LUẬN VĂN: quản lý nhà nước vừa đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa vừa thiết lập kỷ cương trong các hoạt động kinh tế, là điều kiện của ổn định và phát triển kinh tế
lượt xem 32
download
Tham khảo luận văn - đề án 'luận văn: quản lý nhà nước vừa đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa vừa thiết lập kỷ cương trong các hoạt động kinh tế, là điều kiện của ổn định và phát triển kinh tế', luận văn - báo cáo, kinh tế - thương mại phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: LUẬN VĂN: quản lý nhà nước vừa đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa vừa thiết lập kỷ cương trong các hoạt động kinh tế, là điều kiện của ổn định và phát triển kinh tế
- LUẬN VĂN: quản lý nhà nước vừa đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa vừa thiết lập kỷ cương trong các hoạt động kinh tế, là điều kiện của ổn định và phát triển kinh tế
- Lời nói đầu Sau hơn 15 năm thực hiện đường lối đổi mới toàn diện, đất nước ta đã vượt qua một giai đoạn thử thách gay go. Trong những hoàn cảnh hết sức phức tạp, khó khăn, nhân dân ta không những đứng vững mà còn vươn lên, đạt những thắng lợi nổi bật trên nhiều mặt. Để có được những kết quả đó không thể không kể đến vai trò kinh tế hết sức quan trọng của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Thực tế đã chứng minh điều khẳng định trên là hoàn toàn đúng đắn. Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, tình trạng đình đốn trong sản xuất, rối ren trong lưu thông được khắc phục. Kinh tế tăng trưởng nhanh và ổn định, nhịp độ tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân hàng năm thời kỳ 1991-1995 đạt 8,2%, lạm phát bị đẩy lùi từ 774,7% năm 1986 xuống còn 67,1% năm 1991; 12,7% năm 1995. Lương thực không những đủ ăn mà còn xuất khẩu được mỗi năm khoảng 2 triệu tấn gạo. Đời sống vật chất và tinh thần của đại bộ phận nhân dân được cải thiện. Lòng tin của quần chúng nhân dân với Đảng được củng cố. Bên cạnh đó, chúng ta cũng còn nhiều vấn đề tồn đọng và yếu kém cần giải quyết: nền kinh tế của đát nước còn nghèo và chậm phát triển, tình hình xã hội còn nhiều tiêu cực, quản lý nhà nước còn nhiều thiếu sót, cồng kềnh. Tuy vậy, đến nay, thế và lực của nước ta đã có sự biến đổi rõ rệt về chất. Đó là do chúng ta đã vận dụng cơ chế thị trường một cách đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam. Từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung mang nặng tính hiện vật, tự cung tự cấp, vận hành theo cơ chế chỉ huy chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, nền kinh tế nước ta phải trải qua thời kỳ quá độ - đó là thời kỳ cơ chế cũ chưa hoàn toàn mất đi, cơ chế mới chưa thực sự ra đời. Vì vậy chúng ta phải đối mặt với rất nhiều khó khăn và thử thách. Trong điều kiện đó, vai trò kinh tế của nhà nước cực kỳ quan trọng. Lý do để nhà nước can thiệp vào nền kinh tế là do có những trục trặc của thị trường. Đôi khi thị trường không phân bố các nguồn lực một cách có hiệu quả và sự can thiệp của chính phủ có thể cải thiện các hoạt động kinh tế. Chính phủ đặt ra các qui định về luật pháp và trong việc đảm bảo tài chính cho mình, thông qua đánh thuế và vay mượn, chính phủ gây một ảnh hưởng rất lớn tới giá cả, lãi xuất và
- sản xuất. Tuy nhiên, chính phủ cũng không thể kiểm soát nền kinh tế một cách hoàn hảo, nhưng chính phủ có thể kiểm soát phần lớn tổng chi và lượng tiền trong nền kinh tế do đó chính phủ sẽ có những quyết định đúng đắn vào những thời điểm cần thiết. Với nước ta, quản lý nhà nước vừa đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa vừa thiết lập kỷ cương trong các hoạt động kinh tế, là điều kiện của ổn định và phát triển kinh tế.
- nội dung 1. Tính tất yếu khách quan vai trò quản lý vĩ mô của nhà nước đối với nền kinh tế Để tìm hiểu vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay trước hết chúng ta phảI hiểu kinh tế thị trường là cơ chế tự điều tiết nền kinh tế hàng hoá do sự tác động của các quy luật kinh tế vốn có của nó. Cơ chế đó giải quyết ba vấn đề cơ bản của tổ chức kinh tế là gì, như thế nào và cho ai. Cơ chế đó có tác dụng giải phóng mọi năng lực của xã hội, huy động mọi tiềm năng của ngành và thanh phần kinh tế. Cơ chế thị trường đã có tác dụng tích cực to lớn đến sự phát triển kinh tế - xã hội. Nó không những không là nhân tố đối lập mà còn là nhân tố khách quan cần thiết cho xây dựng và phát triển đất nước theo con đường XHCN. Tuy vậy bản thân nền kinh tế thị trường cũngchứa đựng những khuyết tật. Có những mục tiêu xã hội mà dù cơ chế thị trường có hoạt động tốt cũng không thể đạt được. Sự tác động của cơ chế thị trường sẽ dẫn tới sự phân hoá giàu nghèo ngày càng sâu sắc, số người thất nghiệp ngày càng tăng, công bằng xã hội không được đảm bảo. . . như vậy bản thân nền kinh tế thị trường không thể giải quyết đồng thời mục tiêu phát triển và muc tiêu công bằng xã hội. Vì vậy tất cả các nước mà nền kinh tế do cơ chế thị trường điều tiết đều có sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế nhằm phát huy những ưu điểm và khắc phục những khuyết điểm của nó, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển ổn định, hiệu quả và đạt được sự công bằng xã hội. Trong nền kinh tế thị trường nhà nước thực hiện sự định hướng, tạo lập các cân đối vĩ mô, ngăn nhừa những đột biến xấu, điều chỉnh thông qua các công cụ chính sách pháp luật đảm bảo về mặt pháp lý sự bình đẳng đối vơí mọi thành phần kinh tế. Vì vậy sự tác động của nhà nước- một chủ thể có khả năng nhận thức và vận dụng các quy luật khách quan vào nền kinh tế là một tất yếu của sự phát triển kinh tế và xã hội. Thiếu sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế để cho nền kinh tế thị trường tự do hoạt động thì việc điều hành nền kinh tế nước ta sẽ không có hiệu quả.
