intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận: Phát triển thương mại quốc tế ở Việt Nam hiện nay. Thực trạng và giải pháp

Chia sẻ: Trần Tuấn Anh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:28

8
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài tiểu luận tập trung nghiên cứu thương mại quốc tế ở Việt Nam trọng tâm là xuất nhập khẩu hàng hóa, trên cơ sở đó đánh giá thực trạng, đề ra biện pháp bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam hiện nay cho hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng và phát triển thương mại quốc tế nói chung.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận: Phát triển thương mại quốc tế ở Việt Nam hiện nay. Thực trạng và giải pháp

  1. MỞ ĐẦU Trong thời đại ngày nay “mở cửa”, “hội nhập” với thế giới để phát triển kinh tế đang là chiến lược của nhiều quốc gia. Bí quyết thành công của các nước đó là nhận thức được mối quan hệ hữu cơ giữa phát triển kinh tế trong nước và mở rộng quan hệ kinh tế với bên ngoài. Đối với Việt Nam từ khi tiến hành cuộc đổi mới đến nay, kinh tế đất nước có sự phát triển vượt bậc, đời sống vật chất, tinh thần nhân dân được nâng cao, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Để có được những thành tựu đó, là có sự đóng góp vô cùng quan trọng của hoạt động kinh tế đối ngoại, trong đó sự phát triển của thương mại quốc tế làm nền tảng. Để nghiên cứu sâu hơn, hiểu rõ hơn bản thân đi nghiên cứu sự phát triển thương mại quốc tế ở Việt Nam hiện nay. Do đó tôi lựa chọn vấn đề: “Phát triển thương mại quốc tế ở Việt Nam hiện nay. Thực trạng và giải pháp” làm chủ đề viết tiểu luận môn Quan hệ kinh tế quốc tế của mình. Bài tiểu luận tập trung nghiên cứu thương mại quốc tế ở Việt Nam trọng tâm là xuất nhập khẩu hàng hóa, trên cơ sở đó đánh giá thực trạng, đề ra biện pháp bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam hiện nay cho hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng và phát triển thương mại quốc tế nói chung. Qua đó, góp phần xây dựng, củng cố niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước về các chiến lược, kế hoạch và chương trình phát triển thương mại quốc tế ở nước ta hiện nay. 1
  2. NỘI DUNG CHƯƠNG I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ 1. Hoạt động thương mại quốc tế và vai trò của nó trong nền kinh tế quốc dân 1.1. Khái niệm thương mại quốc tế Năm 1621 ở Anh một tác giả chủ nghĩa trọng thương Thomas Mun đã nói “thương mại là một hòn đá thử vàng với sự phồn thịnh của một quốc gia” và “không có phép lạ nào dễ kiếm tiền trừ thương mại”. Chủ nghĩa trọng thương cho rằng “thương mại quốc tế là sự trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia mà trong trao đổi phải có bên thua và bên kia được”. Ban đầu, thương mại quốc tế được hiểu theo nghĩa hẹp, là hoạt động buôn bán, trao đổi hàng hóa hữu hình giữa các nước nhằm mục đích mang lại lợi ích mà hoạt động buôn bán, trao đổi trong nước không có hoặc không bằng. Cùng với sự phát triển của quan hệ kinh tế quốc tế, đặc biệt là trong những thập kỉ gần đây, thương mại quốc tế ngày càng được coi trọng và được hiểu theo nghĩa rộng hơn, không chỉ là buôn bán hàng hóa hữu hình mà còn bao gồm cả các hoạt động mua bán, trao đổi hàng hóa vô hình, dịch vụ hay đầu tư vì mục đích sinh lợi... Có nhiều tác giả khác định nghĩa thương mại quốc tế là sự mở rộng hoạt động mua bán, trao đổi hàng hoá vượt ra khỏi phạm vi biên giới của một quốc gia, hay nói cách khác thương mại quốc tế là sự mở rộng của thương mại trong nước trên phạm vi quốc tế. Theo ủy ban của Liên hợp quốc về Luật thương mại quốc tế (UNCITRAL), thương mại quốc tế được hiểu theo nghĩa rất rộng, bao gồm các hoạt động kinh doanh trên thị trường quốc tế, theo đó bao gồm các hoạt động thương mại và đầu tư quốc tế, từ mua bán hàng hóa hữu hình đến các dịch vụ như bảo hiểm, tài chính, tín dụng, chuyển giao công nghệ, thông tin, vận tải, du lịch... Theo khoản 1 Điều 3 Luật Thương mại Việt Nam năm 2005, hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích 2
