Tiểu luận: Phát huy nguồn nhân lực trong sự nghiệp CNH - HĐH ở nước ta hiện nay
lượt xem 190
download
Tham khảo luận văn - đề án 'tiểu luận: phát huy nguồn nhân lực trong sự nghiệp cnh - hđh ở nước ta hiện nay', luận văn - báo cáo phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tiểu luận: Phát huy nguồn nhân lực trong sự nghiệp CNH - HĐH ở nước ta hiện nay
- Tiểu Luận PHÁT HUY NGUỒN NHÂN LỰC TRONG SỰ NGHIỆP CNH-HĐH Ở NƯỚC TA HIỆN NAY 1
- Mục Lục I. TÌM HIỂU CHUNG VỀ SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA VÀ NGUỒN NHÂN LỰC ...........................................................................................................................................3 1. Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. (CNH, HĐH) ...................................................................3 a. Khái niệm công nghiệp hóa hiện đại hóa ...........................................................................................3 b. khái niệm nguồn lực con người ..........................................................................................................3 2. Các quan điểm và chủ trương của đảng về phát huy NNL trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. ..4 II. PHÁT HUY NGUỒN NHÂN LỰC TRONG SỰ NGHIỆP CNH, HĐH Ở NƯỚC. ........................5 1. Vấn đề nguồn nhân lực trong sự nghiệp CNH, HĐH. ........................................................................5 a. Thực trạng nguồn nhân lực ở nước ta. ...............................................................................................5 2. Các giải pháp nhằm phát huy nguồn nhân lực trong sự nghiệp CNH, HĐH......................................9 c. Về giáo dục- đào tạo. ........................................................................................................................11 III. THỰC TRẠNG VỀ NNL NGÀNH TÀI CHÍNH-NGÂN HÀNG Ở VIỆT NAM. ......................12 Ngày nay, trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước mục tiêu quan trọng nhất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta thì nguồn nhân lực chính là chìa khoá của sự thành công. Nguồn nhân lực với trình độ tiên tiến sẽ chính là nhân tố đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Với một nước đang ở trình độ thấp kém phát triển như nước ta hiện nay không thể không xây dựng một chính sách phát triển lâu bền, nâng cao dần chất lượng của người lao động, phát huy nhân tố con người để phục vụ tốt nhất cho mục tiêu lớn lao của toàn dân tộc, đưa nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đó cũng chính là lý do mà nhóm chúng em chọn đề tài “Phát huy nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay.” 2
- I. TÌM HIỂU CHUNG VỀ SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA VÀ NGUỒN NHÂN LỰC 1. Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. (CNH, HĐH) a. Khái niệm công nghiệp hóa hiện đại hóa “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học- công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao” b. khái niệm nguồn lực con người Hiện nay có nhiều khái niệm khác nhau về nguồn lực con người: Ngân hàng Thế giới cho rằng: nguồn nhân lực là toàn bộ vốn người (thể lực, trí lực, kỹ năng, nghề nghiệp, v.v.) mà mỗi cá nhân sở hữu, có thể huy động được trong quá trình sản xuất, kinh doanh, hay trong một hoạt động nào đó. Theo định nghĩa của Liên hiệp quốc, nguồn nhân lực là trình độ lành nghề, là kiến thức và năng lực của toàn bộ cuộc sống con người hiện có thực tế hoặc tiềm năng để phát triển kinh tế - xã hội trong một cộng đồng. Qua các ý kiến khác nhau có thể hiểu, nguồn lực con người là tổng thể những yếu tố thuộc về thể chất, tinh thần, đạo đức, phẩm chất, trình độ tri thức, vị thế xã hội, v.v. tạo nên năng lực của con người, của cộng đồng người có thể sử dụng, phát huy trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và trong những hoạt động xã hội. 3
