ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

---------------

VŨ THỊ THU HƯỜNG

ẨN ỨC NỮ TÍNH QUA SÁNG TÁC

CỦA ĐỖ BÍCH THÚY

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Thái Nguyên – 2017

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

---------------

VŨ THỊ THU HƯỜNG

ẨN ỨC NỮ TÍNH QUA SÁNG TÁC

CỦA ĐỖ BÍCH THÚY

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Mã số: 60 22 01 21

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: TS. Lê Thị Ngân

Thái Nguyên - 2017

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu trích

dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn đều trung thực

và chưa từng được công bố ở bất kỳ công trình nào khác.

Thái Nguyên, tháng 06 năm 2017

Tác giả luận văn

Vũ Thị Thu Hường

ii

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn thạc sĩ này, tác giả xin trân trọng cảm ơn Ban Giám

hiệu, Khoa Sau đại học, Khoa văn - Xã hội, Trường Đại học Khoa học - Đại học Thái

Nguyên cùng các Thầy, Cô giáo đã trực tiếp giảng dạy, giúp đỡ trong suốt quá trình

học tập.

Đặc biệt, tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới giảng viên hướng dẫn

TS. Lê Thị Ngân đã luôn tận tình hướng dẫn, chỉ bảo trong suốt thời gian tác giả

nghiên cứu và hoàn thành luận văn.

Cuối cùng xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, người thân, bạn bè, đồng nghiệp đã

giúp đỡ, động viên, tạo điều kiện để tác giả hoàn thành luận văn.

Thái Nguyên, tháng 06 năm 2017

Tác giả luận văn

Vũ Thị Thu Hường

iii

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................... i

LỜI CẢM ƠN ................................................................................................................ ii

MỤC LỤC .................................................................................................................... iii

MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1

Chương 1 CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ....................................................... 12

1.1. Khái niệm ẩn ức và ẩn ức trong tâm lý học ......................................................... 8

1.1.1. Khái niệm ẩn ức ..................................................................................................... 8

1.1.2. Ẩn ức trong tâm lý học .......................................................................................... 9

1.1.3. Phân tâm học và văn học nghệ thuật ................................................................... 10

1.1.4. Sự khác biệt giữa ẩn ức với các trạng thái tâm lý tiêu cực khác ......................... 17

1.1.5. Ẩn ức hình thành trong những điều kiện, hoàn cảnh nào? .................................. 18

1.1.6. Nhận diện ẩn ức ................................................................................................... 18

1.2. Vấn đề ẩn ức nữ tính .............................................................................................. 19

1.3. Việc khai thác và phản ánh trạng thái ẩn ức trong lịch sử văn học Việt Nam 23

1.4. Đỗ Bích Thúy và sự nặng lòng của chị với những người phụ nữ vùng cao .............. 27

Tiểu kết .......................................................................................................................... 26

Chương 2: NHỮNG CẢM HỨNG ẨN ỨC NỮ TÍNH QUA SÁNG TÁC CỦA

ĐỖ BÍCH THÚY ......................................................................................................... 31

2.1. Nền cảnh của miền núi Đông Bắc .......................................................................... 27

2.1.1. Địa lý nhân văn .................................................................................................... 27

2.1.2. Không gian văn hóa ............................................. Error! Bookmark not defined.

2.2. Người phụ nữ miền núi Đông Bắc ......................................................................... 41

2.2.1. Những kiến tạo của người phụ nữ trong đời sống vật chất ................................. 41

2.2.2. Những kiến tạo của người phụ nữ trong đời sống tinh thần ................................ 45

2.2.3. Sự mặc định của cộng đồng với thân phận của người phụ nữ miền núi ............. 46

2.3. Thân phận người phụ nữ miền núi trong sáng tác của Đỗ Bích Thúy ................... 48

2.3.1. Người phụ nữ không có quyền quyết định tương lai và số phận của chính bản

thân mình ....................................................................................................................... 48

iv

2.3.2. Người phụ nữ phải chịu nhiều thiệt thòi, áp lực trong gia đình, dòng họ, cộng

đồng ............................................................................................................................... 57

2.3.3. Người phụ nữ với nỗi khát khao thầm kín, không thể giải tỏa ............................ 67

Tiểu kết .......................................................................................................................... 73

Chương 3: MỘT SỐ CÁCH THỨC THỂ HIỆN ẨN ỨC NỮ TÍNH QUA SÁNG TÁC

CỦA ĐỖ BÍCH THÚY ................................................................................................. 74

3.1. Hệ thống biểu tượng ............................................................................................... 74

3.1.1. Trang phục ........................................................................................................... 75

3.1.2. Bếp lửa ................................................................................................................. 80

3.1.3. Tiếng đàn môi ...................................................................................................... 84

3.2. Ngôn ngữ ................................................................................................................ 86

3.2.1. Ngôn ngữ đối thoại .............................................................................................. 87

3.2.2. Lối nói so sánh ..................................................................................................... 89

Tiểu kết .......................................................................................................................... 93

KẾT LUẬN ................................................................................................................... 94

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................. 96

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Miền núi phía Bắc, một vùng rộng lớn và đa dạng về cảnh sắc địa lí, đa dạng về

thành phần dân tộc. Hơn thế, đây còn là một vỉa tầng dồi dào về trữ lượng tài nguyên

nhân văn như văn hóa, văn học nghệ thuật, phong tục - tập quán, lối sống, nếp nghĩ và

cá tính con người…Trong những năm gần đây, miền núi phía Bắc được tập trung chú

ý, khai thác và dựng xây trên mọi bình diện, từ kinh tế, văn hóa. Con người miền núi

là chủ nhân của không gian đó, được tập trung phản ánh hơn cả, từ lối sống ngàn đời

đến những đổi thay do thời đại đem lại. Việc phác họa, mô tả về hình ảnh con người

nơi đây cũng góp phần vén bức màn bí ẩn của vùng đất xa xôi, hẻo lánh, tách biệt, đưa

một cái nhìn toàn diện về những dân tộc anh em, với những đặc thù riêng trong lối

sống, nếp nghĩ, hành động, sự khốn khó trong đời sống thường nhật, tinh thần nhân

văn, sự mãnh liệt hay cam chịu của những kiếp người…

Tất thảy những điều đó, đạt hiệu quả cao nhất, thực tế và hấp dẫn nhất khi

thông qua phương tiện văn học, bắt lấy đời sống, lấy diễn tiến thực tại làm chất liệu

phản ánh, sáng tác. “Tác phẩm chính là sự phản ánh thực tế xã hội qua cách nhìn,

cách nghĩ, cách cảm xúc của tác giả” [14, tr.713]. Vì vậy, cách nhìn của nhà văn trong

sáng tác của mình là một yếu tố quan trọng, quyết định đến “sự phản ánh thực tế xã

hội” của tác phẩm. Qua cái nhìn, có thể thấy được quan niệm về cuộc đời, con người

của tác giả cũng như những khuynh hướng riêng của mỗi tác phẩm. Chẳng hạn như cái

nhìn thể hiện khuynh hướng nữ tính qua những sáng tác của nữ sĩ Hồ Xuân Hương hay

Bà Huyện Thanh Quan.

Lịch sử văn học trung đại nước ta có một trường hợp đặc biệt là nữ sĩ Hồ Xuân

Hương. Những sáng tác của “Bà chúa thơ Nôm” chính là trạng thái khát vọng của

người phụ nữ bị chặn lại bởi rào cản hà khắc của chế độ phong kiến đã trở thành

những bài thơ quyết liệt mà mong manh, lạnh lùng mà lửa cháy. Cái nhìn trong thơ bà

đầy ẩn ức nữ tính. Rất nhiều hình ảnh trong thơ “Bà chúa thơ Nôm” dễ gợi sự liên

tưởng đến hình ảnh của các bộ phận sinh dục và tính giao nam - nữ. Có những sự vật,

hiện tượng qua cái nhìn của bà đã đạt đến độ phát triển sung mãn, đầy gợi cảm nhục

dục. Trong tình yêu và hôn nhân, cái nhìn của bà là thiên về sự đổ vỡ, bất hạnh, không

2

trọn vẹn. Trong cái nhìn về giới tính, đó là sự coi thường, đùa cợt, giễu nhạo đối với

nam giới, đồng thời là sự đồng cảm, bênh vực, ủng hộ giới nữ; là sự ấm ức về thân

phận trong xã hội vốn không bình đẳng giới.

Trong văn học hiện đại, cũng có nhiều cây bút đề cập đến vấn đề này, nhất là

những cây bút nữ như: Phạm Thị Hoài, Võ Thị Hảo, Nguyễn Thị Thu Huệ, Dạ Ngân,

Võ Thị Xuân Hà, Y Ban… Gần đây nhất là truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư. Có thể

nói, cái nhìn nữ tính là biểu hiện quan trọng nhất của khuynh hướng phụ nữ trong

truyện ngắn của chị, chi phối những cái nhìn khác. Cái nhìn ẩn ức trong truyện ngắn

Nguyễn Ngọc Tư không bộc lộ gay gắt, mãnh liệt như trong thơ của Hồ Xuân Hương

nhưng đầy nỗi ám ảnh, xót xa, những khát khao đau đớn.

Trong những năm gần đây, cái tên Đỗ Bích Thúy được độc giả nhắc đến nhiều

với những tác phẩm đầy không gian núi và những con người của núi. Chị giành nhiều

xúc cảm và sự cảm thông cho nỗi niềm của người phụ nữ, ở một miền đất còn ủ chứa

nhiều cũ kĩ, gian khó - Đỗ Bích Thúy, một nhà văn sinh ra và lớn lên trong môi trường

miền núi, người dành trọn tâm tình cho không gian núi và đồng bào các dân tộc ít

người sinh sống ở đó, đặc biệt là vùng Đông Bắc với đồng bào dân tộc Mông. Những

tác phẩm của Đỗ Bích Thúy có một lối viết riêng, rất lôi cuốn và ma mị, ngôn ngữ

giản dị theo cách nói của người miền núi, vẻ đẹp của thiên nhiên và khung cảnh miền

núi làm mê đắm lòng người, con người trong khung cảnh đó với muôn vàn số phận,

những bài học và câu chuyện nhân văn sâu sắc, đó là Người đàn bà miền núi, Bóng

của cây sồi, Đêm cá nổi, Tiếng đàn môi sau bờ rào đá, Ngải đắng ở trên núi, Sau

những mùa trăng… Điểm giao tụ, hằn lên trong những tác phẩm của Đỗ Bích Thúy,

đó là đời người, nhất là hình ảnh người phụ nữ miền núi. Họ là trung tâm, là nguyên

cớ trong tất cả các tác phẩm của chị, một ẩn tính được khắc họa sâu sắc đó là sức sống

mãnh liệt, sự khát khao kiếm tìm tình yêu và hạnh phúc, sự chịu đựng, kìm nén, chấp

nhận, lầm lũi, khi họ bị định kiến và quan niệm xã hội chống lại, kìm nén, đóng khung.

Chính Đỗ Bích Thúy đã từng chia sẻ và cũng như một câu hỏi, một lời giải thích rằng:

“...Tại sao tôi cứ viết về đàn bà, với những cuộc đời rủi ro và số phận nghiệt ngã, với

những cái bướu xấu xí và tấm lưng còng gập? Tại sao những người đàn bà của tôi khi

nào cũng phải sống trong những nỗi khát khao lớn hơn dãy Tây Côn Lĩnh, sâu hơn

đáy sông Lô - những nỗi khát khao không gì nhấn chìm được, cũng không cách gì đạt

3

tới được? Những cuộc đời đầy âu lo, những năm tháng luôn phải đối mặt với thiên

nhiên khốc liệt, cõi đời trắc trở, tình yêu mong manh... Tại sao vậy? Phải chăng vì,

như một người đã nói với tôi: Cuộc đời đàn bà buồn nhiều hơn vui, lo âu nhiều hơn

mãn nguyện? Phải chăng vì, trời sinh ra đàn bà để chẳng sống mấy cho mình? Cuốn

sách này tôi vẫn dành cho những người đàn bà. Người đã án ngữ trong kí ức của tôi

về vùng đất thân yêu bạt ngàn cây rừng, hoang vu gió, tầm tã mưa, sôi sùng sục nước

dưới những dòng sông ngoằn ngoèo cuộn chảy…" [30, tr.7-8]

Đọc tác phẩm của Đỗ Bích Thúy, chúng tôi bị ám ảnh về những người đàn bà

núi, nơi đó - họ là nước, hiếm và quý, là khởi nguồn cho sự sống và tồn tại, nước là

sức mạnh, là sự mãnh liệt. Nhưng số phận của họ lại tỷ lệ nghịch với bản chất và sự

kiến tạo của họ, số phận nghiệt ngã, sức sống nội tâm mãnh liệt, không bao giờ tàn lụi.

Chính bởi thế, chúng tôi quyết định chọn chủ đề “Ẩn ức nữ tính qua sáng tác của Đỗ

Bích Thúy” làm luận văn thạc sĩ, như một hành trình tâm tưởng của cá nhân đến với

vùng đất ấy, con người ấy, để giải mã và thấu hiểu, trong chừng mực của bản thân và

cũng hi vọng có chút đóng góp nhất định trong tập thể những người đọc và tò mò về

những tác phẩm của Đỗ Bích Thúy.

Trong xã hội hiện đại ngày nay, xu hướng bình đẳng về giới là một tiêu chí

quan trọng thể hiện sự tiến bộ, công bằng và văn minh trong xã hội. Với đề tài này, hy

vọng cũng ít nhiều góp thêm một tiếng nói, một hình ảnh, một góc tiếp cận về vấn đề

thực trạng của bình đẳng giới trong khu vực miền núi Đông Bắc nói riêng và xã hội

Việt Nam nói chung.

2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu

Đã có rất nhiều những tác phẩm văn học lấy đề tài miền núi làm chất liệu khai

thác, tập trung một đội ngũ các nhà sáng tác tâm huyết và đam mê. Họ đã tạo được

một bức tranh tương đối đa sắc và toàn cảnh về miền núi phía Bắc. Trong đó, con

người miền núi được xem và nhìn nhận là trung tâm của mọi sáng tác.

Có thể nói, công trình sớm và mang tính khái quát bước đầu về miền núi dưới

góc độ văn học - nghệ thuật là cuốn sách 40 năm văn hóa nghệ thuật các dân tộc thiểu

số Việt Nam 1945 - 1985 do Nhà xuất bản Văn hóa ấn loát. Đây là một tập hợp những

bài viết sâu sắc về các chủ đề văn hóa - văn nghệ của các dân tộc thiểu số miền núi.

4

Cùng bàn về khía cạnh song đối giữa truyền thống và hiện đại, tác giả Lâm Tiến

với bài nghiên cứu Vấn đề hiện đại và truyền thống trong văn học các dân tộc thiểu số

đăng trên Tạp chí Văn học năm 1992; bài nghiên cứu Văn xuôi miền núi và vấn đề

truyền thống - hiện đại của Phạm Duy Nghĩa.

Nhấn mạnh tới khía cạnh bản sắc dân tộc được phản ánh qua các tác phẩm của

các tác giả người dân tộc thiểu số là bài viết Về bản sắc dân tộc trong sáng tác của các

nhà thơ dân tộc thiểu số của Nguyễn Duy Bắc.

Một số tác giả có nhiều thành tựu khi mô tả về bối cảnh và con người miền núi

như Cao Duy Sơn với Ngôi nhà xưa bên suối, Người lang thang; thơ Y Phương …

Một công trình chuyên khảo với nhan đề Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam

hiện đại của tác giả Lâm Tiến, do NXB Văn hóa dân tộc ấn loát năm 1995, đã cung

cấp một cách khái quát nhất về những đặc trưng của văn học miền núi hiện đại, như

đối tượng phản ánh, đặc trưng thể loại, cuộc sống và hình ảnh về miền.

Ngoài ra cũng có thể kể tới các công trình nghiên cứu, các bài viết của tác giả

Trần Thị Việt Trung về hình ảnh người phụ nữ dân tộc thiểu số trong văn học, thi ca

như: Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam trong thơ ca dân tộc và trong thơ mới (trước

năm 1945); Một số đặc điểm nghệ thuật xây dựng nhân vật phụ nữ dân tộc thiểu số

trong sáng tác của Tô Hoài và Vi Hồng, Bản sắc dân tộc trong thơ ca các dân tộc

thiểu số Việt Nam hiện đại.

Sau thời kì đổi mới (1986), một cách tiếp cận trên bình diện lý luận và phê bình

tác phẩm văn học được một số nhà nghiên cứu, phê bình chú tâm tới, đó là áp dụng lý

thuyết phân tâm học vào nghiên cứu và phê bình văn học. Tiêu biểu có thể kể đến các

công trình như tác giả Đỗ Lai Thúy với bài viết “Phê bình văn học Việt Nam: Nhìn

nghiêng từ phương pháp”(Nghiên cứu văn học Việt Nam những khả năng và thách

thức, Nxb Thế giới (2009), HN, tr.41-96) và sau đó là cuốn sách “Phân tâm học và văn

hóa nghệ thuật”; tác giả Ngô Hương Giang với bài viết “Tiếp nhận phân tâm học ở

Việt Nam 1975 đến nay nhìn từ lý thuyết và ứng dụng”; tác giả Cao Hồng với chuyên

luận “Một chặng đường đổi mới lí luận văn học Việt Nam (1986 – 2011)” do nhà xuất

bản hội nhà văn ấn hành năm 2011; tác giả Trần Thanh Hà với “Học thuyết S.Freud và

sự thể hiện của nó trong văn học Việt Nam”…

5

Những đánh giá, nhận định về các tác phẩm của nhà văn Đỗ Bích Thúy, cho tới

hiện tại vẫn khá khiêm tốn và mới chỉ dừng lại ở phạm vi là những bài viết, chia sẻ

mang tính cá nhân, nhỏ lẻ, chứ chưa mang tính tổng quát và hệ thống xâu chuỗi. Về cơ

bản, có thể điểm xuyến qua một số bài viết như của nhà phê bình Nguyễn Hòa, khi ông

chắp bút viết lời giới thiệu cho tập truyện Những buổi chiều ngang qua cuộc đời của

Đỗ Bích Thúy, hay bài viết Về văn xuôi dân tộc và miền núi từ năm 1986 đến nay của

Phạm Duy Nghĩa cũng nhấn mạnh đến hơi thở mang tính thời sự trong các tác phẩm

của Đỗ Bích Thúy.

Tác giả Ngọc Ánh với bài viết nhan đề Nhà văn trẻ Đỗ Bích Thúy đánh thức

lòng nhân bản” [42] đã nói lên điểm hấp dẫn trong các tác phẩm của Đỗ Bích Thúy

như: cảnh sắc miền núi, đời sống sinh hoạt của các cộng đồng dân tộc thiểu số, số

phận con người, sự trớ trêu của cảnh đời, nội tâm nhân vật…

Ngay sau tác phẩm Bóng của cây sồi xuất bản không lâu, trên báo Công an

nhân dân có bài viết nhận định rằng: “Ở vùng đất cực Bắc xa xôi heo hút gió, giờ đây

không còn là một miền sơn cước yên tĩnh nữa mà cộng thêm vào những hủ tục, lề thói

cổ xưa là những lành dữ, hay dở do cơn bão kinh tế thị trường hỗn tạp mang đến.

Những người trẻ tuổi, những đứa con sinh ra và lớn lên trên vùng đất đó sẽ sống và

làm việc ra sao giữa sự giằng níu của những lề thói xưa cũ và sự đùn đẩy, tác động

của cơ chế kinh tế thị trường hôm nay…Đỗ Bích Thúy trực diện viết về cuộc sống hôm

nay trong sự cảm nhận chân thực của mình. Qua những trang sách, vùng đất Lao Chải

dần dà hiện rõ ra với cảnh sắc, con người, phong tục tập quán, những may rủi, buồn

vui, tốt xấu hay dở đan cài nhau” [43].

Đặc biệt, phải kể đến bài viết của nhà văn Lê Hương Thủy với nhan đề Đường

đến văn chương của một người viết trẻ nhấn mạnh và lí giải về sự lôi cuốn và hấp dẫn

từ những tác phẩm của Đỗ Bích Thúy đối với độc giả, nhất là độc giả chốn thành thị.

Tạp chí Văn nghệ quân đội đánh giá và cho rằng Đỗ Bích Thúy là một hiện tượng

hiếm của thế hệ những nhà văn trẻ bây giờ. Nhà phê bình văn học Lê Thành Nghị

trong lời giới thiệu cho tập truyện ngắn Tiếng đàn môi sau bờ rào đá, xuất bản năm

2005, đã giành những lời nhận xét rất chính xác và tinh tế về những trang văn của Đỗ

Bích Thúy, đó là sự mộc mạc, sống động, lôi cuốn, đầy màu sắc và thanh âm cuộc

sống, đời người…

6

Nhà phê bình Đoàn Minh Tâm với bài viết nhan đề Tiểu thuyết của các cây bút trẻ

- đọc và cảm nhận [44] cũng đã nhấn mạnh tới khía cạnh nhẹ nhàng nhưng đầy sâu lắng

và nhân văn qua tiểu thuyết Bóng của cây sồi của Đỗ Bích Thúy.

Luận văn thạc sĩ của tác giả Dương Thị Kim Thoa với chủ đề Tiếp cận sáng tác

của Nguyễn Ngọc Tư và Đỗ Bích Thúy từ phương diện giá trị văn học - văn hóa đã

khái quát và chỉ ra những hình ảnh cô đặc nhất trong các tác phẩm của Đỗ Bích Thúy -

đó là thân phận con người trong khung cảnh và sự vận động đổi thay của miền núi phía

Bắc [26].

Tuy nhiên, có thể nhận thấy, việc đi sâu vào mô tả và phân tích trạng thái tâm

lý, nội tâm của các tuyến nhân vật trong các tác phẩm của Đỗ Bích Thúy vẫn còn là

một mảng mỏng, chưa được nhấn mạnh và nhận định đánh giá như một trạng thái cốt

lõi phủ suốt toàn bộ các tác phẩm, câu chuyện của nhà văn. Bởi thế, từ việc kế thừa

những nghiên cứu trước đó, tác giả luận văn muốn mở rộng và ít nhiều vun góp thêm

vấn đề này, hòng mong tham gia tạo dựng chung, đầy đủ và đa diện về sự độc đáo -

đặc biệt qua các tác phẩm của Đỗ Bích Thúy.

3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Với hướng tiếp cận nêu trên của luận văn nên đối tượng nghiên cứu mà luận văn

hướng đến là hình ảnh người phụ nữ miền núi được phác dựng và phản ánh qua những

sáng tác của Đỗ Bích Thúy.

3.2. Mục tiêu nghiên cứu

- Cuộc đời, số phận của những nhân vật nữ trong sáng tác của Đỗ Bích Thúy.

- Những ẩn ức mang tính nhân loại và sắc thái riêng của tộc người và miền đất.

- Nét phong cách trong văn chương Đỗ Bích Thúy.

4. Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp thống kê phân loại

Từ việc tiếp cận các tác phẩm, chúng tôi thống kê, phân loại các nhân vật để từ

đó có cái nhìn khách quan, khoa học trong đánh giá.

7

- Phương pháp phân tích - tổng hợp

Phân tích những hành động suy nghĩ của nhân vật người phụ nữ miền núi Đông

Bắc trong từng hoàn cảnh, tình huống truyện cụ thể để có cái nhìn chi tiết, chính xác

về tích cách của từng nhân vật và bên cạnh đó tổng hợp lại để có cái nhìn khái quát,

xâu chuỗi những tri thức tìm được.

- Phương pháp so sánh - đối chiếu

So sánh đối chiếu để tìm ra sự khác biệt cũng như tạo ra sự chính xác cao cho

công trình nghiên cứu. So sánh để làm nổi bật nét riêng biệt, phong cách nghệ thuật,

đổi mới cách thể hiện của nhà văn Đỗ Bích Thúy với nhiều nhà văn khác.

Ngoài ra, luận văn còn sử dụng phương pháp liên ngành khác như: tiếp cận tác

phẩm văn học từ góc nhìn văn hóa để khám phá triệt để dấu ấn văn hóa miền núi Đông

Bắc trong các sáng tác của Đỗ Bích Thúy.

5. Phạm vi nghiên cứu

Những sáng tác của Đỗ Bích Thúy từ trước tới nay, có đề cập tới hình ảnh

người đàn bà miền núi.

6. Cấu trúc của luận văn

Luận văn gồm ba phần: mở đầu, nội dung và kết luận. Trong đó phần nội dung

được triển khai thành ba phần chính như sau:

Chương 1. Cơ sở lí luận và thực tiễn.

Chương 2. Những cảm hứng ẩn ức nữ tính trong sáng tác của Đỗ Bích Thúy.

Chương 3. Một số cách thức thể hiện ẩn ức nữ tính qua sáng tác của Đỗ Bích Thúy.

7. Đóng góp của luận văn

Luận văn góp thêm một tiếng nói về những ẩn ức nữ tính qua sáng tác của nhà

văn Đỗ Bích Thúy. Qua đó khẳng định nét độc đáo trong phong cách văn chương của

Đỗ Bích Thúy.

Luận văn cũng là một tài liệu tham khảo cho các công trình nghiên cứu tiếp theo

về Đỗ Bích Thúy.

8

Chương 1

CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

1.1. Khái niệm ẩn ức và ẩn ức trong tâm lý học

1.1.1. Khái niệm ẩn ức

Trong đời sống của mình, loài người luôn phải đối diện và đương đầu với muôn

vàn những vấn đề nảy sinh. Gắn liền với thực tiễn đời sống đó, con người bắt buộc

phải đưa ra được lựa chọn, giải quyết. Với ứng xử của từng cá nhân trước thực tiễn, sẽ

có hai chiều hướng: một là được sự chấp nhận và đồng tình của chính cá nhân và cộng

đồng, xã hội; hai là đi lệch với quan điểm vốn được chấp nhận của cộng đồng và xã

hội. Con người cá nhân trong suốt cuộc đời mình phải chọn lựa, vật lộn trong hai thái

cực đó.

Con người cũng là sản phẩm tiến hóa vượt trội nhất trong muôn loài trên trái

đất, tức ngoài cái “bản năng” sinh học như vạn vật, thì cái làm nên sự vượt trội, chính

là yếu tố “người” - tức trạng thái xã hội, đạo đức, chuẩn mực, nhân cách. Giữa “bản

năng” sinh học và “yêu cầu” xã hội luôn luôn tương tác với nhau, phối hợp với nhau

theo hai chiều, khi thì thúc đẩy nhau cùng song hành tồn tại và phát triển, khi thì lại

xảy ra quá trình tranh đấu, đối lập, triệt tiêu lẫn nhau. Quá trình và trạng thái ấy được

quy nạp cô gọn về hai thái cực đó là “vật chất” và “tinh thần”, đồng thời cũng là những

chất liệu quan trọng bậc nhất của cuộc sống mà loài người luôn mưu cầu.

Với sự tồn tại của mình trong thực tế đời sống, loài người luôn có hai trạng thái

cơ bản, đối lập nhau: hài lòng và không hài lòng, hay nói cách khác là thỏa mãn và

không thỏa mãn. Tất cả những trạng thái đó phản ánh cô đặc, sâu đậm nhất trong suy

nghĩ và não bộ con người được thể hiện qua tâm lý, hành động và những biểu hiện của

họ. Ở trạng thái nhứ nhất, sự hài lòng, thường đi kèm với tâm lý thỏa mãn, hưng phấn,

hạnh phúc, tự tin; ở trạng thái thứ hai, không hài lòng, sẽ nảy sinh sự ức chế, buồn bã,

cô đơn, thậm chí xấu hổ, tủi nhục. Nếu so sánh hai trạng thái trên, gây dấu ấn đậm sâu

nhất, dai dẳng nhất trong tâm trí con người, chính là tâm lý tiêu cực, sự ức chế. Trong

tâm lý tiêu cực, ức chế của con người, mãnh liệt nhất chính là ẩn ức.

9

Về giới thuyết khoa học, người ta định nghĩa ẩn ức tức là những cảm xúc tiêu

cực xuất hiện lặp đi lặp lại, không được nhận thức, không được chấm dứt hoặc chuyển

hóa, dẫn đến tích dồn theo thời gian. Ẩn ức để lại dấu ấn sâu đậm trong tâm trí con

người, có tác động nhất định đến tâm lý và phép ứng xử cá nhân. Nói cách khác, ẩn ức

là trạng thái các khuynh hướng bị ngăn trở, không thực hiện được, trở thành một thứ

xung động nội tâm, được gọi là refoulement. Ẩn ức ví như dòng nước bị chặn lại, hay

giống như quả bóng ngày một bơm căng, không dừng lại.

1.1.2. Ẩn ức trong tâm lý học

Ẩn ức là một hiện tượng tâm lý học đặc biệt của con người. Ẩn ức liên quan tới

sự ức chế tâm lý, hay thần kinh của con người. Việc chữa bệnh suy nhược thần kinh

bằng phương pháp phân tích tâm lý (qua sự dồn nén và ẩn ức tinh thần, tâm lý) được

Freud gọi là phân tâm học (Psychoanalysis). Theo cách lý giải của các nhà tâm lý học,

mà tiêu biểu là Sigmund Freud (1856 - 1939) thì trạng thái ẩn ức mang những đặc

điểm cơ bản sau:

Freud cho rằng, hệ thống vô thức trong con người thể hiện những xung năng,

dục vọng, bản năng sống. Nội dung chính của chúng là những thèm muốn tính dục

mãnh liệt nhưng lại bị ý thức xã hội (biểu hiện bởi những cấm đoán của xã hội) kiềm

chế. Vì vậy, con người thường xuyên xuất hiện lo âu, ức chế và các trạng thái loạn tâm

thần. Có khi chúng được thỏa mãn giả vờ thông qua các hình thức mộng mị, nói nhịu,

viết nhầm…hoặc được thăng hoa dưới các hình thức như những khát vọng, tình cảm

cao thượng, sự say mê tôn giáo, khoa học, sáng tác văn học, nghệ thuật, âm nhạc…

Về quá trình hình thành nhân cách con người, nguyên khởi được tạo dựng qua

sự tương tác phức hợp giữa các xung năng (driven) với những kinh nghiệm thời ấu thơ

của mỗi cá nhân. Sau này, mọi biểu hiện và hành vi của con người đều là kết quả của

cách nuôi dạy, đối xử của bố mẹ, cộng đồng, khi họ còn bé, nhất là trong 5 năm đầu

tiên của cuộc đời. Freud cho rằng, con người tiếp tục thỏa mãn những mong muốn của

họ trong tương lai bằng quá trình tương tác với người khác. Tâm lý con người được

tạo thành bởi ba thành tố là: bản năng vô thức; cấu trúc nhân cách và cơ chế tự vệ.

10

Bản năng vô thức là phần sinh học tự nhiên mà con người được kế thừa, là thứ

hình thành trước nhất, bản năng thuộc về vô thức, tức nằm ngoài sự kiểm soát của con

người. Trong bản năng, lại chia ra làm hai loại là bản năng sống và bản năng chết.

Tiếp nữa là cấu trúc nhân cách, được cấu thành bởi ba yếu tố: Nó (Id), Cái tôi

(Ego), Cái siêu tôi (Super Ego). Ba yếu tố này được sản sinh và phát triển khi con

người được 5 tuổi, luôn luôn vận động và tương tác với nhau, chi phối rất lớn, thậm

chí tạo ra “cá tính” riêng cho từng cá nhân. Yếu tố Nó tồn tại và vận động theo nguyên

tắc thỏa mãn, yếu tố cái Tôi lại theo nguyên tắc thực tiễn, còn yếu tố siêu Tôi lại tuân

theo nguyên tắc kiểm duyệt. Như thế, trong ba yếu tố này, nổi lên mâu thuẫn giữa cái

Nó và cái siêu Tôi, mẫu thuẫn này dẫn tới trạng thái tâm lý đặc trưng của con người,

đó là sự căng thẳng, ức chế thần kinh. Sự căng thẳng hay ức chế về thần kinh là đỉnh

điểm, là điểm nút trong tâm lý con người, đòi hỏi phải được chuyển hóa và khai

phóng. Để thoát khỏi trạng thái đó, con người cần có những cơ chế tự vệ để tạo được

sự cân bằng trong tâm lý.

Cơ chế tự vệ của bản thân con người khá đa dạng và theo những chiều hướng

khác nhau, mỗi một chiều hướng lại có những biểu hiện và kết quả khác nhau. Đó

là sự dồn nén, sự phóng chiếu, sự chối bỏ, sự thoái bộ, tạo lập phản ứng, phá bỏ,

thăng hoa và mơ mộng.

Cũng theo cách lí giải của Freud, nhân cách con người phát triển qua nhiều giai

đoạn khác nhau, mỗi giai đoạn ứng với độ tuổi và môi trường được nuôi dưỡng.

Như thế, với tám cơ chế tự vệ của con người để giải quyết những xung năng

dồn nén kia ẩn ức thường gắn với cơ chế thứ nhất, đó là sự dồn nén, mang tính vô

thức. Cơ chế tự vệ này mang tính bản năng, nằm ngoài lý trí của con người. Cũng với

sự đa dạng của “loại thức” xung năng, của đối tượng cá thể, của cách lựa chọn cơ chế

tự vệ mà tạo nên sự đa dạng, đa diện của biểu hiện con người, thầm kín dằn vặt, loạn

tâm, loạn thần, dâm loạn, chối bỏ thực tại, hoặc sáng tạo nên những giá trị độc đáo về

nghệ thuật, âm nhạc, văn học - nhờ những thăng hoa tâm lý.

1.1.3. Phân tâm học và văn học nghệ thuật

Mỗi con người là một tổ chức tâm thần phức hợp. Đối diện với thực tại đầy

phức tạp và biến động không ngừng nên con người ai cũng có xung đột nội tâm. Đó là

11

đời sống tinh thần phong phú, với những xung đột, tình cảm xúc động, thất vọng, thỏa

mãn, lo sợ và hy vọng. Cái thế giới này không có thực ngoài đời, không cụ thể, không

nhìn được, ấy là thế giới nội tâm mà phân tâm học gọi là thực thể tâm thần.

Nghệ thuật với các ngành của nó như điêu khắc, hội họa, văn học, điện ảnh… là

của con người, do con người sáng tạo nên, từ con người, cho con người. Cần thấy

rằng, con người không chỉ là cái nhìn thấy ở bề ngoài của nó, mà còn là nguồn gốc sâu

xa và kín đáo trong mỗi cá nhân. Nguồn gốc sâu xa và kín đáo ấy tạo nên văn hóa, mĩ

cảm của nghệ thuật. Nhờ vậy, phân tâm học đưa ra một cách nhìn mới mẻ làm sâu sắc

hơn nghệ thuật.

Người nghệ sĩ khi thực hiện sáng tạo nghệ thuật đã thể hiện sắc màu vô hình

này của thực thể tâm thần của chính bản thân họ để tạo nên tác phẩm nghệ thuật.

Trước hết, nó là sự thỏa mãn riêng của mình, là giải thoát những day dứt và bó buộc

của thực tế. Ước vọng của nghệ sĩ trước hết là của chính họ. Nó trở nên tác phẩm nghệ

thuật nghĩa là ước vọng đó là của người nghệ sĩ chân chính, nghĩa là người nghệ sĩ với

tài năng của mình đã biến đổi những gồ ghề, thô ráp của mộng mị mê sảng, dùng kỹ

thuật thẩm mĩ để che giấu được nguồn gốc cá nhân của sáng tạo và trình bày lại dưới

một hình thức khác gọi khoái cảm. Đó là nghệ thuật.

Văn học là một ngành quan trọng của nghệ thuật. Quá trình hình thành và phát

triển của nó đã được nghiên cứu từ rất lâu. Lịch sử nghiên cứu và phê bình văn học đã

có truyền thống với sự phong phú và đa dạng của các hình thức như văn học sử,

nghiên cứu lịch đại và đồng đại, nghiên cứu so sánh, nghiên cứu xã hội học, nghiên

cứu liên văn bản, nghiên cứu tiếp nhận ..., nhưng đến khi phân tâm học ra đời thì nó

mang một sắc thái và diện mạo mới - sâu sắc hơn, phong phú hơn, đầy đủ hơn (Mặc dù

khởi thủy của phân tâm học là phương pháp chữa bệnh thần kinh. Về sau chính Freud

cũng lấy làm ngạc nhiên bởi hiệu quả của nó trong khi ứng dụng vào nghiên cứu và

phê bình văn học).

Phân tâm học coi tác phẩm văn học là một thế giới gồm tác giả, người đọc,

nhân vật, hiện tượng (phenomens) được nhà văn, nhà thơ xây dựng trong đó, có đời

sống riêng với những quy luật tâm lý riêng, cá biệt không trộn lẫn nhau trong quá trình

phát triển. Trong thế giới này, tất cả mọi chi tiết, sự kiện đều được coi là những biểu

12

tượng phản ánh những ước muốn và những vô thức bị dồn nén của tác giả. Cái vô thức

này là một cõi riêng, một phần trong cấu trúc tâm thức của mỗi con người - nơi chứa

đựng những xung lực bản năng. Những xung lực bản năng và mơ ước bị dồn nén luôn

luôn có xu hướng "trồi" lên vùng ý thức dưới những hình thức ngụy trang, qua các

cách thức khác nhau, trong đó nhiều nhất là ở những giấc mơ, hoài niệm, qua ngôn

ngữ nhân vật, hiện tượng được nhà văn tạo nên, nói nhịu, nói tục, nói với những từ ngữ

vô nghĩa, trắng nghĩa, không có thông tin cho đối tượng nghe. Trong đó giấc mơ, tuổi

ấu thơ, người mẹ (căn cốt đầu tiên của bào thai) là cửa mở đi vào vô thức.

Vì vậy phân tâm học coi tác phẩm văn học là một giấc mơ, là sự thăng hoa bất

chợt, bất ngờ của ẩn ức có trong vô thức của thời ấu thơ và tìm cách lí giải nó.

Hoạt động của giấc mơ - cũng như của tác phẩm văn học - có thể được tóm gọn

vào hai quá trình chính: "dồn nén" và "hoán vị". Trong quá trình "dồn nén", vô số các

ước mơ, các ẩn ức và các mặc cảm khác nhau sẽ được kết tập vào một hình thức biểu

hiện nhất định. Sau đó, trong quá trình “hoán vị”, hình thức biểu hiện này sẽ được

ngụy trang, tức được hoán chuyển sang một hình thức khác phù hợp với các quy ước

đạo đức và văn hóa của xã hội. Hai quá trình "dồn nén" và "hoán vị" này tương tự hai

cấu trúc "ẩn dụ" (dồn nén ý nghĩa lại theo nguyên tắc tương đồng) và "hoán dụ" (hoán

chuyển ý nghĩa này sang ý nghĩa khác theo nguyên tắc tương cận) mà Roman

Jakobson đã phát hiện như hai trục chính trong sinh hoạt ngôn ngữ nhân loại. Trong

khi Freud hay nói đến bản năng và những xung lực từ vô thức, Lacan lại hay nói đến

những ước mơ. Với ông, ước mơ là cái gì có tính bản thể luận, một cuộc đấu tranh

nhằm vươn lên cái toàn thể hơn là gắn liền với những xung lực tính dục. Mọi ước mơ

đều gắn liền với sự thiếu hụt. Ngay chính ngôn ngữ con người cũng hoạt động trên sự

thiếu hụt ấy: điều kiện để từ ngữ có ý nghĩa là sự vắng mặt của cái được biểu đạt và sự

loại trừ vô số những cái biểu đạt khác.

Trong việc áp dụng phân tâm học vào lĩnh vực nghiên cứu và phê bình văn

học, cũng xảy ra một số khó khăn, thậm chí vướng mắc về việc lí luận, thậm chí là lên

án việc áp dụng này. Điển hình trong quan điểm chống lại phân tâm học ứng dụng là

tác giả Pierre Bayard trong cuốn sách Liệu có thể áp dụng văn học vào phân tâm học?

(Minuit, 2004)

13

Nhưng dù có nhiều trường phái và quan điểm khác nhau thế nào, trong thực tế

đã từ lâu, diễn giải theo hướng phân tâm học về văn bản văn học vẫn được các nhà phê

bình văn học sử dụng. Phân tâm học trong văn học thường được thực hiện theo các

cách cơ bản sau: Hoặc là tiến hành phân tâm tác giả (phân tâm tiểu sử, phân tâm phê

bình); hoặc là tiến hành phân tâm nhân vật, khi đó ít nhiều người ta xem nhân vật như

là những con người thực; hoặc là hình dung rằng sẽ có một “vô thức của văn bản”

thuộc về tác phẩm. Trong đó, hai trường phái chính là trường phái làm việc trên tác

giả, tiểu sử tác giả và trường phái tập trung vào văn bản. Trong luận văn của mình,

chúng tôi kết hợp cả hai trường phái trên. Trong đó, tác giả, tiểu sử tác giả sẽ là một

trong những cơ sở nền để chúng tôi đi vào phân tâm nhân vật, để tìm ra những ẩn ức

vừa là của chính tác giả, vừa là của những con người tác giả gặp, đồng cảm trong cuộc

đời của mình.

1.1.4. Sự khác biệt giữa ẩn ức với các trạng thái tâm lý tiêu cực khác

So với một số trạng thái tâm lý tiêu cực như: hoang mang, đau khổ, xấu hổ,

nhục nhã, lo lắng, tức giận… thì ẩn ức khác biệt hoàn toàn so với các trạng thái đó.

Những trạng thái nêu trên chỉ là một khía cạnh, một lát cắt rất nhỏ trong cuộc sống và

tâm lí con người. Cuộc sống luôn vận động và biến đổi, chuyển hóa, các trạng thái đó

cũng chuyển hóa theo, nó giống như cung bậc phải có trong cuộc sống, con người phải

đối mặt, phải trải qua. Hoang mang hay lo lắng thì cũng có thể chấm dứt và chuyển

sang an tâm, bình thản khi được giúp đỡ, động viên, được lắng nghe và chia sẻ. Đau

khổ cũng có thể được xoa dịu qua thời gian, qua sự cứng cỏi và từng trải của bản thân,

của hoàn cảnh và môi trường mới, bởi niềm tin và hi vọng. Xấu hổ và nhục nhã cũng

có thể giảm cường độ và rơi vào quên lãng khi được phủ bởi lớp bụi thời gian, bởi sự

lắng xuống của dư luận và mối quan tâm của những người xung quanh, hay sự chủ

động thay đổi không gian và môi trường sống của chủ thể. Tức giận cũng sẽ nhanh

chóng trôi đi, bởi nó cũng chỉ là cảm xúc nhất thời, sự bình tâm và tha thứ sẽ khỏa lấp.

Trong khi đó, vượt lên trên tất cả, phép cộng của tất cả, ẩn ức là trạng thái vĩnh

viễn, giam hãm, thường trực trong tâm trí, khiến cho con người không có lối thoát,

không tự giải thoát được cho bản thân, cũng không có ai có thể chia sẻ và giúp đỡ

được mình. Ẩn ức như một khối u tâm thức, ngày ngày xuất hiện, án ngữ trong tâm trí,

lớn dần lên, tích tụ lại và đè xuống hơi thở, nhịp đập, mạch sống con người. Khối u

14

này không ác tính tới mức giết chết thân chủ của nó ngay lập tức về mặt sinh học,

nhưng lại dần dà và từ từ đốt cháy, bóp nghẹt, quây kín tinh thần của thân chủ, tạo nên

sự dằn vặt vĩnh viễn về tinh thần. Cơ thể sinh học của thân chủ dù có khô héo đi, còng

quại đi nhưng vẫn tồn tại theo thời gian đời người, nhưng linh hồn và sức sống tinh

thần thì ngày một lụi tàn và khô kiệt. Ẩn ức tạo nên cơn hấp hối tinh thần trên cái giá

thể hình hài con người, khiến con người luôn luôn ở trong trạng thái dằn vặt, mâu

thuẫn nội tâm, không thể đưa ra sự lựa chọn, không thể diễn đạt thành lời, cũng chẳng

thể sẻ chia, không thể quyết liệt. Khốc liệt hơn, ẩn ức càng trải qua thời gian, càng tích

tụ và khổng lồ hơn, sức nặng hơn, và ẩn ức còn tạo nên cơ chế di truyền, mang tính kế

thừa cho thế hệ sau, ẩn ức không cho phép gột rửa, thanh lọc hay làm mới.

1.1.5. Ẩn ức hình thành trong những điều kiện, hoàn cảnh nào?

Con người sinh ra và lớn lên qua trục thời gian và về mặt sinh học, còn nhân

cách và tâm lý của con người được tạo dựng và sản sinh trong môi trường và không

gian phức tạp hơn rất nhiều, có thể là không gian sinh tồn, không gian gia đình, không

gian dòng họ, không gian làng bản, vùng đất, là sự lựa chọn của bản thân vào những

thời khắc khác nhau, ngả rẽ khác nhau của cuộc đời, mà mỗi thời khắc đều phải đưa ra

lựa chọn và phải nhận kết quả từ sự lựa chọn đó. Không dừng lại ở đó, quan niệm và

định quy của xã hội, của cộng đồng người, cũng mặc định và chi phối mạnh mẽ nhân

cách và tâm lí con người. Như thế, có hàng loạt những nhân tố tác động, những môi

trường và không gian mang tính khách quan, nằm ngoài sự chủ động và mong muốn

của con người, tương tác lên bản thân con người, tham gia vào quá trình tác tạo khuôn

diện, nhân cách và tâm lí con người. Bắt theo quá trình đó, là một kết quả của quá

trình đó, ẩn ức nảy sinh và hình thành, gắn chặt với hơi thở và bước chân sinh tồn của

xã hội loài người. Ẩn ức có rất nhiều “môi trường dinh dưỡng” để nảy sinh: những bí

mật riêng tư, từ niềm hạnh phúc không danh chính, hay từ nỗi đau, những đớn hèn,

những mặc cảm, thậm chí là những giày vò về tội lỗi có thể là của mình, của người

thân, hay của những người liên quan trực tiếp đến đời sống của mình.

1.1.6. Nhận diện ẩn ức

Ẩn ức có rất nhiều dạng thức và biểu hiện tồn tại: Có thể là ẩn ức về cái nghèo

truyền kiếp; ẩn ức về thân phận thấp hèn; ẩn ức vì phải chịu khiếm khuyết tự nhiên của

15

tạo hóa, khiến bản thân mình không làm tròn hay hoàn thành được những đặc điểm

của loài người; ẩn ức vì sự lựa chọn sai lầm của bản thân mà mình không có cơ hội sửa

chữa hay thay đổi; ẩn ức vì không thể tự đưa ra quyết định hay sự tồn tại của bản thân

trong tương lai; ẩn ức vì số phận nghiệt ngã của bản thân do bị xã hội chà đạp, coi

thường, xem nhẹ; ẩn ức tình dục (libido)…

1.2. Vấn đề ẩn ức nữ tính

Điều kiện và hoàn cảnh môi trường luôn là nhân tố chính tác động lên cuộc

sống con người và biểu hiện trạng thái cảm xúc, tâm lí của họ. Xã hội loài người

luôn luôn vận động và biến đổi không ngừng, bởi thế, những nhân tố, hay nói cách

khác là hệ giá trị chuẩn mực, cái nhìn và lối suy nghĩ của tập thể, cộng đồng cũng

vận động và biến đổi theo. Theo chu trình đó, những trạng thái ẩn ức cũng thay đổi

qua thời gian. Mỗi một xã hội, một không gian văn hóa cộng đồng, tộc người lại có

một sự nhìn nhận, một mặc định riêng về cách hành xử của con người, thế nên trạng

thái ẩn ức của mỗi cá nhân sống trong khung cảnh đó cũng khác nhau, và phản ánh

rõ nhất những đặc trưng của không gian và môi trường đó. Con người luôn luôn có

một bản năng được tôi rèn, đó là sự thích nghi với hoàn cảnh, theo kiểu “ở bầu thì

tròn - ở ống thì dài”, hay “đi với bụt mặc áo cà sa - đi với ma mặc áo giấy”. Song

thực tiễn cuộc sống là muôn vàn những khó khăn khôn lường, và con người không

phải lúc nào cũng thành công trong sự thích nghi đó. Sự thất bại, không như ý luôn

tiềm ẩn, và đến một mức độ nào đó là trạng thái tiêu cực, ức chế tâm lý, dồn nén, tích

tụ, cuối cùng là ẩn ức.

Tùy vào từng đối tượng, giới tính, mà hình thành lên những kiểu loại ẩn ức

khác nhau. Từ xưa, xã hội đã phân biệt và mặc định những nhiệm vụ và thiên chức

khác nhau cho con người theo giới tính, lứa tuổi, địa vị…Thế nên, ở mỗi đối tượng lại

tồn tại và phải chịu những kiểu dạng ẩn ức khác nhau. Đàn ông có ẩn ức của đàn ông,

ví như chưa thỏa chí “công chưa thành - danh chưa toại”, làm trai phải trả nợ “núi

sông”, ẩn ức là “quốc thù vị báo đầu tiên bạch - kỷ độ long tuyền đới nguyệt ma”…Và

phụ nữ cũng có những ẩn ức của riêng mình.

Điều đặc biệt, xã hội loài người vận động và tiến hóa khởi đầu từ chế độ mẫu hệ

- tức vai trò chủ đạo của những người phụ nữ. Nhưng càng về sau, chế độ phụ quyền

16

soán vị, lấn át và đè nén, thậm chí thủ tiêu vai trò và những kiến tạo khởi nguyên của

người phụ nữ. Xã hội tạo nên hàng loạt những chuẩn mực, điều kiện khắt khe, nhằm

bó chặt người phụ nữ lại, bắt họ phải phục tùng, quy thuận và sống ngột ngạt trong

tầng tầng lớp lớp những luân lý, định quy. Người phụ nữ vốn có sẵn thiên tính tự nhiên

là phái yếu, thế nên những lấn át kia lại càng có cơ hội tác động lên gấp bội, người phụ

nữ phải chịu nhiều khổ cực, tủi nhục, và cao hơn cả là ẩn ức trong đời sống của mình.

Trong thời phong kiến, với tư tưởng trọng nam khinh nữ, những người phụ nữ

bị xem nhẹ, coi thường, xã hội và hệ luân lý không bênh vực quyền lợi của người phụ

nữ…vì thế ẩn ức của người phụ nữ thời phong kiến là sự kìm nén, chịu đựng, hi sinh,

là cái bóng lu mờ, luôn luôn đứng sau người đàn ông, họ không có tiếng nói và quyết

định số phận tương lai của mình, thậm chí không được phép nói lên suy nghĩ và mong

muốn của bản thân, không được phép bày tỏ cảm xúc. Ẩn ức của họ bộc lộ qua câu ca

dân gian, ví như “tấm lụa đào”, “giếng giữa đàng”, “hạt mưa sa”…rồi là sự nghiệt ngã

của chế độ đa thê: “chém cha cái kiếp lấy chồng chung - kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh

lùng”, “đàn ông lấy năm bảy vợ - gái chính chuyên chỉ có một chồng”. Số phận của họ

luôn gắn chặt với “tam tòng - tứ đức”, họ bị coi là giới không thanh sạch, thế nên

không được phép tiếp cận bàn thờ tổ tiên, không được tiếp khách, hay ngồi cùng mâm.

Có hàng loạt những tác phẩm văn học thời kỳ này, mô tả và phản ánh những đặc trưng

và trạng thái ẩn ức bấy giờ, mà người phụ nữ phải chịu đựng như: Chuyện người con

gái Nam Xương- Nguyễn Dữ, thơ Hồ Xuân Hương, Truyện Kiều- Nguyễn Du, Chinh

phụ ngâm khúc- Đặng Trần Côn- Đoàn Thị Điểm, Cung oán ngâm khúc- Nguyễn Gia

Thiều…

Bước sang thời hiện tại, xã hội đã đổi thay nhiều, và nhất là kết quả từ quá trình

giao lưu tiếp xúc văn hóa Đông - Tây, với trào lưu tư tưởng dân chủ, giải phóng cá

nhân, tư tưởng bình đẳng giới, những rào cản đè nén người phụ nữ cũng đã được xóa

bỏ đi rất nhiều, thân phận người phụ nữ đã được xã hội nhìn nhận công tâm hơn, nữ

quyền được đề cập tới nhiều hơn. Tuy thế, những người phụ nữ trong thời kỳ này vẫn

phải gánh chịu những ẩn ức nặng nề, vốn có sức nặng của định kiến, vốn bắt rễ rất chặt

vào quá khứ. Nổi lên hơn cả là sự lấn át của người đàn ông, khiến người phụ nữ bị hạ

thấp vai trò của mình trong gia đình, họ vẫn phải tuân phục chồng, không có tiếng nói

riêng, vai trò của họ được mặc định là phải giàu đức hi sinh và khả năng chịu đựng, họ

17

phải làm tròn bổn phận của mình là sinh nở và nuôi dạy con cái. Từ hệ lụy gia đình, tới

ngoài xã hội, vai trò và sự đóng góp của người phụ nữ bị xem nhẹ, họ bị coi thường và

hạn chế tham gia vào các hoạt động xã hội, họ bị mặc định là phải gắn với sinh nở,

nuôi dạy con cái, bếp núc nội trợ, vun vén gia đình, còn việc xã hội là không gian của

người đàn ông. Hiện tại, người phụ nữ phải chịu sự giằng xé, đòi hỏi của thực tại là

vừa phải làm tròn thiên chức của người phụ nữ, người mẹ, người vợ, người con trong

gia đình, lo cho họ mạc, lại vừa phải năng động trong hoạt động xã hội, phải tham gia

vào quá trình kiếm tìm vật chất, lo cơm áo gạo tiền…Đã có hàng loạt những tác phẩm

văn học nói lên trạng thái ẩn ức của người phụ nữ trong giai đoạn này như: Tố Tâm

của Hoàng Ngọc Phách, Tắt đèn của Ngô Tất Tố hay những trang viết của Tô Hoài,

Võ Thị Hảo, Trần Thùy Mai, Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Bích Thúy, Hoàng Thị Cành…

Với vị trí và vai trò to lớn của mình, cùng những đặc trưng “tính nữ” thiên bẩm,

ẩn ức mà những người phụ nữ phải gánh chịu, phải mang và vận vào mình vì thế cũng

có điểm đặc biệt, thậm chí là riêng biệt nếu so sánh với “tính nam”. Phụ nữ vốn mang

thiên tính nước, mềm mại và uyển chuyển như nước, vì thế mà bao dung độ lượng,

cũng như có một sức mạnh cam chịu ghê gớm. Hơn nữa, họ không sống cho riêng bản

thân mình được, bởi thiên tính “mẹ”, tức nắm giữ trọng trách “nhận”, “gìn giữ”, “sản

sinh” ra thế hệ tương lai, hay nói cách khác là người kiến tạo tương lai - tức đứa trẻ,

luôn là máu mủ của mình. Thế nên, dù tủi nhục và khổ đau tới nhường nào, họ cũng

không được phép rũ bỏ, chấm dứt những “thiên tính” đó, tự bản thân họ luôn tồn tại

một trạng thái ý thức mang tính bản năng đó. Bởi thế, khi gặp trắc trở trong cuộc sống,

họ vẫn phải sống và cam chịu, tức họ phải chịu mang một cục “bướu” những ẩn ức bên

mình, cục bướu đó sẽ ngày càng to lên.

So với người phụ nữ, đàn ông và những ẩn ức của họ dễ phá hơn, cường độ và

sự ràng buộc cũng không khốc liệt bằng. Hơn thế đàn ông còn có lợi thế được ấn định

là lực lượng cởi mở hơn, được xã hội ưu ái hơn, là giới động hơn…vì thế họ không

chịu sự quy phạm chặt chẽ của định kiến xã hội và luân lý chuẩn mực, họ hoàn toàn có

quyền thực thi việc rũ bỏ, thay đổi lựa chọn, kết thúc tình trạng, đưa ra thái độ và cách

ứng xử cho những tình huống tiêu cực đó…họ rũ bỏ và đùn đẩy cho người phụ nữ, họ

nghĩ và mặc định trong tâm lý rằng, đó là quyền bản năng của mình.

18

Trong dòng chảy của sự đổi thay xã hội, mỗi vùng miền lại có một đặc điểm và

tốc độ riêng, vì thế những con người sống trong không gian môi trường đó cũng phải

tuân thủ quy luật này. Khu vực miền núi bao giờ cũng có tốc độ phát triển chậm hơn

so với đồng bằng, tức sự đổi thay cũng chậm lại, như thế cái cũ vẫn còn chiếm thế.

Trong không gian cũ ấy, luôn luôn tiềm ẩn, song hành hai tư tưởng đối lập, đó là tích

cực và tiêu cực nhưng dường như cái tiêu cực lại dai dẳng hơn, bủa vây và phủ trùm

lên số phận con người miền núi. Hằng số chung cho khía cạnh dai dẳng này ấy là chìm

đắm trong nghèo nàn, lạc hậu, hạn chế về trình độ và điều kiện tiếp xúc với thế giới

bên ngoài, những tập tục cũ kĩ không còn phù hợp, những định kiến xã hội lầm

lạc…bủa vây thân phận của những người tồn tại trong nó, và nặng nề nhất là những

người phụ nữ miền núi.

Trước kia, khi nhắc tới hình ảnh về người phụ nữ miền núi, cùng những tủi khổ

và ẩn ức của họ, ai ai cũng liên tưởng tới nhân vật Mỵ trong Vợ chồng A Phủ của Tô

Hoài, được khắc họa vào những năm năm mươi của thế kỉ trước. Tuy nhiên, Mỵ cũng

chỉ là người phụ nữ đại diện cho một góc cạnh nhỏ của không gian và đời sống thực tế

mà thôi. Liệu rằng còn có những số phận nào nghiệt ngã hơn, những ẩn ức nào chất

chứa hơn ẩn ức của Mỵ không? Nhưng xét cho cùng, ẩn ức của Mỵ là “con rùa lùi lũi

trong xó cửa”, là bị cưỡng đoạt tình yêu lứa đôi, bị đối xử tệ bạc, nhưng cuối cùng, hứa

hẹn một lối thoát cho Mỵ, khi cô bỏ trốn cùng A Phủ và đi theo cách mạng. Trong thực

tế, người phụ nữ miền núi còn phải chịu hàng loạt những ẩn ức khác nữa, đó là gánh

nặng gia đình, tình thương của người mẹ, đường con cái, trở thành góa phụ khi còn quá

trẻ, những định kiến nghiệt ngã của môi trường xã hội…và họ không có lối thoát.

Miền núi là nơi xa xôi hẻo lánh, địa hình trắc trở, thế nên môi trường tách biệt,

độc trị, và cũng chẳng có công lý, chẳng có ai quan tâm tới những số phận nghiệt ngã

trong đó, nhất là số phận của những người phụ nữ. Không có lực lượng nào đứng ra

bênh vực và bảo vệ những người phụ nữ, bởi tất cả đều nằm dưới sự bao trùm, quy

phục của “thần quyền” và “thế quyền”, thân phận con người được quy đổi bằng những

đồng bạc trắng lạnh ngắt, vô cảm. Ngay cả trong chính cái nội bộ đặc trưng văn hóa

tộc người, cũng tự khắt khe và hà khắc với số phận của người phụ nữ, tức ngay trong

chính không gian được coi là gần gũi nhất của mình, người phụ nữ cũng bị khinh rẻ.

Như vậy, có thể thấy, người phụ nữ miền núi phải chịu bủa vây của tầng tầng lớp lớp

19

những hệ luân lý, những định kiến mặc định, mà lớp nào cũng có công năng như nhau,

bổ khuyết cho nhau, nếu không phải trong gia đình thì là họ tộc, xa hơn là hàng xóm,

là tộc người, là chiều sâu và sức nặng của định kiến…Thân phận của người phụ nữ

luôn bó buộc trong đó, ẩn ức bắt vào đó để nảy sinh và tích tụ.

1.3. Việc khai thác và phản ánh trạng thái ẩn ức trong lịch sử văn học Việt Nam

Xét cho cùng, mọi lĩnh vực sáng tạo của loài người, cũng đều hướng tới mục

đích phục vụ chính cuộc sống con người. Hoàn cảnh và môi trường đa dạng, nhu cầu

con người càng phức tạp, thêm nữa đặc tính cố hữu của loài người là muốn khẳng định

mình, muốn cất tiếng nói trong cái không gian xã hội đầy phức tạp ấy. Trong hàng loạt

những lĩnh vực sáng tạo, những “kênh” truyền tải của con người thì đời sống văn học

là sự cô đọng, là phương tiện được sử dụng phổ biến và hiệu quả nhất. Những tác

phẩm văn học lấy cảm hứng và bối cảnh, chất liệu từ chính cuộc sống, con người, để

khai thác, phản ánh “thực tại xã hội” và chính chủ nhân của cái thực tại đó. Chất liệu

càng phức tạp, càng gồ ghề góc cạnh thì sản phẩm càng độc đáo và đặc biệt. Sức hấp

dẫn và nhân văn nhất trong các tác phẩm văn học xưa nay, chính là khai thác chiều sâu

nội tâm nhân vật, nhất là những nhân vật có “hoàn cảnh” đặc biệt, vượt ra khỏi cái

khung cảnh trung bình chung của xã hội của cộng đồng.

Trong thời phong kiến, xem nhẹ vai trò của người phụ nữ, ép buộc họ sống

trong khuôn khổ gò bó, thậm chí phi nhân tính, bởi thế số phận của người phụ nữ trong

thời đó hết sức bi đát, bị đè nén, áp bức, tủi nhục và cam chịu. Đã có hàng loạt tác

phẩm văn học trong thời kì này phản ánh “hình ảnh” của những người phụ nữ đó.

Đó có thể là tiếng thét của chính đối tượng trong cuộc, như nữ sĩ Hồ Xuân

Hương - một người được coi là có một “xung lực” đặc biệt. Những bài thơ của nữ sĩ là

sự truyền tải hàng loạt thông điệp bi ai về thân phận của người phụ nữ bấy giờ, và

cũng chính là trạng thái ẩn ức của nữ sĩ - một người phụ nữ phải gánh chịu những bất

công, tủi nhục của cái vòng luân lý xã hội bấy giờ. Những bài thơ của nữ sĩ thể hiện

một thái độ xưa nay chưa từng có trên văn đàn trước đó, mở đầu cho trào lưu đấu tranh

giải phóng tự do cá nhân, nhất là người phụ nữ, khởi từ quyền đơn giản nhất là được

nói lên suy nghĩ và khát vọng của chính bản thân mình.

20

Khi chế độ phong kiến diễn tiến tới giai đoạt mạt kì, tức đứng trước sự đổ nát,

thì cũng là lúc cực đoan nhất. Xã hội nhiễu nhương tao loạn, thân phận con người bị

coi rẻ như thân rơm, cái kiến, lại càng bị đè nén thậm tệ hơn. Người phụ nữ được coi

là vật để mua vui, phục vụ cho các bậc vua chúa, là vật sở hữu mang ý nghĩa như một

món hàng, cần thì dùng đến, không cần thì có thể vứt đi ngay được.

Một tác phẩm gây tiếng vang trong giai đoạn bấy giờ, khai thác tâm trạng ẩn ức

đến tột cùng của thân phận người cung nữ bị ruồng bỏ, lãng quên nơi cấm thành lạnh

lẽo, chính là Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều. Toàn bộ 355 câu thơ là nỗi

lòng ai oán tột cùng của thân phận người cung nữ, sống trong sự héo úa tàn lụi, tuổi

xuân và khát vọng trôi qua một cách vô nghĩa, đời người lụi tàn trong quên lãng, bị

vênh lệch và bứt ra khỏi cuộc sống, xã hội. Lầu son gác tía nay đã thành ngục trung

giam cầm và thiêu lụi con người. Họ không sao thoát khỏi nó, họ uất ức tới tột cùng,

kêu gào thảm thiết, khi lại mơ tưởng ngóng trông, tất cả trạng thái đó, nảy sinh từ ẩn

ức tột cùng đã trở thành một thứ bệnh lý. Họ không thể giãi bày, chia sẻ, sống trong

câm nín, không còn ai biết và nhớ tới họ nữa. Có tới hàng trăm, hàng ngàn những

người phụ nữ như thế, họ đều là những người rất đẹp và tài năng, được vua chúa tuyển

chọn, sở hữu, nhưng cũng từ đó, họ phải sống trong bi kịch, trong sự giam cầm, trong

không gian lạnh lẽo cô đơn, tách biệt hoàn toàn với cuộc sống. Ở tất cả những người

phụ nữ đó đều hội đủ những điều kiện hoàn hảo cho một cuộc sống tốt đẹp, như ý

trong thực tế, nhưng họ đã bị tước đoạt tất cả, bị giam cầm, tách biệt, và đau đớn nhất

là bị lãng quên, chết dần chết mòn trong quên lãng, đó thực sự là trạng thái kinh hoàng

nhất mà họ ngày ngày phải chịu đựng. Chỉ có ít người thương xót và quan tâm đến họ,

Ôn Như Hầu là một người đặc biệt, có điều kiện ra vào lui lại chốn cung cấm, thành

son - gác tía, nên mới có dịp chứng kiến và nghe được âm thanh ai oán tột cùng từ

những số phận hồng nhan bạc mệnh đó.

Trong một xã hội như thế, người phụ nữ còn phải gánh chịu hàng loạt những

khổ đau mất mát khác, người thì phí hoài tuổi xuân, chết dần trong quên lãng, người

thì chịu cảnh chia li, mỗi người mỗi ngả, sống trong cảnh nhớ nhung, lo lắng. Chiến

tranh giữa các chúa, vì lợi ích cá nhân dòng tộc, ở chốn thôn dã, có biết bao gia đình

phải sống trong cảnh chia li, người vợ ở nhà ôm con, ngày ngày sống trong nỗi khắc

khoải. Người phải chịu đựng, gánh chịu nhiều nhất, bao giờ cũng là người ở lại, là

21

những người phụ nữ. Người đàn ông ra đi không hẹn ngày trở lại, người vợ phải đồng

lòng tiễn chồng ra đi, vì nghĩa lớn, vì mộng công danh, họ ở lại trong hi vọng về viễn

cảnh tốt đẹp đến với người chồng yêu dấu, song thực tế thật phũ phàng bởi chiến tranh

là chết chóc, là thời gian đằng đẵng bào mòn đi tất cả hi vọng, chịu đựng, là tuổi xuân

của hạnh phúc lứa đôi ngày càng lụi tàn. Tất cả trạng thái đó cùng lúc đổ dồn lên

người phụ nữ, họ phải chịu đựng tất cả, phải cân bằng mọi cung bậc đó. Họ bị đẩy vào

một không gian, một trạng thái tột cùng của hi vọng, lo lắng, cô đơn, hờn tủi, và họ

không có lối thoát, bị đóng băng, hóa đá. Cái thực tế xã hội bấy giờ đã đưa đẩy và

nhấn chìm biết bao cảnh đời những người phụ nữ như thế. Số phận của họ đã được

chụp lại và phản ánh qua Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn và Đoàn Thị Điểm vào

thời kì Lê - Mạc bấy giờ.

Đặc trưng chung nhất và cũng là riêng biệt của các tác phẩm văn học lấy chủ đề

phản ánh ẩn ức con người, nhất là người phụ nữ thời kì này chính là những khai phá

bước đầu, đánh dấu cho thời kì đổ vỡ của hệ tư tưởng phong kiến đã lỗi thời, bị lên án

và phản ánh bởi chính các nhà Nho - những người được coi là chủ nhân, là người điều

hành, duy trì hệ tư tưởng đó. Số phận bi thương của những người phụ nữ được phản

ánh thông qua một số ít những nhà Nho có tinh thần nhân ái như thế. Tuy nhiên, thông

qua hình ảnh của những người phụ nữ đó, tác giả còn lồng ghép vào chính cái trạng

thái ẩn giấu của mình trong đó, tức là hình ảnh mang hai trường nghĩa, tường minh và

ẩn giấu. Những tác phẩm đó trong giai đoạn này là hiếm, là hiện tượng đặc biệt. Nhân

vật được phản ánh trong tác phẩm chỉ là một góc cạnh nhỏ bé trong thực tế xã hội bấy

giờ, những suy tư, ẩn ức của họ chưa mang tính phổ quát, đại diện, gắn với hiện trạng

nhân sinh và vẫn mang tính hình tượng là chính.

Chuyển sang thời hiện đại, tức thế kỉ XX, là mốc đánh dấu cho nhiều bước

ngoặt, chuyển hướng vĩ đại của nhân loại, trong đó có việc giải phóng con người cá

nhân. Trong xã hội, vị thế và vai trò của người phụ nữ được nâng cao hơn, nhưng họ

vẫn không thoát khỏi những mặc định hay định kiến ngàn đời của lịch sử để lại. Thêm

nữa, bối cảnh xã hội giai đoạn này cũng đổi thay và phát triển chóng mặt, đôi khi rối

ren, hay dở lẫn lộn, thế nên những ảnh hưởng tới thân phận con người cũng càng phức

tạp và khó giải quyết hơn. Hình tượng con người trong văn học, được phản ánh và

khám phá chân thực, toàn diện hơn, trên tất cả các bình diện, cung bậc sáng - tối, thiện

22

- ác, cả phần vô thức, tiềm thức. Có thể nhắc tới các tác phẩm như: Ăn mày dĩ vãng và

Vòng tròn bội bạc của nhà văn Chu Lai; Bến không chồng của Dương Hướng, Thời xa

vắng của nhà văn Lê Lựu, Mùa lá rụng trong vườn của nhà văn Ma Văn Kháng, Một

cõi nhân gian bé tí của nhà văn Nguyễn Khải; Mảnh đất lắm người nhiều ma của nhà

văn Nguyễn Khắc Trường; Thiên thần sám hối của nhà văn Tạ Duy Anh; Đi về nơi

hoang dã của nhà văn Nhật Tuấn; Cõi người rung chuông tận thế của nhà văn Hồ Anh

Thái; Cánh đồng bất tận của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư, Đám cưới không có giấy giá

thú; Đồng bạc trắng hoa xòe; Mùa lá rụng trong vườn; Côi cút giữa cảnh đời của nhà

văn Ma Văn Kháng.

Đời sống văn học trong bối cảnh mới này cũng rất đa dạng hướng vào phản ánh

một cách chi tiết, cụ thể, cận cảnh và chân thật hơn thân phận con người, đôi khi trần

trụi nhưng là thực tế nhân sinh. Văn chương, xét cho cùng là phản ánh cái ẩn ức của xã

hội mà trong bối cảnh xã hội hiện đại, cũng đặt ra nhiều ẩn ức mới, ví dụ như hiện

tượng hôn nhân đồng giới - vốn được coi là một biểu hiện tính dục khác thường.

Chủ đề khai thác ẩn ức của người phụ nữ trong các tác phẩm văn học cũng đa

dạng và nhiều màu sắc hơn, chân thực hơn, mạnh bạo hơn, đề cập tới những ẩn ức sâu

kín nhất, đôi khi nhạy cảm nhất của người phụ nữ mà xưa nay vẫn bị né tránh hoặc

không dám đề cập tới, ví dụ như ẩn ức tình dục. Có thể đề cập tới hàng loạt những tác

phẩm văn học khai thác chủ đề ẩn ức con người như: Nỗi buồn chiến tranh của Bảo

Ninh, Ăn mày dĩ vãng, Phố…của nhà văn Chu Lai, các tiểu thuyết Người trong ống,

Chồng thật vợ giả của Vi Hồng, Xứ mưa của Hoàng Thế Sinh, Đàn trời của Cao Duy

Sơn, Lửa cháy trong rừng hoang của Sương Nguyệt Minh, Số phận đàn bà của Hoàng

Thị Cành, Tiếng chim kỷ giàng của Bùi Thị Như Lan, Bóng đè của Đỗ Hoàng Diệu,

Giày đỏ của Dương Bình Nguyên, Chờ tuyết rơi của Đặng Thiều Quang, 1981 của

Nguyễn Quỳnh Trang, Song Song của Vũ Đình Giang, I am đàn bà của Y Ban, Bóng

đè của Đỗ Hoàng Diệu, Ngồi của Nguyễn Bình Phương, Người đàn bà trên đảo, Tấm

ván phóng dao...

Trong bối cảnh xã hội chung đó, khu vực miền núi và người dân tộc thiểu số

được phản ánh khá nhiều trên đời sống văn học. Vùng đất xa xôi này, không chỉ ẩn

chứa nhiều giá trị “lạ” đối với độc giả, mà còn chứa đựng một trữ lượng “vỉa tầng” đa

dạng vẫn còn đang ở dạng tiềm ẩn, con người và cuộc sống của họ nơi đây cũng đa

23

dạng và độc đáo. Miền núi là nơi hiện còn lưu giữ và chứa đựng nhiều giá trị, vừa

nhân văn đáng quý, lại vừa lạc hậu. Đời sống con người còn nhiều giá trị trân quý

trong ứng xử, nhưng cũng là vùng đất còn nghèo khổ với cuộc sống mưu sinh khắc

nghiệt, tồn tại nhiều khắt khe, định kiến lạc hậu, nhất là đối với thân phận phụ nữ.

Đã có khá nhiều tác phẩm văn học phản ánh khung cảnh và cuộc sống con

người miền núi, nhất là trong khoảng thời gian từ đầu thập niên 90 của thế kỷ trước trở

lại đây. Nổi bật là những tác phẩm phản ánh về cuộc sống mưu sinh khó khăn, những

vật lộn của con người để thích nghi với hoàn cảnh nơi đây, nhất là số phận của người

phụ nữ miền núi. Có thể kể tới hàng loạt những tác phẩm văn học tiêu biểu như tập

truyện Hoàng hôn và Lửa trong rừng sa mu của tác giả Hà Trung Nghĩa, Hà Lý với

Ngọt đắng vị Mường, Đoàn Lư với Kỉ niệm về một dòng sông, Ngựa hoang lột xác và

Sự tích một câu nói của tác giả Bùi Minh Chức… Những tác phẩm tập trung mô tả

thân phận con người miền núi như: Người lang thang của Cao Duy Sơn, Số phận đàn

bà của Hoàng Thị Cành, Gặp gỡ ở La Pan Tẩn và Một mình một ngựa của tác giả Ma

Văn Kháng, Khu vườn yên tĩnh của tác giả Tống Ngọc Hân, Cơn mưa hoa mận trắng

của tác giả Phạm Duy Nghĩa…

1.4. Đỗ Bích Thúy và sự nặng lòng của chị với những người phụ nữ vùng cao

Có thể coi thời điểm chính thức xuất hiện của nhà văn Đỗ Bích Thúy trên văn đàn

là giải nhất trong cuộc thi sáng tác truyện ngắn của Tạp chí Văn nghệ quân đội với bộ ba

tác phẩm: Ngải đắng ở trên núi, Đêm cá nổi và Sau những mùa trăng. Sự lôi cuốn và hấp

dẫn của những tác phẩm đầu tay này chính là cái “không gian núi”, “con người và lối sống

núi” được nhà văn khai thác và xuất trình trên những trang văn của mình.