  3. sinh lợi khác. Như vậy, nếu tiếp cận theo khái niệm này, thương mại quốc tế cũng sẽ được hiểu với nghĩa rất rộng. Theo nghĩa đó, thương mại quốc tế là hoạt động thương mại có yếu tó nước ngoài (hay là hoạt động thương mại vượt ra khỏi biên giới quốc gia hoặc lãnh thổ hải quan) sẽ bao gồm cả mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ giữa các nước, hoạt động đầu tư quốc tế, xúc tiến thương mại quốc tế và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác. Mặc dù có nhiều khái niệm khác nhau về thương mại quốc tế, tuy nhiên, có thể hiểu: Thương mại quốc tế là sự trao đổi hàng hoá, dịch vụ giữa các quốc gia thông qua hành vi mua bán. Sự trao đổi đó là một hình thức của mối quan hệ xã hội phản ánh sự phụ thuộc về kinh tế giữa các nhà sản xuất hàng hoá riêng biệt của các nước. Có nhiều cách tiếp cận về các loại hình thương mại quốc tế. Trước đây, khi nói về thương mại quốc tế, dưới góc độ quốc gia, người ta thường phân thành hai luồng hàng hóa: xuất khẩu và nhập khẩu. Tuy nhiên, trong điều kiện thương mại hiện đại, xuất hiện những hình thức thương mại quốc tế mới như: xuất khẩu tại chỗ, tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập...; đặc biệt còn xuất hiện thương mại về dịch vụ. Nên cách phân loại về hình thức thương mại quốc tế này trở nên kém phù họp. Trong khuôn khổ bài tiểu luận này, bản thân tiếp cận thương mại quốc tế với loại hình: Thương mại quốc tế về hàng hóa, tập trung vào nội dung xuất, nhập khẩu hàng hóa (kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá). Thương mại quốc tế về hàng hóa bao gồm: Thương mại quốc tế về hàng hóa hữu hình và thương mại quốc tế về hàng hóa vô hình. Trong đó, thương mại quốc tế về hàng hóa hữu hình bao gồm tất cả các hoạt động thương mại quốc tế liên quan đến hàng hóa nhìn thấy được, đo đếm được, từ máy móc thiết bị, đến nông sản, thực phẩm, nguyên, nhiên, vật liệu... Thương mại quốc tế về hàng hóa vô hình bao gồm thương mại quốc tế liên quan đến các hàng hóa không nhìn thấy được như phát minh, sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, quyền tác giả, độc quyền nhãn hiệu... 3
  4. Hàng hóa có thế được cung ứng ra thị trường quốc tế thông qua các phương thức sau: Xuất, nhập khẩu hàng hóa: Xuất khẩu là hoạt động đưa hàng hóá được sản xuất ở trong nước ra nước ngoài tiêu thụ. Nhập khẩu là quá trình đưa hàng hóa được sản xuất ở nước ngoài vào trong nước tiêu thụ. Trong hoạt động xuất khẩu, có thể bao gồm cả hoạt động xuất khẩu tại chỗ. Ở trường họp xuất khẩu tại chỗ, hàng hóa có thể chưa vượt ra ngoài biên giới quốc gia nhưng ý nghĩa kinh tế của nó tương tự như hoạt động xuất khẩu. Ví dụ, việc cung cấp hàng hóa cho các khu ngoại giao đoàn, khách du lịch quốc tế... Gia công quốc tế: Hoạt động này bao gồm cả hoạt động gia công thuê cho nước ngoài (Việt Nam hiện hay thực hiện hình thức này đối với mặt hàng dệt may và da giầy) và thuê nước ngoài gia công (trên thế giới hiện nay, các nước công nghiệp phát triển thường thuê các nước đang phát triển gia công thuê các hàng hóa cho minh và trả cho họ một khoản phí gia công, phí gia công chỉ chiếm một tỉ lệ nhỏ trong quá trình sinh lời của sản phẩm). Tái xuất khẩu và chuyển khẩu: Trong hoạt động tái xuất khẩu: hàng hóa được nhập khẩu tạm thời từ thị trường nước ngoài vào, sau đó lại tiến hành xuất khẩu sang một nước thứ ba với điều kiện hàng hóa đó không qua gia công, chế biến. Trong hoạt động chuyển khẩu: không có hành vi mua bán hàng hóa, mà ở đây thực hiện các dịch vụ như vận tải quá cảnh, lưu kho, lưu bãi hàng hóa... Kinh doanh là việc thực hiện một, một số hay tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hay thực hiện một dịch vụ trên thị trường nhằm thu lợi nhuận. Kinh doanh xuất nhập khẩu là nội dung cơ bản của kinh doanh thương mại quốc tế. Như vậy kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá là việc đầu tư công sức, tiền của thực hiện hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ nhằm thu lợi 4
  5. nhuận. Kinh doanh xuất nhập khẩu, hàng hoá được thực hiện theo quy luật cung cầu thị trường, người mua và người bán hay người xuất khẩu và người nhập khẩu gặp nhau trên thị trường quốc tế để thoả thuận về giá cả số lượng và chất lượng của hàng hoá, dịch vụ. 1.2. Đặc trưng của hoạt động thương mại quốc tế Thương mại quốc tế có ba đặc trưng cơ bản sau: Kinh doanh thương mại quốc tế được thực hiện bởi người mua và người bán có quốc tịch khác nhau, ở các nước khác nhau, hàng hoá được di chuyển vượt qua phạm vi biên giới của một quốc gia. Với đặc trưng này thì phân biệt rõ giữa kinh doanh thương mại quốc tế với kinh doanh thương mại trong nước. Đối với kinh doanh thương mại trong nước, dòng lưu chuyển của dòng hàng hoá bị giới hạn trong phạm vi biên giới của một nước. Dòng tiền thanh toán trong kinh doanh thương mại quốc tế có thể là đồng tiền một trong các nước (nhiều hơn hai nước) tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu và cũng có thể là một đồng tiền của nước khác. Sử dụng đồng tiền nào trong thanh toán hợp đồng xuất nhập khẩu phụ thuộc vào sự thoả thuận giữa các bên tham gia hợp đồng. Đồng tiền được sử dụng thường là các đồng tiền mạnh có sức mua lớn trên thị trường thế giới. Kinh doanh thương mại quốc tế chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố phức tạp liên quan đến nhiều yếu tố khác nhau, quốc tịch giữa các chủ thể tham gia vào hoạt động thương mại quốc tế như: ngôn ngữ, tôn giáo, pháp luật, văn hoá... , sự khác nhau về ngôn ngữ đòi hỏi phải có ngôn ngữ thống nhất được các bên cùng hiểu, cùng chấp nhận đồng thời các bên cũng cần thoả thuận rõ về các quy phạm pháp luật áp dụng trong ký kết, thực hiện và giải quyết tranh chấp trong hợp đồng. 1.3. Vai trò của hoạt động thương mại quốc tế Như đã trình bày ở trên, thương mại quốc tế là sự trao đổi hàng hoá giữa các nước thông qua hành vi mua bán. Đây là hình thức trao đổi tích cực nó vừa biểu hiện mối quan hệ xã hội vừa phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế 5
