intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN: Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh bình phước

Chia sẻ: Nguyen Hai | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:100

189
lượt xem
60
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Với tư cách là một hỡnh thỏi ý thức xó hội và là một hiện tượng xó hội, tụn giáo ra đời và biến đổi như thế nào là do tồn tại xó hội quy định. Nhưng với tính độc lập tương đối của mỡnh, tụn giỏo tác động trở lại tồn tại xó hội khá mạnh mẽ, với cả tích cực và tiêu cực. Theo đó, vị trí, vai trũ của mỗi tụn giỏo ở từng khu vực, từng quốc gia và các thời kỳ lịch sử khác nhau cũng không như nhau. Lịch sử phương Tây từng...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN: Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh bình phước

  1. LUẬN VĂN: Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh bình phước
  2. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Với tư cách là một hỡnh thỏi ý thức xó hội và là một hiện tượng xó hội, tụn giáo ra đời và biến đổi như thế nào là do tồn tại xó hội quy định. Nhưng với tính độc lập tương đối của mỡnh, tụn giỏo tác động trở lại tồn tại xó hội khá mạnh mẽ, với cả tích cực và tiêu cực. Theo đó, vị trí, vai trũ của mỗi tụn giỏo ở từng khu vực, từng quốc gia và các thời kỳ lịch sử khác nhau cũng không như nhau. Lịch sử phương Tây từng có thời kỳ thần quyền chi phối thế quyền, giáo hội đứng trên nhà nước, tôn giáo thống trị toàn bộ đời sống xó hội, chi phối cả phần hồn lẫn phần xỏc của con người; thậm chí, đó gõy ra những cuộc chiến tranh tụn giỏo đẫm máu ở thời Trung cổ qua các cuộc Thập tự chinh kéo dài hàng trăm năm. Song cũng có nhiều quốc gia, dân tộc được hưng khởi do có sự đóng góp đáng kể từ phương diện tích cực của tôn giáo, như Việt Nam, Trung Hoa trong lịch sử và Hàn Quốc đương đại. Chớnh vỡ thế, dưới mọi thời đại, dù các quốc gia có thể chế chính trị nh ư thế nào, nhỡn chung đều có chính sách, pháp luật thích hợp để điều chỉnh hoạt động của tôn giáo nhằm duy trỡ sự ổn định xó hội; để tôn giáo tác động đến các lĩnh vực của đời sống xó hội theo hướng đồng thuận, mà trước hết, là đảm bảo lợi ích của giai cấp cầm quyền. Việt Nam là một quốc gia đa sắc tộc và tôn giáo. Chưa kể vài chục triệu người khác vẫn giữ gỡn tớn ngưỡng truyền thống thờ cúng tổ tiên và tín ngưỡng dân gian, chỉ tính riêng 6 tôn giáo lớn, nước ta đó cú gần 1/3 dõn số sinh hoạt tôn giáo thường xuyên. Vỡ thế, Đảng, Nhà nước ta luôn coi trọng công tác tôn giáo theo hướng vừa đảm bảo nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân vừa kịp thời đấu tranh với các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo chống phá cách mạng. Để đảm bảo hiệu quả của công tác tôn giáo của hệ thống chính trị thời kỳ đẩy mạnh và xây dựng nhà nước pháp quyền, thỡ việc nõng cao hiệu lực cụng tỏc quản lý nhà nước về tôn giáo là vấn đề hết sức cấp bách. Vỡ thế, trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đó từng bước hoàn thiện chính sách và pháp luật về tôn giáo; tăng cường đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo nhằm thực hiện tốt chính sách đoàn kết lương giáo, đại đoàn kết toàn dân tộc.
  3. Hiện nay, ở các vùng DTTS của nước ta cũn tồn tại nhiều vấn đề lịch sử chính trị phức tạp và các thế lực thù địch không ngừng lợi dụng, kích động lôi kéo đồng bào tạo ra những hoạt động chống đối nhà nước. Như vùng dân tộc Hmông, chúng kích động thành lập nhà nước tự trị; với dân tộc Chăm, là việc đũi phục quốc Chăm Pa; vùng dân tộc Khmer Nam Bộ, âm mưu thành lập nhà nước Khmer-Crôm; ở vùng dân tộc Tây Nguyên, chúng kích động đũi thành lập nhà nước Đêga độc lập. Như vậy, khác với vấn đề tôn giáo ở vùng đồng bào dân tộc đa số, ở các vùng đồng bào DTTS, vấn đề dân tộc và tôn giáo luôn gắn bó chặt chẽ với nhau và đây là một đặc điểm lớn đũi hỏi chủ thể quản lý xó hội cần có sự quan tâm thường xuyên. Bỡnh Phước là một tỉnh miền núi phía Nam Việt Nam, có 41 dân tộc (tộc người) sinh sống, trong đó, người DTTS có 28.133 hộ, với 140.105 khẩu, chiếm gần 20% dân số của tỉnh. Tín đồ các tôn giáo trên địa bàn tỉnh có 225.298 người, chiếm gần 30% dân số của tỉnh. Trong đó, tín đồ là người DTTS có 74. 916 người, chiếm hơn một nửa dân số các DTTS. Trong những năm qua, tỡnh hỡnh tụn giáo ở vùng đồng bào DTTS tỉnh Bỡnh Phước diễn ra khá phức tạp. Các tổ chức tôn giáo đẩy mạnh phát triển tín đồ, đặc biệt là đạo Tin lành phục hồi và phát triển nhanh tới mức khụng bỡnh thường. Trên địa bàn DTTS tỉnh Bỡnh Phước, hoạt động lợi dụng tôn giáo đó và đang diễn ra, tuy chưa gây nên những hậu quả nghiêm trọng như ở mấy tỉnh Tây Nguyên bên cạnh, nhưng vẫn cần phải được quan tâm từ cả phương diện tỡnh thế và chiến lược. Công tác QLNN về tôn giáo ở vùng đồng bào DTTS ở Bỡnh Phước trong những năm qua đó cú nhiều chuyển biến tớch cực. Bộ mỏy làm cụng tỏc tụn giỏo ở cơ sở được kiện toàn một bước, gúp phần nõng cao hiệu quả quản lý nhà nước về tôn giáo. Thể chế hoá chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước, lónh đạo tỉnh đó đề ra các giải pháp đúng đắn, đảm bảo nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo của tín đồ là người DTTS, góp phần giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xó hội, đấu tranh có hiệu quả đối với các hiện tượng vi phạm pháp luật trong hoạt động tôn giáo. Công tác nắm đối tượng, tranh thủ giáo sỹ, chống địch lợi dụng tôn giáo được các ngành chức năng thường xuyên quan tâm và đó gúp phần đưa giáo hội đi theo chiều hướng hợp tác, tuân thủ pháp luật, củng cố lũng tin của tớn đồ, chức sắc tôn giáo đối với Đảng và Nhà nước.