- 2. Nền kinh tế thị trường XHCN và vai trò kinh tế của nhà nước ở Việt Nam. Sự cần thiết phải chuyển sang nền kinh tế hàng háo nhiều thành phần theo định hướng XH vận động theo cơ chế thị trường. Kinh tế hàng hoá ra đời và tồn tại trong nhiều hình thái kinh tế - xã hội gắn liền với hai điều kiện tiền đề là: sự phân công lao động xã hội và các hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất và sản phẩm lao động. ở nước ta, những điều kiện chung của kinh tế hàng hoá vẫn còn nên sự tồn tại của kinh tế hàng hoá là một tất yếu khách quan. Thứ nhất, phân công lao động xã hội chẳng những không mất đi, trái lạI càng phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Sự chuyên môn hoá và hợp tác hoá lao động đã vượt ra khỏi phạm vi quốc gia trở thành phân công lao động trên phạm vi quốc tế. Thứ hai, nền kinh tế nước ta đang tồn tạI nhiều thành phần kinh tế. Hơn nữa, trình độ xã hội hoá giữa các ngành, các đơn vị sản xuất kinh tế trong cùng một thành phần kinh tế vẫn chưa đều nhau. Do vậy, việc hạch toán kinh doanh, phân phối và trao đổi sản phẩm lao động tát yếu phải thông qua hình thá hàng hoá- tiền tệ để thực hiện các mối quan hệ kinh tế, đảm bảo lợi ích kinh tế giữa các tổ chức kinh tế với người lao động và giữa các tổ chức kinh tế với nhau. Như vậy, nếu xuất phát từ ý muốn chủ quan thu hẹp hay cản trở quá triònh tiền tệ hoá các mối quan hệ kinh tế tring giai đoạn lịch sử hiện nay bằng các hình thức khác nhau (sớm xoá bỏ hay cản trở sự phát triển các thành phần kinh tế, quản lý bằng kế hoạch tập chung quan liêu bao cấp. . . ) sẽ kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế nước ta. Do đó chúng ta cần phải chủ động có chính sách phù hợp để khuyến khích sự phát triển của các thanh phần kinh tế một cách đúng đắn, đúng hướng theo nguyên tắc tự nhiên của kinh tế: có nhu cầu xã hội thì tất yếu có người đáp ứng nhu cầu đó và trong cuộc cạnh tranh vươn tới thoả mãn tốt hơn và tốt nhất nhu cầu xã hội thì người nđó sẽ tồn tại và phát triển. Nền kinh tế thị trường theo cơ chế hàng hoá có ưu điểm là thúc đẩy quá trình xã hội hoá nhanh chóng làm cho sự phân công lao động xã hội, chuyên môn hoá sản xuất ngày càng sâu sắc, hình thành các mối quan hệ kinh tế và phụ thuộc lẫn nhau giữa các
- doanh nghiệp và người sản xuất tạo tiền đề cho sự hợp tác ngày càng chặt chẽ. Nó thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Dưới tác động của các quy luật kinh tế buộc người sản xuất phải nâng cao năng xuất lao động, cải tiến kỹ thuật, tiết kiệm, nâng cao năng xuất lao động, cải tiến chất lượng và hình thức mẫu mã hàng hoá cho phù hợp với nhu cầu xã hội, tìm mọi cách đưa ra thị trường những loại hàng hoá mới thích hợp với thị hiếu người tiêu dùng. Mặt khác, nền kinh tế hàng hoá vận hành theo cơ chế thị trường còn thúc đẩy quá trình tích tụ tập trung sản xuất, mở rộng giao lưu kinh tế giữa các nước và hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Nó giải phóng các mối quan hệ kinh tế ra khỏi sự chói buộc của nền sản xuất tạo những điều kiện cần thiết cho việc phát triển sản xuất ở trình độ cao. Vì vậy, ở Việt Nam kinh tế hàng hoá mà đảng ta chủ trương xây dựng và phát triển trong thời kỳ quá độ lên CNXH là :”nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa vận động theo cơ chế thị trường có sự quản ký của nhà nước”(văn kiện ĐạI hội VII). Từ thực tiễn hơn 15 năm đổi mới, ĐạI hội VIII của Đảng đã khẳng định rằng cơ chế thị trường đã phát huy tác dụng tích cực, to lớn đến sự phát triển kinh tế -xã hội. * Đặc trưng của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam Một là, từng bước thực hiện những quá trình mang tính quy luật của bước chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của nhà nước với tự do hoá giá cả, tự do hoá thương mại là khâu trung tâm đột phá từng bước tiến tới cơ chế thị trường đích thực. Đặc điểm này phát huy vai trò điều tiết của thị trường, hình thành thị trường cạnh tranh, làm cho hàng hoá được lưu thông thông suốt, cung cầu được cân đối, thoát khỏi tình trạng khủng hoảngthiếu, giá cả ổn định dần, lạm phát được ngăn chặn. Góp phần giảI phóng lực lượng sản xuất. Phát huy tính tự chủ, sáng tạo của hộ kinh tế và chủ doanh nghiệp. Phần lớn các doanh nghiệp nhà nước cũng được giảI phóng khỏi các chỉ tiêu pháp lệnh để thích ứng theo nhu cầu của thị trường. Cơ chế này cũng thúc đẩy việc phải sử lý những vấn đề mấu chốt làm đảo lộn cả hệ thống tư duy và quan điểm kinh tế cũ như vấn đề sở hưu, thừa nhận và đánh giá cao những thành tựu của kinh tế nhiều thành phần, chuyển ntừ phân
