intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận môn Đường lối cách mạng Đảng Cộng sản Việt Nam: Vận dụng quan điểm phát huy nguồn nhân lực của Đảng Cộng sản Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa Việt Nam hiện nay

Chia sẻ: Xanh Nang | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:34

442
lượt xem
77
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mời các bạn cùng tham khảo tiểu luận môn Đường lối cách mạng Đảng Cộng sản Việt Nam với đề tài "Vận dụng quan điểm phát huy nguồn nhân lực của Đảng Cộng sản Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa Việt Nam hiện nay" sau đây. Đây là tài liệu tham khảo hữu ích cho các bạn sinh viên đang học tập môn học đại cương này.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận môn Đường lối cách mạng Đảng Cộng sản Việt Nam: Vận dụng quan điểm phát huy nguồn nhân lực của Đảng Cộng sản Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa Việt Nam hiện nay

  1. BẢNG ĐÁNH GIÁ CÁC THÀNH VIÊN TRONG NHÓM STT Họ và tên Mã sinh viên Chức vụ Đánh giá 1 Nguyễn Thị Hương Nhóm trưởng 2 Trần Lan Hương Thành viên 3 Trần Thị Thu Hường Thành viên 4 Cấn Thị Thanh Huyền Thành viên 5 Nguyễn Thị Khánh Hòa Thành viên 6 Đinh Thị Thu Hương Thư ký 7 Dương Thị Hồng Thành viên 8 Đào Thị Ngọc Huyền Thành viên 9 Lê Ánh Hồng Thành viên Thư ký                                                                  Nhóm trưởng
  2. DÀN Ý CHI TIẾT 2
  3. LỜI MỞ ĐẦU Công nghiệp hoá­hiện đại hóa(CNH­HĐH)  được  Đảng ta đã xác  định rõ CNH­HĐH là nhiệm vụ  trung tâm trong thời kì quá độ  lên chủ  nghĩa xã hội  ở nước ta. CNH­HĐH là một bước chuẩn bị, xây dựng nền  tảng cho nền kinh tế đất nước. Các nguồn lực như: cơ sở vật chất, kinh   tế, xã hội, chính trị,…để xây dựng CNH­HDH và nguồn nhân lực chính là  nền tảng, là tiền đề  quan trọng của CNH­HĐH đất nước. Nguồn nhân  lực tiên tiến sẽ  tạo điều kiện cho CNH­HĐH đất nước đạt được những  bước phát triển nhanh chóng. Việt Nam với thực trạng là nước có nền kinh tế  nông nghiệp lạc  hậu, chịu  ảnh hưởng nặng nề  do hậu quả  của chiến tranh để  lại, việc   đầu tư lâu dài, đúng đắn và phát triển nguồn nhân lực do đó chính là quốc  sách hàng đầucho sự  phát triển của đất nước.   Do đó cần phải đặt ra  những câu hỏi về nguồn nhân lực Việt Nam hiện nay và những biện pháp  để  nâng cao chất lượng nguồn nhân lực?...Đây là vấn đề  vô cùng cấp  bách, vì vậy, chúng tôi thực hiện đề tài thảo luận: “Vận dụng quan điểm   phát huy nguồn nhân lực của Đảng Cộng sản Việt Nam trong sự nghiệp   CNH­HĐH Việt Nam hiện nay”. Chúng em đã cố  gắng thực hiện đề  tài  nhưng vẫn không tránh khỏi những sai sót.  Chúng em rất mong nhận  được những ý kiến đóng góp của thầy để nội dung được đầy đủ hơn. 3
  4. NỘI DUNG I. Tổng quan về CNH­HĐH 1. Một số khái niệm. 1.1. Khái niệm công nghiệp hóa­ hiện đại hóa. Công nghiệp hóa: Là quá trình chuyển đổi căn bản, tòan diện các hoạt   động sản xuất từ  sử  dụng sức lao động thủ  công là chính sang sử  dụng  một cách phổ  biến sức lao động dựa trên sự  phát triển của ngành công  nghiệp cơ khí. Hiện đại hóa: Là quá trình ứng dụng và trang bị thành tựu khoa học và   công nghệ  tiên tiến, hiện đại vào quá trình chuyển đổi sản xuất, kinh   doanh, dịch vụ và quá trình kinh tế­ xã hội. Công nghiệp hóa­ Hiện đại hóa: Là quá trình chuyển đổi căn bản, tòan  diện các hoạt động sản xuất và quản lý từ sử dụng sức lao động thủ công  là chính sang sử  dụng một cách phổ  biến sức lao động cùng công nghệ,  phương tiện, phương pháp tiên tiến, hiện đại nhằm tạo ra năng suất lao   động xã hội cao, đảm bảo cho sự phát triển của chủ nghĩa xã hội. 1.2. Khái niệm nguồn nhân lực. Nhân lực : Bao gồm tất cả các tiềm năng của con người trong một tổ  chức hay xã hội tức là tất cả  các thành viên trong doanh nghiệp sử  dụng   kiến thức, khả năng, hành vi ứng xử và giá trị đạo đức để thành lập, duy trì   và phát triển doanh nghiệp. 4
  5. Nguồn nhân lực: Là nguồn lực của mỗi con người, gồm có thể lực và  trí lực. Thể  lực phụ  thuộc vào tình trạng sức khoẻ  của con người, mức  sống, thu nhập, chế độ ăn uống, chế độ  làm việc, nghỉ  ngơi v.v… Trí lực  là nguồn tiềm tàng to lớn của con người, đó là tài năng, năng khiếu cũng  như quan điểm, lòng tin, ... 2. Quan điểm và chủ trương phát huy nguồn nhân lực của Đảng trong  thời kỳ công nghiệp hóa­ hiện đại hóa. Nước ta đang phát triển nền kinh tế   theo  hướng công nghiệp hóa,  hiện đại hóa đất nước. Với mục tiêu là cải biến nước ta thành một nước  công nghiệp có cơ  sở  vật chất­ kỹ  thuật hiện đại, cơ  cấu kinh tế  hợp lý,  quan hệ  sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ  phát triển của lực lượng   sản xuất, mức đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng­ an ninh  vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Từ  nay đến giữa thế  kỷ  XXI, nước ta trở  thành một nước công nghiệp hiện   đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Bước vào thời kỳ đổi mới, trên cơ sở phân tích khoa học các điều kiện   trong nước và quốc tế, Đảng ta nêu ra những quan điểm mới chỉ  đạo quá  trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong điều kiện  mới. Những quan XI của Đảng: ­ Một là, công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa và công nghiệp   hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế  tri thức, bảo vệ  tài   nguyên,  môi trường. Từ  thế  kỷ  XVII­  XVIII, các nước Tây Âu đã tiến hành công nghiệp  hóa, hiện đại hóa. Khi đó, công nghiệp hóa được hiểu là quá trình thay thế  5
  6. lao động thủ  công bằng lao động sử  dụng máy móc. Nhưng trong thời đại  ngày nay, Đại X của Đảng nhận định: “Khoa học và công nghệ sẽ có bước   tiến nhảy vọt và những đột phá lớn”. Kinh tế  tri thức có vai trò càng nổi  bật trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất. C uộc cách mạng khoa  học và công nghệ hiện đại tác động sâu rộng tới mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Bên cạnh đó, xu thế  hội nhập và tác động của quá trình toàn cầu  hóa đã tạo ra nhiều cơ hội cũng như  thách thức đối với đất nước. Trong   bối cánh đó, nước ta cần phải và có thể  tiến hành công nghiệp hóa theo  kiểu rút ngắn thời gian khi biết lựa chọn con đường phát triển kết hợp  công nghiệp hóa với hiện đại hóa. Nước ta thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa khi trên thế  giới   kinh tế tri thức đã phát triển. Chúng có thể và cần thiết không trải qua các   bước phát triển tuần tự  từ  kinh tế  nông nghiệp lên kinh tế  công nghiệp  rồi mới phát triển kinh tế  tri thức. Đó là lợi thế  của các nước đi sau,  không phải là nóng vội duy ý chí. Vì vậy, Đại hội X của Đảng chỉ rõ: đẩy   mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế  tri thức,   coi kinh tế  tri thức là yếu tố  quan trọng của nền kinh tế  và của công  nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đại hội XI của Đảng nhấn mạnh thêm: "thực hiện công nghiệp hóa, hiện  đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ tài nguyên,  môi trường; xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại, có hiệu quả và bền   vững, gắn chặt chẽ công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ". Kinh tế  tri thức  là nền kinh tế trong đó sự sinh sản ra, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai   6