  4. Tuy nhiên, công tác QLNN đối với các hoạt động tôn giáo ở vùng đồng bào DTTS trên địa bàn cũng cũn những hạn chế, yếu kém. Đó là việc chậm cụ thể hoá một số chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước đối với tôn giáo. Việc thực hiện chính sách tôn giáo cũn thiếu đồng bộ, có hiện tượng né tránh, đùn đẩy cho cấp trên hoặc cơ quan khác. Cán bộ làm công tác tôn giáo của tỉnh nói chung và trong vùng đồng bào DTTS nói riêng trong khi vẫn có thái độ hẹp hũi, định kiến với tôn giáo, thỡ lại cú biểu hiện buông lỏng quản lý, thiếu chủ động trong ngăn ngừa những vi phạm pháp luật của các tôn giáo. Rồi nữa, việc xác định nội dung QLNN đối với tôn giáo trong vùng đồng bào DTTS chưa rừ ràng. Đặc biệt, đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo ở vùng DTTS ở Bỡnh Phước vẫn cũn yếu kộm, cả về chuyờn mụn nghiệp vụ và kinh nghiệm công tác, đó là chưa kể số lượng cũn thiếu, chưa thật sự yên tâm với công tác này. Vậy, để đáp ứng những vấn đề cấp bách đó nhằm nâng cao hiệu lực QLNN về tôn giáo ở vùng đồng bào DTTS tỉnh Bỡnh Phước hiện nay, người viết chọn đề tài: Quản lý nhà nước về tôn giáo ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Bỡnh Phước. 2. Tỡnh hỡnh nghiờn cứu liờn quan đến đề tài Từ khi có Nghị quyết 24 của Bộ Chính trị, 10/1990, việc nghiên cứu vấn đề tôn giáo, chủ trương, chính sách đối với tôn giáo ngày càng được nhiều nhà lý luận và quản lý quan tõm. Như: Tôn giáo tín ngưỡng hiện nay-mấy vấn đề lý luận và thực tiễn cấp thiết của Trung tâm Thông tin-Tư liệu, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 1995; Đề tài cấp bộ thực trạng tỡnh hỡnh phục hồi, phỏt triển đạo Tin lành ở các vùng dân tộc thiểu số nước ta và những vấn đề đặt ra đối với công tác an ninh, Tiến sỹ Nông Văn Lưu chủ nhiệm, năm 1995; “Mối quan hệ giữa chính trị và tôn giáo trong thời kỳ mở rộng giao lưu quốc tế và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xó hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, chủ nhiệm Tiến sỹ Ngô Hữu Thảo, năm 1998; Đổi mới quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động của các tôn giáo ở Việt Nam, của Trần Minh Thư, năm 1999; Đề tài cấp bộ Sự phát triển của đạo Tin lành trong vùng đồng bào dân tộc ít người ở một số tỉnh miền núi phía Bắc nước ta hiện nay, Tiến sỹ Nguyễn Đức Lữ, chủ nhiệm, năm 2000; Chuyên đề Đạo Tin lành ở Việt Nam-Thực trạng và xu hướng phát triển, của Nguyễn Thanh Xuân, Ban Tôn giáo Chính phủ; Đề tài cấp bộ Về
  5. tỡnh hỡnh phỏt triển đạo Tin lành ở miền núi phía Bắc-Trường Sơn-Tây Nguyên, của Giáo sư Đặng Nghiêm Vạn, năm 2000; … Những cụng trỡnh đó đó phõn tớch, khái quát những vấn đề thực tiễn, bài học kinh nghiệm và có giỏ trị lý luận sõu sắc. Nhưng, trên lĩnh vực QLNN đối với tôn giáo, cỏc cụng trỡnh này mới dừng lại ở tầm vĩ mô, mà chưa đề cập tới vấn đề QLNN về tôn giáo ở vùng DTTS tỉnh Bỡnh Phước. Song, đây là những tài liệu quý giỏ để tác giả kế thừa và vận dụng trong triển khai đề tài. Ở Bỡnh Phước, có một cụng trỡnh nghiờn cứu về tụn giỏo và cụng tỏc tụn giỏo, đó là Đề án đối với Đạo Tin lành tỉnh Bỡnh Phước, năm 2002, của Ban Dân tộc và Tôn giáo tỉnh. Cụng trỡnh này đi sâu nghiên cứu về đạo Tin lành trên địa bàn tỉnh, từ đó đưa ra một số giải phỏp quản lý, nhưng thực trạng QLNN đối với tôn giáo và vấn đề đặt ra trong vùng đồng bào DTTS chưa được làm rừ. Do đó, triển khai đề tài này như là sự bổ sung cho việc nghiên cứu đó. 3. Mục đích và nhiệm vụ 3.1. Mục đích Trên cơ sở làm rừ thực trạng quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở vùng đồng bào DTTS tỉnh Bỡnh Phước những năm vừa qua, luận văn đề xuất phương hướng và giải phỏp nhằm nõng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với tôn giáo ở vùng đồng bào DTTS trên địa bàn tỉnh trong thời gian tới. 3.2. Nhiệm vụ Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ: - Làm rừ những đặc điểm tỡnh hỡnh dõn tộc và tụn giỏo ở Bỡnh Phước. - Phõn tớch thực trạng cụng tỏc quản lý nhà nước đối với tôn giáo ở vùng đồng bào DTTS tỉnh Bỡnh Phước, từ đó khái quát một số vấn đề đang đặt ra đối với công tác này. - Đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở vùng đồng bào DTTS tỉnh Bỡnh Phước trong tỡnh hỡnh mới. 4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
  6. Luận văn nghiên cứu quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở vùng đồng bào DTTS tỉnh Bỡnh Phước từ khi tái lập tỉnh (1997) đến nay. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo; quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước về tôn giáo và QLNN về tôn giáo. Luận văn cũng xuất phát từ chủ trương của UBND tỉnh Bỡnh Phước đối với tôn giáo và công tác tôn giáo trong vùng đồng bào DTTS. Thực hiện luận văn này, tác giả sử dụng những nguyên tắc phương pháp luận của CNDVBC và CNDVLS; đồng thời sử dụng tổng hợp những phương pháp khoa học cụ thể, như phương pháp logic và lịch sử, phân tích và tổng hợp, so sánh, đối chiếu cùng phương pháp của xó hội học. 6. Đóng góp của luận văn - Khái quát một số vấn đề cấp bách đang đặt ra trong công tác QLNN đối với tôn giáo ở vùng đồng bào DTTS tỉnh Bỡnh Phước. - Đề xuất một số phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả QLNN đối với tôn giáo ở vùng đồng bào DTTS tỉnh Bỡnh Phước hiện nay và sắp tới. 7. í nghĩa thực tiễn của đề tài - Luận văn là một cơ sở tham khảo để xây dựng, bổ sung chủ trương đối với tôn giáo và công tác tôn giáo nhằm đảm bảo tốt hơn công tác quản lý nhà nước về tôn giáo vùng đồng bào DTTS của Bỡnh Phước. - Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu giảng dạy trong trường Chính trị tỉnh Bỡnh Phước 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có kết cấu gồm 3 chương, 9 tiết.