- biệt đối xử với kinh tế tư nhân sang đối xử bình bẳng, đồng thời cũng xác định những biện pháp nâng cao hiệu quả khu vực kinh tế tư doanh cho phù hợp với thực tiễn của nước ta. Cơ chế tài chính tiền tệ, giá cả, tỷ giá được hình thành thông qua thị trường đã tạo ra bước ngoặt trong cơ cấu kinh tế. Hai là, cơ chế thị trường còn thiếu đồng bộ, mang nhiều yếu tố tự phát, rối loạn. Đó là sản phẩm của nền kinh tế sản xuất nhỏ, bộ máy quản lý của nhà nước còn yếu kém, tình trạng quan liêu thiếu hiểu biết, thậm chí trì trệ, bảo thủ trước bước ngoặt chuyển đổi kinh tế. Thể chế thị trường chưa toạ môi trường ổn địnhvà an toàn cho sản xuất kinh doanh đặc biệt là những yếu kém trong thể chế tàI chính tiền tệ, tín dụng đang là lực cản của quá trình chuyển đổi. Cơ chế thị trường còn thiêu đồng bộ. Sự chuyển biến khá mạnh mẽ trên thị trường hàng hoá và dịch vụ trong khi đó lại có sự lạc hậu khá lớn trong thị trường các yếu tố sản xuất. Thị trường chấp nhận tự do kinh doanh theo luật pháp nhưng lại chưa giải quyết những tiền đề cơ bản cho sự tự do về sở hữu. Đối với doanh nghiệp nhà nước chưa tính được quyền sở hữu với quyền sử dụng về vốn,tài sản, lao độngvà sự hình thành và vận động của nền kinh tế thị trường còn mang nhiều yếu tố tự phát, cơ chế vận hành thô sơ tạo điều kiện cho kiểu làm ăn bất chính, cơ chế quản ký đổi mới thiếu triệt để, làm phát sinh, phát triển nhiều tệ nạn tham nhũng, các mặt tiêu cực của thị trường. Ba là, cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước trong nền kinh tế định hướng XHCN là vấn đề hoàn toàn mới mẻ, chưa có mô hình vạch sẵn. do vậy không thể ngay từ đầu hình dung ra toàn bộ các chi tiết của mô hình thị trường, cũng không vạch ngay ra một lịch trình cứng nhắc của bước chuyển đổi mà phải thực hiện cơ chế thị trường vừa tổng kết để tiếp tục hoàn thiện. Việc chuyển từng bước sang cơ chế thị trường cho phù hợp với hoàn cảnh lịch sử và các điều kiện, chính trị, kinh tế- xã hội nước ta. Xuất phát từ đặc điểm kinh tế trong nước và quan điểm, quan hệ kinh tế với bên ngoài, chúng ta đã áp dụng cơ chế thị trường tưng bước. Đến nay chúng ta đã có những yếu tố cơ bản của cơ chế thị trường dù chưa đầy đủ và hoàn thiện. Điều quan trọng là cơ chế thị trường đựơc nhân dân đồng tình, ủng hộ và đã phát huy tác dụng trong mọi mặt của đời sống kinh tế.
- Bốn là, chúng ta chủ trương chuyển sang cơ chế thị trường trên cơ sở ổn định chính trị, lấy ổn định chính trị làm tiền đề và điều kiện cho cải cách kinh tế, mặt khác cũng nhận thức rõ phải đổi mới mạnh mẽ trong lĩnh vực hành chính trên cơ sở đổi mới quản lý của nhà nước, nâng cao chất lượng, hiệu quả cho phù hợp với điều kiện kinh tế thị trường tiếp tục ổn dịnh chính trị đưa cải cách tiến lên những bước phát triển mới. Ngay từ đầu, chúng ta đã khẳng định định hướng xã hội chủ nghĩa là không thay đổi, tuy nhiên đã có những nhận thức mới về CNXH, khẳng định CNXH có thể sử dụng các công cụ phổ biến mà chủ nghĩa tư bản đã từng sử dụng như: thị trường, quy luật giá trị, quan hệ hàng tiền. . . Xuất phát từ thực tiễn thị trường nước ta đang trong bước hình thành và phát triển còn những yếu tố mất ổn định nền kinh tế nhiều thành phần nên đã không chủ trương tư nhân hoá tràn lan mà trái lại chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần và xây dựng kinh tế quốc doanh thành thực lực làm chỗ dựa của nhà nước ở các khâu và lĩnh vực then chốt để ổn định và định hướng thị trường. Mặc dù còn nhiều thiếu sót và yếu kém nhất là trong điều hành kinh tế vĩ mô và gần đây có nan tham nhũng khá phổ biến trong bộ máy quản lý nhà nước các cấp nhưng nhìn chung tính ổn định và hoạt đông theo đường lối đổi mới tiến tới một nhà nước pháp quyền là nhân tố quan trọng đảm bảo cho thành công của công cuộc cảI cách. Đảng ta cũng khẳng định vai trò của nhà nước trong việc đảm bảo các chính sách xã hội, xử lý hàI hoà giữa tăng trưởng kinh tế và cân bằng, ổn định giữa phát triển kinh tế với thực hiện các chính sách xã hội và công bằng xã hội. Cơ chế thị trường hướng tới của chúng ta là:" Thể chế kinh tế mà trong đó thị trường và các quan hệ thị trương ngày càng đóng vai trò quyết định đôi với sản xuất kinh doanh và phân phối tài nguyên quốc gia dưới sự quản lý vĩ mô của nhà nước, nền kinh tế nhiều thành phần thông qua cạnh tranh,liên kết, hợp tác có trình độ xã hội hoá cao, thúc đẩy sự vận hành theo các quy luật kinh tế khách quan và các chính sách kinh tế phù hợp đảm bảo thị trường thống nhất, mở rộng phục vụ các mục tiêu tăng trưởng hiệu quả, cân bằng và ổn định, nhà nước dùng luật pháp, kế hoạch định hướng và chính sách kinh tế dẫn dắt thị trường phát triển lành mạnh, dùng chính sách phân phối và điều tiết để đảm bảo phúc lợi cho toàn đân và thực hiện công bằng xã hội ( cơ chế thị trường- vat trò kinh tế của nhà nước- NXB Thống kê- 1994). Đó là thể chế kinh tế của những chủ thể tự chủ, tự do kinh doanh theo pháp luật, các thành phần kinh tế
