượng lao động tiềm tàng của xã hội. Luật lao động đã quy định giới hạn của độ tuổi lao động đối với nam 60, nữ là 55. Việc quy định này xuất phát từ tính ưu việt của chế độ xã hội nước ta, ưu tiên phụ nữ được quyền nghỉ hưu sớm hơn nam giới 5 tuổi do phải sinh đẻ, nuôi dạy và chăm sóc trẻ em mà thể lực bị giảm sút (cũng như sự ưu tiên đối với người lao động trong một số ngành, vùng đặc biệt...) trong điều kiện kinh tế chưa phát triển mạnh. Sau hơn 50 năm thực hiện, đến nay chính sách ưu tiên đã bộc lộ một số hạn chế trong việc phát triển và nâng cao năng lực, địa vị của người phụ nữ trong xã hội, vì thời gian về hưu sớm cùng với những hoàn cảnh khác chi phối nên nhiều cơ quan, đơn vị đã hạn chế việc
  16. đào tạo, bồi dưỡng, đề bạt... đối với lao động nữ. Do đó số lượng tỷ lệ phụ nữ đạt trình độ học vấn cao cũng như trong các vị trí lãnh đạo có xu hướng giảm. Trong thực tế, tuổi thọ của người phụ nữ cao hơn nam giới. Do sinh đẻ ít hơn ổ độ tuổi sau 40 tuổi, khi con đã lớn, gia đình ổn định, người phụ nữ có điều kiện học tập, nâng cao trình độ và làm việc tốt hơn. Nhiều kết quả nghiên cứu y học lao động đã khẳng định, khả năng lao động cơ bắp của người phụ nữ luôn luôn kém hơn nam giới ở mọi lứa tuổi, nhưng lao động trí tuệ thì không kém hơn... Nhờ tiến bộ kỹ thuật của thời đại, lao động trí tuệ ngày càng phát triển, lao động cơ bắp ngày càng giảm xuống cùng với sự phát triển nhanh chóng của dịch vụ cho phép phụ nữ tham gia ngày càng nhiều hơn vào các hoạt động xã hội. Đây cũng là một điều kiện đảm bảo quyền bình đẳng và phát triển vì sự tiến bộ của phụ nữ nói riêng và phát triển nguồn nhân lực nói chung. Sự gia tăng dân số là cơ sở để hình thành và gia tăng nguồn nhân lực. Sự gia tăng dân số sau 15 năm sẽ kéo theo sự gia tăng nguồn nhân lực. Nhưng nhịp độ tăng dân số chậm lại cũng không làm giảm ngay lập tức nhịp độ tăng nguồn nhân lực. - Đặc trưng về chất lượng: Chất lượng nguồn nhân lực thể hiện trạng thái nhất định của nguồn nhân lực với tư cách vừa là một khách thể vật chất đặc biệt vừa là chủ thể của mọi hoạt động kinh tế và các quan hệ xã hội. Chất lượng nguồn nhân lực là tổng thể những nét đặc trưng, phản ánh bản chất, tính đặc thù liên quan trực tiếp tới hoạt động sản xuất và phát triển con người. Do đó, chất lượng nguồn nhân lực là khái niệm tổng hợp, bao gồm những nét đặc trưng về trạng thái thể lực, trí lực, năng lực, phong cách đạo đức, lối sống và tinh thần của nguồn nhân lực: Trạng thái sức khoẻ, trình độ học vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật, cơ cấu nghề nghiệp, thành phần xã hội, trong đó, trình độ học vấn là yếu tố quan trọng nhất vì nó không chỉ là cơ sở để đào tạo kỹ năng nghề nghiệp mà còn là yếu tố hình thành nhân cách, là lối sống của mỗi con người. Chất lượng nguồn nhân lực liên quan đến nhiều lĩnh vực như đảm bảo dinh dưỡng và chăm sóc sức khoẻ, giáo dục và đào tạo, lao động và việc làm gắn với tiến bộ kỹ thuật, trả công lao động và các mối quan hệ xã hội khác. Chất lượng nguồn nhân lực cao có tác động làm tăng năng suất lao động. Trong thời đại tiến bộ kỹ thuật, một nước cần và có
  17. thể đưa chất lượng nguồn nhân lực vượt trước trình độ phát triển của cơ sở vật chất trong nước để sẵn sàng đón nhận tiến bộ kỹ thuật - công nghệ, hoà nhập với nhịp độ phát triển của nhân loại 1.2. tầm quan trọng của việc phát huy nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số ở Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới hiện nay 1.2.1. Một vài nét về nguồn nhân lực các dân tộc ở Việt Nam Cả nước ta hiện có 54 dân tộc. Trong số 54 dân tộc, có những dân tộc vốn sinh ra và phát triển trên mảnh đất Việt Nam ngay từ thuở ban đầu, có những dân tộc từ nơi khác lần lượt di cư đến nước ta. Do vị trí nước ta giao lưu hết sức thuận lợi nên nhiều dân tộc ở các nước xung quanh vì nhiều nguyên nhân đã di cư từ bắc xuống, từ nam lên, từ tây sang, chủ yếu từ bắc xuống, rồi định cư trên lãnh thổ nước ta. Những đợt di cư nói trên kéo dài mãi cho đến trước cách mạng tháng 8/1945, thậm chí có bộ phận dân cư còn chuyển đến nước ta sau năm 1945. Đây là những đợt di cư lẻ tẻ, bao gồm một số dân tộc đồng tộc. Trọng cộng đồng dân tộc Việt Nam, dân số giữa các dân tộc rất không đều nhau, có dân tộc số lượng dân trên một triệu người như Tày, Thái... nhưng cũng có dân tộc chỉ vài trăm người như Pu Péo, Ró-măm, Brâu... Trong đó dân tộc Kinh là dân tộc đa số. Tuy số dân có sự chênh lệch đáng kể, nhưng các dân tộc vẫn coi nhau như anh em một nhà, quý trọng, thương yêu, đùm bọc lẫn nhau, chung sức xây dựng và bảo vệ tổ quốc, cả khi thuận lợi cũng như lúc khó khăn. ở nước ta không có tình trạng dân tộc đa số cưỡng bức, đồng hoá, thôn tính các dân tộc ít người, do đó cũng không có tình trạng dân tộc ít người chống lại dân tộc đa số. Ngày nay trước yêu cầu phát triển mới của đất nước, các dân tộc anh em trên đất nước ta tiếp tục phát huy truyền thống tốt đẹp, tăng cường đoàn kết, nỗ lực phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam độc lập, thống nhất, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, vững bước đi lên CNXH. Trong cộng đồng dân tộc Việt Nam - tổ quốc của nhiều dân tộc với giang sơn núi trùng điệp, đồng bằng sải cánh cò bay và biển Đông bốn mùa sóng vỗ; bờ cõi liền một dải từ chỏm Lũng Cú (Bắc) đến xóm Rạch Tàu (Nam), từ đỉnh Trường Sơn (Tây) đến quần đảo Trường Sa (Đông).
  18. Cùng chung sống lâu đời trên một đất nước, các dân tộc có truyền thống yêu nước, đoàn kết giúp đỡ nhau trong chinh phục thiên nhiên và đấu tranh xã hội, trong suốt quá trình lịch sử dựng nước, giữ nước và xây dựng phát triển đất nước. Sống trên mảnh đất Đông Dương - nơi cửa ngõ nối Đông Nam á lục địa với Đông Nam á hải đảo, Việt Nam là nơi giao lưu của các nền văn hoá trong khu vực. ở đây có đủ 3 ngữ hệ lớn trong khu vực Đông Nam á, ngữ hệ Nam đảo và ngữ hệ Hán - Tạng. Tiếng nói của các dân tộc Việt Nam thuộc 8 nhóm ngôn ngữ khác nhau. Nhóm Việt - Mường có 3 dân tộc là: Chứt, Mường, Thổ, Chày. Nhóm Tày - Thái có 7 dân tộc là: Bố Y, Giáy, Lào, Lự, Nùng, Tày, Thái. Nhóm Môn - Khmer có 21 dân tộc là: Bana, Brâu, Bru Vân Kiều, Chơ-ro, Co, Cơ Ho, Cơ-tu, Gié-triêng, Hrê, Kháng, Khmer, Khơmú, Mạ, Mảng, M'nông, Ơđu, Rơ-măm, Tà-ôi, Xinh-mun, Xơ Đăng, Xtiêng. Nhóm Mông - Dao có 3 dân tộc là: Dao, Mông, Pà Thẻn. Nhóm Kađai có 4 dân tộc là: Cờ Lao, La Chí, La Ha, Pu Péo Nhóm Nam Đảo có 5 dân tộc là: Chăm, Chu-ru, Ê-đê, Gia Rai, R-glai. Nhóm Hán có 3 dân tộc là: Hoa, Ngái, Sán Dìu. Nhóm Tạng có 6 dân tộc là: Cống, Hà Nhì, La Hư, Cô Lô, Phù Lá, Si La Mặc dù tiếng nói của các dân tộc thuộc nhiều nhóm ngôn ngữ khác nhau, song các dân tộc sống rất xen kẽ với nhau nên một dân tộc thường biết tiếng các dân tộc có quan hệ hàng ngày, và dù sống xen kẽ với nhau, giao lưu văn hoá với nhau, nhưng các dân tộc vẫn lưu giữ được bản sắc văn hoá riêng của dân tộc mình. ở đây cái đa dạng của văn hoá dân tộc được thống nhất trong quy luật chung - quy luật phát triển đi lên của đất nước. Danh mục thành phần các dân tộc Việt Nam (Kèm theo dân số các dân tộc) Dân số Số Dân tộc Tên tự gọi Tổng ĐT TT Ước tính (1.7.2003 (1.4.1999) 1 Ba Na Ba Na 174.456 190.259 2 Bố Y Bố Y 1.864 2.059
  19. Dân số Số Dân tộc Tên tự gọi Tổng ĐT TT Ước tính (1.7.2003 (1.4.1999) 3 Brâu 313 350 4 Bru Vân Bru 55.559 62.954 Kiều 5 Chăm 132.873 148.021 (Chàm) 6 Chơ ro 22.567 26.455 7 Churu 14.978 16.972 8 Chứt Chứt 3.829 3,787 9 Co Cor, Coi 27.766 29.771 10 Cống Xám, Khống, Phuy A 1.676 1.859 11 Cơ Ho Cơ Ho 128.723 145.857 12 Cơ Lao Cờ Lao 1.865 2.034 13 Cơ Tu Cơ Tu 50.458 56.690 14 Dao Kim, Miền, Kim Mùn 620.538 685.432 15 Ê đê Anăk Ê Đê 270.348 306.333 16 Giáy Giáy 49.098 54.002 17 Gia Rai Gia Rai 317.557 350.766 18 Giê - Gié, Triêng, Ve, Bnoong 30.243 31.343 Triêng 19 Hà Nhì Hà Nhì Già 17.535 19.954 20 Hoa (Hán) 862.371 913.248 21 H'rê Hrê 113.111 120.251 22 Hmông Hmông, Na Miẻo 787.604 896.239 (Mèo) 23 Kinh 65.795.718 69.356.969
  20. Dân số Số Dân tộc Tên tự gọi Tổng ĐT TT Ước tính (1.7.2003 (1.4.1999) (Việt) 24 Kháng Mơ Kháng 10.272 15.213 25 Khmer Khmer 1.055.174 1.112.286 26 Khơ Mú Kmụ, Kưm, Mụ 56.542 62.721 27 La Chi Cù Tê 10.765 12.095 28 La Ha La Ha, Klá Plạo 5.686 6.388 29 La Hủ La Hủ 6.874 7.561 30 Lào Thay, Thay Duồn, Thay 11.611 12.379 Nhuồn 31 Lô Lô Lô Lô 3.307 3.327 32 Lự Lừ, Thay, Thay Lừ 4.964 5.553 33 Mạ Mạ 33.338 36.824 34 Mảng Mảng 2.663 2.634 35 Mường Mol (Mon, Moan, Mual) 1.137.515 1.230.054 36 Mnông Mnông 92.451 104.312 37 Ngái Sán Ngải 4.841 7.386 38 Nùng Nồng 856,412 914.350 39 Ơ Đu Ơ Đu, I Đu 301 370 40 Pà Thẻn Pà Hưng 5.569 6.529 41 Phù Lá Lao Va Xnước, Bồ Khô 9.046 8.947 Pạ, Phù Lá 42 Pu Pèo Kabeo 705 900 43 Raglay 96.931 109.442 44 Rơ Măm 352 418 45 Sán Chay Sán Chay 147.315 162.031
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0