  7. trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao   chất lượng cuộc sống. ­ Hai là, công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế  thị  trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Khác với công   nghiệp hóa  ở  thời kỳ  trước đổi mới, được tiến hành  trong nền kinh tế kế hoạch trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, lực   lượng làm công nghiệp hóa chỉ có Nhà nước, theo kế hoạch của Nhà nước  thông qua các chỉ tiêu pháp lệnh. Thời kỳ  đổi mới, công nghiệp hóa, hiện   đại hóa được tiến hành trong nềnkinh tế thị trường định hướng xã hội chủ  nghĩa, nhiều thành phần. Do đó, công nghiệp hóa, hiện đại hóa không phải   chỉ  là việc của Nhà nước mà là sự  nghiệp của toàn dân, của mọi thành  phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước là chủ đạo. Phương thức phân bổ  nguồn lực để  công nghiệp hóa được thực hiện chủ  yếu bằng cơ  chế  thị  trường; trong đó ưu tiên những ngành, những lĩnh vực có hiệu quả cao. Hội nhập kinh tế quốc tế nhằm khai thác thị  trường thế  giới để  tiêu   thụ những sản phẩm mà nước ta có nhiều lợi thế, thu hút vồn đầu tư nước  ngoài, thu hút công nghệ  hiện đại, học hỏi  kinh nghiệm quản lý tiên tiến  của thế giới. Bên cạnh đó cũng cần kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời   đại để phát triển kinh tế và đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. ­ Ba là, lấy phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự  phát triển nhanh và bền vững. Trong năm yếu tố chủ yếu để tăng trưởng kinh tế ( vốn, khoa học và  công nghệ, con người, cơ  cấu kinh tế, thể  chế  chính trị  và quản lý nhà   nước ), con người là yếu tố quyết định. Để phát triển nguồn lực con người   7
  8. đáp ứng yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đâị hóa đất nước cần đặc biệt  chú ý đến phát triển giáo dục, đào tạo. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự  nghiệp của toàn dân, của mọi   thành phần kinh tế, trong đó lực lượng cán bộ  khoa học và công nghệ,   khoa học quản lý cũng như  đội ngũ công nhân lành nghề  giữ  vai trò đặc   biệt quan trọng. Đại hội XI chỉ  rõ: "Phát triển và nâng chất lượng nguồn  nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến  lược, là yếu tố  quyết định đẩy mạnh phát triển và  ứng dụng khoa học,   công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và là lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất,  bảo đảm cho phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững". II. Phát huy nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa­hiện  đại hóa và ví dụ thực tế. 1. Thưc trạng nguồn nhân lực hiện nay  và nguyên nhân dẫn đến  chất lượng nguồn nhân lực giảm sút. Vấn đề  nguồn nhân lực thực chất là vấn đề  con người. Xây dựng  nguồn nhân lực Việt Nam tức là xây dựng con người Việt Nam có đủ tầm   vóc, tố chất, tiêu chuẩn, tài đức, đủ sức đảm đương công việc được giao. 1.1.  Những mặt tích cực. Tổ  chức Y tế thế giới (WHO) vừa công bố  dân số  Việt Nam là 87  triệu người, xếp thứ 13 trên thế  giới về  dân số. Theo tính toán của Quỹ  Dân số Liên hiệp quốc, đến giữa thế kỷ XXI, dân số Việt Nam có thể đạt   ngưỡng 100 triệu người. Ngân hàng thế  giới (WB) đánh giá chất lượng  nguồn nhân lực của Việt Nam hiện nay đạt 3,79 điểm (thang điểm 10),  8
  9. xếp thứ  11 trong số  12 nước  ở  châu Á tham gia xếp hạng. Chỉ  số  cạnh   tranh nguồn nhân lực Việt Nam đạt 3,39/10 điểm và năng lực cạnh tranh   của nền kinh tế Việt Nam xếp thứ 73/133 nước được xếp hạng. Tuổi thọ  trung bình của người Việt Nam hiện nay là 75. Nguồn nhân lực từ nông dân: Nông dân Việt Nam chiếm khoảng hơn 61   triệu 433 nghìn người, bằng khoảng 73% dân số  của cả  nước. Cả  nước   có khoảng 113.700 trang trại, 7.240 hợp tác xã nông, lâm nghiệp, thủy sản;  có 217 làng nghề, 40% sản phẩm từ các ngành, nghề  của nông dân được  xuất khẩu đến hơn 100 nước. Như vậy, so với trước đây, nông thôn nước   ta đã có những chuyển biến tích cực. Nguồn nhân lực từ  công nhân: Về  số  lượng giai cấp công nhân Việt  Nam hiện nay có khoảng 10 triệu người (kể  cả  khoảng 500 nghìn công  nhân đang làm việc  ở  nước ngoại, tại trên 40 nước và vùng lãnh thổ  với  hơn 30 nhóm ngành nghề ở nước ngoài và 2 triệu hộ lao động kinh doanh   cá   thể).   Số   công   nhân   có   trình   độ   cao   đẳng,   đại   học   ở   Việt   Nam   có   khoảng 150 nghìn người. Nhìn chung, công nhân có tay nghề cao chiếm tỷ  lệ thấp so với đội ngũ công nhân nói chung. Cả nước, tính đến năm 2007, có 262 trường dạy nghề, 599 trung tâm   dạy nghề. Trường trung cấp công nghiệp đến năm 2008 là 275. Theo số  liệu mới thống kê được, tính đến cuối năm 2010, cả  nước có 123 trường   cao đẳng dạy nghề, 303 trường trung cấp nghề; 810 trung tâm dạy nghề;  hơn 1.000 cơ sở khác có tham gia dạy nghề. Dạy nghề trình độ  trung cấp  từ  75,6 nghìn tăng lên 360 nghìn người; có khoảng 600 nghề  có nhu cầu  đào tạo. Đến cuối năm 2010, cả  nước có 123 trường cao đẳng dạy nghề;   9
  10. 303 trường trung cấp nghề; 810 trung tâm dạy nghề, hơn 1.000 cơ sở khác   có tham gia dạy nghề. Dạy nghề trình độ  trung cấp từ 75,6 nghìn tăng lên   360 nghìn người. Nguồn nhân lực từ trí thức, công chức, viên chức: Nếu tính sinh viên đại  học và cao đẳng trở lên được xem là trí thức, thì đội ngũ trí thức Việt Nam   trong những năm gần đây tăng nhanh. Riêng sinh viên đại học và cao đẳng  phát triển nhanh:  năm 2000, cả  nước có 899,5 nghìn người; năm 2002:  1.020,7 nghìn người; năm 2003: 1.131 nghìn người; năm 2004: 1.319,8 nghìn  người. Năm 2005: 1,387,1 nghìn người; năm 2006 (mới tính sơ  bộ: prel):  1,666, 2 nghìn người,… Cả nước có khoảng 14 nghìn tiến sĩ và tiến sĩ khoa  học; 1.131 giáo sư; 5.253 phó giáo sư; 16 nghìn người có trình độ thạc sĩ; 30  nghìn cán bộ hoạt động khoa học và công nghệ; 52.129 giảng viên đại học,  cao đẳng, trong đó có 49% của số 47.700 có trình độ thạc sĩ trở lên, gần 14 nghìn giáo viên trung cấp chuyên nghiệp, 11.200 giáo viên dạy nghề  và  925 nghìn giáo viên hệ  phổ  thông; gần 9.000 tiến sĩ được điều tra, thì có   khoảng 70% giữ  chức vụ  quản lý và 30% thực sự  làm chuyên môn. Đội  ngũ trí thức Việt Nam  ở  nước ngoài, hiện có khoảng 300 nghìn người   trong tổng số gần 3 triệu Việt kiều, trong đó có khoảng 200 giáo sư, tiến  sĩ đang giảng dạy tại một số trường đại học trên thế giới. Số  trường đại học tăng nhanh. Tính đến đầu năm 2007, Việt Nam   có   143   trường   đại   học,   đại   học,   học   viện;   178   trường   cao   đẳng;   285  trường trung cấp chuyên nghiệp và 1.691 cơ  sở  đào tạo nghề. Cả  nước   hiện có 74 trường và khối trung học phổ  thông chuyên với tổng số  47,5   nghìn học sinh tại 63/64 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và 7 trường   10
  11. đại học chuyên. Tỷ  lệ  học sinh trung học phổ  thông chuyên so với tổng   dân số của cả nước đạt 0,05%. Các cơ  sở  giáo dục ngoài công lập ngày càng phát triển. Vào năm  học 2007­2008, cả  nước có gần 6 nghìn cơ  sở  giáo dục mầm non, 95  trường tiểu học, 33 trường trung học cơ  sở, 651 trường trung học phổ  thông, 308 cơ  sở  dạy nghề, 72 trường trung cấp chuyên nghiệp và 64  trường cao đẳng, đại học là các cơ sở giáo dục ngoài công lập. Số  học sinh, sinh viên học tại các cơ  sở  giáo dục ngoài công lập  ngày càng tăng. Năm học 2007­2008, tỷ  lệ  học sinh, sinh viên ngoài công  lập là 15,6% (năm 2000 là 11,8%), trong đó, tỷ  lệ  học sinh phổ  thông là  9%, học sinh trung cấp chuyên nghiệp là 18,2%, học nghề  là 31,2%, sinh   viên cao đẳng, đại học là 11,8%. Cả nước có 1.568/3.645 học sinh đọat giải trong kỳ thi học sinh giỏi   quốc gia trung học phổ thông năm học 2007­2008. Đầu năm 2008, Bộ  Giáo dục và Đào tạo Việt Nam đã trình lên Thủ  tướng Chính phủ Việt Nam dự án đào tạo 20 nghìn tiến sĩ trong giai đoạn  2007­2020 ở cả trong nước và ngoài nước. Nhà nước đã dành một khoản ngân sách chi cho giáo dục và đào tạo  là 76.200 tỷ đồng, chiếm 20% tổng chi ngân sách nhà nước, tăng 14,1% so   với thực hiện năm 2007. Bên cạnh nguồn nhân lực là trí thức trên đây, nguồn nhân lực là công   chức, viên chức (cũng xuất thân từ trí thức) công tác tại các ngành của đất  nước cũng tăng nhanh: 11
  12. Tổng số  công chức, viên chức trong toàn ngành xuất bản là gần 5  nghìn người làm việc tại 54 nhà xuất bản trong cả nước (trung  ương 42,   địa phương 12). Tổng số  nhà báo của cả  nước là 14 nghìn phóng viên   chuyên nghiệp và hàng nghìn cán bộ, kỹ  sư, nghệ  sĩ, nhân viên làm việc   trong các cơ quan báo chí và hàng chục nghìn người khác là cộng tác viên,  nhân viên, lao động tham gia các công đoạn in ấn, tiếp thị quảng cáo, phát  hành, làm việc tại 687 cơ quan báo chí, hơn 800 báo, tạp chí, báo điện tử,   đài phát thanh, truyền hình. Đội ngũ công chức, viên chức của ngành thuế Việt Nam hiện có gần  39 nghìn người; ngành hải quan của Việt Nam là 7.800 người, ngành kho  bạc là 13.536 người. Tính đến tháng 6­2005, đội ngũ cán bộ nghiên cứu, hoạch định chính   sách pháp luật của các cơ  quan trung  ương là 824 người, trong đó có 43  tiến sĩ luật (chiếm 5,22%), 35 tiến sĩ khác (chiếm 4,25%), 89 thạc sĩ luật  (chiếm 10,08%), 43 thạc sĩ khác (chiếm 5,22%), 459 đại học luật (chiếm   55,70%),   223   đại   học   khác   (chiếm   27,06%),   64   người   có   2   bằng   vừa   chuyên môn luật, vừa chuyên môn khác (chiếm 7,77%),… Cả nước có 4.000 luật sư (tính ra   cứ 1 luật sư trên 24 nghìn người dân). Trí thức, công chức, viên chức trong các ngành nghề khác của các cơ  quan trung  ương và địa phương cũng tăng nhanh.Tổng nhân lực các hội,   liên hiệp hội, viện, trung tâm (NGO) hiện có 52,893 người. 1.2. Những mặt tiêu cực. 12
  13. Nguồn nhân lực từ nông dân: Mặc dù đã có những chuyển biến tích cực  Tuy nhiên, nguồn nhân lực trong nông dân ở nước ta vẫn chưa được khai  thác, chưa được tổ  chức đầy đủ. Người nông dân chẳng có ai dạy nghề  trồng lúa. Họ  đều tự  làm. Đến lượt con cháu họ  cũng tự  làm. Có người  nói rằng, nghề trồng lúa là nghề dễ nhất, không cần phải hướng dẫn cũng  có thể  làm được.  Ở  các nước phát triển, họ  không nghĩ như  vậy. Mọi   người dân trong làng đều được hướng dẫn tỷ mỷ về nghề trồng lúa trước  khi lội xuống ruộng. Hiện có từ  80 đến 90% lao động nông, lâm, ngư  nghiệp và những cán bộ  quản lý nông thôn chưa được đào tạo. Điều này   phản ánh chất lượng nguồn nhân lực trong nông dân còn rất yếu kém. Sự yếu kém này đẫ dẫn đến tình trạng sản xuất nông nghiệp nước ta  vẫn còn đang trong tình trạng sản xuất nhỏ, manh mún, sản xuất theo   kiểu truyền thống, hiệu quả sản xuất thấp. Việc liên kết "bốn nhà" (nhà   nước, nhà nông, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp) hiện đang còn là hình  thức. Tình trạng đất nông nghiệp ngày càng thu hẹp, làm cho một bộ phận   lao động  ở  nông thôn dôi ra, không có việc làm. Từ  năm 2000 đến năm  2007, mỗi năm nhà nước thu hồi khoảng 72 nghìn ha đất nông nghiệp để  phát triển công nghiệp, xây dựng đô thị. Nguyên nhân : nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do khâu tổ chức lao  động và quy hoạch lao động trong nông thôn chưa tốt. Chính sách đối với  nông nghiệp, nông dân, nông thôn chưa đồng bộ, chưa mang tínhkhuyến  khích và tính cạnh tranh. 13
  14. Chính vì nguồn nhân lực trong nông thôn chưa được khai thác, đào  tạo, cho nên một bộ phận nhân dân ở  nông thôn không có việc làm ở  các   khu công nghiệp, công trường. Tình trạng hiện nay là các doanh nghiệp   đang thiếu nghiêm trọng thợ có tay nghề  cao, trong khi đó, lực lượng lao   động ở nông thôn lại dư thừa rất nhiều; chất lượng lao động rất thấp. Nguồn nhân lực từ công nhân: Trong các ngành nghề của công nhân, tỷ  lệ  công nhân cơ  khí và công nhân làm việc trong các nhà máy, xí nghiệp   công nghiệp nặng còn rất thấp, khoảng 20% trong tổng số công nhân của  cả  nước, trong khi đó, công nhân trong các ngành công nghiệp nhẹ, chế  biến thực phẩm lại chiếm tỷ lệ cao, khoảng 40%. Vì  đồng lương còn thấp, công nhân không thể  sống trọn  đời với   nghề, mà phải kiêm thêm nghề phụ khác như đi làm xe ôm trong buổi tối   và ngày nghỉ, làm nghề thủ công, buôn bán thêm, cho nên đã dẫn đến tình   trạng nhiều người vừa là công nhân, vừa không phải là công nhân. Nhìn chung, qua hơn 25 năm đổi mới, cùng với quá trình công nghiệp  hóa, hiện  đại hóa  đất nước, giai cấp công nhân nước ta  đã có những  chuyển biến tích cực, tăng nhanh về  số  lượng, đa dạng về  cơ  cấu, chất   lượng được nâng lên từng bước. Trong quá trình phát triển kinh tế ­ xã hội  Việt Nam, việc làm và đời sống của giai cấp công nhân ngày càng được   cải thiện. Bên cạnh đó, sự phát triển của giai cấp công nhân chưa đáp ứng   được yêu cầu về số lượng, chất lượng, kỹ năng nghề nghiệp; thiếu nhiều  các chuyên gia kỹ  thuật, công nhân lành nghề; tác phong công nghiệp và  kỷ  luật lao động còn nhiều hạn chế; phần lớn công nhân xuất thân từ  14
  15. nông dân, chưa được đào tạo cơ bản và có hệ thống. "Địa vị chính trị của  giai cấp công nhân chưa thể hiện đầy đủ". Nguyên nhân  : nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do quá trình phát  triển kinh tế ­ xã hội trong quá trình đổi mới đã mở ra một giai đoạn lịch   sử  mới trong sự  phát triển của giai cấp công nhân Việt Nam. Bên cạnh   đó, những hạn chế, yếu kém trong phát triển kinh tế ­ xã hội ảnh hưởng   không  nhỏ   đến  việc   làm,  đời  sống,   tâm   tư,   tình  cảm   của   công   nhân;  những chính sách về  giai cấp công nhân tuy đã ban hành, nhưng chưa sát  hợp với tình hình thực tế của giai cấp công nhân. Trong các doanh nghiệp   và người sử dụng lao động, không ít trường hợp còn vi phạm chính sách  đối với công nhân và người lao động. Nguồn nhân lực từ  trí thức, công chức, viên chức:   Bên cạnh sự  tăng  nhanh từ nguồn nhân lực trí thức, công chức, viên chức đã dẫn ra trên đây,   thấy rằng,  ở Việt Nam hiện nay, chất lượng nguồn nhân lực từ  trí thức,  công chức, viên chức còn yếu kém và bất cập. Đa số  công chức, viên  chức làm việc trong các cơ  quan công quyền chưa hội  đủ  những tiêu   chuẩn của một công chức, viên chức như  trình độ  chuyên môn, nghiệp  vụ, ngoại ngữ, tin học,  ảnh hưởng nhiều đến chất lượng công việc. Có  63% tổng số  sinh viên tốt nghiệp ra trường chưa có việc làm; không ít  đơn vị nhận người vào làm, phải mất 1­2 năm đào tạo lại. Trong số 37%   sinh viên có việc làm, thì cũng không đáp ứng được công việc. Bằng cấp   đào tạo  ở  Việt Nam chưa được thị  trường lao động quốc tế  thừa nhận.   Năm 2007, số  sinh viên tốt nghiệp đại học là 161.411người. Theo  ước   15
  16. tính, mỗi tấm bằng đại học, người dân bỏ ra 40 triệu đồng, còn nhà nước   đầu tư khoảng 30 triệu đồng. Như vậy, với tỷ lệ 63% số sinh viên ra trường chưa có việc làm, cho   thấy kinh phí đầu tư của sinh viên thất nghiệp (161.411 sinh viên x 63% x  70 triệu), ít nhất thất thoát 7.117 tỷ đồng (trong đó, 4.067 tỷ đồng của dân  và 3.050 tỷ đồng của nhà nước). Việt Nam có khoảng 2,6 triệu người có trình độ đại học trở lên. Con  số này có thể nói tương đương với 2,6 triệu trí thức nước nhà. Nguyên  nhân:  Nguyên  nhân của thực  trạng trên   được xem xét trên ba  phương diện: đào tạo, sử dụng và đãi ngộ. Trên thực tế, chúng ta vẫn thường nói đào tạo nguồn nhân lực phải  dựa vào nhu cầu, vào xu hướng phát triển của nền kinh tế, đào tạo đúng  địa chỉ  sử  dụng, tiếp cận tinh hoa tri thức nhân loại... Nhưng thực tế,  chúng ta chưa đạt hiệu quả mong muốn. Nhiều người cho rằng, đào tạo   ở Việt Nam chỉ là để phục vụ “cầu” còn “cung” thì chưa rõ phải làm gì!   Ngành nào là ngành mũi nhọn cũng chưa được xác định nhất quán, lĩnh  vực nào là thế  mạnh cần được quan tâm cũng chưa rõ ràng, nội dung,  chương trình, mục tiêu đào tạo... chưa được xác định một cách khách  quan, khoa học. Hơn nữa, chúng ta cũng đang còn lúng túng trong việc lựa   chọn và quyết định hình thức, phương pháp, loại hình đào tạo thích hợp!   Việc sử  dụng lao  động cũng còn nhiều bất hợp lý. Nguyên tắc  đúng  người, đúng việc, đúng chuyên môn ở nhiều nơi vẫn chỉ là những câu nói  cửa miệng. 16
  17. Việc đãi ngộ lao động ở nước ta hiện nay cũng chưa phù hợp, chưa  tương xứng, đang là cản trở lớn cho việc phát huy tiềm năng và sức sáng  tạo của lao động qua đào tạo. Chúng ta vẫn thường nói “hiền tài là nguyên   khí quốc gia” nhưng chế độ đãi ngộ với “hiền tài” như thế nào thì vẫn chỉ  là các chủ đề được đề cập trong các cuộc hội thảo, trong các dự kiến, dự  định của các cấp và các cơ  quan có thẩm quyền. Chúng ta rất dễ  dàng   nhận thấy sự chênh lệch đến độ khó tưởng tượng trong đãi ngộ giữa thủ  khoa đại học, huy chương vàng Olimpic các kỳ thi học sinh giỏi quốc tế,  mức   thưởng   cho   một   phát  minh   sáng   chế...   với   tiền  thưởng   cho   “hoa   hậu”, tiền cat­xê cho các “sao”... Thực tế  là, 9 năm qua (2004 ­ 2013)   Thành phố Hà Nội đã tuyên dương 973 thủ khoa đại học nhưng chỉ thu hút   được 100 thủ  khoa về  công tác tại các cơ  quan của Thành phố  Hà Nội.   Hiện tượng “chảy máu chất xám”, đào tạo nhân tài nhưng lại không sử  dụng được người tài, đào tạo để  “người khác” sử  dụng vẫn đang phổ  biến ở nước ta hiện nay đều có nguyên nhân từ cơ chế, chính sách đãi ngộ  đối với nguồn nhân lực chất lượng cao của đất nước. Vấn đề nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam hiện vẫn đang   là bài toán cần tìm lời giải. Mặc dù, xét về số lượng nhân lực có học hàm,   học vị, Việt Nam không thua kém các nước trong khu vực, nhưng khả  năng đáp ứng nhu cầu công việc còn hạn chế, nhất là đối với yêu cầu hội   nhập quốc tế  hiện nay. Để  giải quyết vấn đề  này, việc đổi mới cơ  chế  giáo dục đào tạo đang là một đòi hỏi bức thiết. Nói tóm lại, nguồn nhân lực từ nông dân, công nhân, trí thức (trong   đó có công chức, viên chức)  ở  Việt Nam, nhìn chung, còn nhiều bất cập.   Sự  bất cập này đã  ảnh hưởng trực tiếp đến phát triển kinh tế  ­ xã hội.   17