- vừa cạnh tranh vừa liên kết hợp tác và phát triển đạt trình độ hoá thương mại và canh tranh tự điều chỉnh sản xuất kinh doanh và cung cầu hàng hoá. Trong điều hành các hoạt động kinh tế cần hạn chế tối đa những mệnh lệnh hành chính để cho các hoạt động thị trường được diễn ra chủ yếu dựa trên sự hướng dẫn của các quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh đảm bảo nguyên tắc vận hành chủ yếu của nền kinh tế là nguyên tắc thị trường. Không xem các quan hệ thị trường hoạt động theo các quy luật khách quan một cách độc lập hoàn toàn, biệt lập với kế hoạch định hướng và các chính sách kinh tế của nhà nước. Mọi yếu tố sản xuất phảI đi vào thị trường. Đây là đặc trưng chủ yếu của kinh tế thị trường, đối với nước ta đây còn là điiều kiện cơ bản để nền kinh tế thị trường vận hành bình thường. Trên đây là những đặc trưng cơ bản nhất của kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện tạI và trong tương lai. Những đặc trưng này kích thích hoạt động của các chủ thể kinh tế, tạo đIũu kiện thuận lợi cho sự hoạt động tự do của họ làm cho nền kinh tế phát triển năng động, huy động được nguồn lực xã hội. Cạnh tranh buộc những người sản xuất giảm hao phí lao động cá biệt xuống mức thấp nhất bằng cách áp dụng kỹ thuật và công nghệ mới vào sản xuất, thúc đẩy lực lơựng ản xuất phát triển, nâng cao năng xuất lao động, chất lượng hàng hoá. Hơn nữa cơ chế thị trường mềm dẻo hơn. Nhà nước có khả năng thích nghi cao hơn khi những điều kiện kinh tế thay đổi, thích ứng kịp thời giữa sản xuất với nhu cầu xã hội. Bên cạnh đó cơ chế thị trường cũng có nhiều khuyết tật. Nó chỉ thể hiện đầy đủ khi có sự kiểm soát của cạnh tranh hoàn hảo. Các doanh nghiệp có thể vì lợi nhuận mà lạm dụng tài nguyên của xã hội gây ô nhiễm môi trường. Sự tác động của cơ chế thị trường dẫn tới sự phân hoá giàu nghèo, lạm phát, bùng nổ dân số, thất nghiệp gia tăng. * Vai trò kinh tế của nhà nước trong nền kinh tế thị trường Trong lĩnh vực kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ sở hữu đối với tài sản quốc gia. Các doanh nghiệp quốc doanh nhà nước giao quyền sử dụng lâu dài các tư liệu sản xuất cho tập thể lao động cá nhân theo chính sách và pháp luật. Các nguồn vốn ngân sách dự chữ quốc gia, các tổ chức kinh tế quan trọng ở phần vĩ
- mô thuộc phần quản lý của nhà nước. Như vậy nhà nước vừa nắm quyền lực về chính trị vừa nắm quyền lực về kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường, nhà nước sử dụng quyền lực kinh tế - chính trị của mình để tự do hoá giá cả, tự do hoá thương mại nền kinh tế. Xoá bỏ tình trạng độc quyền và xây dựng các đạo luật chống độc quyền bằng cách tạo sự cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp. Nhà nước là người đảm nhiệm và duy trì vai trò thiết lập và duy trì vai trò quyền sở hữa các quyèen lực kinh tế theo hướng xác định rõ quyền sở hữu đích thực của công dân, doanh nghiệp, tập thể, tư nhân và nhà nước. Nhà nước có nhiệm vụ phát huy ưu đIúm và khắc phục những khuyết điểm của cơ chế thị trường. Với nước ta, quản lý nhà nước vừa đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa vừa là điều kiên ổn định để phát triển kinh tế- xã hội. Điều đó đòi hỏi nhà nước ta phải đổi mới hơn nữa, nhận thức rõ vai trò của mình trong điều kiện mới, đặc biệt thay đổi chất lượng, tác phong chỉ huy mệnh lệnh sang hỗ trợ, tạo điều kiện cho thị trường phát triển, đưa bộ máy thoát khỏi tình trạng"cửa quan” và nạn tham nhũng. Điều đó nói lên tầm quan trọng của nhà nước XHCN trong hoạt động thị trường ở nước ta. 3. Mục tiêu, chức năng và công cụ quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước. * Mục tiêu quản lý kinh tế của nhà nước là nhằm ổn định và phát triển kinh tế, phát huy ưu thế, khắc phục khuyết tật của cơ chế thị trường, can thiệp, điều tiết nền kinh tế thị trường để ổn định và tăng trưởng giúp cho nền kinh tế thị trường đi theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa- con đường mà Đảng và Nhà nước ta đã sáng suốt lựa chọn. * Chức năng quản lý kinh tế của nhà nước. Vai trò của nhà nước ta trong quản lý kinh tế thị trường rất quan trọng. Vai trò đó được thực hiện qua các chức năng kinh tế của nó. Thứ nhất, nhà nứơc phải đảm bảo ổn định chính tri, xã hội và thiết lập khuôn khổ luật pháp để tạo ra những điều kiện cần thiết cho hoạt động kinh tế, nhà nước tạo ra hành lang luật pháp cho hoạt độngkinh tế bằng cách đặt ra những điều luật cơ bản về
