LUẬN VĂN: Sự biến động giai cấp tại thành phố Hà Nội trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá
lượt xem 8
download
Chúng ta biết rằng, mọi biến động của phong trào cách mạng thế giới đều diễn ra từ những thay đổi to lớn trong cuộc đấu tranh giai cấp ở mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Ngày nay, các cuộc đấu tranh giai cấp đã lan rộng trên phạm vi thế giới. Bởi lẽ, thời đại ngày nay là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Nội dung của thời đại ngày nay là đấu tranh xoá bỏ giai cấp tư sản và chế độ tư bản chủ nghĩa đồng thời thiết...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: LUẬN VĂN: Sự biến động giai cấp tại thành phố Hà Nội trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá
- LUẬN VĂN: Sự biến động giai cấp tại thành phố Hà Nội trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá
- Mở Đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Chúng ta biết rằng, mọi biến động của phong trào cách mạng thế giới đều diễn ra từ những thay đổi to lớn trong cuộc đấu tranh giai cấp ở mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Ngày nay, các cuộc đấu tranh giai cấp đã lan rộng trên phạm vi thế giới. Bởi lẽ, thời đại ngày nay là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Nội dung của thời đại ngày nay là đấu tranh xoá bỏ giai cấp tư sản và chế độ tư bản chủ nghĩa đồng thời thiết lập những cơ sở của xã hội mới là xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa; đấu tranh cho thắng lợi của hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Đặc trưng của thời kỳ quá độ là sự cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Vì vậy, trong thời kỳ quá độ còn tồn tại đan xen cả cái cũ và cái mới, cái tiến bộ và cái phản tiến bộ, cho nên đấu tranh giai cấp trở nên phức tạp hơn bao giờ hết. Tính chất phức tạp của cuộc đấu tranh giai cấp trong thời đại ngày nay đã thay đổi cục diện chính trị thế giới và đang tác động trực tiếp tới đường lối chính trị của mỗi quốc gia dân tộc, nhất là đối với các nước đang theo con đường xã hội chủ nghĩa, trong đó có nước ta. Vì vậy, nghiên cứu vấn đề giai cấp và sự biến động giai cấp luôn luôn có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp bách. ở nước ta hiện nay, quá trình đó tác động mạnh tới cơ cấu xã hội -giai cấp, làm cho quan điểm, ý thức giai cấp cũng đang có sự biến động khác nhau. Hiện nay, dưới những tác động từ nhiều yếu tố, nhất là quá trình CNH, HĐH đất nước, giai cấp công nhân cũng đang có biến động mạnh mẽ về số lượng, chất lượng,... có ảnh hưởng lớn đến khả năng, vai trò lãnh đạo và sự thành công của công cuộc đổi mới đất nước. Sự biến động này thể hiện tập trung ở các thành phố lớn nơi có tốc độ phát triển kinh tế - xã hội nhanh, có sự đa dạng các giai tầng xã hội. Một trong những thành phố là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hoá của cả nước, đang có biến động giai cấp mạnh mẽ nhất ở nước ta, đó là Thủ đô Hà Nội. Vì vậy sự biến động giai cấp ở Hà Nội có tính chất đại diện để nghiên cứu sự biến động giai cấp công nhân nói riêng, giai cấp nói chung ở nước ta hiện nay.
- Xuất phát từ tình hình đó, tác giả đã chọn đề tài về sự biến động giai cấp tại thành phố Hà Nội trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá làm đề tài luận nghiên cứu. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Vấn đề giai cấp luôn là vấn đề trung tâm trong mỗi thời kỳ cách mạng, vì vậy, nó cũng là vấn đề được tập trung nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau. Có nhiều công trình nghiên cứu tập tung trực tiếp vào vấn đề giai cấp như: PTS Nguyễn Đình Lê: Biến đổi cơ cấu giai cấp xã hội miền Bắc 1954 - 1975, Nxb Văn hoá Thông tin, H.1999; Đề tài KX 07 - 05, PTS Nguyễn Quang Ngọc(Chủ biên): Cơ cấu xã hội trong quá trình phát triển của lịch sử Việt Nam, Nhà in Giao thông, H.1995; Đề tài KX 07 - 05, PGS, PTS Đỗ Nguyên Phương (chủ biên): Thực trạng và xu thế phát triển cơ cấu xã hội nước ta trong giai đoạn hiện nay, Xí nghiệp in 15, H. 1995; PGS, TS Trần Phúc Thăng: Xu hướng biến động của cơ cấu xã hội giai cấp Việt Nam trong thời kỳ đi lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Chính trị quốc gia, H.1992; Tổng liên đoàn lao động Việt Nam: Xu hướng biến động của giai cấp công nhân trong những năm đầu thế kỷ XXI, Nxb Lao động, H.2001; Đỗ Khánh Tặng: Đặc điểm và xu hướng biến đổi cơ cấu giai cấp công nhân trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ; Bùi Đình Bôn: Giai cấp công nhân Việt Nam vai trò xu thế biến động về cơ cấu trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Luận án tiến sĩ; PGS, TS Dương Xuân Ngọc: Giai cấp công nhân trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nxb Chính trị quốc gia, H. 2004; PGS Cao Văn Lượng(chủ biên): Công nghiệp hoá, hiện đại hoá và sự phát triển giai cấp công nhân, Nxb Chính trị quốc gia, H. 2001; PGS, PTS Dương Xuân Ngọc: Xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thành lực lượng đi dầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Nxb Lao động, H. 1998; Đề tài KX 07 - 05: Những đặc trưng và xu hướng biến đổi cơ cấu xã hội Việt Nam đang đổi mới, H. 1996; GS, TS Trần Hữu Tiến: Vấn đề quan hệ xã hội giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Tạp chí nghiên cứu lý luận, số 1/1996, tr.17; PGS, PTS Đỗ Nguyên Phương: Về sự phân tầng xã hội ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, H. 1994; GS,TS Hoàng Chí Bảo: Cơ cấu xã hội giai cấp ở nước ta lý luận và thực tiễn, Nxb Thông tin lý luận, H.1992; Lê Ngọc Triết: Xu hướng biến đổi cơ cấu xã hội của giai cấp nông dân ở Nam Bộ Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết
- học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, H. 2002; Bùi Thị Thanh Hương: Đặc điểm và xu hướng biến đổi của giai cấp nông dân nước ta trong giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, H.2000; Quản Văn Trung: Sự biến đổi của cơ cấu xã hội giai cấp ở Việt Nam trong quá trình phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, H.1999; Nguyễn Chí Tâm: Giai cấp công nhân Thành phố Hồ Chí Minh; Đặc điểm và xu hướng biến động trong công cuộc đổi mới, Luận án thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, H.; Nguyễn Văn Bang: Những biểu hiện mới của cuộc đấu tranh giai cấp trong điều kiện kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Luận án thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Các công trình trước đây tuy đã nghiên cứu về giai cấp nhưng mới chỉ tập trung vào nghiên cứu cơ cấu xã hội giai cấp, hoặc nghiên cứu một giai cấp ở một thời kỳ cụ thể, còn về xu hướng biến động giai cấp công nhân thành phố Hà Nội trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì chưa có đề tài nào nghiên cứu. Vì vậy, tác giả chọn đề tài này làm vấn đề nghiên cứu. 3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu của luận văn a. Mục đích của luận văn: Nghiên cứu xu hướng biến động giai cấp công nhân ở thành phố Hà Nội trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, trên cơ sở đó đưa ra một số giải pháp định hướng để phát triển giai cấp công nhân thành phố Hà Nội. b. Nhiệm vụ của luận văn: - Tìm hiểu sự tác động của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đến sự biến động giai cấp công nhân ở thành phố Hà Nội. - Tìm hiểu thực trạng biến động của công nhân thành phố Hà Nội hiện nay. - Chỉ ra những xu hướng biến động của giai cấp công nhân(về số lượng, chất lượng; kết cấu xã hội giai cấp; ý thức chính trị, quan điểm giai cấp) trong thời gian tới. - Nêu ra một số giải pháp định hướng sự biến động giai cấp công nhân ở thành phố Hà Nội.