  7. Chương 1 ĐẶC ĐIỂM TèNH HèNH DÂN TỘC, TễN GIÁO TỈNH BèNH PHƯỚC 1.1. TèNH HèNH DÂN TỘC TỈNH BèNH PHƯỚC 1.1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, văn hoá, xó hội - Đặc điểm tự nhiên Bỡnh Phước là tỉnh được tái lập từ năm 1997, là tỉnh miền núi có 240 km đường biên giới với Campuchia là vùng đất cuối cùng của dói Trường sơn, nối liền Nam Tây nguyên với vùng gũ đồi của Đông Nam bộ. Bỡnh Phước có diện tích tự nhiờn 6.853,93km2, phớa Nam giỏp tỉnh Bỡnh Dương, phía Bắc giáp tỉnh Đăk Nông, phía Đông giáp tỉnh Lâm Đồng - Đồng Nai và phía Tây giáp Campuchia. Số dân toàn tỉnh hiện có 749.377 người, trong đó người DTTS có 140.105 người, chiếm gần 20% dân số toàn tỉnh, đông nhất là người dân tộc bản địa S'tiêng, 68.737 người, chiếm 9,17%; dân tộc Khmer 13.393 người, chiếm 1,78%; người Mơnông 7.898 người, chiếm 1,05%; người Tày 17.769 người, chiếm 2,37%; người Nùng 17. 612 người, chiếm 2,35% [19, tr.12]… Trước đây trên vùng đất Bỡnh Phước chủ yếu là người S'tiêng, người Khmer, người Mơnông, nhưng nay có thêm nhiều dân tộc khác, đặc biệt là các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc Việt Nam di dân tự do hết sức mạnh mẽ trong những năm gần đây. Các DTTS sống đan xen với nhau và với người Kinh trên tất cả các huyện, thị của tỉnh. Cũng có một số dân tộc chỉ sống tập trung ở một số huyện, như: người S'tiêng sống ở Phước Long, Bỡnh Long, Bự Đăng, Lộc Ninh; người Nùng tập trung ở Đồng Phú, Bù Đăng và người Kh'mer ở Lộc Ninh, Đồng Xoài, Chơn Thành . . . - Đặc điểm kinh tế Trong lịch sử, vùng đồng bào DTTS tỉnh Bỡnh Phước tồn tại lâu đời một hỡnh thức kinh tế, đó là canh tác lúa rẫy trong vùng rừng già nhiệt đới. Đây là nền kinh tế nông nghiệp sản xuất tự cấp, tự túc chủ yếu dựa vào phương thức quảng canh trên rẫy, trỡnh độ kỹ thuật thô sơ, tổ chức lao động tập thể giản đơn theo tập quán cổ truyền.
  8. Những năm qua, với chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước thông qua các chương trỡnh dự ỏn như Chương trỡnh 134, 135…về việc hỗ trợ đồng bào DTTS điện, đường, trường, trạm, nhà ở, đất sản xuất, cây con giống…nên đời sồng đồng bào DTTS đó được cải thiện, từng bước được nâng cao. Số hộ giàu đó tăng lên và ngày càng có nhiều mụ hỡnh nụng dõn là người DTTS làm kinh tế giỏi, có mức thu nhập trên dưới 100 triệu đồng/hộ/năm. Việc thực hiện Chương trỡnh 134 về hỗ trợ đất sản xuất, nhà ở, cụng trỡnh nước sạch cho đồng bào DTTS được lónh đạo tỉnh quan tâm, tạo điều kiện để họ ổn định cuộc sống, an tâm sản xuất. Đến nay, chương trỡnh đất ở, cụng trỡnh nước sạch sinh hoạt cho đồng bào DTTS cơ bản đó hoàn thành. Riêng việc hỗ trợ đất sản xuất đạt tỷ lệ 88,9% so với đề án phờ duyệt. Tỡnh hỡnh thực hiện Chương trỡnh 135, Chương trỡnh 168, chính sách trợ cước, trợ giá, định canh - định cư theo Quyết định 33/2007/QĐ – TTg và Quyết định 32/2007/QĐ - TTg được toàn tỉnh tiếp tục chỉ đạo thực hiện. Ngày 10/10/2008, UBND tỉnh ban hành thêm Quyết định về thực hiện chính sách hỗ trợ di dân thực hiện định canh - định cư cho đồng bào DTTS giai đoạn 2007 – 2008 trên địa bàn tỉnh. Mỗi khu định canh - định cư cũng được quy định cụ thể về điện sinh hoạt, đường giao thông nông thôn, trường học…ngoài ra, mỗi cụm cũn được hỗ trợ khoa học kỹ thuật tương đương 30 triệu đồng/năm. Nhân dịp tết của đồng bào DTTS các cấp uỷ Đảng, chính quyền, MTTQ và các đoàn thể tổ chức đàn đi thăm, chúc tết và tặng quà cho bà con dân tộc nghèo có đạo không có điều kiện đón tết. Tuy nhiên, vẫn cũn những vấn đề đáng quan tâm, đó là do chưa hiểu đúng chủ trương của tỉnh, bị kẻ xấu lợi dụng xúi dục, một số bà con đó tụ tập đông người đi khiếu kiện tập thể vượt cấp, làm ảnh hưởng xấu đến tỡnh hỡnh an ninh chớnh trị, trật tự an toàn xó hội ở một số địa phương, như: xó Nghĩa Trung, huyện Bự Đăng; xó Đồng Tiến, huyện Đồng Phỳ; xó Phước Tiến và Hưng Phước, huyện Bù Đốp. Một bộ phận đồng bào DTTS trỡnh độ dõn trớ cũn thấp, đời sống kinh tế cũn khú khăn, thu nhập chưa cao, chưa ổn định. Tỡnh trạng di dõn tự do của đồng bào DTTS các tỉnh phía Bắc đến không có đất sản xuất gây khó khăn cho chính quyền trong việc thực hiện giải pháp xoá đói, giảm nghèo và bảo đảm trật tự an toàn xó hội - Đặc điểm văn hoá, giáo dục
  9. Cỏc DTTS ở Bỡnh Phước tuy cũn lạc hậu về kinh tế, song họ có kho tàng văn hoá dân gian phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc. Văn hoá ăn, ở, mặc, văn hoá ứng xử trong giao tiếp cộng đồng, văn hoá nếp sống và lối sống cộng đồng của các DTTS ở Bỡnh Phước chứa đựng những luật tục cổ truyền mang tính cách rất riêng biệt của từng dân tộc. Văn hoá dân gian cũng rất phong phú, đặc biệt các hỡnh thức lễ hội phản ánh rất tổng hợp đời sống văn hoá và tín ngưỡng của từng dân tộc, như lễ hội đâm trâu, lễ cúng lúa…. Bên cạnh những giá trị đặc sắc trong văn hoá tín ngưỡng, các DTTS ở Bỡnh Phước cũn tồn tại những hủ tục lạc hậu, mờ tớn dị đoan rất điển hỡnh, như thầy Hùm, Ma lai, Ngói độc…. Về tín ngưỡng, đồng bào DTTS hầu hết thờ đa thần, tin vào sức mạnh hữu hỡnh và vụ hỡnh. Ngoài mối quan hệ với mụi trường tự nhiên và môi trường xó hội, con người cũn cú mối quan hệ với thế giới đó khuất, với thế giới siờu nhiờn. Mối quan hệ này thể hiện qua những sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo, như là sự đúc kết các mối quan hệ của con người với hiện thực khách quan của họ. Chính những điều kiện tự nhiên và xó hội của họ là cơ sở để hỡnh thành nờn cỏc tớn ngưỡng sơ khai, khi mà cuộc sống của họ rất gần gũi với vạn vật tự nhiên. Họ thường xuyên, trực tiếp đối mặt với tự nhiên, đời sống luụn lệ thuộc vào tự nhiờn, thỡ thiờn nhiờn chính là đối tượng nhận thức chính và mối quan hệ giữa con người với tự nhiên được coi là mối quan hệ chính yếu, chi phối ảnh hưởng đến mọi quan hệ xó hội khỏc. Từ xa xưa đồng bào DTTS đó biết thuần hoỏ cỏc loại thực, động vật khác nhau, từ đó càng làm cho cuộc sống thêm gắn bó, gần gũi với vạn vật của tự nhiên. Chớnh vỡ thế, các tín ngưỡng nguyên thủy trong đồng bào hầu như vẫn giữ được nét cổ sơ như nó đó nảy sinh, như tục mừng lúa mới, tục cầu mưa, tục cầu nắng…Trước đây, có quan điểm cho rằng tôn giáo hay rộng hơn là đời sống tín ngưỡng, tâm linh là một lĩnh vực không liên quan gỡ đến văn hoá. Nhưng giờ đây quan niệm đó đó được thay đổi, bởi vỡ văn hoá là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo nên. Từ những hoạt động sáng tạo của người dân đến sức sống của cả một xó hội, những phương thức sản xuất, những hỡnh thức tổ chức lao động, ước mơ và khát vọng…luôn cho thấy tôn giáo luôn gắn chặt với văn hoá. Đối với đồng bào DTTS, do điều kiện tự nhiên chi phối, tín ngưỡng và tâm linh lại càng gắn bó mật thiết với văn hoá.