  18. Trong những năm đổi mới, kinh tế  đất nước tuy có tăng từ  7,5 đến 8%,   nhưng so với kinh tế thế giới thì còn kém xa. Theo báo cáo của Ngân hàng  thế  giới (WB) và tập đoàn tài chính quốc tế  (IFC), công bố  ngày 26­9­ 2007, kinh tế Việt Nam xếp thứ 91/178 nước được khảo sát. Có thể rút ra mấy điểm về thực trạng nguồn nhân lực ở Việt Nam: ­ Nguồn nhân lực ở Việt Nam khá dồi dào, nhưng chưa được sự quan tâm  đúng mức, chưa được quy hoạch, chưa được khai thác, chưa được nâng  cấp, còn đào tạo thì chưa đến nơi đến chốn, nhiều người chưa được đào  tạo. ­ Chất lượng nguồn nhân lực chưa cao, dẫn đến tình trạng mâu thuẫn   giữa lượng và chất. ­ Sự  kết hợp, bổ  sung, đan xen giữa nguồn nhân lực từ  nông dân, công  nhân, trí thức,… chưa tốt, còn chia cắt, thiếu sự  cộng lực để  cùng nhau  thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Có thể đánh giá tổng quát về nhân lực Việt Nam hiện nay là số lượng  đông, chất   lượng  không  đông,  thể  hiện  là tay  nghề   thấp,  chưa  có  tác  phong công nghiệp, chưa có những tổng công trình sư, kỹ  sư, nhà khoa  học thật sự  giỏi; chưa có những chuyên gia giỏi; chưa có những nhà tư  vấn, nhà tham mưu giỏi; chưa có những nhà thuyết trình giỏi; chưa có  những nhà lãnh đạo, nhà quản lý giỏi. Báo chí nước ngoài bình luận người   Việt Nam khá thông minh, rất nhanh nhạy trong việc nắm bắt và tiếp thu  cái mới. Tiếc rằng, lại chưa được khai thác đầy đủ, đào tạo chưa bài bản,   điều đó  ảnh hưởng đến chất lượng nhân lực và  ảnh hưởng đến sự  phát   triển kinh tế ­ xã hội Việt Nam. 18
  19. 19
  20. 2. Công nghệ  thông tin và thực trạng của ngành công nghệ  thông tin. 2.1. Công nghệ thông tin đi vào đời sống. Trong thời đại bùng nổ công nghệ kỹ thuật số, ngành nghề, lĩnh vực  hay   hoạt   động   nào   trong   xã   hội   hiện   đại   cũng   cần   tới   sự   góp   mặt  của công nghệ  thông tin.  Công nghệ  thông tin là chiếc chìa khoá để  mở  cánh cổng vào nền kinh tế  tri thức . Sự  hiện diện của ngành Công nghệ  thông tin lan rộng và phủ sóng nhiều lĩnh vực. Vì vậy, để vận hành, phát  triển các hệ  thống và các  ứng dụng công nghệ  thông tin, đòi hỏi một  nguồn nhân lực rất lớn và vẫn còn tiếp tục tăng trong những năm tiếp  theo. 2.2. Thực trạng nguồn nhân lực ngành công nghệ thông tin. Theo thống kê của Bộ  Thông tin và &Truyền thông, hiện nay nguồn  nhân  lực  ngành công nghệ  thông tin (CNTT)  tại các doanh nghiệp đang  thiếu   trầm   trọng,   nhu   cầu   tuyển   dụng   trong   lĩnh   vực  này  là   khoảng  250.000 lao  động. Theo hướng quy hoạch nhân lực quốc gia  đến năm  2020, Việt Nam cần 1 triệu lao động trong lĩnh vực CNTT. Những con số  trên cho thấy nhu cầu, cơn khát nhân lực trong ngànhCNTT  dường như  vẫn chưa hề  giảm sút, nhu cầu nhân lực CNTT mỗi năm tăng 13%. Hiện  nhu cầu tuyển dụng nhân lực trong ngành rất rộng mở, trong đó có nhiều   vị  trí “khát” trầm trọng như: lập trình di động, điện toán đám mây, quản   trị mạng, chuyên gia bảo mật và an ninh mạng... 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
7=>1