- quyền sở hữu tài sản và hoạt động của các doanh nghiệp. Khuôn khổ luật pháp mà mà nước thiết lập vó tác dụng sâu sắc tới các hành vi kinh tế của con người và cả bản thân chính phủ. Thứ hai, là điều tiết kinh tế để đảm bảo cho nền kinh tế thị trường phát triển ổn định. Nền kinh tế thị trường khó tránh khỏi bị chấn động bởi các cuộc khủng hoảng kinh tế mà đều phảI trải qua các chu kỳ kinh doanh, tức là các giao động lên xuống về mức độ thất ngiệp và lạm phát. nhà nước cần cố gắng làm dịu những giao động lên xuống chu kỳ kinh doanh thông qua chương trình hoá kinh tế, chính sách kinh tế và chính sách tiền tệ. Chẳng hạn nhà nước có thể giảm thiểu trong cơn suy thoái để tăng chi tiêu dân chủ nhờ đó sẽ nâng GDP. Ngân hàng trung ương có thể" nới lỏng tiền tệ”. Vì vậy thông qua chính sách tài chính và chính sách tiền tệ, nhà nước cố gắng ổn định nền kinh tế, duy trì nền kinh tế càng sát càng tốt đối với tình trạng đầy đủ việc làm và lạm phát thấp. Nhà nước không thể kiểm soát nền kinh tế một cách hoàn hảo - đó là điều tất yếu, nếu không thì chúng ta không phải chứng kiến những suy thoái với lạm phát. Thứ ba, là đảm bảo cho nền kinh tế hoạt động có hiệu quả. Các tác động bên ngoài là một trong những nguyên nhân dẫn đến tính kém hiệu quả của hoạt động thị trường. Các tổ chức kinh tế đặt lợi nhuận lên hàng đầu, vì thế mà họ có thể lạm dụng tàI nguên xã hội, gây ô nhiễm môI trường, để lạI những hậu quả nặng nề cho xãhội. Khi đó chính phủ co thể buộc các doanh nghiệp bồi thường thiẹt hạI do họ gây ra cho môI trường sống của con người. Sự can thiệp của chính phủ nhằm ngăn chặn những tác động của con người nhằm nâng cao hiệu quả. Một nguyên nhân khác làm giảm tính hiệu quả là sự tác động của độc quyền. Các tổ chức độc quyền tìm mọi cách để tăng giá, nhờ đó tăng lợi nhuận. Vì vậy với họ lợi nhuận là trên hết. Do dó nên họ cố gắng để đạt lợi nhuận cao nhất. Nền kinh tế được thúc đẩy bới cạnh tranh hoàn hảo sẽ đạt được hiệu quả cao, nhưng cạnh tranh sẽ làm hạn chế khả năng đạt lợi nhuận độc quyền nên các doanh nghiệp thường cố gắng làm giảm cạnh tranh. Vì vậy nhà nước có nhiệm vụ rất cơ bản là bảo vệ cạnh tranh và hống độc quyền để nâng cao tính hiệu quả của hoạt động thị trường.
- Cuối cùng, để đảm bảo tính hiệu quả thì nhà nước phải sản xuất ra hàng hoá công cộng, đảm bảo xây dựng kết cấu hạ tầng cho nền kinh tế, thực hiện công bằng xã hội. Chúng ta biết rằng, cơ chế thị trường là cơ chế tốt nhất để điều tiết nền kinh tế một cách hiệu quả song hoạt động của cơ chế thị trường không tính đến yếu tố nhân đạo và xã hội. không giải quyết được đồng thời mục tiêu phát triển kinh tế và mục tiêu công bằng tiến bộ xã hội. Việc phân phối và sử dụng tối ưu các nguồn lực không tự động mang lại một sự phân phối thu nhập tốt nhất. Sự can thiệp của nhà nước nhằm làm cho thu nhập được phân phối công bằng, bảo vệ các thành viên của xã hội, chống lại những khó khăn về kinh tế, nâng cao mức sống của các nhóm dân cư có thu nhập thấp nhất. Điều đó được thực hiện thông qua chính sách phân phối, bảo hiểm xã hội và phúc lợi xã hội. Trên đây là tất cả các chức năng kinh tế của nhà nước. bên cạnh đó, trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nhà nước ta còn có các chức năng quản lý vĩ mô: Thứ nhất, nhà nước tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh tế như: đảm bảo sự ổn định về chính trị, xã hội thiết lập khuôn khổ luật pháp thống nhất, có hệ thống chính sách nhất quán tạo môi trường ổn định và thuận lợi cho giới kinh doanh làm ăn có hiệu quả. Thứ hai, là định hướng cho sự phát triển, trực tiếp đầu tư vào một số lĩnh vực để đưa nền kinh tế đi đúng hướng, giảm lạm phát, chống khủng hoảng, ngăn ngừa những đột biến xấu trong nền kinh tế. Thứ ba, là xây dưng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội tạo nền móng vững chắc cho sự phát triển kinh tế. Thứ tư, nhà nước quản lý tài sản công, kiểm kê kiểm soát các hoạt động kinh tế, xã hội, thực hiện đúng chức năng quản lý nhà nước về kinh tế và chức năng chủ sở hữu tài sản công. Các bộ các cấp chính quyền không can thiệp vào chức năng quản trị kinh doanh và tự chủ của các doanh nghiệp.
- Thứ năm, là khắc phục,đẩy lùi các mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, phân phối thu nhập một cách công bằng, tăng trưởng kinh tế gắn với cải thiện đời sống nhân dân, tiến bộ và công bằng xã hội. Với các chức năng như trên, chúng ta có thể khẳng định rằng việc tham gia của nhà nước vào quản lý kinh tế là một tất yếu khách quan và hết sức cần thiết. Hệ thống công cụ quản lý ở nước ta: Để hoàn thành các chức năng quản lý của mình, nhà nước cần phải có hệ thống công cụ quản lý. Đối với mô hình kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước chúng ta không thể nào dùng các công cụ quản lý trực tiếp vì thị trường không chựu áp đặt bất cứ một ý đồ nào không phù hợp với xu hướng vận động của quan hệ cung cầu - giá cả thị trường chỉ có thể hoạt dộng khi tât cả quan hệ kinh tế được tiền tệ hoá, thương mại hoá và tự do hoá. Mặt khác khi họ nhận thấy lợi ích của mình, khi đó họ sẽ tợ giác hoạt động mà không cần sợ giáo dục, thuyết phục hay bất cứ một sự cưỡng bức nào. Chính vì vậy mà họ có thể vì lợi ích riêng mà chà đạp lên lợi ích chung cho nên biện pháp hành chính vẫn rất cần thiết song không phải là sợ can thiệp thô bạo mà quyền lực hành chính cần phải được thể chế hoá thành pháp luật. Hệ thống công cụ quản lý có ba yếu tố cơ bản kế hoạch hoá định hướng, pháp luật và hệ thống các chính sách,công cụ kinh tế. Trước hết, kế hoạch hoá là quá trình nhận thức và vận dụng tổng hợp các quy luật khách quan, trước hết là các quy luật kinh tế trong đó có các quy luật của thị trường để xây dựng và thực hiện các kế hoạch phát triển kinh tế và xã hội [Giáo trình kinh tế chính trị tập II - ĐHKTQD] kế hoạch hoá là một trong những công củtọng yếu thực hiện chính sách kinh tế của nhà nước hướng đến sự phát triển sản xuất để thoả mãn tốt hơn nhu cầu vật chất và văn hoá của nhân dân. Nhờ có kế hoạch hoá mà chính phủ có thể phối hợp hoạt động của các doanh nghiệp,các bộ,các nghành, các địa phương và cũng nhờ có hế hoạch mà nhà nước có thể quản lý sản xuất xã hội, điều chỉnh sản xuất, phân phối và chao đổi của cải vật chất. Kế hoạch là công cụ duy nhất để chính phủ có thể chuyển tải nội dung, đường lối, chính sách,trong mô hình kinh tế tập trung, công cụ kế hoạch hoá đã được sử dụng một cách không thành công. Khi chuyển sang cơ chế mới, kế hoạch vẫn là một công cụ
- đóng vai trò quan trọng nhưng vẫn phải đổi mới nó cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Kế hoạch trong cơ chế mới không phải là áp đặt mà là định hướng và thực hiện theo dự án. Chất lượng của kế hoạch hoá phụ thuộc vào mưc độ xã hội hoá. Kế hoạch chỉ phù hợp với hiện thực phát triển kinh tế khi vận dụng đứng đắn tổng hợp các quy luật khách quan tronh quá trình xây dựng chúng. Nội dung cơ bản của kê hoạch hoá là tạo ra những cân đối trong nền kinh tế cũng như trong sự phát triển xã hội nói chung. Việc tạo lập những cân đối là cần thiết cho sự phát triển có hiệu quả của nền kinh tế. Công cụ thứ 2 của nhà nước là pháp luật : Quản lý nhà nước trong nền kinh tế thị trường chủ yếu bằng pháp luật. Hệ thống pháp luật về kinh tế tạo thành hành lang an toàn cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, bảo đảm kỷ cương cho tất cả các hoạt động sản xuất kinh tế. Do đó cần có pháp luật đồng bộ,thống nhất và từng bước hoàn chỉnh, khắc phục tình trạnh thiếu luật pháp,còn nhiều kẽ hở trong quản lý. Đó là nguyên nhân quan trọng của những hành vi lạm dụng, tiêu cực, tham nhũng, buôn lậu. . . Làm rối loạn các hoạt động kinh tế. Các chiến lược pháp triển kinh tế kế hoạch hoá định hướng và các chính sách kinh tế chỉ có thể đi vào cuộc sống khi nó được thể chế hoá thành pháp luật. Trong nền kinh tế thị trương có sự quản lý của nhà nước, pháp luật thể hiện vai trò của nó trên 2 phương diện. Thứ nhất, pháp luật là công cụ cướng chế hành vi của các doanh nghiệp nếu như hoạt động sản xuất kinh doanh của họ có thể làmm tổn hại đến lợi ích của toàn xã hội. Thứ hai, pháp luật là công cụ tạo ra môi trường tự do kinh doanh,tự do cạnh tranh lành mạnh cho các doanh nghiệp bởi vì nhờ có pháp luật mà các doanh nghiệp biết được cái gì được làm và không được làm, cái gì được làm thì sẽ được pháp luật bảo vệ. Pháp luật phát triển cùng với sự phát triển của hệ thống chính trị, xã hội của thị trường. Từng bước chuyển đổi cơ chế quản lý, đồng thời với việc tích cực xây dựng đầy đủ các bộ luật chúng ta cần coi trọng những văn bản pháp luật đơn hành trong nền kinh tế. Công cụ cuối cùng là các chính sách kinh tế. Hệ thống các chính sách và công cụ kinh tế sẽ giúp nhà nước điều khiển hoạt động của các doanh nghiệp. Mỗi chính sách kinh tế là một hành lang hướng dân hoạt động đầu tư mở rộng phát triển sản xuất, hướng dẫn các doanh nghiệp hoạt độnh phù hợp với lợi ích của toàn xã hôi. Trong nền
- kinh tế thị trường, chính sách kinh tế là những công cụ cực kỳ sắc bén và trước hết là chính sách tài chính, tiền tệ, tín dụng, giá cả, thuế và đầu tư. Sự ổn định giá cả có tác dụng trực tiếp nhất đến hoạt động của thị trường. Việc thực hiện giá thị trường, hình thành thị trường thống nhất trong nước gắn với thị trường nước ngoài là một điều then chốt cho sự ra đời của cơ chế quản lý mới. Việc xoá bỏ bao cấp trong vốn, tín dụng đối với các doanh nghiệp nhà nước, tiền tệ hoá tiền lương, thu nhập,điều chỉnh lãi xuất hợp lý hơn và từng bước kìm chế lạm phát là thắng lợi rõ nét nhất trong quản lý kinh tế ở nước ta từ sau đại hội VI đến nay. Vấn đề cấp bách hiện nay là ổn định tài chính, tiền tệ, duy trì, ổn định mức lạm phát như hiện nay đảm bảo sức mua thực tế của tiền lương,giảm bất chắc về mặt bằng giá đối với các nhà đầu tư. Việc điều hoà khối lương tiền tệ cần thiết trong lưu thông chuyển từ cách ấn định trước sang xử lý linh hoạt theo tín hiệu của thị trường. Nhà nước có chính sách để huy động vốn trong dân cư, tích tụ vốn của các đơn vị kinh tế,thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, thực hiện chi tiêu hợp lý và phấn đấu tạo nguồn thu trong nước đủ để chi tiêu và có dự trữ để trả nợ và đầu tư phát triển sản xuất. Thuế là công cụ hữu hiệu để tăng thu ngân sách nhà nước. Do vậy cần phải hoàn thiện hệ thống thuế và kiện toàn bộ máy thu thuế, đảm bảo bộ máy thu thuế phải trong sạch gọn nhẹ. Giá cả là công cụ để điều tiết hoạt động kinh tế. Mở rộng quyền tự chủ trong định giá, thoả thuận giá cả của các doanh nghiệp. Nhà nước trực tiếp kiểm soát giá cả một số sản phẩm độc quyền nhưng không thoát ly mặt bằng giá thị trường. Thực hiện giá bảo hộ đối với một số nông sản, hàng xuất khẩu khi giá thị trường xuống quá thấp, ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh. 4. Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý kinh tế của nhà nước. Như đã nói ở trên, vai trò củanhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là hết sức cần thiếtvà quan trọng. Nhưng việc nhà nước tham gia vào quản lý nền kinh tế chỉ thực sự có hiệu quả khi nó tuân theo hai nguyên tắc sau: Một là, không can thiệp trực tiếp, không áp đặt thô bạo ý chí của nhà nước vào quá trình hình thành giá. Nhà nước chỉ ccó thể tấc động gián tiếp vào nền kinh tế thông qua cơ chế cung cầu giá cả của thị trường.
- Hai là, Nhà nước điều khiển sự hoạt động của nền kinh tế bằng các chiến lược, các kế hoạch dài hạn, cac thiệp vào các hiện tượng và quá trình kinh tế bằng các công cụ lãi suất thuế và chi tiêu. Hiệu lực hành chính của nhà nước phải dược thực hiện một cách gián tiếp thông qua con đường thể chế hoá các chính sách kinh tế thành quy phạm pháp luật. Không cần cưỡng bức hành chính, không cần giáo dục, thuyết phục mà chỉ tạo hành lang pháp lý buộc các doanh nghiệp phải tuân theo. Và sau đây là một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò quản lý kinh tế của nhà nước: Thứ nhất, là cần phải phân định sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của nhà nước. Sự lãnh đạo của Đảng là sự tác động định hướng về mặt chính trị đối với quá trình phát triển kinh tế của đất nước. Trên cơ sở nhận thức các quy luật khách quan và thực trạng của nền kinh tế, Đảng đề ra đường lối chính sách kinh tế lớn và các biện pháp chính để thực hiện mục tiêu đề ra. Bên cạnh đó, sự quản lý về kinh tế của nhà nước là sự điều hành các hoạt động kinh tế bằng việc cụ thể hoá đường lối chính sách của Đảng, biến đường lối, chính sách đó thành pháp luật và tổ chức thực hiện nó trong thực tế. Thứ hai, là nâng cao kiến thức khoa học kinh tế thị trường cho cán bộ. Quản lý nền kinh tế thị trường cần những cán bộ có kiến thức và năng lực. Việc bồi dưỡng nâng cao kiến thức mới nhất là kiến thức về quản lý kinh tế cho đội ngũ cán bộ là hết sức cần thiết, nhất là cán bộ quản lý vĩ mô. Đối với đối tượng này, thông qua hình thức đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao kiến thức. Đối với cán bộ quản lý doanh nghiệp cần trang bị sâu hơn những kiến thức về kinh doanh, thị trường, luật kinh tế, quản lý kinh tế, nghệ thuật kinh doanh,... Thứ ba, là nâng cao hiệu lực của bộ máy quản lý nhà nước. Chuyến sang nền kinh tế thị trường, nhiều chức năng quản lý cuả nhà nước có sự thay đổi. Từ chỗ nhà nước quản ký nền kinh tế bắng mệnh lệnh hành chính, qua nhiều cấp chuyển sang định hướng, điều tiết, kiểm tra các hoạt động kinh tế. Từ yêu cầu của hoạt động kinh tế mà xác định chức năng quản lý, tổ chức bộ máy, bố chí cán bộ có đủ năng lực phẩm chất, thực hiện tốt những nhiệm vụ đã đặt ra. Đổi mới phong cách làm việc của cán bộ trong bộ máy quản lý của nhà nước về kinh tế. Hiệu lực của bộ máy thông qua hiệu quả hoạt
- động của nền kinh tế, uy tín của cán bộ và kết quả của cuộc đấu tranh chống tham nhũng. Bốn là, xây dựng và thực hiện chính sách xã hội gắn liền với chính sách kinh tế. Nền kinh tế thị trường thường nảy sinh nhiều vấn đề gay gắt không dễ giải quyết như lạm phát, thất nghiệp, phân hoá giàu nghèo,. . . . Đó là những hạn chế của cơ chế thị trường đặt ra đòi hỏi chúng ta phải tìm cách khắc phục. Phát huy vai trò của nhà nước trong việc đề ra chính sách thích hợp và tổ chức thực hiện đầy đủ. Chính sách đó làm sao để phát triển tài năng, dân làm giàu hợp pháp, giúp đỡ người nghèo, giảm dân số, tạo việc làm, phát triển giáo dục, nâng cao dân trí, đào tạo nhân tài, phát triển truyền thống văn hoá dân tộc, tiếp thu những tinh hoa văn hoá của nhân loại. Năm là, phải tinh giảm bộ máy hành chính nhà nước sao cho gọn nhẹ, làm việc có hiệu quả. Xây dựng các chương trình kế hoạch phát triển phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội nước ta theo mục tiêu mong muốn. Thực chất của việc định hướng sự phát triển của nền kinh tế là thống nhất các lợi ích khác nhau, quy tụ các lợi ích khác nhau về một lợi ích để sao cho trong khi mỗi người theo đuổi các lợi ích cá nhân của mình cũng đồng thời góp phần của mình vào việc theo đuổi lơị ích dân tộc. Đồng thời phải tạo môi trường thuận lợi cho nền sản xuất hàng hoá nhiều thành phần phát triển, phân phối thu nhập quốc dân một cách công bằng hiệu quả, tạo động lực kích thích sản xuất phát triển, quản lý tài sản quốc gia, phân bổ một cách hợp lý... Sự thành công của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không thể chỉ dừng lại ở các tốc độ tăng trưởng mà đi kèm với tăng trưởng phải không ngừng nâng cao chất lương cuộc sống với tiền lương và thu nhập thực tế tăng mạnh, y tế giáo dục phát triển, sự phân hoá giàu nghèo không làm phương hại tới phúc lợi xã hội, đảo lộn vị trí xã hội tương đối của dân chúng. Cơ chế thị trường không thể dẫn đến sự xuống cấp tha hoá trong lĩnh vực văn hoá, xã hội,các quan hệ đạo đức truyền thống xã hội. Trên đây là các giải pháp nhằm đổi mới, tăng cường vai trò kinh tế của nhà nước. Có như vậy mới có thể khắc phục được những khuyết tật của cơ chế thị trường, phát huy mặt tích cực của nó.
- Kết luận Qua bài viết chúng ta thấy rằng, việc chuyển đổi nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước là một bươc ngoặt quan trọng làm thay đổi đời sống kinh tế xã hội của đất nước. Sự thành công hay thất bại của quá trình chuyển đổi quyết định sự thắng lợi của sự nghiệp đổi mới. Quá trình đổi mới những năm qua cho thấy rằng việc chuyển nền kinh tế của nước ta vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước là phù hợp với xu thế phát triển tất yếu khách quan của nền kinh tế, phù hợp với xu thế quốc tế hoá đời sống kinh tế. Chúng ta tiến hành chuyển đổi từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dưới sự quản lý của nhà nước, đây là hướng đi rất đúng đắn và phù hợp mà Đảng ta đã lựa chọn. Và thực tế đã chứng minh rằng có cơ chế thị trường đã phát huy tác dụng tích cực to lớn đến sự phát triển kinh tế xã hội. Nó chẳng những không đối lập mà còn là nhân tố khách quan cần thiết cho việc xây dựng và phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa. Nhưng đồng thời, cơ chế thị trường cũng có những tác động tiêu cực mâu thuân với bản chất của chủ nghĩa xã hội. Vận dụng cơ chế thị trường đòi hỏi phải nâng cao năng lực quản lý vĩ mô của nhà nước phát huy tích cực đi đôi với ngăn ngừa, hạn chế và khắc phục những măt tiêu cực. Luôn tìm mọi cách để nâng cao vai trò quản lý của nhà nước về kinh tế bởi nếu không có sự quản lý của nhà nước về kinh tế thì việc điều hành nền kinh tế nước ta sẽ không có hiệu quả và chúng ta sẽ không thể tiến lên chủ nghĩa xã hội được.
- tài liệu tham khảo 1-/ Văn kiện đại hội Đảng VI, VII, VIII. 2-/ Giáo trình kinh tế chính trị tập II. 3-/ Cơ chế thị trường và vai trò kinh tế của nhà nước ở Việt Nam NXB Thống Kê - 1994. 4-/ Kinh tế học của P. Samuelson Tập I 5-/ Kinh tế học của David - Begg Tập I 6-/ Tạp chí kinh tế phát triển số 13/96 Bài “Vai trò nhà nước trong việc định hướng xã hội chủ nghĩa kinh tế thị trường của nước ta” Tác giả: Dương Thị Liễu 7-/ Tạp chí nghiên cứu phát triển số 102/99 Bài “Vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường “ Tác giả: TS Vũ Anh Tuấn.
- Mục lục Lời nói đầu ........................................................................................................... 1 nội dung ........................................................................................................... 4 1. Tính tất yếu khách quan vai trò quản lý vĩ mô của nhà nước đối với nền kinh tế........................................................................................................... 4 2. Nền kinh tế thị trường XHCN và vai trò kinh tế của nhà nước ở Việt Nam. ...................................................................................................................... 5 3. Mục tiêu, chức năng và công cụ quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước. ................................................................................................................ 10 4. Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý kinh tế của nhà nước. ................................................................................................... 15 Kết luận ......................................................................................................... 18 tài liệu tham khảo .................................................................................................... 19
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn "Quản lý nhà nước đối với tôn giáo ở Lâm Đồng hiện nay - vấn đề và giải pháp"
105 p | 612 | 152
-
LUẬN VĂN: Quản lý Nhà nước vừa là một khoa học vừa là nghệ thuật, nghề nghiệp
10 p | 365 | 84
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước về Giảm nghèo bền vững tại huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị
107 p | 18 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước về đào tạo nghề cho lao động nông thôn trên địa bàn huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị
116 p | 14 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý kinh tế: Quản lý nhà nước về giải quyết việc làm cho người lao động trên đại bàn huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum
120 p | 6 | 5
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý Nhà nước về trật tự xây dựng trên địa bàn quận Bình Thạnh, TP. Hồ Chí Minh
24 p | 14 | 5
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý Nhà nước về đào tạo nghề cho lao động nông thôn tại huyện huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị
27 p | 10 | 4
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững tại huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị
26 p | 11 | 4
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước về môi trường trên địa bàn huyện Cẩm Mỹ, tỉnh Đồng Nai (2024)
26 p | 6 | 2
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước đối với các Khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk giai đoạn 2024 - 2030
43 p | 6 | 2
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước về Xây dựng Nông thôn Mới Nâng cao trên địa bàn tỉnh Nam Định
26 p | 3 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước về đầu tư xây dựng từ nguồn vốn ngân sách nhà nước tại tỉnh Hà Nam
120 p | 2 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý kinh tế: Quản lý nhà nước về công nghiệp tại tỉnh Salavan, nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào
118 p | 4 | 2
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường tại UBND quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội
26 p | 8 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước đối với các trường Trung cấp nghề thuộc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Hà Nội
107 p | 5 | 1
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước về công tác tiếp dân trên địa bàn quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh
94 p | 1 | 1
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước về đầu tư xây dựng từ nguồn vốn ngân sách nhà nước tại tỉnh Hà Nam
26 p | 6 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn