BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THU SƯƠNG
TÁC ĐỘNG CỦA THỂ CHẾ CÔNG ĐẾN TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ TẠI CÁC QUỐC GIA KHU VỰC ASEAN
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
TP. Hồ Chí Minh – Năm 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THU SƯƠNG
TÁC ĐỘNG CỦA THỂ CHẾ CÔNG ĐẾN TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ TẠI CÁC QUỐC GIA KHU VỰC ASEAN
Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng Mã số: 60340201
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. SỬ ĐÌNH THÀNH
TP. Hồ Chí Minh – Năm 2014
LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của tôi. Các thông
tin, số liệu trong luận văn là trung thực, rõ ràng và cụ thể. Kết quả nghiên cứu trong
luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu
nào khác.
Học viên
Nguyễn Thu Sương
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục chữ viết tắt
Danh mục các bảng
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài ..................................................................................................... 1
2. Mục tiêu nghiên cứu ................................................................................................ 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................... 3
3.1. Đối tượng nghiên cứu ........................................................................................ 3
3.2. Phạm vi nghiên cứu ........................................................................................... 3
4. Dữ liệu và phương pháp nghiên cứu ........................................................................ 3
4.1. Dữ liệu ............................................................................................................... 3
4.2. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................... 3
5. Những phát hiện mới của luận văn .......................................................................... 4
6. Kết cấu của luận văn ................................................................................................ 4
Chương 1 - TỔNG QUAN .............................................................................................. 5
1.1. Dẫn nhập ............................................................................................................... 5
1.2. Định nghĩa thể chế công ....................................................................................... 5
1.3. Sự khác biệt về chính trị và thể chế của một số nước .......................................... 8
1.4. Mô hình tăng trưởng nội sinh và vai trò của Chính phủ ..................................... 11
1.5. Lý thuyết về thể chế và hoạt động kinh tế .......................................................... 14
1.6. Đánh giá các nghiên cứu thực nghiệm................................................................ 15
Chương 2 - MÔ HÌNH, DỮ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .................. 28
2.1. Mô hình nghiên cứu ............................................................................................ 28
2.2. Dữ liệu nghiên cứu ............................................................................................. 38
2.2.1. Dữ liệu về thể chế công ................................................................................ 41
2.2.2. Dữ liệu về các biến giải thích khác .............................................................. 44
2.3. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................... 46
Chương 3 - KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ........................................................................ 49
3.1. Kết quả kiểm định bằng phương pháp random effect (REM) ............................ 49
3.2. Kết quả kiểm định bằng phương pháp fixed effect (FEM) ................................ 51
3.3. Kiểm định để lựa chọn mô hình thích hợp ......................................................... 53
3.3.1. Kiểm định Hausman ..................................................................................... 53
3.3.2. Kiểm định phương sai sai số thay đổi .......................................................... 53
Chương 4 - KẾT LUẬN ................................................................................................ 59
Tài liệu tham khảo
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
AFDB: Ngân hàng phát triển Châu Phi
CCI: Chỉ số kiểm soát tham nhũng
DPR: Tỷ lệ người phụ thuộc
EIU: Economist Intelligence Unit Riskwire & Democracy Index
FDI: Đầu tư trực tiếp mước ngoài
FEM: Mô hình tác động cố định
FRH: Freedom House
GCS: World Economic Forum Global Competitiveness Report
GDP: GDP thực bình quân đầu người
GEI: Chỉ số hiệu quả Chính phủ
GFC: Tổng nguồn vốn cố định
GLS: Phương pháp bình phương tổng quát
HER: Heritage Foundation Index of Economic Freedom
HHC: Chi tiêu thực bình quân đầu người của hộ gia đình
HUM: Cingranelli Richards Human Rights Database and Political Terror Scale
PRS: Political Risk Services International Country Risk Guide
PSI: Chỉ số bất ổn chính trị và không có bạo lực
REM: Mô hình tác động ngẫu nhiên
RLI: Chỉ số quy định của pháp luật
RQI: Chỉ số chất lượng điều tiết
SCH: Tỷ lệ số học sinh đến trường
TEL: Số điện thoại cố định/100 dân
TRD: Thương mại
VAI: Chỉ số tiếng nói và trách nhiệm giải trình
WGI: The Worldwide Governance Indicators
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Kỳ vọng dấu các biến giải thích ........................................................................... 38
Bảng 2.2. Mô tả các biến giải thích và thống kê ................................................................... 44
Bảng 2.3. Ma trận tương quan giữa các biến ........................................................................ 46
Bảng 3.1. Kết quả ước lượng mô hình tác động ngẫu nhiên (REM) .................................... 50
Bảng 3.2. Kết quả ước lượng mô hình tác động cố định (FEM) .......................................... 52
Bảng 3.3. Kết quả kiểm định Hausman ................................................................................ 53
Bảng 3.4. Kết quả kiểm định Breusch – Pagan Lagrangian Multiplier ................................ 54
Bảng 3.5. Kết quả ước lượng mô hình FGLS ....................................................................... 58
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài Đến nay, trên thế giới cũng như tại Việt Nam đã có nhiều nghiên cứu thực
nghiệm về tăng trưởng. Các nghiên cứu này xem xét tác động của nhiều nguồn khác
nhau đến tăng trưởng như: phân cấp tài khóa, lạm phát, yếu tố lao động, thương mại,
viện trợ, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), yếu tố địa lý và hàng loạt các yếu tố khác
tác động đến tăng trưởng kinh tế trong khuôn khổ của mô hình tân cổ điển. Cho đến
đầu những năm 90, vấn đề chất lượng thể chế đã trở thành một khái niệm quan trọng
trong các cuộc tranh luận quốc tế về phát triển và chính sách.
Việc nhấn mạnh yếu tố chất lượng thể chế được đặt nền tảng dựa trên các lý
thuyết về mối liên hệ giữa thể chế và tăng trưởng, khủng hoảng kinh tế do Acemoglu et
al. (2002), Rodrik et al. (2002), Fukuyama (1995), Sen (1999), Johnson et al. (2000)
trình bày cũng như lý thuyết thông tin bất cân xứng (asymmetric information) trong thị
trường tài chính của Mishkin (1996, 2001). Đây chỉ là những tác giả tiêu biểu trong số
rất nhiều tác giả. Fukuyama (1995) cũng cho rằng sự tin tưởng lẫn nhau trong xã hội
(trust) sẽ làm giảm chi phí quản lý, tăng cường tầm cỡ và hiệu quả của chính phủ, qua
đó ngăn ngừa được khủng hoảng và đóng góp tốt cho tăng trưởng kinh tế. Lòng tin là
yếu tố quan trọng trong thị trường tài chính, nếu thực sự có lòng tin thì thị trường sẽ
hoạt động ổn định và ít đổ vỡ diện rộng.
Acemoglu et al. (2002) gợi ý rằng các nước có các chính sách kinh tế vĩ mô kém
hoặc không nhất quán thường có thể chế yếu, không có các ràng buộc quyền lực đối
với các chính trị gia, bảo vệ quyền sở hữu kém và tham nhũng ở mức độ cao. Các
chính sách kinh tế không nhất quán là triệu chứng của thể chế yếu kém chứ không phải
là nguyên nhân của khủng hoảng. Trong khi Mishkin (1996, 2001) dùng lý thuyết
thông tin bất cân xứng tìm hiểu nguyên nhân khủng hoảng (ví dụ như hiện tượng tâm
2
lý ỷ lại - moral hazard) và từ đó đề nghị các chính sách ngăn ngừa bằng luật lệ và quy
định chặt chẽ cho thị trường tài chính, đặc biệt là sự cam kết trách nhiệm của chính phủ
và tính minh bạch thông tin trong các thị trường và chính sách.
Trong lịch sử, đa phần các quốc gia trong khu vực ASEAN đều trải qua thời kỳ bị
thống trị bởi những cường quốc, do đó về mặt văn hóa, chính trị, thể chế công cũng bị
ảnh hưởng và có sự pha trộn từ nhiều nguồn khác nhau. Các nước này đã phải trải qua
một quá trình khôi phục, chỉnh đốn và hiện nay đã dần đi vào ổn định. Tuy nhiên, trong
những năm gần đây, vấn đề thể chế công đã trở thành vấn đề quan tâm cấp bách của
nhiều quốc gia.
Khi nền kinh tế thị trường càng phát triển, các hoạt động kinh tế, xã hội càng tinh
vi, nếu năng lực thể chế không theo kịp sẽ dẫn đến sự suy thoái của nền kinh tế. Tuy
nhiên, nhận định trên chỉ mang tính lý thuyết, trực giác. Nhưng nếu xét về mặt thực
tiễn thì chất lượng thể chế công có ảnh hưởng không và nếu có sẽ ảnh hưởng như thế
nào đến tăng trưởng. Để giải quyết câu hỏi đặt ra đó, tác giả đã chọn đề tài “Tác động
của chất lượng thể chế công đến tăng trưởng kinh tế tại các quốc gia khu vực ASEAN”
để nghiên cứu và thực hiện luận văn của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu này là để phân tích cả về mặt lý thuyết và thực nghiệm tác
động của chất lượng thể chế công đến tăng trưởng bằng cách xem xét các khía cạnh
khác nhau của khái niệm về thể chế công.
Luận văn nghiên cứu tác động của thể chế công đến tăng trưởng kinh tế thông qua
các chỉ số đánh giá như: chỉ số tiếng nói và tính giải trình, chỉ số tính ổn định chính trị,
chỉ số hiệu quả của chính phủ, chỉ số chất lượng điều tiết, chỉ số quy định của pháp luật
và chỉ số kiểm soát tham nhũng.
Thông qua nghiên cứu, tác giả muốn làm rõ những câu hỏi nghiên cứu như: chất
lượng thể chế công có tác động đến tăng trưởng kinh tế hay không? Và nếu có, tác
3
động sẽ như thế nào? Từ đó, tác giả có hướng đề xuất những giải pháp, chính sách thúc
đẩy tăng trưởng bền vững, ổn định.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài chủ yếu nghiên cứu tác động của chất lượng thể chế công đến tăng trưởng
kinh tế của các quốc gia khu vực ASEAN giai đoạn 1996 – 2012.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu tác động chất lượng thể chế đến tăng trưởng kinh tế 8 quốc gia
khu vực ASEAN giai đoạn 1996 – 2012 thông qua 6 biến chính VAI - chỉ số tiếng nói
và trách nhiệm giải trình, PSI - chỉ số tính ổn định chính trị, GEI - chỉ số hiệu quả của
chính phủ, RQI - chỉ số chất lượng điều tiết, RLI - chỉ số quy định của pháp luật và
CCI - chỉ số kiểm soát tham nhũng. Ngoài 6 biến trên, tác giả còn sử dụng thêm một
biến như mô hình (1) đã nêu.
4. Dữ liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Dữ liệu
Dữ liệu về thể chế và nền kinh tế của các quốc gia khu vực ASEAN được thu
thập giai đoạn 1996 – 2012 từ WDI (World Bank Development Indicators).
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện nghiên cứu, tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng
trên cơ sở xây dựng các dữ liệu để tiến hành kiểm định tác động của thể chế công đến
tăng trưởng kinh tế thông qua phương pháp bình phương bé nhất (OLS), mô hình tác
động cố định (fixed effect model), mô hình tác động ngẫu nhiên (random effect model)
và một số kiểm định cần thiết khác để lựa chọn mô hình thích hợp nhất. Bên cạnh đó,
nghiên cứu còn sử dụng phương pháp ước lượng FGLS để khắc phục những khuyết
điểm của OLS.
Mô hình nghiên cứu được thực hiện cụ thể như sau:
4
GDPit = α + β1GFCit + β2SCHit + β3TRDit + β4AIDit + β5FDIit + β6HHCit +
β7DPRit + β8TELit + β9GGit+ εit(1)
Các biến của mô hình sẽ được mô tả chi tiết ở chương 3.
5. Những phát hiện mới của luận văn
Thông qua kết quả nghiên cứu thực nghiệm, luận văn chỉ ra rằng chất lượng thể
chế công có tác động đến tăng trưởng kinh tế tại các quốc gia khu vực ASEAN, những
quốc gia có chất lượng thể chế công tốt sẽ thúc đẩy tăng trưởng ổn định, và ngược lại,
ở những nước có thể chế công kém sẽ kéo theo tăng trưởng chậm.
Ngoài ra, luận văn còn đóng góp một phần quan trọng vào nghiên cứu về thể chế
công. Kết quả nghiên cứu cho thấy có sự khác biệt trong thể chế công ở những quốc
gia sẽ khác nhau, và mỗi dẫn xuất khác nhau của thể chế công sẽ có tác động khác
nhau đến tăng trưởng kinh tế.
Bên cạnh đó, nghiên cứu của tác giả xem như một nghiên cứu mới để nhìn nhận
một cách khách quan về thực trạng và chất lượng thể chế công của các quốc gia khu
vực ASEAN. Qua đó, tác giả cung cấp một số đề xuất cần thiết cho hoạch định chính
sách.
6. Kết cấu của luận văn
Phần còn lại của luận văn được tổ chức như sau: Chương 1 cung cấp một định
nghĩa thể chế công dựa trên các định nghĩa được sử dụng trong các nghiên cứu trước
đó và xem xét ngắn gọn các tài liệu về thể chế công và hiệu quả kinh tế. Trong Chương
2 sẽ phát triển một mô hình lý thuyết đơn giản liên kết thể chế công và tăng trưởng
kinh tế, mô tả các phương pháp ước lượng thực nghiệm và dữ liệu nghiên cứu. Chương
3 trình bày và thảo luận về kết quả thực nghiệm. Chương 4 kết luận của luận văn và đề
xuất hoạch định chính sách.
5
Chương 1 - TỔNG QUAN
1.1. Dẫn nhập Hơn 15 năm qua, các lý thuyết về thể chế công và tác động của nó đến tăng
trưởng kinh tế từng bước được thực hiện. Lý thuyết này được thúc đẩy bởi mối tương
quan rõ ràng giữa chất lượng thể chế công và sự khác biệt về mức sống giữa các quốc
gia. Vì vậy, chương này sẽ cung cấp một cuộc khảo sát một vài phát hiện chính bắt
nguồn từ một số nghiên cứu trước đó. Chương này cũng sẽ thảo luận về các biện pháp
thể chế công được sử dụng trong các nghiên cứu và làm nổi bật một số khó khăn trong
việc đánh giá tác động kinh tế của thể chế công cả về mặt lý thuyết và thực nghiệm.
Ngoài ra, luận văn sẽ xem xét một số các nghiên cứu tập trung vào nguyên nhân của sự
khác biệt về thể chế giữa các nước.
Cơ cấu chương 1 như sau: phần đầu tiên tóm tắt, xem xét các định nghĩa khác
nhau về thể chế công đã được đưa ra từ các nhà nghiên cứu trước trong lĩnh vực này.
Trong phần thứ hai sẽ thảo luận về những nguyên nhân của sự khác biệt về chất lượng
của thể chế. Trong phần thứ ba sẽ xem xét các liên kết giữa lý thuyết chất lượng thể
chế công và hiệu quả kinh tế như đã được thiết lập trong các nghiên cứu. Cuối cùng,
trong phần thứ tư sẽ làm nổi bật những nghiên cứu thực nghiệm về thể chế công, các
phương pháp khác nhau của thể chế công được sử dụng trong các nghiên cứu khác
nhau và các vấn đề gặp phải trong nghiên cứu thực nghiệm tác động của thể chế công
đến các biện pháp quản lý hoạt động kinh tế.
1.2. Định nghĩa thể chế công
Việc định nghĩa những yếu tố cấu thành thể chế công đã phát triển trong những
năm qua. Schneider (1999) định nghĩa chất lượng thể chế công như là việc thi hành
thẩm quyền hoặc kiểm soát để quản lý hoạt động và tài nguyên của một quốc gia. Cơ
quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID, 2002) theo khía cạnh khác đã định nghĩa thể
chế công là một hệ thống phức tạp của sự tương tác giữa các cấu trúc, truyền thống,
6
chức năng và quy trình đặc trưng bởi giá trị của trách nhiệm giải trình, tính minh bạch
và sự tham gia. UNDP (2002) định nghĩa thể chế công là phấn đấu vì quy định của
pháp luật, tính minh bạch, công bằng, hiệu quả, trách nhiệm và tầm nhìn chiến lược
trong việc thực thi quyền lực chính trị, kinh tế và hành chính.
Trong khi các tài liệu không cung cấp bất kỳ định nghĩa chính xác duy nhất nào
về thuật ngữ thể chế công, nhưng dường như có một sự thống nhất về các khía cạnh
của nó. “Thể chế công liên quan đến cách chính phủ được cấu trúc, quy trình quản lý
và kết quả là thực hiện những điều liên quan đến nhu cầu của những công dân mà họ
phục vụ” Jreisat (2002). Các khía cạnh này bao gồm các tổ chức của hệ thống xã hội,
kinh tế và chính trị, phân bổ các nguồn lực công cho các thành viên của xã hội, việc thu
hồi và thực thi quyền lực chính trị, tất cả đều quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã
hội của một xã hội bất kỳ.
Như đã thảo luận bởi Keefer (2004), thuật ngữ thể chế công “rất đàn hồi và đa
chiều”. Tuy nhiên, Keefer (2004) cũng chỉ ra rằng hầu hết các định nghĩa đều liên quan
đến “mức độ mà các chính phủ đáp ứng cho người dân và cung cấp cho họ các dịch vụ
cốt lõi nhất định, chẳng hạn như bảo vệ quyền sở hữu, các quy định chung của pháp
luật và mức độ mà thể chế cung cấp cho các nhà hoạch định chính phủ một động lực để
đáp ứng tốt cho công dân”.
Vì bản chất đa chiều của thể chế công, một số định nghĩa đã xuất hiện trong các
tài liệu. Ngân hàng Thế giới định nghĩa thể chế công là “thực thi quyền lực chính trị để
điều hành hoạt động của một quốc gia”. Ngân hàng Phát triển châu Phi (1999) mở rộng
định nghĩa của Ngân hàng Thế giới để thích ứng với nền kinh tế toàn cầu thay đổi
trong bối cảnh toàn cầu hóa. AfDB định nghĩa thể chế công là “một quá trình đề cập
đến cách thức mà quyền lực được thực thi trong việc quản lý vấn đề công của một quốc
gia và mối quan hệ với các quốc gia khác”.
Điều quan trọng cần lưu ý là các định nghĩa của Ngân hàng Thế giới và AfDB
dường như chú trọng nhiều hơn về hiệu quả của chính phủ trong việc cung cấp dịch vụ
7
cho các thành viên trong xã hội của họ. Tuy nhiên, như được thảo luận bởi Keefer
(2004), khái niệm rộng hơn về thể chế công nên bao gồm các cơ chế khuyến khích chi
phối các hành động của các tác nhân chính trị. Đây là vấn đề của hệ thống chính trị và
kinh tế.
Những nghiên cứu trước đây về phát triển kinh tế ngầm giả định rằng các chính
trị gia sẽ đưa ra quyết định tối đa hóa phúc lợi xã hội. Dethier (1999) đã đưa ra quan
điểm rằng “chính phủ không phải là nhà độc tài nhân từ mà là những người tìm kiếm
cách để tối đa hóa phúc lợi xã hội, nhưng cấu trúc thể chế phức tạp đặc trưng bởi các
mối quan hệ đại diện”.Sử dụng hiệu quả các nguồn lực công không chỉ phụ thuộc vào
thể chế (hạn hẹp như là cấu trúc tổ chức), mà còn phụ thuộc vào các chương trình ưu
đãi trong các tổ chức công Dethier (1999).
Một định nghĩa rộng hơn về thể chế được cung cấp bởi North (1990) là “những
quy tắc của những trò chơi trong xã hội hoặc chính thức hơn là “những trở ngại mà con
người đặt ra để hình thành sự giao tiếp giữa con người với nhau trong xã hội”. Định
nghĩa rộng hơn này quy định cơ chế khuyến khích trong cơ chế ra quyết định. Một định
nghĩa khác ám chỉ tới cái nhìn toàn diện hơn về thể chế này được cung cấp bởi
Kaufman và Kraay (2002).
Kaufmann và Kraay (2002) định nghĩa thể chế công là “truyền thống và các tổ
chức mà chính quyền được thực thi trong một quốc gia”. Theo các tác giả, điều này bao
gồm quá trình mà các chính phủ được tuyển chọn, kiểm soát và thay thế; khả năng của
chính phủ để thiết lập và thực thi chính sách; sự tôn trọng của người dân và nhà nước
đối với các tổ chức để quyết định các tương tác giữa kinh tế và xã hội. Đặc biệt, quá
trình mà các chính phủ được tuyển chọn và giám sát tác động rất lớn đến cơ chế
khuyến khích trong các tổ chức chính phủ.
Tóm lại, hiệu quả của các chính phủ trong việc cung cấp dịch vụ cho người dân
của họ rõ ràng không phải là ngoại sinh - nó phụ thuộc vào cơ chế khuyến khích, do đó
phụ thuộc vào việc lựa chọn và giám sát chính trị và những nhà hoạch định chính sách
8
khác. Phần sau của chương này sẽ thảo luận về các khía cạnh của thể chế đặt ra những
thách thức nghiêm trọng cả về mặt lý thuyết và thực nghiệm trong nghiên cứu tác động
của thể chế đến tăng trưởng kinh tế.
1.3. Sự khác biệt về chính trị và thể chế của một số nước
Cuộc điều tra trong nỗ lực tìm hiểu tác động kinh tế của thể chế công đã đưa ra
phát hiện quan trọng là nên tập trung vào những nguyên nhân của sự khác biệt về thể
chế giữa các nước. Nói cách khác, tại sao một số quốc gia có thể chế tương đối kém
hiệu quả thì việc cung cấp các dịch vụ cho công dân của họ lại kém hơn so với các
nước khác? Tại sao tham nhũng tràn lan ở một số nước mà không có ở những nước
khác? Tại sao chúng ta quan sát sự khác biệt trong quan liêu, bảo vệ quyền sở
hữu…giữa các quốc gia? Những nghiên cứu gần đây trong lĩnh vực phát triển kinh tế
đã nỗ lực để trả lời một số trong các câu hỏi trên. Phần này cung cấp một đánh giá
ngắn gọn của một vài nghiên cứu.
La Porta et al. (1999) đã đề cập đến vai trò của nguồn gốc thuộc địa trong việc
giải thích sự khác biệt về thể chế hiện hành. Các tác giả nhận thấy rằng những nước mà
trước đây là thuộc địa của Anh có thể chế tốt hơn trong việc bảo vệ quyền sở hữu so
với các nước trước đây là thuộc địa của Pháp, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha. Phát hiện
của họ được hỗ trợ bởi các tác giả khác, những người đã nhận thấy rằng thuộc địa của
Anh đã áp dụng hệ thống pháp lý luật phổ biến (trái ngược với luật dân sự được mã hóa
của Pháp) thì có thể chế kinh tế tốt hơn (Landes, 1998).
Acemoglu et al. (2001) sử dụng một biến thể của mối liên hệ giữa thực dân và các
thể chế hiện hành hoặc chất lượng thể chế. Họ nhìn vào “điều kiện ở các thuộc địa”
chứ không phải ở các nước thực dân. Tranh luận rằng các thể chế hiện tại là kết quả
của loại hình thực dân định cư so với thực dân khai thác. Thực dân định cư là những
người thực dân Châu Âu thành lập các khu định cư như Úc, Canada, Hoa Kỳ và New
Zealand. Mặt khác, các thuộc địa khai thác là những nước mà các cường quốc thực dân
khai thác nguyên vật liệu mà không cần thiết lập các khu định cư vĩnh viễn.
9
Acemoglu et al. (2001) cho rằng sự lựa chọn loại hình chủ nghĩa thực dân với các
điều kiện ở các thuộc địa có thể được quan sát thấy từ tỷ lệ người châu Âu định cư tử
vong. Ở những nơi mà tỷ lệ người định cư tử vong cao thì loại hình thuộc địa khai thác
được thành lập. Vì vậy, các thể chế về bảo vệ quyền sở hữu không được đưa ra. Mặt
khác, các thuộc địa định cư được đặc trưng bởi thể chế nhằm bảo vệ quyền sở hữu. Các
tác giả còn cho rằng điều này giải thích sự khác biệt trong thể chế hiện hành vì chất
lượng thể chế có xu hướng tồn tại.
Ndulu và O’Connell (1999) cũng chỉ ra những nguyên nhân lịch sử như một lời
giải thích chính đáng cho các thể chế chính trị kém của khu vực châu Phi hạ Sahara.
Ngoài chế độ thực dân, họ thảo luận về thời đại hậu thuộc địa được đặc trưng bởi chế
độ độc tài dân sự trong những năm 60 và 70. Tiếp theo đó là chế độ độc tài quân sự
trong những năm 80. Họ cũng cho rằng tác động tiêu cực của những sự kiện chính trị
liên tiếp được khuếch đại bởi tác động của chiến tranh lạnh mà kết quả rơi vào “một
cuộc chiến để kiểm soát tư tưởng của các cường quốc lớn trong chiến tranh” - Hoa Kỳ
và Liên Xô. Điều này có thể hoặc ít nhất một phần giải thích hiện trạng phát triển thể
chế ở các nước này, do đó giải thích mức độ hoạt động kinh tế.
Ý nghĩa của các sự kiện chính trị hậu thuộc địa tại khu vực châu Phi hạ Sahara và
châu Mỹ La tinh đặc trưng bởi quy luật chủ nghĩa thuộc về nhà thờ, có thể liên quan
đến việc “điểm xung đột xã hội” được đưa ra bởi Acemoglu et al. (2004). Theo quan
điểm này, các thể chế được lựa chọn bởi những người kiểm soát quyền lực chính trị.
Do đó, các thể chế được lựa chọn sẽ là tối đa hóa lợi ích của các nhóm quyền lực chính
trị chứ không phải là lợi ích xã hội.
Tuy nhiên, chúng ta nên lưu ý rằng, trong bối cảnh các cuộc thảo luận về quy luật
hậu thuộc địa tại khu vực Châu phi hạ Sahara và châu Mỹ La tinh, sự xuất hiện của quy
luật thuộc về chủ nghĩa nhà thờ được cho là kết quả trực tiếp của thể chế thuộc địa thiết
lập để tối đa hóa lợi ích của chủ nghĩa thực dân - một hình thức của “điểm xung đột xã
hội”. Acemoglu et al. (2004) cũng đề cập một số lý do chính đáng khác cho sự khác
10
biệt về thể chế giữa các nước. Một trong những lý do mà họ gọi là “điểm hệ tư tưởng”,
ở đó tác nhân chính trị thiện chí không đồng ý về những thể chế tốt cho xã hội của họ.
Do sự không chắc chắn này, “những xã hội lần lượt được chỉnh đốn sau đó là những xã
hội phát triển thịnh vượng”.
Một số tác giả khác đã liên kết chất lượng thể chế với một biến khác như ngôn
ngữ dân tộc La Porta et al. (1999), Mauro (1995). Theo nghiên cứu thực nghiệm, phân
mảnh ngôn ngữ dân tộc thường được đo bằng khả năng mà bất kỳ hai công dân chọn
ngẫu nhiên thuộc các nhóm dân tộc khác nhau. Giả thuyết ở đây là xã hội bị chia cắt
nhiều sẽ có thể chế yếu kém. Lý do cho giả thuyết này là gì? Một câu trả lời xác đáng
cho câu hỏi này là xã hội như thế rất ít khả năng để thống nhất về bất kỳ một tập hợp
các thể chế nào so với các xã hội đồng nhất hơn. Một cách giải thích thứ hai cho quan
sát này là mâu thuẫn xã hội gia tăng rất lớn trong các xã hội dân tộc bị chia cắt và các
nhóm mạnh về chính trị sẽ thiết lập thể chế để tối đa hóa phúc lợi của nhóm mình.
Hơn nữa, La Porta et al. (1999) tìm thấy rằng các nước nghèo hoặc có một tỷ lệ
cao người Công giáo hoặc Hồi giáo thì chính phủ sẽ hoạt động kém hiệu quả hơn
những nước khác. Họ đo lường hiệu quả của chính phủ trong việc sử dụng các biện
pháp can thiệp của chính phủ (bảo vệ quyền sở hữu, điều lệ thương nghiệp và thuế),
hiệu quả của chính phủ (trì hoãn quan liêu, tham nhũng…) sản lượng hàng hóa công và
quy mô của khu vực công. Họ lập luận rằng các tác động tiêu cực của Công giáo và
Hồi giáo có thể là kết quả của “việc sử dụng tôn giáo cho mục đích chính trị tại các
quốc gia Hồi giáo và Công giáo và sự cạnh tranh phá hoại giữa giáo hội và nhà nước ở
các quốc gia Công giáo nói riêng”. Cạnh tranh như vậy có thể dẫn đến những chính
sách không có lợi cho thị trường hoạt động hiệu quả.
Vấn đề Địa lý (độ cao và khí hậu) cũng liên quan đến chất lượng của thể chế. Một
lần nữa, La Porta et al. (1999) cho thấy rằng các quốc gia gần đường xích đạo thì chính
phủ hoạt động kém hiệu quả hơn. Một lập luận cho mối quan hệ này được trình bày bởi
Hall (1999), liên quan đến vĩ độ “Ảnh hưởng phương Tây”, dẫn đến thể chế tốt hơn.
11
Tuy nhiên, nhược điểm trong lập luận này đó là vị trí địa lý (được đo lường khoảng
cách gần với đường xích đạo) có thể có một tác động trực tiếp lên thu nhập bình quân
đầu người, do đó tác động đến chất lượng thể chế (Acemoglu, Johnson và Robinson
(2001), Bloom et al. (1998)). Khí hậu ấm áp có thể có liên quan đến năng suất thấp hơn
và do đó làm cho thu nhập thấp. Bởi vì xã hội thịnh vượng có liên quan đến thể chế tốt
hơn, ảnh hưởng của địa lý về chất lượng thể chế có thể thực sự được truyền đi thông
qua thu nhập thay vì khoảng cách so với “Ảnh hưởng phương Tây” như lập luận của
Hall và Jones (1999).
Cuối cùng, Knack (2000) nghiên cứu tác động của sự phụ thuộc vào viện trợ của
chất lượng thể chế. Ông thấy rằng “sự lệ thuộc viện trợ sẽ làm suy yếu chất lượng thể
chế vì nó làm yếu đi trách nhiệm, khuyến khích tìm kiếm đặc lợi và tham nhũng, kích
động xung đột quyền kiểm soát các quỹ viện trợ, bòn rút tài năng khan hiếm từ bộ máy
quan liêu và giảm áp lực cải cách chính sách và thể chế hiệu quả”. Mặc dù những phát
hiện này là đáng tin cậy, những điều này có thể có vấn đề lựa chọn mẫu theo ý nghĩa là
nước phụ thuộc viện trợ thường người nghèo và có thể chế kém hơn. Knack (2000) đã
khắc phục những vấn đề này bằng cách sử dụng biến tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh vào năm
1980 và GDP bình quân đầu người ban đầu.
1.4. Mô hình tăng trưởng nội sinh và vai trò của Chính phủ
Mô hình tăng trưởng tân cổ điển được coi là mô hình chuẩn đầu tiên, hội tụ được
khá nhiều các yếu tố quyết định tăng trưởng kinh tế dài hạn. Thế nhưng, mô hình tăng
trưởng tân cổ điển vừa là một thành công lớn, lại vừa là một thất bại lớn. Một hạn chế
lớn nhất của mô hình tăng trưởng tân cổ điển là trong dài hạn, nguồn tác động đến tốc
độ tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người duy nhất trong mô hình này là tốc độ
tăng hiệu quả lao động lại được xác định một cách ngoại sinh.
Những hạn chế của mô hình tăng trưởng tân cổ điển đã thúc đẩy nhiều hướng
nghiên cứu mở rộng mô hình để phù hợp hơn với thực tế của các nước đang phát triển
và đã đưa đến sự ra đời của các mô hình tăng trưởng nội sinh. Gọi là mô hình tăng
12
trưởng nội sinh là bởi các mô hình tăng trưởng mới này cố gắng nội hoá sự tăng
trưởng, nghĩa là giải thích tăng trưởng bên trong một mô hình của nền kinh tế.
Trong mô hình tăng trưởng nội sinh, tăng năng suất có được từ tích luỹ vốn con
người hay các hoạt động phát minh sáng chế là yếu tố tạo nên tăng trưởng dài hạn của
thu nhập bình quân đầu người. Do đó, tăng năng suất - “làm việc thông minh hơn” chứ
không phải là “làm việc chăm chỉ hơn” - là yếu tố thiết yếu của tăng trưởng kinh tế nói
chung.
Nếu như lực lượng chính của tăng trưởng kinh tế không phải là sự tích luỹ vốn
hữu hình (như quan điểm truyền thống) mà là tiến bộ công nghệ (được hiểu theo nghĩa
rộng là tổng năng suất), thì cho dù các nước nghèo có khả năng tiết kiệm thấp vẫn có
thể đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nếu có thể nhập khẩu công nghệ từ các nền
kinh tế tiên tiến. Khi đó, việc đầu tư vào giáo dục, nghiên cứu và phát triển (hỗ trợ hoạt
động cải tiến ở các doanh nghiệp tư nhân, bao gồm cả nhập khẩu công nghệ nước
ngoài) sẽ mang lại hiệu quả tăng trưởng kinh tế cao hơn là việc chỉ cố gắng gia tăng
lượng vốn hữu hình.
Các mô hình tăng trưởng nội sinh, đặc biệt là các mô hình xét đến vốn con người
đã góp phần giải thích đáng kể sự chênh lệch về thu nhập giữa các quốc gia. Các mô
hình này cho thấy không có xu hướng các nước nghèo (ít vốn) có thể đuổi kịp các nước
giàu về mức thu nhập bình quân, cho dù có cùng tỷ lệ tiết kiệm.
Nguyên nhân bắt nguồn từ sự chênh lệch không chỉ ở lượng vốn vật chất (có thể
bù đắp nhờ đầu tư và viện trợ nước ngoài) mà quan trọng hơn là ở vốn con người. Bởi
thế, ý nghĩa to lớn của các mô hình tăng trưởng nội sinh là: tốc độ tăng trưởng dài hạn
có thể phụ thuộc vào hành động chính sách của chính phủ (đánh thuế, cung ứng cơ sở
hạ tầng, bảo hộ sở hữu trí tuệ, cung cấp các dịch vụ công liên quan đến giáo dục, y
tế…), vì các chính sách này có thể tác động tới các hoạt động sáng chế, phát minh và
tích lũy vốn con người.
13
Tuy nhiên, các mô hình tăng trưởng nội sinh còn bỏ qua những yếu tố như sự yếu
kém về cấu trúc hạ tầng, cấu trúc thể chế ở các nước đang phát triển, mà đây cũng là
những yếu tố kìm hãm tăng trưởng, giống như mức tiết kiệm và tích luỹ vốn con người
thấp. Từ lâu người ta đã nhận ra rằng các nhân tố phi kinh tế có mối tương tác với quá
trình tăng trưởng. Tuy nhiên, trong các mô hình tân cổ điển và tăng trưởng nội sinh,
lịch sử và thể chế không có vai trò gì.
Các kỹ thuật tính toán tăng trưởng đo tầm quan trọng tương đối của mức vốn, lao
động và công nghệ trong quá trình tăng trưởng kinh tế chỉ thực hiện trong khuôn khổ
một hàm sản xuất kinh tế vĩ mô. Thế nhưng các nhà kinh tế thể chế hiện đại lập luận
rằng thể chế là cấu trúc mang tính thúc đẩy của một xã hội, do đó các luật lệ, quy
tắc…tạo nên nền tảng thể chế của một xã hội sẽ chi phối sự phân bổ các nguồn lực của
xã hội và nền kinh tế, và do vậy có ảnh hưởng lớn đến năng suất.
Nếu như các mô hình kinh tế về tích tụ các yếu tố sản xuất thay đổi công nghệ nội
sinh chỉ cung cấp những lời giải thích gần đúng cho tăng trưởng kinh tế tương đối, thì
những mô hình nào đưa ra lời giải thích đáng tin cậy hơn cả? Nhiều nhà nghiên cứu
gần đây cho rằng thể chế mới là yếu tố cơ bản quyết định cho tăng trưởng kinh tế. Khi
nhấn mạnh tầm quan trọng của lý thuyết thể chế và các thể chế kinh tế, để có các đánh
giá khách quan hơn, cần xem xét tới vai trò cũng như hoạt động của chính phủ.Mô hình
nội sinh nêu lên những hạn chế về khả năng rượt đuổi của các nước đang phát triển bởi
sự hạn chế về khả năng vốn con người. Giải pháp để những nước này thoát nghèo và
đuổi kịp các nước phát triển chỉ có thể là đầu tư và phát triển nguồn nhân lực. Muốn
việc đầu tư và phát triển nguồn nhân lực đạt hiệu quả cao thì Chính phủ có vai trò
chính yếu nhất.
Dường như, việc xem xét và mô hình hoá tác động của các nhân tố phi kinh tế nói
chung, và yếu tố thể chế nói riêng, sẽ trở thành một hướng đi mới, một bước tiến mới
trong con đường tìm tòi và khám phá “các nguồn tăng trưởng kinh tế” trong tương lai
phù hợp với các quốc gia khu vực ASEAN.
14
1.5. Lý thuyết về thể chế và hoạt động kinh tế
Mặc dù nghiên cứu chi tiết về vai trò của thể chế công đối với tăng trưởng kinh
tế và phát triển là tương đối mới, tầm quan trọng của thể chế công tốt đã được công
nhận từ thế kỷ trước được thể hiện trong các nghiên cứu sau đây được lấy từ một trong
những bài giảng của Adam Smith: “điều kiện tiên quyết để thực hiện một nhà nước
thịnh vượng cao nhất từ một nhà nước có sự man rợ thấp nhất là hòa bình, thuế và một
chính quyền của công lý được chấp nhận: tất cả các phần còn lại được mang đến từ tiến
trình tự nhiên của sự vật (1755)”.
Liên kết được công nhận lâu đời này không có giai đoạn trung tâm trong việc
nghiên cứu phát triển kinh tế cho đến khoảng mời lăm năm trước đây, khi mối tương
quan giữa chất lượng thể chế và hoạt động kinh tế trở nên rõ ràng hơn được thể hiện
trong nghiên cứu khu vực Châu phi hạ Sahara của Ndulu và O’Connell (1999). Họ
nhận thấy rằng độc tài gắn liền với nền kinh tế yếu kém. Thể chế tốt cho phép công dân
tham gia vào hoạt động chính trị và các hoạt động chung của vấn đề công có thể liên
quan đến sự trao quyền, do đó có thể nâng cao hiệu quả hoạt động.
Trong nghiên cứu đạt giải Nobel của mình, James Buchanan (1986) lập luận rằng
các nhà kinh tế nên nhìn vào “Hiến pháp của chính thể kinh tế để kiểm tra các quy định
và những hạn chế mà trong đó các tác nhân chính trị hành động”. Ông ngầm cho thấy
rằng thể chế không phát triển khi lợi ích vượt quá chi phí từ điểm “lợi ích chung”.
Trong một nỗ lực để trả lời câu hỏi tại sao một số quốc gia có thể chế kém có xu
hướng làm chậm tăng trưởng kinh tế, một số lượng lớn các tác giả đã xem xét mối liên
hệ giữa cấu trúc chính trị hay thể chế, thể chế kinh tế và hiệu quả kinh tế. Lý thuyết
chính trị cho rằng thể chế được hình thành bởi những người cầm quyền để chuyển
nguồn lực cho chính họ (Acemoglu, Johnson, và Robinson, 2004; La Porta et al, 1999).
Acemoglu et al. (2004) lập luận rằng các nhóm có lợi ích khác nhau sẽ thích thể chế
khác nhau và các nhóm có quyền lực chính trị mạnh hơn cuối cùng sẽ quyết định
những thể chế nào ưu tiên thực hiện. Câu hỏi đặt ra trong phần này là thể chế tác động
15
như thế nào đến hoạt động kinh tế. Một trong những câu trả lời cho câu hỏi đó là tìm
kiếm đặc lợi và giả thuyết nắm bắt trạng thái. Theo giả thuyết này, các tầng lớp quyền
lực chính trị có lợi ích mâu thuẫn với lợi ích của công chúng nói chung sẽ tham gia vào
các hoạt động tìm kiếm đặc lợi. Như vậy, họ sẽ không sẵn sàng để thay đổi hiện trạng.
Đặc lợi và nhiệm vụ bảo vệ đặc lợi trong tương lai có thể dẫn đến phân bổ không
hiệu quả các nguồn lực theo khía cạnh phúc lợi xã hội. Hơn nữa, các nguồn lực được
dành cho các hoạt động tìm kiếm đặc lợi lãng phí thay vì hoạt động sản xuất (Kimenyi
và Tollison, 1999).
Dethier (1999) cho rằng “hiệu quả sử dụng các nguồn lực công phụ thuộc vào
các chương trình khuyến khích của các tổ chức công và cải cách nên tập trung vào việc
thiết kế các chương trình đảm bảo cam kết và thực hiện chính sách tối đa hóa phúc lợi
xã hội đáng tin cậy. Thể chế tốt cải thiện nguồn nhân lực và nâng cao hiệu quả trong
việc sử dụng các nguồn tài nguyên, do đó nâng cao tăng trưởng kinh tế (Dethier 1999).
Các thể chế chính trị thiết lập hệ thống pháp luật quy định các quy tắc kiểm soát
biến động. Trong một tiến trình chính trị, các nhóm lợi ích khác nhau cạnh tranh quyền
lực chính trị, đặc lợi kinh tế trong khuôn khổ các quy tắc được xác định bởi hệ thống
pháp luật. Nếu không có một cơ chế khuyến khích thích hợp trong các thể chế chính trị,
các quy tắc có thể được thiết lập để đem lại lợi ích cho những nhóm đặc biệt có lợi thế
chính trị.
Nếu không có sự bảo vệ pháp lý cơ bản - nói về quyền sở hữu và chống lại tước
quyền sở hữu của chính phủ - sở hữu tư nhân, tốc độ tăng trưởng đầu tư tư nhân bị sụt
giảm, do đó sẽ làm giảm tốc độ tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người. Đầu tư tư
nhân, đặc biệt là đầu tư nước ngoài cũng không được khuyến khích vì quan liêu. Điều
này sẽ làm chậm tăng trưởng kinh tế.
1.6. Đánh giá các nghiên cứu thực nghiệm
Như đã đề cập trong phần trước, những nghiên cứu mang tính lý thuyết không
đưa ra câu trả lời rõ ràng cho câu hỏi liệu thể chế tốt sẽ dẫn đến kết quả kinh tế tốt hơn.
16
Trường hợp cụ thể được nêu trên liên quan đến vai trò của thể chế dân chủ đối với phát
triển kinh tế. Lý thuyết cung cấp bằng chứng cho thấy nền dân chủ cũng như chế độ
độc tài có thể tạo áp lực từ các nhóm lợi ích trục lợi. Trong cả hai trường hợp, tìm kiếm
đặc lợi cản trở phân bổ hiệu quả các nguồn lực và có thể làm chậm tăng trưởng như
tiêu tốn nhiều thời gian và nguồn lực sản xuất cho các hoạt động trục lợi.
Hơn nữa, như đã chỉ ra trước đó, thể chế công là một khái niệm đa chiều trong đó
bao gồm cả việc tổ chức hệ thống xã hội, kinh tế và chính trị. Vì lý do này, sẽ là hợp lý
để nghi ngờ rằng khía cạnh khác nhau của thể chế có thể có tác động khác nhau đến
phát triển kinh tế. Những hạn chế của phân tích lý thuyết được bổ sung từ những phân
tích thực nghiệm. Vì vậy, trong phần sau đây chúng ta sẽ tìm hiểu một số nghiên cứu
thực nghiệm đã được thực hiện trong lĩnh vực này và những hạn chế hoặc các vấn đề
thường gặp trong nghiên cứu này và những nghiên cứu tương tự.
Một trở ngại lớn thường gặp phải trong bất kỳ một nghiên cứu thực nghiệm nào
để kiểm tra tác động của thể chế công đã được lượng hóa. Thật vậy, không có một biện
pháp đo lường chất lượng thể chế nào hoàn hảo. Nhiều nghiên cứu thực nghiệm đã sử
dụng các chỉ số chủ quan khác nhau của thể chế công dựa trên những quan niệm khác
nhau. Trong một số trường hợp, các dẫn xuất khách quan (như số lượng các cuộc cách
mạng, các vụ ám sát chính trị, bầu cử dân chủ...) đã được sử dụng. Một phần trong các
tài liệu liên quan đã tập trung vào nghiên cứu các tác động của biến chính trị và thể chế
đến mức GDP bình quân đầu người thực tế, một số nghiên cứu khác thì sử dụng tăng
trưởng kinh tế.
Câu hỏi thường xuyên nhất được nghiên cứu là vai trò của dân chủ trong phát
triển kinh tế. Hầu hết các nghiên cứu gần đây đã sử dụng các chỉ số về quyền chính trị
và tự do công dân được biên soạn bởi Freedom House để đo lường mức độ dân chủ.
Các tác giả khác như Barro (1991) đã sử dụng chỉ số bất ổn chính trị và bạo lực chính
trị để nghiên cứu tác động của các biến chính trị đến tăng trưởng kinh tế. Những dẫn
17
xuất đó bao gồm số lượng các cuộc cách mạng và cuộc đảo chính quân sự và số lượng
các vụ ám sát chính trị.
Một số tác giả khác đã tập trung vào việc đo lường chính sách bất ổn khách quan.
Những đo lường này được dựa trên độ lệch chuẩn của các biến như thuế suất, biến tiền
tệ và bóp méo thương mại như là các dẫn xuất cho một khuôn khổ chính sách không
chắc chắn (Kormedi và Meguire, 1985).
Những nguồn về thể chế khác thường được sử dụng như the International Country
Risk Guide (ICRG) (Cục Hướng dẫn rủi ro quốc gia quốc tế) được tổng hợp bởi nhóm
Political Risk Services (PRS). Nhóm PRS là một dịch vụ thương mại cung cấp đánh
giá rủi ro tài chính, kinh tế và chính trị cho các nhà đầu tư. Các dữ liệu bao gồm các chỉ
số về nguy cơ thoái thác các hợp đồng của chính phủ, nguy cơ tước quyền sở hữu của
đầu tư tư nhân, tham nhũng trong chính phủ, quy định của pháp luật, chất lượng của bộ
máy quan liêu và căng thẳng sắc tộc (Acemoglu, Johnson và Robinson, 2001; Knack
và Keefer, 1995).
Kaufmann và Kraay (2002) tính toán sáu chỉ số tổng hợp về thể chế công từ các
chỉ số khác nhau dựa trên khía cạnh khác nhau của thể chế công. Các chỉ số tổng hợp
là: (1)Tiếng nói và trách nhiệm: đo lường mức độ mà công dân của một quốc gia có thể
tham gia trong việc lựa chọn chính phủ của họ, cũng như tự do ngôn luận, tự do lập hội
và tự do báo chí. (2) Tính ổn định chính trị và không có bạo lực hoặc khủng bố: đo
lường các biện pháp và khả năng chính phủ sẽ bị bất ổn hoặc bị lật đổ bằng phương
tiện tinh vi hoặc bạo lực, bao gồm cả bạo lực chính trị và khủng bố. (3) Hiệu quả của
chính phủ: đo lường chất lượng dịch vụ công, chất lượng của các dịch vụ dân sự và
mức độ độc lập khỏi những áp lực chính trị, chất lượng xây dựng và thực hiện chính
sách và độ tin cậy của sự cam kết của chính phủ về chính sách đó. (4) Chất lượng điều
tiết: đo lường khả năng của chính phủ để xây dựng và thực hiện chính sách, các quy
định cho phép và thúc đẩy phát triển kinh tế ở khu vực tư nhân. (5) Quy định của pháp
luật: đo lường mức độ tuân thủ các quy tắc của xã hội, đặc biệt là chất lượng của việc
18
thực thi quyền sở hữu, cảnh sát, tòa án, cũng như khả năng của tội phạm và bạo lực. (6)
Kiểm soát tham nhũng: đo lường nhận thức về tham nhũng - được định nghĩa là thực
hiện quyền lực công cho lợi ích cá nhân.
Các nghiên cứu khác đã sử dụng các chỉ số riêng khác nhau về chất lượng thể chế
công. La Porta et al. (1999) đo lường hiệu suất hoạt động của chính phủ bằng cách sử
dụng các chỉ số của chính phủ can thiệp vào thị trường, trong đó bao gồm các chỉ số
quyền tài sản (mức độ pháp luật bảo vệ tài sản cá nhân) và chỉ số điều lệ thương nghiệp
(quy định liên quan đến việc mở một doanh nghiệp và duy trì nó hoạt động); hiệu quả
hoạt động của chính phủ, trong đó bao gồm các biện pháp phòng chống tham nhũng,
quan liêu, tuân thủ thuế và tỷ lệ tiền lương trung bình khu vực công so với GDP bình
quân đầu người; sản lượng hàng hóa công được đo bằng tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh, trình
độ học vấn, tỷ lệ biết chữ và chất lượng của cơ sở hạ tầng; quy mô của khu vực công,
trong đó bao gồm các biện pháp của chính phủ trong trợ cấp và chuyển nhượng, tiêu
thụ của khu vực công và một chỉ số của các doanh nghiệp nhà nước.
Những phương pháp mang tính chủ quan và dựa trên quan niệm thì không hoàn
hảo. Những phương pháp đó có thể mắc phải lỗi bị chệch, do đó làm cho việc so sánh
giữa những thời kỳ chỉ có ý nghĩa khi các phương pháp khảo sát cùng thời gian. Một số
biện pháp đo lường chất lượng thể chế công được sử dụng trong nghiên cứu của La
Porta et al. (1999) có thể gây hiểu lầm như là có thể được đo lường chất lượng của các
chính sách cụ thể chứ không phải là chất lượng thể chế công theo nghĩa rộng. Ví dụ
như trường hợp ở Cuba, với một tỷ lệ người dân biết chữ cao và một hệ thống thể chế
công thiếu dân chủ. Điều này có thể do một số chính sách cụ thể, đặc biệt chứ không
phải do tổng thể chất lượng thể chế công.
Biết rằng chất lượng thể chế công là không thể đo lường được, các nhà nghiên
cứu thực nghiệm không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc sử dụng các chỉ số thay
cho đo lường thực tế. Tuy nhiên, các chỉ số dễ mắc phải lỗi bị chệch, do đó có thể dẫn
19
đến các ước lượng thực nghiệm bị chệch (Dethier, 1999). Như vậy, kết quả từ bất kỳ
nghiên cứu thực nghiệm nào như vậy cần phải được giải thích nhược điểm này.
Ngay cả khi giả định rằng các chỉ số được sử dụng là những đo lường chính xác
của chất lượng thể chế công, vẫn còn những vấn đề thực nghiệm khác mà một nhà
nghiên cứu có gặp phải. Đầu tiên, như đã trình bày bởi Dethier (1999), có thể không
chắc chắn rằng đo lường ảnh hưởng của thể chế đến hoạt động kinh tế là ảnh hưởng
đầu tiên trực tiếp hay là ảnh hưởng thứ hai hoặc thứ ba. Điều này đòi hỏi một cuộc
kiểm tra sâu hơn các kênh tiềm năng mà thông qua đó chất lượng thể chế tác động đến
hoạt động kinh tế.
(Isham, Kaufmann và Pritchett, 1997) sử dụng dữ liệu từ Vụ đánh giá hoạt động
của Ngân hàng Thế giới (OED) dựa vào hiệu quả của các dự án Chính phủ. Họ kết luận
rằng tăng tiếng nói và trách nhiệm công dân (tăng cường quyền tự do công dân và dân
chủ) tạo nên hiệu quả lớn hơn trong hoạt động công.
Ngoài ra, những nghiên cứu thực nghiệm nghiên cứu các tác động kinh tế của thể
chế công có thể phải đối mặt với các vấn đề nội sinh. Nói cách khác, những yếu tố
không quan sát được sẽ ảnh hưởng đến hoạt động kinh tế có thể liên quan với các chỉ
số thể chế công. Những cú sốc ngẫu nhiên không quan sát được như các cuộc đảo
chính quân sự bất ngờ có thể ảnh hưởng đến cả hiệu quả kinh tế và chất lượng thể chế
công. Nhiều nghiên cứu khác nhau đã sử dụng những biến công cụ (IV) để giải quyết
vấn đề này (Acemoglu, Johnson, Robinson, 2001; Barro, 1997; Levin và Renelt, 1992).
Tuy nhiên, thách thức lớn đối với những biến ước lượng công cụ này là việc thu thập
những giá trị của chất lượng thể chế công. Một trong những biến công cụ được sử dụng
cho các yếu tố thể chế là đo lường phân mảnh ngôn ngữ dân tộc (Mauro, 1995) để làm
công cụ đo lường tham nhũng. Tuy nhiên, nếu phân mảnh ngôn ngữ dân tộc có tác
động trực tiếp đến hoạt động kinh tế, nó không phải là một công cụ có giá trị cho các
yếu tố thể chế trong phương trình tăng trưởng.
20
Như đã đề cập trước đó, Hall và Jones (1999) đã sử dụng khoảng cách tính từ
xích đạo để làm biến công cụ đo lường cơ sở hạ tầng xã hội, cho rằng các vĩ độ gần với
“ảnh hưởng phía tây” thì có thể chế tốt hơn. Acemoglu et al. (2001) lập luận rằng
những biến công cụ này thì không hợp lệ do tác động trực tiếp của chúng đến hoạt
động kinh tế. Vì vậy, để nghiên cứu tác động của các yếu tố thể chế đến GDP bình
quân đầu người, họ sử dụng tỷ lệ tử vong người định cư Châu Âu trong suốt thời kỳ
thuộc địa như một biến công cụ cho chất lượng thể chế. Họ cho rằng bản chất của các
thể chế được chế thiết lập bởi thực dân phụ thuộc vào việc họ có thể định cư ở các
thuộc địa hay không. Quyết định định cư phụ thuộc vào các điều kiện tại các thuộc địa.
Kể từ khi thể chế tồn tại, họ lập luận rằng thuộc địa định cư có thể chế tốt hơn. Họ kết
luận rằng “một khi chất lượng thể chế được kiểm soát, các nước gần đường xích đạo
không có thu nhập thấp hơn”.
Barro (1997) tiến hành nghiên cứu thực nghiệm xuyên quốc gia trên các yếu tố
quyết định tăng trưởng. Hai yếu tố về thể chế - một chỉ số của dân chủ và một chỉ số
của các quy định của pháp luật được sử dụng trong nghiên cứu của Barro (1997). Chỉ
số dân chủ sử dụng là chỉ số quyền chính trị được lấy từ “Freedom House”. Các chỉ số
đo lường phạm vi mà người dân có thể tham gia vào trong quá trình chính trị. Nghiên
cứu kết luận rằng có một mối quan hệ nhân quả phi tuyến đi từ dân chủ đến tăng
trưởng kinh tế. Điều này cho thấy “dân chủ làm tăng tốc độ tăng trưởng khi tự do chính
trị rất thấp, nhưng làm giảm tăng trưởng sau khi một mức tối ưu nhất định của tự do
được đạt tới”. Chỉ số quy định của pháp luật được sử dụng trong nghiên cứu của Barro
(1997) được lấy từ Political Risk Services (PRS) và International Country Risk Guide
(ICRG). Chỉ số quy định của pháp luật được tìm thấy có tác động tích cực và có ý
nghĩa thống kê đến tăng trưởng.
Một vấn đề thực nghiệm khác liên quan đến nội sinh của các biến thể chế, đặc
biệt là trong phương trình hồi quy tốc độ tăng trưởng bình quân đầu người cũng như
hồi quy mức tăng GDP bình quân đầu người là tương đồng. Nhiều nghiên cứu khác đã
21
tìm thấy bằng chứng về mối quan hệ nhân quả nghịch giữa hiệu quả kinh tế và thể chế
như dân chủ và pháp quyền (Chong và Calderon, 2000; Kaufman và Kraay, 2002b).
Đặc biệt, Kaufman và Kraay (2002b) tìm thấy một mối tương quan mạnh mẽ và
tích cực giữa thu nhập bình quân đầu người và chất lượng thể chế công. Phân tích thực
nghiệm của họ phá vỡ mối tương quan này: 1) tác động nhân quả tích cực mạnh mẽ từ
thể chế tốt hơn với thu nhập bình quân đầu người cao hơn và 2) một mối quan hệ nhân
quả yếu kém và tiêu cực từ thu nhập bình quân đầu người đến thể chế. Họ gán quan hệ
nhân quả tiêu cực từ thu nhập bình quân đầu người đến thể chế để “ảnh hưởng sâu sắc
và nắm bắt trạng thái trở nên phổ biến hơn khi đất nước phát triển”. Kaufmann và
Kraay (2002b) đã xem mức thu nhập bình quân đối lập với tăng trưởng. Những đo
lường của họ về thể chế là các chỉ số thể chế tổng hợp được biên soạn bởi các tác giả.
Trong khi đó, Chong và Calderon (2000) cho thấy tăng trưởng kinh tế làm nâng
cao chất lượng thể chế bằng cách cung cấp thêm nguồn lực để cải thiện thể chế hiện
hành và hiệu quả của chúng. Burkhart và Lewis-Beck (1994) sử dụng dữ liệu chuỗi
thời gian cho 131 quốc gia trong giai đoạn 1972-1989. Kiểm tra quan hệ nhân quả
Granger và chỉ ra rằng “phát triển kinh tế” tạo ra dân chủ nhưng dân chủ không tạo ra
phát triển kinh tế. Kết quả này trái ngược với kết luận của Barro (1997) và Rivera-
Batiz (2002), những người đã tìm thấy một số tác động tăng trưởng tích cực của nền
dân chủ.
Rivera-Batiz (2002) lập luận rằng thể chế cải thiện dân chủ làm tăng tăng trưởng
thông qua các hành động hạn chế quan chức tham nhũng, từ đó kích thích sự thay đổi
công nghệ và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Nghiên cứu thực nghiệm xuyên quốc gia
của ông cho thấy rằng dân chủ là một yếu tố quan trọng trong việc thúc đẩy tăng
trưởng từ năm 1960 đến năm 1990.
Một số nghiên cứu đã tập trung vào tham nhũng như là một dẫn xuất cho chất
lượng thể chế. “Tham nhũng, được xem xét trong một khuôn khổ thể chế rộng hơn,
phát triển mạnh khi nhà nước không thể chế ngự được quan liêu, để bảo vệ tài sản và
22
quyền lợi của nhà nước hoặc cung cấp thể chế đó thực thi các quy định của pháp luật”
(Hellman et al, 2000).
Những nghiên cứu trước đó về vấn đề tham nhũng và tăng trưởng kinh tế dường
như ủng hộ quan điểm tham nhũng có thể thúc đẩy tăng trưởng. Quan điểm này dựa
trên lập luận rằng tham nhũng sẽ giúp loại bỏ chính phủ áp dụng những quy định cứng
nhắc. Các nghiên cứu gần đây trên phương diện khác đã cung cấp bằng chứng về tác
động tăng trưởng âm của tham nhũng (Murphy, Shleifer và Vishny, 1991).
Những nghiên cứu này cho rằng tham nhũng làm tăng thâm hụt ngân sách và hạn
chế chính phủ áp đặt kiểm soát những quy định thích hợp là nhằm mục đích điều chỉnh
thất bại của thị trường. Hơn nữa, tham nhũng làm biến dạng ưu đãi theo nghĩa là cá
nhân dành nhiều thời gian và nguồn lực của họ để tìm kiếm những đặc lợi và các hoạt
động tham nhũng trái ngược với hoạt động sản xuất.
Hầu hết các nghiên cứu trên đều thiết lập một mối liên kết trực tiếp và tích cực
giữa thể chế và tăng trưởng. Mối quan hệ nhân quả tích cực giữa thể chế và tăng trưởng
kinh tế có thể là do những quy định và hạn chế dựa trên các hành động của các quan
chức tham nhũng, sự trao quyền và sự tham gia được cho là làm gia tăng năng suất.
Tuy nhiên, có một sự khác nhau đáng kể từ kết luận của những nghiên cứu khác
nhau này. Theo Barro (1997) mối quan hệ giữa thể chế và tăng trưởng kinh tế có thể là
phi tuyến.
Luận văn sử dụng các chỉ số khác nhau về thể chế và sẽ phân tích tác động của
thể chế đến tăng trưởng như phân tích của Kaufmann và Kraay (2002b). Ngoài những
tác động trực tiếp của thể chế đến tăng trưởng kinh tế, một số nghiên cứu đã cố gắng để
kiểm tra tác động gián tiếp. Có ý kiến cho rằng các yếu tố thể chế tác động đến tăng
trưởng gián tiếp thông qua các biến số khác như các dòng vốn, quyết định đầu tư kinh
doanh và chính sách thương mại.
Batra et al. (2003) đã sử dụng một tập hợp các dữ liệu doanh nghiệp dựa trên một
cuộc khảo sát của hơn 10.000 công ty để kết luận rằng, “chất lượng thể chế có ý nghĩa
23
đáng kể trong việc giải thích hiệu quả hoạt động của một công ty và hành vi đầu tư của
họ”. Phát hiện này tương đồng với phát hiện của Oliva và Rivera-Batiz (2002), người
đã tìm thấy tác động tăng trưởng gián tiếp của một số biến thể chế. Dựa trên dữ liệu
trên 119 nước đang phát triển cho giai đoạn 1970 đến năm 1994, họ ước tính một hệ
thống tăng trưởng, FDI và giáo dục. Kết quả từ giai đoạn thứ ba trong ước lượng của
phương pháp bình phương tối thiểu (3SLS) cho thấy rằng các quy định của pháp luật
tác động đến tăng trưởng kinh tế thông qua việc thu hút FDI và dân chủ tác động đến
tăng trưởng thông qua khuyến khích giáo dục.
Nhiều nghiên cứu về tác động của thể chế công đến tăng trưởng kinh tế đã được
tiến hành. Hầu hết trong các nghiên cứu đó đã cho thấy một mối quan hệ tích cực giữa
chúng. Một trong số đó là nghiên cứu của Kaufmann và Kraay (2002) đã chứng minh
rằng thể chế công tốt sẽ đưa đến thu nhập bình quân đầu người cao hơn. Hơn nữa
Grindle (2004) nhấn mạnh rằng khái niệm về thể chế công không phải là quá đơn giản
hoặc đơn giản trong mối liên hệ với tăng trưởng. Mục đích cơ bản của thể chế công tốt
là xóa đóa giảm nghèo, chống tham nhũng và những trở ngại ảnh hưởng đến tăng
trưởng kinh tế.
Ngoài ra, Campos và Nugent (2000) sử dụng GDP như biến phụ thuộc và phát
triển những biện pháp riêng của họ để xác định mức độ quy định của pháp luật và ổn
định chính trị bằng cách sử dụng các chỉ số. Họ kết luận rằng, quy định của pháp luật
và ổn định chính trị là cần thiết để đảm bảo hệ thống pháp lý trong sạch và vững mạnh
để loại bỏ những trở ngại trong việc đầu tư nước ngoài là một trong những yếu tố quan
trọng góp phần vào tăng trưởng kinh tế (Goldsmith, 1987). Theo Morita và Zaelke
(2007), quy định của pháp luật là một nhân tố quan trọng trong tăng trưởng. Xây dựng
hệ thống pháp luật và đảm bảo pháp luật được thực hiện sẽ tạo môi trường pháp lý
vững mạnh, từ đó thúc đẩy tăng trưởng. Luật pháp không chỉ là điều kiện tiên quyết để
có thể chế công tốt, thay vì đòi hỏi tính minh bạch cũng như trách nhiệm giải trình
trong các lĩnh vực khác nhau dưới sự kiểm soát của chính phủ. Tăng cường kiểm soát
24
về nguồn vốn tài chính và nguồn vốn con người là yếu tố quan trọng để đảm bảo thể
chế công tốt. Lane (2010) phân chia quy định của pháp luật thành hai phần, đầu tiên là
tư pháp độc lập và thứ hai là dân chủ lập hiến. Sau đó, ông liên kết với quy định của
pháp luật nói chung, kết hợp hai loại nêu trên. Nghiên cứu này kết luận rằng về mặt
pháp lý và hiến pháp quyền sở hữu được bảo vệ là chìa khóa cho thị trường hoạt động
tối ưu, khi pháp lý được bảo vệ thì sẽ tạo được nhiều điều kiện để khuyến khích cộng
đồng doanh nghiệp đầu tư và đóng góp.
Xét về biến bất ổn chính trị, Zureiqat (2005) đã nghiên cứu mối quan hệ giữa hai
biến là hoạt động kinh tế và bất ổn chính trị. Sử dụng dữ liệu hai mươi năm của năm
quốc gia để nghiên cứu, ông đã kết luận rằng có mối tương quan âm giữa hai biến nói
trên. Tương tự như vậy, Gyimah et al. (1999) tìm hiểu mối liên hệ giữa tăng trưởng
kinh tế và bất ổn chính trị ở các nước đang phát triển thấp (LDC). Kỹ thuật định lượng
được sử dụng để nghiên cứu các mối quan hệ trên tại các nước châu Phi cận Sahara.
Kết quả nghiên cứu cho thấy có mối liên hệ nhân quả hai chiều giữa tăng trưởng kinh
tế và bất ổn chính trị. Nhìn từ một góc độ khác, Kirmanoglu (2003) đã kiểm tra mối
liên hệ giữa sự bất ổn định chính trị và tăng trưởng kinh tế bằng cách sử dụng kỹ thuật
kiểm định quan hệ nhân quả Granger. Nghiên cứu sử dụng dữ liệu của 14 trong số 19
quốc gia được khảo sát và sử dụng biến GDP bình quân đầu người và chỉ số tự do
chính trị làm cốt lõi để nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu cho thấy chỉ có 2 trong số 14
quốc gia được nghiên cứu cho kết quả như mong muốn, các quốc gia còn lại cho kết
quả không có ý nghĩa thống kê.
Xét về biến kiểm soát tham nhũng, Mauro (1995) đã lấy mẫu của 67 quốc gia
khác nhau và phát hiện ra tồn tại một mối quan hệ gián tiếp giữa chỉ số tham nhũng và
các chỉ số tăng trưởng kinh tế. Ahlin và Pang (2008) lấy mẫu của 71 quốc gia và tìm
thấy một mối quan hệ tiêu cực giữa mức độ tham nhũng và tăng trưởng kinh tế. Mo
(2001) sử dụng một mẫu của 46 quốc gia và kết luận rằng nếu tăng 1% mức độ tham
nhũng thì dẫn đến sự sụt giảm 0,72% trong tăng trưởng kinh tế. Ngược lại, một số
25
nghiên cứu của những tác giả khác lại cho kết quả trước ngược với những nghiên cứu
trên. Li et al. (2000) đã lấy mẫu của 46 quốc gia và họ chỉ ra rằng khi tham nhũng gia
tăng thì dẫn đến nền kinh tế bị suy giảm nhưng chỉ giới hạn trong một vài mô hình hồi
quy. Tương tự như vậy, Mendez và Sepulveda (2006) cũng tiến hành nghiên cứu về
chủ đề này, họ kết luận rằng tham nhũng ở mức thấp có lợi cho tăng trưởng kinh tế,
nhưng tham nhũng ở quy mô lớn sẽ gây hại cho nền kinh tế. Cuối cùng, Glaeser và
Saks (2006) trong một nỗ lực để tìm hiểu mối quan hệ giữa tham nhũng và tăng trưởng
kinh tế ở Hoa Kỳ đã kết luận rằng một mối quan hệ tiêu cực yếu giữa hai biến đã có
mặt.
Riêng biến tiếng nói và trách nhiệm giải trình thì có ít nghiên cứu hơn. Henry et
al. (1985) đã khám phá mối liên hệ giữa các biến này. Họ đã sử dụng mô hình tương
quan để kiểm tra giả thuyết và kết luận có mối quan hệ tích cực vừa phải có ý nghĩa
thống kê giữa tiếng nói và trách nhiệm đến tăng trưởng kinh tế.
26
Tổng hợp các công trình thực nghiệm về các yếu tố của thể chế công tác động đến tăng trưởng kinh tế
Tác giả Phát hiện
Biến Quy định của pháp luật
- Quy định của pháp luật là cần thiết để đảm bảo hệ thống pháp lý trong sạch và vững mạnh để loại bỏ những trở ngại trong việc đầu tư nước ngoài là một trong những yếu tố quan trọng góp phần vào tăng trưởng kinh tế
Campos, Nugent (2000), Morita, Zaelke (2007), Lane (2010) và Goldsmith (1987) Barro và Lee (1994), Zureiqat (2005), Gyimah et al. (1999). Bất ổn chính trị
Kirmanoglu (2003)
- Bất ổn chính trị không tốt cho tăng trưởng. Có mối liên hệ nhân quả hai chiều giữa tăng trưởng kinh tế và bất ổn chính trị. - Tác động của bất ổn chính trị đến tăng trưởng kinh tế không có ý nghĩa về mặt thống kê.
- Khi tham nhũng gia tăng thì dẫn đến nền kinh tế bị suy giảm. Tham nhũng làm giảm đầu tư và do đó làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Tham nhũng
Mauro (1995), Murphy, Shleifer và Vishny (1991), Ahlin và Pang (2008), Mo (2001), Mendez và Sepulveda (2006) và Glaeser và Saks (2006)
Li et al. (2000), Glaeser và Saks (2006) - Tham nhũng ở mức thấp có lợi cho tăng trưởng kinh tế, nhưng tham nhũng ở quy mô lớn sẽ gây hại cho nền kinh tế.
Tiếng nói và trách nhiệm công dân
Isham, Kaufman avà Pritchett (1997), Henry et al. (1985) Tăng tiếng nói và trách nhiệm công dân (tăng cường quyền tự do công dân và dân chủ) tạo nên hiệu quả lớn trong hoạt động công, từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
27
A. F. Alesina et al. 2003) Phân mảng là không tốt cho chính sách, thể chế và tăng trưởng Sự phân mảng ngôn ngữ sắc tộc
Barro (1996b) Pháp trị Pháp trị là tốt cho tăng trưởng
- Bất bình đẳng là không tốt cho tăng trưởng. A.Alesina and Rodrik (1994) Bất bình đẳng - Bất bình đẳng là tốt cho tăng trưởng. Forbes (2000)
Barro và Lee (1994) Chiến tranh Chiến tranh kéo dài không tốt cho tăng trưởng
Thể chế là tốt cho tăng trưởng. Hall and Jone (1999) Cơ sở hạ tầng xã hội
Dân chủ làm tăng tốc độ tăng trưởng khi tự do chính trị rất thấp, nhưng làm giảm tăng trưởng khi tự do chính trị đạt mức tối ưu nhất định. Barro (1997) Dân chủ và quy định của pháp luật Quy định pháp luật có tác động tích cực và có ý nghĩa thống kê đến tăng trưởng.
Kaufman và Krayy (2002b) Các chỉ số đo lường thể chế công
Có mối quan hệ nhân quả giữa thể chế công và thu nhập bình quân đầu người. Thể chế công tốt làm tăng thu nhập bình quân đầu người. Nhưng thu nhập bình quân đầu người cao làm giảm chất lượng thể chế công. (xem thu nhập bình quân đầu người đối lập với tăng trưởng.
Burkhart và Lewis- Beck (1994) - Tăng trưởng kinh tế làm tăng dân chủ, nhưng dân chủ không làm tăng tăng trưởng kinh tế.
Dân chủ Barro (1996a); Persson and Tabellini (2006) - Dân chủ gắn kết với pháp trị, hình thành vốn con người và thị trường tự do, tất cả tốt cho tăng trưởng; nhưng phải tự do hóa nền kinh tế trước.
Barro (1997) và Rivera – Batiz (2002) - Dân chủ là một yếu tố quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng, dân chủ hạn chế quan chức tham nhũng, từ đó kích thích sự thay đổi công nghệ và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
28
Chương 2 - MÔ HÌNH, DỮ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Mô hình nghiên cứu
Mục tiêu chính của luận văn là kiểm tra xem liệu thể chế công tốt có tác động đến
tăng trưởng kinh tế của các quốc gia khu vực ASEAN hay không, qua đó có thể giải
thích sự khác biệt về tăng trưởng kinh tế ở các quốc gia này. Nghiên cứu đi vào xem
xét các yếu tố tác động đến tăng trưởng kinh tế như đầu tư vào nguồn vốn vật chất và
con người, độ mở của thương mại, đầu tư nước ngoài và hỗ trợ phát triển chính thức.
Luận văn sử dụng sáu chỉ số khác nhau làm dẫn xuất cho thể chế để phân tích tác
động của thể chế đến tăng trưởng kinh tế như phân tích của Kaufmann và Kraay
(2002):
GDPit = α + β1GFCit + β2SCHit + β3TRDit + β4AIDit + β5FDIit + β6HHCit +
β7DPRit + β8TELit + β9GGit+εit (1)
Trong đó α là hệ số ước lượng, i và t biểu thị đất nước i và khoảng thời gia t
tương ứng. Biến phụ thuộc GDPit là biến biểu thị log của GDP thực bình quân đầu
người và các biến độc lập, SCHit là biến thể hiện tổng số học sinh đến trường (bậc
trung học và đại học) so với tổng số người trong độ tuổi đi học và được sử dụng như
đầu tư vào nguồn vốn con người (nguồn nhân lực), AIDit biểu thị sự hỗ trợ phát triển
chính thức và viện trợ nước ngoài trong hiện tại (%GNI), FDIit là log của đầu tư trực
tiếp nước ngoài (%GDP), GFCit là log của tổng nguồn vốn cố định với dẫn xuất là đầu
tư vào nguồn vốn hữu hình, đo lường mức đầu tư vào hạ tầng, từ đó xác định tiềm năng
tăng trưởng tương lai của một nền kinh tế, HHCit là chi tiêu thực bình quân đầu người
của hộ gia đình, TRDit là log của thương mại (%GDP) cho mỗi quốc gia được xem xét
để nắm bắt tác động của độ mở nền kinh tế đến tăng trưởng kinh tế, DPRit là log của số
người sống phụ thuộc trên tổng số người trong độ tuổi lao động, TELit biểu thị log của
số điện thoại cố định trên 1.00 dân và biến GGit biểu thị 6 chỉ số chất lượng thể chế của
chính phủ và các chỉ số tổng hợp về chất lượng thể chế:
29
(1) VAI - chỉ số tiếng nói và trách nhiệm giải trình: Về mặt khái niệm, sự tham
gia của người dân đóng vai trò hết sức quan trọng trong thể chế công. Người dân, với
tư cách là đối tượng thụ hưởng và thực thi chính sách, tham gia vào quy trình hoạch
định chính sách, nêu lên ý kiến để tác động đến quan điểm và mục tiêu của chính sách,
sao cho các chính sách khi được ban hành sẽ đáp ứng tốt nhất nhu cầu của họ.
Tiếng nói đề cập đến khả năng bày tỏ quan điểm và lợi ích của công dân một
nước. Tiếng nói của người nghèo bày tỏ quan điểm và lợi ích của họ trong một nỗ lực
để ảnh hưởng đến các ưu tiên của chính phủ và các quy trình quản lý.
Trách nhiệm giải trình tồn tại khi những nhà thiết lập và thực hiện các quy tắc của
xã hội - chính trị gia và công chức - chịu trách nhiệm trước những người tuân theo các
quy tắc. Đề tài tập trung vào mối quan hệ giữa nhà nước và công dân của mình, mức độ
mà nhà nước có trách nhiệm với công dân của mình.
Tiếng nói và trách nhiệm giải trình là khái niệm riêng biệt nhưng có liên quan với
nhau. Trong một số hoàn cảnh, tiếng nói có thể dẫn đến trách nhiệm lớn hơn. Trong
hầu hết các trường hợp, thiếu tiếng nói sẽ dẫn đến sự thiếu trách nhiệm.
Có những cấp độ khác nhau về các hình thức trách nhiệm giải trình. Trong những
năm gần đây, mức độ phức tạp đã tăng lên với sự gia tăng thành viên tham gia vào
cuộc đấu tranh trách nhiệm, sự xuất hiện của các đấu trường mới hoặc khu vực pháp lý
cho cuộc đấu tranh như vậy. Trong ngắn hạn, tiếng nói và trách nhiệm giải trình thay
đổi phức tạp hơn tùy thuộc vào ngữ cảnh.
Tác động của tiếng nói và vấn đề trách nhiệm giải trình đến tăng trưởng được đưa
ra bởi hai lý do. Đầu tiên, không có tiếng nói và thiếu trách nhiệm giải trình là cấu
thành của nghèo đói. Như vậy, tăng cường tiếng nói và trách nhiệm có thể giảm nghèo.
Thứ hai, tiếng nói và trách nhiệm giải trình có thể dẫn đến kết cục khác như quyền sở
hữu lớn hơn và các chính sách hỗ trợ người nghèo có thể dẫn đến việc giảm nghèo.
Trách nhiệm giải trình với người dân là một trong những thuộc tính quan trọng
của công tác quản trị và hành chính công. Nó đóng vai trò hết sức đặc biệt trong công
30
tác phòng chống chống tham nhũng, cũng như nâng cao tính hiệu quả và mở rộng độ
bao phủ của dịch vụ công. Trách nhiệm giải trình với người dân nhằm bảo đảm để
người dân, nhà nước và các tổ chức ngoài nhà nước có cơ sở pháp lý và khả năng yêu
cầu các cơ quan và cán bộ nhà nước phải có trách nhiệm giải trình về những việc họ đã
làm hoặc chưa làm.
Trong các báo cáo do tổ chức INTOSAI ban hành thì các văn bản hướng dẫn đối
với hoạt động của các tổ chức công được thế giới đánh giá là khá quan trọng và mang
tính cần thiết cho sự phát triển của nền kinh tế vĩ mô của một đất nước vì nó giúp quản
lý, kiểm tra những khoản có liên quan đến ngân sách nhà nước và đánh giá xem nó có
thực hiện theo những chính sách của nhà nước sở tại hay không. Trong những báo cáo
này thì báo cáo về tính minh bạch và trách nhiệm giải trình đang nhận được nhiều sự
chú ý của các tổ chức quốc tế. Theo Tổ chức Minh bạch Thế giới thì họ cho rằng minh
bạch và giải trình là hai đặc tính cần có cho nhau, củng cố lẫn nhau và hỗ trợ nhau.
Chúng cho phép công dân có tiếng nói về các vấn đề theo họ là quan trọng và một cơ
hội cho việc ảnh hưởng ra quyết định và từ đó sẽ là cơ sở để tạo ra kết quả cho sự phát
triển.
Theo hướng dẫn của INTOSAI thì hai đặc tính trên được nêu ra với những nội
dung như sau:
- Tính minh bạch là một tính chất của các chính phủ, các doanh nghiệp, các tổ
chức và các cá nhân trong việc mở rộng, công bố các thông tin rõ ràng, cung cấp đầy
đủ các nội dung về nguyên tắc, kế hoạch, quy trình và những hành động khác nhau mà
những đối tượng trên thực hiện. Để đảm bảo tính minh bạch thì thông tin cần phải đạt
được những yêu cầu về tính phù hợp, có thể truy cập để kiểm tra. Điều này có nghĩa là
thông tin cần phải đặt trong trạng thái sẵn sàng và có nhiều cách khác nhau có thể minh
chứng. Ngoài hai tính chất này, để có được minh bạch thì còn phải thỏa mãn về việc
đúng thời điểm và chính xác những gì đã xảy ra.
31
Trách nhiệm giải trình được hiểu là đảm bảo cho các cơ quan có thẩm quyền
trong khu vực công, các tổ chức thuộc khu vực tư, các khu vực tự do có thể trả lời,
phản hồi với các hành động của họ, qua đó có thể khắc phục khi những nhiệm vụ hay
các cam kết không được đáp ứng.
Với những khái niệm mang tính chất tóm tắt và tổng hợp trên thì có thể cho thấy
rằng bất kỳ quốc gia nào để đảm bảo sự phát triển bền vững thì việc minh bạch và giúp
người dân có thể hiểu được cụ thể tình hình quốc gia, các doanh nghiệp hay các tổ
chức của nhà nước là cần thiết. Sự minh bạch chính là nền tảng cho mọi giải pháp và
cho những thị trường còn rất thiếu sự tin cậy từ người dân trong và ngoài quốc gia đó.
(2) PSI - chỉ số tính ổn định chính trị: đo lường các biện pháp và khả năng chính
phủ sẽ bị bất ổn hoặc bị lật đổ bằng phương tiện tinh vi hoặc bạo lực, bao gồm cả bạo
lực chính trị và khủng bố.
Bất ổn chính trị có khả năng làm giảm tầm nhìn của các nhà hoạch định chính
sách trong việc tối ưu hóa các chính sách kinh tế vĩ mô. Nó cũng có thể dẫn đến việc
thay đổi thường xuyên hơn các chính sách, tạo ra biến động và từ đó ảnh hưởng tiêu
cực đến hoạt động kinh tế vĩ mô. Các hiện tượng phổ biến của bất ổn chính trị ở một số
nước theo thời gian và tác động tiêu cực của nó đối với hoạt động kinh tế đã thu hút
nhiều sự quan tâm của các nhà kinh tế. Bất ổn chính trị tác động tiêu cực lên hàng loạt
các biến số kinh tế vĩ mô như: tăng trưởng GDP, đầu tư tư nhân, thuế, đầu tư và chi
tiêu công, nợ và lạm phát. Brunetti (1997) khảo sát trên toàn diện và tóm tắt các biến
chính trị ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế và kết luận rằng, trong các biến số thì sự
biến động chính trị và chủ quan trong chính sách tác động mạnh nhất đến tăng trưởng
trong hồi quy xuyên quốc gia, trong khi đó biến dân chủ là ít tác động nhất. Alesina et
al. (1996) sử dụng dữ liệu trên 113 quốc gia 1950-1982 và kết luận rằng tăng trưởng
GDP ở các nước có nguy cơ chính phủ sụp đổ thấp hơn đáng kể so với các quốc gia
khác. Chen và Feng (1996) cho thấy sự bất ổn định chế độ, phân cực chính trị và đàn
áp của chính phủ tất cả đều có một tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế. Trong
32
một bài báo gần đây, Jong-a-Pin (2009) sử dụng phân tích nhân tố để kiểm tra những
tác động của 25 chỉ số bất ổn chính trị và tác động của chúng đến tăng trưởng kinh tế
và đưa ra phát hiện chính là mức độ cao của sự bất ổn chế độ chính trị sẽ dẫn đến giảm
tăng trưởng kinh tế. Liên quan đến đầu tư tư nhân, Alesina và Perotti (1996) cho thấy
sự bất ổn định chính trị sẽ tạo ra một môi trường kinh tế chính trị không chắc chắn,
tăng rủi ro và giảm đầu tư.
(3) GEI - chỉ số hiệu quả của chính phủ: Về vấn đề hiệu quả cung ứng dịch vụ
hành chính công, tài liệu nghiên cứu quốc tế thường nhấn mạnh tới những yếu tố như:
mức độ thuận tiện, an ninh, tin cậy, công bằng của dịch vụ công và tinh thần trách
nhiệm của người thừa hành công vụ.
Kết quả của một hệ thống pháp lý có thể được đánh giá dựa trên những thước đo
hiệu lực và hiệu quả. Quy định hiệu quả đạt được các mục tiêu an sinh xã hội đặt ra bởi
các chính phủ đối với các cơ quan quản lý. Ở các nước phát triển, các mục tiêu an sinh
xã hội của quy định có thể sẽ không chỉ đơn giản là quan tâm đến việc theo đuổi hiệu
quả kinh tế nhưng với mục tiêu rộng lớn hơn để thúc đẩy phát triển bền vững và xóa
đói giảm nghèo.
Quy định hiệu quả đạt được các mục tiêu an sinh xã hội với chi phí kinh tế tối
thiểu. Chi phí kinh tế của quy định có thể ở hai hình thức chính: (1) các chi phí trực
tiếp điều hành hệ thống quản lý, phản ánh trong phân bổ ngân sách của cơ quan quản lý
và (2) các chi phí tuân thủ các quy định, chi phí bên ngoài các cơ quan quản lý và rơi
vào người tiêu dùng và nhà sản xuất về các chi phí kinh tế hợp pháp trong thực hiện
quy định (Guasch và Hahn, 1999).
(4) RQI - chỉ số chất lượng điều tiết: thể hiện khả năng của chính phủ để xây
dựng và thực hiện chính sách, các quy định cho phép và thúc đẩy phát triển khu vực tư
nhân.
Chất lượng điều tiết đang trở thành một yếu tố chính sách cốt lõi để giải thích
những vướn mắc trong tăng trưởng kinh tế ở nhiều nước trên thế giới.
33
Chất lượng điều tiết cũng có thể được đánh giá theo các tiêu chí trong thể chế.
Parker (1992) cho rằng một hệ thống quy định hoạt động tốt là một sự cân bằng giữa
trách nhiệm giải trình, tính minh bạch và nhất quán. Trách nhiệm yêu cầu cơ quan điều
tiết chịu trách nhiệm về những hậu quả do hoạt động của họ gây ra. Minh bạch liên
quan đến những quyết định được tiếp cận theo cách công khai các thông tin cho các
bên liên quan. Quyết định không phù hợp sẽ làm suy yếu niềm tin vào hệ thống điều
tiết. Không nhất quán sẽ dẫn đến không có sự chắc chắn cho các nhà đầu tư, điều này
có thể làm tăng chi phí vốn và gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho các quyết định đầu tư.
Một nền kinh tế với một thể chế phát triển có nhiều khả năng thiết kế và thực thi
những quy định hiệu quả để đóng góp vào việc cải thiện tăng trưởng kinh tế. Những
yếu kém trong năng lực thể chế có thể sẽ ảnh hưởng xấu đến tăng trưởng kinh tế
(World Bank, 2002).
(5) RLI - chỉ số quy định của pháp luật: thể hiện mức độ tuân thủ các quy tắc của
xã hội, đặc biệt là chất lượng của việc thực thi quyền sở hữu, cảnh sát, tòa án, cũng như
khả năng của tội phạm và bạo lực.
Định nghĩa quy định của pháp luật trong bài viết này tập trung vào vai trò của
Tòa án. Trước hết, đó là việc bảo vệ các quyền tự do của công dân để đảm bảo họ bình
đẳng trước pháp luật, sau đó là giám sát pháp luật và việc điều hành của Chính phủ.
Nếu tòa án không bảo vệ quyền sở hữu tài sản, không đảm bảo hiệu lực thực hiện hợp
đồng và không giải quyết tranh chấp trong thời gian tốt nhất sẽ làm giảm động cơ để
thúc đẩy đầu tư và cải tiến. Có nghĩa là các ưu đãi cho hoạt động sản xuất bị hạ xuống,
và những người tìm kiếm đặc lợi sẽ gia tăng. Tương tự như vậy, nếu tham nhũng xảy ra
ở các tòa án, điều này sẽ chỉ ra rằng không phải tất cả công dân điều bình đẳng trước
pháp luật. Một hệ thống công lý có hiện tượng tham nhũng hoặc bị lệ thuộc về mặt
chính trị có thể tạo điều kiện cho tham nhũng ở mức độ cao hơn và làm suy yếu cải
cách, từ đó sẽ ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế (Feld và Voigt, 2003). Không tôn
trọng các quy định của pháp luật sẽ dẫn đến niềm tin vào công lý của công dân bị sụp
34
đổ, ngược lại, nếu những quy định của pháp luật được tôn trọng thì sẽ gia tăng mức độ
đầu tư (World Bank, 1997).
Dữ liệu từ các nghiên cứu của Kaufmann, Kraay và Mastruzzi (2003) bao gồm
các chỉ số tổng hợp của các quy định của pháp luật. Chúng được sử dụng để ước tính
có bao nhiêu những quy tắc của xã hội được tôn trọng, bao gồm (công dân, nhà đầu tư
và các nhà phân tích) những nhận thức về việc phổ biến của tội phạm, hiệu quả của các
tòa án và việc thực thi hợp đồng.
(6) CCI - chỉ số kiểm soát tham nhũng: Tham nhũng có lẽ là một trong những
thách thức lớn nhất trong công tác điều hành và quản lý nhà nước hiện nay, bởi tham
nhũng dường như đã ăn khá sâu vào bộ máy công quyền. Tham nhũng là một trở ngại
lớn cho thành công của công cuộc đổi mới.
Ngày càng có nhiều bằng chứng thực nghiệm rằng tham nhũng có tác động tiêu
cực đến tăng trưởng kinh tế; các quốc gia có tham nhũng tràn lan có tốc độ tăng trưởng
GDP thấp hơn các quốc gia khác (Mauro, 1995; Knack và Keefer, 1995; Brunetti,
Kisunko và Weder, 1997). Những kênh mà qua đó tham nhũng tác động đối với việc
giảm tăng trưởng kinh tế là đầu tư nước ngoài và trong nước thấp, các mục tiêu của chi
tiêu chính phủ đối với các dự án kém hiệu quả làm xảy ra tình trạng hối lộ, ví dụ, việc
giảm năng suất của đầu tư công (Tanzi và Davoodi, 1997; Rose-Ackerman, 2002).
Ngay cả khi tham nhũng và tăng trưởng kinh tế cùng tồn tại, tham nhũng mang lại chi
phí và biến dạng trong việc phân bổ các nguồn lực. Trong các quốc gia tham nhũng,
các ưu đãi tồn tại sẽ có xu hướng tạo ra những cá thể tài năng nhất trong hoạt động tối
đa hóa những lợi ích từ tham nhũng, mà cũng có thể có những hậu quả tiêu cực đối với
tăng trưởng.
Có thể quan sát gián tiếp tham nhũng thông qua tương quan giữa mức độ quan
liêu và tăng trưởng kinh tế. Đối với thủ tục hành chính phức tạp và lâu dài là một phần
của sự phát triển cơ chế khuyến khích quan trọng đối với các nhà đầu tư tiềm năng, đặc
biệt là các nhà đầu tư nước ngoài. Quan liêu ở mức độ cao có thể làm mất các nhà đầu
35
tư bất kể sự tồn tại của các ưu đãi. Bởi vì thời gian là tiền bạc, nhà đầu tư sẽ sẵn sàng
trả tiền để tránh bất kỳ sự chậm trễ trong quá trình xâm nhập vào thị trường hoặc trong
các hoạt động kinh doanh. Như chống lại điều này, sự tồn tại của các quy tắc và thủ tục
khác nhau mà các nhà đầu tư tiềm năng có thể phải thực hiện cung cấp cho các công
chức một sức mạnh độc quyền - họ có thể từ chối cấp một giấy phép hoặc trì hoãn sản
xuất trong vài tháng (Tanzi, 1997). Đây là cách họ có thể sử dụng quyền lực của mình
cho nhu cầu hối lộ. Hối lộ cũng có thể có ảnh hưởng đến thứ tự mà một nhà đầu tư sẽ
được cấp phép nhất định.
Tham nhũng là một tệ nạn trầm trọng ở nhiều quốc gia kém phát triển. Tham
nhũng xúc phạm đạo đức, lũng đoạn xã hội, khơi dậy những nghi vấn nghiêm khắc về
thực chất của chế độ chính trị, đó là những sự kiện ai cũng biết và đã được bàn cãi khá
nhiều. Trong thời gian gần đây, một số tổ chức quốc tế (Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế, Ngân
Hàng Thế Giới, Tổ Chức Hợp Tác và Phát Triển Châu Âu ...) cũng quan tâm đặc biệt
đến tệ nạn này, coi nó là một nhân tố quyết định trong chính sách của họ đối với các
quốc gia đang phát triển.
Điều đáng ngạc nhiên là, cho mãi đến gần đây, những ảnh hưởng kinh tế của
tham nhũng, nhất là trong một quốc gia cần phát triển và đang chuyển đổi ít khi được
phân tích chu đáo. Nhiều câu hỏi vẫn chưa được trả lời một cách thỏa đáng: Tác động
kinh tế của tham nhũng là sao? Bản chất mối liên hệ giữa tham nhũng và tăng trưởng là
thế nào? Tham nhũng gây chậm tiến hay chậm tiến gây tham nhũng? Kinh tế thị
trường là nguyên nhân hay giải pháp của tham nhũng?
Có người sẽ cho rằng không cần đi vào chi tiết những câu hỏi ấy bởi lẽ, theo họ,
hậu quả tai hại của tham nhũng là quá hiển nhiên: bài toán bức xúc là phải làm sao để
tận diệt nó. Cũng có người sẽ khẳng định tham nhũng là một tệ nạn giai đoạn: trong
một nền kinh tế đang nhanh chóng chuyển thể và phát triển thì tham nhũng là khó thể
tránh; khi xã hội và kinh tế đã phát triển thì tệ nạn ấy sẽ đương nhiên giảm đi.
36
Hai thái độ ấy (một thì cho rằng phải tận diệt tham nhũng bằng mọi giá, một thì
cho là phải tạm thời chấp nhận tham nhũng) cần được xét lại. Một mặt, phải thấy rằng
chống tham nhũng là một hoạt động đòi hỏi nhiều sức người, sức của. Do đó, để phân
bố hữu hiệu nguồn lực quốc gia, ta cần quán triệt một cách khách quan, đè nén cảm
tính nông nổi, những yếu tố đưa đến tham nhũng và hậu quả thực sự của hiện tượng
này. Mặt khác, ý kiến cho rằng phát triển kinh tế có thể đi đôi với tham nhũng là một
khẳng định còn thiếu thực chứng, và sẽ rất tai hại cho chính sách nếu sai lầm. Ta phải
nghĩ sao nếu tham nhũng chính nó sẽ làm trì trệ tăng trưởng hay, nói cách khác, liên hệ
giữa tăng trưởng và tham nhũng là liên hệ hai chiều? Thực vậy, trong bối cảnh hiện
nay của nhiều nước đang phát triển và chuyển tiếp như Việt Nam, Trung Quốc (và, một
phần nào đó, kể cả Nga)…tham nhũng là biểu hiện hội điểm của nhiều biến chuyễn đa
nguyên, đa dạng (xã hội, chính trị, lịch sử, kinh tế). Nó có thể vừa là nguồn gốc, vừa là
hậu quả, vừa là cái móc nối nhiều tệ nạn. Coi tham nhũng như là một đặc tính giai đoạn
của một tiến trình lịch sử đường thẳng là một nhận định sai lầm.
Đối với khu vực tư, khi có vụ việc tham nhũng xảy ra, pháp luật đã có những sự
điều chỉnh nhất định. Tuy nhiên, cũng có trường hợp, người có chức vụ, quyền hạn
trong các tổ chức, doanh nghiệp thuộc khu vực tư cấu kết, móc nối với những người
thoái hoá, biến chất trong khu vực công hoặc lợi dụng ảnh hưởng của những người này
để trục lợi. Trong trường hợp đó, họ trở thành đồng phạm khi người có hành vi tham
nhũng bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Trong khu vực tư nhân, tham nhũng làm tăng chi phí của doanh nghiệp thông qua
giá thanh toán bất hợp pháp, chi phí quản lý, đàm phán với các quan chức và nguy cơ
bị vi phạm hợp đồng. Công khai loại bỏ các quy định tốn kém và lâu dài thì tốt hơn
việc sử dụng tiền hối lộ. Ham nhũng bơm phồng chi phí kinh doanh, nó cũng làm biến
dạng thị trường, bảo vệ các công ty với các kết nối từ đối thủ cạnh tranh và do đó duy
trì các công ty không hiệu quả.
37
Tham nhũng cũng tạo ra biến dạng kinh tế trong khu vực công bằng cách sử dụng
các nguồn vốn đầu tư công vào các dự án kém hiệu quả. Các quan chức có thể làm tăng
sự phức tạp kỹ thuật của dự án khu vực công để che giấu hoặc mở đường cho các giao
dịch như vậy, do đó tiếp tục bóp méo đầu tư. Tham nhũng cũng làm giảm chất lượng
dịch vụ của chính phủ và cơ sở hạ tầng, làm tăng áp lực ngân sách.
Cần nhìn nhận rằng không phải bao giờ cũng dễ xác định hành động nào là tham
nhũng, hành động nào là không. Điển hình: mọi xã hội đều có phong tục quà cáp, đãi
đằng. Đến mức độ nào thì những tập quán đó (khi chúng liên hệ đến công chức cán
bộ) là tham nhũng? Theo một số nhà nghiên cứu phương Tây như Tanzi (1997) thì
tham nhũng là bất cứ hành vi nào của quan chức dưới ảnh hưởng của liên hệ cá nhân
hoặc gia đình, thay vì hoàn toàn theo tín hiệu thị trường. Quan điểm đó vừa quá nhỏ
hẹp, lại có ý quá tôn vinh cơ chế thị trường, nhưng không tìm được một định nghĩa vắn
tắt và thỏa đáng hơn.
Tác động kinh tế tiêu cực của tham nhũng. Có thể xếp các tác động này vào bốn
phạm trù: phân bố nguồn lực, công cụ chính sách và cải cách thể chế, phân hoá giàu
nghèo, và tính truyền nhiễm của nó.
38
Bảng 2.1. Kỳ vọng dấu của các biến giải thích
Varriable Description Dấu kỳ vọng
GDP per capita (constant 2005 US$) School enrollment, secondary +tertiary(% gross)
GDP SCH AID %GNI FDI GFC + +/- +/- +
HHC TRD DPR TEL VAI + + - + +
Foreign direct investment, net inflows (% of GDP) Gross fixed capital formation (% of GDP) Household final consumption expenditure per capita (constant 2005 US$) Trade (% of GDP) Age dependency ratio (% of working-age population) Telephone lines (per 100 people) Voice and Accountability Index (0-100) Political Stability and Absence of Violence/Terrorism Index (0- 100) Government Effectiveness Index (0-100) Regulatory Quality Index (0-100) Rule of Law Index (0-100) Control of Corruption Index (0-100) ((vai+psi+gei+rqi+rli+cci)/6) + + + + + +
PSI GEI RQI RLI CCI GOV Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ kết quả của những nghiên cứu thực nghiệm
Các biến trong mô hình được lấy log để giải quyết mối quan hệ phi tuyến có thể
có giữa biến phụ thuộc và các biến độc lập trong mô hình tuyến tính, đồng thời làm
giảm độ lệch của biến.
Khi sử dụng các giá trị log, các quan sát FDI có giá trị âm sẽ khiến cho giá trị log
của nó không có ý nghĩa. Chính vì thế, trong bài viết này, tác giả xử lý bằng cách cho
các giá trị FDI âm bằng 1 trong việc nghiên cứu tác động của thể chế công và các nhân
tố khác đến tăng trưởng kinh tế.
39
Nghiên cứu đưa ra giả thuyết có mối quan hệ tích cực giữa đầu tư vào vốn cố
định (GFCit), đầu tư vào vốn con người (SCHit), độ mở của nền kinh tế (TRDit) và GDP
thực bình quân đầu người (GDPit). Bằng trực giác, kỳ vọng rằng đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDIit) sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở nước sở tại, không chỉ bằng cách tài trợ
vốn trực tiếp, mà còn tạo ra ngoại tác tích cực thông qua việc áp dụng công nghệ và
kinh nghiệm nước ngoài. Các nghiên cứu thực nghiệm đã tìm thấy bằng chứng khác
nhau về tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế của nước sở
tại. Các kết luận của nhiều tài liệu liên quan từ tích cực có ý nghĩa thống kê (Ram và
Zhang, 2002 và Campos và Kinoshita, 2002) đến tác động tích cực nhưng không có ý
nghĩa thống kê (Carkovic và Levine, 2002) và tác động tiêu cực có ý nghĩa thống kê
(Dutt, 1997 và Saltz, 1992).
Những nghiên cứu ở cấp độ vĩ mô khác cũng cho thấy rằng đặc điểm đất nước rất
quan trọng trong việc xác định sự đóng góp của FDI vào tăng trưởng kinh tế.
Borensztein et al. (1998) và Xu (2000) chỉ ra rằng FDI đưa đến sự tăng trưởng tích cực
chỉ khi cổ phiếu tối thiểu nhất định của vốn con người tồn tại ở nước sở tại, trong khi
đó Alfaro et al., trong khi đó Alfaro et al. (2002) và Durham (2004) lập luận rằng chỉ
có các quốc gia có thị trường tài chính phát triển tốt mới nhận ra tốc độ tăng trưởng
đáng kể là do FDI. Từ tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDIit) đến tăng trưởng
kinh tế là tác động hỗn hợp, do đó, mối quan hệ dự kiến có thể không rõ ràng (tích cực
hoặc tiêu cực).
Tác động của viện trợ nước ngoài (AIDit) đến tăng trưởng kinh tế cũng đang gây
tranh cãi. Moyo (2009) cho rằng chi cho viện trợ mà đặc biệt là trong các hình thức cho
vay ưu đãi và viện trợ đã hạn chế, kìm hãm và làm chậm sự phát triển. Một số nghiên
cứu bao gồm Hansen và Tarp (2000, 2001) và Dalgaard et al. (2004) tìm thấy một tác
động tích cực trong khi những người khác bao gồm cả Mosley (1980) và Shan (1994)
xác định các tác động tiêu cực của viện trợ đến tăng trưởng. Mặt khác, Fayissa và El-
Kaissy (1999) và Burnside và Dollar (2000) kết luận rằng viện trợ có tác động tích cực
40
đến tăng trưởng ở các nước đang phát triển có chính sách tốt và ít có tác dụng ở những
nước có chính sách kém. Sử dụng một phiên bản mở rộng của các tập dữ liệu của
nghiên cứu thứ hai, Easterly et al. (2004) tăng nghi ngờ mới về hiệu quả viện trợ, ngay
cả trong trường hợp các chính sách tốt. Như vậy, tác động của viện trợ (AIDit) đến tăng
trưởng kinh tế không thể được dự đoán.
Trong các nghiên cứu, tỷ lệ người phụ thuộc cao (DPR) sẽ làm tăng trưởng kinh
tế thấp. Lập luận đưa ra là DPR cao làm loãng sự đóng góp GDP thực thực bình quân
đầu người của mỗi người lao động đến GDP thực bình quân đầu người. Bloom và
Sachs (1998) kết luận rằng tiết kiệm quốc gia và đào tạo nguồn nhân lực có tác động
tiêu cực. Krugman (1994) nhấn mạnh tầm quan trọng của những thay đổi trong DPR là
động lực chính cho sự tăng trưởng nhanh chóng của một số nền kinh tế châu Á trong
những năm gần đây.
Hầu hết các nghiên cứu trước đây cho thấy mối quan hệ tích cực giữa cơ sở hạ
tầng và hoạt động kinh tế. Datta và Agarwal (2004) chỉ ra rằng cơ sở hạ tầng viễn
thông đã đóng vai trò tích cực và quan trọng trong tăng trưởng kinh tế tại 22 quốc gia
OECD giai đoạn 1980-1992. OECD (1994), Roller và Waverman (2001) xem xét các
tác động của đầu tư cơ sở hạ tầng viễn thông đến các hoạt động kinh tế và tìm thấy đầu
tư viễn thông có tác động đáng kể đến tăng trưởng, đặc biệt khi đã có một cơ sở hạ tầng
mạng lưới lớn tại chỗ. Easterly và Levine (1997) cũng nhận thấy rằng phát triển cơ sở
hạ tầng được đo bằng số điện thoại cho người lao động góp phần vào tăng trưởng kinh
tế. Luận văn theo các ví dụ của Easterly và Levine (1997), đầu tư cơ sở hạ tầng với dẫn
xuất là số điện thoại cố định trên nghìn dân (TEL). Mối quan hệ giữa đầu tư cơ sở hạ
tầng và tăng trưởng kinh tế dự kiến là tích cực.
2.2. Dữ liệu nghiên cứu
Nghiên cứu sử dụng dữ liệu của các quốc gia khu vực ASEAN (ngoại trừ
Myanmar và Thái Lan) giai đoạn từ năm 1996 đến 2012. Các chỉ số về thể chế công
41
chạy từ 0 đến 100, trong đó mức 0 là mức thể hiện chất lượng thể chế công thấp nhất
và 100 là mức thể hiện chất lượng thể chế công tốt nhất.
2.2.1. Dữ liệu về thể chế công
Dữ liệu thể chế công được sử dụng trong bài viết này được lấy từ The Worldwide
Governance Indicators (WGI).
WGI tổng hợp các dữ liệu nghiên cứu về chất lượng thể chế công được cung cấp
bởi một số lượng lớn các doanh nghiệp, công dân và khảo sát các chuyên gia ở những
nước công nghiệp và những nước đang phát triển. Những dữ liệu này được thu thập từ
một số viện nghiên cứu, cố vấn, các tổ chức phi chính phủ, tổ chức quốc tế và các
doanh nghiệp tư nhân.
Sáu chỉ số đo lường chất lượng thể chế công do WGI tổng hợp được hình thành
dựa trên nhiều nguồn cơ bản tương ứng với khái niệm thể chế công được đo lường.
Điều này được thực hiện theo ba bước mô tả dưới đây:
Bước 1: Gán dữ liệu từ các nguồn riêng lẻ cho sáu chỉ số tổng hợp. Câu hỏi riêng
lẻ từ các nguồn dữ liệu cơ bản được gán cho mỗi trong số sáu chỉ số tổng hợp. Ví dụ
như một câu hỏi khảo sát doanh nghiệp về môi trường pháp lý sẽ được gán cho chất
lượng điều tiết, hoặc một đo lường tự do báo chí sẽ được gán cho tiếng nói và trách
nhiệm giải trình.
Bước 2: Mở rộng nguồn dữ liệu riêng lẻ ban đầu cho chạy từ 0 đến 1. Những câu
hỏi từ các nguồn dữ liệu riêng lẻ đầu tiên được thay đổi tỷ lệ dao động từ 0 đến 1, giá
trị cao tương ứng với kết quả tốt hơn. Khi nguồn dữ liệu riêng lẻ cung cấp nhiều hơn
một câu hỏi liên quan đến một khía cạnh cụ thể của chất lượng thể chế công, lúc này sẽ
sử dụng giá trị trung bình.
Bước 3: Sử dụng một mô hình thành phần không quan sát được (UCM) để xây
dựng một trung bình có trọng số của các chỉ số riêng cho mỗi nguồn. Mô hình UCM
giả định rằng các dữ liệu quan sát từ mỗi nguồn là một hàm tuyến tính của các khía
cạnh của thể chế công không quan sát được cộng với sai số. Hàm tuyến tính này khác
42
nhau đối với các nguồn dữ liệu khác nhau. Các kết quả ước lượng của thể chế công là
bình quân gia quyền các dữ liệu từ mỗi nguồn.
Đo lường các biến đại diện cho chất lượng thể chế công:
(1) Tiếng nói và trách nhiệm giải trình nắm bắt những cảm nhận về mức độ mà
công dân của một quốc gia có thể tham gia trong việc lựa chọn chính phủ của họ, cũng
như việc tự do ngôn luận, tự do lập hội và tự do truyền thông. Biến này được WGI tổng
hợp từ nhiều biến riêng lẻ của nhiều nguồn dữ liệu như: Economist Intelligence Unit
Riskwire & Democracy Index (EIU) bao gồm các yếu tố: Chỉ số dân chủ, quyền lợi,
trách nhiệm giải trình của công chức, nhân quyền và tự do hiệp hội; Freedom House
(FRH) bao gồm các thành phần: quyền tự do chính trị, quyền tự do dân sự, chỉ số tự do
báo chí, phương tiện truyền thông, tổ chức xã hội và quy trình bầu cử; World
Economic Forum Global Competitiveness Report (GCS) bao gồm: tính minh bạch
trong chính sách của chính phủ, tự do báo chí, thiên vị trong các quyết định của các
quan chức chính phủ, thi hành của Luật;…
(2) Tính ổn định chính trị và không có bạo lực đo lường khả năng chính phủ có
thể bị bất ổn chính trị hoặc bị lật đổ. Chỉ số này được tổng hợp từ nhiều biến của nhiều
nguồn khác nhau như: EIU bao gồm: xung đột vũ trang, các cuộc biểu tình bạo lực,
tình trạng bất ổn xã hội, căng thẳng quốc tế hoặc mối đe dọa khủng bố; nguồn từ GCS
gồm: chi phí cho khủng bố; Cingranelli Richards Human Rights Database and Political
Terror Scale - HUM gồm: tần số các vụ giết người chính trị, tần suất mất tích, tần suất
tra tấn, quy mô khủng bố chính trị; từ nguồn iJET Country Security Risk Ratings - IJT
gồm biến đánh giá rủi ro an ninh; nguồn Institutional Profiles Database - IPD gồm:
cường độ các cuộc xung đột nội bộ dân tộc, tôn giáo, khu vực, cường độ các hoạt động
bạo lực của các tổ chức chính trị ngầm, xung đột nội bộ, căng thẳng sắc tộc,…
(3) Hiệu quả của chính phủ phản ánh về chất lượng dịch vụ công, chất lượng của
công chức và mức độ độc lập với áp lực chính trị, chất lượng xây dựng và thực hiện
chính sách và sự đảm bảo của chính phủ trong thực hiện chính sách. Các nguồn dữ liệu
43
và các biến được sử dụng để đo lường hiệu quả của chính phủ: EIU gồm các biến tệ
nạn quan liêu hoặc hiệu quả thể chế; GCS gồm cơ sở hạ tầng, chất lượng giáo dục tiểu
học; các biến như sự hài lòng với hệ thống giao thông công cộng, sự hài lòng với hệ
thống giáo dục được thu thập từ nguồn Gallup World Poll - GWP; các biến đo lường
trường công lập, dịch vụ y tế cơ bản, nước uống và vệ sinh môi trường, lưới điện, xử lý
chất thải được lấy từ Institutional Profiles Database - IPD…
(4) Chất lượng điều tiết thể hiện khả năng của chính phủ trong việc xây dựng và
thực hiện các chính sách và quy định cho phép thúc đẩy và phát triển khu vực tư nhân.
Chỉ số này được tổng hợp từ các nguồn: EIU gồm các biến: hành vi cạnh tranh không
lành mạnh, kiểm soát giá cả, thuế phân biệt đối xử, bảo hộ thái quá; các biến như gánh
nặng các quy định của chính phủ, mức độ và tác động của thuế, tỷ lệ rào cản thương
mại, mức độ cạnh tranh của địa phương, sự dễ dàng trong thành lập doanh nghiệp mới,
hiệu quả chính sách chống độc quyền, các quy định nghiêm ngặt về môi trường được
lấy từ GCS; biến tự do đầu tư, tự do tài chính được lấy từ Heritage Foundation Index of
Economic Freedom - HER…
(5) Quy định của pháp luật thể hiện mức độ mà các tác nhân tin tưởng và tuân thủ
các quy tắc của xã hội, đặc biệt là chất lượng thực thi hợp đồng, quyền sở hữu, cảnh
sát, tòa án, cũng như khả năng xuất hiện tội phạm và bạo lực. Biến này được tổng hợp
từ nhiều nguồn: các biến như tội phạm bạo lực, tổ chức tội phạm, tính công bằng của
quy trình pháp lý, thực thi hợp đồng, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, bảo về quyền sở hữu
tư nhân, tịch thu hoặc trưng thu được lấy từ nguồn EIU; các biến độ tin cậy của dịch vụ
cảnh sát, độc lập pháp lý, bảo vệ sở hữu trí tuệ, quyền sở hữu, khu vực phi chính thức
được lấy từ GCS…
(6) Kiểm soát tham nhũng thể hiện khả năng nắm bắt về mức độ mà quyền lực
công được thực hiện nhằm mục đích cá nhân, bao gồm cả hình thức nhỏ và lớn của
tham nhũng, cũng như khả năng nắm bắt của nhà nước trong việc phát hiện tham
nhũng. Biến này được tổng hợp như sau: vấn đề tham nhũng trong công chức được thu
44
thập từ EIU; các biến niềm tin vào chính trị, sử dụng quỹ công, những khoản thanh
toán bất thường trong xuất, nhập khẩu, dịch vụ công, thuế, các hợp đồng…được thu
thập từ GCS; mức độ tham nhũng giữa chính quyền và công dân, giữa chính quyền và
doanh nghiệp, giữa chính quyền và các công ty nước ngoài được lấy từ IPD; tham
nhũng được lấy từ PRS…
2.2.2. Dữ liệu về các biến giải thích khác
Các dữ liệu của các biến giải thích khác được lấy từ World Development
Indicators giai đoạn từ 1996-2012. Những dữ liệu này bao gồm: tổng số học sinh đến
trường so với tổng số người trong độ tuổi đi học và được đo lường bằng đầu tư vào
nguồn vốn con người, hỗ trợ phát triển chính thức và viện trợ nước ngoài trong hiện tại
(%GNI), đầu tư trực tiếp nước ngoài (%GDP), tổng nguồn vốn cố định với dẫn xuất là
đầu tư vào nguồn vốn hữu hình, chi tiêu thực bình quân đầu người của hộ gia đình,
thương mại (%GDP) cho mỗi quốc gia được xem xét để nắm bắt tác động của độ mở
nền kinh tế đến tăng trưởng kinh tế, số người sống phụ thuộc trên tổng số người trong
độ tuổi lao động, số điện thoại cố định trên 1.00 dân.
Bảng 2.2. Mô tả các biến và phân tích thống kê
Varriable Description
Max
Mean
Std.Dev Min
72.6477 3.4962 3.6150 23.5823
GDP SCH AID FDI GFC HHC TRD DPR TEL VAI PSI GEI RQI RLI CCI GOV
GDP thực bình quân đầu người (USD) Tỷ lệ học sinh đến trường (% gross) Viện trợ %GNI Đầu tư trực tiếp nước ngoài (% of GDP) Tổng nguồn vốn cố định (% of GDP) Chi tiêu thực bình quân đầu người hộ gia đình (USD) Thương mại (% of GDP) Tỷ lệ người phụ thuộc (%) Số điện thoại cố định/100 dân Chỉ số tiếng nói và trách nhiệm giải trình (0-100) Chỉ số tính ổn định chính trị và không có bạo lực (0-100) Chỉ số hiệu quả Chính phủ (0-100) Chỉ số chất lượng điều tiết (0-100) Chỉ số quy định của pháp luật (0-100) Chỉ số kiểm soát tham nhũng (0-100) ((vai+psi+gei+rqi+rli+cci)/6)
Obs 268.94 27382.54 112 4796.241 8137.318 1.6910 139.9546 37.6306 112 22.1553 -0.6895 4.6942 112 2.4155 112 11.0920 0.0567 42.4956 6.4013 10.4654 112 112 1638.241 1732.456 267.917 6519.324 41.4616 45.5121 220.4074 112 112.0037 112 97.2871 13.4381 38.6602 58.0247 26.5132 0.1350 9.1990 112 63.460 2.400 29.3946 112 97.000 3.000 39.3393 112 87.000 10.000 49.9464 112 112 95.000 6.000 47.0446 75.120 9.090 40.7849 112 81.000 5.000 37.2054 112 73.1305 9.0395 40.6337 112
7.6526 16.3740 26.1987 22.9605 21.9013 19.5120 22.1099 17.6296
Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ dữ liệu nghiên cứu dựa trên phần mềm Stata
45
Bảng 2.2 mô tả dữ liệu thống kê của các biến sử dụng trong mô hình, qua đó cho
thấy GDP bình quân đầu người (GDP) tại các quốc gia khu vực Asean giai đoạn 1996
– 2012 ở mức bình quân 4.796,241 USD; tổng số học sinh đến trường bậc trung học và
đại học so với tổng số người trong độ tuổi đi học (SCH) đại diện cho đầu tư vào nguồn
nhân lực ở mức bình quân là 72,6477%; hỗ trợ phát triển chính thức và viện trợ nước
ngoài hiện tại (AID) chiếm bình quân 3,4962% GNI; đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
ở mức bình quân 3,615%GDP; tổng nguồn vốn cố định đại diện cho đầu tư vào nguồn
vốn hữu hình (GFC) giai đoạn này ở mức bình quân 23,5823% GDP; chi tiêu thực bình
quân đầu người của hộ gia đình (HHC) ở mức bình quân 1.638,241 USD; Thương mại
(TRD) thể hiện độ mở nền kinh tếở mức bình quân 112,0037% GDP; Số người phụ
thuộc trên tổng số người trong độ tuổi lao động (DPR) ở mức bình quân 58,0247%; số
điện thoại cố định trên 100 dân ở mức bình quân 9,199%.
Xét về các biến đo lường chất lượng thể chế công trong giai đoạn 1996 – 2012 tại
các quốc gia khu vực Asean: Tiếng nói và trách nhiệm giải trình bình quân là 29,3946
(theo thang điểm từ 0 đến 100); Tính ổn định chính trị và không có bạo lực ở mức bình
quân 39,3393 (theo thang điểm từ 0 đến 100); Hiệu quả của chính phủ bình quân ở
mức 49,9464 (theo thang điểm từ 0 đến 100); Chất lượng điều tiết bình quân ở mức
47,0446 (theo thang điểm từ 0 đến 100); Quy định của pháp luật bình quân ở mức
40,7849 (theo thang điểm từ 0 đến 100); Kiểm soát tham nhũng ở mức bình quân
37,2054 (theo thang điểm từ 0 đến 100). Nhìn chung, hầu hết tất cả các biến đại diện
cho chất lượng thể chế công đều dưới mức trung bình. Như vậy, tại các quốc gia khu
vực ASEAN giai đoạn này thể chế công còn kém, chính phủ chưa hoạt động hiệu quả,
tính răn đe của pháp luật chưa cao, thiếu tiếng nói và trách nhiệm giải trình của công
dân, chưa thu hút đầu tư ở khu vực tư nhân, tham nhũng vẫn còn ở mức cao.
46
Bảng 2.3. Ma trận tương quan giữa các biến trong mô hình nghiên cứu
Nguồn: Kết quả dựa trên tính toán từ dữ liệu nghiên cứu với phần mềm Stata
Bảng 2.3 mô tả ma trận tương quan giữa các biến trong mô hình nghiên cứu, qua
đó có thể nhận thấy các cặp biến trong mô hình đều có hệ số tương quan nhỏ hơn 0,8
ngoại trừ 4 cặp biến HHC với GDP, RLI với GEI, CCI với GEI, CCI với RLI có hệ số
tương quan lớn hơn 0,9. Trong bài nghiên cứu này, hệ số phóng đại VIF có giá trị trung
bình bằng 10,86. Do đó, dữ liệu nghiên cứu xuất hiện hiện tượng đa cộng tuyến rất cao.
Mặc khác, việc sử dụng phương pháp phân tích dữ liệu theo panel data và FGLS sẽ tái
cấu trúc lại mô hình, góp phần hạn chế bớt hiện tượng đa cộng tuyến giữa các biến.
Theo đó, các biến đưa vào mô hình có thể được xem là khá phù hợp trong việc xem xét
tác động của thể chế công đến tăng trưởng kinh tế tại các quốc gia khu vực ASEAN.
2.3. Phương pháp nghiên cứu
Để đo lường tác động của thể chế công đến tăng trưởng kinh tế luận văn sử dụng
phương pháp phân tích dữ liệu bảng (panel data) và được tiến hành theo trình tựsau:
Đầu tiên, tác giả sử dụng hai phương pháp khác nhau là phương pháp Random
effects (REM) và phương pháp Fixed effects (FEM) để ước lượng mô hình (1):
47
Trong mô hình tác động cố định (FEM), mỗi thực thể có những đặc điểm riêng
biệt, có thể ảnh hưởng tới các biến giải thích. Mô hình này đưa ra giả thiết rằng có sự
tương quan giữa phần dư của mỗi thực thể (có chứa đặc điểm riêng biệt) với các biến
giải thích. Mặc khác, FEM có thể kiểm soát và tách ảnh hưởng của các đặc điểm riêng
biệt (không đổi theo thời gian) này ra khỏi các biến giải thích để chúng ta có thể ước
lượng những ảnh hưởng thực của biến giải thích lên biến phụ thuộc. Tuy nhiên, FEM
cũng có những hạn chế là có quá nhiều biến được tạo ra trong mô hình, do đó có khả
năng làm giảm bậc tự do và làm tăng sự đa cộng tuyến của mô hình, FEM không đo
lường được các nhân tố thay đổi theo thời gian.
Đối với mô hình tác động ngẫu nhiên REM, đặc điểm riêng giữa các thực thể
được giả sử là ngẫu nhiên và không tương quan đến các biến giải thích, REM xem các
phần dư của mỗi thực thể (không tương quan với biến giải thích) là một biến giải thích
mới.
Do FEM hay REM đều có những ưu điểm và nhược điểm riêng, nên tiếp sau đó
tác giả sẽ sử dụng phương pháp kiểm định Hausman: phương pháp này cho phép ta lựa
chọn giữa mô hình ước lượng FEM và REM. Giả thuyết H0 làm nền tảng cho kiểm
định Hausman là tác động cá biệt của mỗi đơn vị chéo không gian không có tương
quan với các biến hồi quy khác trong mô hình. Nếu có tương quan (giả thuyết H0 bị từ
chối), mô hình hồi quy theo REM sẽ cho kết quả bị thiên lệch, vì vậy mô hình theo
FEM được ưa thích hơn và ngược lại.
Để tăng độ tin cậy của ước lượng, tiếp sau đó tác giả thực hiện thêm các kiểm
định như sau: kiểm định nhân tử Lagrange: được dùng để kiểm định hiện tượng tương
quan chuỗi của sai số trong mô hình với giả thuyết H0 – mô hình không có hiện tượng
tự tương quan. Sau khi thực hiện kiểm định, nếu giá trị p-value < 0,05 thì giả thuyết H0
bị bác bỏ, tức là trong mô hình không xảy ra hiện tượng tương quan chuỗi. Ngược lại,
mô hình có xuất hiện hiện tượng tự tương quan; Kiểm định Breusch-Pagan Lagrange
Multiplier: được dùng để kiểm định hiện tượng phương sai sai số thay đổi trong mô
48
hình với giả thuyết H0 – mô hình không có hiện tượng phương sai sai số thay đổi. Kết
quả sau khi kiểm định, nếu giá trị p-value < 0,05 thì giả thuyết H0 bị bác bỏ, tồn tại
hiện tượng phương sai sai số thay đổi trong mô hình. Ngược lại sẽ không có hiện tượng
phương sai sai số thay đổi.
Bên cạnh đó, phương pháp FGLS được sử dụng trong luận văn bởi nó có thể
kiểm soát được hiện tượng tự tương quan và phương sai thay đổi. Phương pháp FGLS
sẽ ước tính mô hình theo phương pháp OLS (ngay cả trong trường hợp có sự tồn tại
của hiện tượng tự tương quan và phương sai thay đổi).
49
Chương 3 - KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Kết quả kiểm định bằng phương pháp random effect (REM)
Bảng 3.1 trình bày kết quả ước lượng của mô hình tác động ngẫu nhiên, xem xét
tác động của các biến đến tăng trưởng kinh tế. Xét về tác động của thể chế công đến
tăng trưởng kinh tế: khi biến tiếng nói và trách nhiệm giải trình VAI, quy định pháp
luật RLI và kiểm soát tham nhũng CCI lần lượt được chọn làm dẫn xuất, dựa vào kết
quả nghiên cứu ta thấy có mối tương quan thuận giữa VAI, RLI, CCI và GDP ở mức ý
nghĩa 5%, với R2 tương ứng là 50,94%, 49,14% và 48,91% với cùng một mức P-value
= 0.0000. Tương tự, khi các biến hiệu quả chính phủ GEI, chất lượng điều tiết RQI lần
lượt được chọn làm dẫn xuất cho tác động của thể chế công đến tăng trưởng kinh tế, ta
thấy có mối quan hệ đồng biến giữa các biến này với GDP ở mức ý nghĩa 1%, với R2
tương ứng là 50,06% và 51,30%, cùng mức P-value = 0.0000. Riêng đối với biến tính
ổn định chính trị và không có bạo lực PSI thì không có tác động đến tăng trưởng, với
R2 là 53,83%.
50
Variables Coef
Coef
Coef
Coef
Coef
Coef
Coef
Constant
5.2813*** (0.7906)
5.2589*** (0.8213)
6.2433*** (0.8467)
5.8446*** (0.7679)
6.1410*** 5.9297*** (0.8272) (0.8761)
5.8236*** (0.8405)
SCH
0.0022*** (0.0008)
0.0029*** (0.0009)
0.0023*** (0.0008)
0.0026*** (0.0008)
0.0023*** (0.0008)
0.0026*** (0.0008)
0.0027*** (0.0077)
AID
-0.4406*** (0.0084)
-0.0533*** (0.0076)
-0.0415*** (0.0083)
-0.0483*** (0.0078)
-0.0283*** (0.0094)
-0.0513*** (0.0075)
-0.0417*** (0.0081)
FDI
-0.0734** (0.0268)
-0.0588** (0.0281)
-0.0492** (0.0265)
-0.0611** (0.0269)
-0.0726*** (0.0258)
-0.0631** (0.0271)
-0.0668*** (0.0264)
GFC
0.0142 (0.0942)
-0.0068 (0.0964)
0.0006 (0.0923)
0.0392 (0.0901)
-0.037 (0.0949)
-0.0186 (0.0947)
-0.0088 (0.0920)
HHC
0.0006*** (0.0000)
0.0006*** (0.0000)
0.0005*** (0.0000)
0.0005*** (0.0000)
0.0005*** (0.0000)
0.0005*** (0.0000)
0.0005*** (0.0000)
TRD
0.2729*** (0.0614)
0.2626*** (0.0642)
0.1247* (0.0763)
0.1473** (0.0652)
0.1831*** (0.0727)
0.1916*** (0.0728)
0.1533** (0.0670)
DPR
-0.737 (0.1526)
-0.0105 (0.1553)
-0.1632 (0.1564)
-0.1517 (0.1473)
-0.0727 (0.1537)
-0.0976 (0.1584)
-0.1663 (0.1556)
TEL
0.1118*** (0.0344)
0.0625* (0.0355)
0.1421*** (0.0312)
0.0842*** (0.0347)
0.0915*** (0.0339)
0.0822*** (0.0327)
VAI
0.1183*** (0.0319) 0.0039** (0.0017)
PSI
0.00006 (0.0016)
GEI
0.0076*** (0.0026)
RQI
0.0091*** (0.0023)
RLI
0.0054** (0.0026)
CCI
0.0039** (0.0021)
GOV
0.0094*** (0.0031) 0.4812
0.5094
0.5383
0.5006
0.5130
0.4914
0.4891
112
112
112
112
112
112
112
R-squared Number of obs
Ghi chú: ***, **, * tương ứng với mức ý nghĩa 1%, 5% và 10%.
Bảng 3.1. Kết quả ước lượng của mô hình tác động ngẫu nhiên (REM)
51
3.2. Kết quả kiểm định bằng phương pháp fixed effect (FEM) Bảng 3.2 trình bày kết quả ước lượng của mô hình tác động cố định, xem xét tác
động của các biến đến tăng trưởng kinh tế. Dựa vào kết quả kiểm định ta thấy rằng: khi
biến tiếng nói và trách nhiệm giải trình VAI, quy định pháp luật RLI lần lượt được
chọn làm dẫn xuất, ta thấy có mối tương quan nghịch giữa VAI, RLI và GDP ở mức ý
nghĩa 1%, với R2 tương ứng là 91% và 91,57% với cùng một mức P-value = 0.0000.
Tương tự, khi các biến tính ổn định chính trị và không có bạo lực PSI và kiểm soát
tham nhũng CCI được chọn làm dẫn xuất, ta thấy có mối tương quan nghịch giữa PSI,
CCI và GDP ở mức ý nghĩa 5%, với R2 tương ứng là 90,31% và 90,16%, mức P-value
= 0.0000. Riêng đối với các biến hiệu quả chính phủ GEI, chất lượng điều tiết RQI
không có tác động đến tăng trưởng, với R2 là 90% và 89,93%.
52
Variables
Coef
Coef
Coef
Coef
Coef
Coef
Coef
13.8332***
Constant
(0.5493)
13.8976*** (0.577)
13.753*** (0.5908)
13.8435*** (0.5835)
13.9644*** (0.5323)
13.6157*** (0.5942)
13.846*** (0.5608)
SCH
0.0002 (0.0003)
0.0003 (0.0004)
0.0005 (0.0003)
0.0005 (0.0004)
0.0003 (0.0003)
0.0004 (0.0003)
0.0002 (0.0003)
AID
-0.0027 (0.004)
-0.0058* (0.0041)
-0.0055* (0.0042)
-0.0048 (0.0042)
-0.0043 (0.0038)
-0.0033 (0.0042)
-0.0042 (0.0040)
FDI
0.0081 (0.0087)
0.0053 (0.0090)
0.0009 (0.0093)
0.0026 (0.0096)
0.0153* (0.0088)
0.0077 (0.0096)
0.0114 (0.0094)
GFC
0.1764*** (0.0332)
0.1651*** (0.0342)
0.1575*** (0.0352)
0.1622*** (0.0355)
0.191*** (0.0325)
0.1666*** (0.0345)
0.782*** (0.0341)
HHC
-0.0001* (0.0000)
-0.00004* (0.0000)
-0.00004* (0.0000)
-0.00004* (0.0000)
-0.00003 (0.0000)
-0.00003 (0.0000)
-0.00003 (0.0000)
TRD
-0.1905*** (0.0454)
-.1737*** (0.467)
-0.1608*** (0.0472)
-0.1629*** (0.0473)
-0.1785*** (0.0434)
-0.1549*** (0.0470)
-0.1735*** (0.0458)
DPR
-1.4730*** (0.1047)
-1.5091*** (0.1078)
-1.5105*** (0.1100)
-1.5198*** (0.1119)
-1.4961*** (0.1006)
-1.4676*** (0.1140)
-1.4712*** (0.1075)
TEL
0.0467*** (0.0144)
0.0414** (0.0151)
0.0439*** (0.0147)
0.0497*** (0.0134)
0.0459*** (0.0145)
0.0510*** (0.0144)
0.0551*** (0.0142)
VAI
-0.0034*** (0.0010)
PSI
-0.0012** (0.0006)
GEI
0.0014 (0.0018)
RQI
-0.0005 (0.0014)
RLI
-0.0061*** (0.0014)
CCI
-0.0016** (0.0011)
GOV
-0.0043*** (0.0016)
0.9100
0.9031
0.9000
0.8993
0.9157
0.9016
0.9062
112
112
112
112
112
112
112
R- squared Number of obs
Ghi chú: ***, **, * tương ứng với mức ý nghĩa 1%, 5% và 10%
Bảng 3.2. Kết quả ước lượng của mô hình tác động cố định (FEM)
53
3.3. Kiểm định để lựa chọn mô hình thích hợp
3.3.1. Kiểm định Hausman
Bằng cách sử dụng kỹ thuật kiểm định Hausman để so sánh kết quả giữa mô
hình tác động cố định và mô hình tác động ngẫu nhiên, theo kết quả kiểm định từ bảng
3.3 sẽ bác bỏ các ước lượng của mô hình tác động cố định và chấp nhận kết quả ước
lượng của mô hình tác động ngẫu nhiên. Do đó, kết quả ước lượng của mô hình tác
động ngẫu nhiên thì phù hợp hơn kết quả ước lượng của mô hình tác động cố định
trong việc nghiên cứu tác động của thể chế công đến tăng trưởng kinh tế tại các quốc
gia khu vực ASEAN.
Bảng 3.3. Kết quả kiểm định Hausman
Chi2(9) P-valuve Biến được chọn làm dẫn xuất cho tác động của thể chế công đến tăng trưởng kinh tế
Tiếng nói và trách nhiệm giải trình - VAI 797.46 0.0000
Tính ổn định chính trị - PSI 591.80 0.0000
Hiệu quả của chính phủ - GEI 870.31 0.0000
Chất lượng điều tiết – RQI 104.17 0.0000
Quy định của pháp luật – RLI 189.96 0.0000
Kiểm soát tham nhũng – CCI 896.93 0.0000
Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ dữ liệu nghiên cứu dựa trên phần mềm stata
3.3.2. Kiểm định phương sai sai số thay đổi
Tiếp theo, để kiểm tra liệu có sự tồn tại của hiện tượng phương sai sai số thay đổi
hay không, tác giả sử dụng kiểm định Breusch-Pagan Lagrangian Multiplier (Greene,
2003), kết quả từ bảng 3.4 cho thấy giả thuyết H0 bị bác bỏ (P-value = 0.0000) tức là
tồn tại hiện tượng phương sai sai số thay đổi trong mô hình. Ngoài ra, do mô hình sử
dụng dữ liệu từ 14 năm (từ năm 1996 đến năm 2012, trong đó năm 1997, 1999, 2001
54
không có dữ liệu nghiên cứu) nên sẽ không có hiện tượng tương quan chuỗi do số năm
thực hiện kiểm định tương đối ngắn.
Bảng 3.4. Kết quả kiểm định Breusch-Pagan Lagrangian Multiplier
Chi2(1) P-valuve Biến được chọn làm dẫn xuất cho tác động của thể chế công đến tăng trưởng kinh tế
Tiếng nói và trách nhiệm giải trình - VAI 26.31 0.0000
Tính ổn định chính trị - PSI 35.60 0.0000
Hiệu quả của chính phủ - GEI 38.13 0.0000
Chất lượng điều tiết – RQI 31.97 0.0000
Quy định của pháp luật – RLI 39.04 0.0000
Kiểm soát tham nhũng – CCI 35.02 0.0000
Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ dữ liệu nghiên cứu dựa trên phần mềm stata
Do tồn tại hiện tượng phương sai sai số thay đổi, tác giả sử dụng phương pháp
FGLS để khắc phục hiện tượng này của mô hình. Kết quả ước lượng của mô hình
FGLS trong bảng 3.5 chỉ ra rằng mối quan hệ giữa thu nhập bình quân đầu người
(GDPit) và các biến giải thích (các biến đại diện cho nguồn gốc của tăng trưởng) có dấu
như kỳ vọng ban đầu, từ đó cho thấy: tác động của viện trợ nước ngoài (AIDit) mà đặc
biệt là các hình thức cho vay ưu đãi đã hạn chế, kìm hãm và làm chậm tăng trưởng
kinh tế ở các quốc gia khu vực ASEAN, hệ số này có ý nghĩa thống kê ở mức 1%. Điều
này hàm ý rằng những quốc gia có viện trợ nước ngoài cao sẽ có tăng trưởng thấp. Kết
quả đưa ra phù hợp với kết luận trong bài nghiên cứu thực nghiệm của các tác giả như
Moyo (2009), Mosley (1980) và Shan (1994).
Hệ số của biến đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) mang dấu âm và đều có ý nghĩa
thống kê, kết luận này phù hợp với nghiên cứu của Alfaro et al. (2002) và Durham
(2004). Điều này hàm ý rằng tại các quốc gia thu hút càng nhiều đầu tư trực tiếp nước
55
ngoài thì tốc độ tăng trưởng có nguy cơ bị kìm hãm và chỉ có những quốc gia có thị
trường tài chính phát triển tốt mới nhận ra tốc độ tăng trưởng kinh tế là do FDI.
Ngoài ra, các biến còn lại khác là SCH đại diện cho đầu tư vào nguồn vốn con
người, GFC đại diện cho đầu tư vào nguồn vốn hữu hình, HHC chi tiêu thực bình quân
đầu người của hộ gia đình, TRD thương mại đại diện cho độ mở của nền kinh tế và
biến TEL đại diện cho cơ sở hạ tầng đều có hệ số mang dấu dương, cho thấy các biến
trên đều có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế và đều có ý nghĩa thống kê (riêng
biến GFC không có ý nghĩa thống kê), kết luận này đa số đều phù hợp với kết quả của
những nghiên cứu thực nghiệm trước đó. Riêng biến DPR có tác động tiêu cực và có ý
nghĩa thống kế, điều này cũng phù hợp với kết quả của những nghiên cứu thực nghiệm.
Kết quả nghiên cứu từ mô hình ước lượng FGLS (bảng 3.5) được chọn đã chỉ ra
rằng có năm trong sáu biến đo lường chất lượng thể chế công có tác động tích cực và
có ý nghĩa thống kê đến thu nhập thực bình quân đầu người ở các quốc gia khu vực
ASEAN ngoại trừ biến đo lường tính ổn định chính trị PSI không có ý nghĩa thống kê.
Tuy nhiên, nghiên cứu cũng nhận thấy rằng độ lớn và mức ý nghĩa thống kê của tác
động thể chế công phụ thuộc vào những dẫn xuất của chất lượng thể chế công được sử
dụng.
Theo đó, khi chỉ số tiếng nói và trách nhiệm giải trình được sử dụng làm dẫn xuất
cho chất lượng thể chế công, một sự gia tăng 10% trong tiếng nói và trách nhiệm giải
trình sẽ dẫn đến sự gia tăng 0.056% trong GDP thực bình quân đầu người ở mức ý
nghĩa thống kê 1%. Kết luận này phù hợp với kết quả nghiên cứu của Isham, Kaufman
và Pritchett (1997), tăng tiếng nói và trách nhiệm giải trình của công dân (tăng cường
quyền tự do của công dân và dân chủ) tạo nên hiệu quả lớn trong hoạt động công và
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Kết quả này cũng phù hợp với nghiên cứu của Barro
(1997) và Rivera – Batiz (2002), những nghiên cứu này chỉ ra rằng dân chủ là một yếu
tố quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng, dân chủ hạn chế quan chức tham nhũng,
từ đó kích thích sự thay đổi công nghệ và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
56
Xét về trường hợp của chỉ số tính ổn định chính trị, kết quả nghiên cứu chỉ ra
rằng khi gia tăng 10% trong chỉ số ổn định chính trị (PSI) sẽ kéo theo GDP thực bình
quân đầu người tăng 0.005%, tuy nhiên biến này lại không có ý nghĩa thống kê. Điều
này hàm ý rằng tại các quốc gia khu vực ASEAN giai đoạn từ năm 1996 đến năm 2012
tính ổn định chính trị và không có bạo lực không có tác động đến tăng trưởng kinh tế,
điều này có thể là trong giai đoạn trên thì tại các quốc gia này nền chính trị luôn ổn
định, không có bạo lực hay bất ổn xảy ra nên không có tác động gì đến tăng trưởng.
Kết luận này trái ngược với nghiên cứu của Barro và Lee (1994), Zureiqat (2005),
Gyimah et al. (1999) cho rằng bất ổn chính trị và chiến tranh kéo dài sẽ không tốt cho
tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, kết quả này lại phù hợp với nghiên cứu của
Kirmanoglu (2003), ông cho rằng tác động của bất ổn chính trị đến tăng trưởng kinh tế
không có ý nghĩa về mặt thống kê.
Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra rằng một sự gia tăng 10% trong chỉ số hiệu quả
chính phủ (GEI) sẽ dẫn đến sự gia tăng tương ứng 0.101% GDP thực bình quân đầu
người ở mức ý nghĩa thống kê 1%. Vì vậy, có thể kết luận rằng khi chính phủ đề ra
những quy định hiệu quả sẽ thúc đẩy tăng trưởng.
Xét về chất lượng điều tiết (RQI), theo kết quả nghiên cứu khi RQI tăng 10% sẽ
dẫn đến sự gia tăng tương ứng 0.105% tăng trưởng kinh tế (hay GDP thực bình quân
đầu người) ở mức ý nghĩa 1%. Kết quả này phù hợp với kết luận của nghiên cứu thực
nghiệm của Barro (1997), ông cho rằng quy định pháp luật có tác động tích cực và có ý
nghĩa thống kê đến tăng trưởng. Vì vậy, có thể kết luận, nâng cao chất lượng quản lý
có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bằng cách tạo ra ưu đãi có hiệu lực và hiệu quả cho
khu vực tư nhân. Ngược lại, quy định phiền toái có tác động tiêu cực đến hoạt động
kinh tế và giảm năng suất. Chính sách điều tiết tốt giúp đỡ người nghèo bằng cách tạo
ra cơ hội cho các doanh nghiệp, làm giảm cơ hội tham nhũng, nâng cao chất lượng các
dịch vụ công cộng, và cải thiện các chức năng của nhà ở, dịch vụ và thị trường lao
động.
57
Tương tự, nghiên cứu cũng chỉ ra rằng khi chỉ số quy định của pháp luật tăng
10% thì sẽ kéo theo sự gia tăng 0.071% GDP thực bình quân đầu người ở mức ý nghĩa
1%, kết quả này phù hợp với các nghiên cứu của Campos, Nugent (2000), Morita,
Zaelke (2007), Lane (2010) và (Goldsmith, 1987), các tác giả chỉ ra rằng quy định của
pháp luật là cần thiết để đảm bảo hệ thống pháp lý trong sạch và vững mạnh để loại bỏ
những trở ngại trong việc đầu tư nước ngoài là một trong những yếu tố quan trọng góp
phần vào tăng trưởng kinh tế.
Xét về biến kiểm soát tham nhũng, khi hệ số của biến này tăng 10% sẽ kéo theo
sự gia tăng 0.056% trong GDP thực bình quân đầu người ở mức ý nghĩa 5%. Kết quả
này phù hợp với nghiên cứu của Mauro (1995), Murphy, Shleifer và Vishny (1991),
Ahlin và Pang (2008), Mo (2001), Mendez và Sepulveda (2006) và Glaeser và Saks
(2006), các nghiên cứu này chỉ ra rằng khi tham nhũng gia tăng thì dẫn đến nền kinh tế
bị suy giảm. Tham nhũng làm giảm đầu tư và do đó làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh
tế. Tuy nhiên, kết quả này lại trước ngược với nghiên cứu của Li et al. (2000), Glaeser
và Saks (2006), các tác giả cho rằng tham nhũng ở mức thấp có lợi cho tăng trưởng
kinh tế, nhưng tham nhũng ở quy mô lớn sẽ gây hại cho nền kinh tế.
58
Variables Coef
Coef
Coef
Coef
Coef
Coef
Coef
Constant
5.5276*** (0.6740)
5.8105*** (0.7468)
7.1346 *** (0.7134)
6.4934*** (0.6170)
6.5549*** 6.5893*** (0.6434) (0.7166)
6.6158*** (0.6920)
SCH
0.0023*** (0.0005)
0.0029*** (0.0008)
0.0017*** (0.0006)
0.0023*** (0.0006)
0.0020*** (0.0005)
0.0022*** (0.0006)
0.0026*** (0.0005)
AID
-0.0404*** (0.0072)
-0.0501*** (0.0064)
-0.0358*** (0.0080)
-0.0426*** (0.0065)
-0.0257*** (0.0077)
-0.0484*** (0.0066)
-0.0399*** (0.0069)
FDI
-0.0447** (0.0216)
-0.0477** (0.0239)
-0.0335* (0.0220)
-0.0541*** (0.0219)
-0.0631*** (0.0198)
-0.0542*** (0.0223)
-0.0565*** (0.0207)
GFC
0.0921 (0.0847)
0.0055 (0.0929)
0.0653 (0.0850)
0.0336 (0.0872)
0.0502 (0.0748)
0.0029 (0.0832)
0.0524 (0.0771)
HHC
0.0006*** (0.0000)
0.0005*** (0.0000)
0.0005*** (0.0000)
0.0005*** (0.0000)
0.0005*** (0.0000)
0.0005*** (0.0000)
0.0005*** (0.0000)
TRD
0.2442*** (0.0486)
0.2130*** (0.0530)
0.0332 (0.0627)
0.0736* (0.0469)
0.1043** (0.0564)
0.1177** (0.0563)
0.1162*** (0.0494)
DPR
-0.1768 (0.1185)
-0.1065 (0.1369)
-0.3452*** (0.1235)
-0.2461** (0.1092)
-0.2149* (0.1209)
-0.2203* (0.1247)
-0.2711*** (0.1134)
TEL
0.1271*** (0.0326)
0.0435* (0.0324)
0.1385*** (0.0276)
0.0881*** (0.0302)
0.0905*** (0.0308)
0.0784*** (0.0284)
VAI
0.1020*** (0.0290) 0.0056*** (0.0017)
PSI
0.0005 (0.0014)
GEI
0.0101*** (0.0023)
RQI
0.0105*** (0.0016)
RLI
0.0071*** (0.0018)
CCI
0.0056** (0.0017)
GOV
0.0093*** (0.0018)
112
112
112
112
112
112
112
Number of obs
Ghi chú: ***, **, * tương ứng với mức ý nghĩa 1%, 5% và 10%.
Bảng 3.5. Kết quả ước lượng mô hình FGLS
59
Chương 4 - KẾT LUẬN
Mục đích của nghiên cứu này là xác định tác động của chất lượng thể chế công
đến tăng trưởng kinh tế của các nước khu vực ASEAN và điều tra liệu các tác động của
các biến thể chế công đến GDP thực bình quân đầu người có khác nhau không. Sáu
biến của thể chế công (chỉ số tiếng nói và trách nhiệm giải trình, tính ổn định chính trị,
hiệu quả của chính phủ, chất lượng điều tiết, quy định của pháp luật và chỉ số kiểm soát
tham nhũng) và một phương pháp đo lường chất lượng thể chế công được phân tích.
Kết quả thực nghiệm được trình bày dựa trên dữ liệu bảng của 8 quốc gia khu vực
ASEAN giai đoạn từ năm 1996 đến năm 2012. Kết quả của mô hình ước lượng cho
thấy rằng chất lượng thể chế công tốt có tác động tích cực và có ý nghĩa thống kê đến
tăng trưởng kinh tế bất kể dẫn xuất nào của thể chế công được sử dụng (ngoại trừ biến
tính ổn định chính trị không có ý nghĩa thống kê).
Các kết luận rút ra từ nghiên cứu cho thấy rằng chất lượng thể chế công tốt thì rất
quan trọng cho tăng trưởng của nền kinh tế các quốc gia khu vực ASEAN, đặc biệt là
tại các nước đang phát triển và có thu nhập bình quân đầu người ở mức thấp. Để cải
thiện xu thế tăng trưởng kinh tế, các nhà hoạch định chính sách tại các khu vực này cần
phải đặt trọng tâm vào việc duy trì tiếng nói và trách nhiệm giải trình, hiệu quả của
chính phủ, chất lượng điều tiết, quy định của pháp luật và kiểm soát tham nhũng.
Ngoài ra, nghiên cứu cũng chỉ ra rằng mỗi dẫn xuất khác nhau của thể chế công
sẽ có tác động khác nhau đến tăng trưởng kinh tế. Theo kết quả ước lượng FGLS ở
bảng 3.5, trong số sáu yếu tố đại diện cho chất lượng thể chế công thì hai dẫn xuất của
thể chế công là chất lượng điều tiết RQI và hiệu quả của chính phủ GEI có tác động
mạnh nhất đến tăng trưởng kinh tế tại các quốc gia khu vực ASEAN (hệ số lần lượt là
0.0105 và 0.0101). Các chỉ số còn lại có tác động tương đối ít đến tăng trưởng kinh tế,
riêng chỉ số PSI không tác động đến tăng trưởng.
60
Dựa vào nghiên cứu cũng có thể kết luận rằng để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền
vững thì điều đầu tiên chính phủ cần làm là nâng cao hiệu quả của chính phủ, vấn đề
cung ứng dịch vụ công phải đảm bảo tính công bằng, hiệu quả, nâng cao trách nhiệm
của người thừa hành công vụ, bên cạnh đó đảm bảo thực hiện an sinh xã hội song song
với phát triển kinh tế. Bên cạnh đó, cần phát hiện và tiêu diệt triệt để tệ nạn quan liêu
trong bộ máy hành chính công để làm cho bộ máy hành chính hoạt động tốt hơn, các
quyết định nhanh chóng được thực hiện sẽ thu hút được nhiều đầu tư trong nước cũng
như ngoài nước. Nhất quán trong chính sách và chính sách có tính dự báo cao, tầm
nhìn xa sẽ tạo được niềm tin cho các doanh nghiệp, cũng như nhà đầu tư.
Tiếp theo đó, chính phủ cũng cần chú trọng đến nâng cao chất lượng điều tiết, thể
hiện khả năng của chính phủ trong việc thúc đẩy và phát triển khu vực tư nhân vì khu
vực kinh tế tư nhân có vai trò ngày càng quan trọng, trở thành động lực lớn đẩy nhanh
sự phát triển của nền kinh tế. Để thúc đẩy phát triển kinh tế khu vực tư nhân, chính phủ
cần tôn trọng và bảo đảm quyền tự do kinh doanh theo pháp luật, bảo hộ quyền sở hữu
tài sản hợp pháp của công dân, tuân thủ các nguyên tắc và thông lệ quốc tế, đặc biệt là
các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế; Cần đưa ra những biện pháp cụ thể để thúc đẩy
tính minh bạch và nâng cao trách nhiệm giải trình của các cơ quan nhà nước nhằm tạo
sự bình đẳng đối với khu vực tư nhân; Đổi mới phương thức quản lý kinh tế của Nhà
nước theo hướng tạo điều kiện cho mọi doanh nghiệp được tự do kinh doanh theo pháp
luật, bình đẳng, cùng có lợi, kết hợp hài hòa lợi ích kinh tế - chính trị - xã hội và môi
trường; Nghiên cứu đề ra các chính sách hỗ trợ, trong đó tập trung giải quyết các khó
khăn của khu vực tư nhân về đất đai, mặt bằng sản xuất kinh doanh, vốn, năng lực
khoa học công nghệ và thị trường, đồng thời Chính phủ cũng cần có những chương
trình giáo dục, đào tạo khoa học và công nghệ, cũng như có chế độ khen thưởng thích
đáng để động viên khuyến khích, tôn vinh và nhân rộng các điển hình. Bên cạnh đó,
cần tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, đặc biệt coi trọng cải cách thủ tục hành
chính, xây dựng bộ máy quản lý nhà nước trong sạch, vững mạnh, nâng cao trình độ
61
nắm bắt và thi hành pháp luật của đội ngũ công chức quản lý có liên quan trực tiếp khu
vực kinh tế tư nhân. Chính phủ cần xây dựng, triển khai các công cụ quản lý và hỗ trợ
mới đối với khu vực kinh tế tư nhân, chuyển từ mục đích “quản chặt doanh nghiệp”
sang “hỗ trợ doanh nghiệp” bằng định hướng chính sách, thông tin thị trường và những
khuyến khích tài chính, cũng như tinh thần theo ngành, sản phẩm, địa bàn, chứ không
theo từng doanh nghiệp, dự án cụ thể hoặc tính chất sở hữu. Ngoài ra, để thúc đẩy tính
minh bạch và nâng cao trách nhiệm giải trình của các cơ quan nhà nước nhằm tạo sự
bình đẳng đối với khu vực tư nhân. Về phía Nhà nước, quá trình xây dựng chính sách
pháp luật cần cởi mở hơn nữa, có sự tham gia của mọi người dân ngay từ khi có ý
tưởng chứ không phải khi đã hoàn thiện văn bản pháp luật; đồng thời tăng tính khách
quan trong quá trình xây dựng pháp luật. Về phía khu vực tư nhân, cần nâng cao năng
lực, nhận thức cho mọi người dân về tính minh bạch, trách nhiệm giải trình và công tác
truyền thông chính sách…
Các khía cạnh còn lại của thể chế công như: VAI – tiếng nói và trách nhiệm giải
trình, RLI – quy định của pháp luật và CCI – kiểm soát tham nhũng tuy có tác động rất
nhỏ đến tăng trưởng kinh tế, nhưng không nên xem nhẹ mà cần chú trọng cải thiện.Xét
về khía cạnh tiếng nói và trách nhiệm giải trình, nếu thiếu tiếng nói và trách nhiệm giải
trình là cấu thành của nghèo đói và làm tăng tham nhũng, tiêu cực trong bộ máy điều
hành nói riêng và trong xã hội nói chung. Nâng cao tiếng nói và trách nhiệm giải trình
của người dân sẽ tạo ra sự minh bạch và nâng hiệu quả của chính phủ trong thực hiện
nhiệm vụ. Để nâng cao trách nhiệm giải trình cần thực hiện những nội dung sau:
Về phía chính phủ:
Cần nhận thức đúng bản chất cũng như thấy được ý nghĩa thực sự của việc thực
hiện trách nhiệm giải trình của chính phủ, cơ quan nhà nước. Đây là việc chính phủ, cơ
quan nhà nước cung cấp, giải thích, làm rõ các thông tin về thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn được giao và trách nhiệm của mình trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đó.
Trách nhiệm giải trình, vì thế, chính là một phương thức, một công cụ để minh bạch
62
hóa các quyết định, hành vi quản lý, hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước,
qua đó, góp phần phòng ngừa tham nhũng, quan liêu, lãng phí. Về pháp lý, trách
nhiệm giải trình của cơ quan nhà nước thông thường chỉ đặt ra khi có yêu cầu của các
cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền và lợi ích hợp pháp bị tác động trực tiếp bởi quyết
định, hành vi của cơ quan nhà nước. Tuy nhiên, sâu xa hơn, trách nhiệm giải trình còn
thể hiện thái độ phục vụ nhân dân của đội ngũ cán bộ, công chức, tinh thần “thân dân”,
“gần dân” của nền hành chính nhà nước. Do đó, việc giải đáp và làm cho các cơ quan,
tổ chức và người dân, những đối tượng chịu sự tác động, hiểu, thông suốt hơn về
những quyết định, hành vi quản lý cần phải được xem như một việc làm thường xuyên,
một công việc có tính chủ động của các cơ quan hành chính nhà nước. Làm được điều
này, không chỉ góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, phòng chống
tham nhũng, lãng phí mà còn nêu cao phẩm chất tốt đẹp của đội ngũ cán bộ, công chức
là luôn tôn trọng nhân dân.
Vấn đề cốt lõi trong thực hiện trách nhiệm giải trình của chính phủ, cơ quan nhà
nước đó là tính chịu trách nhiệm về những hậu quả xảy ra do quyết định, hành vi của
mình. Vì vậy, nâng cao trách nhiệm giải trình của cơ quan nhà nước cũng có nghĩa là
người cán bộ, nhất là người đứng đầu phải thực hiện đúng tinh thần chủ động, sáng tạo,
dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Có như vậy, việc thực hiện trách nhiệm giải
trình của cơ quan nhà nước mới không mang tính hình thức mà phát huy được đầy đủ ý
nghĩa thực sự của nó.
Về phía người dân:
Cần ràng buộc trách nhiệm dịch vụ công: Trách nhiệm giải trình là một quy trình
hai chiều. Người dân có những nhu cầu mà chỉ có những dịch vụ của chính phủ mới
đáp ứng được. Về phần mình, chính phủ phải cung cấp những dịch vụ này một cách
hiệu quả nhất. Người dân cần ràng buộc chính phủ về trách nhiệm đối với các dịch vụ
mà chính phủ cung cấp, và họ phải có được cơ hội lên tiếng liệu họ có hài lòng với các
dịch vụ đó hay không. Để nâng cao tính năng động của người dân trong việc thực hiện
63
giám sát chính phủ trong hoạt động công thì thông tin đóng một vai trò vô cùng quan
trọng, Người dân nên phát huy các phiếu trưng cầu ý kiến và sử dụng chúng như một
cơ chế phản hồi. Các phiếu trưng cầu ý kiến nên được sử dụng rộng rãi hơn và kết quả
của các cuộc điều tra cần được công bố đều đặn như là một phần của quy trình chia sẻ
thông tin rộng hơn.
Bên cạnh đó, quy định của pháp luật sẽ bảo vệ quyền tự do của công dân và đảm
bảo họ bình đẳng trước pháp luật. Pháp luật được tôn trọng sẽ đảm bảo tăng trưởng ổn
định, bền vững. Muốn vậy, trước hết cần nâng cao chất lượng công tác phổ biến, giáo
dục pháp luật đến mọi tầng lớp dân cư, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, ý
thức tôn trọng pháp luật và hành vi chấp hành pháp luật của công dân. Thường xuyên
rà soát, bổ sung, hoàn thiện pháp luật để phù hợp với tình hình thực tiễn của đất nước.
Đảm bảo mọi công dân bình đẳng trước pháp luật, quyền bình đẳng trước pháp luật
được thể hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hộiđặc biệt là các lĩnh vực kinh
tế, chính trị, văn hóa – xã hội nhất là quyền bình đẳng trong lĩnh vực pháp lý, tư pháp,
tố tụng. Tiêu chí của một đất nước văn minh hiện nay là luật pháp phải được thượng
tôn bất kể vị thế giữa người vi phạm và bị xâm phạm. Quyền và nghĩa vụ của công dân
không bị phân biệt bởi giới tính, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, giàu nghèo, thành phần
xã hội, địa vị xã hội… Trong cùng một điều kiện như nhau, công dân được hưởng
quyền và nghĩa vụ như nhau, có tư cách pháp lý như nhau. Nhưng mức độ sử dụng các
quyền và nghĩa vụ đó đến đâu phụ thuộc rất nhiều vào khả năng, điều kiện và hoàn
cảnh của mỗi người. Nhà nước phải có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm cho công
dân thực hiện quyền và nghĩa vụ một cách bình đẳng, công dân cần thực hiện tốt các
nghĩa vụ được Hiến pháp và luật xác định là điều kiện để sử dụng quyền của mình.
Chỉ số đo lường chất lượng thể chế còn lại là kiểm soát tham nhũng, kiểm soát
tham nhũng được thực hiện tốt sẽ cải thiện đáng kể tăng trưởng kinh tế, vì tham nhũng
tác động đến tăng trưởng kinh tế thông qua nhiều kênh như đầu tư công, đầu tư trực
64
tiếp nước ngoài, viện trợ, thương mại...Để thực hiện tốt việc kiểm soát tham nhũng cần
thực hiện những nội dung cơ bản sau:
Đầu tiên, thực hiện công khai, minh bạch trong hoạt động của chính phủ, các cơ
quan, tổ chức công. Đây là biện pháp quan trọng đầu tiên để ngăn ngừa tham nhũng.
Công khai, minh bạch sẽ tạo điều kiện để người dân cũng như toàn xã hội tham gia
giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước. Với việc công khai minh bạch trong hoạt
động tại các cơ quan nhà nước, người dân sẽ dễ dàng nhận biết được các quyền và
nghĩa vụ của mình để chủ động thực hiện theo các quy định của pháp luật cũng như đòi
hỏi cơ quan Nhà nước và các cán bộ, công chức nhà nước thực hiện các quy định đó.
Công khai, minh bạch sẽ làm cho công chức nhà nước có ý thức hơn trong việc thực
hiện chức trách, công vụ của mình theo đúng trình tự, thủ tục, thẩm quyền mà pháp luật
quy định, bởi mọi hành vi vi phạm, phiền hà, sách nhiễu hay lợi dụng chức trách để tư
lợi đều có thể bị phát hiện và xử lý. Công khai và minh bạch là những chìa khoá then
chốt nhằm bảo đảm đấu tranh chống tham nhũng thành công.
Tiếp theo, cần xây dựng và thực hiện các chế độ, định mức, tiêu chuẩn. Chế độ,
định mức, tiêu chuẩn trong các lĩnh vực quản lý luôn liên quan đến việc sử dụng tài
sản, vốn và ngân sách nhà nước. Việc thực hiện một cách tuỳ tiện và trái phép các tiêu
chuẩn, chế độ, định mức đó sẽ dẫn đến việc tài sản của Nhà nước bị thất thoát, tiền bạc
hoặc những lợi ích vật chất rơi vào một số ít người, thực chất đó là sự hưởng lợi bất
chính của những người có chức vụ, quyền hạn hoặc những người có quan hệ thân quen
với người có chức vụ, quyền hạn. Đây chính là hành vi tham nhũng cần ngăn chặn.
Xây dựng các quy tắc ứng xử, quy tắc đạo đức nghề nghiệp, việc chuyển đổi vị trí
công tác của cán bộ, công chức, viên chức. Các nước trên thế giới mặc dù có chế độ
chính trị khác nhau nhưng về cơ bản, việc thực hiện quyền lực công đều phải thông qua
hoạt động công vụ của đội ngũ công chức. Vì vậy, để chống tham nhũng, không có
cách gì tốt hơn là tăng cường kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước, cụ thể là
tác động vào đội ngũ cán bộ, công chức và quá trình thực hiện công vụ. Ngoài ra, trong
65
chừng mực nào đó, cần kiểm soát cả những quan hệ xã hội của họ, những quan hệ có
nguy cơ bị lợi dụng và nảy sinh tham nhũng.
Cải cách hành chính, đổi mới công nghệ quản lý và phương thức thanh toán
nhằm phòng ngừa tham nhũng. Quản lý là phương diện hoạt động quan trọng và sôi
động nhất của bộ máy nhà nước, diễn ra trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và ảnh
hưởng đến quyền lợi của mọi người dân. Đây cũng là nơi tình trạng tham nhũng xảy ra
nhiều nhất. Đó là lý do mà cải cách hành chính luôn là mối quan tâm thường xuyên. Cụ
thể: Nhà nước áp dụng các biện pháp quản lý để thực hiện việc thanh toán thông qua
tài khoản tại ngân hàng, kho bạc nhà nước. Cơ quan, tổ chức, đơn vị có trách nhiệm
thực hiện các quy định về thanh toán bằng chuyển khoản; Chính phủ áp dụng các giải
pháp tài chính, công nghệ, tiến tới thực hiện mọi khoản chi đối với người có chức vụ,
quyền hạn... và các giao dịch khác có sử dụng ngân sách nhà nước phải thông qua tài
khoản; Minh bạch hóa quá trình soạn thảo, trình, ban hành chính sách, pháp luật; quá
trình chuẩn bị, trình, ban hành quyết định, văn bản hành chính gắn liền với việc cải
cách thủ tục hành chính; Thực hiện phân công, phân cấp rõ ràng; quy định cụ thể, rành
mạch chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi cấp quản lý, khắc phục tình trạng
chồng chéo, bỏ trống trong hoạt động quản lý; Hoàn thiện và thực hiện cơ chế về trách
nhiệm giải trình của cán bộ, công chức, nhất là đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý; cơ chế
miễn nhiệm, bãi nhiệm, cho từ chức, tạm đình chỉ chức vụ của người đứng đầu khi để
xảy ra tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình quản lý, phụ trách.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Acemoglu, Daron, Simeon Johnson and James A. Robinson, 2000. The Colonial Origins of Comparative Development. American Economic Review, 5: 1369- 1401.
2. Acemoglu, Daron, Simon Johnson, and A. James Robinson, 2001. The Colonial Origins of Comparative Development: An Empirical Investigation. The American Economic Review 91, no. 5: 1369-1401.
3. Acemoglu, Daron, and James A. Robinson, 2002. Economic Backwardness in Political Perspective, unpublished.
4. Acemoglu, Daron, Simon Johnson, and James Robinson, 2004. Institutions as the Fundamental Cause of Long-run Growth. NBER Working Paper No. 10481, Cambridge, MA.
5. Adam Smith, 1755. Peace, easy taxes, and a tolerable administration of justice. The A B C of Finance (Simon Newcomb).
6. Ahlin, C., & Pang, J., 2008. Are financial development and corruption control substitutes in promoting growth. Journal of Development Economics, 86,(2): 414-433.
7. Alesina, Alberto and Rodrik, Dani, 1994. Distributive Politics and Economic Growth. Quarterly Journal of Economics, 109(2):465–90.
8. Alesina, Alberto, et al, 1996. Political Instability and Economic rowth. Journal of Economic Growth, Springer, vol. 1(2): 189-211.
9. Alesina, A., M. Mare, and R. perotti, 1996. Le procedure di Bilancio in Italia: Analisi e Proposte, unpublished.
10. Alesina, Alberto, Arnaud Devleeschauwer, William Easterly, Sergio Kurlat, and Romain Wacziarg, 2003. Fractionalization. Journal of Economic Growth 8: 155- 194.
11. Alfaro, L., Chanda, A., Kalemli-Ozcan, S., Sayek, 2004. FDI and Economic Growth: The Role of Local Financial Markets. Journal of International Economics, 64: 89-112.
12. Anderson, T.W. and Cheng Hsiao. 1982. Formulation and Estimation of Dynamic Models Using Panel Data. Journal of Econometrics 18: 47-82.
13. Arellano, Manuel and Stephen Bond. 1991. Some Tests of Specification for Panel Data: Monte Carlo Evidence and an Application to Employment Equations. The Review of Economic Studies 58, no. 2: 277-297.
14. Arellano, Manuel and Olympia Bover. 1995. Another Look at the Instrumental Variable Estimation of Error-components Models. Journal of Econometrics 68: 29-51.
15. Arze Del Granado, F. Javier, Jorge Martinez-Vazquez, and Robert McNab. 2005. Fiscal Decentralization and the Functional Composition of Public Expenditures. Atlanta, GA: International Studies Program Working Paper, No. 05-01.
16. Avery, B. Robert. 1977. Error-Components and Seemingly Unrelated Regressions. Econometrica 45, no. 1: 199-209.
17. Baltagi, H. Badi. 1995. Econometric Analysis of Panel Data. Chichester, New York: John Wiley and Sons.
18. Bank, African Development. 1999. In Workshop on Good Governance: African Development Bank.
19. Barro, J. Rober and Xavier Sala-i-Martin, 1992. Public Finance in Models of Economic Growth. The Review of Economic Studies 59, no. 4: 645-661.
20. Barro, J. Robert, 1990. Government Spending in a Simple Model of Economic Growth. Journal of Political Economy 98, no. 5: S103-S125.
21. Barro, J. Robert, 1991. Economic Growth in a Cross-Section of Countries. Quarterly Journal of Economics 106: 407-443.
22. Barro, J. Robert, 1996a. Inflation and growth. Federal Resever Bank of St. Louis Review , 78: 153-69.
23. Barro, J. Robert, 1997. Determinants of Economic Growth. Cambridge, MA: MIT Press.
24. Barro, R. and J.W. Lee., 1994. Sources of Economic Growth. Carnegie Conference Series on Public Policy, 40: 1.
25. Barro, J. Robert and Long-Wha Lee. 2000. International Data on Educational Attainment: Updates and Applications. NBER Working Paper No. 7911, Cambridge, MA.
26. Barro, 1995. Inflation and Economic Growth. Bank of England Quarterly Bulletin (May).
27. Barro, J. Robert and Xavier Sala-i-Martin. 1995. Economic Growth. New York: McGraw-Hill.
28. Batra, Geeta, Daniel Kaufmann, and W.H. Andrew Stone. 2003. Investment Climate around the World: Voices of the Firms from the World Business Environment Survey: The World bank.
29. Bloom, D. and J. D. Sachs, 1998. Geography, Demography, and Economic Growth in Africa. Brookings Papers on Economic Activity, 2: 207-73.
30. Borensztein, E., J. De Gregorio, and J-W. Lee, 1998. How Does Foreign Direct Investment Affect Economic Growth? Journal of International Economics, 45: 115-135.
31. Brunetti, A., 1997. Political variables in cross-country growth analysis . Journal of Economic Survey, 11: 163-190.
32. Brunetti, Aymo, Gregory Kisunko, and Beatrice Weder, 1997. Credibility of Rules and Economic Growth: Evidence from a Worldwide Survey of the Private Sector. World Bank Discussion Paper, No. 1324.
33. Bruno, M., and W. Easterly, 1995. Inflation Cruises and Long-run Growth. Mimeo, Washington, D.C.: World Bank, July.
34. Burnside C., and D. Dollar, 2000. Aid, Policies, and Growth. The American Economic Review, 90: 847- 868.
35. Buchanan, M. James Jr. 1986. The Constitution of Economic Policy. Lecture in Memory of Alfred Nobel.
36. Buchinsky, 1998. Recent Advances in Quantile Regression Models: A Practical Guide for Empirical Research. Journal of Human Resources, 33(1): 88-126.
37. Burkhart, E. Ross and S. Michael Lewis-Beck. 1994. Comparative Democracy: The Economic Development Thesis. The American Political Science Review 88, no. 4: 903-910.
38. Campos, N. F. and Y. Kinoshita, 2002. Foreign Direct Investment as
Technology Transferred: Some panel Evidence from the Transition Economies. Centre
for Economic Policy Research. Discussion Paper No 3417. Paper also available at:
39. Campos, N.F., and Nugent, J.B., 2000. Development Performance and the Institutions of Governance: Evidence from East Asia and Latin America. World Development, 3: 439-452
40. Carkovic, M. and R. Levine, 2002. Does Foreign Direct Investment Accelerate Economic Growth? University of Minnesota Department of Finance Working Paper.
41. Chauvet, Lisa and Paul Collier, 2004. Development Effectiveness in Fragile States: Spillovers and Turnarounds. Centre for the Study of African Economies, Department of Economics, Oxford University (Mimeo).
42. Chen, B., & Feng, Y. (1996). Some political determinants of economic growth. European Journal of Political Economy, 12: 609 - 627
43. Chong, Alberto and Cesar Calderon. 2000. Causality and Feedback Between Institutional Measures and Economic Growth. Economics and Politics 12, no. 1.
44. Dalgaard, C-J., H. Hansen, and F. Tarp, 2004. On the Empirics of Foreign aid and Growth. Economic Journal, 114: 191-216.
45. Datta, A. and Agarwal, S., 2004. Telecommunications and economic growth: a panel data approach. Applied Economics, 36:1649-1654.
46. Dethier, Jean-Jacques. 1999. Governance and Economic Performance: A Survey. Discussion Papers on Development Policy. ZEF Discussion Papers on Development Policy, No. 5, Bonn.
47. Doornbos, M., 2003. Good Governance: The Metamorphosis of a Policy Metaphor. Journal of International Affairs, 1: 3-17.
48. Durham, B.J., 2004. Absorptive Capacity and the Effects of Foreign Direct Investment and Equity Foreign Portfolio Investment on Economic Growth. European Economic Review, 48: 285-306.
49. Dutt, A. K., 1997. The Pattern of Direct Foreign Investment and Economic Growth. World Development, 25: 1925–1936.
50. Easterly, W., and R. Levine., 1997. Africa’s Growth Tragedy: Policies and Ethnic Divisions. Quarterly Journal of Economics, 112(4): 1203–50.
51. Easterly, W., R. Levine and D. Rodman, 2004. Aid, Policies, and Growth: Comment. The American Economic Review, 94: 774-780.
52. Fayissa, B. and M. El- Kaissy., 1999. Foreign aid and the economic growth of developing countries (LDCs): Further evidence. Studies in Comparative International Development, 37 (9): 37-50.
53. Feld and Stefan Voigt, 2003. Economic Growth and Judicial Independence: Cross Country Evidence Using a New Set of Indicators. CESifo Working Paper Series 906, CESifo Group Munich.
54. Fosu, Augustin,, Robert Bates, and Anke Hoeffler, 2006. Institutions, Governance and Economic Development in Africa: An Overview. Journal of African Economies, 15 (Supplement 1):1-9.
55. Fukuyama, 1995. Trust: Social Virtues and the Creation of Prosperity. NY: Free Press.
56. Gausch and Hahn, 1999. The Cost and Benefit of Regulation: Implication for Developing Countries. World Bank Research Observer, 14: 137-158.
57. Glaeser, E.L., & Saks, R.E., 2006. Corruption in America. Journal of Public Economics, 90(6): 1053– 1072.
58. Gyimah, B., Kwabena, T. and Thomas, L., 1999. Political Instability, Investment and Economic Growth in Sub-Saharan Africa. Journal of African Economies, 8(1): 52-86.
59. Goldsmith, 1987. Does Political Stability Hinder Economic Development? Mancur Olson's Theory and the Third World. in Comparative Politics, 19: 471-480.
60. Hall, Robert E. and Charles I. Jones, 1999. Why do Some Countries Produce so Much More Output per Worker Than Others? Quarterly Journal of Economics 114, no. 1: 83-116.
61. Hellman, S. Joel, Geraint Jones, Daniel Kaufmann, and Mark Schankerman, 2000. Measuring Governance, Corruption and State Capture: How Firms and Bureaucrats Shape the Business Environments in Transition Economies: The World Bank Institute and European Bank for Reconstruction and Development (Chief Economist's Office); Policy Research Working Paper No. 2312. Huntin.
62. Henry, W., Chappell, J., & William, R.K. (1985). A New View of Political Accountability for Economic Performance. The American Political Science Review, 79: 10-27.
63. Hansen, H., and F. Tarp, 2000. Aid effectiveness disputed. Journal of International Development, 12: 375-398.
64. Hansen, H., and F. Tarp, 2001. Aid and growth regressions. Journal of Development Economics, 64: 547-570.
65. Isham, Jonathan, Daniel Kaufmann, and H. Lant Pritchett, 1997. Civil Liberties, Democracy, and the Performance of Government Projects. The World Bank Economic Review 11, no. 2: 219-42.
66. Johnson et al, 2000. Index of Economic Freedom:The Heritage Foundation: Washington, D.C.
67. Jong-A-Pin, R., 2006. On the measurement of political instability and its impact on economic growth. University of Groningen, Research Institute SOM (Systems, Organisations and Management)
68. Jreisat, E. Jamil. 2002. Governance and Developing Societies: Introduction. In Governance and Developing Countries, ed. E. Jamil Jreisat.
69. Kaufmann, D., Kraay, A. and Zoido-Lobaton, P., 1999a. Aggregating Governance Indicators. Policy Research Working Paper No. 2195, Washington DC: World Bank.
70. Kaufmann, D., Kraay, A. and Zoido-Lobaton, P., 1999b. Governance Matters, Policy. Research Working Paper No. 2196, Washington DC: World Bank.
71. Kaufman, Daniel and Aart Kraay, 2002. Governance Indicators, Aid Allocation, and the Millenium Challenge Account. Unpublished draft for Discussion, World Bank,Washington, D.C.
72. Kaufman, Daniel and Aart Kraay, 2002b. Growth Without Governance. World Bank Policy Research Working Paper, No. 2928, World Bank, Washington, D.C.
73. Kaufmann A. Kraay, and M. Mastruzzi, 2003. Governance Matters III: Governance Indicators for 1996-2002. World Bank Policy Research Working, Paper 3106.
74. Keefer, Phillip. 2004. A Review of the Political Economy of Governance: From Property Rights to voice. World Bank Policy Research Working Paper No. 3315, World Bank, Washington, D.C.
75. Kimenyi, S. Mwagi. 1987. Bureaucratic Rents and Political Institutions. Journal of Public Finance and Public Choice 3, no. 5: 189-99.
76. Kimenyi, Mwagi and Robert Tollison, 1999. Rent Seeking, Institutions, and Economic Growth. Institutions and Collective Choice in Developing Countries, ed. S. Mwagi Kimenyi and Mukum John Mbaku. Aldershot, England; Brookfield, Vt.: Ashgate.
77. Kirmanoglu, H., 2003. Political Freedom and Economic Well-Being: A Causality Analysis. International Conference on Policy Modelling. Istanbul, Turkey.
78. Knack, Stephen and Phillip Keefer, 1995. Institutions and Economic Performance: Cross-Country Test Using Alternative Institutional Methods. Economics and Politics, 7 (3): 207 – 227.
79. Knack, Steven. 2000. Aid Dependence and the Quality of Governance: A Cross-country Empirical Study. Policy Research Working Paper No. 2396, World Bank, Washington, D.C.
80. Kormendi, R. C., and P. G. Meguire, 985). Macroeconomic Determinants of Growth: Cross-Country Evidence. Journal of Monetary Economics, 16(2): 141–63.
81. Krugman, 1994. The Myth of the Asian Miracle. Foreign Affairs, 73: 62-78.
82. La Porta, Rafael, Lopez-de-Silanes, Andrei Shleifer, and Robert Vishny, 1999. The Quality of Government. Journal of Law, Economics and Organization 15: 222-79.
83. Landes, David. 1998. The Wealth and Poverty of Nations. New York: W. W. Norton.
84. Levin, Ross and David Renelt. 1992. A Sensitivity Analysis of Cross-Country Growth Regressions. American Economic Review 82, no. 4: 942-63.
85. Li, H., Xu, L.C. and Zou, H., 2000. Corruption, Income Distribution and Growth. Economics and Politics, 12(2): 155–185
86. Loungani, P., and N. Sheets, 1997. Central Bank Independence, Inflation, and Growth in Transition Economies. Journal of Money, Credit and Banking, 29: 381-99.
87. Mauro, Paulo. 1995. Corruption and Growth. Quarterly Journal of Economics 110: 681-712.
88. Mendez, F. and Sepulveda, F., 2006. Corruption, Growth and Political Regimes: Cross Country Evidence. European Journal of Political Economy, 22: 82-98
89. Mishkin, 1996. Understanding financial crises: a developing country perspective, in Bruno. Annual World Bank Conference on Development Economics. Washington, D.C., World Bank.
90. Mishkin, 2000. International Capital Movements, Financial Volatility, and Financial Instability. National Bureau for Economic Research Working Paper 6390.
91. Mo, P.H., 2001. Corruption and Economic Growth. Journal of Comparative Economics, 29(1): 66–79.
92. Morita, S., Zaelke, D., 2007. Rule of Law, Good Governance, and Sustainable Development. Seventh International Conference on Environmental Compliance and Enforcement.
93. Mosley, Paul, 1980. Aid, Savings and Growth Revisited, Oxford Bulletin of Economics and Statistics, 42(2):79-95.
94. Moyo, Dambisa, 2009. Dead Aid: Why Aid Is Not Working and How There Is a Better Way for Africa, Farrar, Straus and Giroux (March 17, 2009).
95. Murphy, M. Kevin, Andrei Shleifer, and Robert Vishny, 1991. The Allocation
of Talent: Implications for Growth. Quarterly Journal of Economics: 503-30.
96. North, Douglas. 1990. Institutions, Institutional Change and Economic Performance. Cambridge, New York: Cambridge University Press.
97. Ndulu, J. Benno and A. Stephen O'Connell. 1999. Governance and Growth in Sub-Saharan Africa. Journal of Economic Perspectives 13, no. 3.
98. OECD, 1994. The impact of telecommunications infrastructure on economic growth and development. DSTI/ICCP/TISP (94)4, Secretariat Working Paper.
99. Owens, E., 1987. The Future of Freedom in the Developing World. Pergamon Press.
100. Parker, D., 1992. Regulatory reform and productivity growth in the UK’s public utilities. Applied Economic, 24: 1181-1190.
101. Persson, T. and Tabellini, G., 2006. Democratic Capital: The Nexus of Political and Economic Change. NBER Working Paper, No. 12175.
102. Ram, R. and H. Zhang, 2002. Foreign Direct Investement and Economic Growth: Evidence from Cross- Country Data for the 1990s. Economic Development and Cultural Change, 51: 205–215.
103. Rivera-Batiz, L. Francisco. 2002. Democracy, Governance, and Economic Growth: Theory and Evidence. Review of Development Economics 6, no. 2: 225-247.
104. Roller, L., & Waverman, L., 2001. Telecommunications infrastructure and economic development: a simultaneous approach. American Economic Review, 91(4): 909-923.
105. Rodrik et al, 2002. Institutions Rule: The Primacy of Institutions over Geography and Integration in Economic Development. Journal of Economic Growth, 9: 131-165.
106. Rose-Ackerman, Susan, 2002. Grand Corruption and the Ethics of Global Business. Journal of Banking and Finance, 26:1889-1918.
107. Sachs, Jeffrey D., John W. McArthur, Guido Schmidt-Traub, Margaret Kruk, Chandrika Bahadur, Michael Faye and Gordon McCord, 2004. Ending Africa's Poverty Trap. Brookings Papers on Economic Activity 1: 117-240.
108. Saltz, S., 1992. The Negative Correlation between Foreign Direct Investment and Economic Growth in the Third World: Theory and Evidence. Rivista Internazionale di Scienze Economiche e Commerciali, 39: 617-633.
109. Shan, 1994. Impact of Foreign Capital on Domestic Savings and Growth in Developing Economies. Discussion Paper No. 13, School of Economics and Public Policy, Queensland University of Technology, April.
110. Schneider, 1999. Participatory Governance: The Missing Link for Poverty Reduction. Policy Brief No. 17, Paris: OECD Development Centre.
111. Sen A., 1999. Development as Freedom. Alfred Knopf Publisher (New York: NY).
112. Tanzi, Vito and Hamid Davoodi, 1997. Corruption, Public Investment, and Growth. International Monetary Fund (IMF).
113. UNDP, 2002. Giving Voice to the Voiceless: Good Governance.
114. USAID, 2002. USAID Supports Good Governance. Available at:
115. Xu, B., 2000. Multinational Enterprises, Technology Diffusion, and Host Country Productivity Growth. Journal of Development Economics, 62: 477-493.
116. Zureiqat, H.M. (2005). Political Instability and Economic Performance: A Panel Data Analysis. Award Winning Economics Papers, Economics Department, Macalester College.
117. World Bank, 1997. Governance: The World Bank’s Experience. Washington, DC: World Bank.
118. World Bank, 2002. Governance and Development. Washington, DC: World Bank.
119. World Bank, 2007. World Development Indicators (WDI). Available on CD ROM. Washington, DC: World Bank.