  6. giữa những người sản xuất hàng hoá riêng biệt ở các quốc gia. Một quốc gia cũng như một cá nhân không thể sống một cách riêng rẽ mà có thể thoả mãn đầy đủ nhu cầu của mình, cho dù đó là những nhu cầu có khả năng thanh toán. Thông qua thương mại quốc tế, cho phép một nước mở rộng được khả năng tín dụng, tận dụng được trang thiết bị máy móc của một nước khác mà những điều kiện sản xuất của nước mình chưa cho phép. Hơn thế nữa, thương mại quốc tế cho phép một nước tiêu dùng tất cả các mặt hàng với số lượng nhiều hơn mức có thể tiêu dùng với danh giới của đường khả năng sản xuất trong nước đó nếu thực hiện chế độ tự cung tự cấp. Những lợi điểm này bắt nguồn từ lợi thế so sánh giữa các quốc gia và thông qua đó đẩy mạnh tính chuyên môn hoá của mỗi nước. Chính vì vậy mà thương mại quốc tế hay nói cách khác là quan hệ xuất nhập khẩu trở thành một vấn đề sống còn đối với một quốc gia. Xu hướng bình thường hoá và đa phương hoá trên thị trường quốc tế hiện nay cũng một phần xuất phát từ những vấn đề mang tính then chốt này. Bởi vì, quan điểm chung là đẩy mạnh sự phát triển kinh tế của nước mình không chỉ bằng tiềm lực sẵn có trong nước mà còn bằng việc tận dụng những tiềm năng của nước ngoài. Xuất nhập khẩu là hoạt động kinh doanh buôn bán ở phạm vi quốc tế. Nó không phải là những hành vi buôn bán riêng rẽ mà là cả một hệ thống các quan hệ mua bán trong một nền kinh tế thương mại có tổ chức từ bên trong ra bên ngoài nhằm mục đích đẩy mạnh sản xuất hàng hoá phát triển, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, ổn định và từng bước nâng cao mức sống của nhân dân hay nói cách khác, vấn đề xuất nhập khẩu là một vấn đề mang tính quốc gia. Hiệu quả của hoạt động xuất nhập khẩu có thể đem lại những đột biến rất cao trong nền kinh tế. Mặt khác nó cũng có thể gây ra những thiệt hại không thể lường trước được, vì lúc đó nền kinh tế trong nước sẽ phải đối đầu với một hệ thống kinh tế khác từ bên ngoài mà các chủ thể trong nước không dễ dàng khống chế được. Trong điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần như ở nước ta hiện nay, việc đẩy 6
  7. mạnh hoạt động ngoại thương là một hướng đi hoàn toàn đúng đắn. Nhưng muốn hoạt động này thực sự đem lại hiệu quả cao cho đất nước, chúng ta phải xác định được những điều có lợi và bất lợi của hoạt động này. Ta có thể thấy hoạt động thương mại quốc tế có những ưu điểm: Nó phát huy cao độ tính năng động sáng tạo của mọi người, mọi đối tượng, mọi tổ chức, mọi ngành nghề, mọi địa phương trong xã hội. Thông qua hoạt động thương mại quốc tế, một nước có thể mở rộng được khả năng tiêu dùng của mình. Nó cho phép đáp ứng nhu cầu tiêu dùng một lượng hàng hoá nhiều hơn khả năng sản xuất trong nước và cũng thông qua đó những tiềm lực, những lợi thế của đất nước sẽ được khai thác một cách triệt để hơn, khả năng chuyên môn hoá trong các ngành sản xuất dần dần được hình thành và có động lực để không ngừng phát triển. Hoạt động thương mại quốc tế đáp ứng được các nhu cầu ngày càng tăng và đa dạng của sản xuất, tiêu dùng. Thông qua việc nhập khẩu, sự mất cân đối trong sản xuất và tiêu dùng, giữa cung và cầu sẽ dần được khắc phục. Nhập khẩu kịp thời cung cấp các hàng hoá cần thiết cho sản xuất và tiêu dùng, giúp cho nền kinh tế thoát khỏi những cơn sốt giá cả một cách nhanh chóng, tránh những đột biến nguy hiểm như sự lên giá của một mặt hàng có thể kéo theo sự lên giá của các mặt hàng khác, gây ra sự rối loạn đình trệ trong sản xuất. Hoạt động thương mại quốc tế tạo ra sự cạnh tranh giữa hàng hoá trong nước và hàng hoá nước ngoài, tạo ra sự theo dõi kiểm soát lẫn nhau rất chặt chẽ giữa các chủ thể, sự cạnh tranh này sẽ có tính chất làm cho chất lượng nền kinh tế trong nước được nâng cao. Hoạt động thương mại quốc tế đòi hỏi hàng hoá phải có chất lượng cao do đó nó dẫn tới việc xoá bỏ nhanh chóng các chủ thể kinh doanh sản phẩm lạc hậu không thể chấp nhận được. Đồng thời qua đó các cơ chế quản lý của nhà nước cũng như của mỗi địa phương về xuất nhập khẩu sẽ được hoàn thiện từng bước, vì nó có những đòi hỏi mang tính tích cực của các chủ thể tham gia xuất 7
  8. nhập khẩu trong quá trình thực hiện. Tuy nhiên hoạt động thương mại quốc tế cũng đem lại những bất lợi sau: Thứ nhất: vì tồn tại cạnh tranh nên dễ dẫn tới những rối ren trong quan hệ mua bán. Nếu không có sự kiểm soát chặt chẽ, kịp thời sẽ gây ra các thiệt hại về kinh tế trong quan hệ với nước ngoài. Các hiện tượng xấu về kinh tế, tư tưởng... cũng dễ có đất phát triển như buôn lậu, trốn thuế. Thứ hai: Sự cạnh tranh sẽ dẫn đến sự thôn tính lẫn nhau giữa các chủ thể kinh doanh bằng các biện pháp xấu như phá hoại công việc của nhau, gây cản trở phức tạp cho nhau, cũng như các biện pháp cạnh tranh không lành mạnh khác. Thứ ba: Hoạt động nhập khẩu và hoạt động xuất khẩu là hai hoạt động mang tính bổ trợ cho nhau. Nhập khẩu cung cấp đầu vào cho quá trình sản xuất như nguyên vật liệu, trang thiết bị máy móc và giúp cho đất nước có thể xuất khẩu là biểu hiện tích cực của mình. Ngược lại, xuất khẩu là biểu hiện tích cực của nền kinh tế, nhờ có xuất khẩu mà có được ngoại tệ để tiến hành thực hiện hoạt động nhập khẩu, dựa trên nguyên tắc lợi thế so sánh thì một nước không thể chỉ hoàn toàn xuất khẩu (đây là hiện tượng bất khả thi) nhưng cũng không chỉ hoàn toàn nhập khẩu. Bởi vì mục đích quan trọng nhất của các hoạt động này là nhằm nâng cao tiêu dùng trong nước, thỏa mãn ngày càng cao nhu cầu của người tiêu dùng. 2. Các yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh thương mại quốc tế Xuất nhập khẩu là việc mua bán hàng hoá với nước ngoài nhằm phát triển sản xuất kinh doanh và đời sống. Song việc mua bán ở đây có những nét riêng phức tạp hơn mua bán trong nước. Các bạn hàng trong giao dịch mua bán ở đây là những người có quốc tịch khác nhau, thị trường ở đây là những thị trường lớn rất khó kiểm soát, mua bán trung gian chiếm tỷ trọng lớn, đồng tiền thanh toán là đồng tiền mạnh, hàng hoá phải vận chuyển qua biên giới, cửa khẩu các quốc gia khác nhau, phải tuân theo những tập quán, thông lệ quốc tế cũng như của địa phương. Do đó 8
  9. hoạt động này cũng chịu ảnh hưởng của các nhân tố rất khác nhau, ta có thể thấy một số nhân tố chính ảnh hưởng đến hoạt động xuất nhập khẩu sau: 2.1. Ảnh hưởng của chế độ, chính sách và luật pháp quốc tế Đây là một nhân tố thuộc tầm vĩ mô mà bất kỳ đơn vị kinh doanh nào tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu cũng phải tuân thủ một cách vô điều kiện. Nó thể hiện quan điểm khác nhau của mỗi nước đối với vấn đề kinh doanh xuất nhập khẩu, nó tạo ra sự thống nhất chung trên trường quốc tế. Luật pháp quốc tế buộc các nước vì lợi ích chung phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ và trách nhiệm của mình trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Ngoài luật pháp quốc tế, hoạt động xuất nhập khẩu của một nước còn chịu ảnh hưởng các chế độ pháp luật, chính sách nhập khẩu của chính nước đó. Sự tuân thủ này vừa là trách nhiệm vừa là quyền hạn đối với các đơn vị tham gia, qua đây các đơn vị kinh doanh vừa có quyền tự chủ hơn trong hoạt động của mình, xác định được những điều kiện bắt buộc mình phải trải qua đồng thời nó tạo ra tâm lý tin tưởng. 2.2. Ảnh hưởng của việc biến động thị trường trong và ngoài nước Thị trường bao giờ cũng là nhân tố hàng đầu trong kinh doanh, sự biến động của thị trường trong và ngoài nước sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến xu hướng xuất nhập khẩu. Xuất nhập khẩu như một chiếc cầu nối giữa các thị trường, tạo ra sự phù hợp gắn bó cũng như thể hiện sự tác động qua lại của chúng với nhau. Thông qua việc nghiên cứu thị trường nước ngoài, doanh nghiệp sẽ quyết định việc xuất nhập khẩu mặt hàng nào có lợi, thậm chí cả thời điểm nào có lợi nhất và thông qua thị trường trong nước sẽ quyết định phải nhập khẩu mặt hàng nào, số lượng bao nhiêu, chất lượng giá cả và cả người cung ứng phải như thế nào là hợp lý nhất. 2.3. Ảnh hưởng của nền sản xuất trong và ngoài nước Sự hưng thịnh hay tụt hậu của nền sản xuất trong và ngoài nước sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động xuất nhập khẩu. Nếu sản xuất trong nước phát 9
  10. triển hàng hoá trong nước sẽ tạo ta sự cạnh tranh gay gắt với hàng ngoại nhập dẫn tới nhu cầu hàng nhập khẩu sẽ giảm còn nếu sản xuất kém phát triển, hàng hoá nội địa sẽ không đủ khả năng cạnh tranh với hàng nhập khẩu thì xu hướng nhập khẩu sẽ tăng. Nhất là đối với hàng hoá đòi hỏi kỹ thuật cao để trang bị sự hiện đại tối thiểu nhằm phục vụ phát triển kinh tế cũng như đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của tiêu dùng trong nước, việc chấp nhận là tất yếu. Cùng với sự vận động ấy, ngược lại sự phát triển của nền sản xuất ngoài nước sẽ làm tăng nhu cầu nhập khẩu tạo ra những sản phảm mới thuận tiện, hiện đại với chi phí có thể chấp nhận được. Còn nếu sản xuất nước ngoài kém phát triển, đây sẽ là một hệ thống rất hấp dẫn mà các nhà kinh doanh trong nước sẽ quan tâm. Nhu cầu nhập khẩu của thị trường bên ngoài trở thành tất yếu và điều này sẽ tác động đến việc xuất khẩu hàng hoá của các nhà kinh doanh trong nước. Tuy nhiên các biểu hiện trên không có tính tuyệt đối mà nó chỉ là một trong các yếu tố dẫn đến xu hướng thay đổi trong hoạt động xuất nhập khẩu. Thông thường một chính phủ bao giờ cũng có những chính sách để bảo hộ sản xuất trong nước mình phát triển nhằm tránh sự mất cân đối trong nền kinh tế hoặc sự quá phụ thuộc vào nước ngoài ở một mặt hàng nào đó mà sản xuất trong nước vẫn có khả năng tuy với chi phí cao hơn hoặc chất lượng thấp hơn. Hoặc đôi khi để tránh sự độc quyền, tạo ra sự cạnh tranh khuyến khích sản xuất phát triển mà nhà nước sẽ ban hành các chính sách nhằm khuyến khích hoạt động nhập khẩu một loại hàng. 2.4. Ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái và tỷ xuất ngoại tệ của hàng xuất nhập khẩu Tỷ giá hối đoái là giá cả một đồng tiền quốc gia có thể đổi lấy một đồng tiền khác. Nếu tỷ giá hối đoái cao thì việc nhập khẩu được khuyến khích còn nếu tỷ giá hối đoái thấp thì việc xuất khẩu được khuyến khích. Điều này giải thích tại sao có những nước đã tiến hành phá giá đồng tiền nước mình để thúc đẩy xuất khẩu. Do vậy sự biến động của tỷ giá sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động xuất nhập khẩu. 10
  11. Đối với tỷ xuất ngoại tệ thì khác, trong nhập khẩu tỷ xuất ngoại tệ là tổng số tiền bán ra khi chi ra đơn vị ngoại tệ để nhập khẩu. Nếu tỷ xuất ngoại tệ mặt hàng đó lớn hơn tỷ giá hối đoái trên thị trường thì việc lựa chọn mặt hàng nhập khẩu là có hiệu quả. Trong trường hợp xuất khẩu, nó là số tiền bản tệ phải chi ra để có thể thu được một đơn vị ngoại tệ. Nếu tỷ suất đưa ra thấp hơn tỷ giá hối đoái trên thị trường thì việc xuất khẩu là có hiệu quả. 2.5. Ảnh hưởng của môi trường chính trị và môi trường văn hoá xã hội Các mối quan hệ xuất nhập khẩu là các mối quan hệ thoả thuận, tự nguyện trên cơ sở hai bên đều có lợi, không có một quyền lực chính trị nào ép buộc. Tuy nhiên các quan hệ này chỉ được phát triển trên cơ sở có một sự ổn định chính trị trong nước, các doanh nghiệp trong và ngoài nước mới yên tâm tiến hành hoạt động xuất nhập khẩu. Trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu thì môi trường văn hoá xã hội, phong tục tập quán có ảnh hưởng rất sâu sắc. Trên thực tế cho thấy chỉ những phong tục tập quán tiêu dùng rất nhỏ cũng có thể làm ảnh hưởng rất lớn đến khối lượng, kích cỡ của các mặt hàng xuất nhập khẩu. CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 1. Thực trạng phát triển thương mại quốc tế ở Việt Nam hiện nay Trong những năm gần đây, nền kinh tế Việt Nam đã có những bước chuyển mạnh mẽ trong bối cảnh tình hình kinh tế, chính trị thế giới vẫn diễn biến phức tạp, các nền kinh tế lớn tăng trưởng không đồng đều. Việt Nam đã từng bước thực hiện chính sách đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa, tranh thủ khả năng hợp tác thương mại, đầu tư, hội nhập, chuyển giao công nghệ, phát triển kinh tế đất nước. Theo Tổng cục Hải quan, sau 19 năm, từ năm 2001 đến năm 2019, tổng trị giá xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam đã tăng 17 lần. Tiểu luận phân tích, những kết quả đạt được trong năm 2019, 2020 và 2021, đánh giá những hạn chế của hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa cho thấy được 11
  12. sự phát triển không ngừng trong xuất khẩu và ổn định trong nhập khẩu, từ đó, thấy được sự phát triển của thương mại quốc tế ở Việt Nam hiện nay. 1.1. Những kết quả đạt được 1.1.1. Những kết quả đạt được của xuất nhập khẩu hàng hóa Việt Nam năm 2019 Cán cân thương mại thặng dư liên tiếp và đạt mức xuất khẩu kỉ lục: Kết thúc năm 2019, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa của cả nước đạt 517,26 tỷ USD, tăng 7,6% (tương ứng tăng 36,69 tỷ USD) so với năm 2018. Trong đó, trị giá hàng hóa xuất khẩu đạt 264,19 tỷ USD, tăng 8,4% và nhập khẩu đạt 253,07 tỷ USD, tăng 6,8%. Kết quả này đã góp phần đưa mức thặng dư thương mại hàng hóa của cả nước trong năm 2019 đạt thặng dư với con số kỉ lục 11,12 tỷ USD. Thặng dư liên tục 4 năm liên tiếp góp phần làm tích cực cán cân thanh toán và ổn định các chỉ số kinh tế vĩ mô khác của nền kinh tế, được đánh giá là mức khá trong bối cảnh kinh tế toàn cầu có dấu hiệu sụt giảm. (Biểu đồ 1): Xuất khẩu hàng hóa mở rộng về quy mô hàng hóa, thị trường và cơ cấu theo chiều hướng tích cực 12
  13. Đóng góp vào kết quả này phải kể đến công lao rất lớn của khu vực FDI. Biểu đồ 2 cho thấy khu vực này chiếm giá trị xuất khẩu chủ yếu trong tổng kinh ngạch xuất với năm 2019 là 68,8% và tăng đều qua các năm. (Biểu đồ 2): Cụ thể xuất khẩu từ khu vực FDI đạt 181,35 tỷ USD (tăng 4,2%); còn khu vực trong nước là 175,52 tỷ USD (tăng 17,7%). Trong khi đó, nhập khẩu của khu vực FDI và khu vực trong nước lần lượt là 145,5 tỷ USD và 108,01 tỷ USD. Tính chung cả năm 2019, khu vực FDI xuất siêu 35,85 tỷ USD, khu vực trong nước nhập siêu 25,91 tỷ USD. Đây là một vấn đề khi nền kinh tế phụ thuộc quá nhiều vào khu vực FDI mà nội tại trong nước còn yếu kém. Điều này đòi hỏi cần phải có giải pháp thay đổi theo hướng ít phụ thuộc hơn. Bên cạnh đó, thị trường xuất khẩu, nhập khẩu được mở rộng, không chỉ tăng cường ở các thị trường truyền thống mà còn khai thác được các thị trường mới, tiềm năng và tận dụng hiệu quả các FTA. Hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam đã vươn tới hầu hết các thị trường trên thế giới, nhiều sản phẩm đã dần có chỗ đứng vững chắc và nâng cao được khả năng cạnh tranh trên nhiều thị trường có yêu cầu cao về chất lượng như EU, Nhật Bản, Mỹ, Úc,... Kim ngạch xuất khẩu sang các khu vực thị trường đều đạt mức tăng trưởng dương, tăng cao ở những thị trường có FTA với Việt Nam như: ASEAN (tăng 2%), Hàn Quốc (tăng 8,3%), Ấn Độ (tăng 13
  14. 2,1%), New Zealand (tăng 9,7%). Việt Nam đã xuất siêu chủ yếu vào thị trường các nước phát triển, có yêu cầu khắt khe về chất lượng đối với hàng hóa nhập khẩu như Hoa Kỳ (xuất siêu 46,4 tỷ USD); EU (xuất siêu 26,9 tỷ USD). Đặc biệt, kim ngạch xuất khẩu sang các thị trường là thành viên CPTPP đạt mức tăng tốt, thể hiện bước đầu tận dụng hiệu quả các cam kết từ Hiệp định này để thúc đẩy xuất khẩu, đa dạng hóa thị trường xuất khẩu (xuất khẩu sang Canađa đạt 3,86 tỷ USD, tăng 28,2%; xuất khẩu sang Mexico đạt 2,84 tỷ USD, tăng 26,8%). Có thể thấy, trước bối cảnh giảm sút tổng cầu, hoạt động thương mại và đầu tư thế giới suy giảm, bảo hộ mậu dịch gia tăng, tăng trưởng xuất khẩu của nhiều nền kinh tế sụt giảm, xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam năm 2019 vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng khả quan. Xuất khẩu năm 2019 hoàn thành vượt mức chỉ tiêu kế hoạch được Quốc hội và Chính phủ giao, đạt mức kỉ lục trên 500 tỷ USD. Tăng trưởng xuất khẩu có đóng góp lớn vào tăng trưởng GDP, tạo công ăn việc làm, tiêu thụ hàng hóa cho nông dân, ổn định vĩ mô nền kinh tế. 1.1.2. Những kết quả đạt được của xuất nhập khẩu hàng hóa Việt Nam năm 2020 Bối cảnh kinh tế thế giới năm 2020 rất phức tạp, không thuận lợi cho thương mại quốc tế. Đây là năm thế giới chứng kiến những biến động nhanh, phức tạp, đa chiều và khó đoán định từ xung đột thương mại Mỹ-Trung, biến động về quan hệ kinh tế – chính trị giữa các nền kinh tế lớn và đặc biệt là ảnh hưởng tiêu cực của dịch Covid-19 đến moi lĩnh vực kinh tế – xã hội. Các nền kinh tế lớn đối mặt với tình trạng suy thoái sâu, tồi tệ nhất trong nhiều thập kỷ qua. Năm 2020 cũng là năm cuối thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2016-2020, nước ta đang nỗ lực để hoàn thành mục tiêu đăt ra trong Kế hoạch. Sự xuất hiện của dịch Covid-19 đã gây ra nhưng ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động kinh tế, trong đó xuất, nhập khẩu hàng hóa bị ảnh hưởng khá nghiêm trọng. Những biến động, khó khăn đó đã khiến các nước có xu hướng sử dụng sản phẩm nội địa thay cho sản phẩm nhập khẩu khi thực hiện biện pháp đóng cửa biên giới để phòng chống dịch bệnh. Do đó nhiều nước đã sử dụng các 14
  15. biện pháp bảo hộ thương mại, các rào cản kỹ thuật để tăng cường bảo hộ sản phẩm nội địa, đặc biệt là các mặt hàng nông sản, thủy sản. Tuy nhiên, với sự điều hành khéo léo, tỉnh táo và rất kiên quyết của Chính phủ với mục tiêu “vừa phòng chống dịch bệnh, vừa phát triển kinh tế – xã hội”, hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam đã đứng vững trong sự đứt gãy thương mại quốc tế trên toàn cầu, giữ được đà tăng trưởng và tạo lực kéo quan trọng cho cả nền kinh tế. Trong bối cảnh kinh tế thế giới có nhiều rủi ro, bất ổn, thương mại toàn cầu giảm sút, xuất khẩu của các nước trong khu vực đều giảm so với năm trước, Việt Nam vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng xuất khẩu khả quan trong năm 2020. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa năm 2020 ước tính đạt 543,9 tỷ USD, tăng 5,1% so với năm trước, trong đó kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đạt 281,5 tỷ USD, tăng 6,5%; nhập khẩu hàng hóa đạt 262,4 tỷ USD, tăng 3,6%. Cán cân thương mại hàng hóa năm 2020 ước tính xuất siêu 19,1 tỷ USD, giá trị xuất siêu lớn nhất từ trước đến nay. Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa năm 2020 ước tính đạt 281,5 tỷ USD, tăng 6,5% so với năm 2019, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 78,2 tỷ USD, giảm 1,1%, chiếm 27,8% tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 203,3 tỷ USD, tăng 9,7%, chiếm 72,2% (tỷ trọng tăng 2,1 điểm phần trăm so với năm trước). Năm 2020 có 31 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, trong đó, 24 mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu trên 2 tỷ USD, 9 mặt hàng có kim ngạch trên 5 tỷ USD và 6 mặt hàng có kim ngạch trên 10 tỷ USD. Mặt hàng đóng góp lớn nhất vào tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu năm 2020 là điện thoại và linh kiện với giá trị xuất khẩu lớn nhất đạt 50,9 tỷ USD, chiếm 18,1% tổng kim ngạch xuất khẩu, giảm 1% so với năm trước; điện tử, máy tính và linh kiện đạt 44,7 tỷ USD, tăng 24,4%. Những năm gần đây nổi lên vai trò chi phối của nhóm hàng điện tử, máy tính, điện thoại và linh kiện. Trị giá xuất khẩu của 2 nhóm hàng này đang tiến dần tới mốc 100 tỷ USD (năm 2019 đạt 87 tỷ USD, năm 2020 ước tính đạt gần 96 tỷ USD) với tỷ trọng ngày càng tăng, chiếm tới 33,9% tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2020. 15
  16. Kim ngạch nhập khẩu năm 2020 đạt 262,4 tỷ USD, tăng 3,6% so với năm 2019. Nhập khẩu tập trung chủ yếu ở nhóm hàng cần thiết cho sản xuất, xuất khẩu, gồm máy móc thiết bị, nguyên nhiên vật liệu phục vụ sản xuất, xuất khẩu. Kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng này đạt 245,6 tỷ USD, tăng 4,1% so với năm 2019, chiếm tỷ trọng 93,6% trong tổng kim ngạch nhập khẩu, trong đó nhập khẩu nhóm hàng máy móc thiết bị, dụng cụ, phương tiện vận tải, phụ tùng tăng mạnh tới 16,3%. Điều này chứng tỏ nền kinh tế đang có sự phục hồi khá mạnh mẽ về sản xuất trong khi nhập khẩu cho tiêu dùng đã giảm đáng kể, tỷ trọng chỉ chiếm 6,4%, giảm 0,5 điểm phần trăm so với năm 2019. Từ 2016 đến nay, cán cân thương mại xuất nhập khẩu hàng hóa liên tục thặng dư với mức xuất siêu năm sau cao hơn năm trước. Năm 2016, xuất siêu hàng hóa của nước ta đạt 1,6 tỷ USD; năm 2017 đạt 1,9 tỷ USD; năm 2018 tăng lên 6,5 tỷ USD; năm 2019 đạt 10,9 tỷ USD và năm 2020 ước tính đạt 19,1 tỷ USD. Năm 2020 là một năm đầy khó khăn với ảnh hưởng nặng nề của dịch Covid-19, nhưng thành tích xuất siêu không những được giữ vững mà còn có thể lập nên kỷ lục mới. Tuy rằng mức xuất siêu kỷ lục năm 2020 có ảnh hưởng khá lớn bởi sự suy giảm của kim ngạch nhập khẩu, nhưng trong bối cảnh khó khăn do dịch bệnh diễn biến phức tạp, xuất khẩu vẫn là điểm sáng và là tiền đề quan trọng để nền kinh tế vững bước vào năm 2021. 1.1.3. Những kết quả đạt được của xuất nhập khẩu hàng hóa Việt Nam năm 2021 Tính chung năm 2021, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa đạt 668,5 tỷ USD, tăng 22,6% so với năm trước, trong đó xuất khẩu tăng 19%; nhập khẩu tăng 26,5%. (Nguồn Tổng cục thống kê). 16
  17. Về hoạt động xuất khẩu, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa thực hiện tháng 11/2021 đạt 31,87 tỷ USD, cao hơn 1,97 tỷ USD so với số ước tính. Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tháng 12/2021 ước đạt 34,5 tỷ USD, tăng 8,3% so với tháng trước. Trong quý IV/2021, kim ngạch xuất khẩu ước đạt 95,6 tỷ USD, tăng 19,4% so với cùng kỳ năm trước và tăng 16,4% so với quý III/2021 (tăng 19,5% so với quý II/2021 và tăng 21,9% so với quý I/2021). Tính chung năm 2021, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa ước đạt 336,25 tỷ USD, tăng 19% so với năm trước. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 88,71 tỷ USD, tăng 13,4%, chiếm 26,4% tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 247,54 tỷ USD, tăng 21,1%, chiếm 73,6%. Trong năm 2021, có 35 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 93,8% tổng kim ngạch xuất khẩu (có 8 mặt hàng xuất khẩu trên 10 tỷ USD, chiếm 69,7%). Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng chủ lực năm 2021 thuộc về khu vực có vốn đầu tư nước ngoài: Điện thoại các loại và linh kiện chiếm 99,3%; điện tử, máy tính và linh kiện chiếm 98,1%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng chiếm 93%; dệt may chiếm 61,7%; giầy dép các loại chiếm 79,3%. Về cơ cấu nhóm hàng xuất khẩu năm 2021, nhóm hàng công nghiệp chế biến chiếm 89,2%, tăng 0,6 điểm phần trăm so với năm trước; nhóm hàng nông sản, lâm sản chiếm 7,1%, giảm 0,2 điểm phần trăm; nhóm hàng thủy sản chiếm 2,6%, giảm 0,4 điểm phần trăm; nhóm hàng nhiên liệu và khoáng sản chiếm 1,1%, bằng năm trước. 17
  18. Về hoạt động nhập khẩu, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa thực hiện tháng 11/2021 đạt 30,61 tỷ USD, cao hơn 810 triệu USD so với số ước tính. Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa tháng 12/2021 ước đạt 32 tỷ USD, tăng 4,5% so với tháng trước. Trong quý IV/2021, kim ngạch nhập khẩu ước đạt 89,07 tỷ USD, tăng 16% so với cùng kỳ năm trước và tăng 6,2% so với quý III/2021. Tính chung năm 2021, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa ước đạt 332,25 tỷ USD, tăng 26,5% so với năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 114,07 tỷ USD, tăng 21,8%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 218,18 tỷ USD, tăng 29,1%. Trong năm 2021 có 47 mặt hàng nhập khẩu đạt trị giá trên 1 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 94,1% tổng kim ngạch nhập khẩu. Về cơ cấu nhóm hàng nhập khẩu năm 2021, nhóm hàng tư liệu sản xuất chiếm 93,5%, tăng 0,2 điểm phần trăm so với năm trước, trong đó: Nhóm hàng máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng chiếm 46,6%, giảm 2,1 điểm phần trăm; nhóm hàng nguyên, nhiên, vật liệu chiếm 46,9%, tăng 2,3 điểm phần trăm. Nhóm hàng vật phẩm tiêu dùng chiếm 6,5%, giảm 0,2 điểm phần trăm. Về thị trường xuất, nhập khẩu hàng hóa năm 2021, Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch ước đạt 95,6 tỷ USD. Trung Quốc là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch ước đạt 109,9 tỷ USD. Năm 2021 xuất siêu sang EU ước đạt 23 tỷ USD, tăng 12,1% so với năm trước; nhập siêu từ Trung Quốc 54 tỷ USD, tăng 53%; nhập siêu từ Hàn Quốc 34,2 tỷ USD, tăng 22,9%; nhập siêu từ ASEAN 12 tỷ USD, tăng 63,1%; nhập siêu từ Nhật Bản 2,4 tỷ USD, tăng 127,9%. Cán cân thương mại hàng hóa thực hiện tháng Mười một xuất siêu 1,26 tỷ USD5; 11 tháng xuất siêu 1,46 tỷ USD; tháng Mười hai ước tính xuất siêu 2,54 tỷ USD. Tính chung năm 2021, cán cân thương mại hàng hóa ước tính xuất siêu 4 tỷ USD (năm trước xuất siêu 19,94 tỷ USD). Trong đó: Khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 25,36 tỷ USD; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) xuất siêu 29,36 tỷ USD. 18
  19. Về xuất, nhập khẩu dịch vụ, trong quý IV/2021, kim ngạch xuất khẩu dịch vụ ước đạt 985 triệu USD, giảm 3,3% so với cùng kỳ năm 2020 và tăng 9,2% so với quý trước; kim ngạch nhập khẩu dịch vụ ước đạt 5,1 tỷ USD, tăng 12,4% so với cùng kỳ năm trước và tăng 5,5% so với quý trước. Trong năm 2021, kim ngạch xuất khẩu dịch vụ ước đạt 3,67 tỷ USD, giảm 51,7% so với năm 2020, trong đó dịch vụ du lịch đạt 149 triệu USD (chiếm 4,1% tổng kim ngạch), giảm 95,4%; dịch vụ vận tải đạt 446 triệu USD (chiếm 12,1%), giảm 61,4%.Kim ngạch nhập khẩu dịch vụ năm nay ước đạt 19,41 tỷ USD, tăng 8,5% so với năm trước, trong đó dịch vụ vận tải đạt 9,99 tỷ USD (chiếm 51,5% tổng kim ngạch), tăng 34,2%; dịch vụ du lịch đạt 3,63 tỷ USD (chiếm 18,7%), giảm 21,3%. Nhập siêu dịch vụ năm 2021 là 15,73 tỷ USD (trong đó phí dịch vụ vận tải và bảo hiểm hàng hóa nhập khẩu là 8,24 tỷ USD). 19
  20. 1.2. Những hạn chế Với những kết quả đạt ở trên về thương mại quốc tế trong những năm qua đặc biệt về xuất nhập khẩu, tuy nhiên, xuất nhập khẩu ở Việt Nam hiện nay vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế, nhiều ngành hàng chủ lực như dệt may, da giày chủ yếu là gia công, trong khi các mặt hàng nông sản - thế mạnh của Việt Nam lại xuất khẩu dưới dạng thô, giá trị gia tăng thu về không nhiều, trong khi đó nhập khẩu chủ yếu là máy móc, khoa học công nghệ giá trị cao. Do đó, ảnh hưởng rất lớn đến cán cân thương mại xuất nhập khẩu. Sức cạnh tranh của hàng hóa còn kém. Các ngành sản xuất của Việt Nam còn một số tồn tại, yếu kém cần phải cải thiện, cũng như đang phải đối diện với nhiều thách thức, khó khăn. Các doanh nghiệp quy mô nhỏ, phân tán, công nghệ sản xuất lạc hậu, năng lực quản lý, kinh doanh còn hạn chế; sức cạnh tranh kém so với các đối thủ quốc tế, chưa tạo dựng được nhiều giá trị gia tăng cho sản phẩm xuất khẩu. Các doanh nghiệp xuất khẩu chưa nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của giá cả, tính cạnh tranh của giá cả còn thấp. Phần lớn việc định giá là dựa vào giá cả của đối thủ cạnh tranh. Các doanh nghiệp xuất khẩu vẫn chưa thật sự chủ động trong việc nghiên cứu nhu cầu thị trường để hoạch định chiến lược giá. Nguồn vốn lưu động của các doanh nghiệp xuất khẩu hiện nay vẫn còn ít nên việc thu mua, dự trữ hàng hoá còn hạn chế, đây cũng là nguyên nhân khiến các doanh nghiệp xuất khẩu chưa có khả năng chủ động trong việc định giá. Hơn nữa, do khả năng xoay chuyển vốn lưu động còn thấp khiến cho doanh nghiệp luôn ở trong tình trạng cạn vốn mặc dù đã thế chấp tài sản để vay ngân hàng vẫn không đảm bảo được nguồn vốn kinh doanh cho doanh nghiệp. Đa số doanh nghiệp Việt Nam còn chưa thể đáp ứng được các qui định nghiêm ngặt về an toàn vệ sinh thực phẩm và các qui định về chất lượng. Trước xu thế hội nhập toàn cầu, làn sóng nhập khẩu đang phát triển mạnh mẽ, thì tất cả 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
5=>2