  10. Bởi vậy khi nghiên cứu văn hoá của mỗi dân tộc, nếu thiếu yếu tố tín ngưỡng, tôn giáo thỡ không thể có kết quả khoa học đúng nghĩa. Về tâm lý của các DTTS, thường có sự quyết định của ba yếu tố, là tự nhiờn, xó hội và lịch sử. Điều kiện tự nhiên về nhiệt độ ẩm, độ rừng già rậm rạp, thú dữ, thêm vào đó nền nông nghiệp lúa rẫy là những yếu tố tác động rất sâu đậm đến đời sống vật chất văn hoá tinh thần của đồng bào DTTS. Theo đó, hỡnh thành tính cách, tâm lý của đồng bào DTTS. Đó là: Giản dị, chân thành, chất phát trong cuộc sống; hay sợ hói, dễ tin tưởng, hay mặc cảm tự ty, khiêm tốn trong ứng xử; nặng nghĩa tỡnh trong quan hệ người - người, tính đoàn kết cộng đồng cao; cần cù chịu đựng, chịu khó, cẩn thận và chậm chạp. Nhưng đó cũng chưa phải là yếu tố chủ yếu quyết định, yếu tố quyết định hơn cả là yếu tố xó hội và lịch sử đó chi phối nhiều nhất đến đặc điểm tâm lý, tính cách, bản sắc dân tộc của họ. Cộng đồng DTTS Bỡnh Phước cũng như các cộng đồng tộc người ở nơi khác, mỗi cộng đồng có thể hỡnh thành và duy trỡ sự tồn tại của mỡnh trong sự liờn kết các cá nhân trong cộng đồng một cách lâu dài trong lịch sử. Như ở cộng đồng của dân tộc S'tiêng, tính cộng đồng của họ rất cao, như là một nột tõm lý, tớnh cỏch đặc trưng của người DTTS bản địa. Trong quá trỡnh hỡnh thành những đặc điểm tâm lý, cấu tạo nên bản lĩnh, bản sắc của cộng đồng DTTS, lưu giữ được bản sắc văn hoá của dân tộc mỡnh thỡ vai trũ, vị trớ của cỏc già làng, kể cả trước và sau 1975 cho đến nay là rất to lớn. Trong chiến tranh, các già làng đó vận động bà con buôn sóc đứng lên đũi quyền dõn sinh, dõn chủ, tự do cơm áo, hoà bỡnh; đó bỏ nhiều công sức, của cải để vận động, động viên đồng bào mỡnh vào bộ đội đánh giặc cứu nước, chống bắt phu, bắt lính để bảo vệ buôn sóc núi rừng. Các già làng và đồng bào DTTS đó nhiệt tỡnh giỳp đỡ cán bộ, bộ đội, kịp thời thông báo tỡnh hỡnh của địch, nuôi dấu cán bộ, ủng hộ heo gà, lúa gạo, làm tốt công tác hậu phương, gió gạo nuụi quõn, chung sức vào sự nghiệp cách mạng của nước nhà, với tinh thần thà hy sinh tính mạng, của cải chứ nhất định không theo giặc, làm cái tay cái chân, con mắt để chúng hại buôn sóc, núi rừng tổ tiên. Các già làng đó thực hiện nhất quỏn khẩu hiệu "Một tấc khụng đi, một ly không rời". Từ sau ngày giải phóng đến nay, các già làng tiếp tục vận động bà con tích cực lao động sản xuất, phát triển kinh tế, định canh định cư, tách hộ lập vườn, xây dựng nhà cửa
  11. xoá bỏ dần nhà tạm tranh tre, vách nứa, xoá bỏ tập tục lạc hậu như thầy hùm, ma lai, ngải độc, để xây dựng nếp sống văn hoá mới. Các già làng ở Bỡnh Phước ngày nay vẫn luôn là người có vai trũ quan trọng trong việc giữ gỡn bản sắc văn hoá truyền thống quý báu của dân tộc mỡnh, sỏt cỏnh với đồng bào dân tộc anh em, và biết học hỏi cái hay, cái đẹp của các dân tộc anh em kể cả các dân tộc nơi khác đến, đoàn kết một lũng theo con đường mà Đảng và Bác Hồ đó chọn. Cỏc già làng đó tớch cực làm tốt công tác hoà giải; giải quyết mâu thuẫn trong buôn sóc; phát hiện tố giác tội phạm giúp các ngành chức năng làm trong sạch địa bàn; không ngừng học tập để xây dựng quê hương Bỡnh Phước ngày càng giàu đẹp và bỡnh yờn. Công tác GD - ĐT, chăm sóc sức khoẻ đó được các cấp chính quyền quan tâm. Số học sinh người đồng bào DTTS ngoài trường DTNT hiện nay trên địa bàn tỉnh là 35.862 em, trong đó các trường DTNT là 1.045 em. Hệ thống cơ sở vật chất, trang thiết bị khám chữa bệnh trên địa bàn tỉnh ngày càng được củng cố và phát triển. Cụ thể có 08 bệnh viện, 05 phũng khỏm đa khoa khu vực; 92/99 xó, phường, thị trấn có trạm Y tế, trong đú cú 09 xó đạt chuẩn quốc gia về Y tế; số lượng Bác sỹ phục vụ tại trạm Y tế đạt 56, 3%, tỷ lệ con em DTTS được tiêm chủng theo quy định chỉ tiêu giao trên 95%. - Đặc điểm xó hội Trước đây, phần lớn cỏc DTTS ở Bỡnh Phước chưa có sự phân hoá giai cấp. Một số dân tộc chủ yếu như S'tiêng, Khmer, Mơnông có sự phân biệt giàu nghèo (căn cứ qua số lượng cồng, chiêng, chộ quý, trâu hay số lượng người làm thuê…). Thiết chế làng, buôn, sóc từ xưa cho đến nay vẫn là “không gian xó hội” cơ bản của đời sống cộng đồng các DTTS ở Bỡnh Phước. Cùng với thiết chế làng, buôn cơ bản đó, tàn dư của chế độ mẫu hệ vẫn tồn tại, chi phối đời sống cộng đồng của nhiều DTTS ở Bỡnh Phước. Gia đỡnh, dũng họ và làng, buụn, súc là một thiết chế cơ bản có chức năng tái sản sinh ra văn hoá của từng dân tộc; là môi trường bền vững của quá trỡnh bảo tồn, lưu truyền, phát huy bản sắc dân tộc; là nơi đào luyện các thế hệ theo giá trị nhân văn của từng dân tộc trong cộng đồng các DTTS ở Bỡnh Phước. 1.1.2. Sự hỡnh thành và phõn bố dõn cư của các dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Bỡnh Phước trước và sau 1975
  12. - Sự hỡnh thành và phõn bố dõn cư trước năm 1975: Vào những năm đầu của thế kỷ XX, người S'tiêng đến cư trú tại núi Bà Đen (tỉnh Tây Ninh) và núi Bà Rá (tỉnh Phước Long cũ). Vùng lónh thổ mà bộ tộc người S'tiêng có khả năng cư trú rộng là từ tỉnh Tây Ninh qua Sông Bé đến lưu vực sông Đăk Quít tiếp giáp Campuchia. Theo một tác giả người Pháp là Raulin, vào năm 1875, các sóc người S'tiêng, Khmer ở vùng Hớn Quản mang địa danh Hán Việt do triều đỡnh nhà Nguyễn đặt cho, như An Lộc, Bỡnh Tõy, Đông Phất, Đồng Nơ, Xuân La, Nha Bích... (nay thuộc huyện Bỡnh Long và huyện Chơn Thành). Vào những năm 1950 người S'tiêng vùng núi Bà Rá cư trú dọc theo 2 bờ sông Bé, tại vùng Hớn Quản và có một số sóc người Chăm đang trên đường hoà nhập vào tộc người S'tiêng. Theo số liệu thống kê, vào năm 1926, ở địa bàn này số người Kinh Nam Bộ có 105.968 người, người Kinh Bắc Bộ và Trung Bộ có 4.122 người; người S'tiêng có 11.945 người; người Khmer có 2.469 người; người Chăm có 453 người… Từ cuối thế kỷ XIX, người S'tiêng vùng Hớn Quản (Bỡnh Long) đó cú sự giao tiếp văn hoá với người Khmer, Chăm và ảnh hưởng từ nền văn hoá của 2 dân tộc trên rất rừ nột, nhất là trong tớn ngưỡng, hôn nhân gia đỡnh và sự giao lưu kinh tế - văn hoá - xó hội. Tuy vậy tập quỏn của người S'tiêng rất gắn bó với núi rừng, nương rẫy, với nhiều ngọn núi, con sông, con suối, săn bắt và hái lượm do thiên nhiên ưu đói. Người dân tộc S'tiêng được phân chia thành 3 khu vực cư trú: + Vùng miền núi (thượng lưu, tức là Cao Nguyên) là tộc người S'tiêng Bù Piết, do sống tiếp giáp với nước bạn Campuchia và với dân tộc Êđê, Mơnông Tây Nguyên nên chịu ảnh hưởng rất mạnh mẽ và rừ nột về phong tục tập quỏn, văn hoá, tín ngưỡng tôn giáo của các dân tộc đó. + Vùng Trung du (trung lưu) là tộc người S'tiêng Bù Lơ, họ sống tiếp giáp với người S'tiêng Bù Piết và người S'tiêng Bù Đếh, luôn có mối quan hệ chặt chẽ về nếp sống phong tục và tập quán, sinh sống chủ yếu làm rẫy, làm ruộng và săn bắt. + Vùng núi thấp là tộc người S'tiêng Bù Đếh, họ sống tiếp giáp và quan hệ gắn bó với người Kinh, người Kh'mer, người Chăm nên phần nào có ảnh hưởng nhất định về phong tục tập quán và đời sống kinh tế - xó hội.
  13. - Sự hỡnh thành và phõn bố dõn cư từ sau năm 1975: Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, thống nhất nước nhà, Đảng và Nhà nước đó cú những chủ trương, chính sách vận động đồng bào các DTTS cùng chung sức trong công cuộc xây dựng cuộc sống mới, đẩy mạnh sản xuất phát triển kinh tế, xó hội tiến hành cuộc vận động định canh định cư. Về văn hoá giáo dục, phát triển kinh tế trong vùng các DTTS, nhờ các chủ trương, chính sách phù hợp, cùng với sự cố gắng của cỏc ban, ngành cỏc huyện, xó và với sự nổ lực của bà con đồng bào các DTTS, những năm qua, bộ mặt kinh tế - xó hội của vựng đồng bào DTTS Bỡnh Phước đó cú nhiều biến chuyển tích cực, song cũng bộc lộ những khó khăn, thách thức trước yêu cầu phát triển toàn diện và bền vững. Sự phân bố dân cư của địa phương, thường theo những con sông, suối với thổ nhưỡng phù hợp với việc sản xuất nông nghiệp, có nước sinh hoạt và săn bắt hái lượm. Đồng bào thường ở rải rác từng sóc nhỏ, theo tộc người hoặc theo huyết thống, nhưng người S'tiêng thường cư trú chung nhiều thế hệ trong căn nhà dài, dưới sự điều khiển của một người lớn tuổi có kinh nghiệm và uy tín trong bộ tộc. Với phương thức trồng trọt thô sơ, quảng canh, phụ thuộc vào điều kiện khắc nghiệt của vùng rừng thiêng nước độc, cuộc sống của họ luôn bị đe dọa bởi bệnh tật, đói nghèo và thú dữ, mạng sống trở nên nhỏ nhoi trước thiên nhiên hùng vĩ, vừa bao la, vừa hung dữ. Cộng đồng DTTS không thể giải thích được thế giới xung quanh bằng tư duy khoa học nên họ cho rằng, thế giới này thuộc về các thần linh cai quản và điều khiển; đất đá, cây cối, dũng sụng, con suối, con Trăn, con Hổ, con Voi, con người… đều có linh hồn riêng, mà họ thường gọi là "cái ma" của nó. Từ đó họ luôn có niềm tin vào lực lượng siêu nhiên, dẫn tới tư tưởng sùng bái, cúng tế hỡnh thành yếu tố tớn ngưỡng, tôn giáo. Cuối năm 1976, qua cuộc vận động định canh định cư, đồng bào DTTS đó bỏ cỏch sống phõn tỏn trong nỳi rừng về sống tập trung thành từng cụm dõn cư, phum sóc xen kẽ hoặc bên cạnh các thôn của người Kinh. Theo số liệu thống kê, vào những năm 1978, 1979 tại huyện Phước Long có 25.328 người là đồng bào DTTS, chiếm 1/3 dân số của huyện, đông nhất là người S'tiêng với dân số là 20.402 người chiếm 80%. Huyện Lộc Ninh, vào năm 1979, DTTS là 11.479 người, chiếm 78% dân số làm lúa nước (ruộng) và
  14. sử dụng trâu bũ cày kộo một cỏch thành thạo, năng suất lao động cao, đời sống phần nào được cải thiện, cộng đồng người S'tiêng cũng chiếm phần đông. Tại huyện Đồng Phú, vào những năm này người DTTS có 3.317 người chủ yếu là người S'tiêng, Khmer chiếm 8,2% dân số của huyện. Huyện Bỡnh Long, DTTS là 14.000 người, chiếm 16% dân số toàn huyện, trong đó người S'tiêng 12.533 người, chiếm 89% dân số dân tộc toàn huyện. Bên cạnh những đặc điểm về phân bố dân cư, mật độ dân số giữa vùng đô thị và nông thôn cũng có sự chênh lệch nhau. Như huyện Phước Long là 97 người/km2; thị trấn Phước Bỡnh (Phước Long) là 62 người/km2; xó Đồng Nai (Bù Đăng) chỉ có 3 người/km2. Do đó việc phân bố lại dân cư, lao động để khai thác tiềm năng đất đai theo quy hoạch phát triển kinh tế xó hội và tiếp nhận dõn cư, lao động của các huyện là điều cần thiết, nên lúc bấy giờ dân số chung của tỉnh (Sông Bé) là 577.256 người, thỡ đến năm 1981 lên tới 678.600 người. Số DTTS của tỉnh Bỡnh Phước đó có biến động sâu sắc, cả về cơ học lẫn tự nhiên. Dưới thời Pháp, người S'tiêng cả nước có khoảng 50.000 người, đến thời Mỹ nguỵ (1967) chỉ cũn 40.000 người và cho đến ngày thống nhất đất nước, theo thống kê năm 1976, chỉ cũn 35.000 người. Có nhiều nguyên nhân để giải thích hiện tượng này, nhưng đáng kể là do cuộc chiến tranh ác liệt, do dịch bệnh, đói kéo dài triền miên, do hậu quả lâu đời của chính sách đàn áp mà chủ nghĩa thực dân đó thực hiện ở vựng nỳi tỉnh Bỡnh Phước dẫn đến tỷ lệ tử vong ở đồng bào DTTS rất cao. Sau giải phúng, tỡnh hỡnh dõn số đó biến đổi một cách nhanh chóng. Vào những năm 1982 – 1984, tỷ lệ gia tăng tự nhiên cao. Theo Cục Thống kê (Sông Bé), năm 1976 – 1981, tỷ lệ gia tăng tự nhiên là 2,39%, đến năm 1982 là 3,55%. Tỷ lệ sinh rất cao như người S'tiêng ở xó Thọ Sơn là 8,64%, tỷ lệ chết là 3,78%, nguyên nhân là do tập quán của đồng bào, vỡ dưới chế độ tộc quyền và phương thức canh tác nguyên thuỷ, sinh con đông, nhất là con gái sẽ được giàu có về của cải và lao động. Dân số trong cộng đồng dân tộc thiểu số của tỉnh Bỡnh Phước ngày càng phát triển nhanh, nói lên sự nâng cao về mức sống và điều kiện vệ sinh y tế ngày càng được bảo đảm. 1.1.3 Đặc điểm một số dân tộc thiểu số tiêu biểu trên địa bàn tỉnh Bỡnh Phước
  15. 1.1.3.1. Đặc điểm của người S'tiêng Người S'tiêng rất thạo việc săn bắt, làm rẫy, đồng thời nghề bắt cá, hái rau, lâm sản là nguồn thực phẩm thường ngày. Ở người S'tiêng, kỹ thuật rèn và bẫy thú rừng đó đạt đến trỡnh độ khá cao, nhất là nghệ thuật tạo lửa, dệt vải, đan lát . . . do dễ làm, lại sẵn có vật liệu trong thiên nhiên nên được duy trỡ cho đến ngày nay, được nhiều người ưa chuộng và sử dụng. Các lễ hội truyền thống của người S'tiêng, như lễ cầu mong lúa được mùa (lễ cầu mùa), S'tiêng Bù Lơ, gọi là "Prach Pa", được tổ chức vào lúc lúa ở tuổi chuẩn bị trỗ cờ. Nghi lễ có các bước cơ bản: Dựng một cây nêu lớn giữa rẫy, kèm theo có cây nêu nhỏ, hố rượu, một con heo hoặc một con gà, các cây nêu con được trang trí bông hoa chuốt bằng cây lồ ô thật nhuyễn. Sau đó rượu được hút ra đựng vào ống lồ ô lấy máu heo hoặc gà pha với rượu, máu heo hoặc gà cũn lại được bôi xung quanh thành viền nhỏ vào cây nêu, từ 3, 5 hoặc 7 vũng. Xong việc chuẩn bị, chủ rẫy bắt đầu khấn vái mời gọi hồn ông bà tổ tiên, các vị thần chứng giám, phù hộ và gọi vị thần lúa về ăn thịt uống rượu, tiếp sau, chủ rẫy cầm ống rượu được pha với máu đi vũng quanh rẩy, cả quanh kho lỳa. Lễ kết thúc bằng cuộc nhậu ăn uống. Theo quan niệm và kinh nghiệm, nếu năm nào con nhền nhện xanh có viền vàng đậu nhiều trờn bụng lỳa, trờn sàn kho lỳa thỡ năm đó được mùa lúa rất lớn, cũn năm nào, vào sáng sớm hiện lên cầu vũng liờn tục thỡ năm đó sẽ bị mất mùa, sẽ thiếu đói. Lễ hội đâm trâu, lễ hội cầu mưa, lễ hội phá bàu để có đất sản xuất…đều xuất phát từ đặc điểm của nền nông nghiệp lúa rẫy và trong suy nghĩ của người dân cần có sự che trở của lực lượng siêu nhiên, từ đó nó được hỡnh thành và lưu giữ những nét độc đáo, mang đậm sắc thái văn hoá truyền thống đến không thể thiếu được. Lễ hội được phong phú hơn, trang trọng hơn, cũn do cú cỏc hỡnh thức văn hoá nghệ thuật, là những câu hát, điệu múa, câu ca dao dân gian mang âm hưởng vui tươi, đoàn kết, mà không thể thiếu được trong những buổi lễ hội truyền thống của đồng bào S'tiêng. Người S'tiêng cũn cú những cổ vật như Xà lung, Cồng chiêng, Kèn, Sáo, Kèn sừng trâu phục vụ trong việc lễ hội. Cổ vật này ngay từ xa xưa có ý nghĩa thật đơn giản, là những công cụ phục vụ cho việc sản xuất nông nghiệp, như đuổi chim giữ lúa, đuổi thú
  16. rừng đừng phá nương rẫy hoa màu và luôn gắn liền với đời sống của đồng bào, ngày nay nó được lưu truyền, không thể thiếu trong các lễ hội, đám cưới, ma chay và các lễ hội văn hoá khác. Người S'tiêng, luôn bám đất, bám rừng nếu thực phẩm hàng ngày của họ là lá rừng, củ rừng là những bài thuốc rất có giá trị và cũng là thực phẩm trong bữa ăn hàng ngày. Những món ăn truyền thống của họ là lá nhíp, đọt mây, củ chụp, củ nần mà trong các buổi lễ hội ngày nay luôn được lưu giữ (Canh thụt, Canh bồi, Cơm ống). Ngoài ra, cũn cú loại rượu được chế biến từ các loại lá rừng, vỏ cây (lá thuốc) thêm một ít men rượu cũng được đặc chế từ các vỏ cây kéo. Loại rượu cần của các dân tộc thiểu số, kể các các dân tộc thiểu số phía Bắc, đều có đặc điểm chung, nhưng tuỳ theo mỗi vùng có thể dùng vào các lễ hội khác nhau, để mời đói khỏch quý đến nhà, hay dịp lễ hội truyền thống và dịp tết cổ truyền. Trong những ngày lễ hội, họ thường hát đối đáp nhau, mà S'tiêng Pù Piết và Mơnông gọi là Tăm Prất, S'tiêng Bù Lơ gọi là Sâm Prănh, S'tiêng Bù Đếh gọi là P'Đrâu. Hôn nhân gia đỡnh ở người S'tiêng theo chế độ phụ hệ và mẫu hệ. Tục Lệ - Luật Tục mẫu hệ, phụ hệ của người S'tiêng, Mơnông, trong cưới hỏi là: Con gái được cưới trả đủ của như lúc ông nội cưới bà nội, hoặc bố lúc cưới mẹ, giá trị của được trả được trừ dần vào lúc ở rể về thời gian. Trong hôn nhân gia đỡnh biểu hiện đặc trưng tộc người S'tiêng và cũng đồng thời đặc trưng của tổ chức xó hội của người S'tiêng cổ truyền, là xó hội được tổ chức trong vùng môi sinh khắc nghiệt của rừng già nhiệt đới. Chế độ phụ hệ của người S'tiêng được thiết lập dựa trên cơ sở những chức năng trọng yếu mà người nam giới phải đảm nhiệm từ bao đời nay, đó là người chồng là người chủ trỡ mọi cụng việc và tổ chức cỳng lễ trong gia đỡnh, phõn cụng lao động, dạy cho con cháu kỹ thuật săn bắn, kỹ thuật rèn và kỹ thuật canh tác lúa rẫy . . . Xó hội người S'tiêng là hệ thống kết hợp xó hội vi mụ và vĩ mụ rất chặt chẽ. Tr ước đây, mỗi sóc của tộc người S'tiêng có 1, 2 căn nhà rải rác, dần sau các gia đỡnh nhỏ kết hợp lại thành một gia đỡnh lớn cựng chung sống trong một căn nhà dài dưới sự điều khiển của một người đàn ông trưởng họ có uy tín, lớn tuổi và có kinh nghiệm sống. Bên cạnh những mặt tích cực, trong cộng đồng người S'tiêng cũn tồn tại những phong tục, tập quỏn lạc
  17. hậu cần phải được khắc phục, hoặc như tục sử dụng ngải độc, ma lai, các đám cưới, ma chay lóng phớ của cải và kỡm hóm sự phỏt triển chung của cộng đồng xó hội. 1.1.3.2. Đặc điểm của người Mơnông Người Mơnông ở tỉnh Bỡnh Phước là một bộ phận dân tộc Mơnông từ tỉnh Đăk Lăk chuyển đến, ngoài ra cũn có những nhóm chuyển từ Campuchia là tộc người mà người Campuchia gọi là Pnoong. Người Mơnông có ngôn ngữ thuộc hệ Môn - Kh'mer và rất gần gũi với tiếng nói của người S'tiêng. Vỡ vậy trờn vựng đất Bỡnh Phước giữa hai nhóm cư dân này có quan hệ rất chặt chẽ với nhau kể cả địa bàn cư trú. Song người Mơnông là cư dân duy nhất ở Việt Nam thành thạo việc săn bắt voi và thuần dưỡng voi rừng thành voi nhà, đó là đặc trưng của người Mơnông. Hôn nhân hỗn hợp giữa người Mơnông và người S'tiêng đó diễn ra từ rất lõu đời, từ đó có những thiết chế xó hội, nột văn hoá tương đồng nhau. Do đó, để phân biệt rừ nột giữa hai tộc người này là điều không phải dễ. 1.1.3.3. Đặc điểm của người Khmer Người Khmer ở Bỡnh Phước có ảnh hưởng nhất định đối với đời sống, ngôn ngữ, phong tục của người S'tiêng, nhưng không biến đổi được về mặt cấu trúc tộc người vốn chặt chẽ và có hệ thống xó hội cổ truyền của tộc người Khmer. Đặc trưng xó hội của người Khmer ở Bỡnh Phước được biểu hiện qua hệ thống cư trú, phum, sóc, tín ngưỡng chủ yếu là đạo Phật tiểu thừa và cấu trỳc xó hội của nền kinh tế tiểu nụng. Nếu người S'tiêng thường làm lúa rẫy, chăn nuôi trâu thỡ người Khmer lại chăn nuôi bũ làm phương tiện kéo xe, cày, bừa và làm lúa nước. Đó là đặc trưng của người Khmer nói chung và người Khmer Bỡnh Phước nói riêng. Qua quá trỡnh lịch sử, giao lưu văn hoá, thích ứng với điều kiện môi sinh, số đông người Khmer Bỡnh Phước trở lại việc canh tác lúa rẫy, vốn là hỡnh thức canh tỏc truyền thống của họ. Cũng như cộng đồng người Khmer đồng bằng Sông Cửu Long, đời sống văn hoá người Khmer Bỡnh Phước luôn gắn liền với tâm linh chùa chiền, đỡnh, miếu. Cũn văn hoá nghệ thuật, từ lâu họ đó cú những làn điệu múa, ca dao mang âm hưởng ngọt ngào và trang trọng, là tiếng hát lời ca, lời ru . . . như điệu múa hát Răm Vông, RôBan, Yukê, Lămthôn, mà mỗi điệu múa, lời hát đều có những trang phục sắc thái riêng. Rôban là
  18. hỡnh thức kịch mỳa đó cú mặt từ rất lõu đời; Yukê là hỡnh thức kịch được ra đời vào khoảng năm 1920 - 1930. Đặc biệt, người Khmer cũn có lễ hội cúng trăng (lễ Okom Bok, lễ hội Cholchnăm Thmây), đây là nét đặc trưng mang đậm nét văn hoá sắc thái của cộng đồng người Khmer. Cho tới nay, Bỡnh Phước là tỉnh miền núi Nam Tây Nguyên có 41 thành phần các dân tộc anh em cùng sinh sống, góp phần làm đa dạng phong phú kho tàng văn hoá của địa phương. Cùng dựa trên cơ sở khuynh hướng tâm linh, lễ hội được tổ chức một cách trang nghiêm và thành kính với những nghi thức, lễ tiết đó được quy định sẵn từ lâu đời. Bên cạnh những thể thức chung, cũn phải đảm bảo được một số tục lễ nhất định, mà chỉ nơi này có mà nơi khác không t ồn tại, chỉ dân tộc này có mà dân tộc khác không có. Cho dù có những sắc thái đặc trưng của mỗi thành phần dân tộc từ những nơi khác nhau, nhưng nay họ đó hội tụ về đây góp phần làm đa dạng phong phú của nền văn hoá đậm đà bản sắc của tỉnh nhà. 1.2. TèNH HèNH TễN GIÁO Ở VÙNG ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ TỈNH BèNH PHƯỚC Trước năm 1975, tỉnh Bỡnh Phước ngày nay ( gồm tỉnh Bỡnh Long và tỉnh Phước Long cũ) có 6 tôn giáo. Mỗi tụn giỏo cú sự thõm nhập, hỡnh thành và phát triển trong vùng đồng bào DTTS bằng cỏc hỡnh thức khỏc nhau. 1.2.1. Các tôn giáo cụ thể có tín đồ là người dân tộc thiểu số 1.2.1.1. Công giáo - Thời kỳ trước 1975 Đạo Công giáo có mặt ở Bỡnh Phước vào đầu thập niên 1930. Năm 1933, giáo họ Lộc Tấn được thành lập tại xó Lộc Tấn, huyện Lộc Ninh. Đến những năm cuối của thập kỷ 50, đầu thập kỷ 60, đạo Công giáo có mặt trên địa bàn toàn tỉnh Bỡnh Long, Phước Long. Tín đồ là những người tin theo Công giáo "theo Chúa vào Nam" năm 1954 và do di dân lập ấp chiến lược (của chế độ Ngô Đỡnh Diệm) đưa đến khai khẩn kinh tế và phục vụ cho âm mưu chính trị, nhằm mở rộng địa bàn tôn giáo làm lá chắn phía Tây Bắc cho Nguỵ quyền Sài Gũn.
  19. Đến năm 1975, Đạo Công giáo ở tỉnh Bỡnh Phước có 6 giáo xứ, giáo họ thuộc giỏo hạt Bỡnh Long, trực thuộc Toà Giám mục Phú Cường - tỉnh Bỡnh Dương; 12 giáo xứ, giáo họ thuộc giáo hạt Phước Long trực thuộc Toà Giám mục Ban Mê Thuột - tỉnh Đăk Lăk. Các chức sắc Công giáo giáo đó thâm nhập truyền đạo vào vùng đồng bào DTTS ở các huyện Bù Đăng, Phước Long, Lộc Ninh, nhưng đồng bào DTTS phản ứng quyết liệt, vỡ vậy chỉ phỏt triển được khoảng 2.500 tín đồ là người dân tộc S'tiêng, Mơnông. - Thời kỳ 1975-1990 Sau giải phúng, quỏ trỡnh truyền đạo phát triển tín đồ và ảnh hưởng của đạo Công giáo trong vùng đồng bào DTTS chững lại một thời gian dài. Đến năm 1985, giáo hội Công giáo mới chú ý đến khu vực đồng bào dân tộc thiểu số. - Thời kỳ 1990 đến nay Toàn tỉnh có 82.269 tín đồ, trong đó tín đồ là người DTTS có 12.428 người, chiếm hơn 15%, thuộc Giỏo hạt Bỡnh Long (Toà Giám mục Phú Cường) và Giáo hạt Phước Long (Toà Giám mục Ban Mê Thuột). Giỏo hạt Bỡnh Long hoạt động trên điạ bàn 4 huyện, là Bỡnh Long, Chơn Thành, Lộc Ninh, Bù Đốp, có 14 Giáo xứ, 4 Giáo họ với số tín đồ 23.263 người, được chăm sóc bởi 13 Linh mục, 12 tu sỹ và 12 cơ sở cầu nguyện trái pháp luật. Giáo hạt Phước Long hoạt động trên địa bàn 4 huyện, thị là huyện Phước Long, Bù Đăng, Đồng Phú và thị xó Đồng Xoài. Giáo hạt có 19 Linh mục, 25 tu sỹ hoạt động từ thiện, ở 18 Giáo xứ, 24 Giáo họ và 33 cơ sở cầu nguyện trái pháp luật, với số giáo dân 59.006 người. Cơ sở thờ tự của 2 Giáo hạt có 101, trong đó 56 cơ sở hợp pháp và 45 không hợp pháp. Trong những năm qua, hoạt động của đạo Công giáo nổi lên việc sai phạm có tính hệ thống của một số chức sắc thuộc Giáo hạt Phước Long, như việc chỉ đạo cho xây dựng, sửa chữa không xin phép; tổ chức lễ hội dân tộc đông người từ nhiều địa phương (không có truyền thống, không phải lễ hội tôn giáo); chỉ đạo bầu Ban hành giáo, Hội đồng giáo xứ không theo nguyên tắc, không được sự thống nhất của chính quyền; giăng
  20. panô, áp phích với nội dung huyễn hoặc, khôi phục các hội đoàn trước năm 1975 không đúng tính chất, không xin phép chính quyền và có thái độ hoạt động chống đối. Đứng đằng sau việc khiếu kiện đất đai (Giáo xứ Tõn Chõu, Bỡnh Long) của Hội đồng Giáo xứ. Bên cạnh đó, tỉnh có 19 tổ chức hội đoàn, với 5.527 hội viên Công giáo chưa quản lý được. 1.2.1.2. Phật giáo - Thời kỳ trước 1975 Phật giáo du nhập vào vùng đồng bào DTTS tỉnh Bỡnh Phước từ thế kỷ 17, theo chân những người Kh'me đi buôn bán và khai khẩn đất hoang, bên cạnh những người Hoa "Phản Thanh phục Minh" bị triều đỡnh nhà Thanh truy đuổi chạy sang Việt Nam được Chúa Nguyễn và sau này là triều đỡnh nhà Nguyễn cho phộp định cư tại khu vực miền Đông Nam bộ để khai hoang phục hoá. Địa điểm Phật giáo đặt chân đến Bỡnh Phước đầu tiên là tại khu vực Bỡnh Long. Tuy nhiờn, thời kỳ này đạo Phật chỉ phát triển ở cỏc dõn tộc này, cũn cỏc dõn tộc bản địa vẫn giữ nguyên hệ thống tín ngưỡng đa thần. - Thời kỳ 1975-1990 Cũng như Công giáo, Tin lành, Phật giáo đến những năm gần đây mới chú ý phát triển tín đồ người DTTS, đặc biệt chú ý đến người bản địa nhưng mức độ chậm hơn so với Công giáo, Tin lành. Việc lôi kéo tín đồ người DTTS, ngoài người Khme và người Hoa của các tổ chức, cá nhân Phật giáo diễn ra mạnh mẽ vào những năm cuối thế kỷ 20 cho đến hiện nay, đặc biệt ở khu vực Bù Đăng. Ở đây, việc lôi kéo tín đồ một phần nhằm lôi kéo lực lượng đông đảo làm hậu thuẫn trong việc tranh giành địa vị của cá nhân chức sắc tôn giáo đối với giáo hội Phật giáo địa phương, mặt khác để họ lợi dụng chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước đấu tranh với việc giải quyết mâu thuẫn tôn giáo của chính quyền các cấp. - Thời kỳ 1990 đến nay Đến nay, tỉnh Bỡnh Phước có 81.332 tín đồ Phật giáo. Trong đó, tín đồ là người DTTS có 16.069 người, chiếm hơn 19,7%, bao gồm 2 hệ phái Bắc tông và Nam tông. Tín đồ người DTTS chủ yếu theo Phật giáo tiểu thừa, gồm người Kh'me, S'tiêng. Một số ít người S'tiêng và người Hoa, Tày, Nùng theo Phật giáo Đại thừa.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2