- c. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung vào nghiên cứu xu hướng biến động cơ cấu xã hội giai cấp của giai cấp công nhân thành phố Hà Nội trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn a. Cơ sở lý luận: Cơ sở lý luận của luận văn là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, của Đảng ta và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề giai cấp; đồng thời kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học khác có liên quan. b. Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phương pháp: lịch sử - lôgic, phương pháp so sánh, phương pháp phân tích - tổng hợp, trừu tượng và cụ thể, trên cơ sở đó đưa ra những nhận xét, đánh giá và kết luận. 5. Đóng góp mới về khoa học của luận văn Bước đầu luận văn chỉ ra được những xu hướng biến động cơ bản của giai cấp công nhân thành phố Hà Nội trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, trên cơ sở đó đưa ra được một số giải pháp thiết thực nhằm định hướng cho sự biến động giai cấp, góp phần tạo động đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. 6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Luận văn góp phần tìm hiểu sâu hơn về giai cấp công nhân và xu hướng biến động của giai cấp công nhân ở nước ta. Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. - Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, học tập các vấn đề về giai cấp nói chung cũng như giai cấp công nhân nói riêng ở nước ta. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2 chương, 5 tiết.
- Chương 1 Giai cấp công nhân và Những nhân tố tác động đến xu hướng biến động của giai cấp công nhân thành phố Hà Nội Trong lịch sử loài người, hình thức người lao động làm công, làm thuê cho chủ đã xuất hiện từ rất sớm, nhưng họ xuất hiện với tư cách là một giai cấp thì chỉ trong thời kỳ tư bản chủ nghĩa mới có. Trong một số quan niệm về giai cấp, các học giả tư sản cho rằng giai cấp là tập hợp những người có cùng một chức năng, một lối sống, một hệ tư tưởng hoặc giai cấp là tập hợp những người có cùng điều kiện xã hội hoặc cùng bậc thang xã hội… Những quan điểm đó không đem lại cho chúng ta một sự hiểu biết sâu sắc nào về giai cấp, nhất là với một giai cấp cụ thể như giai cấp công nhân. Chỉ đến khi chủ nghĩa Mác ra đời mới cung cấp cho chúng ta sự hiểu biết về giai cấp công nhân một cách có hệ thống. 1.1. Quan điểm mác xít về giai cấp công nhân Giữa thế kỷ XIX, hai lãnh tụ vĩ đại C.Mác - Ph.Ăngghen đã sáng lập ra một học thuyết mới, kế thừa và phát triển những tư tưởng tiến bộ trong lịch sử. Các nhà lý luận mác xít đã phát hiện ra nguồn gốc, bản chất của giai cấp, và mỗi một hệ thống giai cấp xã hội trong lịch sử đều có một hệ thống sản xuất nhất định tương ứng với nó, chính sự phát triển của sản xuất đã đưa đến sự phân công lao động trong xã hội. Đồng thời, sự phân công lao động lại thúc đẩy sự phát triển của sản xuất, nâng cao năng suất lao động, đó là nguồn gốc cơ bản dẫn tới sự xuất hiện chế độ tư hữu và phân chia giai cấp trong xã hội, hình thành xã hội có giai cấp. Giai cấp công nhân là sản phẩm của nền đại công nghiệp ra đời trong xã hội tư bản. Khái niệm giai cấp công nhân, theo quan niệm của Mác - Ăngghen, có nhiều tên gọi khác nhau, được thể hiện trong nhiều tác phẩm của hai ông. Trong tác phẩm Gia đình thần thánh (1845) C.Mác đã đặt ra vấn đề "giai cấp vô sản thực sự là gì". Trong các tác phẩm như Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen (1844), Tình cảnh giai cấp công nhân Anh (1844-1845), Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản (1847) và Tuyên ngôn của Đảng cộng sản (1848) Mác - Ăngghen đã
- đưa ra một số khái niệm để biểu đạt về khái niệm giai cấp công nhân như: "giai cấp công nhân", "giai cấp vô sản","giai cấp vô sản công nghiệp","giai cấp vô sản hiện đại","giai cấp công nhân hiện đại","giai cấp công nhân công xưởng nhà máy",'giai cấp công nhân đại cơ khí"…. Để giải thích cho những tên gọi đó các ông gọi họ là "lao động làm thuê","giai cấp xã hội hoàn toàn chỉ sống dựa vào bán sức lao động của minh","giai cấp của những người hoàn toàn không có của"…. Mác - Ăngghen dù có diễn đạt dưới nhiều tên gọi khác nhau nhưng đều muốn nói tới vị trí, thân phận của những người công nhân trong thời kỳ đó. Thực chất vị trí của những người công nhân trong xã hội là không thể thay đổi trong khi các tên gọi của họ có sự khác nhau. Sự khác nhau đó là sự khác nhau về công việc cụ thể của họ trong cỗ máy bóc lột của chủ nghĩa tư bản mà thôi. Trong tác phẩm Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản, Ph.Ăngghen đặt vấn đề giai cấp vô sản là gì? và ông trả lời rằng: giai cấp vô sản là một giai cấp xã hội hoàn toàn chỉ kiếm sống bằng việc bán lao động của mình, chứ không phải sống bằng lợi nhuận của bất cứ số tư bản nào, đó là một giai cấp mà hạnh phúc và đau khổ, sống và chết, toàn bộ sự sống còn của họ đều phụ thuộc vào số cầu về lao động, tức là vào tình hình chuyển biến tốt hay xấu của công việc làm ăn, vào những sự biến động của cuộc cạnh tranh không gì ngăn nổi [16, tr.456]. Để trả lời cho câu hỏi giai cấp vô sản ra đời như thế nào? Ph.Ăngghen viết: giai cấp vô sản là do cuộc cách mạng công nghiệp sản sinh ra; cuộc cách mạng này xảy ra ở Anh vào nửa sau của thế kỷ trước [16, tr.457]. Trong tác phẩm Tình cảnh của giai cấp lao động ở Anh, Ph.Ăngghen đã nhận xét rằng "người công nhân, chỉ được nhà tư sản xem như một loại tư bản, loại tư bản này tự nộp mình cho chủ xưởng sử dụng và được chủ xưởng trả lợi tức dưới danh nghĩa tiền lương"[15, tr.355]. Giai cấp công nhân là giai cấp làm thuê hiện đại, họ là sản phẩm của nền đại công nghiệp (chỉ có trong chế độ tư bản chủ nghĩa) họ vì mất hết các tư liệu sản xuất của bản thân nên buộc phải bán sức lao động của mình. Nếu trước đây họ được làm chủ tư liệu sản xuất thì lao động của họ là lao động thủ công, là sử dụng công cụ lao động, thì nay họ mất hết tư liệu sản xuất của bản thân, buộc phải làm việc với
- máy móc hiện đại, phải lệ thuộc vào nhà tư bản và lệ thuộc vào máy móc của nhà tư bản. Đến tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng cộng sản (1848) C.Mác - Ph.Ăngghen đã có những dữ liệu cần thiết để trình bày đầy đủ, rõ ràng hơn về giai cấp công nhân, các ông chỉ rõ nguồn gốc ra đời của giai cấp công nhân. Về nguồn gốc kinh tế, C.Mác - Ph.Ăngghen cho rằng sự ra đời của giai cấp vô sản gắn với nền công nghiệp hiện đại, từ mục đích phát triển quy mô sản xuất và tích luỹ tư bản của nhà tư sản "trong tất cả các giai cấp hiện đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có giai cấp vô sản là thực sự cách mạng. Tất cả các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại công nghiệp còn giai cấp vô sản lại là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp”[16, tr.610], giai cấp vô sản là hạt nhân, là bộ phận cơ bản, là đại biểu tiêu biểu của nền sản xuất hiện đại. Về nguồn gốc xã hội, giai cấp công nhân được tuyển mộ từ trong tất cả các giai cấp, tầng lớp của xã hội. Chính vì vậy, mà giai cấp công nhân ra đời, tồn tại, phát triển là một tất yếu khách quan, cuộc đấu tranh chống áp bức, bất công trong xã hội do giai cấp công nhân chống giai cấp tư sản cũng là một tất yếu khách quan. Cùng với việc chỉ ra nguồn gốc ra đời của giai cấp công nhân, C.Mác - Ph.Ăngghen còn chỉ ra những đặc trưng chủ yếu của giai cấp công nhân, trong mục chú thích của "tư sản và vô sản" của tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, C.Mác - Ph.Ăngghen chỉ ra rằng, giai cấp vô sản là giai cấp những người công nhân làm thuê hiện đại, vì mất các tư liệu sản xuất của bản thân nên buộc phải bán sức lao động để sống. Vậy đặc trưng chủ yếu của giai cấp công nhân là: không có t ư liệu sản xuất, lợi ích của giai cấp vô sản đối lập trực tiếp với lợi ích của giai cấp tư sản, địa vị xã hội là người làm thuê và bị bóc lột, giai cấp công nhân có bản chất cách mạng, hiện thân của lực lượng sản xuất hiện đại, đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến, có tinh thần quốc tế trong sáng, cao cả, có tính tổ chức, kỷ luật cao, tình đoàn kết giai cấp… Về mục tiêu của giai cấp công nhân - những người kiên quyết nhất trong các đảng cộng sản - là "không tước bỏ của ai cái khả năng chiếm hữu những sản
- phẩm xã hội cả. Chủ nghĩa cộng sản chỉ tước bỏ quyền dùng sự chiếm hữu ấy để nô dịch lao động của người khác”[16, tr.618]. Về vai trò của giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh chống lại giai cấp tư sản Mác - Ăngghen khẳng định rằng giai cấp công nhân là lực lượng chính, đi đầu trong cuộc đấu tranh đó, "giai cấp tư sản không những đã tạo nên vũ khí sẽ giết mình mà còn tạo ra những người sử dụng vũ khí ấy - những người công nhân hiện đại, những người vô sản"[16, tr. ] Về xu hướng phát triển của giai cấp công nhân, Mác - Ăngghen cho rằng số lượng và chất lượng của giai cấp công nhân không ngừng tăng lên cùng với sự phát triển ngày càng nhanh của nền đại công nghiệp. Trong quan niệm về giai cấp công nhân, V.I.Lênin đã bổ sung thêm những đặc trưng mới, những thuộc tính mới của giai cấp công nhân, nhất là sau thành công của Cách mạng tháng Mười Nga, nhà nước xã hội chủ nghĩa Xô Viết đã ra đời. V.I.Lênin đã khẳng định rằng sau khi cách mạng vô sản thành công, giai cấp công nhân trở thành giai cấp lãnh đạo trong xã hội, lật đổ ách thống trị của giai cấp tư sản, một giai cấp cầm quyền, không còn ở vào địa vị bị áp bức, bóc lột như trước. Giai cấp công nhân trở thành một giai cấp thống trị về chính trị trong xã hội, có vai trò xây dựng một chế độ xã hội mới, thủ tiêu chế độ xã hội cũ, cùng toàn thể nhân dân lao động và giai cấp công nhân ở các nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới tiến tới xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn, một xã hội không có giai cấp. Xu hướng của giai cấp công nhân là tiến tới tự thủ tiêu mình với tính cách là một giai cấp. Theo V.I.Lênin, giai cấp công nhân sau cách mạng vô sản không còn là giai cấp vô sản như nghĩa đen của nó nữa mà bây giờ giai cấp công nhân là một giai cấp thống trị về chính trị, có sứ mệnh lịch sử là lãnh đạo toàn xã hội trong cuộc đấu tranh xoá bỏ chế độ tư bản, chế độ người bóc lột người, đồng thời với sứ mệnh đó là nhiệm vụ giữ gìn thành quả cách mạng, tạo nên một xã hội mới với cuộc sống mới, tự do và hạnh phúc. Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ tài ba của Đảng Cộng sản Việt Nam đã thấm nhuần tư tưởng, quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin qua thực tiễn đấu tranh của cách mạng Việt Nam, đã khẳng định rằng muốn cứu nước và giải phóng dân tộc
- không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản. Hồ Chí Minh cho rằng vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân là vô cùng quan trọng, đó là "hòn đá thử vàng"phân biệt người cộng sản và kẻ cơ hội, ai không thấy được sức mạnh của giai cấp công nhân, không thấy được khả năng lãnh đạo của giai cấp công nhân thì người đó không phải kà người cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh rằng giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo không chỉ trong các cuộc kháng chiến cứu quốc mà còn cả trong xây dựng đất nước. Muốn thực hiện đúng vai trò làm chủ, giai cấp công nhân phải quản lý tốt kinh tế, quản lý tốt xí nghiệp, làm cho năng suất lao động không ngừng được nâng cao, của cải xã hội ngày càng nhiều. Phải là một đội ngũ tiên phong trong các phong trào kinh tế - xã hội đất nước. Trong một số bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh chúng ta thấy quan niệm của Người về giai cấp công nhân nhìn chung thể hiện một số nội dung như sau: - Trong xã hội thuộc địa nửa phong kiến ở Việt Nam, người công nhân là những người lao động làm thuê trong các xí nghiệp, đồn điền, hầm mỏ của chủ nghĩa tư bản đế quốc, họ bị giai cấp tư bản đế quốc bóc lột nặng nề theo chính sách khai thác thuộc địa của đế quốc Pháp, người công nhân đa số bị cưỡng bức trở thành người làm thuê và hoàn toàn mất tự do. - Công nhân là những người đấu tranh dũng cảm nhất, cách mạng nhất. - Nhờ có chủ nghĩa Mác-Lênin là lý luận cách mạng soi đường, công nhân đã giành được chính quyền, trở thành lực lượng lãnh đạo cách mạng. - Giai cấp công nhân là giai cấp có sứ mệnh lịch sử là xoá bỏ chế độ bóc lột của tư bản chủ nghĩa, thực hiện chuyển biến cách mạng từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản. Giai cấp công nhân chỉ có thể hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình khi có Đảng tiên phong, có liên minh công nông vững chắc, có công đoàn bảo vệ quyền lợi cho giai cấp công nhân. - Sau khi cách mạng thắng lợi, giành được chính quyền nhà nước, người công nhân cùng với các tầng lớp nhân dân lao động khác trở thành người làm chủ tư liệu sản xuất trong xã hội, quản lý và phân phối các sản phẩm xã hội. 1.2. Đặc điểm của giai cấp công nhân Việt Nam
- Giai cấp công nhân Việt Nam là sản phẩm trực tiếp của chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp. Những người công nhân Việt Nam đầu tiên xuất hiện là hệ quả của cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất(năm 1897). Thời kỳ trước chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914 - 1918), giai cấp công nhân Việt Nam mới chỉ có 10 vạn người, trình độ thấp kém, chủ yếu là lao động nặng nhọc và bằng lao động chân tay. Đến thời kỳ khai thác thuộc địa lần thứ hai (1924 - 1929), với việc mở rộng quy mô và lĩnh vực khai thác của thực dân Pháp số lượng công nhân đã tăng lên 22 vạn, chiếm 1,2% dân số. Giai cấp công nhân Việt Nam tuy ra đời trong hoàn cảnh đặc biệt như vậy, nhưng khi hình thành với tư cách là một giai cấp vô sản thì họ đã trở thành một bộ phận của giai cấp công nhân quốc tế, có những đặc điểm chung của giai cấp công nhân quốc tế. Cùng với quá trình phát triển đất nước, với đặc thù riêng và những điều kiện lịch sử cụ thể nên giai cấp công nhân Việt Nam có những đặc điểm riêng. Cùng với sự có mặt của các nhà tư bản Pháp, với sự du nhập của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa vào nước ta, giai cấp công nhân đã được hình thành và trưởng thành cả về số lượng và chất lượng. Tốc độ tăng trưởng về số lượng công nhân trong một số ngành khá nhanh, chẳng hạn như ngành mỏ vào năm 1904 có 4000 công nhân thì đến năm 1908 đã có 9000 công nhân, như vậy trong vòng 4 năm số lượng công nhân đã tăng 2,25 lần. Tính toàn bộ giai cấp công nhân đến 1906 ở Việt Nam đã có khoảng 55000 công nhân chuyên nghiệp, làm việc trong các xí nghiệp của tư bản Pháp, đó là chưa kể đến một số công nhân làm theo mùa vụ ở các xí nghiệp tư sản Việt Nam và Hoa kiều. Giai cấp công nhân Việt Nam ngày càng đông đảo hơn theo đà phát triển đầu tư và mở rộng quy mô sản xuất ở các ngành kinh tế. Đến năm 1929, số công nhân làm việc trong doanh nghiệp của các nhà tư sản Pháp là hơn 22 vạn người. Bên cạnh đó, số công nhân làm việc cho các doanh nghiệp của tư sản Việt Nam ước tính khoảng vài vạn người. Trong giai cấp công nhân Việt Nam, bộ phận đông đảo nhất là công nhân đồn điền: 81188 người chiếm 36,8% tổng số công nhân. Lực lượng này phân bố chủ yếu ở các vùng cao nguyên Nam Trung kỳ và Tây Nam kỳ. Công nhân mỏ có 53240 người, chiếm 24% tổng số công nhân, tập trung chủ yếu ở
- vùng Quảng Yên, Đông Triều. Công nhân các ngành công nghiệp nhẹ, giao thông vận tải và thương nghiệp gồm 86622 người, chiếm 39,2% tổng số công nhân tập trung ở thành thị như Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Vinh, Sài Gòn, Chợ Lớn…[14, tr.23]. Một bộ phận giai cấp công nhân Việt Nam là những người bị tuyển mộ cưỡng bức, đặc biệt là số công nhân đồn điền, một số khác chỉ vô sản hoá nửa vời như là số công nhân theo mùa vụ, phu công nhân. Trình độ học vấn của giai cấp công nhân Việt Nam rất thấp, số người mù chữ chiếm một tỷ lệ không nhỏ. Do việc sử dụng rộng rãi lao động thủ công trong các ngành sản xuất kinh doanh nên tính chất vô sản hiện đại của họ cũng bị hạn chế. Đây cũng là do đặc thù của việc bóc lột triệt để của giới chủ, muốn tận dụng sức lao động của công nhân vào bất