- 2. Các quan điểm và chủ trương của đảng về phát huy NNL trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Trong tiến trình của các cuộc cải biến cách mạng xã hội theo hướng tiến bộ, con người luôn là mục tiêu, đồng thời là động lực của tiến trình đó. Như vậy vai trò của nhân tố con người được xem như chủ thể của toàn bộ tiến trình cách mạng. Quan niệm này xuất phát từ một nguyên lý căn bản của chủ nghĩa Marx: Con người là chủ thể của các quan hệ xã hội. Cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc cách mạng do con người, vì con người. Chính vì mục tiêu cao cả của cuộc cách mạng đó mà khi hình dung trên những nét đại thể về xã hội tương lai, Marx và Engels đã đặt con người vào vị trí trung tâm. Con người là chủ thể xây dựng, đồng thời là kết quả của sự phát triển xã hội đó. Công cuộc đổi mới theo định hướng XHCN hiện nay ở nước ta do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng cũng là nhằm đạt tới mục tiêu cao cả trên. Để đạt tới mục tiêu đó, nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ là thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Tức là phải bằng mọi cách phát huy vai trò tích cực của con người Việt Nam cho sự nghiệp công nghiệp hoá đất nước. Điều đó có nghĩa là phải tìm những giải pháp tốt nhất nhằm phát huy nhân tố con người –chủ thể của toàn bộ tiến trình đó. Nhận thức được tầm quan trọng của nhân tố đó, trong các nghị quyết ban chấp hàng trung ưng đảng khóa VII, VIII, IX, X đảng ta luôn đánh giá cao sự phát huy nguồn nhân lực con người trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. - Nghị quyết IV Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII nêu rõ: Cùng với khoa học, công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là động lực thúc đẩy. Như vậy, giáo dục là một dạng đầu tư cho sự phát triển vì nó là động lực thúc đẩy kinh tế phát triển. Sự nghiệp giáo dục đao tạo có tính xã hội hóa cao. Nền giáo dục và đào tạo tốt sẽ cho chúng ta nguồn nhân lực với đủ sức mạnh, đáp ứng yêu cầu trước mắt và lâu dài. Do vậy sự nghiệp giáo dục phải là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân, đồng thời phải tranh thủ sự hợp tác, ủng hộ của các nước trên thế giới thông qua việc hợp tác giáo dục. 4
- - Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã quán triệt một trong những quan điểm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá là “Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững. Động viên toàn dân cần kiệm xây dựng đất nước, không ngừng tăng tích lũy cho đầu tư phát triển. Tăng trưởng kinh tế gắn với cải thiện đời sống nhân dân, phát triển văn hóa, giáo dục, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường.” - Tiếp theo đến đại hội thứ IX đảng ta đã xác định: Phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học, hệ thống trường lớp và hệ thống quản lý giáo dục; thực hiện "chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá", thực hiện "giáo dục cho mọi người", "cả nước trở thành một xã hội học tập". Thực hiện phương châm "học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn với xã hội.” - Đại hôi X xác định: Đổi mới tư duy giáo dục một cách nhất quán, từ mục tiêu, chương trình, nội dung, phương pháp đến cơ cấu và hệ thống tổ chức, cơ chế quản lý để tạo được chuyển biến cơ bản và toàn diện của nền giáo dục nước nhà, tiếp cận với trình độ giáo dục của khu vực và thế giới; Xây dựng nền giáo dục của dân, do dân và vì dân. Tăng cường hợp tác quốc tế về giáo dục, đào tạo; từng bước xây dựng nền giáo dục hiện đại, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước II. PHÁT HUY NGUỒN NHÂN LỰC TRONG SỰ NGHIỆP CNH, HĐH Ở NƯỚC. 1. Vấn đề nguồn nhân lực trong sự nghiệp CNH, HĐH. a. Thực trạng nguồn nhân lực ở nước ta. 5
- * Số lượng Các kết quả suy rộng mẫu chủ yếu của cuộc Điều tra mẫu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009 vừa chính thức được Ban Chỉ đạo Tổng điều tra dân số và nhà ở Trung ương công bố. Theo đó, Việt Nam đang trong thời kỳ “cơ cấu dân số vàng”, thời kỳ mà nhóm dân số trong độ tuổi lao động cao gần gấp đôi nhóm dân số trong độ tuổi phụ thuộc. Kết quả điều tra cho thấy, so với kết quả của cuộc Tổng điều tra năm 1999, tỷ trọng dân số dưới 15 tuổi giảm từ 33% năm 1999 xuống còn 25% trong năm 2009. Trong khi đó, tỷ trọng dân số của nhóm 15-59 tuổi tăng từ 58% năm 1999 lên 66%. Còn nhóm dân số từ 60 tuổi trở lên tăng từ 8% lên 9% tương ứng trong hai cuộc tổng điều tra. Được biết, tính đến thời điểm 0 giờ ngày 1/4/2009, cả nước có 43,8 triệu người trong độ tuổi lao động đang làm việc, chiếm 51,1% dân số. Trong đó, thành thị có 11,9 triệu người (chiếm 27%), nông thôn có 31,9 triệu người (73%). Lao động nữ chiếm 46,6% tổng lực lượng lao động. Với số lượng người bước vào độ tuổi lao động đạt mức kỷ lục như hiện nay, cùng với hàng chục vạn lao động dôi dư từ các cơ quan, doanh nghiệp Nhà nước, 2 thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 21 sẽ tạo ra áp lực rất lớn về việc làm và nguồn vốn đang căng thẳng với tỷ lệ thất nghiệp ở mức cao (một số lao động thất nghiệp rơi vào nhóm lao động trẻ được đào tạo, gây ra nhiều hậu quả cả về kinh tế xã hội. Bên cạnh đó còn có hàng triệu người già tuy tuổi cao nhưng vẫn còn khả năng và mong muốn được làm việc. Trên phạm vi cả nước, cấu trúc dân số biến đổi tạo cơ hội thuận lợi cho sự phát triển kinh tế, tuy nhiên do hoàn cảnh địa lý và tình hình kinh tế - xã hội khác nhau giữa các vùng miền, nên ở các tỉnh đồng bằng do mức sinh sống thấp trong nhiều năm qua và "cơ cấu dân số vàng" đã bắt đầu phát huy tác dụng, tạo ra nhiều thách thức lớn về việc làm cho địa phương vốn đất chật người đông. Tại các tỉnh vùng Tây Nguyên, miền núi Tây Bắc, do mức sinh ở những vùng này vẫn còn cao nên cấu trúc dân số còn trẻ. Luồng di cư tự phát rất lớn đổ từ các vùng nông thôn, miền núi đến các thành phố, Tây Nguyên và vùng Đông Nam Bộ. Trong một số doanh nghiệp ở các vùng này, số lao động ngoại tỉnh chiếm đến 80%. 6
- * Chất lượng Trong những năm gần đây chỉ số HDI (chỉ số phát triển con người) của Việt Nam đã được cải thiện 114/179 nước (năm 2008), tuy nhiên chỉ số đó con khá khiêm tốn so với các nước trong khu vực như singapore (thứ 27 ), Malaysia (thứ 63), Thái Lan ( thứ 77 ) ... Những nghiên cứu của Viện Dinh dưỡng trong nhiều năm qua đã chứng minh, chiều cao của người Việt Nam đang được cải thiện. Nạn đói và chiến tranh đã ảnh hưởng đến tầm vóc của người Việt Nam; chiều cao trung bình của người Việt Nam trong thời gian từ năm 1938-1985 hầu như không thay đổi (nam cao 160cm, nữ cao 150cm). Tuy nhiên, trong hơn 10 năm qua , tầm vóc của người Việt Nam đã khá hơn, chiều cao trung bình người trưởng thành nam hiện nay là 163,7cm. Theo Chương trình Nâng cao tầm vóc và thể trạng người Việt Nam, kết thúc giai đoạn I (đến năm 2010), chiều cao thân thể trung bình của nam thanh niên 18 tuổi sẽ đạt từ 165cm- 166cm, nữ đạt 154cm-155cm. Theo phân tích của các nhà chuyên môn, hiện tại chiều cao của nam thanh niên Việt Nam là 1,65m, nữ 1,53m. Sau 25 năm chiều cao trung bình của người Việt Nam đã tăng 6,14cm ở nam và 4,88cm ở nữ. Tính trung bình mỗi năm chiều cao tăng ở nam là 0,24cm, ở nữ là 0,20cm. .Trong khi đó xu hướng chung ở các nước phát triển là chiều cao trung bình của nam thanh niên cứ sau 10 nă m sẽ tăng 1 cm và tuổi thọ bình quân của Việt Nam cũng tăng lên. Sau 10 năm (kể từ Tổng điều tra 1999) tuổi thọ đã đạt 72,8 tuổi đối với nam (tăng 3,7 tuổi) và 75,6 tuổi với nữ (tăng 5,5 tuổi). Đó là dấu hiệu đáng mừng, đáng khích lệ trong công tác chăm sóc sức khỏe của nước ta. Số lượng người lao động tuy tăng và dư thừa, nhưng lại yếu về sức khỏe, trình độ tay nghề hạn chế lao động khu vực thành thị ở Hà Nội thừa khoảng 7,5% và ở thành phố Hồ Chí Minh là 6,5% (đó là chưa kể hàng chục van lao động dôi dư do sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước). Tại khu vực nông thôn còn dư th ừa 26% quỹ thời gian lao động, tương đương khoảng 9 triệu người, nhưng 95,5% lao động không có tay nghề, nhưng theo dự báo trong 10 năm tới, số lượng này sẽ tăng lên mức cao nhất là 1,8 triệu người, do đó việc đào tạo, nâng cao tay nghề và tạo việc làm cho số lao động hiện tại cũng như cho số thanh niên mới bước vào độ tuổi lao động sẽ thách thức vô cùng lớn. 7
- Cơ cấu nguồn lao động được đào tạo trong những năm qua còn rất bất hợp lý. Tại các nước phát triển thì cứ 1 thầy có 10 thợ, nhưng ở nước ta, bình quân một thầy chỉ có 0,95 thợ. .. Đây chính là tình trạng "thầy nhiều hơn thợ". Trong khi số sinh viên đại học tăng nhanh thì số công nhân kỹ thuật giảm dần. Đến năm 2010, mỗi năm cần khoảng 20 ngàn lao động kỹ thuật, nhưng khả năng đào tạo nghề cũng cung ứng 12.000 người/năm. Hiện nay nhu cầu tuyển lao động kỹ thuật hầu như không được đáp ứng đầy đủ, trong khi lao động phổ thông lại dư thừa quá nhiều. Tỷ lệ lao động kỹ thuật đã thấp lại phân bổ không đồng đều giữa các ngành và các thành phần kinh tế. Rất nhiều lao động kỹ thuật tập trung ở các cơ quan trung ương. Các ngành nông - lâm - ngư nghiệp, các thành phần kinh tế tập thể , tư nhân, cá thể còn thiếu nhiều lao động kỹ thuật. Ở khu vực nông thôn, số lao động đã qua đào tạo chiếm tỷ lệ càng thấp (chỉ khoảng 4%). Đặc biệt vùng miền núi, hải đảo, đang thiếu lao động kỹ thuật và trí thức trầm trọng, trong khi số tri thức dư thừa giả tạo ở thành phố ngày càng nhiều. Không những vậy, có những lao động sau khi được đào tạo đã không làm đúng ngành nghề, thậm chí còn làm công việc của lao động giản đơn. b. Những nguyên nhân cơ bản dẫn đến chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam còn yếu kèm. - Thứ nhất là cho đến nay nền kinh tế nước ta vẫn là nền kinh tế nông nghiệp. Tính đến hết năm 2007, tỷ trọng giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp vẫn còn cao (29,6%), số lao động trong các ngành nghề nông, lâm, ngư nghiệp vẫn còn lớn (56,8%), tỷ lệ lao động xã hội chưa qua đào tạo chiếm một tỷ lệ đa số. Những chỉ số này cho thấy đây là một trong những nguyên nhân cơ bản đang tạo ra sự hạn chế trong sự phát triển nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay. - Thứ hai là thực trạng quy hoạch và phát triển nguồn nhân lực nước ta những năm qua còn quá nhiều bất cập. Cho đến nay chúng ta chưa có chiến lược tổng thể trong việc xây dựng, phát triển và sử dụng nguồn nhân lực cho quá trình phát triển đất nước giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa ít nhất là đến năm 2020. Việc quy hoạch, phát triển và sử dụng nguồn nhân lực giữa các ngành, vùng và địa phương trong cả nước cũng còn nhiều chồng chéo và thiếu các mục tiêu cụ thể. Điều đó dẫn đến tình trạng khá phổ biến hiện nay là vừa “thừa” vừa “thiếu” nhân lực trong các ngành, vùng, địa phương. 8
- - Thứ 3 đến là sự lạc hậu về nội dung và phương pháp trong việc đào tạo nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay. Các phương pháp dạy và học của chúng ta hiện nay thường tạo ra sự thụ động đối với người học, như nặng về lý thuyết, nhẹ về kỹ năng thực hành. Do đó, chất lượng nguồn nhân lực sau đào tạo thường bất cập. Người học thường ít vận dụng được những gì sau khi học, hoặc muốn làm việc được thì người học phải chấp nhận qua một quá trình “đào tạo lại” không chỉ lãng phí về tiền của mà còn lãng phí về thời gian đối với người học .... 2. Các giải pháp nhằm phát huy nguồn nhân lực trong sự nghiệp CNH, HĐH Hiện nay, mục tiêu phát triển của đất nước đã được Đảng và Nhà nước Việt Nam xác định là phấn đấu đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nhà nước xây dựng chiến lược nguồn nhân lực gắn với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế; xác định thật rõ xây dựng nguồn nhân lực là trách nhiệm của các nhà hoạch định và tổ chức thực hiện chính sách, trách nhiệm của cả hệ thống chính trị.. a. Gắn kết chiến lược phát triển nhân lực và kinh tế Trong vài năm gần đây, xu hướng đào tạo theo nhu cầu xã hội nổi lên với việc bắt đầu có sự hợp tác giữa doanh nghiệp và nhà trường trong công tác đào tạo nhân lực. Điều này đã cho thấy xu hướng chuyển biến tích cực trong tư duy giáo dục, tuy nhiên nhìn ở tầm vĩ mô thì sự hợp tác này còn manh mún, các thông tin về nhu cầu nguồn nhân lực quốc gia chưa được thu thập đầy đủ. Mấu chốt của vấn đề là chúng ta phải thiết lập được mối quan hệ chặt chẽ giữa các chiến lược phát triển nhân lực với các chiến lược phát triển kinh tế. Mối quan hệ này thể hiện ở chỗ, các chiến lược phát triển kinh tế phải chỉ rất rõ về nhu cầu nguồn nhân lực (số lượng, kỹ năng cụ thể), và đối với các cơ quan lập chiến lược phát triển nhân lực phải coi đây là những thông tin đầu vào cơ bản để xây dựng các chiến lược phát triển nguồn nhân lực. 9
- Hình 1 Chiến lược nhân lực với thông tin đầu vào từ các chiến lược kinh tế Nguyên tắc là như vậy, tuy nhiên làm thế nào để áp dụng vào thực tế trong khi sự liên kết giữa Bộ Giáo dục và Đào tạo với các Bộ ngành khác trong công tác phát triển nguồn nhân lực chưa thực sự hiệu quả. Để giải quyết vấn đề này sự phối hợp đa ngành đóng một vai trò quan trọng, do đó cần thiết phải thành lập một cơ quan lập kế hoạch phát triển nguồn nhân lực quốc gia (Human Resource Development Planning Center-HRDPC) trực thuộc Chính phủ, để tạo sự liên kết ngang hàng giữa các Bộ, ngành, địa phương với Bộ Giáo dục và Đào tạo. Để mô hình này hoạt động có hiệu quả, HRDPC phải là cơ quan có quyền lực đủ lớn, do đó người đứng đầu nhất thiết phải là Thủ tướng Chính phủ, các thành viên thường trực bao gồm các đại diện các Bộ, ngành, địa phương và các cơ sở đào tạo lớn trên toàn quốc. Các quốc gia trên thế giới như Singapore, Ấn Độ từ rất sớm đã xác định và thiết lập được mối quan hệ giữa phát triển các chiến lược kinh tế và chiến lược nhân lực. Đây được coi là một trong những nền tảng của sự thành công về mặt kinh tế, khoa học kỹ thuật của các quốc gia này. Đã đến lúc Việt Nam đặt vấn đề lấy sự phát triển nguồn nhân lực làm động lực cho tăng trưởng kinh tế thông qua sự kết hợp chăt chẽ các chiến lược phát triển kinh tế và chiến lược phát triển nguồn nhân lực. b. về chính sách xã hội Trong thời gian gần đây, việc “chảy máu chất xám”, di chuyển các nhân tài từ doanh nghiệp nhà nước sang doanh nghiệp khu vực tư nhân và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng gia tăng. Đặc biệt, trong thời gian tới, khi nền kinh tế được phục hồi và trong bối cảnh thị trường lao động ngày càng hoàn thiện, cạnh tranh nguồn nhân lực sẽ tiếp tục gắt gao hơn. Do đó, Nhà nước cũng như các doanh nghiệp cần xây dựng chế độ đãi ngộ xứng đáng đối với nguồn nhân lực theo mức độ cống hiến và khả năng phát triển tương lai. Trước hết, chính sách tiền lương cần được xây dựng và thực hiện một cách linh hoạt theo tiêu chí tài năng. Đồng thời, cần xây dựng 10
- chế độ chính sách ưu đãi đối với nhân lực chất lượng cao để tạo động lực thu hút nhân tài trong và ngoài nước vào làm việc tại các cơ quan nghiên cứu, cơ quan hoạch định chính sách để họ có điều kiện phát huy cao nhất khả năng sáng tạo của mình. Các chính sách này không chỉ dừng lại ở lương hay cổ phần mà còn là các phương thức khác như cung cấp nhà ở, hỗ trợ dịch vụ bảo hiểm và chăm sóc sức khỏe chất lượng cao, tạo điều kiện, môi trường làm việc thuận lợi, hỗ trợ phương tiện truyền thông và đi lại, tín dụng cho nhân viên, du lịch và đào tạo tại nước ngoài, hỗ trợ dịch vụ gia đình cho nhân viên. Nhà nước và doanh nghiệp cũng cần có chính sách để thu hút nguồn nhân lực có trình độ kiến thức cao là Việt kiều đang sinh sống tại nước ngoài về đầu tư tiền bạc và chất xám cho công cuộc xây dựng kinh tế đất nước. - Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống khung khổ pháp lý phát triển và sử dụng nhân lực phù hợp với cơ chế và thể chế kinh tế thị trường. - Đổi mới căn bản và toàn diện chính sách về sử dụng nhân lực trong khu vực nhà nước phù hợp với cơ chế kinh tế thị trường, gồm từ khâu tuyển dụng, bố trí công việc, trả công lao động, thăng tiến nghề nghiệp và không ngừng cải thiện điều kiện, môi trường lao động để tạo động lực, kích thích, khuyến khích làm việc sáng tạo và có hiệu quả cao. Xây dựng tiêu chuẩn và quy trình đánh giá nhân lực dựa trên cơ sở năng lực thực tế, kết quả, hiệu suất, năng suất lao động thực tế và đãi ngộ tương xứng với trình độ năng lực và kết quả công việc. c. Về giáo dục- đào tạo. Mở rộng quy mô giáo dục đào tạo mọi ngành, các cấp học từ mẫu giáo, các cấp phổ thông, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học đến việc xúc tiến các trung tâm dạy nghề, hướng nghiệp...Ngoài ra để nâng cao trình độ nguồn nhân lực ở các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, Nhà nước đã có chính sách cấp học bổng, giảm học phí cho học sinh, sinh viên nghèo vượt khó. Yếu tố quan trọng quyết định chất lượng nguồn nhân lực là việc đổi mới nội dung, chương trình và phương pháp đào tạo. Ngoài giáo dục đào tạo văn hóa chuyên môn, nghiệp vụ về mặt lý thuyết, cần chú ý điều kiện thực hành, ứng dụng, giáo dục kỷ luật, tác phong lao động công nghiệp, rèn luyện kỹ năng và khả năng thích ứng với nền kinh tế thị trường 11
- Giáo dục đại học phải kết hợp với nghiên cứu khoa học, phát triển khoa học cả về cơ bản và ứng dụng. Bảo đảm tập trung đào tạo đội ngũ nhân lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá với diện đại trà, đồng thời đặc biệt chú ý tới mũi nhọn Cùng với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội phải làm tốt việc phát động một cao trào học tập trong toàn Đảng toàn dân, toàn quân nhằm đào tạo nên những con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức là động lực của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đồng thời là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Vậy mọi chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước cần phải quán triệt việc chăm sóc, bồi dưỡng và phát triển nhân tố con người Song song với vấn đề giáo dục, đào tạo con người, chúng ta cần quan tâm đến vấn đề dân số, sức khỏe như tăng cường chú trọng đến các chương trình bảo vệ sức khỏe bà mẹ và trẻ em, phòng chống suy dinh dưỡng các vùng miền, vùng sâu, vùng xa. CNH, HĐH đất nước theo định hướng XHCN không thể không xuất phát từ tinh thần nhân văn sâu sắc, không thể không phát triển con người Việt Nam toàn diện để lấy đó làm động lực xây dựng xã hội ta thành một xã hội "công bằng, nhân ái", "tốt đẹp và toàn diện" để bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người, đặc biệt là đối với thế hệ trẻ, nhất thiết phải từng bước hiện đại hoá đất nước và đời sống xã hội và chúng ta "tăng trưởng nguồn lực con người khi quá hiện đại hoá các ngành giáo dục, văn hoá, văn nghệ, bảo vệ sức khoẻ, dân số và kế hoạch hoá gia đình gắn liền với việc kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống và bản sắc dân tộc" chỉ có trên cơ sở đó khi phát triển nền kinh tế hàng hoá theo cơ chế thị trường chúng ta mới có thể tránh được nguy cơ tha hoá, không xa rời những giá trị truyền thống, không đánh mất bản sắc dân tộc, đánh mất bản thân mình trở thành cái bóng của người khác. III. THỰC TRẠNG VỀ NNL NGÀNH TÀI CHÍNH-NGÂN HÀNG Ở VIỆT NAM. Lĩnh vực ngành Tài chính - Ngân hàng (TCNH) luôn được xã hội quan tâm, bởi lẽ đây là ngành mà trong những năm vừa qua số lượng tuyển dụng lao động khá lớn do điều kiện về kinh tế xã hội phát triển. Bất cứ một quốc gia nào để có điều kiện phát triển tốt thì phải có hệ thống ngân hàng vững mạnh. Nếu đặt vấn đề phải có hệ thống ngân hàng vững mạnh thì rõ ràng họ phải quan tâm đến nguồn nhân lực. Đặc biệt 12
- trong thời gian vừa qua, điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế ở các quốc gia nói chung và Việt Nam nói riêng, nên hệ thống ngân hàng tài chính phát triển và mở rộng rất nhanh, có điều kiện thu hút nguồn nhân lực về lĩnh vực này khá lớn. Theo số liệu Bộ Tài chính thì trong những năm qua, quy mô đào tạo trình độ Đại học, cao đẳng ngành Tài chính - Ngân hàng tăng nhanh. Trong tổng số khoảng 1,5 triệu sinh viên năm học 2006-2007 thì có hơn 400 nghìn sinh viên theo học ngành TCNH. Dự kiến đến năm 2010, nhu cầu nguồn nhân lực của các lĩnh vực bảo hiểm, chứng khoán, kiểm toán và thẩm định giá khoảng 13.500 người. Trong đó, lĩnh vực chứng khoán cần tới 5.000 người, tăng trên 500% so với hiện nay; nhu cầu nhân lực đối với ngành kiểm toán đứng thứ 2 với tốc độ tăng 103% so với hiện nay (khoảng 3.000 người); lĩnh vực thẩm định giá cũng được dự báo cần tới 500 người (tăng 20% so với hiện nay)… Nếu nhìn tổng thể về ngành TCNH mà nhiều trường đào tạo như vậy thì mọi người nghĩ sẽ thừa nhân lực nhưng nếu nhìn vào chất lượng nguồn nhân lực thì hầu như các cơ quan tuyển dụng họ vẫn lựa chọn đầu vào ở những trường có truyền thống. Nhu cầu sử dụng nhân lực trong lĩnh vực TCNH rất rộng vì nhiều lĩnh vực khác họ cũng cần đến ngành này. Hướng tương lai, ngành TCNH luôn cuốn hút các doanh nghiệp và các ngân hàng luôn tìm kiếm nguồn nhân lực có chất lượng cao. Tuy nhiên, trong năm 2008 - 2009, khi tác động của khủng hoảng kinh tế thế giới tới Việt Nam thì việc mở rộng các ngân hàng không còn như trước đây, song nguồn nhân lực cho hệ thống này mọi người vẫn rất quan tâm bởi lý do sau: Lực lượng lao động chính của ngành này, hàng năm số lượng nghỉ chế độ cũng khá lớn và sàng lọc trong hoạt động đối với những người đã tuyển dụng nhưng không làm được việc cũng nhiều. Đại diện Ngân hàng xuất nhập khẩu Việt Nam cũng cho biết hiện nay hầu hết các sinh viên ra trường đều chưa thể đáp ứng ngay được công việc. Gần như 100% các nhân viên đều phải qua một khóa đào tạo ngắn hạn ít nhất là ba tháng của ngân hàng, rồi sau đó có một thời gian “cầm tay chỉ việc” mới có thể làm được. 13
- Bên cạnh đó, hàng năm có sự di chuyển nhân lực từ ngân hàng này sang ngân hàng kia, do vậy bộc lộ nơi thừa, nơi thiếu nên mọi người đều có cảm giác thiếu nhân lực. Đặc biệt, năm 2010 các ngân hàng nước ngoài họ vào thị trường Việt Nam sẽ rất nhiều. Đây sẽ là nơi thu hút lực lượng trong hệ thống ngân hàng Việt Nam, kể cả lao động mới. Từ đó, dẫn đến nhu cầu lao động trong ngân hàng không phải đến ngưỡng nào là đủ, nó luôn luôn có sự thay đổi, bổ sung liên tục. Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam Nguyễn Văn Giàu cho biết nhân lực ngành ngân hàng đã thực sự đến mức báo động đỏ. Nhu cầu nguồn nhân lực cho ngành này mỗi năm cần khoảng 15.000 nhân viên tốt nghiệp đại học nhưng cộng số sinh viên tại các trường mới chỉ đáp ứng 11.000 người, mỗi năm thiếu gần 4.000 người Tin tưởng rằng với sự phát triển CNH,HĐH đất nước ngành ngân hàng sẽ đóng góp số lượg cũng như chất lượng cho nền kinh tế. Bất cứ một sự phát triển nào đó cũng đều phải có một động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội được dự trên nhiều nguồn lực: nhân lực, vật lực, tài lực. Song chỉ có nguồn lực con người mới tạo ra động học cho sự phát triển, những nguồn lực khác muốn phát huy tác dụng chỉ có thể thông qua nguồn lực con người. Do vậy trong bất cứ xã hội nào, một đất nước nào, vấn đề đào tạo nguồn nhân lực cũng đóng một vai trò cực kỳ quan trọng. Đặc biệt ở nước ta, vấn đề này lại càng được coi trọng hơn bao giờ hết. Con người Việt Nam đã làm được những điều kỳ diệu trong lịch sử và con người Việt Nam chắc chắn cũng làm được những điều kỳ diệu như thế trong tương lai, trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. 14
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Đề tài " Phát huy Nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa , hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay "
13 p | 1571 | 419
-
Tiểu luận: Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về con người và vấn đề phát triển nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay
19 p | 1883 | 332
-
Luận văn: Quy trình đào tạo, phát triển nguồn nhân lực tại Công ty Cổ phần Xây XDCT 545 trong thời gian đến
77 p | 670 | 211
-
Bài tiểu luận: Thực trạng của lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay và vấn đề xây dựng, phát huy nguồn nhân lực chất lượng cao hiện nay ở Ngân hàng
36 p | 950 | 129
-
Tiểu luận môn Đường lối cách mạng Đảng Cộng sản Việt Nam: Vận dụng quan điểm phát huy nguồn nhân lực của Đảng Cộng sản Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa Việt Nam hiện nay
34 p | 441 | 77
-
LUẬN VĂN: Phát huy nguồn nhân lực nữ trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở Hà Nội hiện nay
96 p | 267 | 73
-
Tiểu luận: Phân tích công việc tại Công ty cổ phần chuyển phát nhanh TTC Kerry
14 p | 560 | 73
-
TIỂU LUẬN: Phát triển hoạt động môi giới tại công ty chứng khoán ngân hàng Thương mại cổ phần nhà Hà Nội
66 p | 143 | 27
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Triết học: Quan điểm triết học Mác – Lênin về con người và sự vận dụng của Đảng trong việc phát huy nhân tố con người thời kỳ thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
26 p | 131 | 25
-
Khóa luận tốt nghiệp Quản trị doanh nghiệp: Công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực Công ty cổ phần thương mại vận tải Hà Huy
97 p | 82 | 22
-
Luận án Tiến sĩ Quản trị kinh doanh: Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển nguồn nhân lực giảng viên của các trường đại học ngoài công lập tại Việt Nam
222 p | 70 | 17
-
Luận án Tiến sĩ Xã hội học: Vốn xã hội trong phát triển nguồn nhân lực trẻ ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh
212 p | 42 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị nhân lực: Phát triển nguồn nhân lực tại Công ty trách nhiệm hữu hạn Khóa Huy Hoàng
103 p | 41 | 11
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin trong các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk
115 p | 15 | 11
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách phát triển Nguồn nhân lực Khoa học và Công nghệ trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk
79 p | 42 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học Thư viện: Nghiên cứu phát huy nguồn nhân lực trong các thư viện tỉnh, thành phố ở Việt Nam
83 p | 25 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và Nhân văn: Phát huy nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở thành phố Đà Nẵng hiện nay
120 p | 5 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn