intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

TIỂU LUẬN: Phát triển hoạt động môi giới tại công ty chứng khoán ngân hàng Thương mại cổ phần nhà Hà Nội

Chia sẻ: Nguyen Linh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:66

144
lượt xem
27
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Thị trường chứng khoán ra đời là sự phát triển tất yếu của nền kinh tế thị trường nhưng đồng thời nó cũng đóng vai trò ngược lại là thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế và cải thiện môi trường kinh doanh. Tại Việt Nam thị truờng chứng khoán ra đời cách đây chưa lâu nhưng nó đang dần khẳng định vị trí là một kênh huy động vốn hiệu quả, dẫn truyền vốn từ nguồn nhàn rỗi tới các dự án các công trình… Để thị trường chứng khoán phát triển vững mạnh thì sự...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: TIỂU LUẬN: Phát triển hoạt động môi giới tại công ty chứng khoán ngân hàng Thương mại cổ phần nhà Hà Nội

  1. TIỂU LUẬN: Phát triển hoạt động môi giới tại công ty chứng khoán ngân hàng Thương mại cổ phần nhà Hà Nội
  2. Lời mở đầu Thị trường chứng khoán ra đời là sự phát triển tất yếu của nền kinh tế thị trường nhưng đồng thời nó cũng đóng vai trò ngược lại là thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế và cải thiện môi trường kinh doanh. Tại Việt Nam thị truờng chứng khoán ra đời cách đây chưa lâu nhưng nó đang dần khẳng định vị trí là một kênh huy động vốn hiệu quả, dẫn truyền vốn từ nguồn nhàn rỗi tới các dự án các công trình… Để thị trường chứng khoán phát triển vững mạnh thì sự đ óng góp của các công ty chứng khoán là vô cùng quan trọng. Các công ty chứng khoán có vai trò thúc đẩy sự lớn mạnh của thị trường, đưa chứng khoán đến gần hơn với công chúng. Hoạt động chủ yếu của các công ty chứng khoán hiện nay là hoạt động môi giới. Hoạt động này phát triển đã đem lại nhiều lợi ích cho thị trường chứng khoán nói chung cho các công ty chứng khoán và các nhà đầu tư nói riêng. Thị trường chứng khoán Việt Nam đã đi vào hoạt động được hơn 7 năm, đây tuy là một quãng thời gian ngắn so với lịch sử chứng khoán thế giới. Tuy nhiên thị trường chứng khoán của chúng ta cũng đã đạt được những thành tựu nhất định. Thị trường chứng khoán Viêt Nam ngày càng lôi cuốn được sự quan tâm tham gia của các chủ thể trong nền kinh tế. Khi thị trường càng phát triển thì yêu cầu đối với các hoạt động càng cao càng phức tạp. Tuy nhiên hoạt động môi giới ở các công ty chứng khoán hiện nay mới chỉ vẫn còn ở cấp độ đơn giản chưa sâu sát với khách hàng, hoạt động môi giới trong các công ty chứng khoán chủ yếu là nhận lệnh trực tiếp của khách hàng và tiến hành nhập lệnh vào hệ thống mà chưa có sự tư vấn hay giúp đỡ khách hàng trong việc ra quyết định mua bán. Với điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt, các công ty chứng khoán tham gia thị trường ngày một nhiều, để có thể phát triển, thu hút được khách hàng đến và ở lại với mình thì hoạt động môi giới tai công ty chứng khoán phải được phát triển cả về chiều sâu và chiều rộng. Từ thực tế thị trường chứng khoán ở Việt Nam em chọn đề tài : “ Phát triển hoạt động môi giới tại công ty chứng khoán ngân hàng Thương mại cổ phần nhà Hà Nội”.
  3. Nội dung đề tài gồm những nội dung chính sau: Chương 1: Những vấn đề chung về hoạt động môi giới tạ công ty chứng khoán Chương 2: Thực trạng hoạt động tại công ty chứng khoán Ngân hàng thương mại cổ phần nhà Hà Nội. Chương 3: Giải pháp phát triển hoạt động môi giới tại công ty chứng khoán Ngân hàng thương mại cổ phần nhà Hà Nội.
  4. CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG MÔI GIỚI CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN 1.1. Những vấn đề chung về công ty chứng khoán 1.1.1 Khái niệm và đặc điểm công ty chứng khoán Thị trường chứng khoán là một bộ phận của thị trường tài chính, là nơi diễn ra các giao dịch mua bán trao đổi chứng khoán. Thị trường chứng khoán phát triển kéo theo sự ra đời của hàng loạt các công ty chứng khoán và các nhà môi giới chuyên nghiệp. Có nhiều cách nhìn nhận về công ty chứng khoán. Tùy theo cách tiếp cận khác nhau có các khái niệm khác nhau. Theo giáo trình thị trường chứng khoán thì c ông ty chứng khoán là một tổ chức trung gian tài chính thực hiện các nghiệp vụ trên thị trường chứng khoán. Theo Quyết định số 55/2004/QĐ-BTC ngày 17-6-2004 của Bộ Tài Chính thì: “ Công Ty Chứng Khoán là Công ty cổ phần, Công ty trách nhiệm hữu hạn thành lập theo pháp luật Việt Nam để kinh doanh chứng khoán theo giấy phép kinh doanh chứng khoán do Ủy ban chứng khoán Nhà Nước cấp”. Các công ty chứng khoán có những đặc điểm riêng khác nhau tùy theo mục đích hoạt động của công ty và mức độ phát triển của thị trường. Ở từng cấp độ phát triển các công ty chứng khoán sẽ có những định hướng phát triển các hoạt động và nghiệp vụ khác. Tuy nhiên các công ty này vẫn có những đặc điểm chung nhất, đặc trưng nhất để được xếp vào cùng một nhóm công ty chứng khoán. Trước hết là một tổ chức tài chính trung gian trên thị trường tài chính, nên công ty chứng khoán có những đặc điểm chung vốn có của một tổ chức tài chính trung gian. Đây là đặc điểm cơ bản và quan trọng nhất của một công ty chứng khoán. Ở công ty chứng khoán đặc điểm này được thể hiện thông qua trung gian về giao dịch, trung gian thông tin, trung gian vốn, trung gian rủi ro. Công ty chứng khoán là một tổ chức trung gian về giao dịch. Công ty chứng khoán là nơi kết nối giữa người cần bán chứng khoán và những người cần mua chứng khoán lại với nhau. Tạo ra một cơ chế giao dịch nhanh, gọn và tiết kiệm thời gian cho các nhà
  5. đầu tư. Ở đây người mua và người bán không trực tiếp gặp nhau để thỏa thuận giá cả chứng khoán và tiến hành các giao dịch mà họ sẽ giao dịch qua hệ thống của công ty chứng khoán. Các công ty chứng khoán sẽ nhận các yêu cầu về mua bán chứng khoán của nhà đầu tư sau đó nhập những lệnh này vào cùng một hệ thống, hệ thống tự động so khớp các lệnh này với nhau để đưa ra một mức giá giao dịch tốt nhất. Công ty ch ứng khoán là một trung gian về thông tin. Là một tổ chức tài chính chuyên nghiệp nên công ty chứng khoán có đủ điều kiện trình độ nhân lực cũng nh ư kỹ thuật để có thể thu thập và tổn g hợp thông tin một cách đầy đủ, chính xác và nhanh nhất. Với đội ngũ các chuyên gia có kiến thức và trình độ phân tích biến những thông tin này thành những thông tin có ích cung cấp cho các tổ chức và cá nhân đầu tư trên thị trường chứng khoán. Tùy theo cấp độ xử lí thông tin tài chính các công ty chứng khoán có thể bán chúng để thu lời hoặc những thông tin này có thể được cung cấp miễn phí cho khách hàng. Những sản phẩm thông tin này sẽ được các công ty chứng khoán cung cấp cho nhà đầu tư cá nhân cũng như tổ chức thông qua nghiệp vụ môi giới hay tư vấn đầu tư. Nhờ có công ty chứng khoán mà khách hàng sử dụng thông tin với hiệu quả cao hơn, chi phí thấp hơn và tiết kiệm được nhiều thời gian, từ đó họ có thể đưa ra các quyết định đầu tư đúng đắn và hợp lí hơn. So với việc các nhà đầu tư tự thu thập và xử lí thông tin thì đặc điểm trung gian thông tin của các công ty chứng khoán đã đem lại rất nhiều lợi ích đối với thị trường chứng khoán. Công ty chứng khoán với đặc điểm là một trung gian vốn. Đặc điểm này được thể hiện rõ ở hình thức cho vay bảo chứng. Các công ty chứng khoán sẽ đi vay trên thị trường bằng cách phát hành trái phiếu hoặc vay các ngân hàng, rồi sau đó cho các khách hàng vay lại bằng các hình thức cho vay ký quĩ, hay là tạm ứng tiền cho khách hàng để mua chứng khoán. Điều này nhằm mục đích tăng cơ hội cho khách hàng, đồng thời tạo thu nhập cho việc đa dạng hoá hoạt động của công ty trên thị trường. Tuy nhiên hình thức này cũng mang lại nhiều rủi ro cho công ty chứng khoán, rủi ro lớn hơn nhiều so với vai trò trung gian vốn của các ngân hàng thương mại đặc biệt là khi thị trường chứng khoán mất điểm và rơi vào tình trạng suy thoái.
  6. Công ty ch ứng khoán còn là một trung gian rủi ro. Dựa trên một thực tế là có những nguồn vốn nhàn rỗi nhưng chủ nhân của chúng không có đủ thời gian cũng như kiến thức chuyên môn, khả năng phân tích để đầu tư trên thị trường chứng khoán. Do đó các quỹ đầu tư chứng khoán được thành lập. Các quỹ này sẽ thực hiện đầu tư trên một danh mục các chứng khoán được lựa chọn bởi các chuyên gia, danh mục đầu tư chứng khoán được tính toán xây dựng với mục đích kiếm lời và phân tán rủi ro. Các quĩ này sẽ thực hiện việc phát hành các chứng chỉ quĩ đầu tư bán cho công chúng đầu tư. Công ty chứng khoán là một công ty trong quá trình hoạt động có sự chuyên môn hóa cao. Công ty chứng khoán hoạt động với rất nhiều nghiệp vụ phức tạp. Các thông tin số liệu cũng như tình hình thị trường luôn luôn biến động rất nhanh, do đó khi tham gia vào thị trường các chủ thể phải có những phản ứng nhanh trước những thay đổi. Do đó mà bộ máy hoạt động của công ty phải gọn nhẹ để có thể ra các quyết định nhanh kịp thời. Trong các hoạt động cần sự chuyên môn hoá giữa các bộ phận. Vì thế các hoạt động của công ty chứng khoán có tính độc lập tương đối. Mỗi bộ phận trong tổ chức công ty nhiều khi không phụ thuộc lẫn nhau ( bộ phận môi giới và bộ phận tự doanh, hay bộ phận bảo lãnh phát hành..). Sự chuyên môn hóa ở mức độ cao trong từng bộ phận, từng phòng ban. Công ty chứng khoán là một loại hình doanh nghiệp kinh doanh phải thoả mãn được các điều kiện về vốn, điều kiện về nhân lực, cơ sở vật chất kinh doanh và cả hệ thống công nghệ thông tin như: - Công ty chứng khoán phải có vốn điều lệ tối thiểu bằng vốn pháp định. Vốn pháp định thường được quy định cụ thể cho từng loại hình nghiệp vụ. - Công ty phải có giấy phép do ủy ban chứng khoán nhà nước cấp - Công ty chứng khoán chỉ được kinh doanh những hoạt động đã đăng ký với ủy ban chứng khoán. - Công ty hoạt động dưới sự giám sát của Ủy ban chứng khoán nhà nước.
  7. - Các tổ chức cá nhân sáng lập công ty chứng khoán phải đảm bảo yêu cầu tối thiểu về cơ sở vật chất cho công ty chứng khoán. Yếu tố công nghệ luôn là yếu tố then chốt trong các công ty chứng khoán. Tại đây công nghệ thông tin được ứng dụng nhiều nhất. Công nghệ thông tin giúp khách hàng có thể giao dịch chứng khoán, kiểm tra tài khoản, thanh toán qua mạng tiện lợi. Đây là yếu tố cạnh tranh giữa các công ty chứng khoán. Một đặc điểm nữa của các công ty chứng khoán là luôn luôn tồn tại sự xung đột lợi ích giữa các nhóm, giữa khách hàng và công ty chứng khoán, giữa các nghiệp vụ mà công ty thực hiện khi tiến hành hoạt động kinh doanh. 1.1.2 Phân loại công ty chứng khoán Công ty chứng khoán có rất nhiều hoạt động đa dạng và phức tạp khác với các doanh nghiệp trong lĩnh vực sản xuất hay thương mại do đó mà mô hình tổ chức kinh doanh của công ty chứng khoán cũng tồn tại ở nhiều hình thức khác nhau. Tùy theo các tiêu thức khác nhau có các cách phân loại khác nhau. Dựa trên qui mô và lĩnh vực kinh doanh của công ty chứng khoán có thể được chia làm hai loại là công ty chứng khoán đa năng và công ty chứng khoán chuyên doanh. Ở mô hình công ty chứng khoán đa năng công ty chứng khoán được tổ chức theo hình thức là một tổ chức tài chính tổng hợp kinh doanh chứng khoán, kinh doanh tiền tệ và các dịch vụ tài chính. Trong mô hình công ty đa năng bao gồm hai loại là đa năng một phần và đa năng toàn phần. Đa năng một phần hình thức mà công ty chứng khoán là một công ty con của ngân hàng muốn kinh doanh chứng khoán, các công ty ở dạng này là những công ty độc lập hoạt động tách rời. Đa năng toàn phần là hình th ức mà các ngân hàng được kinh doanh chứng khoán, kinh doanh bảo hiểm bên cạnh kinh doanh tiền tệ. Trong mô hình này các ngân hàng kết hợp nhiều lĩnh vực kinh doanh giảm bớt được những rủi ro cho hoạt động kinh doanh chung nhưng cũng rất dễ gây lũng đoạn thị trường.
  8. Mô hình chuyên doanh ch ứng khoán do các công ty độc lập, chuyên môn hóa trong lĩnh vực chứng khoán đảm nhận, các ngân hàng không được tham gia kinh doanh chứng khoán. Áp dụng mô hình này sẽ tạo điều kiện cho thị trường chứng khoán phát triển mạnh. Nếu xem xét các công ty chứng khoán dưới tiêu thức loại hình tổ chức thì có 3 loại hình công ty chứng khoán cơ bản là: công ty hợp danh, công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần. Công ty hợp danh: là loại hình công ty có 2 chủ sở hữu trở lên. Thành viên của công ty hợp danh bao gồm: Thành viên góp vốn (thành viên chỉ góp vốn chứ không tham gia quản lý) và thành viên hợp danh (tham gia quản lý, điều hành công ty). Các thành viên hợp danh phải chịu trách nhiệm vô hạn bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty. Các thành viên góp vốn không tham gia điều hành công ty, chỉ phải chịu trách nhiệm hữu hạn trong phần vốn góp của mình đối với những khoản nợ của công ty. Công ty hợp danh không được phát hành bất cứ một loại chứng khoán nào. Công ty cổ phần: Công ty cổ phần có tư cách là một pháp nhân độc lập với các chủ sở hữu công ty là các cổ đông. Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạ m vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp. Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán ra công chúng theo quy định của pháp luật. Công ty trách nhiệm hữu hạn: Thành viên của công ty chịu trách nhiệm trong giới hạn số vốn mà họ đã góp về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp. Công ty trách nhiệm hữu hạn không được phép phát hành cổ phiếu. Hiện có rất nhiều công ty chứng khoán hoạt động dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn. 1.1.3 Vai trò của công ty chứng khoán Công ty chứng khoán là một tác nhân quan trọng thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng. Các công ty chứng khoán tạo ra một cơ chế giao dịch mà nhờ đó các c ổ phiếu trái phiếu được lưu thông, buôn bán tấp
  9. nập trên thị trường, và nguồn vốn khổng lồ trong công chúng được đưa vào đầu tư được sử dụng một cách hiệu quả hơn. Trên thị trường tài chính công ty chứng khoán có ba chức năng cở bản nhất đó là: tạo ra cơ chế huy động vốn linh hoạt, làm cầu nối giữa những người có tiền nhàn rỗi và những người sử dụng vốn và cung c ấp cho thị trường một cơ chế giá cả cho các giao dịch chứng khoán thông qua hệ thống khớp giá hoặc khớp lệnh. Công ty chứng khoán góp phần điều tiết giá chứng khoán, can thiệp tạo ổn định cho thị trường. Đồng thời các công ty chứng khoán với vai trò trung gian đã tạo ra tính thanh khoản cho các chứng khoán khi tham gia trên thị trường, có thể chuyển đối chứng khoán ra tiền mặt một cách dễ dàng. Các chức năng quan trọng này khẳng định ảnh hưởng của công ty chứng khoán đối với sự tồn tại và phát triển của thị trường chứng khoán. Sự hoạt động của các công ty chứng khoán có tác động mạnh đến các chủ thể khác nhau khi tham gia trên thị trường này. Đó là các tổ chức phát hành, nhà đầu tư, đối với thị tr ường chứng khoán, đối với cơ quan quản lí thị trường. Vai trò công ty chứng khoán đối với các tổ chức phát hành. Công ty chứng khoán tạo cho các tổ chức phát hành một cơ chế huy động vốn hiệu quả bên cạnh phương th ức truyền thống là đi vay các ngân hàng. Tổ chức phát hành khi tham gia vào thị trường chứng khoán sẽ huy động vốn thông qua việc phát hành chứng khoán. Các công ty chứng khoán sẽ giúp các công ty trên thực hiện được mục đích của mình bằng cách cung cấp dịch vụ đại lý bảo lãnh phát hành như một tổ chức công bố thông tin tới công chúng đầu tư. Các công ty chứng khoán với cơ cấu tổ chức thích hợp, trình độ chuyên môn, thành thạo nghiệp vụ thông qua hoạt đ ộng bảo lãnh phát hành, đại lý phát hành giúp di chuyển dòng vốn từ nhà đầu tư đến tổ chức phát hành. Đối với các nhà đầu tư các công ty chứng khoán đóng vai trò là nhà môi giới, nhà tư vấn cung cấp cho họ những dịch vụ, các tiện ích để có thể tiếp cận với thị trường chứng khoán một cách dễ dàng. Với trình độ chuyên môn cao và uy tín nghề nghiệp, thông qua các nghiệp vụ môi giới, tư vấn đầu tư, các công ty chứng khoán có vai trò
  10. làm giảm chi phí và thời gian giao dịch, từ đó giúp các nhà đầu tư nâng cao hiệu quả các khoản đầu tư. Công ty chứng khoán là một nhân tố quan trọng quyết định đến sự phát triển để thị trường chứng khoán. Công ty chứng khoán góp phần tạo lập giá cả, điều tiết thị trường. Trên thị trường sơ cấp, khi thực hiện hoạt động bảo lãnh chứng khoán cho các tổ chức phát hành, công ty chứng khoán thông qua việc xác định và tư vấn cho tổ chức phát hành mức giá chào bán hợp lý đối với các chứng khoán. Thông thường mức giá phát hành do các công ty chứng khoán xác định trên cơ sở tiếp xúc, tìm hiểu và thõa thuận với các nhà đầu tư tiềm năng lớn trong đợt phát hành đó và tư vấn cho tổ chức phát hành. Tại thị trường thứ cấp, dù là thị trường đấu giá hay thị trường đấu lệnh, công ty chứng khoán luôn có vai trò tư vấn, giúp các nhà đầu tư đánh giá đúng và chính xác về các khoản đầu tư của họ. Giá cả của chứng khoán là do thị trường quyết định, nhưng để đến được mức giá cuối cùng thì người mua và người bán phải thông qua các công ty chứng khoán vì họ không được tham gia trực tiếp vào quá trình mua bán. Công ty chứng khoán còn thể hiện vai trò lớn khi tham gia điều tiết thị trường, nhiều công ty đã dành một tỷ lệ nhất định các giao dịch để thực hiện vai trò bình ổn thị trường, bảo vệ các khoản đầu tư của khách hàng cũng là bảo vệ lợi ích của chính mình. Công ty chứng khoán có tác dụng bôi trơn giúp cho thị trường chứng khoán hoạt động một cách trôi chảy. Thị trường chứng khoán được thành lập để tăng tính thanh khoản cho các tài sản tài chính tuy nhiên các công ty chứng khoán mới là các chủ thể thực hiện vai trò này. Trên cả hai thị trường sơ cấp và thứ cấp các công ty chứng khoán đều thực hiện cơ chế giao dịch. Từ đó, các nhà đầu tư có thể chuyển đổi chứng khoán thành tiền mặt và ngược lại một cách thuận tiện, nhanh chóng, dễ dàng, ít tốn kém và ít thiệt hại nhất. Đối với cơ quan quản lý thị trường các công ty chứng khoán có vai trò cung cấp thông tin. Thông tin là một yếu rất quan trọng trên thị trường chứng khoán, cung cấp thông tin đầy đủ đảm bảo cho thị trường hoạt động một cách lành mạnh và minh bạch. Các công ty chứng khoán thực hiện được vai trò này do họ co ưu thế nắm rõ tình hình các tổ chức phát hành cũng như các nhà đầu tư thông qua vai trò bảo lãnh phát hành, trung gian mua bán. Các thông tin mà công ty chứng khoán có thể cung cấp bao gồm
  11. thông tin về các giao dịch mua bán trên thị trường, thông tin về các cổ phiếu, trái phiếu, ttỏ chức phát hành, các nhà đầu tư. Dựa vào nguồn thông tin này, cơ quan quản lý thị trường có thể theo dõi giám sát toàn cảnh hoạt động trên thị trường chứng khoán, từ đó có thể kiểm soát và chống các hiện tượng thao túng, lũng đoạn thị trường, đưa ra các quyết định, chính sách đúng đắn, phù hợp, kịp thời đảm bảo cho thị trường diễn ra một cách trật tự, khuôn khổ và có hiệu quả. 1.4 Khái quát các hoạt động chính của công ty chứng khoán Hoạt động môi giới Môi giới là một hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán, đại diện cho khách hàng tiến hành các giao dịch mua bán chứng khoán để hưởng hoa hồng. Việc giao dịch chứng khoán được tiến hành thông qua cơ chế giao dịch tại sở giao dịch chứng khoán hay trên thị trường OTC. Khách hàng là người phải chịu hoàn toàn trách nhiệm đối với các quyết định mua bán của chính mình. Với vai trò là trung gian trong các giao dịch mua bán giữa các khách hàng, hoạt động này mang lại một khoản phí không nhỏ cho công ty chứng khoán. Nhân viên môi giới chính là bộ mặt của công ty chứng khoán, họ là những người tiếp xúc gần nhất và hiểu rõ khách hàng nhất. Những sản phẩm được công ty đưa ra để phục vụ khách hàng hay những đánh giá về khách hàng của mình đều được thực hiện thông qua các hoạt động môi giới. Hoạt động tự doanh Hoạt động tự doanh thực chất là hoạt động mà các công ty chứng khoán tự mua bán chứng khoán cho mình. Mục đích của hoạt động tự doanh là lợi nhuận thu được cho chính công ty thông qua hoạt động mua bán, giao dịch trên thị trường. Trên thị trường giao dịch tập trung lệnh giao dịch của công ty chứng khoán được đ ưa vào hệ thống và thực hiện tương tự như lệnh giao dịch của khách hàng. Trên thị trường OTC hoạt động này có thể được thực hiện trực tiếp giữa công ty với các đối tác hoặc thông qua mạng thông tin. Ngoài ra các công ty chứng khoán còn đóng vai trò như một pháp nhân chuyên nghiệp khi mà hoạt động tự doanh còn được thực hiện thông qua hoạt động tạo lập thị trường. Các công ty ch ứng khoán nắm giữ một số lượng nhất định một loại
  12. chứng khoán nào đó và thực hiện mua bán với các khách hàng nhằm h ưởng phí giao dịch và chênh lệch giá. Sự tham gia của công ty vào thị trường chứng khoán với nghiệp vụ tự doanh đã nảy sinh xung đột lợi ích giữa khách hàng và lợi ích công ty. Do đặc thù về khả năng tiếp cận thông tin và chủ động trên thị trường nên các công ty chứng khoán có thể dự đoán trước được diễn biến của thị trường có thể dẫn đến việc sẽ mua hoặc bán tranh của khách hàng. Để bào vệ quyền lợi cho các nhà đầu tư Pháp luật đã qui định công ty chứng khoán phải tuân thủ nguyên tắc ưu tiên cho khách hàng khi thực hiện nghiệp vụ của hoạt động tự doanh. Công ty chứng khoán cần phải tách biệt rõ ràng giữa hoạt động môi giới với hoạt động tự doanh, công ty chứng khoán phải ưu tiên đặt lệnh của khách hàng trước lệnh tự doanh của công ty. Vì vậy cần phải có những yêu cầu đối với công ty chứng khoán trong hoạt động tự doanh. Trong quản lí của công ty chứng khoán phải có sự tách biệt giữa hoạt động tự doanh và hoạt động môi giới để đảm bảo tính minh bạch, rõ ràng trong hoạt động. Sự tách bạch này bao gồm cả yếu tố con người và các qui trình nghiệp vụ. Đồng thời các công ty còn phải đảm bảo sự tách bạch về tài sản của khách hàng với các tài sản của công ty. Công ty phải luôn đặt lợi ích của khách hàng lên hàng đầu. Nghĩa là lệnh và giao dịch của khách hàng phải được xử lý trước lệnh tự doanh của công ty, cung cấp thông tin co khách hàng một cách trung thực và kịp thời nhất. Hoạt động bảo lãnh phát hành Bảo lãnh phát hành là việc tổ chức bảo lãnh phát hành giúp tổ chức phát hành thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán, tổ chức việc phân phối chứng khoán và giúp bình ổn giá chứng khoán trong giai đoạn đầu sau khi phát hành. Công ty chứng khoán đảm nhiệm thủ tục tư vấn cho doanh nghiệp phát hành, phân phối chứng khoán giúp cho đợt phát hành được thành công. Ở đây công ty chứng khoán đóng vai trò là trung gian giữa tổ chức phát hành chứng khoán với ủy ban chứng khoán nhà nước và nhà đầu tư. Các hình thức bảo lãnh phát hành bao gồm. Thứ nhất là bảo lãnh với cam kết chắc chắn, tổ chức bảo lãnh cam kế sẽ mua toàn bộ số chứng khoán phát hành cho dù có phân phối được hết số chứng khoán hay
  13. không. Thứ hai là bảo lãnh theo ph ương thức dự phòng, được áp dụng khi một công ty đại chúng phát hành bổ sung thêm cổ phiếu. Thứ ba là bảo lãnh với cố gắng cao nhất, ở hình thức này tổ chức bảo lãnh thỏa thuận làm đại lý cho tổ chức phát hành, họ cam kết sẽ cố gằng hết sức để bán chứng khoán ra thị trường nhưng nếu không bán được hết thì họ cũng không bị bắt buộc phải mua mà sẽ trả lại cho tổ chức phát hành. Thứ tư là bảo lãnh theo phương thức bán tất cả hoặc không, công ty chứng khoán khi thực hiện bảo lãnh nếu số không phân phối được hêt sẽ hủy toàn bộ đợt phát hành. Hình thức thứ năm là bảo lãnh theo phương thức tối thiểu – tối đa. Theo phương thức này tổ chức phát hành yêu cầu tổ chức tổ chức bảo lãnh bán tối thiểu một tỷ lệ chứng khoán nhất định, nếu đợt phát hành chứng khoán bán được tỷ lệ thấp hơn mức yêu cầu thì toàn bộ đợt phát hành sẽ bị hủy bỏ. Hoạt động tư vấn đầu tư Hoạt động tư vấn đầu tư là việc công ty chứng khoán thông qua các hoạt động phân tích các thông tin, phân tích các tình huống có thể xảy ra trên thị trường chứng khoán để đưa ra các lời khuyên c ho khách hàng. Cụ thể như việc cung cấp các dịch vụ tư vấn phát hành cho các tổ chức phát hành, tư vấn đầu tư và cơ cấu danh mục đầu tư cho các khách hàng. Có ba tiêu trí để phân loại hoạt động tư vấn của công ty chứng khoán. Việc phân loại diễn ra tùy theo cách thức tiến hành tư vấn, mức độ của nghiệp vụ và đối tượng của chúng. Theo phương thức tiến hành tư vấn thì công ty chứng khoán có thể tư vấn trực tiếp cho khách hàng. Các nhà t ư vấn gặp gỡ các khách hàng, n ghiên cứu tình hình tài chính của từng khách hàng để đưa ra các lời khuyên phù hợp. Hoặc công ty có thể tư vấn một cách gián tiếp thông qua việc phát hành các ấn phẩm hay là đưa thông tin lên mạng Internet để bất kỳ khách nào cũng tiếp cận được nếu muốn. Theo mức độ ủy quyền của tư vấn: tùy theo yêu cầu của khách hàng mà công ty chứng khoán có thể cung cấp các dịch vụ tư vấn từ việc đưa ra các gợi ý cho khách hàng về những phương pháp, cách thức xử lý nhưng quỳen quyết định là của khách hàng.
  14. Hoặc là ở cấp độ cao hơn thì nhà tư vấn sẽ tư vấn và quyết định hộ khách hàng theo mức độ ủy quyền của khách hàng. Theo đối tượng của hoạt động tư vấn thì hoạt động này được chia ra thành tư vấn cho nhà phát hành và tư vấn cho nhà đầu tư. Tư vấn cho tổ chức phát hành bao gồm việc tư vấn phát hành cổ phiếu, trái phiếu cho các tổ chức này. Hoạt động này được thực hiện tốt sẽ góp phần hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp và tạo ra hàng hóa có chất lượng cho thị trường. Tư vấn đầu tư là các hoạt đ ộng thường ngày của các công ty chứng khoán diễn ra phổ biến trên thị tr ường thứ cấp. Đây có thể là những lời khuyên, những bản tin hay những hợp đồng dịch vụ. 1.2. Hoạt động môi giới tại công ty chứng khoán 1.2.1 Khái niệm Công ty chứng khoán khi hoạt động trên thị trường có thể thực hiện các nghiệp vụ khác nhau, tuy nhiên hoạt động môi giới chứng khoán là hoạt động được nhiều công ty đăng ký hoạt động nhất. Đây là một hoạt động trung gian, công ty chứng khoán sẽ đại diện cho khách hàng thực hiện các giao dịch để hưởng phí môi giới. Các giao dịch được thực hiện thông qua cơ chế giao dịch tại sở giao dịch hoặc trên thị trường OTC và trong các giao dịch này khách hàng phải hoàn toàn chịu trách nhiệm đối với kết quả giao dịch của mình. Môi giới trên sàn giao dịch nghĩa là các nhà môi giới là trung gian giữa các nhà đầu tư, trung gian nhập lệnh vào hệ thống giao dịch. Dựa trên hệ thống so khớp giá tự động để các giao dịch được diễn ra nhanh và nhiều nhất tạo công bằng đối với các khách hàng khi tham gia vào hệ thống. Khi chứng khoán giao dịch trên sở trở lên khan hiếm hay rơi vào tình trạng khó giao dịch Sở giao dịch sẽ yêu cầu các công ty chứng khoán tiến hành các giao dịch từ tài khoản của công ty với các lệnh chào mua hoặc chào bán trên thị trường. Lúc này các công ty chứng khoán sẽ là các nhà tạo lập thị trường. Môi giới trên thị trường OTC, trên thị truờng OTC các nhà môi giới đóng vai trò tạo ra tính lỏng cho các chứng khoán. Hoạt động tạo lập thị trường này được thực hiện bằng cách nhà môi giới chứng khoán nắm giữ một lượng chứng khoán nhất định để sẵn sàng giao dịch với khách hàng bao gồm cả việc mua và bán các chứng khoán đó để
  15. hưởng chênh lệch giá và phí môi giới. Nhờ có các nhà tạo lập thị trường này mà thị trường OTC có thể hoạt động một cách trôi chảy . Môi giới hai đô la là môi giới tự do họ không thuộc về một công ty chứng khoán nào.Họ có thể thực hiện môi giới trung gian để thương lượng đấu giá mua bán chứng khoán cho các công ty môi giới thuê họ, truớc kia hoa hồng từ các dịch vụ đó và khoản phí mà họ được hưởng là 2 đô la trên 100 cổ phiếu. Do đó mà họ được dặt cho cái tên chung là môi giới 2 đô la. 1.2.2.Đặc điểm, vai trò của hoạt động môi giới chứng khoán Môi giới chứng khoán là một nghề có yêu cầu công việc rất cao, đòi hỏi người lao động trong lĩnh vực này phải lao động cật lực tuy nhiên họ lại được trả lương xứng đáng, lương rất hậu hĩnh. Nghề môi giới không có thời gian làm việc cố định. Những nhà môi giới có thể tiếp xúc với khách hàng ở mọi lúc mọi nơi, trong quán cà phê, quán ăn, tại cơ quan làm việc của khách hàng, khi nhà đầu tư yêu cầu thì nhà môi giới phải bố trí thời gian để gặp gỡ. Nghề cũng là nghề yêu cầu người làm việc phải có kiến thức chuyên môn sâu, có khả năng đưa ra các phân tích, các đánh giá về những diễn biến về thị trường đưa ra các lời khuyên cho khách hàng khi được yêu cầu. Những người hoạt động trong lĩnh vực này để thu được thành công phải là những người thực sự tâm huyết với nghề, có khả năng phân tích tâm lí tôt, ứng xử khéo léo và kiên nhẫn trong việc tiếp xúc với khách hàng để có thể đạt được hiệu quả công việc cao. Bên cạnh đó cũng cần phải có sự hỗ trợ của công ty trong việc cung cấp thông tin và kết quả phân tích cũng như việc thực hiện các lệnh của khách hàng. Hoạt động môi giới đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của thị trường chứng khoán. Hoạt động môi giới tạo thuận lợi trong các giao dịch giữa người cần bán chứng khoán và người cần mua chứng khoán, tiết kiệm các chi phí giao dịch, đồng thời trong quá trình hoạt động nghiệp vụ các nhà môi giới tiếp xúc với khách hàng, có cơ hội biết được các nhu cầu mới, từ đó phát triển thêm các sản phẩm và dịch vụ trên thị trường, cải thiện môi trường kinh doanh.
  16. Môi giới chứng khoán giúp giảm chi phí giao dịch. Với vai trò là trung gian làm cầu nối giữa các bên mua và bán chứng khoán hoạt động môi giới của các công ty chứng khoán đã làm giảm đáng kể các chi phí tìm kiếm đối tác của các nhà đầu tư trên thị trường. Ngoài ra thị trường chứng khoán là một thị trường của những sản phẩm và dịch vụ bậc cao, do đó để thẩm định chất lượng và giá cả của các loại chứng khoán trên thị trường chứng khoán cần phải thu thập, xử lí thông tin, cần phải có các kỹ năng phân tích và tổng hợp thông tin và các hoạt động nghiệp vụ khác để hỗ trợ. Để thực hiện các khâu trên cần một kinh phí khổng lồ. Những khoản này chỉ có những công ty môi giới chuyên nghiệp mới có thể gánh vác được. Phát triển các sản phẩm và dịch vụ trên thị trường Vai trò trung gian đã giúp cho nhà môi giới nắm bắt được nhu cầu của khách hàng và phản ánh chúng với các nhà cung cấp dịch vụ. Có thể nói những nhà môi giới là những người đi thu góp và đưa ra các ý tưởng thiết kế các sản phẩm và dịch vụ theo yêu cầu khách hàng. Trên các thị trường chứng khoán mới nổi, nếu hoạt động môi giới được tổ chức tốt sẽ góp phần cải thiện được môi trường hàng hóa và dịch vụ còn nghèo nàn đơn điệu. Môi truờng đầu tư đa dạng về sản phẩm và phí dịch vụ thấp sẽ thu hút được nhiều vốn nhàn rỗi cho đầu tư phát triển trong nền kinh tế. Với phương thức hoạt động là chủ động tìm đến khách hàng và cung cấp cho họ các dịch vụ tài chính tốt nhất nên các công ty chứng khoán cần đội ngũ nhân viên rất đông. Đây là một lĩnh vực thu hút rất nhiều lao động có kỹ năng làm phong phú thêm môi trường kinh doanh. Cải thiện môi trường kinh doanh Việc hoạt động tích cực và năng động của các nhà môi giới khi thâm nhập sâu vào cộng đồng các doanh nghiệp và người đầu tư tạo nên một thói quen, nếp suy nghĩ tốt về đầu tư trong cộng đồng hình thành nên văn hóa đầu tư. Khi khách hàng đồng ý mở tài khoản nhân viên môi giới sẽ thường xuyên quan tâm chăm sóc tài khoản theo cách có lợi nhất cho khách hàng, đưa ra các dịch vụ sản phẩm tài chính phù hợp với từng nhà đầu tư điều này lâu dần tạo thành thói quen đầu tư vào các tài sản tài chính trong dân cư. Làm cho các tài sản vận động mạnh mẽ hơn tránh việc để tiền dư thừa một cách lãng phí. Để có thể có được thành công trong nghề các nhà môi giới đều phải tìm
  17. cách thu hút được thật nhiều khách hàng, điều này tạo ra sự cạnh tranh trong nghề nghiệp. Trong cuộc chạy đua này người môi giới luôn phải trau dồi nghiệp vụ, nâng cao đạo đức và kỹ năng hành nghề. Quá trình này nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, tạo thêm uy tín cho các công ty chứng khoán. 1.2.3 Quy trình của hoạt động môi giới chứng khoán Quy tr×nh ho¹t ®éng m«i giíi chøng kho¸n lµ c¸c b-íc c«ng viÖc mµ bé phËn m«i giíi, c¸c nh©n viªn m«i giíi ph¶i lµm ®Ó thùc hiÖn ho¹t ®éng m«i giíi. Tại mỗi khâu của công việc đều có sự phân công cụ thể về nhân sự và trách nhiệm đối với từng người. Tùy theo các công ty chứng khoán khác nhau sẽ có hoạt động môi giới với những nét đặc trưng riêng, nhưng về cơ bản thì qui trình của hoạt động môi giới sẽ có các bước sau: Bước 1: Tìm kiếm khách hàng Tìm kiếm khách hàng là một bước quan trọng trong hoạt động môi giới. Công việc này được thực hiện thông qua các mối quan hệ, hay thông qua các hoạt động tiếp thị, quảng cáo, marketing về công ty. Bước 2: Lựa chọn khách hàng, ở đây các nhà môi giới sẽ xác định mục tiêu khách hàng của mình là các đối tượng nào, và có thể phân loại các đối tượng khách hàng theo nhu cầu, thu nhập, và phục vụ các nhóm nhà đầu tư với các laọi dịch vụ khác nhau sao cho phù hợp nhất. Bước 3: Chăm sóc khách hàng. Các nhà môi giới sẽ kiến nghị và giải thích cho khách hàng hiểu về dịch vụ tài chính nào có thể đáp ứng nhu cầu của họ một cách tốt nhất. Tìm hiểu các nhu cầu của khách hàng và cung cấp cho họ các dịch vụ để thỏa mãn những nhu cầu đó. Như vậy người môi giới cần có sự hiểu biết nhất định về các lĩnh vực cụ thể. Đồng thời các môi giới viên phải có các kỹ năng, nghiệp vụ chăm sóc khách hàng, biết cách thuyết trình các vấn đề một cách gãy gọn, dễ hiểu để thuyết phục khách hàng. Khi khách hàng đã chấp nhận dịch vụ thì nhân viên môi giới phải cung cấp đầy đủ các dịch vụ cho khách hàng.
  18. Trên đây là ba bước mà các nhà môi giới phải thực hiện nếu muốn trở thành một người thành công trong nghề. Tại các công ty chứng khoán khi khách hàng có nhu cầu giao dịch trên sàn giao dịch chứng khoán, các nhân viên môi giới làm việc tại bộ phận giao dịch sẽ cung cấp cho khách hàng một qui trình để tham gia đầu tư, qui trình này bao gồm các bước sau: Bước 1: Mở tài khoản cho khách hàng. Trước khi thực hiện các hoạt động giao dịch trên sàn giao dịch thì các khách hàng phải mở tài khoản tại một công ty chứng khoán. Khách hàng được các nhân viên môi giới hướng dẫn các thủ tục mở tài khoản. Sau đó nhân viên môi giới sẽ cung cấp cho khách hàng một mã số để giao dịch, tập hợp hồ sơ khách hàng và lưu trữ thông tin, khai báo lên hệ thống máy nội bộ và các cơ quan quản lý. Sau khi giúp khách hàng mở tài khoản, nhân viên môi giới hướng dẫn các nhà đầu tư nộp tiền ký quỹ và giải đáp các thắc mắc cùng với các yêu cầu của khách hàng. Bước 2: Nhận lệnh của khách hàng Khi nhận lệnh của khách hàng, nhân viên môi giới có trách nhiệm kiểm tra số dư tài khoản tiền và chứng khoán cho khách hàng để xem nhà đầu tư có đặt mua bán vượt quá số tiền hay số chứng khoán mình có hay không. Nếu phiếu lệnh hợp lệ, nhân viên môi giới có trách nhiệm nhập lệnh của khách hàng vào hệ thông giao dịch của thị trường. Trong trường hợp lệnh của khách hàng không nhập kịp trong đợt giao dịch thì phải thông báo cho khách hàng và trả lại phiếu lệnh cho khách hàng. Việc nhận lệnh của khách hàng có thể do khách hàng trực tiếp đến các công ty chứng khoán để đặt lệnh hoặc là thông qua các công cụ như điện thoại, máy fax, hoặc là qua hệ thống thư điện tử tùy thuộc vào khả năng cung cấp dịch vụ của từng công ty chứng khoán. Bước 3: Thực hiện lệnh của khách hàng. Khi phiếu lệnh được kiểm tra hợp lệ và nhập thành công vào hệ thống máy nội bộ cua công ty thì nhân viên môi giới có trách nhiệm thực hiện lệnh của khách hàng vào hệ thống của thị trường.
  19. Trên thị trường giao dịch tập trung, lệnh giao dịch của khách hàng được chuyển đến Sở giao dịch tập trung. Các lệnh được khớp với nhau để hình thành giá cả cạnh tranh tốt nhất trên thị trường tuỳ theo phương thức khớp giá của thị trường. Bước 4: Xác nhận kết quả thực hiện lệnh. Sau khi thực hiện nhập lệnh xong trên cơ sở số lệnh được khớp do Sở giao dịch chứng khoán chuyển tới, công ty chứng khoán có trách nhiệm lập thông báo kết quả giao dịch và gửi tới khách hàng. Bước 5: Thực hiện thanh toán bù trừ giao dịch. Sau khi hoàn tất các thủ tục giao dịch cho khách hàng, các giao dịch đã được thực hiện công ty chứng khoán sẽ bắt đầu việc thanh toán bù trừ giao dịch trong tài khoản của các khách hàng. Với việc hạch toán tiền mặt mua bán chứng khoán khách hàng sẽ được thông qua Ngân hàng chỉ định thanh toán. Việc phải thanh toán tiền mua bán chứng khoán cộng với một khoản phí giao dịch và hạch toán sẽ được thực hiện trực tiếp trên tài khoản của khách hàng. Nếu là thị trường khớp lệnh liên tục thì quá trình hạch toán diễn ra liên tục và số dư tiền mặt trên tài khoản của khách hàng vì thế cũng thay đổi liên tục. Nhưng đối với các thị trường chưa phát triển còn non kém mới hình thành như Việt Nam thì quá trình giao dịch chỉ hoàn tất trong T + 3 n gày ( nghĩa là khách hàng giao dịch tại ngày T thì ngày được thanh toán sẽ là sau 3 ngày làm việc kể từ ngày phát sinh các giao dịch). vì vậy khách hàng có thể biêt được việc chứng khoán mình mua được sẽ về trong bao nhiêu ngày và việc mình bán chứng khoán thì tiền bán sẽ về tài khoản mình trong bao nhiêu ngày. Với việc hạch toán chứng khoán sẽ được thông qua Trung tâm lưu kí chứng khoán. Việc chuyển đổi chứng khoán sở hữu ( mà ở đây chủ yếu là chứng khoán ghi sổ) sẽ được Trung tâm lưu ký chuyển đổi giữa các tài khoản với nhau theo hình thức thanh toán bù trừ đa phương hoặc song phương 1.2.4 Nguyên tắc hoạt động môi giới chứng khoán
  20. Mỗi một khách hàng khi tham gia giao dịch tại công ty chứng khoán đều phải có một mã số tài khoản riêng. Vì mọi hoạt động giao dịch của khách hàng đều thực hiện dưới dạng bút toán ghi sổ. Vì vậy việc mở tài khoản cho khách hàng để cho mọi hoạt động thanh toán và giao dịch được đơn giản và minh bạch hơn. Tách bạch tiền, chứng khoán của khách hàng với tiền và chứng khoán của công ty. Đây là một nguyên tắc đảm bảo tính an toàn trong hoạt động của thị trường chứng khoán, tránh sự lạm dụng của các công ty chứng khoán trên tài khoản của khách hàng dẫn đến các rủi ro không đáng có. Các nhà môi giới chứng khoán phải có trách nhiệm cung cấp thông tin cân thiết cho khách hàng khi họ yêu cầu. Vì bản thân các nhà đầu tư là người chịu trách nhiệm cuối cùng về quyết định đầu tư của họ nên họ phải có thông tin để có thể ra quyết định đầu tư hợp lý. Các thông tin mà nhà môi giới cung cấp cho khách hàng phải là những thông tin chính xác, không cung cấp các thông tin hay có những hành động gây hiểu lầm về giá chứng khoán. Trên thị trường chứng khoán có hiện tượng thông tin không cân xứng, các nhà môi giới với trình độ chuyên môn của mình và sự hỗ trợ của các đồng nghiệp có thể có các thông tin giá trị, vì vậy khi được khách hàng yêu cầu thì phải cung cấp đầy đủ không được cung cấp thông tin sai lệch làm cho khách hàng bị thiệt hại. Khi tư vấn cho khách hàng cần phải chú ý về mức độ của các lời khuyên. Tránh việc xảy ra tranh chấp kiện tụng với các khách hàng. Trong quá trình hoạt động của mình thì các nhà môi giới phải tuyệt đối tuân thủ các quy tắc nghề nghiệp, làm như vậy thì quyền lợi của khách hàng mới được đảm bảo và giữ đ ược uy tín khi hành nghề. Nói về chu ẩn mực đạo đức nghề nghiệp của nhà mô i giới có nhiều quan niệm khác nhau nhưng về cơ bản thì các chuẩn mực đó đều giống nhau với mục đích cuối cùng là bảo vệ lợi ích của nhà đầu tư. Trong đó qui tắc đạo đức quan trọng nhất và mang tính bắt buộc phải có của một nhân viên môi giới là phải thật sự trung thực và khách quan trong khi thực hiện tư vấn cho khách hàng, nếu nhân viên môi giới mà không trung thực khách quan thì sẽ có các hành động làm tổn hại đến lợi ích của các nhà đầu tư và thanh danh của chính bản thân nhà môi giới, công ty chứng khoán.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0