Có được những trang văn cô đọng, độc đáo như vậy và ở trong tất cả các sáng

tác sau này của chị là bởi tuổi thơ được thấm đẫm và trải trong không gian núi, nhà

văn lớn lên và trưởng thành trong không gian thung lũng rộng không quá 1500 m2 với

bao bọc xung quanh là núi, là sông, là cảnh sinh hoạt của con người và vạn vật núi.

Như chính nhà văn chia sẻ, động lực chính để chị sáng tác nên những tác phẩm

văn chương đó chính là nỗi nhớ núi da diết, nhà văn đã tự nhận mình là người miền

núi, người đi ra từ núi. Không gian núi thấm đượm và ngồn ngộn trong tất cả các sáng

tác của chị, nhất là vùng đất Hà Giang - nơi chị lớn lên và trưởng thành.

24

Hiện thực và con người miền núi luôn xuất hiện dày đặc và là chủ đề chính

trong mọi sáng tác của Đỗ Bích Thúy. Đó là những con người với số phận riêng,

những hạnh phúc và khổ đau chồng lấn, dồn đẩy họ, là lối sống cộng đồng với những

phong tục - tập quán riêng, những đặc trưng quy định riêng của không gian và xã hội

miền núi.

Năm 2005, với tập tiểu thuyết Bóng của cây sồi và một năm sau là tập truyện

Tiếng đàn môi sau bờ rào đá, Đỗ Bích Thúy tiếp tục gây được tiếng vang lớn trên văn

đàn, rất nhiều những nhà văn, đồng nghiệp đã có những đánh giá, ca ngợi Đỗ Bích

Thúy. Nhà báo Dương Bình Nguyên trong bài Đỗ Bích Thúy - sự mềm mại quyết liệt

đã khái quát về “phong cách” của Đỗ Bích Thúy “sự day dứt của con người với nơi

chốn mình sinh ra” và “sự trở về, sự nương náu của tâm hồn ở miền đất cũ cũng tự

nhiên như hơi thở”.

Tác giả Ngọc Ánh trong bài viết Nhà văn trẻ Đỗ Bích Thúy đánh thức lòng

nhân bản [42] đã nhận định: “Bóng của cây sồi, Sau những mùa trăng, Tiếng đàn môi

sau bờ rào đá, Người đàn bà miền núi... là những tập truyện ngắn mở ra một không

gian bao la của núi rừng và cuộc sống sinh hoạt của cộng đồng người Mông, Tày,

Dao ở vùng cao núi đá Hà Giang. Mỗi câu chuyện Đỗ Bích Thuý kể là mỗi số phận,

mỗi cảnh đời ngang trái khác nhau. Trong bức tranh đó, chị tập trung khai thác chiều

sâu nội tâm của nhân vật - phần lớn là những người đàn bà với cuộc đời làm dâu, làm

vợ, làm mẹ âm thầm, chịu nhiều buồn tủi, đắng cay...”

Nhà phê bình văn học Lê Thành Nghị trong lời giới thiệu cho tập truyện ngắn

Tiếng đàn môi sau bờ rào đá, đã nhận định: “Một không gian đầy hoa lá rừng, có

tiếng gà gáy tách te trong bụi rậm, có những dòng suối trong suốt với những viên cuội

đỏ, có những chàng trai thổi sáo theo sau các cô gái khoác quẩy tấu xuống chợ, những

nồi thắng cố nghi ngút khói trong phiên chợ vùng cao đầy màu sắc, những đêm trăng

sóng sánh huyền ảo, những cụm mần tang mọc trong thung lũng, tiếng đàn môi réo rắt

sau bờ đá, lễ hội gầu tào với điệu hát gầu Plềnh mê đắm của những cô gái, chàng trai

trên đỉnh núi… Khát vọng về hạnh phúc, những tâm sự cháy bỏng về lẽ sống, ý thức về

những ngày hiện tại ở một vùng đất độc đáo, đầy kỷ niệm đã tạo ra trong ngòi bút của

Đỗ Bích Thúy niềm xúc động chân thành, chảy dào dạt trên trang viết…”[28, tr.5,10].

25

Với chủ đề miền núi trong sáng tác của mình, nổi trội nhất, cô đọng nhất, sâu

lắng và nhân bản nhất chính là những câu chuyện về thân phận người phụ nữ miền núi

với đầy đủ mọi cung bậc, nhưng trên nhất là bi kịch éo le. Phụ nữ miền núi là lực

lượng yếu thế trong xã hội, bị hoàn cảnh xô đẩy và kìm kẹp, họ phải sống trong chịu

đựng và tủi nhục. Ngay từ khi sinh ra, họ đã phải gánh chịu những mặc định của cộng

đồng, xã hội, của chuẩn mực, họ không được sống thực với chính cảm xúc của mình,

không được tôn trọng. Đó là nhân vật mẹ già lầm lũi với đôi bàn tay thô ráp héo lụi; là

cô Kim xinh đẹp nhưng lại có dòng máu màu đen trong người nên bị xa lánh; là Kía, là

Mai…và còn rất nhiều những thân phận phụ nữ khác.

Chính bản thân Đỗ Bích Thúy đã từng thổ lộ, chia sẻ để giải thích cho câu hỏi

tại sao người phụ nữ lại giành được nhiều sự ưu ái trong các sáng tác của mình đến

như vậy. Trong phần tựa cho truyện Người đàn bà miền núi, tác giả bộc bạch: “Cuộc

đời đàn bà buồn nhiều hơn vui, lo âu nhiều hơn mãn nguyện? Phải chăng vì, trời sinh

ra đàn bà để chẳng sống mấy cho mình? Cuốn sách này tôi vẫn dành cho những người

đàn bà. Người đã án ngữ trong kí ức của tôi về vùng đất thân yêu bạt ngàn cây rừng,

hoang vu gió, tầm tã mưa, sôi sùng sục nước dưới những dòng sông ngoằn ngoèo cuộn

chảy…"[30, tr.7-8].

Hình ảnh những người phụ nữ miền núi Đông Bắc luôn ám ảnh và xuất hiện

nhiều nhất, sâu đậm nhất trong các sáng tác của Đỗ Bích Thúy, nhà văn thấu hiểu thân

phận họ, trạng thái suy nghĩ, cùng với những ẩn ức mà họ phải chịu đựng, phải mang

theo và nặng gánh.

26

Tiểu kết

Trong đời sống con người, tùy vào từng môi trường, điều kiện hoàn cảnh mà

nảy sinh những trạng thái tâm lý khác nhau. Điều kiện môi trường xã hội thuận lợi sẽ

tạo nên trạng thái tâm lý tích cực, ngược lại, điều kiện không thuận lợi lại tạo những

trạng thái tâm lý tiêu cực. Trạng thái tâm lý tiêu cực lên đến đỉnh điểm nhất, không có

cách giải quyết, thoát ra được gọi là ẩn ức. Ẩn ức cũng rất đa dạng và có sự khác biệt

về giới, ẩn ức tính nữ là một trạng thái đặc biệt.

Trong đời sống văn học, đã có rất nhiều tác phẩm văn học khai thác chủ đề ẩn ức

tính nữ, phản ánh diện mạo và thực tế về số phận của những người phụ nữ trong từng thời

điểm xã hội và hoàn cảnh khác nhau, đặc biệt là những ẩn ức gắn với số phận của những

người phụ nữ dân tộc thiểu số khu vực miền núi phía Bắc. Thời phong kiến, xem nhẹ vai

trò của người phụ nữ, ép buộc họ sống trong khuôn khổ gò bó, thậm chí phi nhân tính,

bởi thế số phận của người phụ nữ trong thời đó hết sức bi đát, bị đè nén, áp bức, tủi

nhục và cam chịu. Đã có hàng loạt tác phẩm văn học trong thời kì này phản ánh “hình

ảnh” của những người phụ nữ đó. Sang thời hiện đại là mốc đánh dấu cho nhiều bước

ngoặt, chuyển hướng vĩ đại của nhân loại, trong đó có việc giải phóng con người cá

nhân. Trong xã hội, vị thế và vai trò của người phụ nữ được nâng cao hơn, nhưng họ

vẫn không thoát khỏi những mặc định hay định kiến ngàn đời của lịch sử để lại. Thêm

nữa, bối cảnh xã hội giai đoạn này cũng đổi thay và phát triển chóng mặt, đôi khi rối

ren, hay dở lẫn lộn, thế nên những ảnh hưởng tới thân phận con người cũng càng phức

tạp và khó giải quyết hơn.

Trong bối cảnh xã hội chung đó, khu vực miền núi và con người dân tộc thiểu

số được phản ánh khá nhiều trong đời sống văn học. Nổi bật là những tác phẩm của Đỗ

Bích Thúy viết về cuộc sống mưu sinh khó khăn, những vật lộn của con người để thích

nghi với hoàn cảnh nơi đây, nhất là số phận cùng những ẩn ức mà người phụ nữ miền

núi phải chịu đựng.

27

Chương 2

NHỮNG CẢM HỨNG ẨN ỨC NỮ TÍNH QUA SÁNG TÁC

CỦA ĐỖ BÍCH THÚY

2.1. Nền cảnh của miền núi Đông Bắc

2.1.1. Địa lý nhân văn

Đông Bắc bao gồm các tỉnh: Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Tuyên

Quang, Yên Bái, Lào Cai, Thái Nguyên, Phú Thọ, Bắc Giang, Quảng Ninh. Tổng diện

tích của toàn vùng chiếm tỷ lệ 16.7% so với diện tích cả nước. Về cấu tạo địa chất, địa

hình của vùng Đông Bắc, cao nhất là khu vực giáp biên giới Trung Quốc tại các tỉnh

Hà Giang, Cao Bằng và một phần Lạng Sơn, còn lại toàn bộ khu vực này đều là núi

trung bình, núi thấp và đồi bán sơn địa.

Với kiểu cấu tạo địa hình như trên, Đông Bắc là khu vực có nhiều cảnh sắc đặc

trưng, từ cao nguyên đá - với những ngọn núi hiểm trở, đá tai mèo sắc nhọn, xanh xám

tới những cung đường hiểm trở bậc nhất, giao thông đi lại hết sức khó khăn, do địa hình

bị chia cắt dữ dội. Điều kiện khí hậu của vùng Đông Bắc khá khắc nghiệt, nhất là về

mùa đông do các cánh cung hút gió và luồng khí lạnh tỏa khắp vùng Đông Bắc. Về mùa

đông, lượng nước ngầm sụt giảm, chính bởi thế, toàn bộ vùng này khá khô kiệt, nhất là

khu vực cao nguyên đá (Quản Bạ, Đồng Văn, Mèo Vạc, Yên Minh). Đông Bắc được

mệnh danh là vùng đất đầy nắng gió, khô cằn, khắc nghiệt, đầy rẫy những khó khăn

thiếu thốn với sự sinh tồn của con người.

Vì thế, chỉ có ở khu vực cao nguyên đá, ta mới bắt gặp cảnh con người vất vả và

chăm chỉ, khó nhọc kiếm tìm và gánh từng gùi đất lên đổ vào các hốc đá để canh tác,

dựng nương đá. Đất ở đây vô cùng quý hiếm, người ta nâng niu, vun trồng và tồn tại

bằng mồ hôi, nước mắt và cả máu. Con người nơi đây sinh ra từ đá và chết cũng vùi

trong đá. Cây rừng cũng hiếm, người ta phải rất vất vả kiếm tìm, tích lũy…mới có đủ

được chất liệu để dựng lên tổ ấm là ngôi nhà gỗ. Về mùa khô, từng đoàn người đi bộ

tới vài chục cây số với trang bị là can nhựa để tìm nguồn nước ngọt cho sinh hoạt gia

đình.

28

Với sự đa dạng về cảnh quan môi sinh, Đông Bắc cũng mang những đặc trưng

riêng về tiểu vùng địa lí - nhân văn. Vùng Đông Bắc được phân chia thành nhiều tiểu

vùng riêng, nếu tính từ Đông sang Tây thì có thể thấy được sự thay đổi rõ rệt của các

tiểu vùng, từ khu vực trung du, là vùng đệm tiếp giáp giữa vùng núi cao và đồng

bằng với cảnh quan đặc trưng là những đồi núi bán sơn địa. Càng theo chiều Tây

Bắc, địa hình càng cao dần và rõ rệt nhất là không gian cảnh quan núi. Cũng do điều

kiện địa hình chia cắt, nên có sự phân chia rõ rệt thành các tiểu vùng như: thung

lũng - gò đồi, tiểu vùng rẻo giữa và tiểu vùng rẻo cao. Hoặc mỗi khu vực riêng biệt

là một tiểu vùng như vùng bán sơn địa, vùng thấp trũng (thành phố Bắc Kạn, Cao

Bằng, Hà Giang…) và tiểu vùng rẻo cao (miền núi).

Trong phần lớn các sáng tác của nhà văn Đỗ Bích Thúy, chủ đề cuộc sống và

không gian núi được mô tả, phản ánh đều lấy bối cảnh và không gian thực của khu vực

miền núi Hà Giang. Hà Giang chính là nơi nhà văn sinh ra và lớn lên, cho tới khi

trưởng thành, nhà văn đã từng mô tả cái thung lũng nhỏ bé của gia đình mình là nơi

“thung lũng rộng rinh, cô đơn đầy gió”, bên dòng Lô Giang, mải miết chảy về xuôi.

Chính bởi thế, không gian của vùng núi Hà Giang, cuộc sống, con người miền núi, đặc

trưng văn hóa núi là những thành phần đậm đặc nhất trong các sáng tác của chị.

2.1.2. Không gian văn hóa

Chủ nhân của không gian văn hóa rộng lớn này là hàng loạt các cộng đồng dân

tộc thiểu số. Mỗi một dân tộc lại có một diện mạo riêng về đặc trưng văn hóa tộc

người, về lịch sử cư trú, không gian quần cư, phong tục - tập quán, ngôn ngữ, lối sống.

Chính bởi vậy, vùng Đông Bắc vô cùng đa dạng về sắc màu đặc trưng văn hóa.

Con người miền núi luôn mang sẵn trong mình đức tính cần cù, chịu khó; thật

thà, chân mộc trong cách ứng xử đồng thời cũng rất bản lĩnh, gan dạ trong đấu tranh

với thiên nhiên để duy trì cuộc sống. Họ sống chủ yếu ở những cao nguyên đá vôi,

quanh năm mịt mù sương trắng và phải hứng chịu những thảm họa từ thiên nhiên bất

kỳ lúc nào. Nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu mang nặng tính tự cấp tự túc cộng với

sự phân hóa xã hội ở mức thấp khiến người dân miền núi hạn chế trong tầm nhìn,

chân mộc trong giao tiếp và hiền hòa như cây lanh, cây bông trên núi cao. Chính nhà

văn Đỗ Bích Thúy đã dành nhiều ưu tư, tâm huyết về căn tính của con người miền

núi Đông Bắc trong các sáng tác của chị.

29

Trong tiểu thuyết Bóng của cây sồi, là cô Kim - một cô gái xinh đẹp nhất Lao

Chải, nhưng bị cả làng hắt hủi vì quá khứ của mẹ và bà ngoại Kim. Trước thái độ của

người làng và thất vọng với sự lựa chọn của Phù, Kim bỏ đi biệt tích, mấy năm sau trở

về với một đứa bé trai không có cha. Kim làm nghề mại dâm rồi bị bắt, sau đó quay trở

về ngôi nhà mục nát để sống tiếp. Kim đã được những người phụ nữ già cả trong bản

cưu mang, thương xót: “Đã một tháng nay mẹ con Kim sống bằng thóc gạo của người

làng. Mấy bà già thương thằng bé, dấm dúi túm gạo vào khăn, mỗi người mang cho

một ít. Lần nào nhận gạo của các bà Kim cũng khóc ròng” [29, tr.251]. Dù sao đi nữa

đó cũng là đứa con của núi rừng, cùng uống chung một dòng suối, đi chung một con

đường và khi cất tiếng khóc chào đời đều được sự chứng kiến của rừng xanh nên việc

cưu mang là điều cần thiết. Lòng tốt của con người miền núi nảy sinh một cách tự

nhiên, không ồn ào, khó hiểu như những vách đá sâu dựng đứng giữa trời. Miêu tả tính

thiện trong sâu thẳm con người miền núi, Đỗ Bích Thúy dành nhiều quan tâm cho

người phụ nữ. Khi Kim bị bắt vì vụ ăn trộm máy bơm nhà Phấn, cả làng “lũ lượt kéo

đến xem mặt đứa ăn cắp. Biết nhau cả, nhưng vẫn muốn xem cái đứa đi ăn cắp rồi thì

mặt nó có khác đi không” [29, tr.12] thì bà Mẩy - một phụ nữ dân tộc thuần phác, chưa

bao giờ ra khỏi bản, cả đời úp mặt trên những ngả nương đã bước tới “buộc tóc, vấn

khăn lại cho Kim” như Kim là con gái ruột thịt của mình vậy. Sự đồng cảm về thân

phận người phụ nữ đã khiến bà Mẩy có những hành động mang tính cứu rỗi tình yêu

thương đối với một cô gái gặp nhiều bất hạnh. Đó chính là tình người ấm áp giữa

giăng giăng giông bão nơi xó núi Lao Chải.

Lòng nhân bản của con người miền núi còn được thể hiện trong tình nghĩa vợ -

chồng, bà - cháu qua những trang văn đẫm nước mắt Lặng yên dưới vực sâu. Người bà

ấy đã dành cả cuộc đời xuân sắc và khổ hạnh của mình để lo cho chồng, cho con cháu

giờ đây đã ngã xuống như cây ngô bị trẩy hết bắp. Vậy mà đến lúc gần kề cái chết, bà

vẫn bận tâm về cuộc sống của những người ở lại, vẫn lo chuyện giặt áo cho chồng, làm

mèn mén cho cháu nội. Ý nghĩa cuộc sống của người đàn bà này dội lên trong tâm

thức chúng ta về lòng vị tha trong cuộc sống.

Người miền núi là những con người yêu thích tự do, độc lập, tâm hồn phóng

khoáng, yêu lao động, cần cù nhẫn nại trong đấu tranh với thiên nhiên khắc nghiệt. Họ

yêu thích văn nghệ, hòa nhập ân tình với nhau trong quá trình xen cư và giao lưu văn

30

hóa. Họ giữ một vị trí quan trọng trong đời sống văn hóa, kinh tế, an ninh ở vùng rẻo

cao biên giới Việt Nam. Trong mỗi cuộc đương đầu với khó khăn, họ luôn có sẵn

trong mình tấm lòng chân thành, sự cam chịu vốn là “thiện căn” tự có trong mỗi con

người. Lòng tốt không cần đáp trả đó có lẽ là mẫu số chung về bản chất con người

miền núi.

Con người miền núi tin thờ và kính sợ tất cả các loại thần linh. Và thần linh vĩ

đại nhất của người vùng cao là Trời. Trời là vị thần tối thượng chi phối thế giới thần

linh và cả thế giới con người. Nơi những cánh rừng nguyên sinh miền núi cao, cây

sồi được coi là biểu tượng của người đàn ông. Sức sống và sự sinh sôi phát triển của

nó tạo dựng niềm tin về sự thịnh vượng tộc người trong tâm thức mỗi người dân.

Đến khi cây sồi già, rụng lá và chết đi, đồng nghĩa với việc một người đàn ông quan

trọng nào đó đã rời bỏ bản làng. Đỗ Bích Thúy đã từng miêu tả về biểu tượng cây

sồi: “Đã nhiều năm trôi qua, cây sồi này già, rồi chết, rồi khô xác, không còn một

mảnh vỏ, đến cả những sợi rễ vững chãi ăn sâu xuống lòng đất ẩm ướt cũng đã đứt

thành nhiều đoạn, nhưng cái bóng của nó thì không ai xoá đi được. Ngay cả anh,

người đàn ông duy nhất còn lại của dòng họ, cũng không đi qua được nó, không vượt

qua được cái ranh giới mà bóng cây sồi đã in xuống vùng thung lũng rộng không đầy

một sải chim bay này” [29, tr.5].

Từ bao đời nay, trong suy nghĩ của người Mông, người Tày, rừng mả là một

khu vực địa lý đặc biệt, dành cho những người chết có được nơi an nghỉ sau khi kết

thúc sự sống. Họ tin rằng “tất cả những con gà trống được người chết mang theo đám

ma sau này đều hoá thành một loài chim ăn đêm và chúng cất tiếng gáy lúc nửa đêm,

khi còn lâu trời mới sáng. Từ trong làng, đêm nào những người già mất ngủ nghe thấy

tiếng gà the thé cất lên, nửa giống tiếng tắc kè, nửa giống tiếng chim lợn là biết rằng

sắp đến lúc mình cũng đi vào rừng mả. Và chỉ những người sắp từ giã cuộc sống mới

nghe được tiếng gà gáy cất lên từ rừng mả” [29, tr.71].

Màu sắc tâm linh được khắc họa trong Bóng của cây sồi: “Huyền thoại thứ nhất

nói về “hai cô gái đẹp vì không nghe lời tri châu bắt về làm vợ mà bị ném xuống sông

Lô. Hai cô trôi qua, dạt vào bến đò Lao Chải, dân bản thương đem lên núi chôn để

làm gương cho con gái mới lớn. Cùng năm ấy, cả một vùng rộng lớn xung quanh

Thanh Vân bị lũ tràn ra từ trong khe núi, từ rừng, từ trời, cuốn sạch nhà cửa trâu bò,

31

chỉ mỗi Lao Chải không việc gì, người làng cho rằng đấy là do hồn hai cô gái trên núi

tìm cách trả ơn nên đã làm một cái nhà bằng đá lợp lá cọ để hai cô có nơi đi về” [29,

tr.120]. Huyền thoại thứ hai kể chi tiết về dòng sông Lô và cái chết của con thuồng

luồng “Thuồng luồng chết, xác hoá thành gò đất dài nằm dọc bờ suối mà đám đàn bà

hay ra phơi váy, còn linh hồn đi lang thang, nhưng vài năm lại quay về làng một lần.

Lần ấy, không cách này hay cách khác, sẽ lấy đi một đứa trẻ, coi như cái giá mà người

Lao Chải phải trả cho nó vì đã ăn ở, canh tác trên mảnh đất của nó. Thầy mo của Lao

Chải thì bảo không phải, đấy là chuyện bậy bạ, không tin được. Nhưng đúng là thỉnh

thoảng làng lại có trẻ con chết, thường là chết đuối vào mùa hè lúc rủ nhau ra sông

hụp lặn. Cũng có đứa chết trên rừng vì cây đổ, nứa xiên” [29, tr.273-274].

Niềm tin tâm linh còn được thể hiện ở việc một cộng đồng ổn định phải có sự

quản lý của già làng trong Bóng của cây sồi; việc có con trai nối dõi trong Tiếng đàn

môi sau bờ rào đá; cúng mo để xua đuổi tà ma trong Đi qua ngày sang đêm… Đặc biệt

là cách ứng xử với cái chết của mỗi thành viên trong bản làng: “Ở làng tôi chỉ được

nghe tiếng tù và trong những ngày làng có người chết. Mẹ tôi bảo đấy là lời người

sống an ủi người chết. Chỉ có ngày em Thi chết là vắng tiếng tù và. Trẻ con chết là trái

với luật đời, thế nên chỉ lặng lẽ đi thôi, không được mang cây tù và trong nhà trong họ

ra thổi” [27, tr.187].

Người già miền núi đã tự đúc kết cho mình một chân lý: “Nếu như ngọn gió này

không còn thì dòng sông sẽ lặng tờ, chỉ có tiếng nước sôi ùng ục như đặt trên bếp lửa;

Nếu như ngọn gió này không còn thì ánh vàng lấp lánh từ mặt trời, ánh bạc lấp lánh

từ mặt trăng sẽ không bao giờ trở lại trên mặt nước; Nếu như ngọn gió này không còn

thì những chiếc lá úa vàng và những quả chín nẫu sẽ không bao giờ tạt xuống mặt

nước, làm cho từng đàn cá bống nhớn nhác lên; Nếu như ngọn gió này không còn thì

những bắp chân trắng nõn sẽ giấu mãi trong gấu váy, những nắm rêu sẽ rối tung trong

xoỏng; Và nếu như ngọn gió này chỉ một lần thổi tới từ thượng nguồn và một lần duy

nhất trôi trên dòng nước về hạ nguồn, rồi không khi nào trở lại nữa thì chính dòng

sông sẽ không còn”[29, tr.103-104].

Niềm tin ấy gánh được linh hồn, hơi thở, dáng vóc của các dân tộc. Trải qua

bao thăng trầm lịch sử, bao lớp trầm tích văn hóa, con cháu miền núi vẫn tìm thấy

32

niềm an ủi và đồng vọng với những tâm tư, tình cảm của mình trong di sản văn hóa

truyền thống của cha ông.

Tuy nhiên, trong không gian riêng đó, bị ngăn trở, tách biệt so với các khu vực

khác nên những con người miền núi cũng là nạn nhân của hủ tục lạc hậu, cuộc đời họ

thường gắn với số phận bi kịch. Đỗ Bích Thúy đã đưa vào trang văn những bi kịch

mang tính cá nhân xuất phát từ sự hẹp hòi dân tộc. Cô Kim trong Bóng của cây sồi vừa

đẹp người đẹp nết nhưng bị cả làng hắt hủi chỉ vì quá khứ đau buồn của người mẹ.

Đám ma của mẹ Kim chính là một ví dụ tiêu biểu cho hệ thống quan niệm hẹp hòi của

người dân miền núi, những quan niệm cổ hủ đã bóp chết quyền được hòa nhập của con

người vào xã hội. Người mẹ ấy đến khi chết vẫn phải chịu cảnh cô độc và rẻ rúng:

“Chỉ có duy nhất một cái quan tài, không có nhà táng, không có đón rước ông Then.

Kim mang đi một con gà, cái nồi, cái bát, đôi đũa, quẩy tấu, dần sàng, ít gạo... đấy là

phần dành cho mẹ mang theo xuống đất. Nhưng nước mưa làm cho tất cả đều ướt, cả

con gà trong lồng cũng ướt lướt thướt” [29, tr.21]. Người mẹ khốn khổ ấy khi đối mặt

với cái chết có lẽ vẫn mang nặng tủi cực trong mình vì sự hắt hủi của cộng đồng.

Trong mỗi chúng ta có lẽ ai cũng đều ngỡ ngàng khi đọc truyện ngắn Cột đá treo

người viết về thời trước cách mạng, thời mà các lý trưởng là trung tâm của làng quê

Việt Nam, kể cả miền xuôi lẫn miền ngược. Đây là câu chuyện kể về cây cột đá có thật

ở Đồng Văn, về một anh Vàng, anh Sàng ở trong bản người Mông. Họ chỉ cần làm trái

ý lý trưởng là bị hắn đem treo lên cột đá cho quạ rỉa. Thân phận con người không có

giá trị bằng con bò, con ngựa trong nhà địa chủ… Ở đây ai muốn làm người thì phải

vùng lên và nếu vùng lên không được thì phải trốn vào rừng làm phỉ.

Qua những sáng tác của Đỗ Bích Thúy, hình ảnh con người hiện lên vừa chân

mộc nhưng cũng đầy xót xa. Đó là những con người cả đời úp mặt trên những cánh

đồng anh túc, tam giác mạch, đi ở đợ cho nhà giàu và chết trong cô quạnh. Không ai

khác, họ chính là nạn nhân của những ràng buộc khắt khe đã trở thành thâm căn cố đế

trong xã hội miền núi. Tình yêu của Phù và Kim trong Bóng của cây sồi đã bị cả một

hệ thống luật tục Lao Chải ghì riết cho tan nát, chỉ vì người dân Lao Chải nghĩ rằng

Kim là con thú hoang không có bố, dòng máu chảy trong trong người Kim là dòng

máu đen ma quỷ. Họ đã phải sống một cách âm thầm, dằn vặt đau đớn, và đi qua cuộc

đời nhau như những cái bóng. Đặt ra vấn đề này, Đỗ Bích Thúy động chạm đến một sự

33

thật đau xót, một dự cảm về quyền sống của con người vốn khổ đau trong quá khứ. Họ

không dám và không đủ sức vượt qua những quy định hà khắc của lễ giáo phong kiến.

Sống cam chịu và nhẫn nhục trong sự bủa vây của sự áp bức, bất công triền miên, cả

đời phải vùi mình trong nước mắt mà đến khi chết vẫn không biết đến một ngày thanh

thản. Có lẽ cũng bởi vì thế mà con người miền núi hạn chế về tầm nhìn.

Truyện Tiếng đàn môi sau bờ rào đá của Đỗ Bích Thúy là những tráng ca đau

buồn về số phận con người của cao nguyên đá. Câu chuyện không chỉ âm thầm soi vào

những ý nghĩ coi Hà Giang như “là vườn ổi hoang, ai thích đến hái thì cứ hái như trẻ

chăn bò”. Tới cao nguyên đá tá túc và xây cơ dựng nghiệp nhưng có nhiều người

chẳng khác nào “con thú hoang ở đâu lạc tới”. Và khi cần phải bỏ đi, họ sẵn sàng vứt

con đẻ ở lại và dắt theo những con bò. Cứ thế, Hà Giang vật vã mãi như thân phận của

mẹ già không thể sinh nở, lạc lõng, héo hon. Người đàn bà vô sinh, cô quả câm lặng

như cái tảng kê chân cột nhà chồng.

Những đặc trưng riêng biệt về văn hóa vật chất và tinh thần của con người miền

núi Đông Bắc cũng được mô tả trong các sáng tác của Đỗ Bích Thúy. Nhà văn rất tinh

tế trong việc chọn và lấy những tập tục, thói quen, lối sống của con người nơi đây làm

nền cảnh để dựng lên những câu chuyện sống động và chân thực. Trong các sáng tác

của chị, đời sống văn hóa vật chất của người miền núi thể hiện chủ yếu ở đời sống sinh

hoạt và phương tiện sản xuất. Đến nơi miền cao nguyên với những mảng núi đá tai

mèo, hình ảnh nhận biết được trước hết là những cây lương thực chính như ngô, sắn,

khoai, lúa nương; thực phẩm gồm rau xanh, dê, lợn, gà, bầu, bí… và những loại cây

nguyên liệu dùng dệt vải như lanh, đay. Đời sống kinh tế - vật chất của họ rất đạm bạc,

giản dị, nhưng lại mang nhiều sắc thái độc đáo phù hợp với tâm lý người bản địa: thích

ăn cơm nếp, uống rượu ngô, ở nhà sàn, nữ mặc váy, nam mặc xà cạp quấn khăn... Ở

vùng Đông Bắc, rượu ngô đã trở thành một mã văn hóa của các dân tộc thuộc nhóm

Mông - Dao, kỹ thuật nấu rượu ngô cũng thể hiện tinh hoa văn hóa trong nghệ thuật

ẩm thực của các dân tộc: “Ngô để dành nấu rượu là ngô trồng trên những hốc đá cao

nhất, nơi thừa nắng thiếu nước, có thế bát rượu đầu tiên chảy ra đem đốt mới cháy

đùng đùng cho ngọn lửa xanh lè mới được”.

Văn hóa vật chất các tộc người thiểu số là biểu hiện cụ thể của cách thức canh

tác theo mùa vụ: “Mọi năm, trước khi ngày hội bắt đầu người ta đã lấy xuống những

34

cái cày treo trên gác chuồng trâu từ cuối vụ trước, xem lưỡi cày nào cùn mòn quá thì

thay lưỡi mới, đánh cho nó sáng bóng lên. Hội kết thúc cũng là lúc cả làng kéo nhau

ra đồng, người đàn ông chủ nhà sẽ đặt những đường cày đầu tiên xuống mặt đất đang

tơi dần, lật lên những gốc rạ hoai mục. Đàn bà con gái thay ra bộ váy áo đang mặc,

giặt giũ, phơi phóng, cất đi, mặc váy áo cũ, mang thóc giống ra ngâm, chuẩn bị nhổ

cải ngoài vườn, bó thành từng bó lớn những cành cải nặng hạt, mang phơi lên hàng

rào, để năm sau có giống...”[29, tr.280-281].

Cách thức canh tác thổ canh hốc đá là một sự thích ứng nơi địa hình khắc

nghiệt, mặt khác phản ánh sự sáng tạo trong lựa chọn loại hình canh tác của người dân

miền núi. Bên cạnh chăn nuôi và trồng trọt, người Mông miền núi Hà Giang còn là tác

giả - nghệ nhân của những giọt mật ong nổi tiếng khắp miền sơn cước: “Người Mông

nào cũng biết mùa hoa bạc hà gắn liền với mùa ong. Khi bạc hà nở rộ khắp núi rừng

một màu tím biếc trong tiết trời trở lạnh cũng là lúc ong lũ lượt kéo về. Mật ong được

làm từ hoa bạc hà cũng là mật ngon nhất. Thứ mật hơi có màu xanh, càng giữa mùa

bạc hà nở rộ mật càng xanh. Pha một chén mật ong vào chai rượu thì đàn bà đàn ông

gì cũng chỉ một chốc là say mèm” [30, tr.59].

Trải qua quá trình lao động lâu dài, quan sát và nắm bắt những quy luật của tự

nhiên, người Mông mới có thể tạo ra được những sản phẩm tinh túy như thế. Hơn nữa,

trong quá khứ và hiện tại, người Mông là chủ nhân của không gian miền núi phía Bắc

với những anh hoa văn hóa đặc sắc và nguyên thủy.

Nhà ở của người miền núi bao giờ cũng nằm “chênh vênh trên núi cao, già nua,

cũ kỹ và nhỏ nhoi”, như chính lịch sử của miền đất đó, nhưng có khi lại là những ngôi

nhà đá chứa thóc lúa của nhà giàu “Dưới kia, cả thung lũng, những ngôi nhà bằng đá,

cửa gỗ lim chứa ngô lúa, những ngôi nhà dài, cao rộng đang mù mịt trong khói lửa

ngút trời, mùi thóc nếp, mùi ngô bị đốt cháy khét, tiếng trâu bò gà lợn rống lên điên

cuồng…” [28, tr.149].

Một hình ảnh nổi bật nữa là sắc chàm trên những bộ váy áo Tày, sự tinh tế trên

những bộ váy lanh của phụ nữ Mông ngày xuống chợ “Trong cái hòm ấy, mẹ già cất

một bộ váy áo đẹp lắm, thêu bảy màu như cầu vồng, mẹ bảo khi nào con May lấy

chồng thì mẹ cho mang theo” [28, tr.15].

35

Với sức sống mãnh liệt và sự sáng tạo, từ chính môi trường sống và hoạt động

mưu sinh thường nhật, con người miền núi đã tạo nên những đặc trưng văn hóa riêng.

Từ cách xếp những bờ rào đá của những người đàn ông đến cách xe lanh của người

phụ nữ đều mang hơi thở, linh hồn của núi rừng và là hiện thân tiêu biểu của một nền

văn hóa vật chất rực rỡ. Sống trên mênh mông đá, điêu khắc ấn tượng của Hà Giang có

thể là những chân tảng đá được cách điệu hình quả thuốc phiện ở nhà Vương hay chiếc

cối đá trên sân một tư dinh ở Sủng Là.

Do những hạn chế về giao thông và những dịch vụ xã hội, văn hóa vật chất tộc

người thiểu số là biểu hiện sinh động của một nền kinh tế khép kín. Đâu đó trong quá

khứ và hiện tại, cây thuốc phiện đã trở thành thứ hàng hóa kinh tế quan trọng giờ đây

đang được loại bỏ để thay thế bằng những loại cây có giá trị kinh tế như cải dầu, tam

giác mạch… Cộng đồng các dân tộc thiểu số chủ yếu sống trong khung cảnh vùng

cao heo hút và từ rất lâu rồi, được xem là đại diện cho một sắc thái, một nếp sống rẻo

cao với tình cảm cộng đồng lớn, với sự mộc mạc trong tư duy đang sống một cách

kiêu hãnh trong hiện tại. Ẩn tàng sau biểu hiện vật chất còn nghèo nàn, mang nặng

tính tự cấp tự túc ấy là một đời sống tâm linh phong phú, bí ẩn mà bất cứ một ai bước

vào cũng thấy ngỡ ngàng và lý thú.

Văn hóa tinh thần của cộng đồng các dân tộc vùng Đông Bắc được biểu hiện rõ

nhất thông qua những nét đẹp văn hóa - văn nghệ dân gian, phong tục tập quán của

người dân tộc. Các giá trị văn hóa tinh thần đó được nhà văn Đỗ Bích Thúy lựa chọn

và mô tả rất thành công trong các tác phẩm của mình. Đó có thể là những khúc ca dân

gian đã lưu lại bao đời nay trong kho báu của người Mông: “Có tiếng gì như tiếng sáo

lẫn trong tiếng gió bấc đầu mùa, len qua từng khe nứt nhỏ tí trên tường đất, lọt vào tai

Súa. Đúng tiếng sáo rồi. Mỗi lúc một rõ hơn, nhất là những khi tiếng gió ngừng bặt.

Là một khúc trong khơ chìa planh: “Khi buổi sớm tinh mơ đôi ta cầm tay nhau dạo

bên bờ giếng nước, e rằng con chim dìa - cơu ung dung bay qua uống phải, sẽ rung

động chín mươi tám trái tim” [30. tr.11] hay là tiếng đàn môi “Nhưng vừa nằm một

lúc, chập chờn ngủ thì May nghe có tiếng đàn môi cất lên. Tiếng đàn môi ngay ngoài

cổng gỗ chứ không gọi ở đầu nhà như lần trước. May định mặc kệ, vừa mới chào

nhau, mùi tóc quen quen còn chưa bay hết, lại buồn ngủ nữa. Nhưng tiếng đàn cứ gọi

mãi, gọi mãi, mà tiếng đàn môi đêm nay cũng có gì khang khác, dài hơn, trầm hơn,

36

ngập ngừng hơn, vẫn tràn qua bờ rào đá vừa dày vừa cao như suối chảy…” [28,

tr.31]; những câu hát Páo dung của người Dao mỗi lúc lại được vang lên như chất men

say huyền thoại: “Người Dao là con chim xanh, gặp quả thì ăn, gặp nước thì uống.

Bay hết cánh rừng này đến cánh rừng khác”, rồi đến điệu Lượn Cọi Tày thiết tha, sâu

lắng được cất lên từ ngọn nguồn dân tộc: “Thương căn thương hẩu nắc/ Nặm khẩu băc

nhá xâm/ Thương căn thương hẩu hâng/ Nặm khẩu xâng nhá lúa... (Thương nhau

thương cho đặng/ Như nước vào vợt không chảy/ Thương nhau thương cho lâu/ Như

nước vào nia không thấm...).

Nhằm nắm bắt cái gốc rễ, sâu xa mang tính bản sắc của văn hóa miền núi, Đỗ

Bích Thúy đã hướng ngòi bút của mình vào việc khai thác những cứ liệu về văn hóa

tâm linh. Trong quan niệm truyền thống của người Mông, khi nhà có người ốm phải

mời thầy mo về cúng để xua đuổi tà ma, đó là khi già làng Phủ bị ốm: “Già làng Lao

Chải mắc bệnh nặng, bụng trương to như nuốt một cái chảo. Thầy mo đến, nhà mổ

một con trâu đực, bụng già làng vẫn to. Mổ tiếp một con dê nữa, cái bụng vẫn không

chịu bé đi. Được năm ngày, thầy mo đã lồi cả mắt ra, đứng không vững nữa thì bụng

già làng tự dưng khắc xẹp xuống. Bụng già làng xẹp xuống, miệng ăn được nửa bát

cháo rồi, mắt sáng lại rồi nhưng Phù không thấy yên lòng” [29, tr.34]. Cảm thức

huyền bí nơi đại ngàn u linh đã khiến con người nơi đây tin vào những điều tưởng như

không hề hiện hữu trong thực tế. Đó là niềm tin tôn giáo khởi nguồn từ tín ngưỡng vạn

vật hữu linh đã được cất giữ qua quá trình di dân và đấu tranh nhằm xác lập sự sống

của các dân tộc. Chi tiết rừng mả thật sự là một mã văn hóa khi nói đến văn hóa miền

núi: “Rừng mả chỉ có người đặt chân đến khi trong họ có người chết, rồi cứ theo vị trí

định sẵn mà đặt xuống. Trong rừng mả nhà ông Tần bia đá tấm lớn tấm nhỏ nằm rải

rác mỗi nơi một chiếc, còn một ngôi nhà mồ chưa kịp mục nát vì mưa gió… Có người

nói rằng, tất cả những con gà trống được người chết mang theo đám ma sau này đều

hoá thành một loài chim ăn đêm và chúng cất tiếng gáy lúc nửa đêm, khi còn lâu trời

mới sáng. Từ trong làng, đêm nào những người già mất ngủ nghe thấy tiếng gà the thé

cất lên, nửa giống tiếng tắc kè, nửa giống tiếng chim lợn là biết rằng sắp đến lúc mình

cũng đi vào rừng mả. Và chỉ những người sắp từ giã cuộc sống mới nghe được tiếng

gà gáy cất lên từ rừng mả” [29, tr.70-71]; hình ảnh chiếc cột đá treo người trong

truyện ngắn cùng tên cũng gợi lên trong chúng ta những suy nghĩ về một tập tục xưa

37

cũ hay tập quán không được thổi tù và trong đám ma của trẻ con người Mông trong

truyện ngắn Đi qua ngày sang đêm cũng là những mô thức văn hóa đã ăn sâu vào nếp

nghĩ ngàn đời.

Tầng sâu văn hóa tinh thần người dân miền núi được thể hiện phong phú, sống

động qua các lễ hội truyền thống. Với người Tày là Lễ hội Lồng tồng (xuống đồng)

trong những ngày đầu xuân để cầu mong mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, con

trai con gái được gặp nhau, tung quả còn tìm người tri kỷ: “Những quả còn làm bằng

vải màu, gắn tua rua rực rỡ đang đâm cả vào nhau trên cao nhưng vẫn chưa có ai

ném trúng, làm rách cái mâm đỏ để nhận phần thưởng. Hình như năm nay cây còn

làm cao hơn mọi năm nên cả những người được coi là khoẻ nhất, tinh nhất, khéo nhất

đã vào cuộc mà chưa ai thắng” [29, tr.282]; với người Mông là Chợ tình Khau Vai nổi

tiếng diễn ra vào ngày 27/3 hàng năm dành cho những đôi trai gái yêu nhau nhưng

không đến được với nhau qua những câu hát đối đáp mộc mạc và chén rượu dâng đầy:

“Ai cũng biết mang rượu đi chợ hai bảy để người bán người mua uống cùng với nhau.

Uống cho say rồi người mua không nhớ trả tiền cũng được mà nhớ nhưng trong túi chỉ

còn vài đồng không đủ mua túi muối, mang ra trả cũng được… Cả năm cúi mặt ngoài

nương, cúi mặt vì hạt ngô hạt đậu, về nhà cúi mặt vì con lợn con gà, mãi mới có lúc

thảnh thơi…” [28, tr.18].

2.2. Người phụ nữ miền núi Đông Bắc

2.2.1. Những kiến tạo của người phụ nữ trong đời sống vật chất

Khởi thủy của nhiều nền văn hóa đều cho thấy vai trò quan trọng của người phụ

nữ đối với sự kiến tạo các giá trị từ vật chất tới tinh thần. Chế độ mẫu hệ vốn có lịch

sử rất xa xưa. Lý giải về điều này, các nhà khoa học cho rằng nguồn gốc của chế độ

mẫu hệ có thể tìm thấy trong chế độ quần hôn của "thời đại mông muội". Năm 1891,

trong công trình “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước”, F.

Engels đã dẫn lại một đoạn mô tả của A-gát-xi-dơ trong cuốn “Cuộc hành trình đến

Brésil” (1886) về hình thái quần hôn ở các cư dân Brésil bản địa: "Những người đàn

bà In-đi-an hay những người đàn bà lai bao giờ cũng nói như thế về những đứa con đẻ

hoang của mình "Nó không có cha đâu, nó là đứa con do ngẫu nhiên mà có đấy", mà

không hề thấy xấu hổ hoặc ngượng ngùng; và điều đó không có chút gì là lạ cả; ngược

38

lại thì mới là điều ngoại lệ. Con cái thường chỉ biết có mẹ vì chỉ có mẹ là người phải

gánh lấy mọi sự lo lắng và trách nhiệm; con cái không biết gì đến cha cả; và hình như

không bao giờ người đàn bà nghĩ rằng mình hoặc con cái của mình lại có quyền đòi

hỏi gì đối với người cha cả.

Tương ứng với các hình thái hôn nhân nguyên thuỷ như quần hôn, hôn nhân đối

ngẫu... là sự phân công lao động sơ khai theo giới tính: nam giới săn bắt và bảo vệ bầy

đàn - thị tộc; nữ giới hái lượm, gieo trồng để bảo đảm nguồn thực phẩm thường xuyên,

giáo dục con cái, trông nom nhà cửa, điều khiển công việc và điều hoà quan hệ giữa

các thành viên... Con cái sinh ra chỉ biết có mẹ chứ không biết rõ về cha, nguồn thực

phẩm do người phụ nữ hái lượm gieo trồng ít bấp bênh hơn sản phẩm săn bắt của nam

giới nên có thể nói chính chế độ quần hôn và loại hình kinh tế săn bắt, hái lượm của

thời nguyên thuỷ đã khiến cho vai trò của người mẹ trong gia đình trở nên trọng yếu.

Từ đó mà hình thành chế độ mẫu hệ.

Việt Nam, xét về văn hoá tổ chức đời sống cộng đồng dựa trên tương quan

nam nữ, đang tồn tại cả ba chế độ gia đình phụ hệ, song hệ và mẫu hệ, không kể những

hình thức chuyển tiếp, tàn dư. Trong đó, phổ biến nhất là chế độ gia đình phụ hệ.

Hoàn cảnh xã hội đã làm mất đi hình ảnh và vị thế gốc trong nền văn hóa cội rễ

của dân tộc, nhưng cho đến nay, thực tế đời sống vẫn cho thấy vai trò quan trọng của

người phụ nữ trong đời sống cộng đồng, và trên mọi bình diện cuộc sống, nhất là hình

ảnh về người phụ nữ miền núi Đông Bắc. Trong đời sống mưu sinh thường nhật,

những người phụ nữ là lực lượng chính đảm nhiệm công việc vun vén chăm sóc gia

đình, con cái, lo toan và chủ động chuyện nương rẫy, gieo trồng, chăm sóc cây trồng,

vật nuôi. Người phụ nữ hoàn toàn chủ động mọi việc còn người đàn ông chỉ giữ vai

trò phối hợp trong các hoạt động đó.

Không phải ngẫu nhiên mà từ “mẹ” - tức gắn với thiên chức của người phụ nữ

lại được sử dụng với tần phổ rộng để gọi tên và chỉ về các hiện tượng đời sống nhiều

đến thế, trong đó có chỉ về hạt giống. Họ coi hạt giống là thiêng liêng và cũng có linh

hồn, những hạt giống đó được coi như “hạt mẹ” và phải thờ mẹ lúa một cách kính

cẩn. Người phụ nữ bảo quản và cất giữ hạt giống, thậm chí ngủ chung với hạt giống,

là nhân tố cộng sinh để thúc đẩy hạt giống nảy mầm. Giữa nền cảnh hùng vĩ nên thơ

39

của núi rừng vào độ xuân về, là bóng dáng sự tần tảo duyên dáng của những người

phụ nữ miền núi, từ sớm tinh mơ, cho đến khi bóng núi đã phủ khắp bản làng.

Chăm sóc và theo dõi từng chu trình phát triển của cây trồng mùa vụ, những

người phụ nữ luôn biết lúc nào là thời điểm tốt nhất để trồng ngô, tra hạt đỗ trên

nương, khi nào gieo bí trên rẫy, lấy hạt giống dưa trộn lẫn tro bếp để rắc trên nương,

hay chọn một vạt đất trồng lanh…Trong cái nắng gió khắc nghiệt của đá núi, không

gian núi, khi cây trồng xanh mướt phủ kín những nương đá, người phụ nữ cặm cụi, mồ

hôi nhễ nhại đang cào cỏ, vun gốc, gương mặt bừng đỏ vì nắng trên cao…

Trong màu khói lam chiều lúc hoàng hôn phủ xuống bản, người phụ nữ vội vã

trở về, lặc lè gùi gánh, bó cỏ phủ kín cả thân hình, họ nhanh chóng khuất lấp sau cánh

cổng gỗ được mở. Những người phụ nữ lại chuyển sang không gian gia đình, với bao

bộn bề lo toan, lo cơm tối, cho lợn và dê ngựa ăn, chuẩn bị làm rau nấu cám cho lợn.

Họ cặm cụi trong bếp, trên những chiếc chảo lớn, người phụ nữ gắn với cái bếp lò của

gia đình, gắn với bếp núc và chăn nuôi.

Sự chủ động và chu đáo trong gia đình của người phụ nữ thể hiện rõ nhất qua

những phiên chợ vùng cao. Họ dậy sớm, chuẩn bị các sản phẩm dư dật trong gia đình

để đem ra chợ, đôi khi chỉ là ít rau cải, vài quả bí ngô, ít trứng gà, hoặc họ làm bánh,

nấu rượu…Họ bán những sản phẩm đó và mua các nhu yếu phẩm cần thiết cho gia

đình như dầu đèn, mắm muối…phân bón và nông cụ. Tâm thế của người phụ nữ khi

đến với chợ phiên hoàn toàn khác so với đàn ông, họ phải mang gánh nặng gia đình,

lo toan cho cuộc sống gia đình, trong khi đó đàn ông đi chợ chủ yếu là để chơi, để gặp

gỡ bạn bè, uống và say rượu…

Ngay cả trang phục mặc trên người của các thành viên trong gia đình cũng có

được từ bàn tay và khối óc của người phụ nữ miền núi. Từ chất liệu trong tự nhiên là

lanh, là chàm, với bàn tay tài hoa của mình, người phụ nữ dệt nên vải, nhuộm màu cho

vải, tạo hoa văn cho vải…và dệt thành váy áo, mũ khăn. Những người phụ nữ dù bận

bịu hay lúc nghỉ ngơi, trên nương rẫy hay lúc xuống chợ, trên tay họ bao giờ cũng

mang theo cuộn lanh thô để tước sợi. Từ những sợi lanh đứt đoạn, họ nối kết lại, dệt

nên khổ vải, từ thô mộc khô cứng, qua bàn tay họ đã biến thành mềm mại óng tơ, từ

không màu sắc, qua đôi bàn tay nhuộm chàm để nên màu biểu tượng của vùng đất này,

từ màu trơn, cũng qua đôi bàn tay và khối óc sáng tạo, họ dệt vào đó những hoa văn,

40

họa tiết, biểu tượng. Trang phục chính là văn hóa, là sự sáng tạo và sản sinh văn hóa

của con người - những người phụ nữ miền núi Đông Bắc.

Trong những ngôi nhà của gia đình, luôn là hình ảnh người phụ nữ tần tảo.

Những bữa ăn gia đình với chất liệu là ngô bột (mèn mén), cũng do người phụ nữ tách

hạt, xay vỡ và đồ lên. Họ phải thức dậy từ sớm tinh mơ để chuẩn bị bữa ăn cho cả gia

đình, người phụ nữ cũng luôn gắn với hình ảnh chiếc cối xay ngô. Và cũng từ chất liệu

chính tạo nên sự sinh tồn của con người ở núi là ngô, người phụ nữ không chỉ chuyển

hóa thành thức ăn (mèn mén) mà thành cả thức uống đặc trưng của miền cao nguyên

đá - đó là rượu ngô. Rượu cũng là văn hóa, là sự tinh lọc, là thứ tinh túy chắt ra từ đất,

đá, nước, nắng, gió cao nguyên và mồ hôi con người.

Để giảm bớt căng thẳng và sự mệt nhọc, con người nơi đây cũng cần có không

gian giải trí và cân bằng - đó chính là chợ phiên. Chợ phiên miền núi sẽ không có gì

đặc biệt nếu như không có rượu. Rượu đóng vai trò là thứ thuốc quên tạm thời, là

một chất kích thích tâm lý, là chất men say. Người phụ nữ với sự tỉ mẩn cùng với bí

quyết riêng của mình đã ủ men và chưng cất lên một chất say cho những thời điểm

cần thiết của cuộc sống. Chỉ có rượu do người phụ nữ làm ra là ngon nhất, say lòng

người nhất. Từ việc tạo ra rượu, người phụ nữ cũng giữ luôn vai trò và trọng trách

đem rượu ra chợ bán.

Không chỉ kiến tạo ra các giá trị và duy trì nó trong cuộc sống, như cái ăn, cái mặc,

người phụ nữ còn mang trên mình một trọng trách thiêng liêng, một thiên chức vĩ đại -

đó là sản sinh ra sự sống, tương lai, và cũng là người nối dài và duy trì truyền thống,

dòng máu, huyết tộc. Người phụ nữ chính là nước, nguyên tố đầu tiên của sự sống,

người trao hơi thở cho đứa trẻ, cho nó những giọt nước (sữa) để nó bú mớm mà lớn lên.

Đàn ông giữ vai trò cộng hưởng và phối hợp, là nhân tố thúc đẩy một chu trình phát

triển, còn phụ nữ là riềng mối, là cội nguồn, là quá khứ, là người trực tiếp duy trì và bảo

vệ sự sống, cũng như thúc đẩy nó. Những đứa trẻ sinh ra bao giờ cũng gắn chặt lấy mẹ

như da thịt, bám trên lưng mẹ cho tới khi chúng tự chập chững bước đi bằng đôi chân

của mình. Suốt cả cuộc đời, người phụ nữ hiến mình cho xây đắp và tạo dựng cuộc sống

gia đình, cho thế hệ tương lai, cho mạch nguồn máu huyết được duy trì, cho sự sống. Cả

đời họ, hình ảnh về họ sau khi đã làm vợ, làm mẹ, luôn là sự lam lũ, vất vả.

41

2.2.2. Những kiến tạo của người phụ nữ trong đời sống tinh thần

Trong đời sống tinh thần của tộc người, phụ nữ cũng giữ những vai trò quan

trọng với rất nhiều kiến tạo. Trước tiên, họ là người tạo nên màu sắc, hoa văn sống

động trên những bộ trang phục. Màu sắc và những chủ đề cuộc sống được họ chụp lại

bằng trí óc và sự tưởng tượng của mình, họ sáng tạo và chuyển hóa nó thành bố cục,

motip, hoa văn trên trang phục. Có thể nói, trang phục chính là tiêu chí đầu tiên để

nhận diện tộc người và văn hóa tộc người.

Cũng là người bảo quản và cất trữ hạt giống, với nền kinh tế chủ yếu dựa trên

trồng trọt và khai thác thực vật, người phụ nữ giữ một vai trò quan trọng nhất. Rất

nhiều nghi thức tâm linh liên quan tới sinh kế này đều gắn với tính nữ. Loại cây trồng

thiêng liêng và đảm bảo nhất cho đời sống con người là lúa. Có ý kiến cho rằng chính

phụ nữ là người tìm ra lúa, thuần dưỡng lúa và cũng là người phát minh ra trồng trọt.

Xuất phát từ chính sự phân công lao động của loài người, phụ nữ đảm nhiệm hái lượm,

còn đàn ông đảm nhiệm săn bắt. Từ hái lượm chuyển sang trồng trọt thường gắn với

phụ nữ cũng là điều dễ hiểu, và phụ nữ thường gắn với hạt giống, mùa màng. Trong tín

ngưỡng cổ của rất nhiều dân tộc thiểu số, nổi trội là tín ngưỡng thờ mẹ lúa - tức đề cao

tính nữ, gắn với sự sinh sôi nảy nở.

Người phụ nữ cũng là biểu tượng của mái ấm gia đình, là người gìn giữ huyết

thống, cội nguồn. Họ chính là người đầu tiên và giữ vai trò quan trọng nhất trong việc

định hình, răn dạy đối với thế hệ tương lai của cộng đồng. Những đứa trẻ lớn lên từ

dòng sữa mẹ, từ lời ru và những câu dân ca của mẹ, của bà. Người phụ nữ gắn với lửa,

với bếp, với bậc cầu thang.

Trong đời sống tinh thần, người phụ nữ miền núi còn là hình ảnh biểu trưng cho

cái đẹp, cho sự thủy chung, chăm chỉ, cần mẫn, ngọt ngào. Phụ nữ là đối tượng cho tình

yêu ca ngợi, là cảm hứng cho những áng văn học nghệ thuật. Trong dân ca Mông, nổi

trội hơn cả là hình ảnh người phụ nữ, là sự tràn đầy của tính nữ. Dân ca Mông rất phong

phú về đề tài, dồi dào về số lượng, hay về nghệ thuật, sâu xa về ý tứ. Người phụ nữ

trong dân ca Mông xuất hiện với các hình tượng từ ngoại hình, phẩm chất, cho tới số

phận của họ. Vẻ đẹp của người phụ nữ Mông được ví như các loài hoa, đức hạnh phẩm

chất của họ được ví như cây lanh, còn số phận của họ được ví như hình ảnh con ngựa.

42

Người phụ nữ miền núi rất chú ý đến vẻ đẹp ngoại hình của mình, họ biết làm

dáng. Trong không gian và nền cảnh núi rừng, vẻ đẹp của người phụ nữ luôn nổi bật

với váy xòe sặc sỡ, đôi bàn tay mềm mại xe lanh, nụ cười và ánh mắt trong veo, như

thi sĩ Nguyễn Bính đã từng ngỡ ngàng mô tả trong bài thơ “Vài nét rừng”, khi ông có

dịp lên đến Phú Thọ. Người phụ nữ miền núi, mang trong mình vẻ đẹp hoang sơ của

núi rừng, vui tươi rộn ràng như tiếng chim họa mi lảnh lót trong tán lá, mềm mại như

dòng suối chảy róc rách những buổi trưa hè.

Không chỉ đẹp về ngoại hình, người phụ nữ miền núi còn đẹp cả về phẩm chất,

tính cách, đó là rất mực thủy chung, dịu dàng, đảm đang, khéo léo. Không chỉ vậy họ

còn là người thông minh, tài hoa, gan dạ, dũng cảm, chung thủy trong tình yêu.

2.2.3. Sự mặc định của cộng đồng với thân phận của người phụ nữ miền núi

Người phụ nữ miền núi phải sống và gánh chịu hàng loạt những định kiến xã

hội, họ bị tước bỏ quyền được yêu, bị xâm phạm và chà đạp quyền tự do cá nhân, họ

không thể thoát khỏi sự định đoạt của gia đình, dòng tộc. Người phụ nữ là nạn nhân

của những thói hủ tục lỗi thời, là số phận của những người bị gả bán, phải đi làm dâu

khi vẫn chưa trưởng thành, mới chỉ là con trâu măng, đương tuổi ăn tuổi lớn, phải làm

dâu, làm vợ khi còn là một cô bé. Họ không thể tự quyết định được tương lai của

mình, họ bị ép gả, bị quy đổi ra thành số lượng đồng bạc trắng, quy đổi ra vật chất.

Số phận hẩm hiu bi đát của người phụ nữ miền núi cũng được phản ánh rất nhiều

trong các sáng tác của Đỗ Bích Thúy. Điểm chung của những người phụ nữ này đều là

những người bị đọa đày triền miên trong tăm tối về thể xác và tinh thần, khó có khả

năng trở lại với kiếp con người cho đúng nghĩa. Tự bản thân họ cũng đã ý thức được

mình phải đối mặt và chịu đựng những gì của sự sống đau khổ này nhưng lại bị cả một

hệ thống lễ giáo phong kiến ghì riết, níu kéo, muốn thoát, muốn vùng vẫy là điều

không thể. Họ khát khao yêu đương, khát khao được sống theo ý mình, được đến gần

với biên giới của tự do và sự tôn trọng. Nhưng với bản mệnh đàn bà sẵn có, lại bị quy

định bởi mẫu số chung là “mắt bé như hạt thóc, chỉ nhìn qua cái ngưỡng cửa”.

Khi đã về nhà chồng, người phụ nữ phải tuân phục nhà chồng, suốt ngày phải

làm lụng vất vả để lo toan gánh vác công việc nhà chồng. Do bị ép gả nên họ không có

tình yêu, bi thương nhất là lấy phải người chồng lười nhác hay bạc ác, người phụ nữ

phải cam chịu tất cả. Phận làm dâu của người đàn bà miền núi luôn chịu nhiều tủi hổ,

43

đầy nước mắt, bởi chồng không thương, gia đình nhà chồng đày đọa, hạch sách. Đã thế

tư tưởng trọng nam khinh nữ cũng đè nặng lên đôi vai trách nhiệm của người phụ nữ.

Là vợ thì họ bắt buộc “Phải có được đứa con trai để giữ đất, thờ cúng tổ tiên”, là sự

phân biệt vai vế “chỗ của người đàn ông là bàn thờ, chỗ của người đàn bà là dưới

bếp”; là sự “định giá” người phụ nữ bằng những đồng bạc trắng. Chính vì lối suy nghĩ

đầy định kiến đó đã gây ra áp lực nặng nề đối với tất cả những người đàn bà khi đi làm

dâu. Tập tục dân tộc đã cướp đi tình yêu và tuổi trẻ của người phụ nữ, họ không đến

được với người mình yêu thương, họ phải sống trong dằn vặt đau khổ, sống trong sự

héo úa, lụi tàn.

Những người phụ nữ miền núi còn phải gánh chịu hậu quả do những việc làm

sai trái của chồng con mình gây ra. Đó là bà Tần trong truyện Bóng của cây sồi đã phải

chịu những hậu quả do chồng và con rể gây ra do phá ngôi rừng mả lấy đất bán…

Mặc dù phải chịu nhiều khổ cực, chịu sự đối xử bất công của cộng đồng, luật

tục song những người phụ nữ miền núi vẫn thể hiện đức hạnh chói lòa của mình, thiên

tính của mình, họ vẫn lựa chọn cách sống vị tha. Ở họ, có một chân lý nhân văn, mà

sau này nhà văn Đỗ Bích Thúy đã từng mô tả “Trời mưa, nước suối có thể đục nhưng

không thể đục mãi được” [28, tr.20]. Nơi ấy, có những người đàn bà ngày ngày chăm

con chồng bằng bàn tay chai sần dày cộp như miếng cháy trong nồi cám và khi cần thì

vẫn giương bầu vú chưa bao giờ có sữa cho chúng nhay rứt đến rỉ máu.

Trong một góc khuất kín của đồng rừng, những khát vọng sống tựa như chiếc

váy thêu bảy màu cầu vồng, dù có bị cất giấu kĩ nơi đáy tủ thì vẫn biết cách để phát đi

những tín hiệu sống mãnh liệt nhất. Dù ở chợ xa hay trong những đêm sương lạnh, dù

đã góa bụa về già thì vẫn luôn còn đó tiếng đàn môi từ rất xa giống như mũi tên xuyên

qua sương dày đặc, lao đến. Tiếng đàn môi buồn rầu, trách móc…. Cả cuộc đời tủi

nhục của những người đàn bà khốn khổ ấy lúc nào cũng chỉ mong sống yên ổn trong

nghèo khó nhưng điều ấy chẳng dễ dàng gì. Họ hi sinh cho chồng con để nhận lại

những kết cục bi đát. Dáng đi lúc nào cũng lom khom, mặt không bao giờ dám ngẩng

cao và có những ước mong giản dị: “Người đàn bà sống trong thung lũng chật hẹp

không có ước muốn gì hơn là bữa nào nồi cơm trên bếp cũng sôi lục bục” [29, tr.31].

44

Chính Đỗ Bích Thúy đã viết và lý giải “...Tại sao tôi cứ viết về đàn bà, với

những cuộc đời rủi ro và số phận nghiệt ngã, với những cái bướu xấu xí và tấm lưng

còng gập? Tại sao những người đàn bà của tôi khi nào cũng phải sống trong những

nỗi khát khao lớn hơn dãy Tây Côn Lĩnh, sâu hơn đáy sông Lô - những nỗi khát khao

không gì nhấn chìm được, cũng không cách gì đạt tới được? Những cuộc đời đầy âu

lo, những năm tháng luôn phải đối mặt với thiên nhiên khốc liệt, cõi đời trắc trở, tình

yêu mong manh" [30, tr.7].

Người phụ nữ tần tảo là thế, lo toan vun vén cho gia đình, chăm sóc cho cha

mẹ, chồng con. Họ là biểu trưng cho cái đẹp, là đối tượng của thi ca, kiến tạo và tạo

dựng lên các giá trị tinh thần…nhưng họ lại bị xã hội ngược đãi, coi rẻ thân phận.

2.3. Thân phận người phụ nữ miền núi trong sáng tác của Đỗ Bích Thúy

2.3.1. Người phụ nữ không có quyền quyết định tương lai và số phận của chính bản

thân mình

Với những định kiến đã tồn tại từ lâu của cộng đồng về thân phận của những người

phụ nữ, họ hoàn toàn không có quyền quyết định tương lai của mình, đưa ra sự lựa chọn

của bản thân, tiếng nói của họ không có giá trị. Những người phụ nữ phải chịu ràng

buộc, phải chấp nhận, cho dù là khổ đau, là đi ngược với ước muốn của mình.

Đó là cô gái tên Súa trong Lặng yên dưới vực sâu. Súa là cô gái Mông xinh đẹp:

“Gái mười lăm như quả táo sắp chín còn Súa như một bát rượu nếp ủ kĩ, chưa cất

thành rượu, từ xa ngửi thấy đã say. Thế là, khi Súa đi qua, chiếc váy nhiều tầng rung

rinh theo nhịp lắc của cặp mông là tất cả đàn ông, kẻ có vợ và chưa vợ, đã uống say

cũng như đang cầm bát rượu trên tay, người trên ngựa thì ngã xuống đất, người dưới

đất thì ngồi phịch xuống lối đi… vồng ngực Súa trắng như hoa Bạch yến, bàn chân

nhỏ, eo nhỏ” [30, tr.30].

Không chỉ đẹp về ngoại hình, Súa còn là cô gái Mông đầy cá tính, giỏi giang và

vô cùng khéo léo. Súa là thợ săn giỏi, là thợ săn duy nhất không phải là đàn ông. Năm

nào khi đến mùa ngô, khỉ rừng về phá rất nhiều, không ai biết cách hay tài nào đuổi

được chúng, chỉ duy có mình Súa biết cách. Súa rất thông minh, nên cô được cả bản

tin cẩn giao cho nhiệm vụ canh nương ngô, bầy khỉ không dám bén mảng đến. Sau vụ

thu hoạch, dân bản lũ lượt đem những quẩy tấu ngô vàng óng sang nhà Súa để cảm ơn.

45

Là thợ săn giỏi, đồng thời Súa cũng là cô gái xe lanh dệt vải rất khéo, lúc nào cô cũng

có bó lanh trong tay “tay thoăn thoắt xe lanh” [30, tr.30]. Cá tính mạnh mẽ của Súa

còn thể hiện ở việc chỉ duy nhất mình Súa ở bản Mông này là dám cưỡi bò đực. Cô

Súa mạnh mẽ, đánh nhau với dê đực hung hăng từ nơi khác đến để bảo vệ đàn dê của

mình, thế nên mọi người gọi cô là “Gái bắt dê”.

Súa cũng có một tình yêu đẹp với chàng trai tên Vừ - một chàng trai Mông thực

thụ trên U Khố Sủ. Tuy nhiên, tình yêu của Súa và Vừ không trọn vẹn, Súa bị Tráng A

Phống lừa bắt làm vợ. Súa cứ nghĩ rằng người bắt mình chính là Vừ nên cô yên tâm ở

trong nhà của Phống. Khi phát hiện ra người bắt mình không phải là Vừ, Súa như chết

lặng, nhưng mọi sự đã quá muộn, cô không thể quay trở lại, bởi tục lệ Mông, đó là khi

đã bị bắt về nhà rồi, cúng ma và quét phép rồi, qua ba ngày không kháng cự thì cô gái

nghiễm nhiên đã là vợ, là người thuộc về bên nhà trai rồi “Súa thấy mình chẳng hơn gì

mấy con gà trống, mấy thằng trai cắp nách mỗi phiên chợ, chỉ cần đổi lấy một bát

thắng cố, mấy bát rượu là được” [30, tr.19]. Súa không có lối thoát vì tục lệ bắt vợ,

cuối cùng Súa phải chấp nhận làm vợ Phống.

Ban đầu, Súa có ý định giải thoát bản thân bằng cách nhảy xuống vực ngay trước

sân nhà Phống tự vẫn. Nhưng muốn chết cũng không chết được, bởi dưới vực, cha

Phống đã giăng sẵn tấm lưới chắn, Súa mắc lại ở đó. Tấm lưới tựa hồ như những sợi

dây vô hình bó chặt và quấn lấy Súa, đó là tập tục lỗi thời, là thứ lễ giáo và quan niệm

cổ hủ tiêu cực của cộng đồng, vây riết lấy người phụ nữ. Súa chua chát nhận ra: “Sống

không được như ý mình, chết cũng không được theo ý mình nốt?” [30, tr.34]. Súa vẫn

phải sống, nhưng không biết mình sống vì cái gì, và đúng như vậy bởi Phống: “chẳng

mấy chốc sẽ hóa thành con tắc kè bám trên người vợ… chỉ giữ được da thịt chứ không

giữ được tâm hồn” của Súa [30, tr.36]. Súa đã chết về mặt tinh thần, cô chỉ còn sống

với trạng thái sinh học của mình mà thôi.

Súa sẽ sống như một con bò trong ngôi nhà này, không vui cũng không buồn

nữa. Ban ngày đi làm, tối về ngủ, sáng hôm sau lại đi làm…y như một con bò. Tuy

nhiên, vì đã làm vợ nên Súa còn phải gánh vác thiên chức thiêng liêng mà tạo hóa đã

mặc định, đó là làm mẹ. Súa đã có thai đứa con của Phống. Và vì đứa bé, Súa không

thể lựa chọn giải pháp như ý mình được. Tình mẫu tử thiêng liêng đã chiến thắng, mặc

dù lúc đầu Súa tìm cách bỏ đứa trẻ. Đứa trẻ trở thành sợi dây buộc chặt Súa vào ngôi

46

nhà này “sợi dây này không cắt được, cũng không có cách nào làm nó đứt rời ra. Nó

sẽ tròng vào cổ Súa cho đến lúc chết” [30, tr.55-56].

Súa bị Phống đem ra vứt ở chuồng bò vào đêm đông lạnh giá vì Súa trơ như gỗ

đá: “Súa lồm cồm bò dậy, vụng về quấn tấm chăn che kín người. Nỗi uất ức xen lẫn tủi

hổ trào ngược từ bụng lên ngực làm Súa không thể chịu đựng nổi, cắn răng đến tê cả

hàm mà nước mắt vẫn trào ra” [30, tr.40]. Sự uất ức và tủi hổ đã lên tới đỉnh điểm

trong Súa.

Nỗi khổ vẫn chưa hết với Súa, người chồng của cô lại tiếp tục tàn phá tâm hồn

vợ, Phống ngoại tình, phản bội Súa. Súa phải đứng nhìn hành động phản bội của

Phống trong căn buồng cưới của mình, hai con người quấn lấy nhau trên tấm chăn do

chính tay Súa dệt từ năm 13 tuổi: “Súa cảm thấy trong bụng mình ruột gan đang nhào

lộn như có một bàn tay nào đó thò vào mà bóp, vặn. Nước miếng tứa ra đầy miệng,

sắp nôn ộc ra rồi” [30, tr.42]. Súa chết về mặt tinh thần, tâm hồn. Cô kinh tởm Phống,

thế nên, cứ mỗi khi nhìn thấy Phống là Súa lại nôn hết những gì có trong bụng ra. Cuối

cùng, Súa phải tránh mặt chồng. Nhưng dù kinh tởm đã lên tới đỉnh điểm, thì Súa vẫn

phải sống cùng Phống trong căn nhà này, đó thực sự là điều kinh hoàng mà người phụ

nữ như Súa phải gánh chịu. Súa trở thành con người trống rỗng, trở thành cái bóng

“biết đi lại, làm lụng, nấu nướng, cho con bú, nựng con ngay trước mặt mà Phống

không sao chộp lấy được” [30, tr.56]. Súa chỉ còn lại tình mẫu tử, là mẹ của thằng

Chá, và Nhí, em gái của Phống, người duy nhất để cho Súa tâm sự.

Có thể nói, số phận người phụ nữ chỉ như hạt tuyết nhỏ nhoi, như cái nhắm mắt

của Súa khi nhảy xuống vực sâu để phó thác cho số phận. Nhưng Súa càng vùng vẫy

thoát ra thì lại càng bị mắc chặt vào nó. Những đứa con giống như những sợi dây buộc

chặt Súa vào người chồng ấy, vào gia đình ấy. Cuộc hôn nhân không tình yêu chôn vùi

cả cuộc sống và tâm hồn người phụ nữ, như “bông anh túc rực rỡ mà héo úa” trong

cái lặng yên đến vô cùng của vực sâu. Dường như những tư tưởng giải phóng cho

người phụ nữ, giải phóng cho cuộc sống tự do theo nguyện ước của con người… còn ở

đâu đó rất xa cái xứ này. Cuộc sống ở miền núi heo hút với những trì níu nặng nề của

những hủ tục khiến con người bị trói buộc trong một tấm lưới vô hình không thể nào

thoát ra được.

47

Người phụ nữ bất hạnh còn là nhân vật Mẹ già trong truyện Tiếng đàn môi sau

bờ rào đá - đó là cô gái tên Mao, khi xưa là người phụ nữ đẹp và rất mực khéo léo.

Mao tự dệt cho mình một bộ váy thêu bảy màu như cầu vồng “Ngày ấy, cả vùng này

biết tiếng cô Mao đẹp người, nết cũng đẹp, con gái bản trên làng dưới không ai dám

nhận mình thêu thùa, dệt vải vừa nhanh vừa đẹp như cô” [28, tr.20]. Mao cũng đã tìm

được người yêu, họ yêu nhau say đắm, người yêu Mao thổi đàn môi rất giỏi, tiếng đàn

môi ngọt ngào, tiếng sáo cũng thế. Nhưng cuối cùng, tình yêu của họ cũng không đến

được với nhau, bởi chàng trai kia quá nghèo nên không đủ khả năng đáp ứng đồ thách

cưới theo như bố mẹ Mao yêu cầu.

Với yêu cầu thách cưới cao như thế thì “Cả vùng này chỉ có nhà anh Chúng

chồng đủ bạc trắng, đủ gạo, rượu như bố mẹ Mao thách cưới, vậy là Mao về làm dâu

nhà Chúng” [28, tr.20]. Mao bị cha mẹ gả bán vì cái lợi vật chất, Mao không có quyền

lựa chọn, không ai đoái hoài hay quan tâm đến suy nghĩ của Mao, tương lai của cô do

người khác định đoạt, do những đồng bạc trắng lạnh tanh quyết định “Trước ngày

cưới, cả đêm tiếng chân ngựa bồn chồn ngoài bờ rào đá làm Mao thức trắng. Mờ sáng

thì con ngựa ấy bỏ đi, một lúc sau thì tiếng đàn môi cất lên từ sau hẻm núi… Tiếng

đàn môi buồn rầu, trách móc. Mao lặng lẽ khóc, từ hôm ấy Mao không bao giờ nghe

tiếng đàn môi dành cho riêng mình nữa” [28, tr.20,21].

Người đàn bà tên Kía trong truyện Gió không ngừng thổi - một người con gái

Mông xinh đẹp, về làm dâu nhà Sùng, khi nhà chồng bỏ ra 200 đồng bạc trắng để lấy

được Kía về làm dâu. Kía gần như là được “mua về nhà chồng”. Khi Kía về nhà

chồng, bảy năm sau mới sinh được đứa con gái là Sèn, sau đó mãi vẫn không sinh

thêm được đứa con nào nữa. Chồng Kía là Sùng - là người đàn ông duy nhất trong

dòng họ vì thế mọi áp lực đều dồn lên vai Kía. Mẹ chồng chạy chữa thuốc thang cho

Kía nhưng Kía không thể có con. Kía bị ví như con bò đực “con dâu cứ như con bò

đực, không đẻ nữa” [28, tr.34]. Nhưng sự thực, nguyên nhân không sinh được con

không phải là do Kía, mà là do người chồng, bởi: “Tại sao một người đàn bà không

đẻ được nữa lại cứ nở ra như một bông hoa chuối đỏ rực, căng mọng thế này?” [28,

tr.38]. Sau đó, trong một lần đi làm nương về muộn, Kía bị Vàng Chỉn Tờ bên Khau

Bủng cưỡng bức, Kía đã có thai. Và cả cuộc đời còn lại của Kía cho đến lúc cuối đời

đều sống trong sự đau đớn, dằn vặt.

48

Cô bé Mai hồn nhiên vô tư, xinh đẹp “là bông hoa sắp nở rực rỡ nhất trường”

[28, tr.74] trong truyện Cạnh bếp có cái muôi gỗ, mặc dù vẫn muốn đi học vì Mai đã

đem lòng thương thầm cậu trai cùng lớp nhưng đang học dở thì bố mất Mai vẫn phải

nghe theo lời mẹ bỏ học và chấp nhận lấy người ta, để gia đình Mai có rể, có người lao

động trụ cột “Các em Mai đã đi lấy chồng hết, nhà chỉ có một đàn ông là chồng Mai,

con rể cả. Hai vợ chồng ngày lên nương, tối về hầm ngô nấu rượu, phiên chợ Lũng

Phìn cho ngựa thồ ra chợ bán” [28, tr.74], “Tiếc chứ, nhưng nhà không có người làm,

phải lấy nó về mang bò lên nương” [28, tr.76]. Mai cũng như những người phụ nữ

miền núi, không có quyết định cho số phận của mình “Đàn bà Thài Phìn Tủng nói ít

làm nhiều, không mấy khi buồn cũng không mấy khi vui. Cúi mặt từ tờ mờ sáng đến

đêm khuya. Cái lưng cong mãi” [28, tr.77]. Hôn nhân không tình yêu, không được

chọn lựa cuối cùng cũng tan vỡ khi chồng Mai bỏ bốn mẹ con bơ vơ để đi lấy người

đàn bà khác, Mai phải cam chịu và chấp nhận “Nó đi làm ăn rồi, xa lắm. Chắc Tết

cũng không về. Đứa út này đã được đặt tên đâu. Nó muốn con trai, đẻ nữa thì không

có gì nộp phạt” [28, tr.78].

Đó là cô gái Kía trong Con dê bốn mắt, đáng ra đã làm vợ Dí vì Kía và Dí yêu

nhau. Nhưng cha mẹ Kía không đồng ý, mặc dù nhà Dí rất giàu, bao nhiêu bạc cũng

có, thách cưới thế nào cũng sẽ đáp ứng…nguyên nhân là bởi cha Kía đi xem bói, thầy

bói bảo Kía phải lấy người đàn ông có con dê trắng bốn mắt thì mới tốt và sung sướng

“Nói cũng khó, không nói cũng khó. Thế này, tháng trước con Kía nhà này bị ốm, tôi

phải đi mời ông then về, ông then bảo nó phải lấy một thằng trai dắt theo con dê trắng”

[28, tr.85]. Và người có con dê trắng bốn mắt đã xuất hiện, đó là Chảo A Chay - một

trai Mông nhà nghèo. Rất tự tin, Chảo A Chay một mình một dê đến thẳng nhà bố mẹ

Kía mà không cần người mối lái. Bố mẹ Kía chấp nhận Chảo A Chay, nhưng Kía thì

không “Kía cầm con dao nhọn hoắt, sáng loáng, ngồi lì trong buồng, nói vọng ra: - Bố

mẹ mà cho thằng ấy vào nhà là con đâm dao vào bụng, chết luôn” [28, tr.86]. Cuối

cùng, cả Dí và Chay đều không lấy được Kía. Đằng sau câu chuyện về Kía chính là

những hủ tục lạc hậu lỗi thời của cộng đồng, là sự mê tín, mê muội vào việc bói toán,

tin vào sự phán xét và kết luận của thầy cúng, thầy bói đã định đoạt luôn cả tương lai

của con người, nhất là tương lai của những người phụ nữ.

49

Số phận của cô gái mười bảy tuổi là Chía trong Cột đá treo người cũng vô cùng

bất hạnh. Chía phải gánh chịu những đau thương bởi cô phải giúp cha mẹ trả nợ cho

nhà lý trưởng, phải hy sinh để cứu cha mẹ và các em. Cô bị đẩy xuống làm chân cắt cỏ

ngựa, chăn ngựa “người toàn mùi nước đái ngựa” [28, tr.94], bị con trai lý trưởng là

thằng Lềnh khinh rẻ, mắng nhiếc, bị lý trưởng lợi dụng. Chía yêu Váng nhưng rồi cô

cũng bị cướp mất người yêu “Ngày hôm sau Váng bị mang ra cột đá” [28, tr.97]. Đó là

cây cột mà lý trưởng cho dựng lên để hành quyết những người có tội “Người bị xử tử

sẽ phải đút hai cánh tay vào đấy, treo người lên, đàn ông thì úp mặt vào cột, đàn bà

thì quay lưng lại, mặt nhìn ra vực. cứ treo như thế cho đến chết” [28, tr.97]. Sự tàn bạo

của chế độ phong kiến thần quyền miền núi đã chà đạp phá vỡ hạnh phúc, cuộc đời

của biết bao người dân miền núi vô tội, trong đó có cha mẹ Chía và chính bản thân

Chía. Họ không có lối thoát và không quyết định được tương lai và số phận mình, nhất

là những thân phận nhỏ bé nhất trong xã hội - những người phụ nữ. Ngay cả cái chết,

một giải pháp cuối cùng, họ cũng không thể, bởi “trước mặt Chía là vực sâu, sau lưng

Chía là cha mẹ” [28, tr.99]. Nếu Chía chết thì cha mẹ và các em Chía sẽ chết theo vì

chưa trả hết nợ cho nhà lý trưởng. Cuộc đời của những người phụ nữ miền núi như

Chía đầy đau thương và bất hạnh. Đến cái chết để giải thoát cho mình cũng không thể

bởi bao nhiêu những ràng buộc. Chía đã chấp nhận hi sinh để cứu gia đình, cứu cha mẹ

và các em.

Vi trong Giống như cái cối nước là cô gái xinh đẹp, giỏi giang và khéo léo, hát

hay “Và tiếng hát của Vi đã bay lên cao, cao hơn cả chiếc mâm đỏ ngất ngư, cao hơn

cả những quả còn có tua rua đỏ vun vút đan vào nhau, chạm vào một quả còn của

người thắng cuộc” [28, tr.142]. Nhưng không ai dám đến với Vi, lấy Vi làm vợ, bởi lời

đồn khắc nghiệt, mê tín rằng “Có người Tả Chải định lấy làm vợ đấy, nhưng bố mẹ

cấm. Ái chà, thấy bảo nhà ấy bốn năm đời nghèo không đủ ăn, người giàu lấy vào

cũng nghèo theo, đói lắm” [28, tr.144]. Một cô gái giỏi giang, xinh đẹp như Vi, đáng

ra phải được hưởng hạnh phúc mới đúng, nhưng Vi lại phải gánh chịu nỗi bất hạnh,

bởi cái niềm tin mê muội của người đời, gán cho gia đình Vi. Vi vỡ vụn: “Vi đã hóa

thành một cái bóng, lầm lũi làm lụng” [28, tr.145], “Vi lên nhà, mỗi bước chân nặng

như đeo đá” [28, tr.138]. Vi day dứt vì “Chỉ tại Vi thôi. Chỉ tại Vi như cái cánh cửa

đóng chặt khiến các em không thể ra khỏi nhà. Nếu có một người nào đó chịu lấy Vi,

50

là một ông già hay một thằng trai cụt chân, chột một mắt, chấp nhận lấy Vi, thì Vi sẽ

đồng ý ngay ” [28, tr.145,146].

Cuối cùng, năm Vi hai sáu tuổi cũng có một chàng trai đẹp đến lấy Vi làm vợ.

Nhưng sau này, Vi vô cùng đau xót khi biết cha mẹ mình phải các tiền cho người ta,

để họ lấy con mình. Cha mẹ đã bán hết cả đất đai để có 200 đồng bạc trắng các cho

người lấy Vi. Rồi Vi bị chính các em mình căm ghét, lời của thằng em thứ tư là Sài

như mũi dao đâm vào tim Vi: “Chị không biết thật hay giả vờ không biết thế? Bố mẹ

bán đất để lấy hai trăm đồng bạc trắng gả chồng cho chị chứ làm gì. Cả mấy con trâu

nữa, cả đàn dê nữa, đã hai vụ không có trâu cày rồi, chị nhiều tiền thì mua cho nhà

một con trâu đi. Không có hai trăm đồng bạc ấy thì ai dám lấy chị? Thế mà lấy được

chồng rồi, sướng quá, quên cả đường về, cả nhà mong mãi, mờ cả mắt rồi…” [28,

tr.148-149]

Mảnh đất của cha mẹ là tài sản lớn nhất được truyền lại từ đời ông bà Vi, để cho

Vi có được chồng, có được đôi bàn chân trắng mịn. Có lẽ Vi sẽ chết nốt về mặt thể

xác, còn tâm hồn cô đã không còn tồn tại: “Bạch yến mọc hai bờ suối đang nở hoa

bừng bừng, nhưng Vi không thấy mùi thơm của nó mà chỉ thấy đắng ngăn ngắt trong

cổ” [28, tr.149]. Vi sẽ sống ra sao, sau khi biết được sự thật này.

Đó là chị em Nhi, là Liêu trong Mần tang mọc trong thung lũng - những cô gái

Tả Gia xinh đẹp và giỏi giang nhưng phải chịu đựng nỗi khổ tinh thần, sự giày vò của

người đời. Ai cũng đẹp cũng phơi phới thanh xuân, nhưng không ai yêu họ, dám thổ lộ

với họ bởi bên ngoài đồn đại rằng, Tả Gia là vùng đất dữ và người Tả Gia là không tốt,

không thể lấy họ làm vợ hay làm chồng được. Vì thế những cô gái này không được

sống với trạng thái rất đỗi bình thường của tuổi trẻ, đó là được sống và được yêu “Sau

hôm đi chợ về chị em Nhi như người quên nói. Váy áo đẹp lại mang cất vào hòm cả

rồi, lên nương cũng không thèm quấn xà cạp nữa” [28, tr.192]. Họ không có cách nào

thoát ra được lời đồn đại khắc nghiệt đến từ sự cục bộ, kém hiểu biết “Người bản

ngoài bản trong sợ Tả Gia, không ai dám đến. Lâu lắm Tả Gia không có đám cưới”

[28, tr.182]. Thời gian sẽ bào mòn và giết chết tuổi thanh xuân của những cô gái kia,

không được yêu, không được làm vợ, không được làm mẹ “Con gái Tả Gia à! Con gái

Tả Gia thì sao chứ? Nhìn xem cả chợ có ai đẹp bằng con gái Tả Gia không? Có ai bán

51

hạt ngô to thế này không? Có ai dệt vải khéo thế này không?” [28, tr.189]. Họ sống lay

lắt như những cây “Mần tang mọc trong thung lũng”.

Trong truyện Ngựa ngã núi là sự đáng thương của Dính - cô gái Mông xinh đẹp

và chăm chỉ: “Đôi chân bé bé đi trong giày vải xanh, quấn xà cạp trắng, váy lanh

trắng tinh, áo hoa có kim tuyến lóng lánh…Nhìn lên nữa, cặp má như vừa cời ở bếp

ra, ba tấm khăn vấn thật khéo, tròn vành vạnh” [28, tr.233]. Dính đem lòng yêu anh

chàng Dúng, và gia đình Dúng cũng đã nhờ người mai mối sang nhà bố mẹ Dính mở

lời, nhưng nhà Dính không đồng ý, bởi ông cậu Dính chê gia đình Dúng nghèo. Cha

mẹ và dòng tộc nắm quyền quyết định và định đoạt hạnh phúc lứa đôi “Nhưng đến lúc

Mềnh dinh lấy thuốc của mình ra mời thì ông cậu không nhận. Ông cậu không nhận là

cả nhà Dính không nhận rồi” [28, tr.234]. Cả Dúng và Dính đều không làm được gì

để thuyết phục hay chống lại sức mạnh đè nén đó.

Rồi còn vì sĩ diện của người lớn, không muốn làm con chó cụp đuôi, nên bố mẹ

Dúng không nhờ mai mối sang nhà hỏi Dính lần nữa “Mềnh dinh chỉ đi một lần, không

được thì thôi, bố mẹ Dúng cũng không nhờ nữa” [28, tr.234]. Khi Dính bảo Dúng cứ

nhờ mai mối lần nữa, để Dính nhờ bà cô thuyết phục ông cậu của mình, Dúng lao đi

kiếm tiền, bằng cách đi khắp các vùng Mông mua ngựa trắng bán lại cho người Kinh

để nấu cao. Khi đã lùng hết vùng cao nguyên đá mà vẫn còn thiếu duy nhất một con

ngựa trắng nữa là đủ, Dúng sẽ đủ tiền mua xe máy, đủ vốn để mở quán thắng cố dưới

chợ, và sẽ lấy Dính. Con ngựa bạch duy nhất đó lại đang ở trong chuồng ngựa của nhà

Dính, Dúng quyết định sang nhà Dính ăn trộm con ngựa bạch đang ốm, già sắp chết.

Cuối cùng, con ngựa rơi xuống vực chết, và rất không may, Dúng đánh rơi cái mũ nồi

ngay đó. Dính biết thủ phạm là ai, tình yêu tan vỡ, Dính lấy Vừ. Đằng sau câu chuyện

này chính là sức mạnh vô hình của lễ giáo và hủ tục, cùng với sức mạnh đồng tiền, đã

kẹp chặt, ngăn cản con người, ngăn cản tình yêu lứa đôi, khiến con người phải làm

việc rẻ rúng, bất lương trên chính quê hương mình.

Sức mạnh của hủ tục, lễ giáo, cộng đồng không chỉ khiến cho con người - nhất

là người phụ nữ không thể quyết định được tương lai của mình, thậm chí còn vùi dập

số phận của họ trong bùn đen tủi khổ. Đó là cô Kim trong Bóng của cây sồi không làm

sao rũ sạch được lời nguyền và sự mặc cảm bản thân khi bị cộng đồng bài xích, không

coi Kim là người, bởi dòng máu trong người Kim không đỏ như máu người mà là màu

52

đen, là dòng máu của tội lỗi. Bà Kim, mẹ Kim và giờ tới lượt Kim vẫn phải chịu đựng

thành kiến đó “Mẹ Kim đã đi vào vết chân của bà ngoại Kim, Kim cũng không tránh

được vết chân của mẹ. Mẹ đã nhìn thấy rõ điều ấy. Lúc chết, Kim vuốt mãi mà mắt bà

không nhắm lại được, đành để như thế mà đưa vào quan tài” [29, tr.20,21]. Ngay cả

tới lúc mẹ Kim đã chết, người làng vẫn không chấp nhận mẹ con Kim, mộ mẹ Kim

phải chôn ở rìa ngoài của làng. Vì lời đồn và nhất là thành kiến của lễ giáo mà Phù -

người yêu Kim cũng không dám vượt qua cái bóng khổng lồ đã phủ đen số phận con

người để đến với Kim. Kim là cô gái cá tính, nhưng cô cũng không làm được gì để

thay đổi số phận mình, cô bị cộng đồng xa lánh, và cuối cùng bị xã hội xô đẩy, tha hóa

và vùi dập.

Truyện Sau những mùa trăng lại là hình ảnh của người phụ nữ phải phải sống

cam chịu để cho tuổi thanh xuân trôi qua một cách uổng phí. Đó chính là người chị

dâu của Lìn. Chị dâu lấy anh Lân từ khi còn là một cô bé đương dậy thì, không lâu sau

thì chồng chết do bị lợn rừng húc khi đi trông nương. Cuộc sống của chị vô cùng vất

vả “Chị dâu tôi còn phải gùi nhiều hơn người khác, gùi thay cả mẹ, thay cả tôi. Chẳng

biết đến bao giờ mới thôi không gùi nữa. Từ sáng sớm đến tối mịt cái lưng chỉ thẳng

ra mỗi lúc ngủ” [28, tr.334]. Khổ hơn là chị phải thui thủi sống một mình, không dám

đi bước nữa. Ngày nào cũng có người thổi khèn lá với lời lẽ bi thương và tình yêu say

đắm dành cho chị nhưng chị lảng tránh “Bất chợt tiếng khèn lá đêm hôm trước lại dội

lên, chị luống cuống bê thùng cốm đi như chạy lên cầu thang, suýt vấp ngã. Chị cài

chặt then cửa, lao vào buồng, tôi còn nghe tiếng thở dồn dập rất lâu” [28, tr.341]. Chị

không dám quyết định, không dám nói ra cảm xúc và suy nghĩ thật của mình, bởi lời

của mẹ chồng nói với Lìn khi chú Phin sang nói chuyện với chị dâu về người thổi khèn

lá gọi chị Lân “Tao làm dâu họ Bàn, nó cũng là dâu họ Bàn, chết đi làm ma họ Bàn.

Muốn gì cũng không được đâu” [28, tr.343]. Lời nói đó là tuyên ngôn của sự mặc

định, đóng đinh thân phận những người phụ nữ vào trách nhiệm với dòng họ bên nhà

chồng cho tới chết. Chị chỉ còn biết khóc cho vơi đi nỗi khổ của mình “Tiếng khóc bật

ra như nước lũ thượng nguồn không gì ngăn được. Khóc như để trôi đi những bức bối

trong lòng. Nước chảy ròng ròng trên gương mặt bợt bạt, rớt xuống ngực áo” [28,

tr.345].

53

Trong tiểu thuyết Chúa đất là sự đáng thương của Xính - cô gái Mông xinh đẹp,

giỏi giang, khéo léo, hát hay, có một tình yêu đẹp với Vàng. Nhưng bất hạnh thay,

cũng từ một lần Xính ngồi hát cho người yêu nghe, chúa đất đi qua và nghe được tiếng

hát “Chưa bao giờ chúa đất nghe thấy tiếng hát nào giống như thế. Tiếng hát giống

như một dòng suối trong vắt, chảy trên những viên đã đầy màu sắc, dưới ánh nắng

vàng như mật ong, thỉnh thoảng một con cá nhỏ sáng lấp lánh quẫy lên…” [32,

tr.112]. “Chưa bao giờ chúa đất nghe thấy tiếng hát nào giống như thế. Tiếng hát

giống như một dòng suối trong vắt, chảy trên những viên đã đầy màu sắc, dưới ánh

nắng vàng như mật ong, thỉnh thoảng một con cá nhỏ sang lấp lánh quẫy lên…” [32,

tr.112]. Khi bắt gặp chúa đất, Xính vội vàng lấy đất bôi lên mặt song đã quá muộn

“Mặt Xính kia, hồng hào mịn màng. Đôi mắt Xính, miệng Xính, hàm răng của Xính,

hai cái tai nhỏ của Xính…tất cả đều có thể mang đến tai họa” [32, tr.114]. Xính

không thể thoát khỏi chúa đất, khi chúa đất phát hiện ra vẻ đẹp và giọng hát của Xính

“Trời như tối sầm. Gió như ngừng thổi. Những bông hoa cúc đỏ như đang tàn rụng tơi

tả. Tiếng chim họa mi tắt lịm như bị cắt cổ” [32, tr.114]. Kể từ đây, cuộc đời Xính đi

vào đau khổ.

Chúa đất luôn miệng nói với cha Xính rằng “Dinh thự nhà chúa đất chính là

mảnh đất tốt nhất Đường Thượng, ông cứ yên tâm mà gieo hạt giống xuống”. Nhưng

thực ra “Ai mà không biết hạt giống tốt mấy, gieo xuống đấy rồi cũng từ từ thối rữa,

mục nát, không thể nảy mầm” [32, tr.133]

Cha mẹ Xính và cả Vàng nữa không có quyền và không đủ sức để giấu Xính, bảo

vệ Xính, bởi Chúa đất khét tiếng độc ác, tàn bạo, có quyền thế trong tay, được toàn

quyền định đoạt tính mạng con người. Một lần nữa chế độ phong kiến, thổ ty, phìa tạo

miền núi lại vùi dập số phận con người, họ không thể quyết định được tương lai, nhất

là những người phụ nữ đáng thương.

2.3.2. Người phụ nữ phải chịu nhiều thiệt thòi, áp lực trong gia đình, dòng

họ, cộng đồng

Khi đã làm vợ, làm mẹ, dù muốn hay không, người phụ nữ còn phải gánh chịu

hàng loạt những áp lực khác, từ gia đình, dòng họ, cộng đồng. Người phụ nữ bị coi

như là con rùa trong nhà, người có đôi mắt bé tí, không nhìn xa được nên suốt ngày chỉ

54

lo cơm nước, nương rẫy và chăm sóc gia đình, đầu tắt mặt tối, đó là không gian dành

cho họ, được xã hội mặc định. Phụ nữ phải gánh vác trọng trách lớn lao là sinh con trai

cho nhà chồng, để có người nối dõi dòng họ. Với những khung cứng đóng đinh người

phụ nữ lại như vậy, họ đã phải chịu biết bao khổ cực, sự nghiệt ngã tột cùng.

Đó là Súa trong Lặng yên dưới vực sâu phải tủi cực chung sống cùng chồng,

phải chứng kiến cảnh chồng mình là Phống phản bội mình, Súa kinh tởm, nôn ói - sự

phản ứng vượt ngưỡng chịu đựng của bản thân “Súa cảm thấy trong bụng mình ruột

gan đang nhào lộn như có một bàn tay nào đó thò vào mà bóp, vặn” [30, tr.42]. Súa bị

Phống coi như con vật, bị chồng đem vứt ra chuồng bò, Súa thấy tủi hổ và uất ức vô

cùng. Nhưng người đàn bà tên Súa vẫn phải chịu đựng, lặng lẽ và trống rỗng, khô héo

lụi tàn dần đi, Súa không buồn cũng không vui. Súa sống như một cái xác không hồn,

chỉ còn da thịt mà thôi “Đằng này Súa y như một cái bóng. Cái bóng biết đi lại, làm

lụng, nấu nướng, cho con bú, nựng con, ngay trước mặt mà Phống không sao chộp lấy

được” [30, tr.56]. Rồi sau này, khi Phống tự tử, cuộc sống đã thực sự dừng lại với Súa,

bởi người ở lại là người đau khổ và dằn vặt nhất, Súa nghĩ rằng Phống chết là do Súa,

lương tâm Súa chịu sự dằn vặt ghê gớm “Cuộc sống đã dừng lại. Súa chỉ cảm thấy duy

nhất điều đó, khi gió từ đáy vực đang thốc ngược lên” [27, tr.106].

Đó còn là người phụ nữ day dứt đến tột cùng vì không sinh được con trai cho

chồng trong Những buổi chiều ngang qua cuộc đời. Cô cũng đã sinh nhưng chỉ là bốn

cô con gái, giờ cô đã khô héo và không thể sinh thêm được nữa “Như mọi người đàn

ông khác ở làng, anh lo thiếu người đội mũ rơm chống gậy. Chỉ có một nỗi chờ đợi ấy

thôi mà tôi không làm được” [28, tr.257]. Tuy chồng rất thương yêu cô, nhưng tự bản

thân cô thấy có lỗi và dằn vặt, cô thành người điên dại.

Nhất là trạng thái day dứt, dằn vặt, vật vã trong khao khát được làm mẹ, trong

khổ đau, trong sự cam chịu cùng cực của người mẹ già (Mao), trong truyện Tiếng đàn

môi sau bờ rào đá. Mao không sinh được con cho nhà chồng. Mẹ chồng và ông Chúng

rất thương Mao, điều đó khiến Mao càng khổ sở, day dứt hơn, cứ nghĩ rằng mình đã có

tội lỗi lớn với nhà chồng. Khi Chúng có người đàn bà khác là Hoa, Mao chấp nhận

trong đắng cay dâng trào: “Mao lặng lẽ chuyển đồ đạc của mình sang căn buồng của

mẹ chồng trước kia” [28, tr.22]. Mao nhường lại chồng cho người đàn bà kia, vì Mao

thấy day dứt do không sinh được con. Sự đớn đau lẫn phẫn uất của Mao thể hiện qua

55

ánh mắt của cô khi nhìn Chúng thật đặc biệt: “Mao nhìn vào mắt Chúng, nhìn thẳng.

Chúng không chịu được ánh mắt Mao phải quay mặt để Mao bước ra” [28, tr.23]. Từ

thời khắc đó, Mao sụp đổ, thất vọng và chết lặng, Mao trở thành con người lầm lũi

trong gia đình.

Khi May ra đời, mặc dù là con của ông Chúng và mẹ Hoa, nhưng May lại sống

bám lấy mẹ già, sau là thằng Trài, em May cũng vậy. Mẹ già cáng đáng hết việc gia

đình, chăm sóc và dạy dỗ hai đứa trẻ rất chu đáo và rất mực yêu thương chúng, mặc dù

chúng không phải là con đẻ của mình. Bàn tay với vết chai dày cộm như miếng cháy

trong nồi cám của mẹ già đêm nào cũng xoa lưng cho hai chị em May dễ ngủ “Bàn tay

mẹ già đã chai càng chai thêm, vết chai dày cộp như miếng cháy trong nồi cám. Đêm

nào mẹ già cũng lấy hai bàn tay đầy vết chai ấy xoa lưng cho hai chị em May dễ ngủ”

[28, tr.25]. Ngay cả khi mẹ Hoa về lần cuối và ra đi cùng với con bò cày của gia đình,

mất bò, người phải làm thay “Vụ mùa năm ấy, vụ sau nữa, hai bố mẹ May phải mang

cuốc đi cuốc đất thay bò” [28, tr.25]. Thế nhưng mẹ già cũng không hề oán trách gì cả

mà còn khuyên bảo May nói chuyện với mẹ Hoa và răn dạy May lẽ sống ở đời “Không

được thế con gái à. Mẹ Hoa chứ có phải là người lạ gặp ngoài đường đâu. Lâu quá nó

mới về nhà, nhưng con gái vẫn không quên đâu, phải thế không?...Chuyện cũ đừng

nhắc nữa, cái gì cần nhớ hãy nhớ, cái gì nên quên phải biết quên. Hôm qua trời mưa

nước suối đục, nhưng không đục mãi được. Con người cũng thế”[28, tr. 19,20].

Mẹ già là người rất đỗi nhân hậu, vị tha, nhưng cũng là người phụ nữ phải gánh

chịu nhiều khổ đau nhất, mẹ già luôn day dứt: “Làm dâu mà không làm mẹ thì chỉ là cái

cục đá kê chân cột nhà chồng thôi. Ở hai mươi, ba mươi năm, ở đến lúc chết cũng chỉ là

cục đá kê cột thôi” [28, tr.30]. Mẹ già là người phụ nữ không có lối thoát, phải chấp

nhận và chịu đựng sự đau khổ tột cùng, thân thể và vóc dáng khô héo và chai sạn lại.

Đó còn là áp lực kinh hoàng mà Kía phải gánh chịu, day dứt trong Gió không

ngừng thổi nhất là khi mẹ chồng cô, trước lúc chết đã dặn người con dâu là Kía, lời

trăng trối cũng là món nợ lớn nhất mà đời Kía chưa trả được cho nhà chồng “Bằng mọi

cách phải có một đứa con trai, phải giữ được đất của họ Thào ở Lũng Pục, phải có

người thờ cúng tổ tiên, nhớ chưa” [28, tr.35]. Kía nước mắt ròng ròng, không nói được

câu nào, chết lặng nhìn mẹ chồng ra đi. Rồi khi Kía bị Vàng Chỉn Tờ bên Khau Bủng

cưỡng bức dẫn đến mang thai, Kía cảm thấy vô cùng tủi nhục “…thế thì có tội lớn

56

quá, thế thì có chết khô bảy lần, có chết ướt mười lần cũng không gột rửa hết” [28,

tr.40]. Nhất là đứa bé đó là con trai, sẽ là người nối dõi của dòng họ nhà chồng, đứa bé

trai là nỗi sợ hãi lớn nhất của Kía đã trở thành sự thực “Thế là thằng Chá cứ lớn lên

trong nỗi sợ hãi sâu thẳm của mẹ nó” [28, tr.44]. Kía day dứt, đấu tranh tư tưởng và

lúc nào cũng có cảm giác tội lỗi. Kía lo sợ một ngày chồng mình sẽ phát hiện ra sự

thật, đó là điều kinh hoàng đối với Kía và với cả chồng cô. Kía day dứt vì nghĩ mình

có tội với chồng. Đến khi ốm nặng, sắp về với tổ tiên, Kía vẫn rất day dứt, vì ông

Sùng càng thương yêu bà bao nhiêu thì bà càng day dứt bấy nhiêu, bà muốn nói ra sự

thật với chồng để nhẹ lòng, sau mười bảy năm chịu đựng “Bà biết mình sắp đi theo tổ

tiên rồi. Trước lúc đi, nhất định bà sẽ nói sự thật cho ông Sùng biết. Phải nói cho ông

ấy biết thì bà mới nhắm mắt được, sang bên kia mới dám nhìn mặt bố mẹ chồng. Nhất

định bà sẽ nói” [28, tr.47].

Không chỉ có Kía day dứt, mà đứa con gái của bà là Sèn cũng phải chịu đựng cái

cảm giác đó, bởi Sèn là người chứng kiến cảnh mẹ mình bị hãm hiếp và biết em trai

mình không phải là giọt máu của bố Sùng. Điều đó khiến Sèn lo sợ: “Mọi dồn nén của

bao nhiêu năm đã phút chốc vỡ vụn ra làm Sèn bải hoải, rụng rời. Mười bảy năm nay

lúc nào Sèn cũng nơm nớp lo một ngày bố biết sự thật, bố sẽ giết chết mẹ, giết chết

thằng Chá mất” [28, tr.49]. Nhưng thực ra, bố Sùng đã biết chuyện từ lâu rồi. Cũng

chính vì nỗi sợ này, Sèn không dám đi lấy chồng, Sèn bị ám ảnh, không tin vào bất cứ

người đàn ông nào, trừ bố mình ra. Sự ám ảnh của Sèn giống như cái điều đã xảy ra

với mẹ mình cũng hoàn toàn có thể xảy ra với chính Sèn. Người phụ nữ luôn luôn phải

gánh chịu những rủi do và khổ đau như vậy. Nếu không quá nặng tư tưởng bắt buộc

phải sinh được con trai để nối dõi thì Kía đã không đau đớn và day dứt đến thế, vì Kía

đã làm mẹ và sinh cho ông Sùng một người con gái là Sèn rồi.

Số phận của những người phụ nữ miền núi mặc dù chịu nhiều khổ đau, nhưng

cũng không được phép nói ra, kêu cứu, họ phải lầm lũi chịu đựng như thể đó là

những gì thuộc về họ một cách tự nhiên. Người phụ nữ phải gánh chịu và chấp nhận,

số phận và cuộc đời họ như dòng nước chảy ngầm dưới đá, thậm chí trở thành nét

tính cách riêng của họ “Thế nên đàn bà Thài Phìn Tủng có ở trong nhà hay đi ra khỏi

nhà chỉ nhìn trên mái tranh có khói bếp bay lên hay không mới biết. Đàn bà Thài

57

Phìn Tủng nói ít làm nhiều, không mấy khi buồn cũng không mấy khi vui. Cúi mặt từ

mờ sang đến đêm khuya. Cái lưng cong mãi” [28, tr.77].

Vì nhà nghèo, Mai trong Cạnh bếp có cái muôi gỗ phải bỏ học lấy chồng từ

năm mười bốn tuổi. Mai không sinh được con trai cho nhà chồng, cô sinh được ba cô

con gái. Khi đứa con gái út mới được bốn tháng tuổi thì chồng bỏ đi làm ăn xa,

nhưng thực ra là bỏ mẹ con Mai. Anh ta xuống chợ Lũng Phìn lấy người đàn bà khác

và có con trai. Mai cam chịu, ở nhà tần tảo nuôi con trong thiếu thốn. Người đàn ông

được mặc định cái quyền có thể rũ bỏ tất cả, vợ con máu mủ của mình để đi theo khát

khao là có được cậu con trai. Ba cô con gái kia cũng không là gì so với cậu con trai,

huống chi là người vợ già nua tàn lụi như Mai. Hình ảnh cái muôi gỗ đã mòn vẹt đi

bên bếp lò và người mẹ của ba đứa trẻ nheo nhóc “Mai mặt cúi gằm, tóc xù ra ngoài

vành khăn” [28, tr.79] cho thấy sự thiếu thốn tình cảm, sự đau khổ mà người mẹ trẻ

phải gồng mình lên chịu đựng.

Đó còn là áp lực của chế độ thối nát, khi mà đồng bạc trắng có thể mua được tất

cả, quyết định tất cả, vùi thân phận con người xuống bùn đen, làm kiếp trâu ngựa. Đó

là cô gái mười bảy tuổi tên Chía, không có sự lựa chọn và phải chấp nhận, vì gánh

nặng gia đình và các em “trước mặt Chía là vực sâu, sau lưng Chía là cha mẹ” [28,

tr.99]. Cha mẹ và các em Chía cũng là nạn nhân của thế lực đen tối miền núi đã tồn tại

từ lâu đời chi phối, có tiền là có thể định đoạt mạng sống con người. Sự tàn bạo qua

hình ảnh chiếc cột đá trên đỉnh núi dùng để giết người trong Cột đá treo người.

Cô bé Nhi năm nào trong truyện ngắn Hẻm núi nay đã làm mẹ, phải chịu áp lực

từ làng bản, vì đó là đứa trẻ không có cha. Cô bé Nhi yêu thầy giáo năm mười sáu tuổi,

sau đó làm mẹ trong lặng lẽ mà không oán trách người đàn ông đó (thầy giáo). Hai mẹ

con Nhi và Mí sống với nhau ở căn nhà tít cuối làng. Phải tới mười một năm sau,

người đàn ông trở lại, nhưng đứa trẻ đã chết trong cơn lũ. Nhi đau khổ, dằn vặt “Tôi

gần như nhấc Nhi trong tư thế hóa đá vào trong nhà, đặt Nhi lên giường. Mắt Nhi vẫn

mở trừng trừng, nhìn ra sân mà như không thấy gì” [28, tr.155]. Đó là sự cam chịu của

người phụ nữ suốt mười một năm ròng nuôi con một mình, phải đối diện với mọi

người xung quanh.

58

Trong truyện Mặt trời lên, quả còn rơi xuống là hình ảnh tần tảo, cam chịu của

người vợ tên Duân. Trước kia, Duân cũng là cô gái đẹp, hát rất hay “đôi vai Duân tròn

lắm lại mềm như hai nắm cơm nếp mùa” [28, tr.203], nhưng vì lao động vất vả, lo

toan cho gia đình mà Duân già đi và còm cõi, đôi vai gầy, nhọn. Chồng Duân là Dân

nảy sinh những tư tưởng và suy nghĩ đi ngược lại với tình yêu của Duân, với sự tần tảo

lo toan của Duân. Duân biết và cảm nhận được điều đó, nhưng cô im lặng, không phản

ứng “Duân - vợ Dân đang khom lưng bê chảo cám to tướng lên bếp, lẳng lặng, không

nói câu nào” [28, tr.196].

Đó là người mẹ già của chị em Din và Dân trong Ngải đắng ở trên núi, người

phụ nữ chịu nhiều mất mát, khổ đau, có chồng hi sinh năm con được mười tuổi, bà ở

vậy nuôi mẹ chồng, em chồng và hai con. Người con dâu cả chăm sóc chu đáo mẹ

chồng “người có tiếng khắc nghiệt với con dâu ở Tả Chóong bấy giờ” [28, tr.210].

Thời gian trôi đi, các em và các con đã lớn khôn, còn người mẹ, người chị dâu thì càng

khô héo, tàn lụi vì vất vả lam lũ. Người phụ nữ thành mẹ, thành bà, chỉ còn tấm thân

bé nhỏ khô và lạnh: “Đâu hết rồi mẹ ơi những ấm nồng, đầy đặn ăm ắp sức sống? Đâu

rồi bầu ngực tròn căng của người vợ góa? Đâu rồi mái tóc đầy những mùi thơm của

lúa, mùi cay nồng của ngải đắng, mùi mặn mòi của cỏ tranh bị đốt cháy?” [28, tr.216].

Đó là sự chịu đựng, kìm nén của Mai trong Sải cánh ở trên cao. Mai một mình

nuôi mẹ chồng ốm đau và con nhỏ là Dí. Chồng Mai lên đồn bang tá “xin một chân

quét dọn, chăn ngựa. Từ đấy nó không về nhà nữa, có ra khỏi đồn thì cũng về nhà mụ

Tha góa chuyên nấu rượu cho đồn, ăn ngủ ở đấy một vài ngày, lại quay lại về đồn.

Mai thành người có chồng mà như không” [28, tr.312]. Mai khóc khi mẹ chồng

thương Mai và bảo cô đi lấy chồng khác, nhưng Mai không thể vì không nỡ bỏ mặc

mẹ già ốm đau, Mai mang ơn mẹ chồng vì khi xưa “Không có ông bà mang một con

trâu đến đổi cho phó lý thì hôm nay Mai vẫn là con chó ăn cơm thừa trong nhà ấy”

[28, tr.312]. Mai không biết bố mẹ đẻ của mình là ai, bố mẹ chồng chính là người đã

sinh ra mình. Đến khi đứa con trai là thằng Dí chết vì bệnh tật, Mai sụp đổ và đau đớn

vô cùng “Mai ngồi bên nấm mộ mới đắp, không còn cảm giác gì nữa, cả nỗi đau tận

cùng, sâu thẳm cũng hóa đá rồi” [28, tr.313]. Mai đã có ý định ăn lá ngón tự tử, mặc

dù rất thương mẹ chồng “xin mẹ tha tội cho con, con không biết sống để làm gì nữa,

không thể sống được nữa rồi” [28, tr.314]. Nhưng rồi khi Mai định nuốt nắm lá ngón

59

thì mẹ chồng bước ra, bà cũng dí dao nhọn vào cổ mình và muốn cùng chết với Mai.

Cả Mai và mẹ chồng đều là hai người phụ nữ phải chịu khổ cực, một già một trẻ.

Đó cũng là sự mất mát của người chị dâu, có chồng chết sớm khi chị còn quá

trẻ, chị chưa có con trong Sau những mùa trăng. Người con gái góa chồng từ khi còn

rất trẻ “Đôi má căng, đỏ rừng rực, khuy áo bên trên bật ra trễ nải, để lộ ba ngấn cổ

cao trắng ngần, khuôn ngực phập phồng nhè nhẹ…” [28, tr.339]. Chị dâu phải chịu

đựng, phải sống kiềm tỏa bản thân, sức sống sinh học mạnh mẽ tranh đấu với lí trí. Khi

có tiếng khèn của chàng trai khác đêm nào cũng vọng tới cô “Tiếng khèn lá từ ngoài

suối vọng vào, tiếng khèn lúc gần lúc xa, lúc như tiếng gió dài lê thê, lúc cao vun vút,

rộn rã như tiếng chim buổi sớm…Tiếng khèn như thể nói được nhiều điều lắm, đủ để

cô gái nào đó hiểu rằng chàng trai sẵn sàng làm tất cả vì cô, đổi tất cả những gì mình

có để lấy ánh mắt của cô, bán tất cả để mua nụ cười của cô…” [28, tr.338]. Trước

tiếng khèn lá giục lòng tha thiết đó, người chị dâu cố tìm cách lẩn tránh trong trạng

thái bồi hồi “Tiếng khèn mỗi lúc một réo rắt, đôi tay chị quấn lanh nhanh hơn, cuống

quýt mà ánh mắt thẫn thờ” [28, tr.339]. Người phụ nữ trẻ phải chịu đựng sự cô đơn

khi màn đêm buông xuống. Ban ngày chị là một người hoạt bát, sống với trách nhiệm,

nhưng khi đêm xuống chị sống với con người thật của mình với đầy đủ cảm xúc. Mùa

cốm khi trăng lên là mùa yêu, mùa tuổi trẻ khát khao thúc giục, chị dâu không tham

gia, chị ngậm ngùi, nhất là câu hỏi bâng quơ của những cô gái trẻ “Chị Lân à, làm sao

con gái có chồng rồi mà cứ đẹp mãi, ngày càng đẹp thế?...Bao nhiêu đứa muốn hỏi chị

đun nước lá gì gội đầu mà tóc đen thế, nhiều thế, đun củi gì mà má hồng thế đấy!”

[28, tr.340]. Chị chạy trốn tuổi xuân, hạnh phúc, chạy trốn tiếng khèn lá hàng đêm, chị

dâu phải nuôi mẹ chồng già yếu và đứa em chồng bé thơ. Chàng trai trẻ thổi khèn lá

suốt đêm tên Sìn, nhưng thực ra Lân không nghĩ đến Sìn, mà nghĩ đến Lìn, là người

em chồng. Khi Lìn hỏi, chị dâu bật khóc, tiếng khóc của chị thật đặc biệt “Tiếng khóc

bật ra như nước lũ thượng nguồn không gì ngăn được. Khóc như để trôi đi những bức

bối trong lòng” [28, tr.345]. Đó chính là sự cam chịu, dồn nén và thẳm sâu của người

phụ nữ, chị phải sống suốt đời với ẩn ức đó.

Nhân vật Mai trong tiểu thuyết Cánh chim kiêu hãnh là người phụ nữ phải gánh

chịu nhiều mất mát, đớn đau, kể cả tủi nhục. Chồng Mai là Chúng bí mật đi theo Việt

Minh, chỉ mình Mai biết, còn mẹ chồng tưởng là con trai mất tích. Trong một lần vì

quá nhớ vợ, Chúng đã về với Mai sau đó Mai mang bầu. Lúc đó mẹ chồng vẫn đang

60

lặn lội đi tìm con. Cơ sự nảy sinh từ đây, Mai không thể nói ra với mẹ chồng vì phải

giữ bí mật tuyệt đối cho Chúng “Mai không biết nói thế nào với mẹ chồng về giọt máu

họ Hoàng này” [31, tr.37]. Biết nói thế nào khi chồng thì mất tích, còn mình lại mang

một cái bụng lớn từng ngày. Mai không thể nói ra, bởi như có một cái lõi ngô nút chặt

trong cổ vậy. Mai bị người làng khinh rẻ, mặc dù khi đi nương Mai đã chủ động chọn

đi đường vòng để tránh mặt, nhưng Mai vẫn gặp phải người làng “Gặp Mai, người ta

tránh ra một đoạn, đợi Mai đi qua họ nhổ phụt một bãi nước bọt” [31, tr.39]. Mai đã

phải cắn răng chịu đựng. Mãi cho tới khi Mai sinh con, khi nhìn đứa bé giống y đúc

Chúng, người mẹ chồng héo hon mới kịp nhận ra và thốt lên. Cũng lúc đó, Mai vỡ òa

“Bao nhiêu đau buồn, tủi nhục đè nén bấy lâu như đột ngột bị đập vỡ, Mai nức lên: -

Thì nó là con anh ấy mà, mẹ ơi…” [31, tr.40]

Gần một năm sau, Chúng lại trốn về với vợ, nhưng lần này anh bị giặc bắt và

bị chém đầu thị uy. Mai góa chồng, đau khổ và khắc khoải trong thương nhớ chồng,

mẹ chồng cũng vì khóc con mà mù một bên mắt, mắt bên kia cũng chỉ còn nhìn mờ

mờ được thôi. Mai muốn được ở cùng với chồng - tức lựa chọn cái chết “Mai thèm

điều ấy biết bao, nếu có thể nằm xuống đó, ngay gần chồng, và có một con chó tuyệt

đối trung thành bên cạnh, thì sẽ chẳng còn gì phải nghĩ nữa” [31, tr.53], nhưng Mai

không thể, vì còn người mẹ già mù lòa và đứa con nhỏ.

Mai bị yêu cầu bắt buộc phải lên đồn nấu cơm hầu hạ bọn quan tây, nhưng

“…các quan muốn ăn gì là phải cho các quan ăn bằng được đấy, kể cả không phải

cơm” [31, tr.69]. Một nguy cơ thực sự lại trùm lên đầu Mai “Cứ tưởng đưa được Mai

về nhà này, thoát khỏi đòn roi hắt hủi trong nhà lý trưởng là cuộc đời Mai được đổi

thay, ai ngờ có ngày hôm nay chứ” [31, tr.69]. Mai phải để con nhỏ ở nhà cho mẹ

chồng và ra đi, trốn theo Việt Minh. Mai nhớ con day dứt, quặn ruột, bầu ngực căng

cứng vì sữa tiết ra, sợi dây linh cảm liên hệ giữa mẹ và con. Mấy tháng sau Mai mới

trốn về thăm con, Mai ao ước và khát khao được ở cùng con, hai mẹ con có nhau mãi

mãi “hai mẹ con cùng lên nương, cùng ra sông thả đó bắt cá, chiều chiều cùng vào

trong núi tìm trâu. Nghe tiếng mõ lóc cóc nhà mình ở hướng nào thì theo hướng đó mà

tìm. Chắc con sẽ lon ton chạy trước, chốc chốc lại nấp vào đâu đó trốn mẹ. Rồi buổi

tối, mẹ sẽ ngồi bên bếp băm rau nấu cám, bà sẽ đan xoỏng, con sẽ vùi mấy củ sắn vào

bếp và ngồi chồm hỗm để chờ” [31, tr.102]. Người phụ nữ khát khao một cuộc sống

yên bình, thanh thản bên gia đình nhỏ mà không thể.

61

Trong tiểu thuyết Chúa đất, đau xót và đáng thương nhất là người vợ Cả của

Sùng Chúa Đà. Bà về làm dâu năm mười sáu tuổi, lúc đó bà “như bông hoa đào vừa

nở ở đầu cành, bị vặt một phát, ném luôn vào sân nhà chúa đất…Bông hoa đào đáng

lẽ được yêu chiều, được nâng niu, lại bị bỏ quên trong xó buồng y như một cái váy

rách” [32, tr.12]. Đó là số phận bi thương của biết bao người phụ nữ. Nhưng nghiệt

ngã hơn là Sùng Chúa Đà không có bản năng đàn ông. Bà mãi là trinh nữ chứ không

được thành đàn bà, thành vợ, thành mẹ vì thế bà phải sống trong khát khao, héo mòn,

tàn lụi. Khi mãi không có con, bà bị mẹ chồng ép hỏi và bị kết luận nguyên nhân là do

“Nó không thích mày rồi”, và ngay hôm sau bà thành vợ Cả, vợ Hai là đứa gái mới

mười bốn tuổi.

Mặc dù đã có vợ hai, nhưng đêm nào, Chúa Đà cũng sang buồng vợ Cả, dày vò

vợ Cả bằng hành động bạo dâm “Đà vồ lấy bà, cắn xé bà, vò nát bà, sục sạo khắp

người bà bằng bàn tay to lớn, cứng như sắt” [32, tr.18]. Đó là sự hành hạ gây nên nỗi

sợ hãi kinh hoàng với bà “Nhưng Đà không xộc vào trong người bà được. Đà, to lớn

cường tráng như thế, mà không thể làm gì nổi một đứa gái Mông đang căng tròn,

mọng như một quả lê sắp chín” [32, tr.18]. Tiếp theo bà, là vợ hai, vợ ba, nhưng

không ai đẻ được, và không ai được trở thành đàn bà.

Trong số các người vợ của Chúa Đà, chỉ có duy nhất bà Cả là đem lòng yêu

thương Đà thực sự, nhưng đó là tình yêu trong sự đau đớn tột cùng, đó là tình yêu

không được đáp lại, thậm chí Chúa Đà còn không thể hiểu bà, không biết rằng bà yêu

mình. Bà Cả già có số phận thảm thương giống như con chó già, vốn trung thành hết

mực với bà. Vì chủ, nó cũng đã hi sinh thanh xuân, tình yêu, làm mẹ để trung thành.

Con chó cũng hệt như bà vậy “Nó thành một con chó cái già, xấu, cô độc, không con

cái” [32, tr.119].

Thân phận người phụ nữ bị coi thường và rẻ rúng trong con mắt của thế lực

thần quyền miền núi “Từ ngày về làm dâu nhà Sùng Chúa Đà, từ lúc Chúa Đà có vợ

hai, thì bà cũng quên cả tên bà. Một cái tên thật đẹp, bố mẹ phải nhờ người đặt cho

vừa với vẻ đẹp của đứa trẻ là bà. Từ lâu bà quen nghe người ta gọi là bà Cả. Bà là

người đàn bà quyền uy nhất trong dinh thự chúa đất. Ngủ trên đống bạc, ăn những

món ngon nhất, mặc những thứ đẹp nhất…Nhưng bây giờ thì bà có gì? Bà không có gì

cả. Bà đã từng khao khát một cuộc sống bình dị như bao người phụ nữ bình thường

khác, được ở cùng cha mẹ, được lao động, yêu thương và làm mẹ, muốn hát, muốn

62

cười… Nhưng bà không thể, bởi “Bao nhiêu người sống dựa vào bà như cây tầm gửi

mọc trên thân cây gạo. Nếu cây gạo tự nhổ gốc, tự quay về chốn cũ, thì chẳng phải

tầm gửi chết theo hết sao” [32, tr.156,157]. Trên lưng người phụ nữ này là gánh nặng

và sự ràng buộc của gia đình, anh em họ hàng, vì nghèo đói, bà phải hi sinh, cắn răng

chịu đựng. Bà còn dằn vặt trách mình, tại mình mà con cháu sống dựa dẫm ỷ lại,

không độc lập, không biết làm ăn. Bà luôn phải sống trong trạng thái dằn vặt và giằng

xé như thế.

Cuộc sống cứ thế trôi đi, người phụ nữ tàn lụi dần theo thời gian, tàn lụi cả về

thể xác lẫn tinh thần. Đã từ lâu bà Cả không còn cảm giác buồn vui nữa rồi “Buồn hay

vui, sợ hãi hay vui sướng, đều không có trong tâm hồn bà. Bà như cái vũng nước dưới

vực, tít dưới đáy sâu, tối tăm, câm lặng. Một cái vũng nước không ai nhìn thấy, không

ai động đến, kể cả gió, kể cả mặt trời” [32, tr.266].

Ngay cả người phụ nữ mạnh mẽ và cá tính, đầy quyết liệt như vợ tư của chúa

đất là Vàng Chở, cuối cùng cũng gục ngã, vì sự tan vỡ và phản bội của Lù Mìn Sáng.

Khi cả Chở và Sáng bị bắt đến trước mặt chúa đất, và nhất là những hành động van xin

của Sáng với chúa đất, đã khiến Chở gục ngã và tan nát, bởi Sáng đã phản bội Chở

“Chở khụy hai đầu gối xuống. Thằng Lù Mìn Sáng kia, chính nó đã cướp mất linh hồn

Chở, nó nhổ nước bọt, không, nó đái vào tình yêu Chở giành cho nó”[32, tr.69]. Chở

cứ tin rằng Sáng yêu mình thật và cả hai sẽ hiên ngang lựa chọn cái chết nhẹ tựa lông

hồng, bởi với Chở “Chết thôi mà, ai chẳng có lúc chết. Sợ gì chứ? Sống như mình

muốn mới khó, chết thì hết rồi còn đâu, sao phải sợ” [32, tr.69]. Chở không ngờ Sáng

lại hèn nhát đến thế.

Khi đám quạ bay đến rỉa xác Sáng trên cột đá, ở phía bên này của cột đá, Chở

khóc, nhưng khóc vì tiếc thương cho chính bản thân mình “Nước mắt Chở chảy ra.

Một lúc đã đóng băng trên lông mi Chở. Nước mắt tự dưng lại chảy, mà chảy vì cái gì

chứ? Chảy vì tiếc cho thân thể đẹp đẽ của mình có lúc phải làm mồi cho bọn quạ đen

bẩn thỉu” [32, tr.80]. Bọn quạ đen bẩn thỉu chính là Sùng Chúa Đà, là Lù Mìn Sáng và

chế độ hà khắc bóp nghẹt người phụ nữ, là sức mạnh của đồng bạc trắng. Người phụ

nữ không bao giờ thoát ra được sự đày đọa đó

Trong tiểu thuyết Bóng của cây sồi, là cô gái tên Kim, sau khi mẹ mất phải

sống một mình. Mặc dù rất xinh đẹp “Kim xinh đẹp nhất làng nhưng cũng như mẹ, đã

mười tám tuổi rồi mà không ai muốn lấy về làm vợ. Dòng máu chảy trong người Kim,

63

như người già nói, không phải màu đỏ mà là màu đen. Gột rửa mười đời không sạch

được” [29, tr.22]. Đó là sự kỳ thị nghiệt ngã, truyền kiếp của những đồn đại xưa cũ mà

những người phụ nữ phải gánh chịu. Bà ngoại Kim không có lỗi, mẹ Kim và nhất là

Kim càng không có lỗi, nhưng họ phải mang thân phận đó trong con mắt cộng đồng,

cũng truyền kiếp. Họ không sao thoát được sự mặc định kỳ thị đó, và phải sống với nó

suốt đời. Mẹ Kim phải cam chịu, dồn nén, bà chỉ giải tỏa chút ít bằng những tiếng thở

dài khi đêm xuống “Sau mỗi ngày cúi mặt xuống đất, tai nghe những lời lao xao gần

xa vẳng tới, chỉ đêm về, sự dồn nén mới được bung ra…Mỗi ngày mắt mẹ một quầng

thâm, trũng sâu, lạnh lẽo, buồn thảm.” [29, tr.77].

Kim muốn vùng thoát khỏi sự kỳ thị đó bằng cách giải thoát và chấm dứt sự

sống, Kim tự vẫn nơi hai dòng nước giao nhau, một ấm một lạnh, nhưng đúng lúc đó

Phù đã xuất hiện và cứu Kim. Phù và Kim yêu nhau, nhưng Phù là con trai duy nhất

của dòng họ lớn, bố là trưởng bản, nên cuối cùng Phù không đủ nghị lực và quyết tâm

để vượt qua sự kỳ thị, vượt qua cái bóng của bố, của gia đình, dòng họ, cộng đồng,

bóng của cây sồi…để đến với Kim. Lời bố nói với Phù như một mặc định chia cắt đôi

trẻ “Họ Nông ở Lao Chải xưa nay chưa có ai làm bẩn dòng họ, mày là đời thứ chín

đấy nhé. Tự biết lấy việc gì nên làm, không nên làm…”[28, tr.29]. Lời của bố Phù

cũng là lời của trưởng bản, là phát ngôn cho cộng đồng. Kim bị coi là kết quả của sự ô

uế, là mầm lây lan sự uế tạp, người mang dòng máu đen. Phù không dám cãi, mặc dù

Phù biết dòng máu trong nguời Kim cũng đỏ như tất cả mọi người. Kim đã từng chứng

minh cho Phù thấy “Phù nhìn hai bàn tay mình đây này, hai bàn tay này đứt bao nhiêu

vết, chảy bao nhiêu máu. Máu mình cũng đỏ như máu người Dao người Tày Lao Chải,

không phải màu đen như người ta ác miệng nói đâu” [29, tr.25].

Mẹ Phù cũng là người phụ nữ tủi khổ và vất vả, vì lấy vào dòng họ Nông, cần

có con trai nối dõi, nên bà đã sinh cho bố Phù mười hai người con rồi, nhưng đều là

gái, Phù là con trai út, đứa con thứ mười ba. Bà Nhì cũng là “Người đàn bà sống trong

thung lũng chật hẹp không có ước muốn gì hơn là bữa nào nồi cơm trên bếp cũng sôi

lục bục” [29, tr.31].

2.3.3. Người phụ nữ với nỗi khát khao thầm kín, không thể giải tỏa

Cũng là một sinh thể, một con người hoàn thiện, phụ nữ cũng có những cảm xúc

của cá nhân mình, đó là nỗi khát khao tình yêu, hạnh phúc, khát khao được làm mẹ,

64

làm vợ, làm đàn bà. Những cảm xúc và khát khao đó vốn rất đời thường, rất chân thực

- đó là sống. Tuy nhiên, do phải chịu một hoàn cảnh đặc biệt như thế nên những cảm

xúc bình dị đó trở nên xa vời, thậm chí là méo mó, dị dạng và quay trở lại thành một

áp lực ẩn ức đè nặng lên tâm trí người phụ nữ. Họ phải sống trong sự giằng xé, bị kiềm

tỏa, ghì nén trong khát khao mãnh liệt cùng với sự tủi hổ, lo lắng, kinh sợ. Không lối

thoát, không giải pháp, họ luôn phải chịu gánh nặng tâm lí cho tới khi tàn lụi, muốn

chấm dứt sự sống để giải thoát cũng không thể.

Trong những câu chuyện của Đỗ Bích Thúy, hay cụ thể là những thân phận

người phụ nữ miền núi, trạng thái ẩn ức sâu kín nhất, nhưng cũng mãnh liệt và chân

thực nhất đó chính là khát khao tình cảm vợ chồng, khát khao xác thịt từ tình yêu đích

thực, khát khao được làm đàn bà, như một quy luật của vạn vật.

Trong Lặng yên dưới vực sâu, là Súa sống với những gì sâu kín nhất, của mối tình

dang dở, của sự khắc khoải khát khao thực sự. Mối quan hệ vợ chồng với Phống chỉ là

một chiều mà thôi, Phống giống như con tắc kè bám trên mình vợ, Phống chỉ giữ được

da thịt chứ không giữ được tâm hồn Súa. Tại thời điểm Súa gặp Vừ vào hôm đi làm

nương về muộn, mặc dù Súa không đi quá giới hạn, nhưng ẩn sâu trong tâm khảm Súa

là nỗi khát khao mãnh liệt “Cơ thể nóng sực, nặng trịch của Vừ ấn Súa chìm sâu vào bó

ngô ấm áp. Không còn tiếng gió hú nữa, không còn cảm giác lạnh buốt lùa vào từng

chân tóc nữa, chỉ còn tiếng thở gấp gáp và hơi thở nóng nực của Vừ đang phả vào mặt

Súa. Súa đờ ra. Vừ vùi mặt vào ngực Súa, Súa cảm thấy luồng hơi nóng từ Vừ đang lùa

qua cả lớp vải dày, xộc vào ngực mình. Cái gì đó như kim châm đang lan dần khắp cơ

thể. Mặc kệ ông trời, mặc kệ U Khố Sủ, mặc kệ Tráng A Phống, mặc kệ cả tiếng lợn kêu

đòi ăn từ ngôi nhà trên cao kia đang gào rống. Mùi của tóc, mùi của da thịt, của quần

áo người đàn ông đang chẹn trên người đã khiến Súa chết đi sống lại bao lần đang ùa

về, quay kín lấy Súa. Bàn tay vừa cứng cáp vừa mềm mại của Vừ đang bắt đầu lần tìm.

Mặc kệ thôi. Cha ơi, mẹ ơi, rừng núi ơi, ông trời ơi, Súa phải mặc kệ thôi” [30, tr.67-

68]. Cuộc gặp gỡ và tiếp xúc bất ngờ giữa Súa và Vừ chỉ dừng lại có thế, không ai biết

ngoài người em chồng của Súa là Nhí, nhưng Nhí đã kịp nhìn thấy và nhớ mãi khoảnh

khắc của chị dâu mình với ánh mắt “vừa thèm khát đến phát cuồng, vừa đau đớn đến

tận cùng, vừa sợ hãi đến bạc nhược của chị dâu nữa” [30, tr.101].

Rồi ngay cả Nhí - cô gái Mông xinh đẹp, sống trong ngôi nhà to nhất, nhiều ngô lúa

và gia súc nhất Sán Séo Tỉ “như một bông tam giác mạch lúc sắp tàn” [30, tr.21] nhưng

65

lại bị câm. Hạnh phúc tưởng chừng như mở ra và nhen nhóm trong tim của cô gái đương

tuổi dậy thì khi gặp người đàn ông nuôi ong là Tân. Được Tân chia sẻ và tôn trọng, Nhí đã

này sinh tình cảm với Tân, đã sẵn sàng và khát khao dâng hiến với một tình yêu cháy

bỏng, mãnh liệt, một tình yêu thương vô bờ bến “Và đêm mưa gió ấy, bàn tay người đàn

ông này đã chạm vào ngực Nhí, rất khẽ khàng, bên ngoài lớp vải áo dày cộm. Nhí cảm

thấy từng cơn run rẩy ùa đến, ùa đến, nhưng một điều gì đó, rất vô hình đã khiến Tân

cưỡng lại được nỗi khát khao. Và cuối cùng, Tân chỉ ôm chặt Nhí, căng cứng và nóng

bỏng trong vòng tay mạnh mẽ, ôm mãi, đến nghẹt thở…” [30, tr.76]. Thế nên khi thằng

cháu nhỏ nghịch ngợm của Nhí là Chá thọc tay vào ngực cô và hét lên “Của Chá chứ”,

Nhí đã không đánh vào tay nó, nỗi khát khao vô hình từ đâu đó vẫn rình rập quanh Nhí,

không cho Nhí yên. Người đàn ông mà Nhí yêu thương và sẵn sàng dâng hiến là Tân đã

chết. Tất cả đã thực sự kết thúc và dừng lại đột ngột với Nhí. Tân mất đi khiến người con

gái chưa bao giờ nói được ấy đã hét lên “Nà…à…y…!. Tiếng thét muốn phá vỡ lồng ngực

bật ra khỏi cuống họng mảnh mai của Nhí” [30, tr.73], Khi Súa tìm được Nhí “thì cô đã

gần như hóa đá. Mặt Nhí trắng bệch, hai con mắt đờ đẫn, vài sợi tóc bết dính vào má, tay

Nhí vẫn nắm chặt tay Tân” [30, tr.77].

Đó còn là người mẹ già của May trong Tiếng đàn môi sau bờ rào đá, tưởng

chừng như đã khô héo rồi, nhưng ẩn sâu bên trong vẫn là tình yêu mãnh liệt cháy âm ỉ

bên trong con người mẹ già, khắc khoải, câm lặng, hi sinh và chịu đựng. Hình ảnh

người mẹ già trong phiên chợ Tình ngày hai bảy thật đặc biệt, đó chính là cô gái Mao

thuở nào “người mặc váy áo rực rỡ cầu vồng” hay hình ảnh mẹ già đẩy cửa bước theo

tiếng gọi của tiếng đàn môi sau bờ rào đá mà May nhìn thấy vẫn chỉ là ngọn lửa bùng

cháy trong một thời khắc nào đó của cuộc sống bình lặng mà thôi. Chiếc váy được cất

kĩ trong hòm gỗ thỉnh thoảng lại được mang ra ngắm nghía, vuốt ve tựa như nỗi khát

khao cháy bỏng, tình yêu vĩnh cửu của Mao, của người phụ nữ đẹp nhưng có thân

phận đáng thương. Có lẽ, khi trời sáng, mẹ già lại trở về với đúng hình ảnh vốn có của

mình, lầm lũi như “hòn đá kê chân cột nhà chồng” ngày này qua tháng khác. Cùng

một lúc phải sống cho cả hai thời, hiện tại và quá khứ; cùng một thời điểm phải sống là

hai con người, người vợ và người yêu. Con người phải sống trong sự giằng níu giữa

đôi bờ của quá khứ và hiện tại.

Người phụ nữ tên Kía trong Gió không ngừng thổi luôn khao khát mùi mồ hôi

của chồng, đó là bản năng sinh học bình thường của người phụ nữ khỏe mạnh. Nhưng

66

ông Sùng đã lụi tắt “Đã lâu rồi, Sùng không làm cái việc của một người chồng với

vợ…Cái mùi mồ hôi rất thân thuộc ở ngay bên cạnh, Kía chỉ mong được vùi mặt vào

đấy mà hít hà cho thỏa, nhưng Sùng luôn luôn ngủ rất nhanh và rất say” [28, tr.42].

Trong Sải cánh ở trên cao là nỗi khát khao sâu kín, ngột ngạt của một người phụ

nữ trẻ là Mai bởi “Cuộc sống khó khăn thiếu thốn trăm bề ở rừng không làm Mai khô

héo đi mà ngược lại, người phụ nữ một con như cây Bjoócmạ được ngâm mình trong

dòng nước mát, đã nở bung ra, rực rỡ và căng đầy sức sống” [28, tr.322]. Rồi khi Mai

tiếp xúc với Sinh trong hang lạnh, lúc phải lẩn lánh sự truy lùng của giặc “Mai bối rối

vô cùng, một nỗi ham muốn vô tình tràn đến. Đã bao nhiêu đêm trằn trọc trong lán,

giữa bốn bề rừng núi Mai đã hình dung đến vòng tay của Sinh, chỉ hình dung thôi,

không bao giờ dám nghĩ gì hơn. Mai là gái đã có chồng, hơn thế thằng chồng lại theo

gót bọn Tây mũi dài bán rẻ đồng loại, Mai tủi hổ vô cùng. Mỗi khi gặp ánh mắt tha

thiết của Sinh hướng về phía mình, Mai lại quay mặt đi. Phải có một người con gái

thật đẹp, thật tài giỏi mới xứng với Sinh.”[28, tr.325]. Trạng thái cảm xúc của Mai là

ẩn ức của người phụ nữ với khát khao bình thường và chính đáng của sức sống tuổi

trẻ, thế nhưng xen lẫn nó lại là nỗi tủi hổ khi thấy bản thân mình không xứng và còn

tủi hổ do tội lỗi của chồng mình gây ra. Nỗi khát khao chỉ dừng lại ở sự hình dung và

đôi cánh tay của Sinh mà thôi. Mai vẫn đang ở trong vòng tay của Sinh, vòng tay Sinh

ấm nồng vô cùng, nhưng Sinh đã ngủ trong khi ôm Mai. Khi nhận ra điều đó “Tự dưng

Mai như người bước hụt, rồi nỗi tủi hổ dâng lên làm Mai bật khóc” [28, tr.325].

Cũng là nhân vật Mai trong tiểu thuyết Cánh chim kiêu hãnh, sự cô đơn, trống

trải, khát khao trong hoài niệm với người chồng đã bị giặc giết hại là Chúng. Trong

đêm đông giá buốt và cô đơn, Mai nhớ con và nhớ chồng, đó là nỗi khao khát làm mẹ

và khao khát làm vợ lúc nào cũng choán hết trong tâm trí Mai. Nhất là nỗi nhớ chồng,

cho dù chỉ còn là chiếc áo Mai đem theo“Chiếc áo ấy ở ngay dưới gối Mai đây.

Nhưng chưa lần nào Mai dám áp nó vào má như thường áp vào cái áo bé tý của thằng

Dí. Mai sợ mình không chịu được, mình sẽ phát điên khi thấy lại cái mùi quen thuộc

của chồng…” [31, tr.124]. Nhưng trước sự cô đơn đến nao lòng, Mai không kìm nén

được nỗi nhớ, người đàn bà là Mai phải khổ sở, vật lộn, dằn vặt giữa hai thái cực cảm

xúc con người là nhớ và không dám nhớ “Ngần ngừ rất lâu rồi Mai nhất quyết luồn

tay xuống gối, lấy lên cái áo của chồng, và ngay lập tức úp nó vào mặt. Trời ơi, Chúng

về đây rồi, ngay bên cạnh Mai đây. Như thể còn có cả hơi thở dồn dập, nóng nực phả

67

bên tai, và gương mặt đầy râu nữa, hối hả rúc vào cổ, vào ngực Mai…Thiếu chút nữa

thì Mai đã gào lên. Bao nhiêu cảm xúc đột ngột ùa về, căng cứng, bóp nghẹt lồng

ngực. Bao nhiêu khao khát bấy lâu tưởng như đã mất hút như một miếng gỗ mục bị

dòng nước cuốn đi trong cơn lũ, bỗng dưng trở lại, cháy rừng rực. Dường như đâu

đây vẫn còn có cả tiếng cười rinh rích và giọng nói không giấu nổi thèm khát của

Chúng nữa: “Thèm thịt quá đi mất, thèm chết mất thôi. Cho chồng ăn thịt cái nào?”

[31, tr.125]. Mai khóc và cảm thấy “chưa lúc nào khó sống tiếp như lúc này. Đường

thì dài hun hút, toàn hùm beo lang sói, bàn chân đàn bà thì mảnh mai, lòng dạ đàn bà

thì yếu đuối” [31, tr.325].

Đó là trạng thái chung, sâu kín những cũng đầy mãnh liệt của những người phụ

nữ đáng thương, bị vùi dập, vỡ nát. Cô gái Mông đầy cá tính trong Chúa đất là Vàng

Chở đã không ngần ngại lựa chọn quyết liệt và đã nói ra sự thực đó là tất cả họ đều

khao khát làm được làm vợ, làm mẹ đúng nghĩa “Tất cả đám đàn bà trong nhà này,

khi đã đi qua cái cổng kia, thì không được làm đàn bà nữa. Chỉ làm chăn đệm cho

Chúa Đất gác chân thôi. Chị có muốn đẻ không? Chị Hai, chị Ba có muốn đẻ không!

Ầy, ai chả muốn. Muốn có được không?”[32, tr.52].

Ngay cả người phụ nữ được sống với người đàn ông mà mình yêu thương là bà

Cả, nhưng đó là tình yêu trong trạng thái mệt mỏi, đau đớn suốt cuộc đời, và nhất là

người mình yêu lại không hiểu gì về mình, thậm chí không biết là mình yêu họ. Ẩn ức

tột cùng của bà Cả được bộc lộ rõ nhất qua thời khắc là cái đêm chúa đất say rượu, trở

lại căn buồng lạnh lẽo của bà sau ba mươi năm. Bà thật đáng thương, bà ngồi suốt đêm

không ngủ, lo sợ và say trong khát khao hạnh phúc quá đỗi mong manh và không trọn

vẹn, dù chỉ là một mảnh vỡ, một hơi thở, một cánh tay, dáng hình, bà chỉ khao khát có

thế, bà yêu Chúa Đất, “Bà thấy mệt mỏi rã rời. Đêm qua là cái đêm gì? Bà đã chờ đợi

nó suốt bao nhiêu năm, đã ngừng cả thở không biết bao lần khi nghĩ đến nó. Cuối

cùng nó chỉ như thế” [32, tr.184]. Bà giống như cái hũ muối vứt trong xó bếp.

Người vợ hiền tần tảo trong tiểu thuyết Bóng của cây sồi cũng phải gánh chịu

trong mình một nỗi ẩn ức, đó là vì Phù chọn lấy Mai không phải vì yêu Mai, mà là để

chạy trốn Kim mà thôi, Phù luôn bị ám ảnh và không thể quên hình ảnh của Kim trong

cái đêm Phù kéo Kim từ dưới sông lên, trong ánh trăng sáng rọi. Mai cũng là cô gái có

giọng hát cực hay, nhưng lại là người con gái không có nhan sắc, thậm chí là xấu. Mai

cũng không thực sự yêu Phù, Mai đồng ý lấy Phù cũng vì cha mẹ. Mai về nhà chồng,

68

càng ngày càng khô héo, và nhất là mãi chưa sinh con, bị người ngoài ví là con ngỗng

đực. Trong đời sống vợ chồng “Mai chỉ được làm vợ Phù những đêm tất cả trăng sao

trên trời đều tắt ngấm, không một tí ánh sáng nào lọt vào qua khe cửa, và Phù thì phả

ra hơi rượu” [29, tr.142]. Phù cũng không yêu Mai, bởi thế hai người chung sống với

nhau mà không có tình yêu thì người phụ nữ sẽ khổ hơn“Số lần Mai được làm vợ chỉ

đếm trên đầu ngón tay trong một tháng, một năm. Trong bóng tối mịt mùng và hơi

rượu nút kín hai lỗ mũi, Mai không nhớ được gì. Không thể nhớ được gì ngoài cảm

giác buốt như kim châm trên hai bờ vai” [29, tr.143].

Tiểu kết

Người phụ nữ miền núi Đông Bắc mặc dù đóng góp rất nhiều vào sự tồn tại về cả

đời sống vật chất và tinh thần trong xã hội, là biểu tượng cho sự cần cù, chịu thương

chịu khó, là đối tượng ca ngợi của thi ca, của tình yêu nhưng trong đời sống thực tại,

họ lại là những người yếu thế, bị xã hội đè nén, thân phận bị coi rẻ và phụ thuộc.

Suốt cuộc đời họ là lo toan về gánh nặng con cái, chu toàn cho gia đình, là áp

lực từ định kiến, từ hủ tục. Họ tần tảo và vất vả, tinh thần luôn bị dằn vặt tổn thương,

tấm lưng cứ còng mãi xuống, người phụ nữ sống cho người khác, vì người khác, sống

trong ràng buộc nhưng chưa bao giờ họ được sống cho mình, đúng với cảm xúc và

mong ước của mình.

Người phụ nữ miền núi có thân phận thấp kém nhất, đó là sự mặc định mang

tính trái ngược với sự vĩ đại của họ, đó là sự định kiến sai lệch của xã hội đối với họ.

Với những định kiến đã tồn tại từ lâu của cộng đồng về thân phận của những người

phụ nữ, họ hoàn toàn không có quyền quyết định tương lai của mình, đưa ra sự lựa

chọn của bản thân, tiếng nói của họ không có giá trị. Những người phụ nữ phải chịu

ràng buộc, phải chấp nhận, cho dù là khổ đau, là đi ngược với ước muốn của mình, đôi

khi là không thể lựa chọn cái chết.

Số phận của những người phụ nữ miền núi mặc dù chịu nhiều khổ đau, nhưng

cũng không được phép nói ra, kêu cứu, họ phải lầm lũi chịu đựng như thể đó là

những gì thuộc về họ một cách tự nhiên. Người phụ nữ phải gánh chịu và chấp nhận,

số phận và cuộc đời họ như dòng nước chảy ngầm dưới đá, thậm chí trở thành nét

tính cách riêng của họ.

69

Chương 3

MỘT SỐ CÁCH THỨC THỂ HIỆN ẨN ỨC NỮ TÍNH QUA SÁNG TÁC

CỦA ĐỖ BÍCH THÚY

3.1. Hệ thống biểu tượng

Trong tiến trình phát triển, loài người đã trải qua năm hình thái xã hội. Song

song và tồn tại cùng tiến trình đó là sự nảy mầm và phát triển nở rộ của khoa học, để

khoa học thực sự phát huy được chức năng giải mã và minh định các tri thức dân gian

cũng như các tri thức khoa học thuần tuý thông qua các biểu tượng. Biểu tượng không

chỉ được xem như đối tượng chính trong nghiên cứu khoa học mà còn được xem “là

ngôn ngữ tượng trưng chỉ có ở loài người và là tế bào của đời sống văn hóa”. Đi tìm

bản sắc dân tộc qua thế giới biểu tượng là một trong những hướng đi hứa hẹn nhiều

thành công không chỉ đối với các nhà văn hóa học, dân tộc học mà còn là cách tiếp cận

khả dĩ của các nhà nghiên cứu văn học trong những năm gần đây, khi mà vấn đề bản

sắc dân tộc, vấn đề truyền thống và hiện đại luôn được quan tâm, nhất là đối với mảng

văn học các dân tộc thiểu số, nhằm xác định hướng đi cho văn học trong giai đoạn hội

nhập quốc tế ngày càng rộng rãi và sâu sắc: “Muốn tìm được bản sắc văn hóa dân tộc

một cách chính xác thì cần phải thông qua các hệ thống biểu tượng có trong lòng mỗi

dân tộc”.

Cảm thức biểu tượng trong tư duy văn hoá nhân loại đã tạo nên một thế giới

biểu tượng hết sức đậm đặc và sinh động trong quá trình hình thành và phát triển của

các nền văn minh. Hiện nay, theo quan điểm của các nhà xã hội học hiện đại, biểu

tượng chính là những "đơn vị cơ bản" của văn hóa. Việt Nam là nơi quần tụ của hơn

năm mươi dân tộc anh em, mỗi dân tộc là một kho tàng văn hóa độc đáo và riêng biệt.

Trước nay, việc nghiên cứu biểu tượng trong văn học đã được đề cập trong một vài

công trình chuyên biệt, hoặc được lồng ghép trong các công trình nghiên cứu văn hóa

dân gian. Tuy nhiên, những nỗ lực nghiên cứu nói trên còn hết sức hạn chế bởi sự đa

dạng và phong phú của hệ thống biểu tượng. Trong đề tài này, chúng tôi sẽ triển khai

những biểu tượng văn hóa cụ thể thông qua tác phẩm của Đỗ Bích Thúy để thấy được

diện mạo văn hóa vật chất - tinh thần - tâm linh của các dân tộc sống ở miền núi cao.

Và ở một chừng mực nào đó - trong một cái nhìn rộng hơn, xác lập cái nhìn mới về

70

hiện thực và con người miền núi, đặc biệt là những biểu tượng liên quan đến người

phụ nữ qua những sáng tác của Đỗ Bích Thúy trong tương quan với hệ thống biểu

tượng.

STT Biểu tượng Tần suất xuất hiện

Trang phục 42 1

Lanh 34 2

Tiếng đàn môi 16 3

Bếp lửa 56 4

Ngô 134 5

(Bảng thống kê một số biểu tượng liên quan đến văn hóa miền núi Đông Bắc về

người phụ nữ trong các sáng tác của Đỗ Bích Thúy)

Kết quả khảo sát của chúng tôi cho thấy hệ thống biểu tượng mang đặc trưng

văn hóa miền núi xuất hiện với nhịp độ phong phú, với những biểu hiện cụ thể cho

từng mảng văn hóa khác nhau trong tổng quan văn hóa dân gian miền núi. Đỗ Bích

Thúy đã sử dụng những biểu tượng này như một phương pháp nghệ thuật đắc dụng

nhằm chuyển tải thông điệp nhân văn về hiện thực và con người miền núi đặc biệt là

người phụ nữ trong các tác phẩm của chị.

3.1.1. Trang phục

Trang phục là nơi bản sắc dân tộc biểu hiện rõ rệt, thường xuyên và lâu bền

nhất. Trang phục người Mông thể hiện sự tài hoa, sức sáng tạo bền bỉ của người phụ

nữ. Người phụ nữ Mông từ nhỏ được học cách may áo, may váy làm nên những bộ

trang phục truyền thống của dân tộc mình. Trong tác phẩm Đỗ Bích Thúy, nhà văn đã

có nhiều trang viết miêu tả vẻ đẹp bộ trang phục của dân tộc Mông và vẻ đẹp của con

người khi làm ra và mặc bộ trang phục ấy.

Trang phục của người Mông được làm bằng cây lanh. Cây lanh từ khi trồng, thu

hoạch đến khi may thành một bộ trang phục là cả một quá trình lâu dài, trải qua nhiều

công đoạn phức tạp. Phụ nữ là lanh - là cây tự nhiên và cây văn hóa. Chỉ họ mới biết

chọn khoảnh nương nào thích hợp nhất để gieo hạt lanh, lanh gieo dầy và đến thời

71

điểm nào có thể thu hoạch được để tước sợi. Từ hình hài cây lanh đến trở thành quần

áo phải trải qua tới 41 công đoạn khác nhau, từ trồng cây lanh, tới phơi, tước vỏ,

tước sợi, dập, luộc, hay nhuộm màu, dệt vải, vẽ sáp ong... làm ra miếng vải lanh thổ

cẩm đòi hỏi người phụ nữ sức khỏe, khéo léo, tỉ mẩn.

Người con gái luôn xe sợi dệt nên những bộ trang phục bằng vải lanh thổ cẩm

bền chắc và độc đáo nhất để mặc vào những dịp đặc biệt, khi đi lấy chồng cũng phải

có bộ quần áo bằng vải lanh, rồi khi qua đời cũng phải được chôn cùng bộ quần áo

bằng vải lanh để “tổ tiên nhận ra mình”. Người phụ nữ và lanh đã trở thành biểu tượng

văn hóa, biểu tượng thiêng của miền núi Đông Bắc, nhất là trong văn hóa Mông của

vùng cao nguyên đá.

Nghề dệt vải lanh truyền thống đã có từ lâu đời gắn liền với phong tục tập quán

và những nét sinh hoạt văn hóa cộng đồng của đồng bào nơi cực Bắc của Tổ quốc

“Trời mưa chẳng lên nương, cũng chẳng xuống ruộng được, cả nhà ngồi bên bếp tước

lanh, xe lanh, phần nào dệt được thì mang ra dệt” [28, tr.184]. Không khó để bắt gặp

hình ảnh người phụ nữ Mông trên đường đi làm, đi chợ phiên, đi gặp người yêu... luôn

se lanh, nối sợi; sợi lanh như vật bất ly thân của họ “Súa ngồi trên bậu cửa, tay thoăn

thoắt xe lanh, miệng cười tủm tỉm, chẳng nói câu gì” [30, tr.30]. Đôi tay người phụ nữ

phải hết sức khéo léo cho sợi lanh có độ mảnh đều nhau và không bị đứt nửa chừng.

Đến khoảng 13 -14 tuổi, con gái Mông phải biết xe lanh, dệt vải: "khi Súa bằng tuổi

nó, Súa đã biết xe lanh, dệt vải, thêu thùa, may váy áo" [30, tr.35]. Đó cũng là tiêu chí

đánh giá phẩm chất, đức hạnh của người phụ nữ “Con gái Sủng Thài đến tuổi lấy

chồng chỉ ở trong nhà dệt váy áo, đợi người đến leo cột nhà, chui qua cửa sổ vào

buồng, ưng ai thì theo người ấy” [28, tr.358], “Bằng tuổi tôi, mẹ bắt đầu dệt chăn màn,

váy áo, dệt khăn dệt túi …chuẩn bị về nhà chồng” [28, tr.387]. Hay câu đầu tiên mà

người chị dâu - Súa hỏi đứa em chồng là:

"- Năm nay mấy tuổi? Đã biết dệt lanh chưa?

Con bé im lặng.

- Này, chị dâu đang hỏi đấy. Có biết dệt lanh không?" [30, tr.20].

Trải qua bao thế hệ, người Mông đã tạo nên một nền văn hóa đặc sắc về lanh, từ

kỹ thuật canh tác đến việc sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống. Cây

72

lanh được đồng bào dân tộc Mông tận dụng triệt để, cây lanh được tước vỏ lấy sợi,

thân cây làm chất đốt; lá, rễ dùng làm thuốc chữa bệnh, thức ăn cho gia súc và làm

phân bón; hạt cây lanh có thể làm thành bánh...

Cây lanh còn là một trong những vật linh thiêng được sử dụng trong hầu khắp

các phong tục, tín ngưỡng của người Mông như trong dựng vợ gả chồng, ngày cúng,

giỗ, lễ, Tết. Lanh còn là một biểu tượng trong các khúc hát giao duyên với nhiều ý

nghĩa, cung bậc của tình yêu, tình vợ chồng. Theo quan niệm của đồng bào dân tộc

Mông, vải lanh được coi là sự gắn kết bền chặt giữa con người và thế giới tâm linh tồn

tại từ bao đời. Họ cho rằng, sợi lanh là sợi chỉ dẫn đường cho người chết về với tổ tiên

và đầu thai trở lại làm người. Nghề trồng lanh, dệt vải đã có từ lâu đời gắn liền với

phong tục tập quán và những nét sinh hoạt văn hóa cộng đồng của đồng bào dân tộc

Mông. Suốt chiều dài lịch sử, cây lanh và nghề dệt lanh luôn là phần không thể thiếu

trong văn hóa đặc sắc của người Mông. Dù họ định cư ở đâu, phụ nữ Mông luôn dành

một mảnh đất ẩm để gieo hạt lanh. Khi những cơn mưa đầu mùa xuất hiện cũng là lúc

người dân nơi đây bắt đầu vào vụ trồng lanh. Họ chăm sóc cây lanh rất cẩn thận. Khi

cây lanh trưởng thành họ sẽ thu hoạch, đem phơi khô rồi tách vỏ, xe sợi, dệt vải may

quần áo cho cả gia đình. Trong đời sống của đồng bào dân tộc Mông vùng cao nguyên

đá, nghề dệt thổ cẩm có vị trí rất quan trọng. Người Mông ưa chuộng vải lanh, bởi nó

có độ bền chắc, thông thoáng và không bị mốc. Hành trình từ cây lanh trở thành bộ

quần áo thổ cẩm bền đẹp thì người phụ nữ ngoài sự cần cù, khéo léo phải dồn hết tâm

tư tình cảm vào đó.

Quá trình hình thành tấm vải lanh phải trải qua rất nhiều công đoạn cầu kì. Trong đó

có rất nhiều công đoạn khó, đòi hỏi sự nhẫn nại, bền bỉ từ việc trồng lanh, thu hoạch, phơi

khô, tước vỏ cho đến xe sợi, lên khung, dệt vải, nhuộm chàm, vẽ sáp ong...

Bí quyết để một tấm vải lanh bền đẹp không chỉ nhờ đôi bàn tay khéo léo, tỉ mỉ

của người phụ nữ mà còn ở kỹ thuật nhuộm chàm và vẽ sáp ong rất đặc biệt. Để cho

thớ vải không phai màu theo thời gian người phụ nữ Mông phải nhuộm vải rất nhiều

lần với những bí quyết riêng. Sau đó đem hong khô để vẽ sáp ong lên đó. Đây chính là

hai công đoạn rất vất vả, mất nhiều thời gian.

73

Thông thường, mỗi tấm vải lanh có kích thước bề ngang khoảng 40 đến 45cm.

Cùng với việc tìm cách làm ra vải thì khối óc tài hoa của người phụ nữ Mông cũng

nghĩ ra cách nhuộm vải và trang trí vải lanh rất tuyệt diệu. Mỗi tấm vải được nhuộm đi

nhuộm lại rất nhiều lần (ít nhất là 12 lần), mỗi lần nhuộm, họ cho vải vào ngâm, đun

sôi trong nước tro khoảng 30 phút, đến khi vải đạt được màu và mềm như ý muốn mới

thôi. Khi nhuộm xong, họ dùng sáp ong bôi lên mặt vải, lăn trên đá để vải được bóng

mịn, bền, đẹp.

Không chỉ là tiêu chí để đánh giá con người, lanh còn là hình ảnh tượng trưng

cho khát vọng tình yêu của trai gái người Mông, trong dân ca Mông, hình ảnh người

phụ nữ luôn xuất hiện và gắn liền với lanh. Lanh còn là khát vọng về một cuộc sống

gia đình đầm ấm, yêu thương

Từ chất liệu trong tự nhiên là lanh, là chàm, với bàn tay tài hoa của mình, người

phụ nữ dệt nên vải, nhuộm màu cho vải, tạo hoa văn cho vải…và dệt thành váy áo, mũ

khăn. Bộ váy mới của người phụ nữ Mông được mặc khi đi chợ, đi đám cưới, trong

các dịp lễ tết “Ngày xuân, má đứa nào cũng như hoa đào, miệng đứa nào cũng mọng

như quả hồng chín, đứa nào cũng mặc những bộ váy đẹp cả năm đi nương không được

mặc” [28, tr.197]. Đó là hình ảnh mẹ già trong Tiếng đàn môi sau bờ rào đá “Mẹ già

định mặc váy áo đẹp đến thế đi đâu? Hết mùa cưới rồi, họ hàng chắc cũng không còn

ai cưới vợ cưới chồng cho con nữa. Mẹ già đi đâu? Hay là mẹ già định đi hội chợ hai

bảy tới đây?” [28, tr.15]; là cô Chía trong Cột đá treo người “Năm Chía mười lăm

mười sáu, vẫn đi chơi với mấy đứa em thì bọn con gái cùng tuổi Chía đã biết mặc váy

áo đẹp đi hội hát gầu plềnh rồi” [28, tr.100], hay là Vi trong Giống như cái cối nước

“Hôm nay Vi cũng mặc bộ váy áo của mẹ, bộ váy áo bằng vải nhung màu xanh, rất

mềm, rất vừa vặn” [28, tr.140]. Trước khi đi lấy chồng, người mẹ chuẩn bị cho con gái

bộ váy áo thật đẹp "Trong cái hòm ấy mẹ già cất một bộ váy đẹp lắm, thêu bảy màu

như cầu vồng, mẹ bảo bao giờ con May lấy chồng thì mẹ cho mang theo" [28, tr.15].

Bộ váy của người phụ nữ Mông được Súa mặc khi về nhà chồng với "lớp áo mới còn

thơm mùi lá cây nhuộm màu" [30, tr.23]. Người phụ nữ "đắt chồng" là người biết thêu

thùa, khâu vá: "Ngày ấy cả vùng này biết tiếng cô Mao đẹp người, nết cũng đẹp, con

gái bản trên làng dưới không ai dám nhận mình thêu thùa, dệt vải vừa nhanh vừa đẹp

74

như cô" [28, tr.20] bởi thế nên "cả vùng này chỉ có nhà anh Chúng chồng đủ bạc

trắng, đủ gạo, rượu như bố mẹ Mao thách cưới" [28, tr.20].

Trang phục của người phụ nữ Mông rực rỡ sắc màu nổi bật giữa thiên nhiên

chứ không ẩn mình, hòa mình vào thiên nhiên bởi sắc chàm như trang phục của các cô

gái Tày, Nùng. Ta bắt gặp một cô gái Mông ở phiên chợ "Đôi chân bé bé đi trong giày

vải xanh, quấn xà cạp trắng, váy lanh trắng tinh, áo hoa có kim tuyến lóng lánh…Nhìn

lên nữa, cặp má như vừa cời ở bếp ra, ba tấm khăn vấn thật khéo, tròn vành vạnh"

[28, tr.233]. Trong bộ trang phục của dân tộc mình, các cô gái Mông đã khiến bao trái

tim chàng trai xao động "khi Súa đi qua, chiếc váy nhiều tầng rung rinh theo nhịp lắc

của cặp mông là tất cả đàn ông, kẻ có vợ và chưa vợ, đã uống say cũng như cầm bát

rượu trên tay, người trên ngựa thì ngã xuống đất, người dưới đất thì ngồi phịch xuống

lối đi…đều nhìn Súa không chớp mắt" [30, tr.30]. Mỗi khi nhảy múa, tấm váy sặc sỡ

như cầu vồng càng khiến cho người phụ nữ Mông thêm phần duyên dáng "Chá à, mày

có biết điệu nhảy này không? Điệu nhảy của loài sóc vừa cắn hạt dẻ vừa nhảy trên

ngọn cây dẻ đấy. Tấm váy dày cộp, sặc sỡ như cánh một con bướm của Nhí xoay

tròn." [30, tr.64]. Theo quan niệm của người Mông, quấn xà cạp là để thể hiện sự kín

đáo, tế nhị của người phụ nữ, chiếc xà cạp trắng tinh được quấn quanh bắp chân càng

tôn vẻ đẹp khỏe khoắn của các cô gái "Từng bước chân với hai bắp chân tròn căng,

chắc nịch sau lớp vải xà cạp vẫn bấm vào mép đường chênh vênh bước đi" [30, tr.66],

hay “Con gái miền núi có đôi bắp chân đẹp là nhờ quấn xà cạp lúc đi làm, lúc ra khỏi

cửa” [28, tr.343].

Trang phục chính là văn hóa, và người phụ nữ giữ vai trò kết nối, chuyển hóa từ

tự nhiên sang văn hóa, sáng tạo văn hóa. Những người phụ nữ dù bận bịu hay lúc nghỉ

ngơi, trên nương rẫy hay lúc xuống chợ, trên tay họ bao giờ cũng mang theo cuộn lanh

thô để tước sợi. Từ những sợi lanh đứt đoạn, họ nối kết lại, dệt nên khổ vải, từ thô mộc

khô cứng, qua bàn tay họ đã biến thành mềm mại óng tơ, từ không màu sắc, qua đôi

bàn tay nhuộm chàm để nên màu biểu tượng của vùng đất này, từ màu trơn, cũng qua

đôi bàn tay và khối óc sáng tạo, họ dệt vào đó những hoa văn, họa tiết, biểu tượng.

Trên hết trang phục chính là văn hóa, là sự sáng tạo và sản sinh văn hóa của con

người, và đó là những người phụ nữ miền núi Đông Bắc.

75

3.1.2. Bếp lửa

Nếu như với nhân loại, biểu tượng bếp lửa (bếp lò) “tượng trưng cho sự sống

chung, cho mái nhà, cho sự liên kết giữa người đàn ông và người đàn bà, cho tình

yêu, cho tập hợp và sự giữ gìn lửa. Như là mặt trời, bếp lò làm cho mọi người gần

nhau bởi sức nóng và ánh sáng của nó – đó cùng là nơi đun nấu thức ăn. Vì vậy bếp

lò là trung tâm của cuộc sống, là cuộc sống được ban cho, duy trì và sinh sôi. Bởi

vậy, bếp lò được tôn kính trong tất cả các xã hội, nó trở thành một điện thờ, nơi con

người cầu xin sự bảo hộ của Thượng Đế, nơi thờ cúng, nơi cất giữ những bức tượng

và những hình ảnh thiêng liêng…Trong rất nhiều nền văn hóa, bếp lò gia đình đóng

vai trò trung tâm hoặc cái rốn của thế giới…” [4, tr.78]. Với người dân miền núi

cũng vậy, bếp lò là nơi linh thiêng, là nơi họ rất coi trọng “Ở bếp có con ma bếp, ma

bếp cai quản việc sinh đẻ của đàn bà và phù hộ cho việc chăn nuôi gia súc. Vì thế

không được dẫm chân lên bếp lò, không được gõ vào thành bếp, lúc nào muốn nhấc

chảo cám lợn ra phải cho một hòn đá vào giữa” [28, tr.35].

Người dân miền núi thường đun nấu trong ngôi nhà sàn nên hầu hết tất cả sinh

hoạt của họ thường diễn ra bên bếp lửa “Người lớn vây quanh bếp lửa, chất đầy củi,

đun nước pha chè bồm, luộc một nồi sắn thơm lừng” [28, tr.127]. Dường như mọi vật

dụng trong nhà đều có mùi khói bếp, một mùi rất đặc trưng “Liêu kéo tấm chăn vừa

dày vừa nặng, vừa nồng nồng mùi khói bếp lên sát cằm. Bây giờ Liêu mới nhận ra

rằng mọi thứ trong nhà đều có mùi khói. Chén nước khúc khắc, bát cơm gạo nương

cũng thoang thoảng mùi khói” [28, tr.175]. Khói bếp là hình ảnh quen thuộc trong các

gia đình người dân miền núi “Gần nhất là Sán Séo Tỉ, lúc trời không có sương mù có

thể nhìn thấy khói bếp bốc lên từ mấy nóc nhà” [30, tr.27,28]. Thậm chí mùi khói bếp

còn được sử dụng trong việc miêu tả nội tâm nhân vật khi vui lẫn khi buồn với những

cung bậc tình cảm khác nhau. Dân trong Mặt trời lên, quả còn rơi xuống thoáng có

chút khó chịu với mùi đặc trưng của khói, của mùi mồ hôi lúc nằm cạnh vợ khi đang

xao lòng nghĩ về người đàn bà khác “Từ mái tóc dài xổ tung loáng thoáng mùi khói

bếp, mùi mồ hôi bay ra” [28, tr.201]. Có thể nói, bếp lửa và khói bếp là một nét đặc

trưng tiêu biểu cho cuộc sống sinh hoạt của người vùng cao.

Trong gia đình của những người miền núi, người gắn liền với bếp lửa, giữ trọng

trách duy trì ngọn lửa, sự sống chính là những người phụ nữ, bởi đặc tính thiên chức

76

của họ “Giữa sàn, bếp lửa vẫn còn ấm sực nhờ hai gộc củi lớn chụm vào nhau đang

ngun ngủn cháy không thành ngọn. Trong gia đình người Tày lửa không bao giờ được

tắt. Khi nào bếp không có lửa ắt là điểm gở. Người già chọn con dâu, chỉ cần nhìn

cách chụm lửa, cách đun bếp là đủ biết có khéo, có đảm hay không” [28, tr.124], hay

“Thế nên đàn bà Thài Phìn Tủng có ở trong nhà hay đi ra khỏi nhà chỉ nhìn lên mái

tranh có khói bếp bay lên hay không mới biết” [28, tr.77].

Hình ảnh bếp lửa được nhắc đến rất nhiều trong các sáng tác của Đỗ Bích Thúy.

Trong màu khói lam chiều lúc hoàng hôn phủ xuống bản, người phụ nữ vội vã trở về,

lặc lè gùi gánh, bó cỏ phủ kín cả thân hình, họ nhanh chóng khuất lấp sau cánh cổng

gỗ được mở. Những người phụ nữ lại chuyển sang không gian gia đình, với bao bộn bề

lo toan. Nơi bếp lửa (bếp lò) luôn gắn với hình ảnh những người phụ nữ tần tảo, cặm

cụi bên chảo cám lợn sôi sùng sục, bên nồi rượu ngô tỏa men “Trên nóc bếp lò, cạnh

chảo cám đang sôi sùng sục, có một cái muôi gỗ” [28, tr.78]. Đó là hình ảnh của Chía

trong Cột đá treo người “Lùi lũi làm, từ ngày này sang ngày khác, quanh quẩn với cái

bếp lò nấu rượu” [28, tr.96], là Kía trong Gió không ngừng thổi “Ngày đầu tiên về nhà

chồng, mẹ chồng dẫn Kía xuống bếp” [28, tr.35], là hình ảnh của mẹ già, của Mao

trong Tiếng đàn môi sau bờ rào đá “Mẹ già đi ra, bảo mang củi ướt ngoài chuồng

ngựa vào cho mẹ gác lên bếp lò” [28, tr.19], “Mẹ già đang ngồi hong tay trước cửa

bếp lò mới bén lửa, giục May lấy nước ấm đi rửa chân tay” [28, tr.30], “Mao dọn dẹp

nhà cửa xong cũng không đi ngủ mà mang bó mùng ra thái. Hai người không ai nói gì,

chỉ nghe tiếng dao sắc thái vào thân mùng phầm phập. Mao đứng dậy, đổ dọc mùng

vào chảo cám, cúi xuống đẩy mấy gộc củi vào sâu trong bếp…” [28, tr.22,23]. Hay là

hình ảnh của Súa trong Lặng yên dưới vực sâu “Đúng là đàn lợn đang thi nhau kêu

gào, gặm dóng chuồng sồn sột. Súa vội vã vào thẳng bếp lò, định lấy cám trong chảo”

[30, tr.41].

Bếp lò cũng gắn với sự ấm áp, sự lôi cuốn và cả vẻ đẹp, men say của người phụ

nữ. Đó là hình ảnh cô gái Mông xinh đẹp như Nhí với sự lôi cuốn được nhà văn mô tả

trong Lặng yên dưới vực sâu “Lưng Nhí lạnh buốt còn ngực, bụng, chân tay lại nóng

rừng rực như than còn trong lò” [30, tr.99], là cô gái May trong Tiếng đàn môi sau bờ

rào đá “Người May nóng gần bằng cái bếp lò, mẹ già bảo thế” [28, tr.14], hay là cô

77

gái Vi trong Cái ngưỡng cửa cao “Người Vi nóng rừng rực như bếp lò lúc được lửa”

[28, tr.70].

Trong những ngôi nhà luôn là hình ảnh những người phụ nữ tần tảo, họ phải

thức dậy từ sớm tinh mơ để chuẩn bị bữa ăn cho cả gia đình. Vì đặc thù sống chủ yếu

trên các rẻo núi cao nên ngô là cây lương thực chính. Ngô là một trong ba loại cây

lương thực quan trọng (lúa, ngô, sắn) đã giúp đồng bào vùng cao vượt qua khó khăn để

đứng vững và tồn tại giữa một vùng thiên nhiên khắc nghiệt “Năm nào cũng vậy, sau

mùa thu hoạch bao giờ trên cái gác chạy dài từ đầu nhà đến cuối nhà cũng đầy chật

lúa ngô. Ngô túm thành từng túm treo lủng lẳng, lúa xếp bên trên” [28, tr.224], “Năm

nay ngô được mùa, bắp nào cũng to, dày hạt, cầm nặng trình trịch, năm nào cũng

được thế này thì người Mông không bao giờ lo đói” [28, tr.39], hay “Ngô giống mới

cho hai ba bắp một cây, bắp nào cũng to, nhiều hạt” [28, tr.351].

Trong cái nắng gió khắc nghiệt của đá núi, không gian núi, khi cây trồng xanh

mướt phủ kín những nương đá, người phụ nữ cặm cụi, mồ hôi nhễ nhại đang cào cỏ,

vun gốc, gương mặt bừng đỏ vì nắng trên cao. Việc khai hoang, gieo trồng, chăm sóc

đều do một tay những người phụ nữ miền núi vất vả làm lụng “Nhưng bà vẫn đủ sức

đeo một quẩy tấu ngô giống lên gieo trên nương” [30, tr.51]. Rồi đến khi thu hoạch,

cũng vẫn là hình ảnh của những người phụ nữ địu quẩy tấu lên nương gùi những quẩy

tấu nhồi chật ních và cao ngất những bắp ngô vàng ươm đi phăng phăng vượt đèo dốc,

đá nhọn về nhà. Đó là hình ảnh của Súa trong Lặng yên dưới vực sâu “Gió từng đợt

đang cuồn cuộn đổ ra từ trong khe núi như muốn hất ngược cả Súa và bó ngô trở lại

chân nương” [28, tr.66], hay “Súa ngã ngữa ra sau vì giật mình. Hai sợi dây gùi ngô

vẫn chằng qua vai đau điếng” [28, tr.67].

Vào mỗi mùa thu hoạch, khi ngô tươi dùng không hết, người ta sẽ phơi khô để

dành “Súa đứng dậy, lê đến sau đống cây ngô khô ở góc sân, đợi ông già ra khỏi nhà.

Những bó cây ngô vừa khô tới, vẫn còn mùi ngòn ngọt đọng lại, váng vất” [30, tr.96].

Và cũng từ những hạt ngô khô này, người phụ nữ Mông đã nghĩ ra món mèn mén ăn

thay cơm hàng ngày “Súa dắt con Nhí vào bếp, lấy ngô cho vào chõ, đồ mèn mén” [30,

tr.34], hay hình ảnh gia đình ấm áp ăn mèn mén “Tối tối, ba ông bà cháu lại quây

quần bên bếp, ăn mèn mén với canh rau cải, thỉnh thoảng có cá khô nướng, có thịt kho

mặn” [30, tr.52].

78

Cách làm mèn mén khá cầu kì, ngô làm mèn mén là ngô tẻ được sàng lọc cẩn

thận, chọn những hạt đều nhau, bột ngô xay ra đem tẩm nước cho ẩm rồi bắc lên bếp

đồ. Mèn mén muốn ngon phải đồ hai lần, lần một sau khi thấy hơi nước bốc lên đầu

miệng chõ là có thể bắc ra, bột ngô đổ ra mẹt to rồi đánh tơi ra để nguội mới cho vào

đồ lần hai. Làm như vậy, mèn mén ăn sẽ dẻo, thơm và đậm đà hơn. Mèn mén là món

ăn truyền thống của đồng bào Mông từ xa xưa. Đứa trẻ lớn lên được người mẹ, người

bà truyền dạy cho cách làm mèn mén. Người bà ốm đã sắp qua đời nhưng vẫn nhớ hỏi

thằng cháu nội có còn nhớ cách đồ mèn mén hay không "Vừ nhớ cách đồ mèn mén rồi

nhỉ" [30, tr.52].

Và cũng từ chất liệu chính là ngô, người phụ nữ không chỉ chuyển hóa thành

thức ăn (mèn mén) mà thành cả thức uống đặc trưng của miền cao nguyên đá. Trên rẻo

đất xinh đẹp này, những cô gái được thừa hưởng nước da của xứ lạnh như đẹp hơn

trong những bộ đồ váy truyền thống muôn sắc màu và bát rượu ngô nồng thắm “Ngô

để dành nấu rượu là ngô trồng trên những hốc đá cao nhất, nơi thừa nắng thiếu nước,

có thế bát rượu đầu tiên chảy ra đem đốt mới cháy đùng đùng cho ngọn lửa xanh lè

được” [36, tr.243]. Rượu là văn hóa, là sự tinh lọc, là thứ tinh túy chắt ra từ đất, đá,

nước, nắng, gió cao nguyên và mồ hôi con người. Những hạt ngô không sử dụng hết

được các gia đình dành để nấu rượu. Công đoạn nấu rượu ngô cũng không phức tạp,

nhưng để nấu được một chum rượu ngô ngon thì không phải ai cũng làm được. Rượu

thường do phụ nữ nấu, phụ nữ ủ men, cất rượu và cũng chỉ có phụ nữ mới có thể tạo ra

được thứ rượu ngon nhất. Có lẽ việc vất vả nhất để nấu được nồi rượu ngô đó là việc

đi lấy nước và củi, bởi ở cao nguyên đá hầu như lúc nào cũng trong tình trạng thiếu

nước, còn chuyện kiếm củi trên vùng đá thì cũng không mấy dễ dàng.

Rượu trong văn hóa núi là một đặc trưng riêng biệt, là chất xúc tác để kết nối bè

bạn, để giao duyên và trút bầu tâm sự. Rượu không thể thiếu được trong đời sống hàng

ngày, trong các sự kiện trọng đại, nghi thức tâm linh. Rượu dùng khi vui và cũng uống

cả khi buồn, cái say của vui và buồn là hai cung bậc trái ngược nhau, cần cho trạng

thái cuộc sống, nhất là với sự khó khăn, lao động cực nhọc vất vả như miền núi Đông

Bắc. Sau những ngày vất vả, ngày Tết, ngày Lễ, đặc biệt là ngày chợ, người Mông

thường háo hức rủ nhau xuống chợ. Quan sát chợ phiên của cao nguyên đá, ta sẽ thấy

không phải thứ gì khác mà chính là rượu ngô mới là thứ níu chân đàn ông, đàn bà, trai

79

gái, già trẻ ở lại chợ cho đến xế chiều. Người ta cùng quây quần bên những gùi rượu,

bàn rượu để dốc bầu tâm sự, rất tình cảm “Rượu ngon, bát nào cũng đong đầy, uống

rượu uống cả thứ khác” [28, tr.391]. Như vậy, rượu ngô không chỉ là thức uống bình

thường nữa, nó được sinh ra từ cuộc sống lao động vất vả, mang trong mình giá trị tinh

thần và tiếp thêm sức sống cho cuộc sống ở một nơi đầy khắc nghiệt.

3.1.3. Tiếng đàn môi

Sinh hoạt văn nghệ dân gian của người miền núi được thể hiện sinh động qua

âm thanh réo rắt của đàn môi. Là bộ phận dân cư đã trải qua nhiều cuộc thiên di trong

lịch sử, các dân tộc thiểu số đều mang sẵn trong mình phẩm chất văn nghệ và khả năng

sáng tạo văn nghệ. Khảo sát các tác phẩm của Đỗ Bích Thúy chúng tôi nhận thấy,

tiếng đàn môi được xuất hiện trong thế đối sánh với hát dân ca của người miền núi. Dù

là biểu tượng âm thanh nhưng sức chiếu tỏa cả đàn môi trong tâm thức người dân miền

núi đặc biệt là các chàng trai, cô gái vô cùng rõ nét. Nó là lá thư được viết bằng âm

thanh, là lời tỏ tình của chàng trai với cô gái mình yêu, và đôi lúc như lời thở than,

trách móc “Tiếng đàn môi từ rất xa kia lại giống như mũi tên xuyên qua sương dày

đặc lao đến. Tiếng đàn môi buồn rầu, trách móc. Mao lặng lẽ khóc, từ hôm ấy Mao

không bao giờ nghe tiếng đàn môi dành cho riêng mình nữa” [28, tr.40]. Xuất phát từ

tâm lý bản địa, giá trị chủ yếu của âm nhạc các dân tộc thiểu số là ở chỗ các bài hát

phản ánh được trung thực những tình cảm, những ước mơ trong sáng giản dị của con

người. Từ những âm thanh ấy, ta có thể nhận thức được khá đầy đủ về nhiều mặt của

đời sống xã hội, đời sống tình cảm của người Mông, càng thấy họ là những người giàu

tình cảm, rất coi trọng tín nghĩa.

Người Mông thường chơi các nhạc cụ như: sáo, đàn môi, khèn…cùng với

những điệu hát của dân tộc như tiếng hát tình yêu (Gầu plềnh), tiếng hát cưới xin (Gầu

xuống), tiếng hát làm dâu (Gầu la nhéng), tiếng hát mồ côi (Gầu tú gua)…Với người

Mông, âm nhạc dân gian có vai trò vô cùng quan trọng, nó là linh hồn của người Mông

gửi gắm, thể hiện lòng mình với người yêu, với núi rừng, với thiên nhiên hùng vĩ.

Đàn môi là loại nhạc cụ dùng để tỏ tình, là nhạc cụ không thể thiếu trong tiếng

hát tình yêu của các chàng trai, cô gái người Mông. Âm thanh của đàn môi cũng chính

là tiếng lòng của chàng trai với các cô gái bản, là nét tươi sáng và giản dị của tâm hồn

80

người Mông. Trong những đêm trăng sáng, chàng trai đến nhà cô gái mình đem lòng

yêu mến cùng chiếc đàn môi, để rồi nhờ âm thanh dìu dặt của cây đàn ấy gửi tới cô gái

tâm sự của lòng mình. “Sau bờ rào đá, có tiếng đàn môi tự dưng cất lên, gọi mãi, gọi

mãi. Tiếng đàn môi ấy May gặp ở mấy phiên chợ rồi, lần nào cũng đuổi sau lưng, May

đi nhanh thì theo nhanh, May đi chậm thì theo chậm, bây giờ lại dám theo về tận nhà

người ta nữa … Tiếng đàn còn quanh quẩn mãi bên ngoài mới chịu đi” [28, tr.14,15].

Nhưng cũng lạ thật, sao tiếng đàn môi kia có thể giãi bày được tâm tình của chủ nó tài

tình đến vậy. Tiếng đàn môi gọi bạn tình tha thiết bên bờ rào đá “tiếng đàn cứ gọi mãi,

gọi mãi, mà tiếng đàn môi đêm nay cũng có gì khang khác, dài hơn, trầm hơn, ngập

ngừng hơn, vẫn tràn qua bờ đá vừa dày vừa cao như suối chảy. Nghe bao nhiêu lần

mà lần nào May cũng hồi hộp, tim đập thình thịch” [28, tr.31], rồi cả tiếng đàn môi

oán trách, đau khổ khi người con gái kia nỡ vội lấy chồng “Trước ngày cưới, cả đêm

tiếng chân ngựa bồn chồn ngoài bờ rào đá làm Mao thức trắng. Mờ sáng thì con ngựa

ấy bỏ đi, một lúc sau thì tiếng đàn môi cất lên từ sau hẻm núi. Tiếng đàn môi nghe rất

xa. Tiếng đàn môi từ rất xa kia lại giống như mũi tên xuyên qua sương dày đặc, lao

đến. Tiếng đàn môi buồn rầu, trách móc. Mao lặng lẽ khóc, từ hôm ấy Mao không bao

giờ nghe tiếng đàn môi dành cho riêng mình nữa” [28, tr.40]. Tiếng đàn môi là lời tâm

tình thủ thỉ của những đôi lứa yêu nhau. Âm sắc của đàn môi được mô phỏng theo làn

điệu dân ca Mông vì vậy nó tạo nên thứ ngôn ngữ âm nhạc rất riêng và độc đáo.

Đàn môi là loại nhạc cụ tuy đơn giản về hình thức nhưng lại diễn tả được cảm

xúc của con người, thể hiện tâm hồn dung dị, đẹp đẽ của con người, đó là nhạc cụ có

vai trò quan trọng trong đời sống văn hóa của người Mông. Nếu như người Dao có hát

Páo Dung, người Tày có lượn cọi thì người Mông có khúc Khơ chìa planh để bày tỏ

tình yêu đôi lứa. Nam nữ thanh niên Mông hát Gầu plềnh khi đi chơi chợ, trong ngày

hội Gầu tào hay trên nương rẫy. Đó là lời cô gái hát tình ta sâu nặng, đắm say đến con

chim dìa cơu cũng phải xúc động “Khi buổi sớm tinh mơ đôi ta cầm tay nhau dạo bên

bờ giếng nước, e rằng con chim dìa cơu ung dung bay qua uống phải, sẽ rung động

chín mươi tám trái tim. Khúc hát này phiên chợ nào Súa và bọn con gái cũng hát cho

người yêu nghe” [30, tr.11]. Những chàng trai cô gái Mông bày tỏ tình cảm với nhau

qua tiếng đàn môi, tiếng sáo, qua tiếng hát chứ không dùng lời nói. Những đứa trẻ

Mông sinh ra từ khi còn “ở trên lưng mẹ đã biết nghe tiếng hát của đám gái mặc váy

81

hoa, chân quấn xà cạp trắng tinh, vừa đi vừa soi gương xuống chợ” [30, tr.55]. Khi

Vừ bị mất người yêu “Vừ lấy khơ chìa planh ra gọi Súa: Yêu nhau đến dường ấy,

ngày mai lúc trời mờ sáng anh sẽ quay bước, quay vết chân về, thủng thỉnh trèo dốc

quanh co cao vút. Liệu em có lòng tốt, đem vật quý gì tặng anh để mặc mùa chống

rét..?” [30, tr.26]. Lời hát bày tỏ tâm sự của chàng trai với người yêu thật khéo léo, tế

nhị, mượn cách nói ẩn dụ để nói hộ lòng mình. Tiếc rằng, người yêu của anh không thể

ngờ được bài hát ấy lại chính là bài hát dành cho mình. Bên cạnh khúc hát tình yêu là

khúc hát làm dâu “Khúc hát lảnh lót, thanh mảnh bay vun vút lên cao” [30, tr.51].

Những câu hát dân gian Mông cất lên “những câu hát dịu dàng, mảnh dẻ và da diết có

thể vắt ngang được dãy Tây Côn Lĩnh như một dải mây. Những câu hát chứa đựng mọi

niềm vui và nỗi buồn, gặp mặt và chia tay, yêu thương và nhớ nhung, ước mơ và thất

vọng…những câu hát nuôi tình yêu suốt cuộc đời, mặc cho cơn khát làm khô từng

mỏm đá, mặc cho gió lạnh làm tuyết rơi như quả bông nở bị gió cuốn đi” [30, tr.64].

Họ hát cho vơi đi nỗi buồn, hát cho cuộc sống rộn ràng sắc xuân, hát cho tình yêu nở

hoa kết trái…

Về cơ bản, những biểu tượng mà chúng tôi vừa triển khai đều được xem xét như

một mã văn hóa trong mô thức truyền thống - hiện đại của văn hóa miền núi. Hệ thống

biểu tượng đó góp phần tích cực vào việc phản ánh tư duy, tình cảm, thói quen sinh

hoạt và những nét bản sắc riêng biệt của các dân tộc sống ở vùng núi cao, đặc biệt là

những người phụ nữ. Đồng thời, ở tầm cấp tổng quan, nó tạo nên diện mạo folklore

văn hóa miền núi thuần túy, tạo sự khu biệt giữa văn hóa miền ngược và văn hóa đồng

bằng.

3.2. Ngôn ngữ

Trong sáng tác văn học, ngôn ngữ hay giọng văn là nòng cốt tạo nên sức hấp

dẫn và độc đáo riêng cho tác phẩm. Ngôn ngữ là chất liệu, là phương diện biểu hiện

mang tính đặc trưng của văn học [13, tr.233]. Ngôn ngữ người kể chuyện, ngôn ngữ

nhân vật tạo nên những giá trị nghệ thuật của tác phẩm tự sự thông qua đối thoại. Nhờ

đối thoại mà các vấn đề trong tác phẩm đặt ra được xem xét dưới những điểm nhìn

khác nhau.

82

3.2.1. Ngôn ngữ đối thoại

Ngôn ngữ đối thoại trong tác phẩm thường gây ra được những tình huống bất

ngờ và tạo cảm giác thực của đời sống đã khúc xạ qua lăng kính của nhà văn. Ngôn

ngữ đối thoại đóng vai trò đáng kể trong việc khắc họa tính cách nhân vật. Mỗi nhân

vật được nhà văn quan niệm như một ý thức, một tiếng nói, một chủ thể độc lập. Nhà

văn không còn ở vị trí đứng trên, lấn lướt nhân vật, mà hòa nhập, tham gia vào cuộc

đối thoại của nhiều ý thức độc lập, qua hệ thống hình tượng.

Nhằm khắc họa rõ nét bản tính con người miền núi, ngôn ngữ đối thoại trong

văn xuôi Đỗ Bích Thúy thường là cách đối thoại khuyết chủ ngữ, phản ánh phần nào

thói quen giao tiếp của họ:

“- Về sớm thế? Sao không để sáng hẳn ra, sương tan cho đỡ lạnh.

- Ừ… Ở nhà có việc gì không?

- Vẫn thế thôi, chỉ có mấy thanh chuồng ngựa sắp gãy” [28, tr.44]

Qua cách giao tiếp người đọc có thể nhận thấy đó là những người ngang bằng về

vai vế trong gia đình, không còn khoảng cách xã giao thông thường mà là sự thân mật

rất tự nhiên của người miền núi. Ở một tình huống khác, ta cũng có thể thấy rõ ngôn

ngữ đối thoại của người dân tộc thiểu số qua cách nói chuyện không hiển lộ chủ thể:

“- Hỗ trợ...là phát cho mỗi nhà một ít à?

- Phát cho mỗi nhà một ít, nhưng một thời gian sau thì phải trả.

- Thế thì phát làm gì? Gọi là hỗ trợ sao được.

- Ơ hay, hỗ trợ vốn cơ mà. Vốn là cái gì? Là cái mà mình có nó rồi phải nghĩ ra

cách làm cho nó sinh con đẻ cái, làm cho nó một thành hai, thành ba...

- Làm là làm thế nào?” [29, tr.17]

Sử dụng ngôn ngữ đối thoại của nhân vật cũng là một cách để phác họa tính

cách và bản chất con người miền núi. Cách hô - ứng tự nhiên sẽ ảnh hiện trong tâm trí

người tiếp nhận những ấn tượng về tâm tính con người vùng cao:

“- Cô Kim, tại sao cô dám vào tận nhà người ta ăn cắp máy bơm? Cô có đi với ai nữa

không? Có đứa nào đứng ngoài cảnh giới cho cô không?

83

- Cường à, mình không ăn cắp. Đừng nói thế. Mình nghèo quá, mấy hôm nay đứa

bé bị ốm, muốn đưa đi viện thì phải có tiền, mình nghĩ mãi mới đến nhà Phấn. Nhà

Phấn giàu quá, mình định xin cái máy bơm nhà nó. Một cái máy bơm chỉ bằng hai cây

cam thôi mà...

… Cô Kim, trả lời nghiêm túc đi. Cô đã thực hiện bao nhiêu vụ trộm tương tự ở thôn

này rồi? Cô bắt đầu ăn trộm từ bao giờ? Có phải mấy vụ mất gà gần đây ở trong thôn

cũng đều do cô làm không? Cô mang gà đi đâu bán?

- Mình nói rồi mà. Mình không ăn trộm. Mình chỉ định xin nhà Phấn cái máy bơm

thôi, nhà mình nghèo quá, con thì bé, chồng không có... Mình không lấy gà nhà ai hết.

Mình khát nước quá, cho mình xin nước uống với...” [29, tr.2].

Ngôn ngữ đối thoại của nhân vật miền núi gần với ngôn ngữ đời thường, giàu

tính khẩu ngữ thể hiện cách nói dân dã của con người. Bên cạnh đó, nhà văn còn sử

dụng ngôn ngữ trực tiếp của nhân vật để nói lên những suy nghĩ, trăn trở của nhà văn

về những vấn đề đang tiếp diễn trong cuộc sống của chính họ. Đối khi cách thức giao

tiếp còn thể hiện rõ ngữ điệu của người bản địa. Cách sử dụng các quán từ “ầy”, “à”

đậm chất giao tiếp nơi vùng cao:

“- Bố nó ngủ chưa?

- Ngủ rồi. Có chuyện gì à?

- Ừ, có chuyện. Bố nó à...

- Gì thế?

- Có phải bố nó... bố nó... biết...

- Ầy dà, có chuyện gì mà ấp úng mãi thế, nói tuột ra xem nào” [30, tr.156].

Cùng với ngôn ngữ đối thoại là ngôn ngữ miêu tả tâm lý nhân vật nhằm đi sâu

vào thế giới nội tâm đầy bí ẩn của con người. Có thể nói, tính đến thời điểm hiện tại

nhân vật Kim trong tiểu thuyết Bóng của cây sồi được nhà văn dành cho nhiều sự quan

tâm nhất. Tâm lý cô gái này diễn biến thật phức tạp khi cô biết người cô yêu chỉ ngày

mai thôi sẽ làm chồng người khác: “Kim vùng dậy, chạy thật nhanh ra khỏi rừng. Gai

cào vào váy, tiếng vải rách loạt xoạt. Mặc kệ. Kim muốn đuổi kịp đám rước dâu, lôi

Phù trở lại nhà Kim, đợi Kim thay váy áo mới, vấn khăn, cho dù Kim không đeo vòng

84

cổ, hoa tai, không có xà tích bạc thì Kim vẫn đẹp gấp một trăm lần cô dâu kia, và Phù

phải đón Kim từ cuối làng về đầu làng, ngang qua cây sồi, chứ không phải đón Mai.

Tại sao Phù không làm cái điều mà cả hai người cùng nghĩ đến? Nếu Phù vẫn không

tin Kim thì Kim sẽ chặt đứt một ngón tay, cho máu chảy đầy bát, đầy chậu, cho cả Lao

Chải này nhìn xem trong người Kim máu gì đang chảy” [29, tr.95]. Chẳng có ở nơi

nào, tâm lý người con gái lại đau đớn, vật vã như ở miền núi cao. Ngôn ngữ đằm hậu

của nhà văn đã tái hiện cuộc đời, thân phận của những người phụ nữ miền núi suốt đời

bị chiết tỏa dưới ách thống trị của tín ngưỡng phong kiến.

3.2.2. Lối nói so sánh

Những trang viết của Ðỗ Bích Thúy luôn mang đậm hơi thở cuộc sống vùng

cao từ khung cảnh thiên nhiên, đời sống sinh hoạt đến tâm hồn, nếp nghĩ suy của con

người qua giọng văn bình dị đầy sức lôi cuốn, đặc biệt ở cách sử dụng cách nói ví von,

so sánh giàu biểu cảm - một đặc trưng trong tư duy người dân tộc thiểu số, có nguồn

gốc từ tục ngữ dân gian: "Con gái à, làm dâu mà không làm mẹ thì chỉ là cái cục đá kê

chân cột nhà chồng thôi. Ở hai mươi năm, ba mươi năm, ở đến lúc chết cũng chỉ là

cục đá kê cột thôi” [28, tr.60], khi ám dụ về sự nghèo khó của người dân miền núi

“căn nhà chỉ to hơn cái chuồng trâu nhà giàu một tí”.

Đỗ Bích Thúy đưa vào trong tác phẩm của mình một cách sinh động đó là ngôn

từ gắn bó với hình ảnh thiên nhiên. Người miền núi sống gần với thiên nhiên bởi vậy

cách nói của họ cũng thường xuyên được so sánh với cây cỏ, chim muông, sông suối:

“Cái giường nằm một nửa, nửa kia có gối mà không có người, gió chạy rầm rập trên

mặt chiếu hoa” [28, tr.53]; “Không có chiếc vòng, cánh tay Vi trơn như một con

rắn...” [28, tr.70]; “Một bày sóc lớn sóc bé năm sáu con lò dò xuống suối, đuôi lềnh

bềnh trên mặt nước như bông lau” [28, tr.115]. Cách nói đó thể hiện bản tính thật thà,

chất phác của những con người suốt đời đầu tắt mặt tối nhưng cũng rất lạc quan,

phóng khoáng. Đến cả những câu nói mắng mỏ, vẫn thấy một chút gì đó thật gần gũi,

xót xa: "Cái đầu ngu thế, ăn bao nhiêu mèn mén, bao nhiêu muối mà vẫn ngu. Vợ

mình tự mình mang về, tự mình lấy mất đời con gái người ta như vùi củ sắn vào bếp,

giờ bỏ mặc người ta mà nghĩ đến người khác được à?" [30, tr.213]. Những hình ảnh

ví von của Đỗ Bích Thúy luôn khiến độc giả cảm thấy thú vị. Bởi nhà văn luôn đưa tới

cho ta những bất ngờ bằng những so sánh không trùng lặp mà luôn thay đổi phù hợp

85

với hoàn cảnh và tính cách nhân vật “Giờ đứng đây, nhìn xuống Sủng Thài nằm tít

dưới sâu kia, lại nhớ đến lúc lăn lông lốc như một quả bí từ trên này xuống” [28,

tr.365], “Chía như cái vỏ chuối người ta ăn rồi vứt bỏ” [28, tr.101].

Trong các tác phẩm của mình, khi miêu tả vẻ đẹp của người phụ nữ miền núi,

Đỗ Bích Thúy thường hay so sánh với những sự vật, sự việc. Đó là vẻ đẹp của những

cô gái Mông “Mai là bông hoa hoa sắp nở rực rỡ nhất trường” [28, tr.74], “Ngày

xuân, má đứa nào cũng như hoa đào, miệng đứa nào cũng mọng như quả hồng chín”

[28, tr.197], “Má Thinh vẫn đỏ như hoa đào mùa xuân” [30, tr.203]; “Tại sao một

người đàn bà không đẻ được nữa lại cứ nở ra như một bông hoa chuối đỏ rực, căng

mọng thế này” [30, tr.38], “con gái Pụ Cháng thế nào má cũng hồng như quả lê chín”

[28, tr.426]. Trong truyện Lặng yên dưới vực sâu, nếu cô gái tên Súa được ví như bát

rượu nếp ủ kĩ “Gái mười lăm như quả táo sắp chín còn Súa như một bát rượu nếp ủ kĩ,

chưa cất thành rượu, từ xa ngửi thấy đã say…” [30, tr.30], hay như bông anh túc

“đừng như bông anh túc rực rỡ mà héo úa. Những bông anh túc mỗi năm nở một lần

trong hõm núi sau nhà” [30, tr.71] thì Nhí lại được ví như bông tam giác mạch “Lại là

một đứa bé gái xinh như một bông hoa Tam giác mạch sắp tàn. Nó đúng là một bông

tam giác mạch. Mảnh mai, xinh xắn, nhưng tam giác mạch chỉ đến khi sắp tàn mới vào

độ đẹp nhất” [30, tr.21]. Vẻ đẹp của Duân trong Mặt trời lên, quả còn rơi xuống là

hình ảnh “Ngày mới về với Dân đôi vai Duân tròn lắm lại mềm như hai nắm cơm nếp

mùa” [28, tr.203]. Vẻ đẹp của Kim trong Bóng của cây sồi là hình ảnh “cục than hừng

hực” hay “mùi bướng chín nẫu từ cơ thể Kim…” [29, tr.29]. Vẻ đẹp của bà Cả trong

Chúa đất được ví như “bông hoa đào vừa nở ở đầu cành” [32, tr.12], còn với Vàng

Chở là hình ảnh “Trông Chở lúc nào cũng như một bó đuốc đang cháy…Chở có cái

kiểu đi uốn éo như rắn bò” [32, tr.21-22]. Cô Xính với vẻ đẹp trong trắng, thơ ngây

“Răng Xính trắng lóa cả mắt. Còn mắt thì như hai sợi chỉ” [32, tr.109], là “một đám

mây trắng thật là trắng lững lờ mãi trên bầu trời” [32, tr.111].

Không chỉ dùng lối so sánh để miêu tả vẻ đẹp của các cô gái, Đỗ Bích Thúy còn

dùng khi miêu tả tiếng hát của họ. Tiếng hát của Xính trong Chúa đất “trong như giọt

sương đang rơi từ trên ngọn lá xuống lưng chừng núi” [32, tr.106], “tiếng hát như một

dòng suối trong vắt, chảy trên những viên đá đầy màu sắc, dưới ánh nắng vàng như

mật ong, thỉnh thoảng một con cá nhỏ sáng lấp lánh quẫy lên” [32, tr.112], hay là

86

tiếng hát của Vi trong Giống như cái cối đá nước “Và tiếng hát của Vi đã bay lên cao,

cao hơn cả chiếc mâm đỏ ngất ngư, cao hơn cả những quả còn có tua rua đỏ vun vút

đan vào nhau, chạm vào một quả còn của người thắng cuộc” [28, tr.142].

Đặc biệt khi diễn tả những tâm tư tình cảm, đời sống nội tâm của người phụ nữ,

Đỗ Bích Thúy cũng sử dụng lối nói so sánh. Cô gái tên Súa trong Lặng yên dưới vực

sâu vô cùng đau đớn khi biết người mình lấy không phải là Vừ - người con trai Súa

yêu trên U Khố Sủ “Và người trai kia ơi, lúc ấy mới biết rằng lồng ngực Súa đã từng

vỡ tan ra như quả lê chín rơi trúng phiến đá. Đúng là lồng ngực Súa đang vỡ ra thành

từng mảnh, đang lạo xạo sau lớp áo mới còn thơm mùi lá cây nhuộm màu đây” [30,

tr.23], hay khi nhìn thấy chồng mình đang quấn quýt trên giường cùng với một người

đàn bà khác “Súa cảm thấy trong bụng mình ruột gan đang nhào lộn như có một bàn

tay nào đó thò vào mà bóp, vặn” [30, tr.42]. Chính vì vậy mà Súa được so sánh như “

cái chõ gỗ đã vét hết mèn mén, một hạt li ti cũng không còn. Súa biết, điều ấy còn làm

cho Phống kinh sợ hơn. Thà Súa cứ lồng lên như một con bò điên, thậm chí húc cho

chồng lòi ruột ra còn dễ chịu. Đằng này Súa y như một cái bóng. Cái bóng biết đi lại,

làm lụng, nấu nướng, cho con bú, nựng con, ngay trước mặt mà Phống không sao

chộp lấy được” [30, tr.56]. Đó là Vi trong Giống như cái cối nước “Chỉ tại Vi như cái

cánh cửa đóng chặt khiến các em không thể ra khỏi nhà” [28, tr.115] hay “Vi lên nhà,

mỗi bước chân nặng như đeo đá” [28, tr.138]. Đó còn là hình ảnh của người chị dâu

trong Sau những mùa trăng “Tiếng khóc bật ra như nước lũ thượng nguồn không gì

ngăn được. Khóc như để trôi đi những bức bối trong lòng” [28, tr.345]. Hay là bà Cả

trong Chúa đất, đã từ lâu bà không còn cảm giác buồn vui nữa rồi “Bà như cái vũng

nước dưới vực, tít dưới đáy sâu, tối tăm, câm lặng. Một cái vũng nước không ai nhìn

thấy, không ai động đến, kể cả gió, kể cả mặt trời” [32, tr.266].

Khung cảnh miền núi với làng bản hùng vĩ nên thơ; những chàng trai, cô gái nụ

cười hồng như hoa lê, hoa đào trong phiên chợ rộn ràng; những đêm trăng nồng nàn hò

hẹn có tiếng đàn môi réo rắt gọi mời; cả những cố gắng, khát vọng của con người

muốn nâng niu, gìn giữ vẻ đẹp quê hương, gìn giữ những giá trị đạo đức truyền thống

dân tộc. Tất cả đi vào trong những trang viết của Ðỗ Bích Thúy bằng giọng điệu ngôn

ngữ hết sức hồn nhiên, gợi cảm. Nó tạo nên sức sống, nét hấp dẫn riêng không thể trộn

lẫn nơi ngòi bút chị. Với bút pháp hiện thực khá nghiêm ngặt, cách nói đơn giản với sự

87

tỉnh táo vốn có, khi miêu tả về hiện thực và đời sống con người vùng cao, Đỗ Bích

Thúy vẫn thường tâm niệm “Khi viết về miền núi, tôi là chính mình”. Ngôn ngữ trong

văn xuôi Đỗ Bích Thúy là minh chứng sống động cho một thứ ngôn ngữ mộc mạc,

truyền cảm. Nó không bề bộn, thô nhám như ngôn ngữ của Tạ Duy Anh, không quá

trau chuốt điệu đà như văn của Võ Thị Hảo, không mấy khi váng vất chất liêu trai như

tiểu thuyết Nguyễn Huy Thiệp lại càng không mạnh mẽ, bạo dạn như ngôn ngữ của Y

Ban. Chính sự khác biệt này đã cho phép Đỗ Bích Thúy – và những nhà văn trên – có

được “tấm hộ chiếu” tin cậy để tạo lập bản – sắc – viết – văn trong thời đại văn học

vốn rất đa dạng này. Trong truyện ngắn Ngải đắng ở trên núi, Đỗ Bích Thúy viết

“Ngôi nhà nằm chênh vênh trên cao kia. Già nua cũ kỹ và nhỏ nhoi. Khi nào nhớ về

mẹ, tôi cũng hình dung thấy ngôi nhà với chín bậc cầu thang, nơi chân tôi run rẩy,

chập chững đi ra cuộc đời và từ cuộc đời đầy giông bão trở về” [28, tr.209]. Chính sức

nặng của tình yêu thương và những kỷ niệm thiết tha về quê hương đã giúp chị có

được một phong cách ngôn ngữ đằm lắng, nhân văn trên trang viết của mình.

Tiểu kết

Sức hấp dẫn và nét độc đáo riêng trong các sáng tác của Đỗ Bích Thúy về chủ

đề người phụ nữ miền núi chính là hệ thống hình ảnh mang tính biểu tượng và ngôn

ngữ sử dụng.

Về hệ thống hình ảnh mang tính biểu tượng đặc biệt chú ý đến những biểu

tượng liên quan tới vẻ đẹp và số phận của người phụ nữ như trang phục, bếp lửa, tiếng

đàn môi…

Đặc biệt là ngôn ngữ mang nét riêng của những người phụ nữ miền núi. Tác giả

đã sử dụng ngôn ngữ, lối nói so sánh mộc mạc giản dị, nhưng cũng đầy dí dỏm, sử

dụng tình huống giao tiếp của chính những con người sinh ra từ núi, từ nền văn hóa

núi. Mỗi một nhân vật đều có một lối nói và ngôn ngữ riêng, sinh động và chân thực.

Do có lợi thế là người am hiểu những đặc trưng văn hóa núi, con người miền

núi nên nhà văn đã tạo dựng được một không gian văn hóa núi chân thực và đậm đà, từ

các giá trị văn hóa vật chất cho tới tinh thần, và cả suy nghĩ diễn tiến của từng nhân vật

trong truyện đều rất chân thực, rất thực tế trong cuộc sống

88

KẾT LUẬN

Ân ức nữ tính xuất hiện với tần xuất dày đặc trong các sáng tác của Đỗ Bích

Thúy. Chị đã dành hết tình yêu và sự cảm thông cho số phận của những người phụ nữ

dân tộc thiểu số miền núi Đông Bắc - nơi chị sinh ra và lớn lên. Những người phụ nữ

miền núi Đông Bắc đa phần đều là những con người đẹp về cả hình dáng lẫn đức tính,

là những người đóng góp và kiến tạo nên đời sống vật chất và tinh thần cho tộc người

mình. Tuy thế, họ lại bị xã hội nhìn nhận phiến diện, bị coi nhẹ và xem thường.

Những ẩn ức mà người phụ nữ miền núi phải gánh chịu luôn chất chứa, ngồn

ngộn, đan xen vào nhau, tạo thành sức nặng đè nén và bóp nghẹt người phụ nữ, họ

phải sống trong dằn vặt, khao khát và héo mòn tàn lụi. Họ không có điều kiện, không

có cách nào để thoát ra khỏi trạng thái đó, bởi bối cảnh xã hội là cái vỏ khắc nghiệt,

bao bọc những định kiến sai lệch, bảo vệ những nguyên nhân gây ra số phận bất hạnh

và bi thương của người phụ nữ.

Trong các sáng tác của Đỗ Bích Thúy, không gian và văn hóa núi xuất hiện đậm

đà, đa diện tạo nên sức hấp dẫn ma mị trong trang văn Đỗ Bích Thúy. Đó là tâm trạng

của người con nhớ núi, khao khát về với quê hương, cội nguồn, cảnh sắc mùa xuân,

những ngôi nhà nhỏ nép mình vào bóng núi, tiếng suối chảy xen với tiếng cối giã gạo

nhịp nhàng, tiếng vó ngựa gõ vào đá núi, tiếng sáo xa xa trong gió, tiếng đàn môi hẹn

hò người yêu trong những đêm trăng sáng, những ngày hội, phiên chợ tình nhân văn.

Khu vực miền núi phía Bắc là nơi lưu giữ rất nhiều vỉa tầng văn hóa độc đáo,

những giá trị nhân văn. Tuy nhiên, cũng bao chứa nhiều nỗi đắng cay, tủi nhục, nghèo

khó, tụt hậu và kìm hãm con người, số phận con người. Người phụ nữ dân tộc thiểu số

miền núi Đông Bắc đẹp, rạng ngời, giỏi giang hết mực, nhưng lại phải gánh chịu một số

phận nghiệt ngã, khổ đau. Họ luôn phải sống trong kìm nén, chịu đựng, khổ đau, giày

vò…nhưng không hề bi lụy tuyệt vọng, mà luôn ẩn giữ một khát khao mạnh mẽ hướng

đến tự do, tình yêu, hạnh phúc và sức sống mãnh liệt không bao giờ lụi tàn, chủ động

lựa chọn cái chết để có tự do.

Tính nhân văn, cao cả của những người phụ nữ dân tộc miền núi Đông Bắc là

điểm nổi lên trên hết, đáng trân trọng và khâm phục hơn hết, nhất là hình ảnh những

89

người mẹ già. Ở họ hội đủ sự khắc khổ, khô héo của thời gian, của cuộc sống đọa đầy,

của những gì chất chứa, chịu đựng…nhưng vượt trội lên trên hết là lẽ sống nhân văn, sự

vị tha và bao dung, một sức sống mãnh liệt. Lời nói của người mẹ già như một phát

ngôn nhân văn và bao dung của biết bao người phụ nữ miền núi Đông Bắc “Ầy, chuyện

cũ đừng nhắc nữa. Cái gì cần nhớ hãy nhớ, cái gì nên quên phải biết quên. Hôm qua

trời mưa nước suối đục, nhưng không đục mãi được. Con người cũng thế…?" [28, tr.20]

90

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lại Nguyên Ân (2003), Sống với văn học cùng thời, Nxb Thanh niên, Hà Nội.

2. Nguyễn Duy Bắc, Về bản sắc dân tộc trong sáng tác của các nhà thơ dân tộc thiểu

số, Tạp chí Nghiên cứu văn học số 9/1994.

3. M. Bakhtin (1992), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, Trường viết văn Nguyễn Du,

Hà Nội

4. Jean Chevalier – Alain Gheerbrant (2015), Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới

(Phạm Vĩnh Cư, Nguyễn Xuân Giao, Lưu Huy Khánh, Nguyên Ngọc, Vũ Đình

Phòng, Nguyễn Văn Vĩ – dịch), Nxb Đà Nẵng. ĐN

5. Nguyễn Văn Chính, Văn hóa và con người các dân tộc thiểu số trên một số báo

viết Việt Nam, Tạp chí Văn hóa dân gian số 4/2010.

6. Bàn Thị Quỳnh Dao, Thơ Bàn Tài Đoàn - Tiếng nói tâm hồn đích thực của người

Dao, Tạp chí Văn hóa các dân tộc số 8/2010.

7. Nguyễn Văn Dân (2004), Phương pháp luận nghiên cứu văn học, Nxb Khoa học

xã hội, HN.

8. Bế Viết Đẳng - Nguyễn Khắc Tụng - Nông Trung - Nguyễn Nam Tiến (1971),

Người Dao ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

9. Nguyễn Thị Bích Hà (2009), Mã và mã văn hóa, Tạp chí văn hóa dân gian số 6

10. Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (2005), Từ điển thuật ngữ văn học,

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

11. Nguyễn Phương Hoa (2013), Tính nữ và nữ quyền trong dân ca Mông, Luận văn

thạc sĩ văn học, ĐHSP Thái nguyên

12. Cao Hồng (2011), Một chặng đường đổi mới lý luận văn học Việt Nam (1986 –

2011), Nxb Hội nhà văn, HN.

13. Nguyễn Văn Long – Lã Nhâm Thìn (đồng chủ biên) (2005), Văn học Việt Nam sau

1975 – Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, Nxb giáo dục, Hà Nội.

14. Phương Lựu (chủ biên) (2005), Lý luận văn học, Nxb Giáo du ̣c, Hà Nô ̣i.

15. Trần Thị Nhung (2010), Người phụ nữ trong Truyền kì mạn lục nhìn từ quan điểm

giới, Luận văn thạc sĩ ngữ văn, ĐHSP Thái Nguyên

16. Phạm Duy Nghĩa, Quan hệ con người tự nhiên trong văn xuôi miền núi, Tạp chí

Nghiên cứu Văn học số 10.2009.

91

17. Nhiều tác giả (1985), 40 năm văn hóa nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam,

Nxb Văn hóa.

18. Nhiều tác giả (1997), Nghiên cứu văn nghệ dân gian Việt Nam (Tập I), Nxb Văn

hóa dân tộc, Hà Nội

19. Đặng Thị Oanh (2006), Biểu tượng lanh trong dân ca Mông, Luận văn thạc sĩ ngữ

văn, ĐHSP Thái Nguyên

20. Văn Quân (1998), Về các giá trị dân tộc, NxbVăn hóa dân tộc, Hà Nội.

21. Hùng Đình Qúy (2001), Dân ca Hmông Hà Giang – tập 1, Sở văn hóa thông tin

Hà Giang

22. Hùng Đình Qúy (2003), Dân ca Hmông Hà Giang – tập 2, Sở văn hóa thông tin

Hà Giang

23. Hùng Đình Qúy (2003), Dân ca Hmông Hà Giang – tập 3, Sở văn hóa thông tin

Hà Giang

24. Trần Hữu Sơn (1996), Văn hóa HMông, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

25. Bùi Việt Thắng (2004), Tiểu thuyết đương đại (Tiểu luận – phê bình văn học),

Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

26. Dương Thị Kim Thoa (2008), Tiếp cận sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư và Đỗ Bích

Thúy từ phương diện giá trị văn hóa – văn học, Luận văn Thạc sĩ Trường Đại học

Khoa học xã hội nhân văn Hà Nội.

27. Đỗ Bích Thúy (2002), Những buổi chiều ngang qua cuộc đời (tập truyện ngắn),

Nxb Thanh niên, Hà Nội.

28. Đỗ Bích Thúy (2005), Tiếng đàn môi sau bờ rào đá (tập truyện ngắn), Nxb Công

an nhân dân. Hà Nội.

29. Đỗ Bích Thúy (2005), Bóng của cây sồi (tiểu thuyết), Nxb Thanh niên, Hà Nội.

30. Đỗ Bích Thúy (2008), Người đàn bà miền núi, Nxb Phụ nữ, Hà Nội

31. Đỗ Bích Thúy (2014), Cánh chim kiêu hãnh, Nxb tổng hợp TP. Hồ Chí Minh

32. Đỗ Bích Thúy (2015), Chúa đất (tiểu thuyết), Nxb Phụ nữ, Hà Nội

33. Đinh Quang Tốn (2004), Ấn tượng văn chương, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

34. Lâm Tiến, Vấn đề truyền thống và hiện đại trong văn học các dân tộc thiểu số

Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Văn học số 4/1991.

35. Lâm Tiến (1995), Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại, Nxb Văn hóa

dân tộc.

92

36. Trần Thị Việt Trung (2010), Bản sắc dân tộc trong thơ các dân tộc thiểu số Việt

Nam hiện đại, Nxb ĐH Thái Nguyên.

37. Trần Thị Việt Trung (2008), Hình tượng nhân vật phụ nữ trong văn xuôi Việt Nam

hiện đại, Nxb Đại học Thái Nguyên.

38. Trần Thị Việt Trung (Đồng chủ biên) (2011), Văn học dân tộc thiểu số Việt Nam

thời kì hiện đại - Một số đặc điểm, Nxb Đại học Thái Nguyên.

39. Đặng Nghiêm Vạn (2007), Văn hóa Việt Nam đa tộc người, NXB Giáo dục, HN.

40. http://tiasang.com.vn/-van-hoa/phan-tam-hoc-trong-nghien-cuu-van-hoc-3236

41. http://giaitri.vnexpress.net/tin-tuc/sach/lang-van/phan-tam-hoc-va-van-hoc-5-doc-

con-nguoi-phan-22-1973757.html

42. http://web.cema.gov.vn/modules.php?name=Content&op=details&mid=117450989

43. http://cand.com.vn/van-hoa/Do-Bich-Thuy-voi-tieu-thuyet-Bong-cua-cay-soi-

16815/

44. http://vietvan.vn/vi/bvct/id231/Tieu-thuyet-cua-cac-cay-but-tre,-doc-va-cam-nhan/

45. http://web.cema.gov.vn/modules.php?name=Content&op=details&mid=117450989