cứ công việc nào có thể, trong hầm mỏ, công việc đào than, xúc, chuyền than… đều bằng lao động chân tay. Giới chủ tận dụng lao động chân tay ở công nhân là để tiết kiệm chi phí cho nhiên liệu máy móc, chính điều này đã đẩy một bộ phận công nhân vào tình trạng sức khoẻ yếu kém và dẫn đến tử vong. Điều kiện sống và lao động của công nhân nói chung là rất cực khổ, trong đó họ phải làm việc 10h /ngày thậm chí 12 - 16h /ngày, với tiền công rẻ mạt, lại thường xuyên bị đánh đập bởi đốc công, cai… Bị áp bức, bóc lột và đối xử nặng nề như vậy nên giai cấp công nhân Việt Nam sớm có tinh thần đoàn kết giai cấp, sớm nhận ra được ý thức giai cấp và nhanh chóng vươn lên nắm lấy ngọn cờ lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Các phong trào đấu tranh do giai cấp công nhân Việt Nam tổ chức ngày càng nhiều. ý thức giai cấp, tinh thần cách mạng của giai cấp công nhân ngày càng được nâng lên, kinh nghiệm đấu tranh được rèn luyện theo các cuộc đấu tranh bằng nhiều hình thức khác nhau. Đồng thời lại được tăng cường truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam bởi lãnh tụ Hồ Chí Minh và các cá nhân xuất sắc của giai cấp công nhân. Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập năm 1930, giai cấp công nhân Việt Nam đã chính thức giành lấy ngọn cờ lãnh đạo và đưa cách mạng Việt Nam đến thắng lợi, giải phóng dân tộc và độc lập tự do hạnh phúc cho nhân dân Việt Nam. Thông qua Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiên phong của giai cấp công nhân - cách mạng Việt Nam đã đập tan chế độ thực dân phong kiến, xoá bỏ chế độ
- người bóc lột người giành lấy chính quyền và kiên quyết bảo vệ vững chắc chính quyền đó. Trường kỳ 30 năm đấu tranh đánh đuổi kẻ thù ngoại xâm, năm 1975, giai cấp công nhân đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam đánh đuổi giặc Mỹ ra khỏi biên giới Việt Nam, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất hai miền Nam - Bắc, thống đất nước đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng xã hội mới, thực hiện sứ mệnh lịch sử vẻ vang, đem lại hạnh phúc cho nhân dân. Ngày nay, trong sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa do Đảng cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo giai cấp công nhân đã góp phần đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh đem lại động lực cho sự phát triển kinh tế xã hội, chấn hưng đất nước. Trước những yêu cầu của thời kỳ phát triển mới của đất nước và dân tộc, giai cấp công nhân Việt Nam luôn giữ vững vai trò lãnh đạo của quá trình cách mạng, luôn là lực lượng đi đầu trong công cuộc đổi mới, quyết định đến xu hướng biến động và phát triển xã hội, giai cấp công nhân Việt Nam có vai trò quan trọng trong sự phát triển của xã hội Việt Nam, giai cấp công nhân thực sự là lực lượng chính trị quan trọng, là cơ sở xã hội chủ yếu của Đảng và Nhà nước, của cách mạng Việt Nam, của sự nghiệp đổi mới công nghiệp hoá, hiện đại hoá. 1.3. Những nhân tố tác động đến xu hướng biến động của giai cấp công nhân thành phố Hà Nội 1.3.1. Những nét đặc thù của Hà Nội tác động đến sự biến động của giai cấp công nhân Hà Nội là Thủ đô của cả nước, nằm ở trung tâm đồng bằng Bắc Bộ. Phía Bắc giáp tỉnh Vĩnh Phúc, Thái Nguyên; phía Nam giáp tỉnh Hà Tây, Hưng Yên; phía Đông giáp tỉnh Bắc Ninh, Hưng Yên; phía Tây giáp tỉnh Hà Tây. Hà Nội có tổng diện tích 920 km2 (chiếm 0,28% diện tích cả nước), dân số trên 3 triệu người, trong đó người sống ở nội thành khoảng 1,8 triệu và hàng chục vạn người cư trú tạm thời và vãng lai.
- Hà Nội hiện có 9 quận nội thành gồm: Ba Đình, Hoàn Kiếm, Đống Đa, Hai Bà Trưng, Tây Hồ, Cầu Giấy, Thanh Xuân, Hoàng Mai, Long Biên, và 5 huyện ngoại thành gồm: Gia Lâm, Thanh Trì, Sóc Sơn, Đông Anh, Từ Liêm. Là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội lớn nhất của cả nước, có vị trí chiến lược về an ninh quốc phòng, có chiều sâu về lịch sử, văn hoá, Hà Nội trở thành trung tâm giao lưu và có tầm ảnh hưởng sâu rộng về mọi mặt tới các vùng lân cận và cả nước. *Về lịch sử, văn hoá và chính trị. Theo chính sử của nước ta, mùa Thu năm Canh Tuất (1010), vua Lý Thái Tổ (Lý Công Uẩn - vị vua khai sáng triều Lý) đã dời đô từ Hoa Lư (nay thuộc tỉnh Ninh Bình) về thành Đại La, đổi tên kinh thành là Thăng Long, nay là Thủ đô Hà Nội. Theo mốc lịch sử đó, đầu năm 2010, Thủ đô Hà Nội sẽ tròn 1000 năm tuổi [36; tr.465]. Về địa chính trị, địa văn hoá của thành Đại La, trong bài Chiếu hỏi ý kiến về việc dời đô, Lý Công Uẩn, với thiền sư Vạn Hạnh, đã vạch rõ: “Thành Đại La ở trung tâm bờ cõi đất nước, được cái thế rồng cuộn, hổ ngồi vị trí ở giữa bốn phương đông, tây, nam, bắc; tiện hình thế núi sông sau trước. ở đó, địa hình rộng mà bằng phẳng, vùng đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ về ngập lụt, muôn vật rất phong phú, tốt tươi. Xem khắp nước Việt ta, chỗ ấy là nơi hơn cả, thật là chỗ hội họp của bốn phương, là nơi đô thành bậc nhất của đế vương”.[36; tr.18] Chiếu dời đô đã xác định vị trí chiến lược về địa chính trị, địa kinh tế, địa văn hoá của thành Đại La. Vì vậy, sau khi thành Đại La trở thành kinh thành Thăng Long, chỉ trong vòng một vài thế kỷ, Thăng Long đã được xây dựng về mọi mặt và trở thành trung tâm chính trị - kinh tế - văn hoá lớn nhất và tiêu biểu nhất cho cả nước. Thành quách, đê điều, các loại kiến trúc cung đình, dân gian, tôn giáo, văn hoá…tất cả hoà quyện với thiên nhiên tạo nên dáng vẻ riêng của kinh thành Rồng bay mang đậm tính dân gian và tính dân tộc. Tất cả những giá trị văn hoá đó đã thẩm thấu trong đời sống tinh thần và phong cách của người Hà Nội. Chính chiều sâu của nền văn hoá đó đã tác động
- mạnh mẽ tới cách thức tổ chức đời sống cá nhân và đời sống cộng đồng, tới nhận thức tư tưởng, tới văn hoá ứng xử với môi trường xã hội và môi trường tự nhiên, hình thành nên tác phong, tính cách tạo ra nét khác biệt giữa người Hà Nội với con người ở những vùng văn hoá khác. “Chẳng thơm cũng thể hoa nhài Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An” *Về mặt kinh tế - xã hội. Theo GS.TS Trần Ngọc Thêm trong cuốn “Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam”[35; tr.210, 221], nếu đô thị phương Tây được hình thành một cách tự phát khi có một trong ba điều kiện: là nơi tập trung đông dân, có sản xuất công nghiệp, là nơi tập trung buôn bán và chức năng chủ yếu của đô thị phương Tây là chức năng kinh tế, thì ở Việt Nam, đô thị chủ yếu thực hiện chức năng hành chính. Vì vậy, mặc dù trở thành kinh đô từ năm 1010 nhưng cho đến thế kỷ XVI - XVIII, kinh tế Thăng Long mới phát triển chủ yếu là nông nghiệp, thủ công nghiệp và thương nghiệp (buôn bán nhỏ), trong đó thương nghiệp giữ vai trò chi phối. Chỉ đến những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỉ XX, bộ mặt kinh tế Hà Nội mới có những biến đổi to lớn. Sau khi đế quốc Pháp xâm lược nước ta, hầu hết các xí nghiệp và công ty lớn của tư bản Pháp đặt trụ sở chính tại Hà Nội, như các công ty luyện kim và mỏ Đông Dương (1899), bông vải sợi Bắc Kỳ (1900), điện nước Đông Dương (1900), rượu Đông Dương (1901)…Các hiệu buôn lớn của tư bản Pháp cũng đua nhau mọc lên tại Hà Nội, chia nhau nắm giữ độc quyền thương mại. Có thể kể tới một số hãng buôn như: Boi Lăngđri (Boy Landry), Poăngxa và Vâyrê (Poinsaud et Vegret), Liên hiệp thương mại Đông Dương, Ngân hàng Đông Dương, một chi nhánh của Ngân hàng Pháp cũng đóng trụ sở chính tại Hà Nội và chi phối chặt chẽ mọi hoạt động của các xí nghiệp, công ty, hãng buôn của tư bản Pháp trên thị trường Đông Dương. Điều đặc biệt quan trọng là với sự tác động của ngành công nghiệp của đế quốc Pháp đã làm cho Hà Nội thực sự trở thành trung tâm kinh tế không chỉ của cả nước mà còn cả ở Đông Dương. Nền công nghiệp đó đã làm biến đổi sâu sắc kết cấu kinh tế và kết cấu giai cấp xã hội.
- Về kết cấu kinh tế, mặc dù trên thực tế các ngành sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp vẫn giữ vai trò quan trọng, nhưng tính chất của nền sản xuất đã thay đổi hẳn, nó mang tính công nghiệp, các nông sản là sự bóc lột thậm tệ đối với nông dân phục vụ trực tiếp cho ngành công nghiệp của Pháp. Bên cạnh đó một số ngành công nghiệp như khai thác mỏ, luyện kim đã thu hút nhiều lao động tạo ra một kết cấu xã hội giai cấp mới. Biểu hiện rõ nhất về kết cấu xã hội giai cấp là thời kỳ này tầng lớp tư sản người Việt được hình thành, và quan trọng hơn cả là sự hình thành và phát triển đội ngũ công nhân mới của Hà Nội. Đội ngũ công nhân này là những nông dân và thợ thủ công bị bần cùng hoá vì ruộng đất của họ bị đế quốc và phong kiến hùa nhau cướp đoạt. Như vậy, chính sự bóc lột của đế quốc Pháp và sự tác động to lớn của ngành công nghiệp đã làm xuất hiện giai cấp công nhân Hà Nội nói riêng và cả nước nói chung. Thời kỳ đầu, tư bản Pháp chủ trương chỉ mở nhỏ giọt một số cơ sở chế biến cho nhu cầu của đời sống và công việc khai thác của chúng, đồng thời chỉ sản xuất tại chỗ những hàng bán ngay ở Việt Nam mà không cạnh tranh với ngành công nghiệp của nước Pháp. Quá trình tập trung và phát triển công nhân vì vậy diễn ra chậm. Sau khi các nhà máy của thực dân Pháp được xây dựng ở một số thành phố lớn, những người nông dân đã rời bỏ làng quê ra tìm công ăn việc làm tại các thành phố, vùng mỏ, đồn điền. Từ đó cơ cấu xã hội ở thành thị bắt đầu thay đổi. Thành thị trở thành nơi đan xen, tồn tại của nhiều giai cấp, nhiều thành phần xã hội khác nhau và nó cũng thể hiện tính không thuần nhất trong từng kết cấu giai cấp và các thành phần xã hội khác nhau đó. Tất cả những điều đó nó tạo ra ở thành thị một kết cấu xã hội giai cấp hết sức phức tạp. Trong những năm đổi mới, kinh tế Hà Nội đã có sự thay đổi về chất. Cơ cấu kinh tế từng bước chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá: từ công nghiệp - nông nghiệp (cuối những năm 70 đầu những năm 80), chuyển thành: công - nông nghiệp - dịch vụ - kinh tế đối ngoại(giữa những năm 80); công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp - kinh tế đối ngoại(đầu những năm 90), và hiện nay đang chuyển theo hướng
- dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp - kinh tế đối ngoại. Hiện nay, tỷ trọng các ngành trong cơ cấu kinh tế cũng có sự thay đổi đáng kể, cụ thể là: Bảng 1.1: Hiện trạng và xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Hà Nội Đơn vị tính: % Năm TT 2000 2001 2005 2010 Ngành 1 Công nghiệp 38,0 39,1 41,5 42,0 - 42,5 2 Nông nghiệp 3,8 3,6 3,0 1,8 - 2,0 3 Dịch vụ 52,8 57,3 55,5 56,0 - 56,5 Nguồn: [2, tr.5]. Kinh tế Hà Nội có tốc độ phát triển nhanh, liên tục và tương đối toàn diện so với các địa phương khác trong cả nước. Thời kỳ 1986 - 1991 tốc độ tăng trưởng GDP đạt khoảng 8%/năm, đến thời kỳ năm 1991 - 1992 tăng lên 9%(tốc độ chung của cả nước thời kỳ này là 7,2%). Năm 1995 tốc độ tăng trưởng GDP là 15%(cả nước 9,5%), 1996 tăng 13% (cả nước 9,3%), 1997 tăng 12,5%(cả nước tăng 8,8%), 1998 tăng 9,2%(cả nước tăng5,8%), 2001 tăng 10,3%, năm 2003 tăng 11,1%[2; tr.18], năm 2004 tăng 11,12% [3; tr.35]. Cơ cấu kinh tế thay đổi đã kéo theo sự thay đổi của cơ cấu lao động: lao động trong các ngành công nghiệp, dịch vụ tăng lên rất nhanh, lao động trong nông nghiệp giảm cả tương đối và tuyệt đối(công nhân, lao động trong nông nghiệp giảm từ 40,09% năm 1995 xuống còn 30,18% năm 2000 và 20,06% năm 2004). Hiện nay, Hà Nội vẫn là trung tâm kinh tế lớn của cả nước với 29.408 doanh nghiệp đang hoạt động trên các lĩnh vực sản xuất khác nhau đã thu hút nhiều lao động, nhất là lao động từ các vùng lân cận, làm cho lao động Hà Nội không ngừng tăng lên. Trong lĩnh vực công nghiệp: ngoài 9 khu công nghiệp vốn có, Hà Nội cũng đầu tư vào xây dựng 5 khu công nghiệp tập trung, 2 khu công nghiệp vừa và nhỏ, giải quyết hơn 26 vạn lao dộng có việc làm ổn định. Công nhân, lao động trong
- nhóm ngành công nghiệp - xây dựng tăng từ 21,92% năm 1995, lên 24,46% năm 2000 và 29,32% năm 2004. Trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ, Hà Nội vẫn là thị trường phát triển sôi động, hàng hoá phong phú, đa dạng không chỉ đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng, nơi trao đổi hàng hoá, dịch vụ và thực hiện các giao dịch, mà còn là lĩnh vực hiện đang giải quyết việc làm cho số lượng lớn lao động ở Hà Nội và các tỉnh lân cận. Công nhân, lao động trong toàn ngành thương mại - dịch vụ tăng từ 37,99% năm 1995 lên 45,36% năm 2000 và 50,62% năm 2004. Trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại. đến năm 2000, trên địa bàn thành phố đã có 382 dự án đầu tư nước ngoài với tổng số vốn hơn 7,5 tỷ USD. Nhiều thị trường mới được khai thác, mở rộng thay thế thị trường xuất khẩu truyền thống bị hạn hẹp. Với tốc độ phát triển như hiện nay, Hà Nội sẽ có bước phát triển vững chắc và trở thành trung tâm kinh tế, chính trị, văn hoá của cả nước trong thế kỷ XXI. 1.3.2. Đặc điểm của giai cấp công nhân thành phố Hà Nội Giai cấp công nhân Hà Nội được hình thành từ cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp cuối thế kỷ XIX. Đại bộ phận công nhân Hà Nội xuất thân từ nông dân lao động ở các làng, xã ven nội thành và các huyện ngoại thành và một lực lượng không nhỏ thợ thuyền Hà Nội vốn là nông dân lao động các tỉnh đồng bằng, trung du Bắc Kỳ và một số vùng Trung Kỳ, vì sưu cao, thuế nặng, mất mùa đói kém tìm đến Hà Nội bán sức lao động cho các chủ tư sản trở thành công nhân. Có thể nói, giai cấp công nhân Hà Nội mang cả những đặc điểm chung của giai cấp công nhân, vừa mang đặc điểm của giai cấp công nhân Việt Nam, vừa mang những nét đặc thù do sự tác động của những điều kiện riêng có của Hà Nội. Giai cấp công nhân Việt Nam nói chung, giai cấp công nhân Hà Nội nói riêng cũng là sản phẩm và chủ thể của nền sản xuất công nghiệp. Nhưng, không phải là sản phẩm và chủ thể của nền kinh tế trong đó sự phát triển kinh tế tuân theo quy luật tự nhiên của sự phát triển sức sản xuất và phân công lao động xã hội đem lại, mà là sự áp đặt, sự thống trị của đế quốc Pháp vào nước ta. Trước khi thực dân
- Pháp xâm lược, nước ta vẫn là nước phong kiến (mặc dù đã xuất hiện một số mầm mống của kinh tế hàng hoá TBCN, nhưng chính sách trọng nông ức thương của triều đình Nguyễn làm cho nó thui chột). Về mặt xã hội, vẫn bao gồm hai giai cấp cơ bản là địa chủ phong kiến và nông dân. Khi thực dân Pháp và n ước ta, chúng đã cố duy trì phương thức áp bức bóc lột phong kiến với thủ đoạn bóc lột của chủ nghĩa thực dân tạo ra sự bần cùng hoá không thể tránh khỏi của nhân dân lao động, đồng thời cũng dẫn đến sự phân hoá xã hội ngày càng mạnh mẽ ở thành thị lẫn nông thôn. “Khi đế quốc Pháp đã đặt một hình thức chế độ tư bản trên đất Việt Nam thì tất cả các giai cấp trong nước đều phải nằm trong quá trình phát triển của CNTB thực dân, phải chuyển biến theo quá trình ấy”[4, tr.30]. VI.Lênin cũng chỉ rõ: “Một trong những đặc tính căn bản nhất của chủ nghĩa đế quốc chính là ở chỗ nó đẩy nhanh sự phát triển của chủ nghĩa tư bản trong các nước lạc hậu nhất” [13, tr.171]. Công, thương nghiệp thuộc địa phát triển, về khách quan đã dẫn tới sự nảy sinh lớp người làm thuê ăn lương, trong số đó có một số trở thành những người vô sản công nghiệp hiện đại. Một điều kiện đặc thù của Hà Nội làm cho giai cấp công nhân hình thành và phát triển là Hà Nội được Pháp coi là một trong những thành phố lớn nhất Đông Dương nên nhiều nhà máy xí nghiệp đã được xây dựng từ rất sớm và họ đã có một trình độ chuyên môn, kỹ thuật nhất định. Họ làm việc trong những nhà máy, xí nghiệp mà tính chất của nền sản xuất cao hơn các vùng khác trong cả nước. Vào những năm cuối của thế kỷ XIX, ở Hà Nội đã xuất hiện nhiều công ty thương mại lớn của tư bản Pháp. Nhiều nhà máy, xí nghiệp được xây dựng nhằm mục đích phục vụ chính quyền thực dân Pháp và bọn thống trị bóc lột công nhân bản xứ, vơ vét tài nguyên đưa về chính quốc. Trong bản thống kê về tình hình công nghiệp do Mơfore lập năm 1907, ở Bắc Kỳ có tất cả 85 xí nghiệp với 15.300 công nhân người Việt làm việc [11; tr.12]. Đến năm 1909, ở Bắc Kỳ có tới 100 nhà máy và công x ưởng với 22.000 công nhân người Việt[11; tr.12], trong đó Hà Nội là một trung tâm lớn. Trong những năm 1926 - 1927, tổng số doanh nghiệp lớn về công nghiệp và thương mại ở
- Hà Nội là 707, trong đó người Việt (tư sản Việt Nam) có 300. Hàng nghìn công nhân đã thu hút vào guồng máy sản xuất kinh doanh của tư sản người Việt. Đến cuối những năm 20 của thế kỷ XX, số lượng công nhân trong các nhà máy lớn của Pháp và trong một số xưởng của tư bản bản xứ (không kể công nhân các công trường xây dựng, các ngành phục vụ buôn bán) là gần một vạn trong tổng số 12 vạn dân Hà Nội lúc đó, và trong tổng số 220.000 công nhân cả nước. Khác với sự ra đời của công nhân các nước TBCN ở phương Tây, phần đông là xuất thân từ dân nghèo thành thị, công nhân Việt Nam nói chung, công nhân Hà Nội nói riêng chủ yếu xuất thân từ những nông dân còn gắn bó nhiều với ruộng đất. Nhưng, điều kiện đặc thù của Hà Nội có những khác biệt so với các vùng khác là những người gia nhập vào đội ngũ những người vô sản ở Hà Nội xuất thân từ nhiều nguồn khác nhau: một bộ phận xuất thân từ nông dân lao động ở các làng xã ven nội và các huyện ngoại thành bị tước mất ruộng đất; một lực lượng không nhỏ thợ thuyền vốn là nông dân lao động các tỉnh đồng bằng, Trung du Bắc kỳ và một số vùng Bắc Trung Kỳ…đã phiêu bạt lên Hà Nội. Điều này làm cho công nhân Hà Nội vừa mang bản sắc vùng kinh kỳ, vừa hoà trộn bản sắc của nhiều địa phương trong cả nước. Những bản sắc này được hoà hợp, thống nhất lại trong quá trình hình thành và phát triển đội ngũ công nhân Hà Nội. Mặt khác, chính điều này tạo ra sự đan xen phức tạp trong cơ cấu thành phần giai cấp. Sự đan xen này nếu thống nhất được nó sẽ tạo ra sức mạnh to lớn, nhưng nó cũng tiềm ẩn những yếu tố mất đoàn kết trong phong trào công nhân. Trong các nhà máy, xí nghiệp của Thực dân Pháp, công nhân bị bóc lột rất nặng nề và chịu sự đàn áp rất tàn bạo, dã man. Vì vậy, ngay từ rất sớm công nhân đã tiến hành đấu tranh chống lại sự đàn áp đó. Lúc đầu là những hình thức sơ khai, càng về sau công nhân càng trưởng thành về ý thức chính trị và vươn lên trở thành một lực lượng chính trị độc lập và lãnh đạo cuộc đấu tranh của nhân dân Thủ đô trong suốt thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Thời kỳ đầu, công nhân còn tiến hành đấu tranh sơ khai, nhưng càng về sau công nhân Hà Nội càng trưởng thành về chính trị vươn tới nắm lấy vũ khí đặc thù của giai cấp: bãi công. Cuộc bãi công đầu tiên là của công nhân hãng Liên hiệp
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn - Vốn lưu động và các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại công ty Vật liệu Xây dựng Bưu điện
82 p | 1101 | 482
-
Luận văn: Vốn lưu động và một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại Công ty thương mại và Đầu tư phát triển miền núi Thanh Hoá
46 p | 320 | 106
-
Tiểu luận:" Sự biến động đồng EURO và một số vấn đề đặt ra đối với Việt Nam "
131 p | 225 | 101
-
Luận văn: Những biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng lao động ở công ty Sản xuất – xuất nhập khẩu đầu tư thanh niên Hà Nội
91 p | 267 | 87
-
Luận văn: Sự biến động đồng EURO và một số vấn đề đặt ra đối với Việt Nam
108 p | 207 | 76
-
Luận văn: Vốn lưu động và các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty Vật liệu Xây dựng Bưu điện
82 p | 167 | 24
-
Đề án: Vận dụng phương pháp dãy số thời gian để phân tích sự biến động của kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ giai đoạn 2000-2008 và dự báo năm 2009
23 p | 137 | 18
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Mối quan hệ giữa sự biến động của các nhân tố kinh tế vĩ mô và thị trường chứng khoán Việt Nam
95 p | 60 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Địa lí học: Biến động dân số tỉnh Đắk Lắk giai đoạn 2000 - 2012
117 p | 104 | 11
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Vai trò của vàng đối với sự biến động đồng USD - Hàm ý với quản trị rủi ro
92 p | 38 | 11
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Tác động của chính sách cổ tức đến sự biến động giá cổ phiếu nghiên cứu các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam
83 p | 27 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý đất đai: Nghiên cứu sự biến động các loại hình sử dụng đất nông nghiệp trên địa bàn huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2014 - 2017
87 p | 29 | 6
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Quan hệ Quốc tế: Lập trường của Mỹ đối với các sự kiện liên quan tới Việt Nam trong vấn đề Biển Đông thời kỳ Chiến tranh Lạnh
27 p | 8 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Nghiên cứu đặc điểm biến động của sản lượng mủ cao su tại Lai Khê - Bến Cát - Bình Dương
109 p | 17 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu sự biến động thành phần loài và mật độ của lớp giáp xác ở sông Tiên, huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam
119 p | 20 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế phát triển: Ứng dụng mô hình cân bằng tổng thể để phân tích tác động của sự biến động giá xăng dầu đến các ngành kinh tế Việt Nam
111 p | 8 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kỹ thuật hoá học: Khảo sát ảnh hưởng của các yếu tố môi trường biển đến sự biến động thành phần lipid của san hô Sinularia flexibilis ở Việt Nam
85 p | 10 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn