ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
---------------
VŨ THỊ THU HƯỜNG
ẨN ỨC NỮ TÍNH QUA SÁNG TÁC
CỦA ĐỖ BÍCH THÚY
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Thái Nguyên – 2017
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
---------------
VŨ THỊ THU HƯỜNG
ẨN ỨC NỮ TÍNH QUA SÁNG TÁC
CỦA ĐỖ BÍCH THÚY
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 01 21
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: TS. Lê Thị Ngân
Thái Nguyên - 2017
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu trích
dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn đều trung thực
và chưa từng được công bố ở bất kỳ công trình nào khác.
Thái Nguyên, tháng 06 năm 2017
Tác giả luận văn
Vũ Thị Thu Hường
ii
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn thạc sĩ này, tác giả xin trân trọng cảm ơn Ban Giám
hiệu, Khoa Sau đại học, Khoa văn - Xã hội, Trường Đại học Khoa học - Đại học Thái
Nguyên cùng các Thầy, Cô giáo đã trực tiếp giảng dạy, giúp đỡ trong suốt quá trình
học tập.
Đặc biệt, tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới giảng viên hướng dẫn
TS. Lê Thị Ngân đã luôn tận tình hướng dẫn, chỉ bảo trong suốt thời gian tác giả
nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Cuối cùng xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, người thân, bạn bè, đồng nghiệp đã
giúp đỡ, động viên, tạo điều kiện để tác giả hoàn thành luận văn.
Thái Nguyên, tháng 06 năm 2017
Tác giả luận văn
Vũ Thị Thu Hường
iii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN ................................................................................................................ ii
MỤC LỤC .................................................................................................................... iii
MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1
Chương 1 CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ....................................................... 12
1.1. Khái niệm ẩn ức và ẩn ức trong tâm lý học ......................................................... 8
1.1.1. Khái niệm ẩn ức ..................................................................................................... 8
1.1.2. Ẩn ức trong tâm lý học .......................................................................................... 9
1.1.3. Phân tâm học và văn học nghệ thuật ................................................................... 10
1.1.4. Sự khác biệt giữa ẩn ức với các trạng thái tâm lý tiêu cực khác ......................... 17
1.1.5. Ẩn ức hình thành trong những điều kiện, hoàn cảnh nào? .................................. 18
1.1.6. Nhận diện ẩn ức ................................................................................................... 18
1.2. Vấn đề ẩn ức nữ tính .............................................................................................. 19
1.3. Việc khai thác và phản ánh trạng thái ẩn ức trong lịch sử văn học Việt Nam 23
1.4. Đỗ Bích Thúy và sự nặng lòng của chị với những người phụ nữ vùng cao .............. 27
Tiểu kết .......................................................................................................................... 26
Chương 2: NHỮNG CẢM HỨNG ẨN ỨC NỮ TÍNH QUA SÁNG TÁC CỦA
ĐỖ BÍCH THÚY ......................................................................................................... 31
2.1. Nền cảnh của miền núi Đông Bắc .......................................................................... 27
2.1.1. Địa lý nhân văn .................................................................................................... 27
2.1.2. Không gian văn hóa ............................................. Error! Bookmark not defined.
2.2. Người phụ nữ miền núi Đông Bắc ......................................................................... 41
2.2.1. Những kiến tạo của người phụ nữ trong đời sống vật chất ................................. 41
2.2.2. Những kiến tạo của người phụ nữ trong đời sống tinh thần ................................ 45
2.2.3. Sự mặc định của cộng đồng với thân phận của người phụ nữ miền núi ............. 46
2.3. Thân phận người phụ nữ miền núi trong sáng tác của Đỗ Bích Thúy ................... 48
2.3.1. Người phụ nữ không có quyền quyết định tương lai và số phận của chính bản
thân mình ....................................................................................................................... 48
iv
2.3.2. Người phụ nữ phải chịu nhiều thiệt thòi, áp lực trong gia đình, dòng họ, cộng
đồng ............................................................................................................................... 57
2.3.3. Người phụ nữ với nỗi khát khao thầm kín, không thể giải tỏa ............................ 67
Tiểu kết .......................................................................................................................... 73
Chương 3: MỘT SỐ CÁCH THỨC THỂ HIỆN ẨN ỨC NỮ TÍNH QUA SÁNG TÁC
CỦA ĐỖ BÍCH THÚY ................................................................................................. 74
3.1. Hệ thống biểu tượng ............................................................................................... 74
3.1.1. Trang phục ........................................................................................................... 75
3.1.2. Bếp lửa ................................................................................................................. 80
3.1.3. Tiếng đàn môi ...................................................................................................... 84
3.2. Ngôn ngữ ................................................................................................................ 86
3.2.1. Ngôn ngữ đối thoại .............................................................................................. 87
3.2.2. Lối nói so sánh ..................................................................................................... 89
Tiểu kết .......................................................................................................................... 93
KẾT LUẬN ................................................................................................................... 94
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................. 96
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Miền núi phía Bắc, một vùng rộng lớn và đa dạng về cảnh sắc địa lí, đa dạng về
thành phần dân tộc. Hơn thế, đây còn là một vỉa tầng dồi dào về trữ lượng tài nguyên
nhân văn như văn hóa, văn học nghệ thuật, phong tục - tập quán, lối sống, nếp nghĩ và
cá tính con người…Trong những năm gần đây, miền núi phía Bắc được tập trung chú
ý, khai thác và dựng xây trên mọi bình diện, từ kinh tế, văn hóa. Con người miền núi
là chủ nhân của không gian đó, được tập trung phản ánh hơn cả, từ lối sống ngàn đời
đến những đổi thay do thời đại đem lại. Việc phác họa, mô tả về hình ảnh con người
nơi đây cũng góp phần vén bức màn bí ẩn của vùng đất xa xôi, hẻo lánh, tách biệt, đưa
một cái nhìn toàn diện về những dân tộc anh em, với những đặc thù riêng trong lối
sống, nếp nghĩ, hành động, sự khốn khó trong đời sống thường nhật, tinh thần nhân
văn, sự mãnh liệt hay cam chịu của những kiếp người…
Tất thảy những điều đó, đạt hiệu quả cao nhất, thực tế và hấp dẫn nhất khi
thông qua phương tiện văn học, bắt lấy đời sống, lấy diễn tiến thực tại làm chất liệu
phản ánh, sáng tác. “Tác phẩm chính là sự phản ánh thực tế xã hội qua cách nhìn,
cách nghĩ, cách cảm xúc của tác giả” [14, tr.713]. Vì vậy, cách nhìn của nhà văn trong
sáng tác của mình là một yếu tố quan trọng, quyết định đến “sự phản ánh thực tế xã
hội” của tác phẩm. Qua cái nhìn, có thể thấy được quan niệm về cuộc đời, con người
của tác giả cũng như những khuynh hướng riêng của mỗi tác phẩm. Chẳng hạn như cái
nhìn thể hiện khuynh hướng nữ tính qua những sáng tác của nữ sĩ Hồ Xuân Hương hay
Bà Huyện Thanh Quan.
Lịch sử văn học trung đại nước ta có một trường hợp đặc biệt là nữ sĩ Hồ Xuân
Hương. Những sáng tác của “Bà chúa thơ Nôm” chính là trạng thái khát vọng của
người phụ nữ bị chặn lại bởi rào cản hà khắc của chế độ phong kiến đã trở thành
những bài thơ quyết liệt mà mong manh, lạnh lùng mà lửa cháy. Cái nhìn trong thơ bà
đầy ẩn ức nữ tính. Rất nhiều hình ảnh trong thơ “Bà chúa thơ Nôm” dễ gợi sự liên
tưởng đến hình ảnh của các bộ phận sinh dục và tính giao nam - nữ. Có những sự vật,
hiện tượng qua cái nhìn của bà đã đạt đến độ phát triển sung mãn, đầy gợi cảm nhục
dục. Trong tình yêu và hôn nhân, cái nhìn của bà là thiên về sự đổ vỡ, bất hạnh, không
2
trọn vẹn. Trong cái nhìn về giới tính, đó là sự coi thường, đùa cợt, giễu nhạo đối với
nam giới, đồng thời là sự đồng cảm, bênh vực, ủng hộ giới nữ; là sự ấm ức về thân
phận trong xã hội vốn không bình đẳng giới.
Trong văn học hiện đại, cũng có nhiều cây bút đề cập đến vấn đề này, nhất là
những cây bút nữ như: Phạm Thị Hoài, Võ Thị Hảo, Nguyễn Thị Thu Huệ, Dạ Ngân,
Võ Thị Xuân Hà, Y Ban… Gần đây nhất là truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư. Có thể
nói, cái nhìn nữ tính là biểu hiện quan trọng nhất của khuynh hướng phụ nữ trong
truyện ngắn của chị, chi phối những cái nhìn khác. Cái nhìn ẩn ức trong truyện ngắn
Nguyễn Ngọc Tư không bộc lộ gay gắt, mãnh liệt như trong thơ của Hồ Xuân Hương
nhưng đầy nỗi ám ảnh, xót xa, những khát khao đau đớn.
Trong những năm gần đây, cái tên Đỗ Bích Thúy được độc giả nhắc đến nhiều
với những tác phẩm đầy không gian núi và những con người của núi. Chị giành nhiều
xúc cảm và sự cảm thông cho nỗi niềm của người phụ nữ, ở một miền đất còn ủ chứa
nhiều cũ kĩ, gian khó - Đỗ Bích Thúy, một nhà văn sinh ra và lớn lên trong môi trường
miền núi, người dành trọn tâm tình cho không gian núi và đồng bào các dân tộc ít
người sinh sống ở đó, đặc biệt là vùng Đông Bắc với đồng bào dân tộc Mông. Những
tác phẩm của Đỗ Bích Thúy có một lối viết riêng, rất lôi cuốn và ma mị, ngôn ngữ
giản dị theo cách nói của người miền núi, vẻ đẹp của thiên nhiên và khung cảnh miền
núi làm mê đắm lòng người, con người trong khung cảnh đó với muôn vàn số phận,
những bài học và câu chuyện nhân văn sâu sắc, đó là Người đàn bà miền núi, Bóng
của cây sồi, Đêm cá nổi, Tiếng đàn môi sau bờ rào đá, Ngải đắng ở trên núi, Sau
những mùa trăng… Điểm giao tụ, hằn lên trong những tác phẩm của Đỗ Bích Thúy,
đó là đời người, nhất là hình ảnh người phụ nữ miền núi. Họ là trung tâm, là nguyên
cớ trong tất cả các tác phẩm của chị, một ẩn tính được khắc họa sâu sắc đó là sức sống
mãnh liệt, sự khát khao kiếm tìm tình yêu và hạnh phúc, sự chịu đựng, kìm nén, chấp
nhận, lầm lũi, khi họ bị định kiến và quan niệm xã hội chống lại, kìm nén, đóng khung.
Chính Đỗ Bích Thúy đã từng chia sẻ và cũng như một câu hỏi, một lời giải thích rằng:
“...Tại sao tôi cứ viết về đàn bà, với những cuộc đời rủi ro và số phận nghiệt ngã, với
những cái bướu xấu xí và tấm lưng còng gập? Tại sao những người đàn bà của tôi khi
nào cũng phải sống trong những nỗi khát khao lớn hơn dãy Tây Côn Lĩnh, sâu hơn
đáy sông Lô - những nỗi khát khao không gì nhấn chìm được, cũng không cách gì đạt
3
tới được? Những cuộc đời đầy âu lo, những năm tháng luôn phải đối mặt với thiên
nhiên khốc liệt, cõi đời trắc trở, tình yêu mong manh... Tại sao vậy? Phải chăng vì,
như một người đã nói với tôi: Cuộc đời đàn bà buồn nhiều hơn vui, lo âu nhiều hơn
mãn nguyện? Phải chăng vì, trời sinh ra đàn bà để chẳng sống mấy cho mình? Cuốn
sách này tôi vẫn dành cho những người đàn bà. Người đã án ngữ trong kí ức của tôi
về vùng đất thân yêu bạt ngàn cây rừng, hoang vu gió, tầm tã mưa, sôi sùng sục nước
dưới những dòng sông ngoằn ngoèo cuộn chảy…" [30, tr.7-8]
Đọc tác phẩm của Đỗ Bích Thúy, chúng tôi bị ám ảnh về những người đàn bà
núi, nơi đó - họ là nước, hiếm và quý, là khởi nguồn cho sự sống và tồn tại, nước là
sức mạnh, là sự mãnh liệt. Nhưng số phận của họ lại tỷ lệ nghịch với bản chất và sự
kiến tạo của họ, số phận nghiệt ngã, sức sống nội tâm mãnh liệt, không bao giờ tàn lụi.
Chính bởi thế, chúng tôi quyết định chọn chủ đề “Ẩn ức nữ tính qua sáng tác của Đỗ
Bích Thúy” làm luận văn thạc sĩ, như một hành trình tâm tưởng của cá nhân đến với
vùng đất ấy, con người ấy, để giải mã và thấu hiểu, trong chừng mực của bản thân và
cũng hi vọng có chút đóng góp nhất định trong tập thể những người đọc và tò mò về
những tác phẩm của Đỗ Bích Thúy.
Trong xã hội hiện đại ngày nay, xu hướng bình đẳng về giới là một tiêu chí
quan trọng thể hiện sự tiến bộ, công bằng và văn minh trong xã hội. Với đề tài này, hy
vọng cũng ít nhiều góp thêm một tiếng nói, một hình ảnh, một góc tiếp cận về vấn đề
thực trạng của bình đẳng giới trong khu vực miền núi Đông Bắc nói riêng và xã hội
Việt Nam nói chung.
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Đã có rất nhiều những tác phẩm văn học lấy đề tài miền núi làm chất liệu khai
thác, tập trung một đội ngũ các nhà sáng tác tâm huyết và đam mê. Họ đã tạo được
một bức tranh tương đối đa sắc và toàn cảnh về miền núi phía Bắc. Trong đó, con
người miền núi được xem và nhìn nhận là trung tâm của mọi sáng tác.
Có thể nói, công trình sớm và mang tính khái quát bước đầu về miền núi dưới
góc độ văn học - nghệ thuật là cuốn sách 40 năm văn hóa nghệ thuật các dân tộc thiểu
số Việt Nam 1945 - 1985 do Nhà xuất bản Văn hóa ấn loát. Đây là một tập hợp những
bài viết sâu sắc về các chủ đề văn hóa - văn nghệ của các dân tộc thiểu số miền núi.
4
Cùng bàn về khía cạnh song đối giữa truyền thống và hiện đại, tác giả Lâm Tiến
với bài nghiên cứu Vấn đề hiện đại và truyền thống trong văn học các dân tộc thiểu số
đăng trên Tạp chí Văn học năm 1992; bài nghiên cứu Văn xuôi miền núi và vấn đề
truyền thống - hiện đại của Phạm Duy Nghĩa.
Nhấn mạnh tới khía cạnh bản sắc dân tộc được phản ánh qua các tác phẩm của
các tác giả người dân tộc thiểu số là bài viết Về bản sắc dân tộc trong sáng tác của các
nhà thơ dân tộc thiểu số của Nguyễn Duy Bắc.
Một số tác giả có nhiều thành tựu khi mô tả về bối cảnh và con người miền núi
như Cao Duy Sơn với Ngôi nhà xưa bên suối, Người lang thang; thơ Y Phương …
Một công trình chuyên khảo với nhan đề Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam
hiện đại của tác giả Lâm Tiến, do NXB Văn hóa dân tộc ấn loát năm 1995, đã cung
cấp một cách khái quát nhất về những đặc trưng của văn học miền núi hiện đại, như
đối tượng phản ánh, đặc trưng thể loại, cuộc sống và hình ảnh về miền.
Ngoài ra cũng có thể kể tới các công trình nghiên cứu, các bài viết của tác giả
Trần Thị Việt Trung về hình ảnh người phụ nữ dân tộc thiểu số trong văn học, thi ca
như: Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam trong thơ ca dân tộc và trong thơ mới (trước
năm 1945); Một số đặc điểm nghệ thuật xây dựng nhân vật phụ nữ dân tộc thiểu số
trong sáng tác của Tô Hoài và Vi Hồng, Bản sắc dân tộc trong thơ ca các dân tộc
thiểu số Việt Nam hiện đại.
Sau thời kì đổi mới (1986), một cách tiếp cận trên bình diện lý luận và phê bình
tác phẩm văn học được một số nhà nghiên cứu, phê bình chú tâm tới, đó là áp dụng lý
thuyết phân tâm học vào nghiên cứu và phê bình văn học. Tiêu biểu có thể kể đến các
công trình như tác giả Đỗ Lai Thúy với bài viết “Phê bình văn học Việt Nam: Nhìn
nghiêng từ phương pháp”(Nghiên cứu văn học Việt Nam những khả năng và thách
thức, Nxb Thế giới (2009), HN, tr.41-96) và sau đó là cuốn sách “Phân tâm học và văn
hóa nghệ thuật”; tác giả Ngô Hương Giang với bài viết “Tiếp nhận phân tâm học ở
Việt Nam 1975 đến nay nhìn từ lý thuyết và ứng dụng”; tác giả Cao Hồng với chuyên
luận “Một chặng đường đổi mới lí luận văn học Việt Nam (1986 – 2011)” do nhà xuất
bản hội nhà văn ấn hành năm 2011; tác giả Trần Thanh Hà với “Học thuyết S.Freud và
sự thể hiện của nó trong văn học Việt Nam”…
5
Những đánh giá, nhận định về các tác phẩm của nhà văn Đỗ Bích Thúy, cho tới
hiện tại vẫn khá khiêm tốn và mới chỉ dừng lại ở phạm vi là những bài viết, chia sẻ
mang tính cá nhân, nhỏ lẻ, chứ chưa mang tính tổng quát và hệ thống xâu chuỗi. Về cơ
bản, có thể điểm xuyến qua một số bài viết như của nhà phê bình Nguyễn Hòa, khi ông
chắp bút viết lời giới thiệu cho tập truyện Những buổi chiều ngang qua cuộc đời của
Đỗ Bích Thúy, hay bài viết Về văn xuôi dân tộc và miền núi từ năm 1986 đến nay của
Phạm Duy Nghĩa cũng nhấn mạnh đến hơi thở mang tính thời sự trong các tác phẩm
của Đỗ Bích Thúy.
Tác giả Ngọc Ánh với bài viết nhan đề Nhà văn trẻ Đỗ Bích Thúy đánh thức
lòng nhân bản” [42] đã nói lên điểm hấp dẫn trong các tác phẩm của Đỗ Bích Thúy
như: cảnh sắc miền núi, đời sống sinh hoạt của các cộng đồng dân tộc thiểu số, số
phận con người, sự trớ trêu của cảnh đời, nội tâm nhân vật…
Ngay sau tác phẩm Bóng của cây sồi xuất bản không lâu, trên báo Công an
nhân dân có bài viết nhận định rằng: “Ở vùng đất cực Bắc xa xôi heo hút gió, giờ đây
không còn là một miền sơn cước yên tĩnh nữa mà cộng thêm vào những hủ tục, lề thói
cổ xưa là những lành dữ, hay dở do cơn bão kinh tế thị trường hỗn tạp mang đến.
Những người trẻ tuổi, những đứa con sinh ra và lớn lên trên vùng đất đó sẽ sống và
làm việc ra sao giữa sự giằng níu của những lề thói xưa cũ và sự đùn đẩy, tác động
của cơ chế kinh tế thị trường hôm nay…Đỗ Bích Thúy trực diện viết về cuộc sống hôm
nay trong sự cảm nhận chân thực của mình. Qua những trang sách, vùng đất Lao Chải
dần dà hiện rõ ra với cảnh sắc, con người, phong tục tập quán, những may rủi, buồn
vui, tốt xấu hay dở đan cài nhau” [43].
Đặc biệt, phải kể đến bài viết của nhà văn Lê Hương Thủy với nhan đề Đường
đến văn chương của một người viết trẻ nhấn mạnh và lí giải về sự lôi cuốn và hấp dẫn
từ những tác phẩm của Đỗ Bích Thúy đối với độc giả, nhất là độc giả chốn thành thị.
Tạp chí Văn nghệ quân đội đánh giá và cho rằng Đỗ Bích Thúy là một hiện tượng
hiếm của thế hệ những nhà văn trẻ bây giờ. Nhà phê bình văn học Lê Thành Nghị
trong lời giới thiệu cho tập truyện ngắn Tiếng đàn môi sau bờ rào đá, xuất bản năm
2005, đã giành những lời nhận xét rất chính xác và tinh tế về những trang văn của Đỗ
Bích Thúy, đó là sự mộc mạc, sống động, lôi cuốn, đầy màu sắc và thanh âm cuộc
sống, đời người…
6
Nhà phê bình Đoàn Minh Tâm với bài viết nhan đề Tiểu thuyết của các cây bút trẻ
- đọc và cảm nhận [44] cũng đã nhấn mạnh tới khía cạnh nhẹ nhàng nhưng đầy sâu lắng
và nhân văn qua tiểu thuyết Bóng của cây sồi của Đỗ Bích Thúy.
Luận văn thạc sĩ của tác giả Dương Thị Kim Thoa với chủ đề Tiếp cận sáng tác
của Nguyễn Ngọc Tư và Đỗ Bích Thúy từ phương diện giá trị văn học - văn hóa đã
khái quát và chỉ ra những hình ảnh cô đặc nhất trong các tác phẩm của Đỗ Bích Thúy -
đó là thân phận con người trong khung cảnh và sự vận động đổi thay của miền núi phía
Bắc [26].
Tuy nhiên, có thể nhận thấy, việc đi sâu vào mô tả và phân tích trạng thái tâm
lý, nội tâm của các tuyến nhân vật trong các tác phẩm của Đỗ Bích Thúy vẫn còn là
một mảng mỏng, chưa được nhấn mạnh và nhận định đánh giá như một trạng thái cốt
lõi phủ suốt toàn bộ các tác phẩm, câu chuyện của nhà văn. Bởi thế, từ việc kế thừa
những nghiên cứu trước đó, tác giả luận văn muốn mở rộng và ít nhiều vun góp thêm
vấn đề này, hòng mong tham gia tạo dựng chung, đầy đủ và đa diện về sự độc đáo -
đặc biệt qua các tác phẩm của Đỗ Bích Thúy.
3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Với hướng tiếp cận nêu trên của luận văn nên đối tượng nghiên cứu mà luận văn
hướng đến là hình ảnh người phụ nữ miền núi được phác dựng và phản ánh qua những
sáng tác của Đỗ Bích Thúy.
3.2. Mục tiêu nghiên cứu
- Cuộc đời, số phận của những nhân vật nữ trong sáng tác của Đỗ Bích Thúy.
- Những ẩn ức mang tính nhân loại và sắc thái riêng của tộc người và miền đất.
- Nét phong cách trong văn chương Đỗ Bích Thúy.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thống kê phân loại
Từ việc tiếp cận các tác phẩm, chúng tôi thống kê, phân loại các nhân vật để từ
đó có cái nhìn khách quan, khoa học trong đánh giá.
7
- Phương pháp phân tích - tổng hợp
Phân tích những hành động suy nghĩ của nhân vật người phụ nữ miền núi Đông
Bắc trong từng hoàn cảnh, tình huống truyện cụ thể để có cái nhìn chi tiết, chính xác
về tích cách của từng nhân vật và bên cạnh đó tổng hợp lại để có cái nhìn khái quát,
xâu chuỗi những tri thức tìm được.
- Phương pháp so sánh - đối chiếu
So sánh đối chiếu để tìm ra sự khác biệt cũng như tạo ra sự chính xác cao cho
công trình nghiên cứu. So sánh để làm nổi bật nét riêng biệt, phong cách nghệ thuật,
đổi mới cách thể hiện của nhà văn Đỗ Bích Thúy với nhiều nhà văn khác.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng phương pháp liên ngành khác như: tiếp cận tác
phẩm văn học từ góc nhìn văn hóa để khám phá triệt để dấu ấn văn hóa miền núi Đông
Bắc trong các sáng tác của Đỗ Bích Thúy.
5. Phạm vi nghiên cứu
Những sáng tác của Đỗ Bích Thúy từ trước tới nay, có đề cập tới hình ảnh
người đàn bà miền núi.
6. Cấu trúc của luận văn
Luận văn gồm ba phần: mở đầu, nội dung và kết luận. Trong đó phần nội dung
được triển khai thành ba phần chính như sau:
Chương 1. Cơ sở lí luận và thực tiễn.
Chương 2. Những cảm hứng ẩn ức nữ tính trong sáng tác của Đỗ Bích Thúy.
Chương 3. Một số cách thức thể hiện ẩn ức nữ tính qua sáng tác của Đỗ Bích Thúy.
7. Đóng góp của luận văn
Luận văn góp thêm một tiếng nói về những ẩn ức nữ tính qua sáng tác của nhà
văn Đỗ Bích Thúy. Qua đó khẳng định nét độc đáo trong phong cách văn chương của
Đỗ Bích Thúy.
Luận văn cũng là một tài liệu tham khảo cho các công trình nghiên cứu tiếp theo
về Đỗ Bích Thúy.
8
Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Khái niệm ẩn ức và ẩn ức trong tâm lý học
1.1.1. Khái niệm ẩn ức
Trong đời sống của mình, loài người luôn phải đối diện và đương đầu với muôn
vàn những vấn đề nảy sinh. Gắn liền với thực tiễn đời sống đó, con người bắt buộc
phải đưa ra được lựa chọn, giải quyết. Với ứng xử của từng cá nhân trước thực tiễn, sẽ
có hai chiều hướng: một là được sự chấp nhận và đồng tình của chính cá nhân và cộng
đồng, xã hội; hai là đi lệch với quan điểm vốn được chấp nhận của cộng đồng và xã
hội. Con người cá nhân trong suốt cuộc đời mình phải chọn lựa, vật lộn trong hai thái
cực đó.
Con người cũng là sản phẩm tiến hóa vượt trội nhất trong muôn loài trên trái
đất, tức ngoài cái “bản năng” sinh học như vạn vật, thì cái làm nên sự vượt trội, chính
là yếu tố “người” - tức trạng thái xã hội, đạo đức, chuẩn mực, nhân cách. Giữa “bản
năng” sinh học và “yêu cầu” xã hội luôn luôn tương tác với nhau, phối hợp với nhau
theo hai chiều, khi thì thúc đẩy nhau cùng song hành tồn tại và phát triển, khi thì lại
xảy ra quá trình tranh đấu, đối lập, triệt tiêu lẫn nhau. Quá trình và trạng thái ấy được
quy nạp cô gọn về hai thái cực đó là “vật chất” và “tinh thần”, đồng thời cũng là những
chất liệu quan trọng bậc nhất của cuộc sống mà loài người luôn mưu cầu.
Với sự tồn tại của mình trong thực tế đời sống, loài người luôn có hai trạng thái
cơ bản, đối lập nhau: hài lòng và không hài lòng, hay nói cách khác là thỏa mãn và
không thỏa mãn. Tất cả những trạng thái đó phản ánh cô đặc, sâu đậm nhất trong suy
nghĩ và não bộ con người được thể hiện qua tâm lý, hành động và những biểu hiện của
họ. Ở trạng thái nhứ nhất, sự hài lòng, thường đi kèm với tâm lý thỏa mãn, hưng phấn,
hạnh phúc, tự tin; ở trạng thái thứ hai, không hài lòng, sẽ nảy sinh sự ức chế, buồn bã,
cô đơn, thậm chí xấu hổ, tủi nhục. Nếu so sánh hai trạng thái trên, gây dấu ấn đậm sâu
nhất, dai dẳng nhất trong tâm trí con người, chính là tâm lý tiêu cực, sự ức chế. Trong
tâm lý tiêu cực, ức chế của con người, mãnh liệt nhất chính là ẩn ức.
9
Về giới thuyết khoa học, người ta định nghĩa ẩn ức tức là những cảm xúc tiêu
cực xuất hiện lặp đi lặp lại, không được nhận thức, không được chấm dứt hoặc chuyển
hóa, dẫn đến tích dồn theo thời gian. Ẩn ức để lại dấu ấn sâu đậm trong tâm trí con
người, có tác động nhất định đến tâm lý và phép ứng xử cá nhân. Nói cách khác, ẩn ức
là trạng thái các khuynh hướng bị ngăn trở, không thực hiện được, trở thành một thứ
xung động nội tâm, được gọi là refoulement. Ẩn ức ví như dòng nước bị chặn lại, hay
giống như quả bóng ngày một bơm căng, không dừng lại.
1.1.2. Ẩn ức trong tâm lý học
Ẩn ức là một hiện tượng tâm lý học đặc biệt của con người. Ẩn ức liên quan tới
sự ức chế tâm lý, hay thần kinh của con người. Việc chữa bệnh suy nhược thần kinh
bằng phương pháp phân tích tâm lý (qua sự dồn nén và ẩn ức tinh thần, tâm lý) được
Freud gọi là phân tâm học (Psychoanalysis). Theo cách lý giải của các nhà tâm lý học,
mà tiêu biểu là Sigmund Freud (1856 - 1939) thì trạng thái ẩn ức mang những đặc
điểm cơ bản sau:
Freud cho rằng, hệ thống vô thức trong con người thể hiện những xung năng,
dục vọng, bản năng sống. Nội dung chính của chúng là những thèm muốn tính dục
mãnh liệt nhưng lại bị ý thức xã hội (biểu hiện bởi những cấm đoán của xã hội) kiềm
chế. Vì vậy, con người thường xuyên xuất hiện lo âu, ức chế và các trạng thái loạn tâm
thần. Có khi chúng được thỏa mãn giả vờ thông qua các hình thức mộng mị, nói nhịu,
viết nhầm…hoặc được thăng hoa dưới các hình thức như những khát vọng, tình cảm
cao thượng, sự say mê tôn giáo, khoa học, sáng tác văn học, nghệ thuật, âm nhạc…
Về quá trình hình thành nhân cách con người, nguyên khởi được tạo dựng qua
sự tương tác phức hợp giữa các xung năng (driven) với những kinh nghiệm thời ấu thơ
của mỗi cá nhân. Sau này, mọi biểu hiện và hành vi của con người đều là kết quả của
cách nuôi dạy, đối xử của bố mẹ, cộng đồng, khi họ còn bé, nhất là trong 5 năm đầu
tiên của cuộc đời. Freud cho rằng, con người tiếp tục thỏa mãn những mong muốn của
họ trong tương lai bằng quá trình tương tác với người khác. Tâm lý con người được
tạo thành bởi ba thành tố là: bản năng vô thức; cấu trúc nhân cách và cơ chế tự vệ.
10
Bản năng vô thức là phần sinh học tự nhiên mà con người được kế thừa, là thứ
hình thành trước nhất, bản năng thuộc về vô thức, tức nằm ngoài sự kiểm soát của con
người. Trong bản năng, lại chia ra làm hai loại là bản năng sống và bản năng chết.
Tiếp nữa là cấu trúc nhân cách, được cấu thành bởi ba yếu tố: Nó (Id), Cái tôi
(Ego), Cái siêu tôi (Super Ego). Ba yếu tố này được sản sinh và phát triển khi con
người được 5 tuổi, luôn luôn vận động và tương tác với nhau, chi phối rất lớn, thậm
chí tạo ra “cá tính” riêng cho từng cá nhân. Yếu tố Nó tồn tại và vận động theo nguyên
tắc thỏa mãn, yếu tố cái Tôi lại theo nguyên tắc thực tiễn, còn yếu tố siêu Tôi lại tuân
theo nguyên tắc kiểm duyệt. Như thế, trong ba yếu tố này, nổi lên mâu thuẫn giữa cái
Nó và cái siêu Tôi, mẫu thuẫn này dẫn tới trạng thái tâm lý đặc trưng của con người,
đó là sự căng thẳng, ức chế thần kinh. Sự căng thẳng hay ức chế về thần kinh là đỉnh
điểm, là điểm nút trong tâm lý con người, đòi hỏi phải được chuyển hóa và khai
phóng. Để thoát khỏi trạng thái đó, con người cần có những cơ chế tự vệ để tạo được
sự cân bằng trong tâm lý.
Cơ chế tự vệ của bản thân con người khá đa dạng và theo những chiều hướng
khác nhau, mỗi một chiều hướng lại có những biểu hiện và kết quả khác nhau. Đó
là sự dồn nén, sự phóng chiếu, sự chối bỏ, sự thoái bộ, tạo lập phản ứng, phá bỏ,
thăng hoa và mơ mộng.
Cũng theo cách lí giải của Freud, nhân cách con người phát triển qua nhiều giai
đoạn khác nhau, mỗi giai đoạn ứng với độ tuổi và môi trường được nuôi dưỡng.
Như thế, với tám cơ chế tự vệ của con người để giải quyết những xung năng
dồn nén kia ẩn ức thường gắn với cơ chế thứ nhất, đó là sự dồn nén, mang tính vô
thức. Cơ chế tự vệ này mang tính bản năng, nằm ngoài lý trí của con người. Cũng với
sự đa dạng của “loại thức” xung năng, của đối tượng cá thể, của cách lựa chọn cơ chế
tự vệ mà tạo nên sự đa dạng, đa diện của biểu hiện con người, thầm kín dằn vặt, loạn
tâm, loạn thần, dâm loạn, chối bỏ thực tại, hoặc sáng tạo nên những giá trị độc đáo về
nghệ thuật, âm nhạc, văn học - nhờ những thăng hoa tâm lý.
1.1.3. Phân tâm học và văn học nghệ thuật
Mỗi con người là một tổ chức tâm thần phức hợp. Đối diện với thực tại đầy
phức tạp và biến động không ngừng nên con người ai cũng có xung đột nội tâm. Đó là
11
đời sống tinh thần phong phú, với những xung đột, tình cảm xúc động, thất vọng, thỏa
mãn, lo sợ và hy vọng. Cái thế giới này không có thực ngoài đời, không cụ thể, không
nhìn được, ấy là thế giới nội tâm mà phân tâm học gọi là thực thể tâm thần.
Nghệ thuật với các ngành của nó như điêu khắc, hội họa, văn học, điện ảnh… là
của con người, do con người sáng tạo nên, từ con người, cho con người. Cần thấy
rằng, con người không chỉ là cái nhìn thấy ở bề ngoài của nó, mà còn là nguồn gốc sâu
xa và kín đáo trong mỗi cá nhân. Nguồn gốc sâu xa và kín đáo ấy tạo nên văn hóa, mĩ
cảm của nghệ thuật. Nhờ vậy, phân tâm học đưa ra một cách nhìn mới mẻ làm sâu sắc
hơn nghệ thuật.
Người nghệ sĩ khi thực hiện sáng tạo nghệ thuật đã thể hiện sắc màu vô hình
này của thực thể tâm thần của chính bản thân họ để tạo nên tác phẩm nghệ thuật.
Trước hết, nó là sự thỏa mãn riêng của mình, là giải thoát những day dứt và bó buộc
của thực tế. Ước vọng của nghệ sĩ trước hết là của chính họ. Nó trở nên tác phẩm nghệ
thuật nghĩa là ước vọng đó là của người nghệ sĩ chân chính, nghĩa là người nghệ sĩ với
tài năng của mình đã biến đổi những gồ ghề, thô ráp của mộng mị mê sảng, dùng kỹ
thuật thẩm mĩ để che giấu được nguồn gốc cá nhân của sáng tạo và trình bày lại dưới
một hình thức khác gọi khoái cảm. Đó là nghệ thuật.
Văn học là một ngành quan trọng của nghệ thuật. Quá trình hình thành và phát
triển của nó đã được nghiên cứu từ rất lâu. Lịch sử nghiên cứu và phê bình văn học đã
có truyền thống với sự phong phú và đa dạng của các hình thức như văn học sử,
nghiên cứu lịch đại và đồng đại, nghiên cứu so sánh, nghiên cứu xã hội học, nghiên
cứu liên văn bản, nghiên cứu tiếp nhận ..., nhưng đến khi phân tâm học ra đời thì nó
mang một sắc thái và diện mạo mới - sâu sắc hơn, phong phú hơn, đầy đủ hơn (Mặc dù
khởi thủy của phân tâm học là phương pháp chữa bệnh thần kinh. Về sau chính Freud
cũng lấy làm ngạc nhiên bởi hiệu quả của nó trong khi ứng dụng vào nghiên cứu và
phê bình văn học).
Phân tâm học coi tác phẩm văn học là một thế giới gồm tác giả, người đọc,
nhân vật, hiện tượng (phenomens) được nhà văn, nhà thơ xây dựng trong đó, có đời
sống riêng với những quy luật tâm lý riêng, cá biệt không trộn lẫn nhau trong quá trình
phát triển. Trong thế giới này, tất cả mọi chi tiết, sự kiện đều được coi là những biểu
12
tượng phản ánh những ước muốn và những vô thức bị dồn nén của tác giả. Cái vô thức
này là một cõi riêng, một phần trong cấu trúc tâm thức của mỗi con người - nơi chứa
đựng những xung lực bản năng. Những xung lực bản năng và mơ ước bị dồn nén luôn
luôn có xu hướng "trồi" lên vùng ý thức dưới những hình thức ngụy trang, qua các
cách thức khác nhau, trong đó nhiều nhất là ở những giấc mơ, hoài niệm, qua ngôn
ngữ nhân vật, hiện tượng được nhà văn tạo nên, nói nhịu, nói tục, nói với những từ ngữ
vô nghĩa, trắng nghĩa, không có thông tin cho đối tượng nghe. Trong đó giấc mơ, tuổi
ấu thơ, người mẹ (căn cốt đầu tiên của bào thai) là cửa mở đi vào vô thức.
Vì vậy phân tâm học coi tác phẩm văn học là một giấc mơ, là sự thăng hoa bất
chợt, bất ngờ của ẩn ức có trong vô thức của thời ấu thơ và tìm cách lí giải nó.
Hoạt động của giấc mơ - cũng như của tác phẩm văn học - có thể được tóm gọn
vào hai quá trình chính: "dồn nén" và "hoán vị". Trong quá trình "dồn nén", vô số các
ước mơ, các ẩn ức và các mặc cảm khác nhau sẽ được kết tập vào một hình thức biểu
hiện nhất định. Sau đó, trong quá trình “hoán vị”, hình thức biểu hiện này sẽ được
ngụy trang, tức được hoán chuyển sang một hình thức khác phù hợp với các quy ước
đạo đức và văn hóa của xã hội. Hai quá trình "dồn nén" và "hoán vị" này tương tự hai
cấu trúc "ẩn dụ" (dồn nén ý nghĩa lại theo nguyên tắc tương đồng) và "hoán dụ" (hoán
chuyển ý nghĩa này sang ý nghĩa khác theo nguyên tắc tương cận) mà Roman
Jakobson đã phát hiện như hai trục chính trong sinh hoạt ngôn ngữ nhân loại. Trong
khi Freud hay nói đến bản năng và những xung lực từ vô thức, Lacan lại hay nói đến
những ước mơ. Với ông, ước mơ là cái gì có tính bản thể luận, một cuộc đấu tranh
nhằm vươn lên cái toàn thể hơn là gắn liền với những xung lực tính dục. Mọi ước mơ
đều gắn liền với sự thiếu hụt. Ngay chính ngôn ngữ con người cũng hoạt động trên sự
thiếu hụt ấy: điều kiện để từ ngữ có ý nghĩa là sự vắng mặt của cái được biểu đạt và sự
loại trừ vô số những cái biểu đạt khác.
Trong việc áp dụng phân tâm học vào lĩnh vực nghiên cứu và phê bình văn
học, cũng xảy ra một số khó khăn, thậm chí vướng mắc về việc lí luận, thậm chí là lên
án việc áp dụng này. Điển hình trong quan điểm chống lại phân tâm học ứng dụng là
tác giả Pierre Bayard trong cuốn sách Liệu có thể áp dụng văn học vào phân tâm học?
(Minuit, 2004)
13
Nhưng dù có nhiều trường phái và quan điểm khác nhau thế nào, trong thực tế
đã từ lâu, diễn giải theo hướng phân tâm học về văn bản văn học vẫn được các nhà phê
bình văn học sử dụng. Phân tâm học trong văn học thường được thực hiện theo các
cách cơ bản sau: Hoặc là tiến hành phân tâm tác giả (phân tâm tiểu sử, phân tâm phê
bình); hoặc là tiến hành phân tâm nhân vật, khi đó ít nhiều người ta xem nhân vật như
là những con người thực; hoặc là hình dung rằng sẽ có một “vô thức của văn bản”
thuộc về tác phẩm. Trong đó, hai trường phái chính là trường phái làm việc trên tác
giả, tiểu sử tác giả và trường phái tập trung vào văn bản. Trong luận văn của mình,
chúng tôi kết hợp cả hai trường phái trên. Trong đó, tác giả, tiểu sử tác giả sẽ là một
trong những cơ sở nền để chúng tôi đi vào phân tâm nhân vật, để tìm ra những ẩn ức
vừa là của chính tác giả, vừa là của những con người tác giả gặp, đồng cảm trong cuộc
đời của mình.
1.1.4. Sự khác biệt giữa ẩn ức với các trạng thái tâm lý tiêu cực khác
So với một số trạng thái tâm lý tiêu cực như: hoang mang, đau khổ, xấu hổ,
nhục nhã, lo lắng, tức giận… thì ẩn ức khác biệt hoàn toàn so với các trạng thái đó.
Những trạng thái nêu trên chỉ là một khía cạnh, một lát cắt rất nhỏ trong cuộc sống và
tâm lí con người. Cuộc sống luôn vận động và biến đổi, chuyển hóa, các trạng thái đó
cũng chuyển hóa theo, nó giống như cung bậc phải có trong cuộc sống, con người phải
đối mặt, phải trải qua. Hoang mang hay lo lắng thì cũng có thể chấm dứt và chuyển
sang an tâm, bình thản khi được giúp đỡ, động viên, được lắng nghe và chia sẻ. Đau
khổ cũng có thể được xoa dịu qua thời gian, qua sự cứng cỏi và từng trải của bản thân,
của hoàn cảnh và môi trường mới, bởi niềm tin và hi vọng. Xấu hổ và nhục nhã cũng
có thể giảm cường độ và rơi vào quên lãng khi được phủ bởi lớp bụi thời gian, bởi sự
lắng xuống của dư luận và mối quan tâm của những người xung quanh, hay sự chủ
động thay đổi không gian và môi trường sống của chủ thể. Tức giận cũng sẽ nhanh
chóng trôi đi, bởi nó cũng chỉ là cảm xúc nhất thời, sự bình tâm và tha thứ sẽ khỏa lấp.
Trong khi đó, vượt lên trên tất cả, phép cộng của tất cả, ẩn ức là trạng thái vĩnh
viễn, giam hãm, thường trực trong tâm trí, khiến cho con người không có lối thoát,
không tự giải thoát được cho bản thân, cũng không có ai có thể chia sẻ và giúp đỡ
được mình. Ẩn ức như một khối u tâm thức, ngày ngày xuất hiện, án ngữ trong tâm trí,
lớn dần lên, tích tụ lại và đè xuống hơi thở, nhịp đập, mạch sống con người. Khối u
14
này không ác tính tới mức giết chết thân chủ của nó ngay lập tức về mặt sinh học,
nhưng lại dần dà và từ từ đốt cháy, bóp nghẹt, quây kín tinh thần của thân chủ, tạo nên
sự dằn vặt vĩnh viễn về tinh thần. Cơ thể sinh học của thân chủ dù có khô héo đi, còng
quại đi nhưng vẫn tồn tại theo thời gian đời người, nhưng linh hồn và sức sống tinh
thần thì ngày một lụi tàn và khô kiệt. Ẩn ức tạo nên cơn hấp hối tinh thần trên cái giá
thể hình hài con người, khiến con người luôn luôn ở trong trạng thái dằn vặt, mâu
thuẫn nội tâm, không thể đưa ra sự lựa chọn, không thể diễn đạt thành lời, cũng chẳng
thể sẻ chia, không thể quyết liệt. Khốc liệt hơn, ẩn ức càng trải qua thời gian, càng tích
tụ và khổng lồ hơn, sức nặng hơn, và ẩn ức còn tạo nên cơ chế di truyền, mang tính kế
thừa cho thế hệ sau, ẩn ức không cho phép gột rửa, thanh lọc hay làm mới.
1.1.5. Ẩn ức hình thành trong những điều kiện, hoàn cảnh nào?
Con người sinh ra và lớn lên qua trục thời gian và về mặt sinh học, còn nhân
cách và tâm lý của con người được tạo dựng và sản sinh trong môi trường và không
gian phức tạp hơn rất nhiều, có thể là không gian sinh tồn, không gian gia đình, không
gian dòng họ, không gian làng bản, vùng đất, là sự lựa chọn của bản thân vào những
thời khắc khác nhau, ngả rẽ khác nhau của cuộc đời, mà mỗi thời khắc đều phải đưa ra
lựa chọn và phải nhận kết quả từ sự lựa chọn đó. Không dừng lại ở đó, quan niệm và
định quy của xã hội, của cộng đồng người, cũng mặc định và chi phối mạnh mẽ nhân
cách và tâm lí con người. Như thế, có hàng loạt những nhân tố tác động, những môi
trường và không gian mang tính khách quan, nằm ngoài sự chủ động và mong muốn
của con người, tương tác lên bản thân con người, tham gia vào quá trình tác tạo khuôn
diện, nhân cách và tâm lí con người. Bắt theo quá trình đó, là một kết quả của quá
trình đó, ẩn ức nảy sinh và hình thành, gắn chặt với hơi thở và bước chân sinh tồn của
xã hội loài người. Ẩn ức có rất nhiều “môi trường dinh dưỡng” để nảy sinh: những bí
mật riêng tư, từ niềm hạnh phúc không danh chính, hay từ nỗi đau, những đớn hèn,
những mặc cảm, thậm chí là những giày vò về tội lỗi có thể là của mình, của người
thân, hay của những người liên quan trực tiếp đến đời sống của mình.
1.1.6. Nhận diện ẩn ức
Ẩn ức có rất nhiều dạng thức và biểu hiện tồn tại: Có thể là ẩn ức về cái nghèo
truyền kiếp; ẩn ức về thân phận thấp hèn; ẩn ức vì phải chịu khiếm khuyết tự nhiên của
15
tạo hóa, khiến bản thân mình không làm tròn hay hoàn thành được những đặc điểm
của loài người; ẩn ức vì sự lựa chọn sai lầm của bản thân mà mình không có cơ hội sửa
chữa hay thay đổi; ẩn ức vì không thể tự đưa ra quyết định hay sự tồn tại của bản thân
trong tương lai; ẩn ức vì số phận nghiệt ngã của bản thân do bị xã hội chà đạp, coi
thường, xem nhẹ; ẩn ức tình dục (libido)…
1.2. Vấn đề ẩn ức nữ tính
Điều kiện và hoàn cảnh môi trường luôn là nhân tố chính tác động lên cuộc
sống con người và biểu hiện trạng thái cảm xúc, tâm lí của họ. Xã hội loài người
luôn luôn vận động và biến đổi không ngừng, bởi thế, những nhân tố, hay nói cách
khác là hệ giá trị chuẩn mực, cái nhìn và lối suy nghĩ của tập thể, cộng đồng cũng
vận động và biến đổi theo. Theo chu trình đó, những trạng thái ẩn ức cũng thay đổi
qua thời gian. Mỗi một xã hội, một không gian văn hóa cộng đồng, tộc người lại có
một sự nhìn nhận, một mặc định riêng về cách hành xử của con người, thế nên trạng
thái ẩn ức của mỗi cá nhân sống trong khung cảnh đó cũng khác nhau, và phản ánh
rõ nhất những đặc trưng của không gian và môi trường đó. Con người luôn luôn có
một bản năng được tôi rèn, đó là sự thích nghi với hoàn cảnh, theo kiểu “ở bầu thì
tròn - ở ống thì dài”, hay “đi với bụt mặc áo cà sa - đi với ma mặc áo giấy”. Song
thực tiễn cuộc sống là muôn vàn những khó khăn khôn lường, và con người không
phải lúc nào cũng thành công trong sự thích nghi đó. Sự thất bại, không như ý luôn
tiềm ẩn, và đến một mức độ nào đó là trạng thái tiêu cực, ức chế tâm lý, dồn nén, tích
tụ, cuối cùng là ẩn ức.
Tùy vào từng đối tượng, giới tính, mà hình thành lên những kiểu loại ẩn ức
khác nhau. Từ xưa, xã hội đã phân biệt và mặc định những nhiệm vụ và thiên chức
khác nhau cho con người theo giới tính, lứa tuổi, địa vị…Thế nên, ở mỗi đối tượng lại
tồn tại và phải chịu những kiểu dạng ẩn ức khác nhau. Đàn ông có ẩn ức của đàn ông,
ví như chưa thỏa chí “công chưa thành - danh chưa toại”, làm trai phải trả nợ “núi
sông”, ẩn ức là “quốc thù vị báo đầu tiên bạch - kỷ độ long tuyền đới nguyệt ma”…Và
phụ nữ cũng có những ẩn ức của riêng mình.
Điều đặc biệt, xã hội loài người vận động và tiến hóa khởi đầu từ chế độ mẫu hệ
- tức vai trò chủ đạo của những người phụ nữ. Nhưng càng về sau, chế độ phụ quyền
16
soán vị, lấn át và đè nén, thậm chí thủ tiêu vai trò và những kiến tạo khởi nguyên của
người phụ nữ. Xã hội tạo nên hàng loạt những chuẩn mực, điều kiện khắt khe, nhằm
bó chặt người phụ nữ lại, bắt họ phải phục tùng, quy thuận và sống ngột ngạt trong
tầng tầng lớp lớp những luân lý, định quy. Người phụ nữ vốn có sẵn thiên tính tự nhiên
là phái yếu, thế nên những lấn át kia lại càng có cơ hội tác động lên gấp bội, người phụ
nữ phải chịu nhiều khổ cực, tủi nhục, và cao hơn cả là ẩn ức trong đời sống của mình.
Trong thời phong kiến, với tư tưởng trọng nam khinh nữ, những người phụ nữ
bị xem nhẹ, coi thường, xã hội và hệ luân lý không bênh vực quyền lợi của người phụ
nữ…vì thế ẩn ức của người phụ nữ thời phong kiến là sự kìm nén, chịu đựng, hi sinh,
là cái bóng lu mờ, luôn luôn đứng sau người đàn ông, họ không có tiếng nói và quyết
định số phận tương lai của mình, thậm chí không được phép nói lên suy nghĩ và mong
muốn của bản thân, không được phép bày tỏ cảm xúc. Ẩn ức của họ bộc lộ qua câu ca
dân gian, ví như “tấm lụa đào”, “giếng giữa đàng”, “hạt mưa sa”…rồi là sự nghiệt ngã
của chế độ đa thê: “chém cha cái kiếp lấy chồng chung - kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh
lùng”, “đàn ông lấy năm bảy vợ - gái chính chuyên chỉ có một chồng”. Số phận của họ
luôn gắn chặt với “tam tòng - tứ đức”, họ bị coi là giới không thanh sạch, thế nên
không được phép tiếp cận bàn thờ tổ tiên, không được tiếp khách, hay ngồi cùng mâm.
Có hàng loạt những tác phẩm văn học thời kỳ này, mô tả và phản ánh những đặc trưng
và trạng thái ẩn ức bấy giờ, mà người phụ nữ phải chịu đựng như: Chuyện người con
gái Nam Xương- Nguyễn Dữ, thơ Hồ Xuân Hương, Truyện Kiều- Nguyễn Du, Chinh
phụ ngâm khúc- Đặng Trần Côn- Đoàn Thị Điểm, Cung oán ngâm khúc- Nguyễn Gia
Thiều…
Bước sang thời hiện tại, xã hội đã đổi thay nhiều, và nhất là kết quả từ quá trình
giao lưu tiếp xúc văn hóa Đông - Tây, với trào lưu tư tưởng dân chủ, giải phóng cá
nhân, tư tưởng bình đẳng giới, những rào cản đè nén người phụ nữ cũng đã được xóa
bỏ đi rất nhiều, thân phận người phụ nữ đã được xã hội nhìn nhận công tâm hơn, nữ
quyền được đề cập tới nhiều hơn. Tuy thế, những người phụ nữ trong thời kỳ này vẫn
phải gánh chịu những ẩn ức nặng nề, vốn có sức nặng của định kiến, vốn bắt rễ rất chặt
vào quá khứ. Nổi lên hơn cả là sự lấn át của người đàn ông, khiến người phụ nữ bị hạ
thấp vai trò của mình trong gia đình, họ vẫn phải tuân phục chồng, không có tiếng nói
riêng, vai trò của họ được mặc định là phải giàu đức hi sinh và khả năng chịu đựng, họ
17
phải làm tròn bổn phận của mình là sinh nở và nuôi dạy con cái. Từ hệ lụy gia đình, tới
ngoài xã hội, vai trò và sự đóng góp của người phụ nữ bị xem nhẹ, họ bị coi thường và
hạn chế tham gia vào các hoạt động xã hội, họ bị mặc định là phải gắn với sinh nở,
nuôi dạy con cái, bếp núc nội trợ, vun vén gia đình, còn việc xã hội là không gian của
người đàn ông. Hiện tại, người phụ nữ phải chịu sự giằng xé, đòi hỏi của thực tại là
vừa phải làm tròn thiên chức của người phụ nữ, người mẹ, người vợ, người con trong
gia đình, lo cho họ mạc, lại vừa phải năng động trong hoạt động xã hội, phải tham gia
vào quá trình kiếm tìm vật chất, lo cơm áo gạo tiền…Đã có hàng loạt những tác phẩm
văn học nói lên trạng thái ẩn ức của người phụ nữ trong giai đoạn này như: Tố Tâm
của Hoàng Ngọc Phách, Tắt đèn của Ngô Tất Tố hay những trang viết của Tô Hoài,
Võ Thị Hảo, Trần Thùy Mai, Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Bích Thúy, Hoàng Thị Cành…
Với vị trí và vai trò to lớn của mình, cùng những đặc trưng “tính nữ” thiên bẩm,
ẩn ức mà những người phụ nữ phải gánh chịu, phải mang và vận vào mình vì thế cũng
có điểm đặc biệt, thậm chí là riêng biệt nếu so sánh với “tính nam”. Phụ nữ vốn mang
thiên tính nước, mềm mại và uyển chuyển như nước, vì thế mà bao dung độ lượng,
cũng như có một sức mạnh cam chịu ghê gớm. Hơn nữa, họ không sống cho riêng bản
thân mình được, bởi thiên tính “mẹ”, tức nắm giữ trọng trách “nhận”, “gìn giữ”, “sản
sinh” ra thế hệ tương lai, hay nói cách khác là người kiến tạo tương lai - tức đứa trẻ,
luôn là máu mủ của mình. Thế nên, dù tủi nhục và khổ đau tới nhường nào, họ cũng
không được phép rũ bỏ, chấm dứt những “thiên tính” đó, tự bản thân họ luôn tồn tại
một trạng thái ý thức mang tính bản năng đó. Bởi thế, khi gặp trắc trở trong cuộc sống,
họ vẫn phải sống và cam chịu, tức họ phải chịu mang một cục “bướu” những ẩn ức bên
mình, cục bướu đó sẽ ngày càng to lên.
So với người phụ nữ, đàn ông và những ẩn ức của họ dễ phá hơn, cường độ và
sự ràng buộc cũng không khốc liệt bằng. Hơn thế đàn ông còn có lợi thế được ấn định
là lực lượng cởi mở hơn, được xã hội ưu ái hơn, là giới động hơn…vì thế họ không
chịu sự quy phạm chặt chẽ của định kiến xã hội và luân lý chuẩn mực, họ hoàn toàn có
quyền thực thi việc rũ bỏ, thay đổi lựa chọn, kết thúc tình trạng, đưa ra thái độ và cách
ứng xử cho những tình huống tiêu cực đó…họ rũ bỏ và đùn đẩy cho người phụ nữ, họ
nghĩ và mặc định trong tâm lý rằng, đó là quyền bản năng của mình.
18
Trong dòng chảy của sự đổi thay xã hội, mỗi vùng miền lại có một đặc điểm và
tốc độ riêng, vì thế những con người sống trong không gian môi trường đó cũng phải
tuân thủ quy luật này. Khu vực miền núi bao giờ cũng có tốc độ phát triển chậm hơn
so với đồng bằng, tức sự đổi thay cũng chậm lại, như thế cái cũ vẫn còn chiếm thế.
Trong không gian cũ ấy, luôn luôn tiềm ẩn, song hành hai tư tưởng đối lập, đó là tích
cực và tiêu cực nhưng dường như cái tiêu cực lại dai dẳng hơn, bủa vây và phủ trùm
lên số phận con người miền núi. Hằng số chung cho khía cạnh dai dẳng này ấy là chìm
đắm trong nghèo nàn, lạc hậu, hạn chế về trình độ và điều kiện tiếp xúc với thế giới
bên ngoài, những tập tục cũ kĩ không còn phù hợp, những định kiến xã hội lầm
lạc…bủa vây thân phận của những người tồn tại trong nó, và nặng nề nhất là những
người phụ nữ miền núi.
Trước kia, khi nhắc tới hình ảnh về người phụ nữ miền núi, cùng những tủi khổ
và ẩn ức của họ, ai ai cũng liên tưởng tới nhân vật Mỵ trong Vợ chồng A Phủ của Tô
Hoài, được khắc họa vào những năm năm mươi của thế kỉ trước. Tuy nhiên, Mỵ cũng
chỉ là người phụ nữ đại diện cho một góc cạnh nhỏ của không gian và đời sống thực tế
mà thôi. Liệu rằng còn có những số phận nào nghiệt ngã hơn, những ẩn ức nào chất
chứa hơn ẩn ức của Mỵ không? Nhưng xét cho cùng, ẩn ức của Mỵ là “con rùa lùi lũi
trong xó cửa”, là bị cưỡng đoạt tình yêu lứa đôi, bị đối xử tệ bạc, nhưng cuối cùng, hứa
hẹn một lối thoát cho Mỵ, khi cô bỏ trốn cùng A Phủ và đi theo cách mạng. Trong thực
tế, người phụ nữ miền núi còn phải chịu hàng loạt những ẩn ức khác nữa, đó là gánh
nặng gia đình, tình thương của người mẹ, đường con cái, trở thành góa phụ khi còn quá
trẻ, những định kiến nghiệt ngã của môi trường xã hội…và họ không có lối thoát.
Miền núi là nơi xa xôi hẻo lánh, địa hình trắc trở, thế nên môi trường tách biệt,
độc trị, và cũng chẳng có công lý, chẳng có ai quan tâm tới những số phận nghiệt ngã
trong đó, nhất là số phận của những người phụ nữ. Không có lực lượng nào đứng ra
bênh vực và bảo vệ những người phụ nữ, bởi tất cả đều nằm dưới sự bao trùm, quy
phục của “thần quyền” và “thế quyền”, thân phận con người được quy đổi bằng những
đồng bạc trắng lạnh ngắt, vô cảm. Ngay cả trong chính cái nội bộ đặc trưng văn hóa
tộc người, cũng tự khắt khe và hà khắc với số phận của người phụ nữ, tức ngay trong
chính không gian được coi là gần gũi nhất của mình, người phụ nữ cũng bị khinh rẻ.
Như vậy, có thể thấy, người phụ nữ miền núi phải chịu bủa vây của tầng tầng lớp lớp
19
những hệ luân lý, những định kiến mặc định, mà lớp nào cũng có công năng như nhau,
bổ khuyết cho nhau, nếu không phải trong gia đình thì là họ tộc, xa hơn là hàng xóm,
là tộc người, là chiều sâu và sức nặng của định kiến…Thân phận của người phụ nữ
luôn bó buộc trong đó, ẩn ức bắt vào đó để nảy sinh và tích tụ.
1.3. Việc khai thác và phản ánh trạng thái ẩn ức trong lịch sử văn học Việt Nam
Xét cho cùng, mọi lĩnh vực sáng tạo của loài người, cũng đều hướng tới mục
đích phục vụ chính cuộc sống con người. Hoàn cảnh và môi trường đa dạng, nhu cầu
con người càng phức tạp, thêm nữa đặc tính cố hữu của loài người là muốn khẳng định
mình, muốn cất tiếng nói trong cái không gian xã hội đầy phức tạp ấy. Trong hàng loạt
những lĩnh vực sáng tạo, những “kênh” truyền tải của con người thì đời sống văn học
là sự cô đọng, là phương tiện được sử dụng phổ biến và hiệu quả nhất. Những tác
phẩm văn học lấy cảm hứng và bối cảnh, chất liệu từ chính cuộc sống, con người, để
khai thác, phản ánh “thực tại xã hội” và chính chủ nhân của cái thực tại đó. Chất liệu
càng phức tạp, càng gồ ghề góc cạnh thì sản phẩm càng độc đáo và đặc biệt. Sức hấp
dẫn và nhân văn nhất trong các tác phẩm văn học xưa nay, chính là khai thác chiều sâu
nội tâm nhân vật, nhất là những nhân vật có “hoàn cảnh” đặc biệt, vượt ra khỏi cái
khung cảnh trung bình chung của xã hội của cộng đồng.
Trong thời phong kiến, xem nhẹ vai trò của người phụ nữ, ép buộc họ sống
trong khuôn khổ gò bó, thậm chí phi nhân tính, bởi thế số phận của người phụ nữ trong
thời đó hết sức bi đát, bị đè nén, áp bức, tủi nhục và cam chịu. Đã có hàng loạt tác
phẩm văn học trong thời kì này phản ánh “hình ảnh” của những người phụ nữ đó.
Đó có thể là tiếng thét của chính đối tượng trong cuộc, như nữ sĩ Hồ Xuân
Hương - một người được coi là có một “xung lực” đặc biệt. Những bài thơ của nữ sĩ là
sự truyền tải hàng loạt thông điệp bi ai về thân phận của người phụ nữ bấy giờ, và
cũng chính là trạng thái ẩn ức của nữ sĩ - một người phụ nữ phải gánh chịu những bất
công, tủi nhục của cái vòng luân lý xã hội bấy giờ. Những bài thơ của nữ sĩ thể hiện
một thái độ xưa nay chưa từng có trên văn đàn trước đó, mở đầu cho trào lưu đấu tranh
giải phóng tự do cá nhân, nhất là người phụ nữ, khởi từ quyền đơn giản nhất là được
nói lên suy nghĩ và khát vọng của chính bản thân mình.
20
Khi chế độ phong kiến diễn tiến tới giai đoạt mạt kì, tức đứng trước sự đổ nát,
thì cũng là lúc cực đoan nhất. Xã hội nhiễu nhương tao loạn, thân phận con người bị
coi rẻ như thân rơm, cái kiến, lại càng bị đè nén thậm tệ hơn. Người phụ nữ được coi
là vật để mua vui, phục vụ cho các bậc vua chúa, là vật sở hữu mang ý nghĩa như một
món hàng, cần thì dùng đến, không cần thì có thể vứt đi ngay được.
Một tác phẩm gây tiếng vang trong giai đoạn bấy giờ, khai thác tâm trạng ẩn ức
đến tột cùng của thân phận người cung nữ bị ruồng bỏ, lãng quên nơi cấm thành lạnh
lẽo, chính là Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều. Toàn bộ 355 câu thơ là nỗi
lòng ai oán tột cùng của thân phận người cung nữ, sống trong sự héo úa tàn lụi, tuổi
xuân và khát vọng trôi qua một cách vô nghĩa, đời người lụi tàn trong quên lãng, bị
vênh lệch và bứt ra khỏi cuộc sống, xã hội. Lầu son gác tía nay đã thành ngục trung
giam cầm và thiêu lụi con người. Họ không sao thoát khỏi nó, họ uất ức tới tột cùng,
kêu gào thảm thiết, khi lại mơ tưởng ngóng trông, tất cả trạng thái đó, nảy sinh từ ẩn
ức tột cùng đã trở thành một thứ bệnh lý. Họ không thể giãi bày, chia sẻ, sống trong
câm nín, không còn ai biết và nhớ tới họ nữa. Có tới hàng trăm, hàng ngàn những
người phụ nữ như thế, họ đều là những người rất đẹp và tài năng, được vua chúa tuyển
chọn, sở hữu, nhưng cũng từ đó, họ phải sống trong bi kịch, trong sự giam cầm, trong
không gian lạnh lẽo cô đơn, tách biệt hoàn toàn với cuộc sống. Ở tất cả những người
phụ nữ đó đều hội đủ những điều kiện hoàn hảo cho một cuộc sống tốt đẹp, như ý
trong thực tế, nhưng họ đã bị tước đoạt tất cả, bị giam cầm, tách biệt, và đau đớn nhất
là bị lãng quên, chết dần chết mòn trong quên lãng, đó thực sự là trạng thái kinh hoàng
nhất mà họ ngày ngày phải chịu đựng. Chỉ có ít người thương xót và quan tâm đến họ,
Ôn Như Hầu là một người đặc biệt, có điều kiện ra vào lui lại chốn cung cấm, thành
son - gác tía, nên mới có dịp chứng kiến và nghe được âm thanh ai oán tột cùng từ
những số phận hồng nhan bạc mệnh đó.
Trong một xã hội như thế, người phụ nữ còn phải gánh chịu hàng loạt những
khổ đau mất mát khác, người thì phí hoài tuổi xuân, chết dần trong quên lãng, người
thì chịu cảnh chia li, mỗi người mỗi ngả, sống trong cảnh nhớ nhung, lo lắng. Chiến
tranh giữa các chúa, vì lợi ích cá nhân dòng tộc, ở chốn thôn dã, có biết bao gia đình
phải sống trong cảnh chia li, người vợ ở nhà ôm con, ngày ngày sống trong nỗi khắc
khoải. Người phải chịu đựng, gánh chịu nhiều nhất, bao giờ cũng là người ở lại, là
21
những người phụ nữ. Người đàn ông ra đi không hẹn ngày trở lại, người vợ phải đồng
lòng tiễn chồng ra đi, vì nghĩa lớn, vì mộng công danh, họ ở lại trong hi vọng về viễn
cảnh tốt đẹp đến với người chồng yêu dấu, song thực tế thật phũ phàng bởi chiến tranh
là chết chóc, là thời gian đằng đẵng bào mòn đi tất cả hi vọng, chịu đựng, là tuổi xuân
của hạnh phúc lứa đôi ngày càng lụi tàn. Tất cả trạng thái đó cùng lúc đổ dồn lên
người phụ nữ, họ phải chịu đựng tất cả, phải cân bằng mọi cung bậc đó. Họ bị đẩy vào
một không gian, một trạng thái tột cùng của hi vọng, lo lắng, cô đơn, hờn tủi, và họ
không có lối thoát, bị đóng băng, hóa đá. Cái thực tế xã hội bấy giờ đã đưa đẩy và
nhấn chìm biết bao cảnh đời những người phụ nữ như thế. Số phận của họ đã được
chụp lại và phản ánh qua Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn và Đoàn Thị Điểm vào
thời kì Lê - Mạc bấy giờ.
Đặc trưng chung nhất và cũng là riêng biệt của các tác phẩm văn học lấy chủ đề
phản ánh ẩn ức con người, nhất là người phụ nữ thời kì này chính là những khai phá
bước đầu, đánh dấu cho thời kì đổ vỡ của hệ tư tưởng phong kiến đã lỗi thời, bị lên án
và phản ánh bởi chính các nhà Nho - những người được coi là chủ nhân, là người điều
hành, duy trì hệ tư tưởng đó. Số phận bi thương của những người phụ nữ được phản
ánh thông qua một số ít những nhà Nho có tinh thần nhân ái như thế. Tuy nhiên, thông
qua hình ảnh của những người phụ nữ đó, tác giả còn lồng ghép vào chính cái trạng
thái ẩn giấu của mình trong đó, tức là hình ảnh mang hai trường nghĩa, tường minh và
ẩn giấu. Những tác phẩm đó trong giai đoạn này là hiếm, là hiện tượng đặc biệt. Nhân
vật được phản ánh trong tác phẩm chỉ là một góc cạnh nhỏ bé trong thực tế xã hội bấy
giờ, những suy tư, ẩn ức của họ chưa mang tính phổ quát, đại diện, gắn với hiện trạng
nhân sinh và vẫn mang tính hình tượng là chính.
Chuyển sang thời hiện đại, tức thế kỉ XX, là mốc đánh dấu cho nhiều bước
ngoặt, chuyển hướng vĩ đại của nhân loại, trong đó có việc giải phóng con người cá
nhân. Trong xã hội, vị thế và vai trò của người phụ nữ được nâng cao hơn, nhưng họ
vẫn không thoát khỏi những mặc định hay định kiến ngàn đời của lịch sử để lại. Thêm
nữa, bối cảnh xã hội giai đoạn này cũng đổi thay và phát triển chóng mặt, đôi khi rối
ren, hay dở lẫn lộn, thế nên những ảnh hưởng tới thân phận con người cũng càng phức
tạp và khó giải quyết hơn. Hình tượng con người trong văn học, được phản ánh và
khám phá chân thực, toàn diện hơn, trên tất cả các bình diện, cung bậc sáng - tối, thiện
22
- ác, cả phần vô thức, tiềm thức. Có thể nhắc tới các tác phẩm như: Ăn mày dĩ vãng và
Vòng tròn bội bạc của nhà văn Chu Lai; Bến không chồng của Dương Hướng, Thời xa
vắng của nhà văn Lê Lựu, Mùa lá rụng trong vườn của nhà văn Ma Văn Kháng, Một
cõi nhân gian bé tí của nhà văn Nguyễn Khải; Mảnh đất lắm người nhiều ma của nhà
văn Nguyễn Khắc Trường; Thiên thần sám hối của nhà văn Tạ Duy Anh; Đi về nơi
hoang dã của nhà văn Nhật Tuấn; Cõi người rung chuông tận thế của nhà văn Hồ Anh
Thái; Cánh đồng bất tận của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư, Đám cưới không có giấy giá
thú; Đồng bạc trắng hoa xòe; Mùa lá rụng trong vườn; Côi cút giữa cảnh đời của nhà
văn Ma Văn Kháng.
Đời sống văn học trong bối cảnh mới này cũng rất đa dạng hướng vào phản ánh
một cách chi tiết, cụ thể, cận cảnh và chân thật hơn thân phận con người, đôi khi trần
trụi nhưng là thực tế nhân sinh. Văn chương, xét cho cùng là phản ánh cái ẩn ức của xã
hội mà trong bối cảnh xã hội hiện đại, cũng đặt ra nhiều ẩn ức mới, ví dụ như hiện
tượng hôn nhân đồng giới - vốn được coi là một biểu hiện tính dục khác thường.
Chủ đề khai thác ẩn ức của người phụ nữ trong các tác phẩm văn học cũng đa
dạng và nhiều màu sắc hơn, chân thực hơn, mạnh bạo hơn, đề cập tới những ẩn ức sâu
kín nhất, đôi khi nhạy cảm nhất của người phụ nữ mà xưa nay vẫn bị né tránh hoặc
không dám đề cập tới, ví dụ như ẩn ức tình dục. Có thể đề cập tới hàng loạt những tác
phẩm văn học khai thác chủ đề ẩn ức con người như: Nỗi buồn chiến tranh của Bảo
Ninh, Ăn mày dĩ vãng, Phố…của nhà văn Chu Lai, các tiểu thuyết Người trong ống,
Chồng thật vợ giả của Vi Hồng, Xứ mưa của Hoàng Thế Sinh, Đàn trời của Cao Duy
Sơn, Lửa cháy trong rừng hoang của Sương Nguyệt Minh, Số phận đàn bà của Hoàng
Thị Cành, Tiếng chim kỷ giàng của Bùi Thị Như Lan, Bóng đè của Đỗ Hoàng Diệu,
Giày đỏ của Dương Bình Nguyên, Chờ tuyết rơi của Đặng Thiều Quang, 1981 của
Nguyễn Quỳnh Trang, Song Song của Vũ Đình Giang, I am đàn bà của Y Ban, Bóng
đè của Đỗ Hoàng Diệu, Ngồi của Nguyễn Bình Phương, Người đàn bà trên đảo, Tấm
ván phóng dao...
Trong bối cảnh xã hội chung đó, khu vực miền núi và người dân tộc thiểu số
được phản ánh khá nhiều trên đời sống văn học. Vùng đất xa xôi này, không chỉ ẩn
chứa nhiều giá trị “lạ” đối với độc giả, mà còn chứa đựng một trữ lượng “vỉa tầng” đa
dạng vẫn còn đang ở dạng tiềm ẩn, con người và cuộc sống của họ nơi đây cũng đa
23
dạng và độc đáo. Miền núi là nơi hiện còn lưu giữ và chứa đựng nhiều giá trị, vừa
nhân văn đáng quý, lại vừa lạc hậu. Đời sống con người còn nhiều giá trị trân quý
trong ứng xử, nhưng cũng là vùng đất còn nghèo khổ với cuộc sống mưu sinh khắc
nghiệt, tồn tại nhiều khắt khe, định kiến lạc hậu, nhất là đối với thân phận phụ nữ.
Đã có khá nhiều tác phẩm văn học phản ánh khung cảnh và cuộc sống con
người miền núi, nhất là trong khoảng thời gian từ đầu thập niên 90 của thế kỷ trước trở
lại đây. Nổi bật là những tác phẩm phản ánh về cuộc sống mưu sinh khó khăn, những
vật lộn của con người để thích nghi với hoàn cảnh nơi đây, nhất là số phận của người
phụ nữ miền núi. Có thể kể tới hàng loạt những tác phẩm văn học tiêu biểu như tập
truyện Hoàng hôn và Lửa trong rừng sa mu của tác giả Hà Trung Nghĩa, Hà Lý với
Ngọt đắng vị Mường, Đoàn Lư với Kỉ niệm về một dòng sông, Ngựa hoang lột xác và
Sự tích một câu nói của tác giả Bùi Minh Chức… Những tác phẩm tập trung mô tả
thân phận con người miền núi như: Người lang thang của Cao Duy Sơn, Số phận đàn
bà của Hoàng Thị Cành, Gặp gỡ ở La Pan Tẩn và Một mình một ngựa của tác giả Ma
Văn Kháng, Khu vườn yên tĩnh của tác giả Tống Ngọc Hân, Cơn mưa hoa mận trắng
của tác giả Phạm Duy Nghĩa…
1.4. Đỗ Bích Thúy và sự nặng lòng của chị với những người phụ nữ vùng cao
Có thể coi thời điểm chính thức xuất hiện của nhà văn Đỗ Bích Thúy trên văn đàn
là giải nhất trong cuộc thi sáng tác truyện ngắn của Tạp chí Văn nghệ quân đội với bộ ba
tác phẩm: Ngải đắng ở trên núi, Đêm cá nổi và Sau những mùa trăng. Sự lôi cuốn và hấp
dẫn của những tác phẩm đầu tay này chính là cái “không gian núi”, “con người và lối sống
núi” được nhà văn khai thác và xuất trình trên những trang văn của mình.
Có được những trang văn cô đọng, độc đáo như vậy và ở trong tất cả các sáng
tác sau này của chị là bởi tuổi thơ được thấm đẫm và trải trong không gian núi, nhà
văn lớn lên và trưởng thành trong không gian thung lũng rộng không quá 1500 m2 với
bao bọc xung quanh là núi, là sông, là cảnh sinh hoạt của con người và vạn vật núi.
Như chính nhà văn chia sẻ, động lực chính để chị sáng tác nên những tác phẩm
văn chương đó chính là nỗi nhớ núi da diết, nhà văn đã tự nhận mình là người miền
núi, người đi ra từ núi. Không gian núi thấm đượm và ngồn ngộn trong tất cả các sáng
tác của chị, nhất là vùng đất Hà Giang - nơi chị lớn lên và trưởng thành.
24
Hiện thực và con người miền núi luôn xuất hiện dày đặc và là chủ đề chính
trong mọi sáng tác của Đỗ Bích Thúy. Đó là những con người với số phận riêng,
những hạnh phúc và khổ đau chồng lấn, dồn đẩy họ, là lối sống cộng đồng với những
phong tục - tập quán riêng, những đặc trưng quy định riêng của không gian và xã hội
miền núi.
Năm 2005, với tập tiểu thuyết Bóng của cây sồi và một năm sau là tập truyện
Tiếng đàn môi sau bờ rào đá, Đỗ Bích Thúy tiếp tục gây được tiếng vang lớn trên văn
đàn, rất nhiều những nhà văn, đồng nghiệp đã có những đánh giá, ca ngợi Đỗ Bích
Thúy. Nhà báo Dương Bình Nguyên trong bài Đỗ Bích Thúy - sự mềm mại quyết liệt
đã khái quát về “phong cách” của Đỗ Bích Thúy “sự day dứt của con người với nơi
chốn mình sinh ra” và “sự trở về, sự nương náu của tâm hồn ở miền đất cũ cũng tự
nhiên như hơi thở”.
Tác giả Ngọc Ánh trong bài viết Nhà văn trẻ Đỗ Bích Thúy đánh thức lòng
nhân bản [42] đã nhận định: “Bóng của cây sồi, Sau những mùa trăng, Tiếng đàn môi
sau bờ rào đá, Người đàn bà miền núi... là những tập truyện ngắn mở ra một không
gian bao la của núi rừng và cuộc sống sinh hoạt của cộng đồng người Mông, Tày,
Dao ở vùng cao núi đá Hà Giang. Mỗi câu chuyện Đỗ Bích Thuý kể là mỗi số phận,
mỗi cảnh đời ngang trái khác nhau. Trong bức tranh đó, chị tập trung khai thác chiều
sâu nội tâm của nhân vật - phần lớn là những người đàn bà với cuộc đời làm dâu, làm
vợ, làm mẹ âm thầm, chịu nhiều buồn tủi, đắng cay...”
Nhà phê bình văn học Lê Thành Nghị trong lời giới thiệu cho tập truyện ngắn
Tiếng đàn môi sau bờ rào đá, đã nhận định: “Một không gian đầy hoa lá rừng, có
tiếng gà gáy tách te trong bụi rậm, có những dòng suối trong suốt với những viên cuội
đỏ, có những chàng trai thổi sáo theo sau các cô gái khoác quẩy tấu xuống chợ, những
nồi thắng cố nghi ngút khói trong phiên chợ vùng cao đầy màu sắc, những đêm trăng
sóng sánh huyền ảo, những cụm mần tang mọc trong thung lũng, tiếng đàn môi réo rắt
sau bờ đá, lễ hội gầu tào với điệu hát gầu Plềnh mê đắm của những cô gái, chàng trai
trên đỉnh núi… Khát vọng về hạnh phúc, những tâm sự cháy bỏng về lẽ sống, ý thức về
những ngày hiện tại ở một vùng đất độc đáo, đầy kỷ niệm đã tạo ra trong ngòi bút của
Đỗ Bích Thúy niềm xúc động chân thành, chảy dào dạt trên trang viết…”[28, tr.5,10].
25
Với chủ đề miền núi trong sáng tác của mình, nổi trội nhất, cô đọng nhất, sâu
lắng và nhân bản nhất chính là những câu chuyện về thân phận người phụ nữ miền núi
với đầy đủ mọi cung bậc, nhưng trên nhất là bi kịch éo le. Phụ nữ miền núi là lực
lượng yếu thế trong xã hội, bị hoàn cảnh xô đẩy và kìm kẹp, họ phải sống trong chịu
đựng và tủi nhục. Ngay từ khi sinh ra, họ đã phải gánh chịu những mặc định của cộng
đồng, xã hội, của chuẩn mực, họ không được sống thực với chính cảm xúc của mình,
không được tôn trọng. Đó là nhân vật mẹ già lầm lũi với đôi bàn tay thô ráp héo lụi; là
cô Kim xinh đẹp nhưng lại có dòng máu màu đen trong người nên bị xa lánh; là Kía, là
Mai…và còn rất nhiều những thân phận phụ nữ khác.
Chính bản thân Đỗ Bích Thúy đã từng thổ lộ, chia sẻ để giải thích cho câu hỏi
tại sao người phụ nữ lại giành được nhiều sự ưu ái trong các sáng tác của mình đến
như vậy. Trong phần tựa cho truyện Người đàn bà miền núi, tác giả bộc bạch: “Cuộc
đời đàn bà buồn nhiều hơn vui, lo âu nhiều hơn mãn nguyện? Phải chăng vì, trời sinh
ra đàn bà để chẳng sống mấy cho mình? Cuốn sách này tôi vẫn dành cho những người
đàn bà. Người đã án ngữ trong kí ức của tôi về vùng đất thân yêu bạt ngàn cây rừng,
hoang vu gió, tầm tã mưa, sôi sùng sục nước dưới những dòng sông ngoằn ngoèo cuộn
chảy…"[30, tr.7-8].
Hình ảnh những người phụ nữ miền núi Đông Bắc luôn ám ảnh và xuất hiện
nhiều nhất, sâu đậm nhất trong các sáng tác của Đỗ Bích Thúy, nhà văn thấu hiểu thân
phận họ, trạng thái suy nghĩ, cùng với những ẩn ức mà họ phải chịu đựng, phải mang
theo và nặng gánh.
26
Tiểu kết
Trong đời sống con người, tùy vào từng môi trường, điều kiện hoàn cảnh mà
nảy sinh những trạng thái tâm lý khác nhau. Điều kiện môi trường xã hội thuận lợi sẽ
tạo nên trạng thái tâm lý tích cực, ngược lại, điều kiện không thuận lợi lại tạo những
trạng thái tâm lý tiêu cực. Trạng thái tâm lý tiêu cực lên đến đỉnh điểm nhất, không có
cách giải quyết, thoát ra được gọi là ẩn ức. Ẩn ức cũng rất đa dạng và có sự khác biệt
về giới, ẩn ức tính nữ là một trạng thái đặc biệt.
Trong đời sống văn học, đã có rất nhiều tác phẩm văn học khai thác chủ đề ẩn ức
tính nữ, phản ánh diện mạo và thực tế về số phận của những người phụ nữ trong từng thời
điểm xã hội và hoàn cảnh khác nhau, đặc biệt là những ẩn ức gắn với số phận của những
người phụ nữ dân tộc thiểu số khu vực miền núi phía Bắc. Thời phong kiến, xem nhẹ vai
trò của người phụ nữ, ép buộc họ sống trong khuôn khổ gò bó, thậm chí phi nhân tính,
bởi thế số phận của người phụ nữ trong thời đó hết sức bi đát, bị đè nén, áp bức, tủi
nhục và cam chịu. Đã có hàng loạt tác phẩm văn học trong thời kì này phản ánh “hình
ảnh” của những người phụ nữ đó. Sang thời hiện đại là mốc đánh dấu cho nhiều bước
ngoặt, chuyển hướng vĩ đại của nhân loại, trong đó có việc giải phóng con người cá
nhân. Trong xã hội, vị thế và vai trò của người phụ nữ được nâng cao hơn, nhưng họ
vẫn không thoát khỏi những mặc định hay định kiến ngàn đời của lịch sử để lại. Thêm
nữa, bối cảnh xã hội giai đoạn này cũng đổi thay và phát triển chóng mặt, đôi khi rối
ren, hay dở lẫn lộn, thế nên những ảnh hưởng tới thân phận con người cũng càng phức
tạp và khó giải quyết hơn.
Trong bối cảnh xã hội chung đó, khu vực miền núi và con người dân tộc thiểu
số được phản ánh khá nhiều trong đời sống văn học. Nổi bật là những tác phẩm của Đỗ
Bích Thúy viết về cuộc sống mưu sinh khó khăn, những vật lộn của con người để thích
nghi với hoàn cảnh nơi đây, nhất là số phận cùng những ẩn ức mà người phụ nữ miền
núi phải chịu đựng.
27
Chương 2
NHỮNG CẢM HỨNG ẨN ỨC NỮ TÍNH QUA SÁNG TÁC
CỦA ĐỖ BÍCH THÚY
2.1. Nền cảnh của miền núi Đông Bắc
2.1.1. Địa lý nhân văn
Đông Bắc bao gồm các tỉnh: Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Tuyên
Quang, Yên Bái, Lào Cai, Thái Nguyên, Phú Thọ, Bắc Giang, Quảng Ninh. Tổng diện
tích của toàn vùng chiếm tỷ lệ 16.7% so với diện tích cả nước. Về cấu tạo địa chất, địa
hình của vùng Đông Bắc, cao nhất là khu vực giáp biên giới Trung Quốc tại các tỉnh
Hà Giang, Cao Bằng và một phần Lạng Sơn, còn lại toàn bộ khu vực này đều là núi
trung bình, núi thấp và đồi bán sơn địa.
Với kiểu cấu tạo địa hình như trên, Đông Bắc là khu vực có nhiều cảnh sắc đặc
trưng, từ cao nguyên đá - với những ngọn núi hiểm trở, đá tai mèo sắc nhọn, xanh xám
tới những cung đường hiểm trở bậc nhất, giao thông đi lại hết sức khó khăn, do địa hình
bị chia cắt dữ dội. Điều kiện khí hậu của vùng Đông Bắc khá khắc nghiệt, nhất là về
mùa đông do các cánh cung hút gió và luồng khí lạnh tỏa khắp vùng Đông Bắc. Về mùa
đông, lượng nước ngầm sụt giảm, chính bởi thế, toàn bộ vùng này khá khô kiệt, nhất là
khu vực cao nguyên đá (Quản Bạ, Đồng Văn, Mèo Vạc, Yên Minh). Đông Bắc được
mệnh danh là vùng đất đầy nắng gió, khô cằn, khắc nghiệt, đầy rẫy những khó khăn
thiếu thốn với sự sinh tồn của con người.
Vì thế, chỉ có ở khu vực cao nguyên đá, ta mới bắt gặp cảnh con người vất vả và
chăm chỉ, khó nhọc kiếm tìm và gánh từng gùi đất lên đổ vào các hốc đá để canh tác,
dựng nương đá. Đất ở đây vô cùng quý hiếm, người ta nâng niu, vun trồng và tồn tại
bằng mồ hôi, nước mắt và cả máu. Con người nơi đây sinh ra từ đá và chết cũng vùi
trong đá. Cây rừng cũng hiếm, người ta phải rất vất vả kiếm tìm, tích lũy…mới có đủ
được chất liệu để dựng lên tổ ấm là ngôi nhà gỗ. Về mùa khô, từng đoàn người đi bộ
tới vài chục cây số với trang bị là can nhựa để tìm nguồn nước ngọt cho sinh hoạt gia
đình.
28
Với sự đa dạng về cảnh quan môi sinh, Đông Bắc cũng mang những đặc trưng
riêng về tiểu vùng địa lí - nhân văn. Vùng Đông Bắc được phân chia thành nhiều tiểu
vùng riêng, nếu tính từ Đông sang Tây thì có thể thấy được sự thay đổi rõ rệt của các
tiểu vùng, từ khu vực trung du, là vùng đệm tiếp giáp giữa vùng núi cao và đồng
bằng với cảnh quan đặc trưng là những đồi núi bán sơn địa. Càng theo chiều Tây
Bắc, địa hình càng cao dần và rõ rệt nhất là không gian cảnh quan núi. Cũng do điều
kiện địa hình chia cắt, nên có sự phân chia rõ rệt thành các tiểu vùng như: thung
lũng - gò đồi, tiểu vùng rẻo giữa và tiểu vùng rẻo cao. Hoặc mỗi khu vực riêng biệt
là một tiểu vùng như vùng bán sơn địa, vùng thấp trũng (thành phố Bắc Kạn, Cao
Bằng, Hà Giang…) và tiểu vùng rẻo cao (miền núi).
Trong phần lớn các sáng tác của nhà văn Đỗ Bích Thúy, chủ đề cuộc sống và
không gian núi được mô tả, phản ánh đều lấy bối cảnh và không gian thực của khu vực
miền núi Hà Giang. Hà Giang chính là nơi nhà văn sinh ra và lớn lên, cho tới khi
trưởng thành, nhà văn đã từng mô tả cái thung lũng nhỏ bé của gia đình mình là nơi
“thung lũng rộng rinh, cô đơn đầy gió”, bên dòng Lô Giang, mải miết chảy về xuôi.
Chính bởi thế, không gian của vùng núi Hà Giang, cuộc sống, con người miền núi, đặc
trưng văn hóa núi là những thành phần đậm đặc nhất trong các sáng tác của chị.
2.1.2. Không gian văn hóa
Chủ nhân của không gian văn hóa rộng lớn này là hàng loạt các cộng đồng dân
tộc thiểu số. Mỗi một dân tộc lại có một diện mạo riêng về đặc trưng văn hóa tộc
người, về lịch sử cư trú, không gian quần cư, phong tục - tập quán, ngôn ngữ, lối sống.
Chính bởi vậy, vùng Đông Bắc vô cùng đa dạng về sắc màu đặc trưng văn hóa.
Con người miền núi luôn mang sẵn trong mình đức tính cần cù, chịu khó; thật
thà, chân mộc trong cách ứng xử đồng thời cũng rất bản lĩnh, gan dạ trong đấu tranh
với thiên nhiên để duy trì cuộc sống. Họ sống chủ yếu ở những cao nguyên đá vôi,
quanh năm mịt mù sương trắng và phải hứng chịu những thảm họa từ thiên nhiên bất
kỳ lúc nào. Nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu mang nặng tính tự cấp tự túc cộng với
sự phân hóa xã hội ở mức thấp khiến người dân miền núi hạn chế trong tầm nhìn,
chân mộc trong giao tiếp và hiền hòa như cây lanh, cây bông trên núi cao. Chính nhà
văn Đỗ Bích Thúy đã dành nhiều ưu tư, tâm huyết về căn tính của con người miền
núi Đông Bắc trong các sáng tác của chị.
29
Trong tiểu thuyết Bóng của cây sồi, là cô Kim - một cô gái xinh đẹp nhất Lao
Chải, nhưng bị cả làng hắt hủi vì quá khứ của mẹ và bà ngoại Kim. Trước thái độ của
người làng và thất vọng với sự lựa chọn của Phù, Kim bỏ đi biệt tích, mấy năm sau trở
về với một đứa bé trai không có cha. Kim làm nghề mại dâm rồi bị bắt, sau đó quay trở
về ngôi nhà mục nát để sống tiếp. Kim đã được những người phụ nữ già cả trong bản
cưu mang, thương xót: “Đã một tháng nay mẹ con Kim sống bằng thóc gạo của người
làng. Mấy bà già thương thằng bé, dấm dúi túm gạo vào khăn, mỗi người mang cho
một ít. Lần nào nhận gạo của các bà Kim cũng khóc ròng” [29, tr.251]. Dù sao đi nữa
đó cũng là đứa con của núi rừng, cùng uống chung một dòng suối, đi chung một con
đường và khi cất tiếng khóc chào đời đều được sự chứng kiến của rừng xanh nên việc
cưu mang là điều cần thiết. Lòng tốt của con người miền núi nảy sinh một cách tự
nhiên, không ồn ào, khó hiểu như những vách đá sâu dựng đứng giữa trời. Miêu tả tính
thiện trong sâu thẳm con người miền núi, Đỗ Bích Thúy dành nhiều quan tâm cho
người phụ nữ. Khi Kim bị bắt vì vụ ăn trộm máy bơm nhà Phấn, cả làng “lũ lượt kéo
đến xem mặt đứa ăn cắp. Biết nhau cả, nhưng vẫn muốn xem cái đứa đi ăn cắp rồi thì
mặt nó có khác đi không” [29, tr.12] thì bà Mẩy - một phụ nữ dân tộc thuần phác, chưa
bao giờ ra khỏi bản, cả đời úp mặt trên những ngả nương đã bước tới “buộc tóc, vấn
khăn lại cho Kim” như Kim là con gái ruột thịt của mình vậy. Sự đồng cảm về thân
phận người phụ nữ đã khiến bà Mẩy có những hành động mang tính cứu rỗi tình yêu
thương đối với một cô gái gặp nhiều bất hạnh. Đó chính là tình người ấm áp giữa
giăng giăng giông bão nơi xó núi Lao Chải.
Lòng nhân bản của con người miền núi còn được thể hiện trong tình nghĩa vợ -
chồng, bà - cháu qua những trang văn đẫm nước mắt Lặng yên dưới vực sâu. Người bà
ấy đã dành cả cuộc đời xuân sắc và khổ hạnh của mình để lo cho chồng, cho con cháu
giờ đây đã ngã xuống như cây ngô bị trẩy hết bắp. Vậy mà đến lúc gần kề cái chết, bà
vẫn bận tâm về cuộc sống của những người ở lại, vẫn lo chuyện giặt áo cho chồng, làm
mèn mén cho cháu nội. Ý nghĩa cuộc sống của người đàn bà này dội lên trong tâm
thức chúng ta về lòng vị tha trong cuộc sống.
Người miền núi là những con người yêu thích tự do, độc lập, tâm hồn phóng
khoáng, yêu lao động, cần cù nhẫn nại trong đấu tranh với thiên nhiên khắc nghiệt. Họ
yêu thích văn nghệ, hòa nhập ân tình với nhau trong quá trình xen cư và giao lưu văn
30
hóa. Họ giữ một vị trí quan trọng trong đời sống văn hóa, kinh tế, an ninh ở vùng rẻo
cao biên giới Việt Nam. Trong mỗi cuộc đương đầu với khó khăn, họ luôn có sẵn
trong mình tấm lòng chân thành, sự cam chịu vốn là “thiện căn” tự có trong mỗi con
người. Lòng tốt không cần đáp trả đó có lẽ là mẫu số chung về bản chất con người
miền núi.
Con người miền núi tin thờ và kính sợ tất cả các loại thần linh. Và thần linh vĩ
đại nhất của người vùng cao là Trời. Trời là vị thần tối thượng chi phối thế giới thần
linh và cả thế giới con người. Nơi những cánh rừng nguyên sinh miền núi cao, cây
sồi được coi là biểu tượng của người đàn ông. Sức sống và sự sinh sôi phát triển của
nó tạo dựng niềm tin về sự thịnh vượng tộc người trong tâm thức mỗi người dân.
Đến khi cây sồi già, rụng lá và chết đi, đồng nghĩa với việc một người đàn ông quan
trọng nào đó đã rời bỏ bản làng. Đỗ Bích Thúy đã từng miêu tả về biểu tượng cây
sồi: “Đã nhiều năm trôi qua, cây sồi này già, rồi chết, rồi khô xác, không còn một
mảnh vỏ, đến cả những sợi rễ vững chãi ăn sâu xuống lòng đất ẩm ướt cũng đã đứt
thành nhiều đoạn, nhưng cái bóng của nó thì không ai xoá đi được. Ngay cả anh,
người đàn ông duy nhất còn lại của dòng họ, cũng không đi qua được nó, không vượt
qua được cái ranh giới mà bóng cây sồi đã in xuống vùng thung lũng rộng không đầy
một sải chim bay này” [29, tr.5].
Từ bao đời nay, trong suy nghĩ của người Mông, người Tày, rừng mả là một
khu vực địa lý đặc biệt, dành cho những người chết có được nơi an nghỉ sau khi kết
thúc sự sống. Họ tin rằng “tất cả những con gà trống được người chết mang theo đám
ma sau này đều hoá thành một loài chim ăn đêm và chúng cất tiếng gáy lúc nửa đêm,
khi còn lâu trời mới sáng. Từ trong làng, đêm nào những người già mất ngủ nghe thấy
tiếng gà the thé cất lên, nửa giống tiếng tắc kè, nửa giống tiếng chim lợn là biết rằng
sắp đến lúc mình cũng đi vào rừng mả. Và chỉ những người sắp từ giã cuộc sống mới
nghe được tiếng gà gáy cất lên từ rừng mả” [29, tr.71].
Màu sắc tâm linh được khắc họa trong Bóng của cây sồi: “Huyền thoại thứ nhất
nói về “hai cô gái đẹp vì không nghe lời tri châu bắt về làm vợ mà bị ném xuống sông
Lô. Hai cô trôi qua, dạt vào bến đò Lao Chải, dân bản thương đem lên núi chôn để
làm gương cho con gái mới lớn. Cùng năm ấy, cả một vùng rộng lớn xung quanh
Thanh Vân bị lũ tràn ra từ trong khe núi, từ rừng, từ trời, cuốn sạch nhà cửa trâu bò,
31
chỉ mỗi Lao Chải không việc gì, người làng cho rằng đấy là do hồn hai cô gái trên núi
tìm cách trả ơn nên đã làm một cái nhà bằng đá lợp lá cọ để hai cô có nơi đi về” [29,
tr.120]. Huyền thoại thứ hai kể chi tiết về dòng sông Lô và cái chết của con thuồng
luồng “Thuồng luồng chết, xác hoá thành gò đất dài nằm dọc bờ suối mà đám đàn bà
hay ra phơi váy, còn linh hồn đi lang thang, nhưng vài năm lại quay về làng một lần.
Lần ấy, không cách này hay cách khác, sẽ lấy đi một đứa trẻ, coi như cái giá mà người
Lao Chải phải trả cho nó vì đã ăn ở, canh tác trên mảnh đất của nó. Thầy mo của Lao
Chải thì bảo không phải, đấy là chuyện bậy bạ, không tin được. Nhưng đúng là thỉnh
thoảng làng lại có trẻ con chết, thường là chết đuối vào mùa hè lúc rủ nhau ra sông
hụp lặn. Cũng có đứa chết trên rừng vì cây đổ, nứa xiên” [29, tr.273-274].
Niềm tin tâm linh còn được thể hiện ở việc một cộng đồng ổn định phải có sự
quản lý của già làng trong Bóng của cây sồi; việc có con trai nối dõi trong Tiếng đàn
môi sau bờ rào đá; cúng mo để xua đuổi tà ma trong Đi qua ngày sang đêm… Đặc biệt
là cách ứng xử với cái chết của mỗi thành viên trong bản làng: “Ở làng tôi chỉ được
nghe tiếng tù và trong những ngày làng có người chết. Mẹ tôi bảo đấy là lời người
sống an ủi người chết. Chỉ có ngày em Thi chết là vắng tiếng tù và. Trẻ con chết là trái
với luật đời, thế nên chỉ lặng lẽ đi thôi, không được mang cây tù và trong nhà trong họ
ra thổi” [27, tr.187].
Người già miền núi đã tự đúc kết cho mình một chân lý: “Nếu như ngọn gió này
không còn thì dòng sông sẽ lặng tờ, chỉ có tiếng nước sôi ùng ục như đặt trên bếp lửa;
Nếu như ngọn gió này không còn thì ánh vàng lấp lánh từ mặt trời, ánh bạc lấp lánh
từ mặt trăng sẽ không bao giờ trở lại trên mặt nước; Nếu như ngọn gió này không còn
thì những chiếc lá úa vàng và những quả chín nẫu sẽ không bao giờ tạt xuống mặt
nước, làm cho từng đàn cá bống nhớn nhác lên; Nếu như ngọn gió này không còn thì
những bắp chân trắng nõn sẽ giấu mãi trong gấu váy, những nắm rêu sẽ rối tung trong
xoỏng; Và nếu như ngọn gió này chỉ một lần thổi tới từ thượng nguồn và một lần duy
nhất trôi trên dòng nước về hạ nguồn, rồi không khi nào trở lại nữa thì chính dòng
sông sẽ không còn”[29, tr.103-104].
Niềm tin ấy gánh được linh hồn, hơi thở, dáng vóc của các dân tộc. Trải qua
bao thăng trầm lịch sử, bao lớp trầm tích văn hóa, con cháu miền núi vẫn tìm thấy
32
niềm an ủi và đồng vọng với những tâm tư, tình cảm của mình trong di sản văn hóa
truyền thống của cha ông.
Tuy nhiên, trong không gian riêng đó, bị ngăn trở, tách biệt so với các khu vực
khác nên những con người miền núi cũng là nạn nhân của hủ tục lạc hậu, cuộc đời họ
thường gắn với số phận bi kịch. Đỗ Bích Thúy đã đưa vào trang văn những bi kịch
mang tính cá nhân xuất phát từ sự hẹp hòi dân tộc. Cô Kim trong Bóng của cây sồi vừa
đẹp người đẹp nết nhưng bị cả làng hắt hủi chỉ vì quá khứ đau buồn của người mẹ.
Đám ma của mẹ Kim chính là một ví dụ tiêu biểu cho hệ thống quan niệm hẹp hòi của
người dân miền núi, những quan niệm cổ hủ đã bóp chết quyền được hòa nhập của con
người vào xã hội. Người mẹ ấy đến khi chết vẫn phải chịu cảnh cô độc và rẻ rúng:
“Chỉ có duy nhất một cái quan tài, không có nhà táng, không có đón rước ông Then.
Kim mang đi một con gà, cái nồi, cái bát, đôi đũa, quẩy tấu, dần sàng, ít gạo... đấy là
phần dành cho mẹ mang theo xuống đất. Nhưng nước mưa làm cho tất cả đều ướt, cả
con gà trong lồng cũng ướt lướt thướt” [29, tr.21]. Người mẹ khốn khổ ấy khi đối mặt
với cái chết có lẽ vẫn mang nặng tủi cực trong mình vì sự hắt hủi của cộng đồng.
Trong mỗi chúng ta có lẽ ai cũng đều ngỡ ngàng khi đọc truyện ngắn Cột đá treo
người viết về thời trước cách mạng, thời mà các lý trưởng là trung tâm của làng quê
Việt Nam, kể cả miền xuôi lẫn miền ngược. Đây là câu chuyện kể về cây cột đá có thật
ở Đồng Văn, về một anh Vàng, anh Sàng ở trong bản người Mông. Họ chỉ cần làm trái
ý lý trưởng là bị hắn đem treo lên cột đá cho quạ rỉa. Thân phận con người không có
giá trị bằng con bò, con ngựa trong nhà địa chủ… Ở đây ai muốn làm người thì phải
vùng lên và nếu vùng lên không được thì phải trốn vào rừng làm phỉ.
Qua những sáng tác của Đỗ Bích Thúy, hình ảnh con người hiện lên vừa chân
mộc nhưng cũng đầy xót xa. Đó là những con người cả đời úp mặt trên những cánh
đồng anh túc, tam giác mạch, đi ở đợ cho nhà giàu và chết trong cô quạnh. Không ai
khác, họ chính là nạn nhân của những ràng buộc khắt khe đã trở thành thâm căn cố đế
trong xã hội miền núi. Tình yêu của Phù và Kim trong Bóng của cây sồi đã bị cả một
hệ thống luật tục Lao Chải ghì riết cho tan nát, chỉ vì người dân Lao Chải nghĩ rằng
Kim là con thú hoang không có bố, dòng máu chảy trong trong người Kim là dòng
máu đen ma quỷ. Họ đã phải sống một cách âm thầm, dằn vặt đau đớn, và đi qua cuộc
đời nhau như những cái bóng. Đặt ra vấn đề này, Đỗ Bích Thúy động chạm đến một sự
33
thật đau xót, một dự cảm về quyền sống của con người vốn khổ đau trong quá khứ. Họ
không dám và không đủ sức vượt qua những quy định hà khắc của lễ giáo phong kiến.
Sống cam chịu và nhẫn nhục trong sự bủa vây của sự áp bức, bất công triền miên, cả
đời phải vùi mình trong nước mắt mà đến khi chết vẫn không biết đến một ngày thanh
thản. Có lẽ cũng bởi vì thế mà con người miền núi hạn chế về tầm nhìn.
Truyện Tiếng đàn môi sau bờ rào đá của Đỗ Bích Thúy là những tráng ca đau
buồn về số phận con người của cao nguyên đá. Câu chuyện không chỉ âm thầm soi vào
những ý nghĩ coi Hà Giang như “là vườn ổi hoang, ai thích đến hái thì cứ hái như trẻ
chăn bò”. Tới cao nguyên đá tá túc và xây cơ dựng nghiệp nhưng có nhiều người
chẳng khác nào “con thú hoang ở đâu lạc tới”. Và khi cần phải bỏ đi, họ sẵn sàng vứt
con đẻ ở lại và dắt theo những con bò. Cứ thế, Hà Giang vật vã mãi như thân phận của
mẹ già không thể sinh nở, lạc lõng, héo hon. Người đàn bà vô sinh, cô quả câm lặng
như cái tảng kê chân cột nhà chồng.
Những đặc trưng riêng biệt về văn hóa vật chất và tinh thần của con người miền
núi Đông Bắc cũng được mô tả trong các sáng tác của Đỗ Bích Thúy. Nhà văn rất tinh
tế trong việc chọn và lấy những tập tục, thói quen, lối sống của con người nơi đây làm
nền cảnh để dựng lên những câu chuyện sống động và chân thực. Trong các sáng tác
của chị, đời sống văn hóa vật chất của người miền núi thể hiện chủ yếu ở đời sống sinh
hoạt và phương tiện sản xuất. Đến nơi miền cao nguyên với những mảng núi đá tai
mèo, hình ảnh nhận biết được trước hết là những cây lương thực chính như ngô, sắn,
khoai, lúa nương; thực phẩm gồm rau xanh, dê, lợn, gà, bầu, bí… và những loại cây
nguyên liệu dùng dệt vải như lanh, đay. Đời sống kinh tế - vật chất của họ rất đạm bạc,
giản dị, nhưng lại mang nhiều sắc thái độc đáo phù hợp với tâm lý người bản địa: thích
ăn cơm nếp, uống rượu ngô, ở nhà sàn, nữ mặc váy, nam mặc xà cạp quấn khăn... Ở
vùng Đông Bắc, rượu ngô đã trở thành một mã văn hóa của các dân tộc thuộc nhóm
Mông - Dao, kỹ thuật nấu rượu ngô cũng thể hiện tinh hoa văn hóa trong nghệ thuật
ẩm thực của các dân tộc: “Ngô để dành nấu rượu là ngô trồng trên những hốc đá cao
nhất, nơi thừa nắng thiếu nước, có thế bát rượu đầu tiên chảy ra đem đốt mới cháy
đùng đùng cho ngọn lửa xanh lè mới được”.
Văn hóa vật chất các tộc người thiểu số là biểu hiện cụ thể của cách thức canh
tác theo mùa vụ: “Mọi năm, trước khi ngày hội bắt đầu người ta đã lấy xuống những
34
cái cày treo trên gác chuồng trâu từ cuối vụ trước, xem lưỡi cày nào cùn mòn quá thì
thay lưỡi mới, đánh cho nó sáng bóng lên. Hội kết thúc cũng là lúc cả làng kéo nhau
ra đồng, người đàn ông chủ nhà sẽ đặt những đường cày đầu tiên xuống mặt đất đang
tơi dần, lật lên những gốc rạ hoai mục. Đàn bà con gái thay ra bộ váy áo đang mặc,
giặt giũ, phơi phóng, cất đi, mặc váy áo cũ, mang thóc giống ra ngâm, chuẩn bị nhổ
cải ngoài vườn, bó thành từng bó lớn những cành cải nặng hạt, mang phơi lên hàng
rào, để năm sau có giống...”[29, tr.280-281].
Cách thức canh tác thổ canh hốc đá là một sự thích ứng nơi địa hình khắc
nghiệt, mặt khác phản ánh sự sáng tạo trong lựa chọn loại hình canh tác của người dân
miền núi. Bên cạnh chăn nuôi và trồng trọt, người Mông miền núi Hà Giang còn là tác
giả - nghệ nhân của những giọt mật ong nổi tiếng khắp miền sơn cước: “Người Mông
nào cũng biết mùa hoa bạc hà gắn liền với mùa ong. Khi bạc hà nở rộ khắp núi rừng
một màu tím biếc trong tiết trời trở lạnh cũng là lúc ong lũ lượt kéo về. Mật ong được
làm từ hoa bạc hà cũng là mật ngon nhất. Thứ mật hơi có màu xanh, càng giữa mùa
bạc hà nở rộ mật càng xanh. Pha một chén mật ong vào chai rượu thì đàn bà đàn ông
gì cũng chỉ một chốc là say mèm” [30, tr.59].
Trải qua quá trình lao động lâu dài, quan sát và nắm bắt những quy luật của tự
nhiên, người Mông mới có thể tạo ra được những sản phẩm tinh túy như thế. Hơn nữa,
trong quá khứ và hiện tại, người Mông là chủ nhân của không gian miền núi phía Bắc
với những anh hoa văn hóa đặc sắc và nguyên thủy.
Nhà ở của người miền núi bao giờ cũng nằm “chênh vênh trên núi cao, già nua,
cũ kỹ và nhỏ nhoi”, như chính lịch sử của miền đất đó, nhưng có khi lại là những ngôi
nhà đá chứa thóc lúa của nhà giàu “Dưới kia, cả thung lũng, những ngôi nhà bằng đá,
cửa gỗ lim chứa ngô lúa, những ngôi nhà dài, cao rộng đang mù mịt trong khói lửa
ngút trời, mùi thóc nếp, mùi ngô bị đốt cháy khét, tiếng trâu bò gà lợn rống lên điên
cuồng…” [28, tr.149].
Một hình ảnh nổi bật nữa là sắc chàm trên những bộ váy áo Tày, sự tinh tế trên
những bộ váy lanh của phụ nữ Mông ngày xuống chợ “Trong cái hòm ấy, mẹ già cất
một bộ váy áo đẹp lắm, thêu bảy màu như cầu vồng, mẹ bảo khi nào con May lấy
chồng thì mẹ cho mang theo” [28, tr.15].
35
Với sức sống mãnh liệt và sự sáng tạo, từ chính môi trường sống và hoạt động
mưu sinh thường nhật, con người miền núi đã tạo nên những đặc trưng văn hóa riêng.
Từ cách xếp những bờ rào đá của những người đàn ông đến cách xe lanh của người
phụ nữ đều mang hơi thở, linh hồn của núi rừng và là hiện thân tiêu biểu của một nền
văn hóa vật chất rực rỡ. Sống trên mênh mông đá, điêu khắc ấn tượng của Hà Giang có
thể là những chân tảng đá được cách điệu hình quả thuốc phiện ở nhà Vương hay chiếc
cối đá trên sân một tư dinh ở Sủng Là.
Do những hạn chế về giao thông và những dịch vụ xã hội, văn hóa vật chất tộc
người thiểu số là biểu hiện sinh động của một nền kinh tế khép kín. Đâu đó trong quá
khứ và hiện tại, cây thuốc phiện đã trở thành thứ hàng hóa kinh tế quan trọng giờ đây
đang được loại bỏ để thay thế bằng những loại cây có giá trị kinh tế như cải dầu, tam
giác mạch… Cộng đồng các dân tộc thiểu số chủ yếu sống trong khung cảnh vùng
cao heo hút và từ rất lâu rồi, được xem là đại diện cho một sắc thái, một nếp sống rẻo
cao với tình cảm cộng đồng lớn, với sự mộc mạc trong tư duy đang sống một cách
kiêu hãnh trong hiện tại. Ẩn tàng sau biểu hiện vật chất còn nghèo nàn, mang nặng
tính tự cấp tự túc ấy là một đời sống tâm linh phong phú, bí ẩn mà bất cứ một ai bước
vào cũng thấy ngỡ ngàng và lý thú.
Văn hóa tinh thần của cộng đồng các dân tộc vùng Đông Bắc được biểu hiện rõ
nhất thông qua những nét đẹp văn hóa - văn nghệ dân gian, phong tục tập quán của
người dân tộc. Các giá trị văn hóa tinh thần đó được nhà văn Đỗ Bích Thúy lựa chọn
và mô tả rất thành công trong các tác phẩm của mình. Đó có thể là những khúc ca dân
gian đã lưu lại bao đời nay trong kho báu của người Mông: “Có tiếng gì như tiếng sáo
lẫn trong tiếng gió bấc đầu mùa, len qua từng khe nứt nhỏ tí trên tường đất, lọt vào tai
Súa. Đúng tiếng sáo rồi. Mỗi lúc một rõ hơn, nhất là những khi tiếng gió ngừng bặt.
Là một khúc trong khơ chìa planh: “Khi buổi sớm tinh mơ đôi ta cầm tay nhau dạo
bên bờ giếng nước, e rằng con chim dìa - cơu ung dung bay qua uống phải, sẽ rung
động chín mươi tám trái tim” [30. tr.11] hay là tiếng đàn môi “Nhưng vừa nằm một
lúc, chập chờn ngủ thì May nghe có tiếng đàn môi cất lên. Tiếng đàn môi ngay ngoài
cổng gỗ chứ không gọi ở đầu nhà như lần trước. May định mặc kệ, vừa mới chào
nhau, mùi tóc quen quen còn chưa bay hết, lại buồn ngủ nữa. Nhưng tiếng đàn cứ gọi
mãi, gọi mãi, mà tiếng đàn môi đêm nay cũng có gì khang khác, dài hơn, trầm hơn,
36
ngập ngừng hơn, vẫn tràn qua bờ rào đá vừa dày vừa cao như suối chảy…” [28,
tr.31]; những câu hát Páo dung của người Dao mỗi lúc lại được vang lên như chất men
say huyền thoại: “Người Dao là con chim xanh, gặp quả thì ăn, gặp nước thì uống.
Bay hết cánh rừng này đến cánh rừng khác”, rồi đến điệu Lượn Cọi Tày thiết tha, sâu
lắng được cất lên từ ngọn nguồn dân tộc: “Thương căn thương hẩu nắc/ Nặm khẩu băc
nhá xâm/ Thương căn thương hẩu hâng/ Nặm khẩu xâng nhá lúa... (Thương nhau
thương cho đặng/ Như nước vào vợt không chảy/ Thương nhau thương cho lâu/ Như
nước vào nia không thấm...).
Nhằm nắm bắt cái gốc rễ, sâu xa mang tính bản sắc của văn hóa miền núi, Đỗ
Bích Thúy đã hướng ngòi bút của mình vào việc khai thác những cứ liệu về văn hóa
tâm linh. Trong quan niệm truyền thống của người Mông, khi nhà có người ốm phải
mời thầy mo về cúng để xua đuổi tà ma, đó là khi già làng Phủ bị ốm: “Già làng Lao
Chải mắc bệnh nặng, bụng trương to như nuốt một cái chảo. Thầy mo đến, nhà mổ
một con trâu đực, bụng già làng vẫn to. Mổ tiếp một con dê nữa, cái bụng vẫn không
chịu bé đi. Được năm ngày, thầy mo đã lồi cả mắt ra, đứng không vững nữa thì bụng
già làng tự dưng khắc xẹp xuống. Bụng già làng xẹp xuống, miệng ăn được nửa bát
cháo rồi, mắt sáng lại rồi nhưng Phù không thấy yên lòng” [29, tr.34]. Cảm thức
huyền bí nơi đại ngàn u linh đã khiến con người nơi đây tin vào những điều tưởng như
không hề hiện hữu trong thực tế. Đó là niềm tin tôn giáo khởi nguồn từ tín ngưỡng vạn
vật hữu linh đã được cất giữ qua quá trình di dân và đấu tranh nhằm xác lập sự sống
của các dân tộc. Chi tiết rừng mả thật sự là một mã văn hóa khi nói đến văn hóa miền
núi: “Rừng mả chỉ có người đặt chân đến khi trong họ có người chết, rồi cứ theo vị trí
định sẵn mà đặt xuống. Trong rừng mả nhà ông Tần bia đá tấm lớn tấm nhỏ nằm rải
rác mỗi nơi một chiếc, còn một ngôi nhà mồ chưa kịp mục nát vì mưa gió… Có người
nói rằng, tất cả những con gà trống được người chết mang theo đám ma sau này đều
hoá thành một loài chim ăn đêm và chúng cất tiếng gáy lúc nửa đêm, khi còn lâu trời
mới sáng. Từ trong làng, đêm nào những người già mất ngủ nghe thấy tiếng gà the thé
cất lên, nửa giống tiếng tắc kè, nửa giống tiếng chim lợn là biết rằng sắp đến lúc mình
cũng đi vào rừng mả. Và chỉ những người sắp từ giã cuộc sống mới nghe được tiếng
gà gáy cất lên từ rừng mả” [29, tr.70-71]; hình ảnh chiếc cột đá treo người trong
truyện ngắn cùng tên cũng gợi lên trong chúng ta những suy nghĩ về một tập tục xưa
37
cũ hay tập quán không được thổi tù và trong đám ma của trẻ con người Mông trong
truyện ngắn Đi qua ngày sang đêm cũng là những mô thức văn hóa đã ăn sâu vào nếp
nghĩ ngàn đời.
Tầng sâu văn hóa tinh thần người dân miền núi được thể hiện phong phú, sống
động qua các lễ hội truyền thống. Với người Tày là Lễ hội Lồng tồng (xuống đồng)
trong những ngày đầu xuân để cầu mong mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, con
trai con gái được gặp nhau, tung quả còn tìm người tri kỷ: “Những quả còn làm bằng
vải màu, gắn tua rua rực rỡ đang đâm cả vào nhau trên cao nhưng vẫn chưa có ai
ném trúng, làm rách cái mâm đỏ để nhận phần thưởng. Hình như năm nay cây còn
làm cao hơn mọi năm nên cả những người được coi là khoẻ nhất, tinh nhất, khéo nhất
đã vào cuộc mà chưa ai thắng” [29, tr.282]; với người Mông là Chợ tình Khau Vai nổi
tiếng diễn ra vào ngày 27/3 hàng năm dành cho những đôi trai gái yêu nhau nhưng
không đến được với nhau qua những câu hát đối đáp mộc mạc và chén rượu dâng đầy:
“Ai cũng biết mang rượu đi chợ hai bảy để người bán người mua uống cùng với nhau.
Uống cho say rồi người mua không nhớ trả tiền cũng được mà nhớ nhưng trong túi chỉ
còn vài đồng không đủ mua túi muối, mang ra trả cũng được… Cả năm cúi mặt ngoài
nương, cúi mặt vì hạt ngô hạt đậu, về nhà cúi mặt vì con lợn con gà, mãi mới có lúc
thảnh thơi…” [28, tr.18].
2.2. Người phụ nữ miền núi Đông Bắc
2.2.1. Những kiến tạo của người phụ nữ trong đời sống vật chất
Khởi thủy của nhiều nền văn hóa đều cho thấy vai trò quan trọng của người phụ
nữ đối với sự kiến tạo các giá trị từ vật chất tới tinh thần. Chế độ mẫu hệ vốn có lịch
sử rất xa xưa. Lý giải về điều này, các nhà khoa học cho rằng nguồn gốc của chế độ
mẫu hệ có thể tìm thấy trong chế độ quần hôn của "thời đại mông muội". Năm 1891,
trong công trình “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước”, F.
Engels đã dẫn lại một đoạn mô tả của A-gát-xi-dơ trong cuốn “Cuộc hành trình đến
Brésil” (1886) về hình thái quần hôn ở các cư dân Brésil bản địa: "Những người đàn
bà In-đi-an hay những người đàn bà lai bao giờ cũng nói như thế về những đứa con đẻ
hoang của mình "Nó không có cha đâu, nó là đứa con do ngẫu nhiên mà có đấy", mà
không hề thấy xấu hổ hoặc ngượng ngùng; và điều đó không có chút gì là lạ cả; ngược
38
lại thì mới là điều ngoại lệ. Con cái thường chỉ biết có mẹ vì chỉ có mẹ là người phải
gánh lấy mọi sự lo lắng và trách nhiệm; con cái không biết gì đến cha cả; và hình như
không bao giờ người đàn bà nghĩ rằng mình hoặc con cái của mình lại có quyền đòi
hỏi gì đối với người cha cả.
Tương ứng với các hình thái hôn nhân nguyên thuỷ như quần hôn, hôn nhân đối
ngẫu... là sự phân công lao động sơ khai theo giới tính: nam giới săn bắt và bảo vệ bầy
đàn - thị tộc; nữ giới hái lượm, gieo trồng để bảo đảm nguồn thực phẩm thường xuyên,
giáo dục con cái, trông nom nhà cửa, điều khiển công việc và điều hoà quan hệ giữa
các thành viên... Con cái sinh ra chỉ biết có mẹ chứ không biết rõ về cha, nguồn thực
phẩm do người phụ nữ hái lượm gieo trồng ít bấp bênh hơn sản phẩm săn bắt của nam
giới nên có thể nói chính chế độ quần hôn và loại hình kinh tế săn bắt, hái lượm của
thời nguyên thuỷ đã khiến cho vai trò của người mẹ trong gia đình trở nên trọng yếu.
Từ đó mà hình thành chế độ mẫu hệ.
Việt Nam, xét về văn hoá tổ chức đời sống cộng đồng dựa trên tương quan
nam nữ, đang tồn tại cả ba chế độ gia đình phụ hệ, song hệ và mẫu hệ, không kể những
hình thức chuyển tiếp, tàn dư. Trong đó, phổ biến nhất là chế độ gia đình phụ hệ.
Hoàn cảnh xã hội đã làm mất đi hình ảnh và vị thế gốc trong nền văn hóa cội rễ
của dân tộc, nhưng cho đến nay, thực tế đời sống vẫn cho thấy vai trò quan trọng của
người phụ nữ trong đời sống cộng đồng, và trên mọi bình diện cuộc sống, nhất là hình
ảnh về người phụ nữ miền núi Đông Bắc. Trong đời sống mưu sinh thường nhật,
những người phụ nữ là lực lượng chính đảm nhiệm công việc vun vén chăm sóc gia
đình, con cái, lo toan và chủ động chuyện nương rẫy, gieo trồng, chăm sóc cây trồng,
vật nuôi. Người phụ nữ hoàn toàn chủ động mọi việc còn người đàn ông chỉ giữ vai
trò phối hợp trong các hoạt động đó.
Không phải ngẫu nhiên mà từ “mẹ” - tức gắn với thiên chức của người phụ nữ
lại được sử dụng với tần phổ rộng để gọi tên và chỉ về các hiện tượng đời sống nhiều
đến thế, trong đó có chỉ về hạt giống. Họ coi hạt giống là thiêng liêng và cũng có linh
hồn, những hạt giống đó được coi như “hạt mẹ” và phải thờ mẹ lúa một cách kính
cẩn. Người phụ nữ bảo quản và cất giữ hạt giống, thậm chí ngủ chung với hạt giống,
là nhân tố cộng sinh để thúc đẩy hạt giống nảy mầm. Giữa nền cảnh hùng vĩ nên thơ
39
của núi rừng vào độ xuân về, là bóng dáng sự tần tảo duyên dáng của những người
phụ nữ miền núi, từ sớm tinh mơ, cho đến khi bóng núi đã phủ khắp bản làng.
Chăm sóc và theo dõi từng chu trình phát triển của cây trồng mùa vụ, những
người phụ nữ luôn biết lúc nào là thời điểm tốt nhất để trồng ngô, tra hạt đỗ trên
nương, khi nào gieo bí trên rẫy, lấy hạt giống dưa trộn lẫn tro bếp để rắc trên nương,
hay chọn một vạt đất trồng lanh…Trong cái nắng gió khắc nghiệt của đá núi, không
gian núi, khi cây trồng xanh mướt phủ kín những nương đá, người phụ nữ cặm cụi, mồ
hôi nhễ nhại đang cào cỏ, vun gốc, gương mặt bừng đỏ vì nắng trên cao…
Trong màu khói lam chiều lúc hoàng hôn phủ xuống bản, người phụ nữ vội vã
trở về, lặc lè gùi gánh, bó cỏ phủ kín cả thân hình, họ nhanh chóng khuất lấp sau cánh
cổng gỗ được mở. Những người phụ nữ lại chuyển sang không gian gia đình, với bao
bộn bề lo toan, lo cơm tối, cho lợn và dê ngựa ăn, chuẩn bị làm rau nấu cám cho lợn.
Họ cặm cụi trong bếp, trên những chiếc chảo lớn, người phụ nữ gắn với cái bếp lò của
gia đình, gắn với bếp núc và chăn nuôi.
Sự chủ động và chu đáo trong gia đình của người phụ nữ thể hiện rõ nhất qua
những phiên chợ vùng cao. Họ dậy sớm, chuẩn bị các sản phẩm dư dật trong gia đình
để đem ra chợ, đôi khi chỉ là ít rau cải, vài quả bí ngô, ít trứng gà, hoặc họ làm bánh,
nấu rượu…Họ bán những sản phẩm đó và mua các nhu yếu phẩm cần thiết cho gia
đình như dầu đèn, mắm muối…phân bón và nông cụ. Tâm thế của người phụ nữ khi
đến với chợ phiên hoàn toàn khác so với đàn ông, họ phải mang gánh nặng gia đình,
lo toan cho cuộc sống gia đình, trong khi đó đàn ông đi chợ chủ yếu là để chơi, để gặp
gỡ bạn bè, uống và say rượu…
Ngay cả trang phục mặc trên người của các thành viên trong gia đình cũng có
được từ bàn tay và khối óc của người phụ nữ miền núi. Từ chất liệu trong tự nhiên là
lanh, là chàm, với bàn tay tài hoa của mình, người phụ nữ dệt nên vải, nhuộm màu cho
vải, tạo hoa văn cho vải…và dệt thành váy áo, mũ khăn. Những người phụ nữ dù bận
bịu hay lúc nghỉ ngơi, trên nương rẫy hay lúc xuống chợ, trên tay họ bao giờ cũng
mang theo cuộn lanh thô để tước sợi. Từ những sợi lanh đứt đoạn, họ nối kết lại, dệt
nên khổ vải, từ thô mộc khô cứng, qua bàn tay họ đã biến thành mềm mại óng tơ, từ
không màu sắc, qua đôi bàn tay nhuộm chàm để nên màu biểu tượng của vùng đất này,
từ màu trơn, cũng qua đôi bàn tay và khối óc sáng tạo, họ dệt vào đó những hoa văn,
40
họa tiết, biểu tượng. Trang phục chính là văn hóa, là sự sáng tạo và sản sinh văn hóa
của con người - những người phụ nữ miền núi Đông Bắc.
Trong những ngôi nhà của gia đình, luôn là hình ảnh người phụ nữ tần tảo.
Những bữa ăn gia đình với chất liệu là ngô bột (mèn mén), cũng do người phụ nữ tách
hạt, xay vỡ và đồ lên. Họ phải thức dậy từ sớm tinh mơ để chuẩn bị bữa ăn cho cả gia
đình, người phụ nữ cũng luôn gắn với hình ảnh chiếc cối xay ngô. Và cũng từ chất liệu
chính tạo nên sự sinh tồn của con người ở núi là ngô, người phụ nữ không chỉ chuyển
hóa thành thức ăn (mèn mén) mà thành cả thức uống đặc trưng của miền cao nguyên
đá - đó là rượu ngô. Rượu cũng là văn hóa, là sự tinh lọc, là thứ tinh túy chắt ra từ đất,
đá, nước, nắng, gió cao nguyên và mồ hôi con người.
Để giảm bớt căng thẳng và sự mệt nhọc, con người nơi đây cũng cần có không
gian giải trí và cân bằng - đó chính là chợ phiên. Chợ phiên miền núi sẽ không có gì
đặc biệt nếu như không có rượu. Rượu đóng vai trò là thứ thuốc quên tạm thời, là
một chất kích thích tâm lý, là chất men say. Người phụ nữ với sự tỉ mẩn cùng với bí
quyết riêng của mình đã ủ men và chưng cất lên một chất say cho những thời điểm
cần thiết của cuộc sống. Chỉ có rượu do người phụ nữ làm ra là ngon nhất, say lòng
người nhất. Từ việc tạo ra rượu, người phụ nữ cũng giữ luôn vai trò và trọng trách
đem rượu ra chợ bán.
Không chỉ kiến tạo ra các giá trị và duy trì nó trong cuộc sống, như cái ăn, cái mặc,
người phụ nữ còn mang trên mình một trọng trách thiêng liêng, một thiên chức vĩ đại -
đó là sản sinh ra sự sống, tương lai, và cũng là người nối dài và duy trì truyền thống,
dòng máu, huyết tộc. Người phụ nữ chính là nước, nguyên tố đầu tiên của sự sống,
người trao hơi thở cho đứa trẻ, cho nó những giọt nước (sữa) để nó bú mớm mà lớn lên.
Đàn ông giữ vai trò cộng hưởng và phối hợp, là nhân tố thúc đẩy một chu trình phát
triển, còn phụ nữ là riềng mối, là cội nguồn, là quá khứ, là người trực tiếp duy trì và bảo
vệ sự sống, cũng như thúc đẩy nó. Những đứa trẻ sinh ra bao giờ cũng gắn chặt lấy mẹ
như da thịt, bám trên lưng mẹ cho tới khi chúng tự chập chững bước đi bằng đôi chân
của mình. Suốt cả cuộc đời, người phụ nữ hiến mình cho xây đắp và tạo dựng cuộc sống
gia đình, cho thế hệ tương lai, cho mạch nguồn máu huyết được duy trì, cho sự sống. Cả
đời họ, hình ảnh về họ sau khi đã làm vợ, làm mẹ, luôn là sự lam lũ, vất vả.
41
2.2.2. Những kiến tạo của người phụ nữ trong đời sống tinh thần
Trong đời sống tinh thần của tộc người, phụ nữ cũng giữ những vai trò quan
trọng với rất nhiều kiến tạo. Trước tiên, họ là người tạo nên màu sắc, hoa văn sống
động trên những bộ trang phục. Màu sắc và những chủ đề cuộc sống được họ chụp lại
bằng trí óc và sự tưởng tượng của mình, họ sáng tạo và chuyển hóa nó thành bố cục,
motip, hoa văn trên trang phục. Có thể nói, trang phục chính là tiêu chí đầu tiên để
nhận diện tộc người và văn hóa tộc người.
Cũng là người bảo quản và cất trữ hạt giống, với nền kinh tế chủ yếu dựa trên
trồng trọt và khai thác thực vật, người phụ nữ giữ một vai trò quan trọng nhất. Rất
nhiều nghi thức tâm linh liên quan tới sinh kế này đều gắn với tính nữ. Loại cây trồng
thiêng liêng và đảm bảo nhất cho đời sống con người là lúa. Có ý kiến cho rằng chính
phụ nữ là người tìm ra lúa, thuần dưỡng lúa và cũng là người phát minh ra trồng trọt.
Xuất phát từ chính sự phân công lao động của loài người, phụ nữ đảm nhiệm hái lượm,
còn đàn ông đảm nhiệm săn bắt. Từ hái lượm chuyển sang trồng trọt thường gắn với
phụ nữ cũng là điều dễ hiểu, và phụ nữ thường gắn với hạt giống, mùa màng. Trong tín
ngưỡng cổ của rất nhiều dân tộc thiểu số, nổi trội là tín ngưỡng thờ mẹ lúa - tức đề cao
tính nữ, gắn với sự sinh sôi nảy nở.
Người phụ nữ cũng là biểu tượng của mái ấm gia đình, là người gìn giữ huyết
thống, cội nguồn. Họ chính là người đầu tiên và giữ vai trò quan trọng nhất trong việc
định hình, răn dạy đối với thế hệ tương lai của cộng đồng. Những đứa trẻ lớn lên từ
dòng sữa mẹ, từ lời ru và những câu dân ca của mẹ, của bà. Người phụ nữ gắn với lửa,
với bếp, với bậc cầu thang.
Trong đời sống tinh thần, người phụ nữ miền núi còn là hình ảnh biểu trưng cho
cái đẹp, cho sự thủy chung, chăm chỉ, cần mẫn, ngọt ngào. Phụ nữ là đối tượng cho tình
yêu ca ngợi, là cảm hứng cho những áng văn học nghệ thuật. Trong dân ca Mông, nổi
trội hơn cả là hình ảnh người phụ nữ, là sự tràn đầy của tính nữ. Dân ca Mông rất phong
phú về đề tài, dồi dào về số lượng, hay về nghệ thuật, sâu xa về ý tứ. Người phụ nữ
trong dân ca Mông xuất hiện với các hình tượng từ ngoại hình, phẩm chất, cho tới số
phận của họ. Vẻ đẹp của người phụ nữ Mông được ví như các loài hoa, đức hạnh phẩm
chất của họ được ví như cây lanh, còn số phận của họ được ví như hình ảnh con ngựa.
42
Người phụ nữ miền núi rất chú ý đến vẻ đẹp ngoại hình của mình, họ biết làm
dáng. Trong không gian và nền cảnh núi rừng, vẻ đẹp của người phụ nữ luôn nổi bật
với váy xòe sặc sỡ, đôi bàn tay mềm mại xe lanh, nụ cười và ánh mắt trong veo, như
thi sĩ Nguyễn Bính đã từng ngỡ ngàng mô tả trong bài thơ “Vài nét rừng”, khi ông có
dịp lên đến Phú Thọ. Người phụ nữ miền núi, mang trong mình vẻ đẹp hoang sơ của
núi rừng, vui tươi rộn ràng như tiếng chim họa mi lảnh lót trong tán lá, mềm mại như
dòng suối chảy róc rách những buổi trưa hè.
Không chỉ đẹp về ngoại hình, người phụ nữ miền núi còn đẹp cả về phẩm chất,
tính cách, đó là rất mực thủy chung, dịu dàng, đảm đang, khéo léo. Không chỉ vậy họ
còn là người thông minh, tài hoa, gan dạ, dũng cảm, chung thủy trong tình yêu.
2.2.3. Sự mặc định của cộng đồng với thân phận của người phụ nữ miền núi
Người phụ nữ miền núi phải sống và gánh chịu hàng loạt những định kiến xã
hội, họ bị tước bỏ quyền được yêu, bị xâm phạm và chà đạp quyền tự do cá nhân, họ
không thể thoát khỏi sự định đoạt của gia đình, dòng tộc. Người phụ nữ là nạn nhân
của những thói hủ tục lỗi thời, là số phận của những người bị gả bán, phải đi làm dâu
khi vẫn chưa trưởng thành, mới chỉ là con trâu măng, đương tuổi ăn tuổi lớn, phải làm
dâu, làm vợ khi còn là một cô bé. Họ không thể tự quyết định được tương lai của
mình, họ bị ép gả, bị quy đổi ra thành số lượng đồng bạc trắng, quy đổi ra vật chất.
Số phận hẩm hiu bi đát của người phụ nữ miền núi cũng được phản ánh rất nhiều
trong các sáng tác của Đỗ Bích Thúy. Điểm chung của những người phụ nữ này đều là
những người bị đọa đày triền miên trong tăm tối về thể xác và tinh thần, khó có khả
năng trở lại với kiếp con người cho đúng nghĩa. Tự bản thân họ cũng đã ý thức được
mình phải đối mặt và chịu đựng những gì của sự sống đau khổ này nhưng lại bị cả một
hệ thống lễ giáo phong kiến ghì riết, níu kéo, muốn thoát, muốn vùng vẫy là điều
không thể. Họ khát khao yêu đương, khát khao được sống theo ý mình, được đến gần
với biên giới của tự do và sự tôn trọng. Nhưng với bản mệnh đàn bà sẵn có, lại bị quy
định bởi mẫu số chung là “mắt bé như hạt thóc, chỉ nhìn qua cái ngưỡng cửa”.
Khi đã về nhà chồng, người phụ nữ phải tuân phục nhà chồng, suốt ngày phải
làm lụng vất vả để lo toan gánh vác công việc nhà chồng. Do bị ép gả nên họ không có
tình yêu, bi thương nhất là lấy phải người chồng lười nhác hay bạc ác, người phụ nữ
phải cam chịu tất cả. Phận làm dâu của người đàn bà miền núi luôn chịu nhiều tủi hổ,
43
đầy nước mắt, bởi chồng không thương, gia đình nhà chồng đày đọa, hạch sách. Đã thế
tư tưởng trọng nam khinh nữ cũng đè nặng lên đôi vai trách nhiệm của người phụ nữ.
Là vợ thì họ bắt buộc “Phải có được đứa con trai để giữ đất, thờ cúng tổ tiên”, là sự
phân biệt vai vế “chỗ của người đàn ông là bàn thờ, chỗ của người đàn bà là dưới
bếp”; là sự “định giá” người phụ nữ bằng những đồng bạc trắng. Chính vì lối suy nghĩ
đầy định kiến đó đã gây ra áp lực nặng nề đối với tất cả những người đàn bà khi đi làm
dâu. Tập tục dân tộc đã cướp đi tình yêu và tuổi trẻ của người phụ nữ, họ không đến
được với người mình yêu thương, họ phải sống trong dằn vặt đau khổ, sống trong sự
héo úa, lụi tàn.
Những người phụ nữ miền núi còn phải gánh chịu hậu quả do những việc làm
sai trái của chồng con mình gây ra. Đó là bà Tần trong truyện Bóng của cây sồi đã phải
chịu những hậu quả do chồng và con rể gây ra do phá ngôi rừng mả lấy đất bán…
Mặc dù phải chịu nhiều khổ cực, chịu sự đối xử bất công của cộng đồng, luật
tục song những người phụ nữ miền núi vẫn thể hiện đức hạnh chói lòa của mình, thiên
tính của mình, họ vẫn lựa chọn cách sống vị tha. Ở họ, có một chân lý nhân văn, mà
sau này nhà văn Đỗ Bích Thúy đã từng mô tả “Trời mưa, nước suối có thể đục nhưng
không thể đục mãi được” [28, tr.20]. Nơi ấy, có những người đàn bà ngày ngày chăm
con chồng bằng bàn tay chai sần dày cộp như miếng cháy trong nồi cám và khi cần thì
vẫn giương bầu vú chưa bao giờ có sữa cho chúng nhay rứt đến rỉ máu.
Trong một góc khuất kín của đồng rừng, những khát vọng sống tựa như chiếc
váy thêu bảy màu cầu vồng, dù có bị cất giấu kĩ nơi đáy tủ thì vẫn biết cách để phát đi
những tín hiệu sống mãnh liệt nhất. Dù ở chợ xa hay trong những đêm sương lạnh, dù
đã góa bụa về già thì vẫn luôn còn đó tiếng đàn môi từ rất xa giống như mũi tên xuyên
qua sương dày đặc, lao đến. Tiếng đàn môi buồn rầu, trách móc…. Cả cuộc đời tủi
nhục của những người đàn bà khốn khổ ấy lúc nào cũng chỉ mong sống yên ổn trong
nghèo khó nhưng điều ấy chẳng dễ dàng gì. Họ hi sinh cho chồng con để nhận lại
những kết cục bi đát. Dáng đi lúc nào cũng lom khom, mặt không bao giờ dám ngẩng
cao và có những ước mong giản dị: “Người đàn bà sống trong thung lũng chật hẹp
không có ước muốn gì hơn là bữa nào nồi cơm trên bếp cũng sôi lục bục” [29, tr.31].
44
Chính Đỗ Bích Thúy đã viết và lý giải “...Tại sao tôi cứ viết về đàn bà, với
những cuộc đời rủi ro và số phận nghiệt ngã, với những cái bướu xấu xí và tấm lưng
còng gập? Tại sao những người đàn bà của tôi khi nào cũng phải sống trong những
nỗi khát khao lớn hơn dãy Tây Côn Lĩnh, sâu hơn đáy sông Lô - những nỗi khát khao
không gì nhấn chìm được, cũng không cách gì đạt tới được? Những cuộc đời đầy âu
lo, những năm tháng luôn phải đối mặt với thiên nhiên khốc liệt, cõi đời trắc trở, tình
yêu mong manh" [30, tr.7].
Người phụ nữ tần tảo là thế, lo toan vun vén cho gia đình, chăm sóc cho cha
mẹ, chồng con. Họ là biểu trưng cho cái đẹp, là đối tượng của thi ca, kiến tạo và tạo
dựng lên các giá trị tinh thần…nhưng họ lại bị xã hội ngược đãi, coi rẻ thân phận.
2.3. Thân phận người phụ nữ miền núi trong sáng tác của Đỗ Bích Thúy
2.3.1. Người phụ nữ không có quyền quyết định tương lai và số phận của chính bản
thân mình
Với những định kiến đã tồn tại từ lâu của cộng đồng về thân phận của những người
phụ nữ, họ hoàn toàn không có quyền quyết định tương lai của mình, đưa ra sự lựa chọn
của bản thân, tiếng nói của họ không có giá trị. Những người phụ nữ phải chịu ràng
buộc, phải chấp nhận, cho dù là khổ đau, là đi ngược với ước muốn của mình.
Đó là cô gái tên Súa trong Lặng yên dưới vực sâu. Súa là cô gái Mông xinh đẹp:
“Gái mười lăm như quả táo sắp chín còn Súa như một bát rượu nếp ủ kĩ, chưa cất
thành rượu, từ xa ngửi thấy đã say. Thế là, khi Súa đi qua, chiếc váy nhiều tầng rung
rinh theo nhịp lắc của cặp mông là tất cả đàn ông, kẻ có vợ và chưa vợ, đã uống say
cũng như đang cầm bát rượu trên tay, người trên ngựa thì ngã xuống đất, người dưới
đất thì ngồi phịch xuống lối đi… vồng ngực Súa trắng như hoa Bạch yến, bàn chân
nhỏ, eo nhỏ” [30, tr.30].
Không chỉ đẹp về ngoại hình, Súa còn là cô gái Mông đầy cá tính, giỏi giang và
vô cùng khéo léo. Súa là thợ săn giỏi, là thợ săn duy nhất không phải là đàn ông. Năm
nào khi đến mùa ngô, khỉ rừng về phá rất nhiều, không ai biết cách hay tài nào đuổi
được chúng, chỉ duy có mình Súa biết cách. Súa rất thông minh, nên cô được cả bản
tin cẩn giao cho nhiệm vụ canh nương ngô, bầy khỉ không dám bén mảng đến. Sau vụ
thu hoạch, dân bản lũ lượt đem những quẩy tấu ngô vàng óng sang nhà Súa để cảm ơn.
45
Là thợ săn giỏi, đồng thời Súa cũng là cô gái xe lanh dệt vải rất khéo, lúc nào cô cũng
có bó lanh trong tay “tay thoăn thoắt xe lanh” [30, tr.30]. Cá tính mạnh mẽ của Súa
còn thể hiện ở việc chỉ duy nhất mình Súa ở bản Mông này là dám cưỡi bò đực. Cô
Súa mạnh mẽ, đánh nhau với dê đực hung hăng từ nơi khác đến để bảo vệ đàn dê của
mình, thế nên mọi người gọi cô là “Gái bắt dê”.
Súa cũng có một tình yêu đẹp với chàng trai tên Vừ - một chàng trai Mông thực
thụ trên U Khố Sủ. Tuy nhiên, tình yêu của Súa và Vừ không trọn vẹn, Súa bị Tráng A
Phống lừa bắt làm vợ. Súa cứ nghĩ rằng người bắt mình chính là Vừ nên cô yên tâm ở
trong nhà của Phống. Khi phát hiện ra người bắt mình không phải là Vừ, Súa như chết
lặng, nhưng mọi sự đã quá muộn, cô không thể quay trở lại, bởi tục lệ Mông, đó là khi
đã bị bắt về nhà rồi, cúng ma và quét phép rồi, qua ba ngày không kháng cự thì cô gái
nghiễm nhiên đã là vợ, là người thuộc về bên nhà trai rồi “Súa thấy mình chẳng hơn gì
mấy con gà trống, mấy thằng trai cắp nách mỗi phiên chợ, chỉ cần đổi lấy một bát
thắng cố, mấy bát rượu là được” [30, tr.19]. Súa không có lối thoát vì tục lệ bắt vợ,
cuối cùng Súa phải chấp nhận làm vợ Phống.
Ban đầu, Súa có ý định giải thoát bản thân bằng cách nhảy xuống vực ngay trước
sân nhà Phống tự vẫn. Nhưng muốn chết cũng không chết được, bởi dưới vực, cha
Phống đã giăng sẵn tấm lưới chắn, Súa mắc lại ở đó. Tấm lưới tựa hồ như những sợi
dây vô hình bó chặt và quấn lấy Súa, đó là tập tục lỗi thời, là thứ lễ giáo và quan niệm
cổ hủ tiêu cực của cộng đồng, vây riết lấy người phụ nữ. Súa chua chát nhận ra: “Sống
không được như ý mình, chết cũng không được theo ý mình nốt?” [30, tr.34]. Súa vẫn
phải sống, nhưng không biết mình sống vì cái gì, và đúng như vậy bởi Phống: “chẳng
mấy chốc sẽ hóa thành con tắc kè bám trên người vợ… chỉ giữ được da thịt chứ không
giữ được tâm hồn” của Súa [30, tr.36]. Súa đã chết về mặt tinh thần, cô chỉ còn sống
với trạng thái sinh học của mình mà thôi.
Súa sẽ sống như một con bò trong ngôi nhà này, không vui cũng không buồn
nữa. Ban ngày đi làm, tối về ngủ, sáng hôm sau lại đi làm…y như một con bò. Tuy
nhiên, vì đã làm vợ nên Súa còn phải gánh vác thiên chức thiêng liêng mà tạo hóa đã
mặc định, đó là làm mẹ. Súa đã có thai đứa con của Phống. Và vì đứa bé, Súa không
thể lựa chọn giải pháp như ý mình được. Tình mẫu tử thiêng liêng đã chiến thắng, mặc
dù lúc đầu Súa tìm cách bỏ đứa trẻ. Đứa trẻ trở thành sợi dây buộc chặt Súa vào ngôi
46
nhà này “sợi dây này không cắt được, cũng không có cách nào làm nó đứt rời ra. Nó
sẽ tròng vào cổ Súa cho đến lúc chết” [30, tr.55-56].
Súa bị Phống đem ra vứt ở chuồng bò vào đêm đông lạnh giá vì Súa trơ như gỗ
đá: “Súa lồm cồm bò dậy, vụng về quấn tấm chăn che kín người. Nỗi uất ức xen lẫn tủi
hổ trào ngược từ bụng lên ngực làm Súa không thể chịu đựng nổi, cắn răng đến tê cả
hàm mà nước mắt vẫn trào ra” [30, tr.40]. Sự uất ức và tủi hổ đã lên tới đỉnh điểm
trong Súa.
Nỗi khổ vẫn chưa hết với Súa, người chồng của cô lại tiếp tục tàn phá tâm hồn
vợ, Phống ngoại tình, phản bội Súa. Súa phải đứng nhìn hành động phản bội của
Phống trong căn buồng cưới của mình, hai con người quấn lấy nhau trên tấm chăn do
chính tay Súa dệt từ năm 13 tuổi: “Súa cảm thấy trong bụng mình ruột gan đang nhào
lộn như có một bàn tay nào đó thò vào mà bóp, vặn. Nước miếng tứa ra đầy miệng,
sắp nôn ộc ra rồi” [30, tr.42]. Súa chết về mặt tinh thần, tâm hồn. Cô kinh tởm Phống,
thế nên, cứ mỗi khi nhìn thấy Phống là Súa lại nôn hết những gì có trong bụng ra. Cuối
cùng, Súa phải tránh mặt chồng. Nhưng dù kinh tởm đã lên tới đỉnh điểm, thì Súa vẫn
phải sống cùng Phống trong căn nhà này, đó thực sự là điều kinh hoàng mà người phụ
nữ như Súa phải gánh chịu. Súa trở thành con người trống rỗng, trở thành cái bóng
“biết đi lại, làm lụng, nấu nướng, cho con bú, nựng con ngay trước mặt mà Phống
không sao chộp lấy được” [30, tr.56]. Súa chỉ còn lại tình mẫu tử, là mẹ của thằng
Chá, và Nhí, em gái của Phống, người duy nhất để cho Súa tâm sự.
Có thể nói, số phận người phụ nữ chỉ như hạt tuyết nhỏ nhoi, như cái nhắm mắt
của Súa khi nhảy xuống vực sâu để phó thác cho số phận. Nhưng Súa càng vùng vẫy
thoát ra thì lại càng bị mắc chặt vào nó. Những đứa con giống như những sợi dây buộc
chặt Súa vào người chồng ấy, vào gia đình ấy. Cuộc hôn nhân không tình yêu chôn vùi
cả cuộc sống và tâm hồn người phụ nữ, như “bông anh túc rực rỡ mà héo úa” trong
cái lặng yên đến vô cùng của vực sâu. Dường như những tư tưởng giải phóng cho
người phụ nữ, giải phóng cho cuộc sống tự do theo nguyện ước của con người… còn ở
đâu đó rất xa cái xứ này. Cuộc sống ở miền núi heo hút với những trì níu nặng nề của
những hủ tục khiến con người bị trói buộc trong một tấm lưới vô hình không thể nào
thoát ra được.
47
Người phụ nữ bất hạnh còn là nhân vật Mẹ già trong truyện Tiếng đàn môi sau
bờ rào đá - đó là cô gái tên Mao, khi xưa là người phụ nữ đẹp và rất mực khéo léo.
Mao tự dệt cho mình một bộ váy thêu bảy màu như cầu vồng “Ngày ấy, cả vùng này
biết tiếng cô Mao đẹp người, nết cũng đẹp, con gái bản trên làng dưới không ai dám
nhận mình thêu thùa, dệt vải vừa nhanh vừa đẹp như cô” [28, tr.20]. Mao cũng đã tìm
được người yêu, họ yêu nhau say đắm, người yêu Mao thổi đàn môi rất giỏi, tiếng đàn
môi ngọt ngào, tiếng sáo cũng thế. Nhưng cuối cùng, tình yêu của họ cũng không đến
được với nhau, bởi chàng trai kia quá nghèo nên không đủ khả năng đáp ứng đồ thách
cưới theo như bố mẹ Mao yêu cầu.
Với yêu cầu thách cưới cao như thế thì “Cả vùng này chỉ có nhà anh Chúng
chồng đủ bạc trắng, đủ gạo, rượu như bố mẹ Mao thách cưới, vậy là Mao về làm dâu
nhà Chúng” [28, tr.20]. Mao bị cha mẹ gả bán vì cái lợi vật chất, Mao không có quyền
lựa chọn, không ai đoái hoài hay quan tâm đến suy nghĩ của Mao, tương lai của cô do
người khác định đoạt, do những đồng bạc trắng lạnh tanh quyết định “Trước ngày
cưới, cả đêm tiếng chân ngựa bồn chồn ngoài bờ rào đá làm Mao thức trắng. Mờ sáng
thì con ngựa ấy bỏ đi, một lúc sau thì tiếng đàn môi cất lên từ sau hẻm núi… Tiếng
đàn môi buồn rầu, trách móc. Mao lặng lẽ khóc, từ hôm ấy Mao không bao giờ nghe
tiếng đàn môi dành cho riêng mình nữa” [28, tr.20,21].
Người đàn bà tên Kía trong truyện Gió không ngừng thổi - một người con gái
Mông xinh đẹp, về làm dâu nhà Sùng, khi nhà chồng bỏ ra 200 đồng bạc trắng để lấy
được Kía về làm dâu. Kía gần như là được “mua về nhà chồng”. Khi Kía về nhà
chồng, bảy năm sau mới sinh được đứa con gái là Sèn, sau đó mãi vẫn không sinh
thêm được đứa con nào nữa. Chồng Kía là Sùng - là người đàn ông duy nhất trong
dòng họ vì thế mọi áp lực đều dồn lên vai Kía. Mẹ chồng chạy chữa thuốc thang cho
Kía nhưng Kía không thể có con. Kía bị ví như con bò đực “con dâu cứ như con bò
đực, không đẻ nữa” [28, tr.34]. Nhưng sự thực, nguyên nhân không sinh được con
không phải là do Kía, mà là do người chồng, bởi: “Tại sao một người đàn bà không
đẻ được nữa lại cứ nở ra như một bông hoa chuối đỏ rực, căng mọng thế này?” [28,
tr.38]. Sau đó, trong một lần đi làm nương về muộn, Kía bị Vàng Chỉn Tờ bên Khau
Bủng cưỡng bức, Kía đã có thai. Và cả cuộc đời còn lại của Kía cho đến lúc cuối đời
đều sống trong sự đau đớn, dằn vặt.
48
Cô bé Mai hồn nhiên vô tư, xinh đẹp “là bông hoa sắp nở rực rỡ nhất trường”
[28, tr.74] trong truyện Cạnh bếp có cái muôi gỗ, mặc dù vẫn muốn đi học vì Mai đã
đem lòng thương thầm cậu trai cùng lớp nhưng đang học dở thì bố mất Mai vẫn phải
nghe theo lời mẹ bỏ học và chấp nhận lấy người ta, để gia đình Mai có rể, có người lao
động trụ cột “Các em Mai đã đi lấy chồng hết, nhà chỉ có một đàn ông là chồng Mai,
con rể cả. Hai vợ chồng ngày lên nương, tối về hầm ngô nấu rượu, phiên chợ Lũng
Phìn cho ngựa thồ ra chợ bán” [28, tr.74], “Tiếc chứ, nhưng nhà không có người làm,
phải lấy nó về mang bò lên nương” [28, tr.76]. Mai cũng như những người phụ nữ
miền núi, không có quyết định cho số phận của mình “Đàn bà Thài Phìn Tủng nói ít
làm nhiều, không mấy khi buồn cũng không mấy khi vui. Cúi mặt từ tờ mờ sáng đến
đêm khuya. Cái lưng cong mãi” [28, tr.77]. Hôn nhân không tình yêu, không được
chọn lựa cuối cùng cũng tan vỡ khi chồng Mai bỏ bốn mẹ con bơ vơ để đi lấy người
đàn bà khác, Mai phải cam chịu và chấp nhận “Nó đi làm ăn rồi, xa lắm. Chắc Tết
cũng không về. Đứa út này đã được đặt tên đâu. Nó muốn con trai, đẻ nữa thì không
có gì nộp phạt” [28, tr.78].
Đó là cô gái Kía trong Con dê bốn mắt, đáng ra đã làm vợ Dí vì Kía và Dí yêu
nhau. Nhưng cha mẹ Kía không đồng ý, mặc dù nhà Dí rất giàu, bao nhiêu bạc cũng
có, thách cưới thế nào cũng sẽ đáp ứng…nguyên nhân là bởi cha Kía đi xem bói, thầy
bói bảo Kía phải lấy người đàn ông có con dê trắng bốn mắt thì mới tốt và sung sướng
“Nói cũng khó, không nói cũng khó. Thế này, tháng trước con Kía nhà này bị ốm, tôi
phải đi mời ông then về, ông then bảo nó phải lấy một thằng trai dắt theo con dê trắng”
[28, tr.85]. Và người có con dê trắng bốn mắt đã xuất hiện, đó là Chảo A Chay - một
trai Mông nhà nghèo. Rất tự tin, Chảo A Chay một mình một dê đến thẳng nhà bố mẹ
Kía mà không cần người mối lái. Bố mẹ Kía chấp nhận Chảo A Chay, nhưng Kía thì
không “Kía cầm con dao nhọn hoắt, sáng loáng, ngồi lì trong buồng, nói vọng ra: - Bố
mẹ mà cho thằng ấy vào nhà là con đâm dao vào bụng, chết luôn” [28, tr.86]. Cuối
cùng, cả Dí và Chay đều không lấy được Kía. Đằng sau câu chuyện về Kía chính là
những hủ tục lạc hậu lỗi thời của cộng đồng, là sự mê tín, mê muội vào việc bói toán,
tin vào sự phán xét và kết luận của thầy cúng, thầy bói đã định đoạt luôn cả tương lai
của con người, nhất là tương lai của những người phụ nữ.
49
Số phận của cô gái mười bảy tuổi là Chía trong Cột đá treo người cũng vô cùng
bất hạnh. Chía phải gánh chịu những đau thương bởi cô phải giúp cha mẹ trả nợ cho
nhà lý trưởng, phải hy sinh để cứu cha mẹ và các em. Cô bị đẩy xuống làm chân cắt cỏ
ngựa, chăn ngựa “người toàn mùi nước đái ngựa” [28, tr.94], bị con trai lý trưởng là
thằng Lềnh khinh rẻ, mắng nhiếc, bị lý trưởng lợi dụng. Chía yêu Váng nhưng rồi cô
cũng bị cướp mất người yêu “Ngày hôm sau Váng bị mang ra cột đá” [28, tr.97]. Đó là
cây cột mà lý trưởng cho dựng lên để hành quyết những người có tội “Người bị xử tử
sẽ phải đút hai cánh tay vào đấy, treo người lên, đàn ông thì úp mặt vào cột, đàn bà
thì quay lưng lại, mặt nhìn ra vực. cứ treo như thế cho đến chết” [28, tr.97]. Sự tàn bạo
của chế độ phong kiến thần quyền miền núi đã chà đạp phá vỡ hạnh phúc, cuộc đời
của biết bao người dân miền núi vô tội, trong đó có cha mẹ Chía và chính bản thân
Chía. Họ không có lối thoát và không quyết định được tương lai và số phận mình, nhất
là những thân phận nhỏ bé nhất trong xã hội - những người phụ nữ. Ngay cả cái chết,
một giải pháp cuối cùng, họ cũng không thể, bởi “trước mặt Chía là vực sâu, sau lưng
Chía là cha mẹ” [28, tr.99]. Nếu Chía chết thì cha mẹ và các em Chía sẽ chết theo vì
chưa trả hết nợ cho nhà lý trưởng. Cuộc đời của những người phụ nữ miền núi như
Chía đầy đau thương và bất hạnh. Đến cái chết để giải thoát cho mình cũng không thể
bởi bao nhiêu những ràng buộc. Chía đã chấp nhận hi sinh để cứu gia đình, cứu cha mẹ
và các em.
Vi trong Giống như cái cối nước là cô gái xinh đẹp, giỏi giang và khéo léo, hát
hay “Và tiếng hát của Vi đã bay lên cao, cao hơn cả chiếc mâm đỏ ngất ngư, cao hơn
cả những quả còn có tua rua đỏ vun vút đan vào nhau, chạm vào một quả còn của
người thắng cuộc” [28, tr.142]. Nhưng không ai dám đến với Vi, lấy Vi làm vợ, bởi lời
đồn khắc nghiệt, mê tín rằng “Có người Tả Chải định lấy làm vợ đấy, nhưng bố mẹ
cấm. Ái chà, thấy bảo nhà ấy bốn năm đời nghèo không đủ ăn, người giàu lấy vào
cũng nghèo theo, đói lắm” [28, tr.144]. Một cô gái giỏi giang, xinh đẹp như Vi, đáng
ra phải được hưởng hạnh phúc mới đúng, nhưng Vi lại phải gánh chịu nỗi bất hạnh,
bởi cái niềm tin mê muội của người đời, gán cho gia đình Vi. Vi vỡ vụn: “Vi đã hóa
thành một cái bóng, lầm lũi làm lụng” [28, tr.145], “Vi lên nhà, mỗi bước chân nặng
như đeo đá” [28, tr.138]. Vi day dứt vì “Chỉ tại Vi thôi. Chỉ tại Vi như cái cánh cửa
đóng chặt khiến các em không thể ra khỏi nhà. Nếu có một người nào đó chịu lấy Vi,
50
là một ông già hay một thằng trai cụt chân, chột một mắt, chấp nhận lấy Vi, thì Vi sẽ
đồng ý ngay ” [28, tr.145,146].
Cuối cùng, năm Vi hai sáu tuổi cũng có một chàng trai đẹp đến lấy Vi làm vợ.
Nhưng sau này, Vi vô cùng đau xót khi biết cha mẹ mình phải các tiền cho người ta,
để họ lấy con mình. Cha mẹ đã bán hết cả đất đai để có 200 đồng bạc trắng các cho
người lấy Vi. Rồi Vi bị chính các em mình căm ghét, lời của thằng em thứ tư là Sài
như mũi dao đâm vào tim Vi: “Chị không biết thật hay giả vờ không biết thế? Bố mẹ
bán đất để lấy hai trăm đồng bạc trắng gả chồng cho chị chứ làm gì. Cả mấy con trâu
nữa, cả đàn dê nữa, đã hai vụ không có trâu cày rồi, chị nhiều tiền thì mua cho nhà
một con trâu đi. Không có hai trăm đồng bạc ấy thì ai dám lấy chị? Thế mà lấy được
chồng rồi, sướng quá, quên cả đường về, cả nhà mong mãi, mờ cả mắt rồi…” [28,
tr.148-149]
Mảnh đất của cha mẹ là tài sản lớn nhất được truyền lại từ đời ông bà Vi, để cho
Vi có được chồng, có được đôi bàn chân trắng mịn. Có lẽ Vi sẽ chết nốt về mặt thể
xác, còn tâm hồn cô đã không còn tồn tại: “Bạch yến mọc hai bờ suối đang nở hoa
bừng bừng, nhưng Vi không thấy mùi thơm của nó mà chỉ thấy đắng ngăn ngắt trong
cổ” [28, tr.149]. Vi sẽ sống ra sao, sau khi biết được sự thật này.
Đó là chị em Nhi, là Liêu trong Mần tang mọc trong thung lũng - những cô gái
Tả Gia xinh đẹp và giỏi giang nhưng phải chịu đựng nỗi khổ tinh thần, sự giày vò của
người đời. Ai cũng đẹp cũng phơi phới thanh xuân, nhưng không ai yêu họ, dám thổ lộ
với họ bởi bên ngoài đồn đại rằng, Tả Gia là vùng đất dữ và người Tả Gia là không tốt,
không thể lấy họ làm vợ hay làm chồng được. Vì thế những cô gái này không được
sống với trạng thái rất đỗi bình thường của tuổi trẻ, đó là được sống và được yêu “Sau
hôm đi chợ về chị em Nhi như người quên nói. Váy áo đẹp lại mang cất vào hòm cả
rồi, lên nương cũng không thèm quấn xà cạp nữa” [28, tr.192]. Họ không có cách nào
thoát ra được lời đồn đại khắc nghiệt đến từ sự cục bộ, kém hiểu biết “Người bản
ngoài bản trong sợ Tả Gia, không ai dám đến. Lâu lắm Tả Gia không có đám cưới”
[28, tr.182]. Thời gian sẽ bào mòn và giết chết tuổi thanh xuân của những cô gái kia,
không được yêu, không được làm vợ, không được làm mẹ “Con gái Tả Gia à! Con gái
Tả Gia thì sao chứ? Nhìn xem cả chợ có ai đẹp bằng con gái Tả Gia không? Có ai bán
51
hạt ngô to thế này không? Có ai dệt vải khéo thế này không?” [28, tr.189]. Họ sống lay
lắt như những cây “Mần tang mọc trong thung lũng”.
Trong truyện Ngựa ngã núi là sự đáng thương của Dính - cô gái Mông xinh đẹp
và chăm chỉ: “Đôi chân bé bé đi trong giày vải xanh, quấn xà cạp trắng, váy lanh
trắng tinh, áo hoa có kim tuyến lóng lánh…Nhìn lên nữa, cặp má như vừa cời ở bếp
ra, ba tấm khăn vấn thật khéo, tròn vành vạnh” [28, tr.233]. Dính đem lòng yêu anh
chàng Dúng, và gia đình Dúng cũng đã nhờ người mai mối sang nhà bố mẹ Dính mở
lời, nhưng nhà Dính không đồng ý, bởi ông cậu Dính chê gia đình Dúng nghèo. Cha
mẹ và dòng tộc nắm quyền quyết định và định đoạt hạnh phúc lứa đôi “Nhưng đến lúc
Mềnh dinh lấy thuốc của mình ra mời thì ông cậu không nhận. Ông cậu không nhận là
cả nhà Dính không nhận rồi” [28, tr.234]. Cả Dúng và Dính đều không làm được gì
để thuyết phục hay chống lại sức mạnh đè nén đó.
Rồi còn vì sĩ diện của người lớn, không muốn làm con chó cụp đuôi, nên bố mẹ
Dúng không nhờ mai mối sang nhà hỏi Dính lần nữa “Mềnh dinh chỉ đi một lần, không
được thì thôi, bố mẹ Dúng cũng không nhờ nữa” [28, tr.234]. Khi Dính bảo Dúng cứ
nhờ mai mối lần nữa, để Dính nhờ bà cô thuyết phục ông cậu của mình, Dúng lao đi
kiếm tiền, bằng cách đi khắp các vùng Mông mua ngựa trắng bán lại cho người Kinh
để nấu cao. Khi đã lùng hết vùng cao nguyên đá mà vẫn còn thiếu duy nhất một con
ngựa trắng nữa là đủ, Dúng sẽ đủ tiền mua xe máy, đủ vốn để mở quán thắng cố dưới
chợ, và sẽ lấy Dính. Con ngựa bạch duy nhất đó lại đang ở trong chuồng ngựa của nhà
Dính, Dúng quyết định sang nhà Dính ăn trộm con ngựa bạch đang ốm, già sắp chết.
Cuối cùng, con ngựa rơi xuống vực chết, và rất không may, Dúng đánh rơi cái mũ nồi
ngay đó. Dính biết thủ phạm là ai, tình yêu tan vỡ, Dính lấy Vừ. Đằng sau câu chuyện
này chính là sức mạnh vô hình của lễ giáo và hủ tục, cùng với sức mạnh đồng tiền, đã
kẹp chặt, ngăn cản con người, ngăn cản tình yêu lứa đôi, khiến con người phải làm
việc rẻ rúng, bất lương trên chính quê hương mình.
Sức mạnh của hủ tục, lễ giáo, cộng đồng không chỉ khiến cho con người - nhất
là người phụ nữ không thể quyết định được tương lai của mình, thậm chí còn vùi dập
số phận của họ trong bùn đen tủi khổ. Đó là cô Kim trong Bóng của cây sồi không làm
sao rũ sạch được lời nguyền và sự mặc cảm bản thân khi bị cộng đồng bài xích, không
coi Kim là người, bởi dòng máu trong người Kim không đỏ như máu người mà là màu
52
đen, là dòng máu của tội lỗi. Bà Kim, mẹ Kim và giờ tới lượt Kim vẫn phải chịu đựng
thành kiến đó “Mẹ Kim đã đi vào vết chân của bà ngoại Kim, Kim cũng không tránh
được vết chân của mẹ. Mẹ đã nhìn thấy rõ điều ấy. Lúc chết, Kim vuốt mãi mà mắt bà
không nhắm lại được, đành để như thế mà đưa vào quan tài” [29, tr.20,21]. Ngay cả
tới lúc mẹ Kim đã chết, người làng vẫn không chấp nhận mẹ con Kim, mộ mẹ Kim
phải chôn ở rìa ngoài của làng. Vì lời đồn và nhất là thành kiến của lễ giáo mà Phù -
người yêu Kim cũng không dám vượt qua cái bóng khổng lồ đã phủ đen số phận con
người để đến với Kim. Kim là cô gái cá tính, nhưng cô cũng không làm được gì để
thay đổi số phận mình, cô bị cộng đồng xa lánh, và cuối cùng bị xã hội xô đẩy, tha hóa
và vùi dập.
Truyện Sau những mùa trăng lại là hình ảnh của người phụ nữ phải phải sống
cam chịu để cho tuổi thanh xuân trôi qua một cách uổng phí. Đó chính là người chị
dâu của Lìn. Chị dâu lấy anh Lân từ khi còn là một cô bé đương dậy thì, không lâu sau
thì chồng chết do bị lợn rừng húc khi đi trông nương. Cuộc sống của chị vô cùng vất
vả “Chị dâu tôi còn phải gùi nhiều hơn người khác, gùi thay cả mẹ, thay cả tôi. Chẳng
biết đến bao giờ mới thôi không gùi nữa. Từ sáng sớm đến tối mịt cái lưng chỉ thẳng
ra mỗi lúc ngủ” [28, tr.334]. Khổ hơn là chị phải thui thủi sống một mình, không dám
đi bước nữa. Ngày nào cũng có người thổi khèn lá với lời lẽ bi thương và tình yêu say
đắm dành cho chị nhưng chị lảng tránh “Bất chợt tiếng khèn lá đêm hôm trước lại dội
lên, chị luống cuống bê thùng cốm đi như chạy lên cầu thang, suýt vấp ngã. Chị cài
chặt then cửa, lao vào buồng, tôi còn nghe tiếng thở dồn dập rất lâu” [28, tr.341]. Chị
không dám quyết định, không dám nói ra cảm xúc và suy nghĩ thật của mình, bởi lời
của mẹ chồng nói với Lìn khi chú Phin sang nói chuyện với chị dâu về người thổi khèn
lá gọi chị Lân “Tao làm dâu họ Bàn, nó cũng là dâu họ Bàn, chết đi làm ma họ Bàn.
Muốn gì cũng không được đâu” [28, tr.343]. Lời nói đó là tuyên ngôn của sự mặc
định, đóng đinh thân phận những người phụ nữ vào trách nhiệm với dòng họ bên nhà
chồng cho tới chết. Chị chỉ còn biết khóc cho vơi đi nỗi khổ của mình “Tiếng khóc bật
ra như nước lũ thượng nguồn không gì ngăn được. Khóc như để trôi đi những bức bối
trong lòng. Nước chảy ròng ròng trên gương mặt bợt bạt, rớt xuống ngực áo” [28,
tr.345].
53
Trong tiểu thuyết Chúa đất là sự đáng thương của Xính - cô gái Mông xinh đẹp,
giỏi giang, khéo léo, hát hay, có một tình yêu đẹp với Vàng. Nhưng bất hạnh thay,
cũng từ một lần Xính ngồi hát cho người yêu nghe, chúa đất đi qua và nghe được tiếng
hát “Chưa bao giờ chúa đất nghe thấy tiếng hát nào giống như thế. Tiếng hát giống
như một dòng suối trong vắt, chảy trên những viên đã đầy màu sắc, dưới ánh nắng
vàng như mật ong, thỉnh thoảng một con cá nhỏ sáng lấp lánh quẫy lên…” [32,
tr.112]. “Chưa bao giờ chúa đất nghe thấy tiếng hát nào giống như thế. Tiếng hát
giống như một dòng suối trong vắt, chảy trên những viên đã đầy màu sắc, dưới ánh
nắng vàng như mật ong, thỉnh thoảng một con cá nhỏ sang lấp lánh quẫy lên…” [32,
tr.112]. Khi bắt gặp chúa đất, Xính vội vàng lấy đất bôi lên mặt song đã quá muộn
“Mặt Xính kia, hồng hào mịn màng. Đôi mắt Xính, miệng Xính, hàm răng của Xính,
hai cái tai nhỏ của Xính…tất cả đều có thể mang đến tai họa” [32, tr.114]. Xính
không thể thoát khỏi chúa đất, khi chúa đất phát hiện ra vẻ đẹp và giọng hát của Xính
“Trời như tối sầm. Gió như ngừng thổi. Những bông hoa cúc đỏ như đang tàn rụng tơi
tả. Tiếng chim họa mi tắt lịm như bị cắt cổ” [32, tr.114]. Kể từ đây, cuộc đời Xính đi
vào đau khổ.
Chúa đất luôn miệng nói với cha Xính rằng “Dinh thự nhà chúa đất chính là
mảnh đất tốt nhất Đường Thượng, ông cứ yên tâm mà gieo hạt giống xuống”. Nhưng
thực ra “Ai mà không biết hạt giống tốt mấy, gieo xuống đấy rồi cũng từ từ thối rữa,
mục nát, không thể nảy mầm” [32, tr.133]
Cha mẹ Xính và cả Vàng nữa không có quyền và không đủ sức để giấu Xính, bảo
vệ Xính, bởi Chúa đất khét tiếng độc ác, tàn bạo, có quyền thế trong tay, được toàn
quyền định đoạt tính mạng con người. Một lần nữa chế độ phong kiến, thổ ty, phìa tạo
miền núi lại vùi dập số phận con người, họ không thể quyết định được tương lai, nhất
là những người phụ nữ đáng thương.
2.3.2. Người phụ nữ phải chịu nhiều thiệt thòi, áp lực trong gia đình, dòng
họ, cộng đồng
Khi đã làm vợ, làm mẹ, dù muốn hay không, người phụ nữ còn phải gánh chịu
hàng loạt những áp lực khác, từ gia đình, dòng họ, cộng đồng. Người phụ nữ bị coi
như là con rùa trong nhà, người có đôi mắt bé tí, không nhìn xa được nên suốt ngày chỉ
54
lo cơm nước, nương rẫy và chăm sóc gia đình, đầu tắt mặt tối, đó là không gian dành
cho họ, được xã hội mặc định. Phụ nữ phải gánh vác trọng trách lớn lao là sinh con trai
cho nhà chồng, để có người nối dõi dòng họ. Với những khung cứng đóng đinh người
phụ nữ lại như vậy, họ đã phải chịu biết bao khổ cực, sự nghiệt ngã tột cùng.
Đó là Súa trong Lặng yên dưới vực sâu phải tủi cực chung sống cùng chồng,
phải chứng kiến cảnh chồng mình là Phống phản bội mình, Súa kinh tởm, nôn ói - sự
phản ứng vượt ngưỡng chịu đựng của bản thân “Súa cảm thấy trong bụng mình ruột
gan đang nhào lộn như có một bàn tay nào đó thò vào mà bóp, vặn” [30, tr.42]. Súa bị
Phống coi như con vật, bị chồng đem vứt ra chuồng bò, Súa thấy tủi hổ và uất ức vô
cùng. Nhưng người đàn bà tên Súa vẫn phải chịu đựng, lặng lẽ và trống rỗng, khô héo
lụi tàn dần đi, Súa không buồn cũng không vui. Súa sống như một cái xác không hồn,
chỉ còn da thịt mà thôi “Đằng này Súa y như một cái bóng. Cái bóng biết đi lại, làm
lụng, nấu nướng, cho con bú, nựng con, ngay trước mặt mà Phống không sao chộp lấy
được” [30, tr.56]. Rồi sau này, khi Phống tự tử, cuộc sống đã thực sự dừng lại với Súa,
bởi người ở lại là người đau khổ và dằn vặt nhất, Súa nghĩ rằng Phống chết là do Súa,
lương tâm Súa chịu sự dằn vặt ghê gớm “Cuộc sống đã dừng lại. Súa chỉ cảm thấy duy
nhất điều đó, khi gió từ đáy vực đang thốc ngược lên” [27, tr.106].
Đó còn là người phụ nữ day dứt đến tột cùng vì không sinh được con trai cho
chồng trong Những buổi chiều ngang qua cuộc đời. Cô cũng đã sinh nhưng chỉ là bốn
cô con gái, giờ cô đã khô héo và không thể sinh thêm được nữa “Như mọi người đàn
ông khác ở làng, anh lo thiếu người đội mũ rơm chống gậy. Chỉ có một nỗi chờ đợi ấy
thôi mà tôi không làm được” [28, tr.257]. Tuy chồng rất thương yêu cô, nhưng tự bản
thân cô thấy có lỗi và dằn vặt, cô thành người điên dại.
Nhất là trạng thái day dứt, dằn vặt, vật vã trong khao khát được làm mẹ, trong
khổ đau, trong sự cam chịu cùng cực của người mẹ già (Mao), trong truyện Tiếng đàn
môi sau bờ rào đá. Mao không sinh được con cho nhà chồng. Mẹ chồng và ông Chúng
rất thương Mao, điều đó khiến Mao càng khổ sở, day dứt hơn, cứ nghĩ rằng mình đã có
tội lỗi lớn với nhà chồng. Khi Chúng có người đàn bà khác là Hoa, Mao chấp nhận
trong đắng cay dâng trào: “Mao lặng lẽ chuyển đồ đạc của mình sang căn buồng của
mẹ chồng trước kia” [28, tr.22]. Mao nhường lại chồng cho người đàn bà kia, vì Mao
thấy day dứt do không sinh được con. Sự đớn đau lẫn phẫn uất của Mao thể hiện qua
55
ánh mắt của cô khi nhìn Chúng thật đặc biệt: “Mao nhìn vào mắt Chúng, nhìn thẳng.
Chúng không chịu được ánh mắt Mao phải quay mặt để Mao bước ra” [28, tr.23]. Từ
thời khắc đó, Mao sụp đổ, thất vọng và chết lặng, Mao trở thành con người lầm lũi
trong gia đình.
Khi May ra đời, mặc dù là con của ông Chúng và mẹ Hoa, nhưng May lại sống
bám lấy mẹ già, sau là thằng Trài, em May cũng vậy. Mẹ già cáng đáng hết việc gia
đình, chăm sóc và dạy dỗ hai đứa trẻ rất chu đáo và rất mực yêu thương chúng, mặc dù
chúng không phải là con đẻ của mình. Bàn tay với vết chai dày cộm như miếng cháy
trong nồi cám của mẹ già đêm nào cũng xoa lưng cho hai chị em May dễ ngủ “Bàn tay
mẹ già đã chai càng chai thêm, vết chai dày cộp như miếng cháy trong nồi cám. Đêm
nào mẹ già cũng lấy hai bàn tay đầy vết chai ấy xoa lưng cho hai chị em May dễ ngủ”
[28, tr.25]. Ngay cả khi mẹ Hoa về lần cuối và ra đi cùng với con bò cày của gia đình,
mất bò, người phải làm thay “Vụ mùa năm ấy, vụ sau nữa, hai bố mẹ May phải mang
cuốc đi cuốc đất thay bò” [28, tr.25]. Thế nhưng mẹ già cũng không hề oán trách gì cả
mà còn khuyên bảo May nói chuyện với mẹ Hoa và răn dạy May lẽ sống ở đời “Không
được thế con gái à. Mẹ Hoa chứ có phải là người lạ gặp ngoài đường đâu. Lâu quá nó
mới về nhà, nhưng con gái vẫn không quên đâu, phải thế không?...Chuyện cũ đừng
nhắc nữa, cái gì cần nhớ hãy nhớ, cái gì nên quên phải biết quên. Hôm qua trời mưa
nước suối đục, nhưng không đục mãi được. Con người cũng thế”[28, tr. 19,20].
Mẹ già là người rất đỗi nhân hậu, vị tha, nhưng cũng là người phụ nữ phải gánh
chịu nhiều khổ đau nhất, mẹ già luôn day dứt: “Làm dâu mà không làm mẹ thì chỉ là cái
cục đá kê chân cột nhà chồng thôi. Ở hai mươi, ba mươi năm, ở đến lúc chết cũng chỉ là
cục đá kê cột thôi” [28, tr.30]. Mẹ già là người phụ nữ không có lối thoát, phải chấp
nhận và chịu đựng sự đau khổ tột cùng, thân thể và vóc dáng khô héo và chai sạn lại.
Đó còn là áp lực kinh hoàng mà Kía phải gánh chịu, day dứt trong Gió không
ngừng thổi nhất là khi mẹ chồng cô, trước lúc chết đã dặn người con dâu là Kía, lời
trăng trối cũng là món nợ lớn nhất mà đời Kía chưa trả được cho nhà chồng “Bằng mọi
cách phải có một đứa con trai, phải giữ được đất của họ Thào ở Lũng Pục, phải có
người thờ cúng tổ tiên, nhớ chưa” [28, tr.35]. Kía nước mắt ròng ròng, không nói được
câu nào, chết lặng nhìn mẹ chồng ra đi. Rồi khi Kía bị Vàng Chỉn Tờ bên Khau Bủng
cưỡng bức dẫn đến mang thai, Kía cảm thấy vô cùng tủi nhục “…thế thì có tội lớn
56
quá, thế thì có chết khô bảy lần, có chết ướt mười lần cũng không gột rửa hết” [28,
tr.40]. Nhất là đứa bé đó là con trai, sẽ là người nối dõi của dòng họ nhà chồng, đứa bé
trai là nỗi sợ hãi lớn nhất của Kía đã trở thành sự thực “Thế là thằng Chá cứ lớn lên
trong nỗi sợ hãi sâu thẳm của mẹ nó” [28, tr.44]. Kía day dứt, đấu tranh tư tưởng và
lúc nào cũng có cảm giác tội lỗi. Kía lo sợ một ngày chồng mình sẽ phát hiện ra sự
thật, đó là điều kinh hoàng đối với Kía và với cả chồng cô. Kía day dứt vì nghĩ mình
có tội với chồng. Đến khi ốm nặng, sắp về với tổ tiên, Kía vẫn rất day dứt, vì ông
Sùng càng thương yêu bà bao nhiêu thì bà càng day dứt bấy nhiêu, bà muốn nói ra sự
thật với chồng để nhẹ lòng, sau mười bảy năm chịu đựng “Bà biết mình sắp đi theo tổ
tiên rồi. Trước lúc đi, nhất định bà sẽ nói sự thật cho ông Sùng biết. Phải nói cho ông
ấy biết thì bà mới nhắm mắt được, sang bên kia mới dám nhìn mặt bố mẹ chồng. Nhất
định bà sẽ nói” [28, tr.47].
Không chỉ có Kía day dứt, mà đứa con gái của bà là Sèn cũng phải chịu đựng cái
cảm giác đó, bởi Sèn là người chứng kiến cảnh mẹ mình bị hãm hiếp và biết em trai
mình không phải là giọt máu của bố Sùng. Điều đó khiến Sèn lo sợ: “Mọi dồn nén của
bao nhiêu năm đã phút chốc vỡ vụn ra làm Sèn bải hoải, rụng rời. Mười bảy năm nay
lúc nào Sèn cũng nơm nớp lo một ngày bố biết sự thật, bố sẽ giết chết mẹ, giết chết
thằng Chá mất” [28, tr.49]. Nhưng thực ra, bố Sùng đã biết chuyện từ lâu rồi. Cũng
chính vì nỗi sợ này, Sèn không dám đi lấy chồng, Sèn bị ám ảnh, không tin vào bất cứ
người đàn ông nào, trừ bố mình ra. Sự ám ảnh của Sèn giống như cái điều đã xảy ra
với mẹ mình cũng hoàn toàn có thể xảy ra với chính Sèn. Người phụ nữ luôn luôn phải
gánh chịu những rủi do và khổ đau như vậy. Nếu không quá nặng tư tưởng bắt buộc
phải sinh được con trai để nối dõi thì Kía đã không đau đớn và day dứt đến thế, vì Kía
đã làm mẹ và sinh cho ông Sùng một người con gái là Sèn rồi.
Số phận của những người phụ nữ miền núi mặc dù chịu nhiều khổ đau, nhưng
cũng không được phép nói ra, kêu cứu, họ phải lầm lũi chịu đựng như thể đó là
những gì thuộc về họ một cách tự nhiên. Người phụ nữ phải gánh chịu và chấp nhận,
số phận và cuộc đời họ như dòng nước chảy ngầm dưới đá, thậm chí trở thành nét
tính cách riêng của họ “Thế nên đàn bà Thài Phìn Tủng có ở trong nhà hay đi ra khỏi
nhà chỉ nhìn trên mái tranh có khói bếp bay lên hay không mới biết. Đàn bà Thài
57
Phìn Tủng nói ít làm nhiều, không mấy khi buồn cũng không mấy khi vui. Cúi mặt từ
mờ sang đến đêm khuya. Cái lưng cong mãi” [28, tr.77].
Vì nhà nghèo, Mai trong Cạnh bếp có cái muôi gỗ phải bỏ học lấy chồng từ
năm mười bốn tuổi. Mai không sinh được con trai cho nhà chồng, cô sinh được ba cô
con gái. Khi đứa con gái út mới được bốn tháng tuổi thì chồng bỏ đi làm ăn xa,
nhưng thực ra là bỏ mẹ con Mai. Anh ta xuống chợ Lũng Phìn lấy người đàn bà khác
và có con trai. Mai cam chịu, ở nhà tần tảo nuôi con trong thiếu thốn. Người đàn ông
được mặc định cái quyền có thể rũ bỏ tất cả, vợ con máu mủ của mình để đi theo khát
khao là có được cậu con trai. Ba cô con gái kia cũng không là gì so với cậu con trai,
huống chi là người vợ già nua tàn lụi như Mai. Hình ảnh cái muôi gỗ đã mòn vẹt đi
bên bếp lò và người mẹ của ba đứa trẻ nheo nhóc “Mai mặt cúi gằm, tóc xù ra ngoài
vành khăn” [28, tr.79] cho thấy sự thiếu thốn tình cảm, sự đau khổ mà người mẹ trẻ
phải gồng mình lên chịu đựng.
Đó còn là áp lực của chế độ thối nát, khi mà đồng bạc trắng có thể mua được tất
cả, quyết định tất cả, vùi thân phận con người xuống bùn đen, làm kiếp trâu ngựa. Đó
là cô gái mười bảy tuổi tên Chía, không có sự lựa chọn và phải chấp nhận, vì gánh
nặng gia đình và các em “trước mặt Chía là vực sâu, sau lưng Chía là cha mẹ” [28,
tr.99]. Cha mẹ và các em Chía cũng là nạn nhân của thế lực đen tối miền núi đã tồn tại
từ lâu đời chi phối, có tiền là có thể định đoạt mạng sống con người. Sự tàn bạo qua
hình ảnh chiếc cột đá trên đỉnh núi dùng để giết người trong Cột đá treo người.
Cô bé Nhi năm nào trong truyện ngắn Hẻm núi nay đã làm mẹ, phải chịu áp lực
từ làng bản, vì đó là đứa trẻ không có cha. Cô bé Nhi yêu thầy giáo năm mười sáu tuổi,
sau đó làm mẹ trong lặng lẽ mà không oán trách người đàn ông đó (thầy giáo). Hai mẹ
con Nhi và Mí sống với nhau ở căn nhà tít cuối làng. Phải tới mười một năm sau,
người đàn ông trở lại, nhưng đứa trẻ đã chết trong cơn lũ. Nhi đau khổ, dằn vặt “Tôi
gần như nhấc Nhi trong tư thế hóa đá vào trong nhà, đặt Nhi lên giường. Mắt Nhi vẫn
mở trừng trừng, nhìn ra sân mà như không thấy gì” [28, tr.155]. Đó là sự cam chịu của
người phụ nữ suốt mười một năm ròng nuôi con một mình, phải đối diện với mọi
người xung quanh.
58
Trong truyện Mặt trời lên, quả còn rơi xuống là hình ảnh tần tảo, cam chịu của
người vợ tên Duân. Trước kia, Duân cũng là cô gái đẹp, hát rất hay “đôi vai Duân tròn
lắm lại mềm như hai nắm cơm nếp mùa” [28, tr.203], nhưng vì lao động vất vả, lo
toan cho gia đình mà Duân già đi và còm cõi, đôi vai gầy, nhọn. Chồng Duân là Dân
nảy sinh những tư tưởng và suy nghĩ đi ngược lại với tình yêu của Duân, với sự tần tảo
lo toan của Duân. Duân biết và cảm nhận được điều đó, nhưng cô im lặng, không phản
ứng “Duân - vợ Dân đang khom lưng bê chảo cám to tướng lên bếp, lẳng lặng, không
nói câu nào” [28, tr.196].
Đó là người mẹ già của chị em Din và Dân trong Ngải đắng ở trên núi, người
phụ nữ chịu nhiều mất mát, khổ đau, có chồng hi sinh năm con được mười tuổi, bà ở
vậy nuôi mẹ chồng, em chồng và hai con. Người con dâu cả chăm sóc chu đáo mẹ
chồng “người có tiếng khắc nghiệt với con dâu ở Tả Chóong bấy giờ” [28, tr.210].
Thời gian trôi đi, các em và các con đã lớn khôn, còn người mẹ, người chị dâu thì càng
khô héo, tàn lụi vì vất vả lam lũ. Người phụ nữ thành mẹ, thành bà, chỉ còn tấm thân
bé nhỏ khô và lạnh: “Đâu hết rồi mẹ ơi những ấm nồng, đầy đặn ăm ắp sức sống? Đâu
rồi bầu ngực tròn căng của người vợ góa? Đâu rồi mái tóc đầy những mùi thơm của
lúa, mùi cay nồng của ngải đắng, mùi mặn mòi của cỏ tranh bị đốt cháy?” [28, tr.216].
Đó là sự chịu đựng, kìm nén của Mai trong Sải cánh ở trên cao. Mai một mình
nuôi mẹ chồng ốm đau và con nhỏ là Dí. Chồng Mai lên đồn bang tá “xin một chân
quét dọn, chăn ngựa. Từ đấy nó không về nhà nữa, có ra khỏi đồn thì cũng về nhà mụ
Tha góa chuyên nấu rượu cho đồn, ăn ngủ ở đấy một vài ngày, lại quay lại về đồn.
Mai thành người có chồng mà như không” [28, tr.312]. Mai khóc khi mẹ chồng
thương Mai và bảo cô đi lấy chồng khác, nhưng Mai không thể vì không nỡ bỏ mặc
mẹ già ốm đau, Mai mang ơn mẹ chồng vì khi xưa “Không có ông bà mang một con
trâu đến đổi cho phó lý thì hôm nay Mai vẫn là con chó ăn cơm thừa trong nhà ấy”
[28, tr.312]. Mai không biết bố mẹ đẻ của mình là ai, bố mẹ chồng chính là người đã
sinh ra mình. Đến khi đứa con trai là thằng Dí chết vì bệnh tật, Mai sụp đổ và đau đớn
vô cùng “Mai ngồi bên nấm mộ mới đắp, không còn cảm giác gì nữa, cả nỗi đau tận
cùng, sâu thẳm cũng hóa đá rồi” [28, tr.313]. Mai đã có ý định ăn lá ngón tự tử, mặc
dù rất thương mẹ chồng “xin mẹ tha tội cho con, con không biết sống để làm gì nữa,
không thể sống được nữa rồi” [28, tr.314]. Nhưng rồi khi Mai định nuốt nắm lá ngón
59
thì mẹ chồng bước ra, bà cũng dí dao nhọn vào cổ mình và muốn cùng chết với Mai.
Cả Mai và mẹ chồng đều là hai người phụ nữ phải chịu khổ cực, một già một trẻ.
Đó cũng là sự mất mát của người chị dâu, có chồng chết sớm khi chị còn quá
trẻ, chị chưa có con trong Sau những mùa trăng. Người con gái góa chồng từ khi còn
rất trẻ “Đôi má căng, đỏ rừng rực, khuy áo bên trên bật ra trễ nải, để lộ ba ngấn cổ
cao trắng ngần, khuôn ngực phập phồng nhè nhẹ…” [28, tr.339]. Chị dâu phải chịu
đựng, phải sống kiềm tỏa bản thân, sức sống sinh học mạnh mẽ tranh đấu với lí trí. Khi
có tiếng khèn của chàng trai khác đêm nào cũng vọng tới cô “Tiếng khèn lá từ ngoài
suối vọng vào, tiếng khèn lúc gần lúc xa, lúc như tiếng gió dài lê thê, lúc cao vun vút,
rộn rã như tiếng chim buổi sớm…Tiếng khèn như thể nói được nhiều điều lắm, đủ để
cô gái nào đó hiểu rằng chàng trai sẵn sàng làm tất cả vì cô, đổi tất cả những gì mình
có để lấy ánh mắt của cô, bán tất cả để mua nụ cười của cô…” [28, tr.338]. Trước
tiếng khèn lá giục lòng tha thiết đó, người chị dâu cố tìm cách lẩn tránh trong trạng
thái bồi hồi “Tiếng khèn mỗi lúc một réo rắt, đôi tay chị quấn lanh nhanh hơn, cuống
quýt mà ánh mắt thẫn thờ” [28, tr.339]. Người phụ nữ trẻ phải chịu đựng sự cô đơn
khi màn đêm buông xuống. Ban ngày chị là một người hoạt bát, sống với trách nhiệm,
nhưng khi đêm xuống chị sống với con người thật của mình với đầy đủ cảm xúc. Mùa
cốm khi trăng lên là mùa yêu, mùa tuổi trẻ khát khao thúc giục, chị dâu không tham
gia, chị ngậm ngùi, nhất là câu hỏi bâng quơ của những cô gái trẻ “Chị Lân à, làm sao
con gái có chồng rồi mà cứ đẹp mãi, ngày càng đẹp thế?...Bao nhiêu đứa muốn hỏi chị
đun nước lá gì gội đầu mà tóc đen thế, nhiều thế, đun củi gì mà má hồng thế đấy!”
[28, tr.340]. Chị chạy trốn tuổi xuân, hạnh phúc, chạy trốn tiếng khèn lá hàng đêm, chị
dâu phải nuôi mẹ chồng già yếu và đứa em chồng bé thơ. Chàng trai trẻ thổi khèn lá
suốt đêm tên Sìn, nhưng thực ra Lân không nghĩ đến Sìn, mà nghĩ đến Lìn, là người
em chồng. Khi Lìn hỏi, chị dâu bật khóc, tiếng khóc của chị thật đặc biệt “Tiếng khóc
bật ra như nước lũ thượng nguồn không gì ngăn được. Khóc như để trôi đi những bức
bối trong lòng” [28, tr.345]. Đó chính là sự cam chịu, dồn nén và thẳm sâu của người
phụ nữ, chị phải sống suốt đời với ẩn ức đó.
Nhân vật Mai trong tiểu thuyết Cánh chim kiêu hãnh là người phụ nữ phải gánh
chịu nhiều mất mát, đớn đau, kể cả tủi nhục. Chồng Mai là Chúng bí mật đi theo Việt
Minh, chỉ mình Mai biết, còn mẹ chồng tưởng là con trai mất tích. Trong một lần vì
quá nhớ vợ, Chúng đã về với Mai sau đó Mai mang bầu. Lúc đó mẹ chồng vẫn đang
60
lặn lội đi tìm con. Cơ sự nảy sinh từ đây, Mai không thể nói ra với mẹ chồng vì phải
giữ bí mật tuyệt đối cho Chúng “Mai không biết nói thế nào với mẹ chồng về giọt máu
họ Hoàng này” [31, tr.37]. Biết nói thế nào khi chồng thì mất tích, còn mình lại mang
một cái bụng lớn từng ngày. Mai không thể nói ra, bởi như có một cái lõi ngô nút chặt
trong cổ vậy. Mai bị người làng khinh rẻ, mặc dù khi đi nương Mai đã chủ động chọn
đi đường vòng để tránh mặt, nhưng Mai vẫn gặp phải người làng “Gặp Mai, người ta
tránh ra một đoạn, đợi Mai đi qua họ nhổ phụt một bãi nước bọt” [31, tr.39]. Mai đã
phải cắn răng chịu đựng. Mãi cho tới khi Mai sinh con, khi nhìn đứa bé giống y đúc
Chúng, người mẹ chồng héo hon mới kịp nhận ra và thốt lên. Cũng lúc đó, Mai vỡ òa
“Bao nhiêu đau buồn, tủi nhục đè nén bấy lâu như đột ngột bị đập vỡ, Mai nức lên: -
Thì nó là con anh ấy mà, mẹ ơi…” [31, tr.40]
Gần một năm sau, Chúng lại trốn về với vợ, nhưng lần này anh bị giặc bắt và
bị chém đầu thị uy. Mai góa chồng, đau khổ và khắc khoải trong thương nhớ chồng,
mẹ chồng cũng vì khóc con mà mù một bên mắt, mắt bên kia cũng chỉ còn nhìn mờ
mờ được thôi. Mai muốn được ở cùng với chồng - tức lựa chọn cái chết “Mai thèm
điều ấy biết bao, nếu có thể nằm xuống đó, ngay gần chồng, và có một con chó tuyệt
đối trung thành bên cạnh, thì sẽ chẳng còn gì phải nghĩ nữa” [31, tr.53], nhưng Mai
không thể, vì còn người mẹ già mù lòa và đứa con nhỏ.
Mai bị yêu cầu bắt buộc phải lên đồn nấu cơm hầu hạ bọn quan tây, nhưng
“…các quan muốn ăn gì là phải cho các quan ăn bằng được đấy, kể cả không phải
cơm” [31, tr.69]. Một nguy cơ thực sự lại trùm lên đầu Mai “Cứ tưởng đưa được Mai
về nhà này, thoát khỏi đòn roi hắt hủi trong nhà lý trưởng là cuộc đời Mai được đổi
thay, ai ngờ có ngày hôm nay chứ” [31, tr.69]. Mai phải để con nhỏ ở nhà cho mẹ
chồng và ra đi, trốn theo Việt Minh. Mai nhớ con day dứt, quặn ruột, bầu ngực căng
cứng vì sữa tiết ra, sợi dây linh cảm liên hệ giữa mẹ và con. Mấy tháng sau Mai mới
trốn về thăm con, Mai ao ước và khát khao được ở cùng con, hai mẹ con có nhau mãi
mãi “hai mẹ con cùng lên nương, cùng ra sông thả đó bắt cá, chiều chiều cùng vào
trong núi tìm trâu. Nghe tiếng mõ lóc cóc nhà mình ở hướng nào thì theo hướng đó mà
tìm. Chắc con sẽ lon ton chạy trước, chốc chốc lại nấp vào đâu đó trốn mẹ. Rồi buổi
tối, mẹ sẽ ngồi bên bếp băm rau nấu cám, bà sẽ đan xoỏng, con sẽ vùi mấy củ sắn vào
bếp và ngồi chồm hỗm để chờ” [31, tr.102]. Người phụ nữ khát khao một cuộc sống
yên bình, thanh thản bên gia đình nhỏ mà không thể.
61
Trong tiểu thuyết Chúa đất, đau xót và đáng thương nhất là người vợ Cả của
Sùng Chúa Đà. Bà về làm dâu năm mười sáu tuổi, lúc đó bà “như bông hoa đào vừa
nở ở đầu cành, bị vặt một phát, ném luôn vào sân nhà chúa đất…Bông hoa đào đáng
lẽ được yêu chiều, được nâng niu, lại bị bỏ quên trong xó buồng y như một cái váy
rách” [32, tr.12]. Đó là số phận bi thương của biết bao người phụ nữ. Nhưng nghiệt
ngã hơn là Sùng Chúa Đà không có bản năng đàn ông. Bà mãi là trinh nữ chứ không
được thành đàn bà, thành vợ, thành mẹ vì thế bà phải sống trong khát khao, héo mòn,
tàn lụi. Khi mãi không có con, bà bị mẹ chồng ép hỏi và bị kết luận nguyên nhân là do
“Nó không thích mày rồi”, và ngay hôm sau bà thành vợ Cả, vợ Hai là đứa gái mới
mười bốn tuổi.
Mặc dù đã có vợ hai, nhưng đêm nào, Chúa Đà cũng sang buồng vợ Cả, dày vò
vợ Cả bằng hành động bạo dâm “Đà vồ lấy bà, cắn xé bà, vò nát bà, sục sạo khắp
người bà bằng bàn tay to lớn, cứng như sắt” [32, tr.18]. Đó là sự hành hạ gây nên nỗi
sợ hãi kinh hoàng với bà “Nhưng Đà không xộc vào trong người bà được. Đà, to lớn
cường tráng như thế, mà không thể làm gì nổi một đứa gái Mông đang căng tròn,
mọng như một quả lê sắp chín” [32, tr.18]. Tiếp theo bà, là vợ hai, vợ ba, nhưng
không ai đẻ được, và không ai được trở thành đàn bà.
Trong số các người vợ của Chúa Đà, chỉ có duy nhất bà Cả là đem lòng yêu
thương Đà thực sự, nhưng đó là tình yêu trong sự đau đớn tột cùng, đó là tình yêu
không được đáp lại, thậm chí Chúa Đà còn không thể hiểu bà, không biết rằng bà yêu
mình. Bà Cả già có số phận thảm thương giống như con chó già, vốn trung thành hết
mực với bà. Vì chủ, nó cũng đã hi sinh thanh xuân, tình yêu, làm mẹ để trung thành.
Con chó cũng hệt như bà vậy “Nó thành một con chó cái già, xấu, cô độc, không con
cái” [32, tr.119].
Thân phận người phụ nữ bị coi thường và rẻ rúng trong con mắt của thế lực
thần quyền miền núi “Từ ngày về làm dâu nhà Sùng Chúa Đà, từ lúc Chúa Đà có vợ
hai, thì bà cũng quên cả tên bà. Một cái tên thật đẹp, bố mẹ phải nhờ người đặt cho
vừa với vẻ đẹp của đứa trẻ là bà. Từ lâu bà quen nghe người ta gọi là bà Cả. Bà là
người đàn bà quyền uy nhất trong dinh thự chúa đất. Ngủ trên đống bạc, ăn những
món ngon nhất, mặc những thứ đẹp nhất…Nhưng bây giờ thì bà có gì? Bà không có gì
cả. Bà đã từng khao khát một cuộc sống bình dị như bao người phụ nữ bình thường
khác, được ở cùng cha mẹ, được lao động, yêu thương và làm mẹ, muốn hát, muốn
62
cười… Nhưng bà không thể, bởi “Bao nhiêu người sống dựa vào bà như cây tầm gửi
mọc trên thân cây gạo. Nếu cây gạo tự nhổ gốc, tự quay về chốn cũ, thì chẳng phải
tầm gửi chết theo hết sao” [32, tr.156,157]. Trên lưng người phụ nữ này là gánh nặng
và sự ràng buộc của gia đình, anh em họ hàng, vì nghèo đói, bà phải hi sinh, cắn răng
chịu đựng. Bà còn dằn vặt trách mình, tại mình mà con cháu sống dựa dẫm ỷ lại,
không độc lập, không biết làm ăn. Bà luôn phải sống trong trạng thái dằn vặt và giằng
xé như thế.
Cuộc sống cứ thế trôi đi, người phụ nữ tàn lụi dần theo thời gian, tàn lụi cả về
thể xác lẫn tinh thần. Đã từ lâu bà Cả không còn cảm giác buồn vui nữa rồi “Buồn hay
vui, sợ hãi hay vui sướng, đều không có trong tâm hồn bà. Bà như cái vũng nước dưới
vực, tít dưới đáy sâu, tối tăm, câm lặng. Một cái vũng nước không ai nhìn thấy, không
ai động đến, kể cả gió, kể cả mặt trời” [32, tr.266].
Ngay cả người phụ nữ mạnh mẽ và cá tính, đầy quyết liệt như vợ tư của chúa
đất là Vàng Chở, cuối cùng cũng gục ngã, vì sự tan vỡ và phản bội của Lù Mìn Sáng.
Khi cả Chở và Sáng bị bắt đến trước mặt chúa đất, và nhất là những hành động van xin
của Sáng với chúa đất, đã khiến Chở gục ngã và tan nát, bởi Sáng đã phản bội Chở
“Chở khụy hai đầu gối xuống. Thằng Lù Mìn Sáng kia, chính nó đã cướp mất linh hồn
Chở, nó nhổ nước bọt, không, nó đái vào tình yêu Chở giành cho nó”[32, tr.69]. Chở
cứ tin rằng Sáng yêu mình thật và cả hai sẽ hiên ngang lựa chọn cái chết nhẹ tựa lông
hồng, bởi với Chở “Chết thôi mà, ai chẳng có lúc chết. Sợ gì chứ? Sống như mình
muốn mới khó, chết thì hết rồi còn đâu, sao phải sợ” [32, tr.69]. Chở không ngờ Sáng
lại hèn nhát đến thế.
Khi đám quạ bay đến rỉa xác Sáng trên cột đá, ở phía bên này của cột đá, Chở
khóc, nhưng khóc vì tiếc thương cho chính bản thân mình “Nước mắt Chở chảy ra.
Một lúc đã đóng băng trên lông mi Chở. Nước mắt tự dưng lại chảy, mà chảy vì cái gì
chứ? Chảy vì tiếc cho thân thể đẹp đẽ của mình có lúc phải làm mồi cho bọn quạ đen
bẩn thỉu” [32, tr.80]. Bọn quạ đen bẩn thỉu chính là Sùng Chúa Đà, là Lù Mìn Sáng và
chế độ hà khắc bóp nghẹt người phụ nữ, là sức mạnh của đồng bạc trắng. Người phụ
nữ không bao giờ thoát ra được sự đày đọa đó
Trong tiểu thuyết Bóng của cây sồi, là cô gái tên Kim, sau khi mẹ mất phải
sống một mình. Mặc dù rất xinh đẹp “Kim xinh đẹp nhất làng nhưng cũng như mẹ, đã
mười tám tuổi rồi mà không ai muốn lấy về làm vợ. Dòng máu chảy trong người Kim,
63
như người già nói, không phải màu đỏ mà là màu đen. Gột rửa mười đời không sạch
được” [29, tr.22]. Đó là sự kỳ thị nghiệt ngã, truyền kiếp của những đồn đại xưa cũ mà
những người phụ nữ phải gánh chịu. Bà ngoại Kim không có lỗi, mẹ Kim và nhất là
Kim càng không có lỗi, nhưng họ phải mang thân phận đó trong con mắt cộng đồng,
cũng truyền kiếp. Họ không sao thoát được sự mặc định kỳ thị đó, và phải sống với nó
suốt đời. Mẹ Kim phải cam chịu, dồn nén, bà chỉ giải tỏa chút ít bằng những tiếng thở
dài khi đêm xuống “Sau mỗi ngày cúi mặt xuống đất, tai nghe những lời lao xao gần
xa vẳng tới, chỉ đêm về, sự dồn nén mới được bung ra…Mỗi ngày mắt mẹ một quầng
thâm, trũng sâu, lạnh lẽo, buồn thảm.” [29, tr.77].
Kim muốn vùng thoát khỏi sự kỳ thị đó bằng cách giải thoát và chấm dứt sự
sống, Kim tự vẫn nơi hai dòng nước giao nhau, một ấm một lạnh, nhưng đúng lúc đó
Phù đã xuất hiện và cứu Kim. Phù và Kim yêu nhau, nhưng Phù là con trai duy nhất
của dòng họ lớn, bố là trưởng bản, nên cuối cùng Phù không đủ nghị lực và quyết tâm
để vượt qua sự kỳ thị, vượt qua cái bóng của bố, của gia đình, dòng họ, cộng đồng,
bóng của cây sồi…để đến với Kim. Lời bố nói với Phù như một mặc định chia cắt đôi
trẻ “Họ Nông ở Lao Chải xưa nay chưa có ai làm bẩn dòng họ, mày là đời thứ chín
đấy nhé. Tự biết lấy việc gì nên làm, không nên làm…”[28, tr.29]. Lời của bố Phù
cũng là lời của trưởng bản, là phát ngôn cho cộng đồng. Kim bị coi là kết quả của sự ô
uế, là mầm lây lan sự uế tạp, người mang dòng máu đen. Phù không dám cãi, mặc dù
Phù biết dòng máu trong nguời Kim cũng đỏ như tất cả mọi người. Kim đã từng chứng
minh cho Phù thấy “Phù nhìn hai bàn tay mình đây này, hai bàn tay này đứt bao nhiêu
vết, chảy bao nhiêu máu. Máu mình cũng đỏ như máu người Dao người Tày Lao Chải,
không phải màu đen như người ta ác miệng nói đâu” [29, tr.25].
Mẹ Phù cũng là người phụ nữ tủi khổ và vất vả, vì lấy vào dòng họ Nông, cần
có con trai nối dõi, nên bà đã sinh cho bố Phù mười hai người con rồi, nhưng đều là
gái, Phù là con trai út, đứa con thứ mười ba. Bà Nhì cũng là “Người đàn bà sống trong
thung lũng chật hẹp không có ước muốn gì hơn là bữa nào nồi cơm trên bếp cũng sôi
lục bục” [29, tr.31].
2.3.3. Người phụ nữ với nỗi khát khao thầm kín, không thể giải tỏa
Cũng là một sinh thể, một con người hoàn thiện, phụ nữ cũng có những cảm xúc
của cá nhân mình, đó là nỗi khát khao tình yêu, hạnh phúc, khát khao được làm mẹ,
64
làm vợ, làm đàn bà. Những cảm xúc và khát khao đó vốn rất đời thường, rất chân thực
- đó là sống. Tuy nhiên, do phải chịu một hoàn cảnh đặc biệt như thế nên những cảm
xúc bình dị đó trở nên xa vời, thậm chí là méo mó, dị dạng và quay trở lại thành một
áp lực ẩn ức đè nặng lên tâm trí người phụ nữ. Họ phải sống trong sự giằng xé, bị kiềm
tỏa, ghì nén trong khát khao mãnh liệt cùng với sự tủi hổ, lo lắng, kinh sợ. Không lối
thoát, không giải pháp, họ luôn phải chịu gánh nặng tâm lí cho tới khi tàn lụi, muốn
chấm dứt sự sống để giải thoát cũng không thể.
Trong những câu chuyện của Đỗ Bích Thúy, hay cụ thể là những thân phận
người phụ nữ miền núi, trạng thái ẩn ức sâu kín nhất, nhưng cũng mãnh liệt và chân
thực nhất đó chính là khát khao tình cảm vợ chồng, khát khao xác thịt từ tình yêu đích
thực, khát khao được làm đàn bà, như một quy luật của vạn vật.
Trong Lặng yên dưới vực sâu, là Súa sống với những gì sâu kín nhất, của mối tình
dang dở, của sự khắc khoải khát khao thực sự. Mối quan hệ vợ chồng với Phống chỉ là
một chiều mà thôi, Phống giống như con tắc kè bám trên mình vợ, Phống chỉ giữ được
da thịt chứ không giữ được tâm hồn Súa. Tại thời điểm Súa gặp Vừ vào hôm đi làm
nương về muộn, mặc dù Súa không đi quá giới hạn, nhưng ẩn sâu trong tâm khảm Súa
là nỗi khát khao mãnh liệt “Cơ thể nóng sực, nặng trịch của Vừ ấn Súa chìm sâu vào bó
ngô ấm áp. Không còn tiếng gió hú nữa, không còn cảm giác lạnh buốt lùa vào từng
chân tóc nữa, chỉ còn tiếng thở gấp gáp và hơi thở nóng nực của Vừ đang phả vào mặt
Súa. Súa đờ ra. Vừ vùi mặt vào ngực Súa, Súa cảm thấy luồng hơi nóng từ Vừ đang lùa
qua cả lớp vải dày, xộc vào ngực mình. Cái gì đó như kim châm đang lan dần khắp cơ
thể. Mặc kệ ông trời, mặc kệ U Khố Sủ, mặc kệ Tráng A Phống, mặc kệ cả tiếng lợn kêu
đòi ăn từ ngôi nhà trên cao kia đang gào rống. Mùi của tóc, mùi của da thịt, của quần
áo người đàn ông đang chẹn trên người đã khiến Súa chết đi sống lại bao lần đang ùa
về, quay kín lấy Súa. Bàn tay vừa cứng cáp vừa mềm mại của Vừ đang bắt đầu lần tìm.
Mặc kệ thôi. Cha ơi, mẹ ơi, rừng núi ơi, ông trời ơi, Súa phải mặc kệ thôi” [30, tr.67-
68]. Cuộc gặp gỡ và tiếp xúc bất ngờ giữa Súa và Vừ chỉ dừng lại có thế, không ai biết
ngoài người em chồng của Súa là Nhí, nhưng Nhí đã kịp nhìn thấy và nhớ mãi khoảnh
khắc của chị dâu mình với ánh mắt “vừa thèm khát đến phát cuồng, vừa đau đớn đến
tận cùng, vừa sợ hãi đến bạc nhược của chị dâu nữa” [30, tr.101].
Rồi ngay cả Nhí - cô gái Mông xinh đẹp, sống trong ngôi nhà to nhất, nhiều ngô lúa
và gia súc nhất Sán Séo Tỉ “như một bông tam giác mạch lúc sắp tàn” [30, tr.21] nhưng
65
lại bị câm. Hạnh phúc tưởng chừng như mở ra và nhen nhóm trong tim của cô gái đương
tuổi dậy thì khi gặp người đàn ông nuôi ong là Tân. Được Tân chia sẻ và tôn trọng, Nhí đã
này sinh tình cảm với Tân, đã sẵn sàng và khát khao dâng hiến với một tình yêu cháy
bỏng, mãnh liệt, một tình yêu thương vô bờ bến “Và đêm mưa gió ấy, bàn tay người đàn
ông này đã chạm vào ngực Nhí, rất khẽ khàng, bên ngoài lớp vải áo dày cộm. Nhí cảm
thấy từng cơn run rẩy ùa đến, ùa đến, nhưng một điều gì đó, rất vô hình đã khiến Tân
cưỡng lại được nỗi khát khao. Và cuối cùng, Tân chỉ ôm chặt Nhí, căng cứng và nóng
bỏng trong vòng tay mạnh mẽ, ôm mãi, đến nghẹt thở…” [30, tr.76]. Thế nên khi thằng
cháu nhỏ nghịch ngợm của Nhí là Chá thọc tay vào ngực cô và hét lên “Của Chá chứ”,
Nhí đã không đánh vào tay nó, nỗi khát khao vô hình từ đâu đó vẫn rình rập quanh Nhí,
không cho Nhí yên. Người đàn ông mà Nhí yêu thương và sẵn sàng dâng hiến là Tân đã
chết. Tất cả đã thực sự kết thúc và dừng lại đột ngột với Nhí. Tân mất đi khiến người con
gái chưa bao giờ nói được ấy đã hét lên “Nà…à…y…!. Tiếng thét muốn phá vỡ lồng ngực
bật ra khỏi cuống họng mảnh mai của Nhí” [30, tr.73], Khi Súa tìm được Nhí “thì cô đã
gần như hóa đá. Mặt Nhí trắng bệch, hai con mắt đờ đẫn, vài sợi tóc bết dính vào má, tay
Nhí vẫn nắm chặt tay Tân” [30, tr.77].
Đó còn là người mẹ già của May trong Tiếng đàn môi sau bờ rào đá, tưởng
chừng như đã khô héo rồi, nhưng ẩn sâu bên trong vẫn là tình yêu mãnh liệt cháy âm ỉ
bên trong con người mẹ già, khắc khoải, câm lặng, hi sinh và chịu đựng. Hình ảnh
người mẹ già trong phiên chợ Tình ngày hai bảy thật đặc biệt, đó chính là cô gái Mao
thuở nào “người mặc váy áo rực rỡ cầu vồng” hay hình ảnh mẹ già đẩy cửa bước theo
tiếng gọi của tiếng đàn môi sau bờ rào đá mà May nhìn thấy vẫn chỉ là ngọn lửa bùng
cháy trong một thời khắc nào đó của cuộc sống bình lặng mà thôi. Chiếc váy được cất
kĩ trong hòm gỗ thỉnh thoảng lại được mang ra ngắm nghía, vuốt ve tựa như nỗi khát
khao cháy bỏng, tình yêu vĩnh cửu của Mao, của người phụ nữ đẹp nhưng có thân
phận đáng thương. Có lẽ, khi trời sáng, mẹ già lại trở về với đúng hình ảnh vốn có của
mình, lầm lũi như “hòn đá kê chân cột nhà chồng” ngày này qua tháng khác. Cùng
một lúc phải sống cho cả hai thời, hiện tại và quá khứ; cùng một thời điểm phải sống là
hai con người, người vợ và người yêu. Con người phải sống trong sự giằng níu giữa
đôi bờ của quá khứ và hiện tại.
Người phụ nữ tên Kía trong Gió không ngừng thổi luôn khao khát mùi mồ hôi
của chồng, đó là bản năng sinh học bình thường của người phụ nữ khỏe mạnh. Nhưng
66
ông Sùng đã lụi tắt “Đã lâu rồi, Sùng không làm cái việc của một người chồng với
vợ…Cái mùi mồ hôi rất thân thuộc ở ngay bên cạnh, Kía chỉ mong được vùi mặt vào
đấy mà hít hà cho thỏa, nhưng Sùng luôn luôn ngủ rất nhanh và rất say” [28, tr.42].
Trong Sải cánh ở trên cao là nỗi khát khao sâu kín, ngột ngạt của một người phụ
nữ trẻ là Mai bởi “Cuộc sống khó khăn thiếu thốn trăm bề ở rừng không làm Mai khô
héo đi mà ngược lại, người phụ nữ một con như cây Bjoócmạ được ngâm mình trong
dòng nước mát, đã nở bung ra, rực rỡ và căng đầy sức sống” [28, tr.322]. Rồi khi Mai
tiếp xúc với Sinh trong hang lạnh, lúc phải lẩn lánh sự truy lùng của giặc “Mai bối rối
vô cùng, một nỗi ham muốn vô tình tràn đến. Đã bao nhiêu đêm trằn trọc trong lán,
giữa bốn bề rừng núi Mai đã hình dung đến vòng tay của Sinh, chỉ hình dung thôi,
không bao giờ dám nghĩ gì hơn. Mai là gái đã có chồng, hơn thế thằng chồng lại theo
gót bọn Tây mũi dài bán rẻ đồng loại, Mai tủi hổ vô cùng. Mỗi khi gặp ánh mắt tha
thiết của Sinh hướng về phía mình, Mai lại quay mặt đi. Phải có một người con gái
thật đẹp, thật tài giỏi mới xứng với Sinh.”[28, tr.325]. Trạng thái cảm xúc của Mai là
ẩn ức của người phụ nữ với khát khao bình thường và chính đáng của sức sống tuổi
trẻ, thế nhưng xen lẫn nó lại là nỗi tủi hổ khi thấy bản thân mình không xứng và còn
tủi hổ do tội lỗi của chồng mình gây ra. Nỗi khát khao chỉ dừng lại ở sự hình dung và
đôi cánh tay của Sinh mà thôi. Mai vẫn đang ở trong vòng tay của Sinh, vòng tay Sinh
ấm nồng vô cùng, nhưng Sinh đã ngủ trong khi ôm Mai. Khi nhận ra điều đó “Tự dưng
Mai như người bước hụt, rồi nỗi tủi hổ dâng lên làm Mai bật khóc” [28, tr.325].
Cũng là nhân vật Mai trong tiểu thuyết Cánh chim kiêu hãnh, sự cô đơn, trống
trải, khát khao trong hoài niệm với người chồng đã bị giặc giết hại là Chúng. Trong
đêm đông giá buốt và cô đơn, Mai nhớ con và nhớ chồng, đó là nỗi khao khát làm mẹ
và khao khát làm vợ lúc nào cũng choán hết trong tâm trí Mai. Nhất là nỗi nhớ chồng,
cho dù chỉ còn là chiếc áo Mai đem theo“Chiếc áo ấy ở ngay dưới gối Mai đây.
Nhưng chưa lần nào Mai dám áp nó vào má như thường áp vào cái áo bé tý của thằng
Dí. Mai sợ mình không chịu được, mình sẽ phát điên khi thấy lại cái mùi quen thuộc
của chồng…” [31, tr.124]. Nhưng trước sự cô đơn đến nao lòng, Mai không kìm nén
được nỗi nhớ, người đàn bà là Mai phải khổ sở, vật lộn, dằn vặt giữa hai thái cực cảm
xúc con người là nhớ và không dám nhớ “Ngần ngừ rất lâu rồi Mai nhất quyết luồn
tay xuống gối, lấy lên cái áo của chồng, và ngay lập tức úp nó vào mặt. Trời ơi, Chúng
về đây rồi, ngay bên cạnh Mai đây. Như thể còn có cả hơi thở dồn dập, nóng nực phả
67
bên tai, và gương mặt đầy râu nữa, hối hả rúc vào cổ, vào ngực Mai…Thiếu chút nữa
thì Mai đã gào lên. Bao nhiêu cảm xúc đột ngột ùa về, căng cứng, bóp nghẹt lồng
ngực. Bao nhiêu khao khát bấy lâu tưởng như đã mất hút như một miếng gỗ mục bị
dòng nước cuốn đi trong cơn lũ, bỗng dưng trở lại, cháy rừng rực. Dường như đâu
đây vẫn còn có cả tiếng cười rinh rích và giọng nói không giấu nổi thèm khát của
Chúng nữa: “Thèm thịt quá đi mất, thèm chết mất thôi. Cho chồng ăn thịt cái nào?”
[31, tr.125]. Mai khóc và cảm thấy “chưa lúc nào khó sống tiếp như lúc này. Đường
thì dài hun hút, toàn hùm beo lang sói, bàn chân đàn bà thì mảnh mai, lòng dạ đàn bà
thì yếu đuối” [31, tr.325].
Đó là trạng thái chung, sâu kín những cũng đầy mãnh liệt của những người phụ
nữ đáng thương, bị vùi dập, vỡ nát. Cô gái Mông đầy cá tính trong Chúa đất là Vàng
Chở đã không ngần ngại lựa chọn quyết liệt và đã nói ra sự thực đó là tất cả họ đều
khao khát làm được làm vợ, làm mẹ đúng nghĩa “Tất cả đám đàn bà trong nhà này,
khi đã đi qua cái cổng kia, thì không được làm đàn bà nữa. Chỉ làm chăn đệm cho
Chúa Đất gác chân thôi. Chị có muốn đẻ không? Chị Hai, chị Ba có muốn đẻ không!
Ầy, ai chả muốn. Muốn có được không?”[32, tr.52].
Ngay cả người phụ nữ được sống với người đàn ông mà mình yêu thương là bà
Cả, nhưng đó là tình yêu trong trạng thái mệt mỏi, đau đớn suốt cuộc đời, và nhất là
người mình yêu lại không hiểu gì về mình, thậm chí không biết là mình yêu họ. Ẩn ức
tột cùng của bà Cả được bộc lộ rõ nhất qua thời khắc là cái đêm chúa đất say rượu, trở
lại căn buồng lạnh lẽo của bà sau ba mươi năm. Bà thật đáng thương, bà ngồi suốt đêm
không ngủ, lo sợ và say trong khát khao hạnh phúc quá đỗi mong manh và không trọn
vẹn, dù chỉ là một mảnh vỡ, một hơi thở, một cánh tay, dáng hình, bà chỉ khao khát có
thế, bà yêu Chúa Đất, “Bà thấy mệt mỏi rã rời. Đêm qua là cái đêm gì? Bà đã chờ đợi
nó suốt bao nhiêu năm, đã ngừng cả thở không biết bao lần khi nghĩ đến nó. Cuối
cùng nó chỉ như thế” [32, tr.184]. Bà giống như cái hũ muối vứt trong xó bếp.
Người vợ hiền tần tảo trong tiểu thuyết Bóng của cây sồi cũng phải gánh chịu
trong mình một nỗi ẩn ức, đó là vì Phù chọn lấy Mai không phải vì yêu Mai, mà là để
chạy trốn Kim mà thôi, Phù luôn bị ám ảnh và không thể quên hình ảnh của Kim trong
cái đêm Phù kéo Kim từ dưới sông lên, trong ánh trăng sáng rọi. Mai cũng là cô gái có
giọng hát cực hay, nhưng lại là người con gái không có nhan sắc, thậm chí là xấu. Mai
cũng không thực sự yêu Phù, Mai đồng ý lấy Phù cũng vì cha mẹ. Mai về nhà chồng,
68
càng ngày càng khô héo, và nhất là mãi chưa sinh con, bị người ngoài ví là con ngỗng
đực. Trong đời sống vợ chồng “Mai chỉ được làm vợ Phù những đêm tất cả trăng sao
trên trời đều tắt ngấm, không một tí ánh sáng nào lọt vào qua khe cửa, và Phù thì phả
ra hơi rượu” [29, tr.142]. Phù cũng không yêu Mai, bởi thế hai người chung sống với
nhau mà không có tình yêu thì người phụ nữ sẽ khổ hơn“Số lần Mai được làm vợ chỉ
đếm trên đầu ngón tay trong một tháng, một năm. Trong bóng tối mịt mùng và hơi
rượu nút kín hai lỗ mũi, Mai không nhớ được gì. Không thể nhớ được gì ngoài cảm
giác buốt như kim châm trên hai bờ vai” [29, tr.143].
Tiểu kết
Người phụ nữ miền núi Đông Bắc mặc dù đóng góp rất nhiều vào sự tồn tại về cả
đời sống vật chất và tinh thần trong xã hội, là biểu tượng cho sự cần cù, chịu thương
chịu khó, là đối tượng ca ngợi của thi ca, của tình yêu nhưng trong đời sống thực tại,
họ lại là những người yếu thế, bị xã hội đè nén, thân phận bị coi rẻ và phụ thuộc.
Suốt cuộc đời họ là lo toan về gánh nặng con cái, chu toàn cho gia đình, là áp
lực từ định kiến, từ hủ tục. Họ tần tảo và vất vả, tinh thần luôn bị dằn vặt tổn thương,
tấm lưng cứ còng mãi xuống, người phụ nữ sống cho người khác, vì người khác, sống
trong ràng buộc nhưng chưa bao giờ họ được sống cho mình, đúng với cảm xúc và
mong ước của mình.
Người phụ nữ miền núi có thân phận thấp kém nhất, đó là sự mặc định mang
tính trái ngược với sự vĩ đại của họ, đó là sự định kiến sai lệch của xã hội đối với họ.
Với những định kiến đã tồn tại từ lâu của cộng đồng về thân phận của những người
phụ nữ, họ hoàn toàn không có quyền quyết định tương lai của mình, đưa ra sự lựa
chọn của bản thân, tiếng nói của họ không có giá trị. Những người phụ nữ phải chịu
ràng buộc, phải chấp nhận, cho dù là khổ đau, là đi ngược với ước muốn của mình, đôi
khi là không thể lựa chọn cái chết.
Số phận của những người phụ nữ miền núi mặc dù chịu nhiều khổ đau, nhưng
cũng không được phép nói ra, kêu cứu, họ phải lầm lũi chịu đựng như thể đó là
những gì thuộc về họ một cách tự nhiên. Người phụ nữ phải gánh chịu và chấp nhận,
số phận và cuộc đời họ như dòng nước chảy ngầm dưới đá, thậm chí trở thành nét
tính cách riêng của họ.
69
Chương 3
MỘT SỐ CÁCH THỨC THỂ HIỆN ẨN ỨC NỮ TÍNH QUA SÁNG TÁC
CỦA ĐỖ BÍCH THÚY
3.1. Hệ thống biểu tượng
Trong tiến trình phát triển, loài người đã trải qua năm hình thái xã hội. Song
song và tồn tại cùng tiến trình đó là sự nảy mầm và phát triển nở rộ của khoa học, để
khoa học thực sự phát huy được chức năng giải mã và minh định các tri thức dân gian
cũng như các tri thức khoa học thuần tuý thông qua các biểu tượng. Biểu tượng không
chỉ được xem như đối tượng chính trong nghiên cứu khoa học mà còn được xem “là
ngôn ngữ tượng trưng chỉ có ở loài người và là tế bào của đời sống văn hóa”. Đi tìm
bản sắc dân tộc qua thế giới biểu tượng là một trong những hướng đi hứa hẹn nhiều
thành công không chỉ đối với các nhà văn hóa học, dân tộc học mà còn là cách tiếp cận
khả dĩ của các nhà nghiên cứu văn học trong những năm gần đây, khi mà vấn đề bản
sắc dân tộc, vấn đề truyền thống và hiện đại luôn được quan tâm, nhất là đối với mảng
văn học các dân tộc thiểu số, nhằm xác định hướng đi cho văn học trong giai đoạn hội
nhập quốc tế ngày càng rộng rãi và sâu sắc: “Muốn tìm được bản sắc văn hóa dân tộc
một cách chính xác thì cần phải thông qua các hệ thống biểu tượng có trong lòng mỗi
dân tộc”.
Cảm thức biểu tượng trong tư duy văn hoá nhân loại đã tạo nên một thế giới
biểu tượng hết sức đậm đặc và sinh động trong quá trình hình thành và phát triển của
các nền văn minh. Hiện nay, theo quan điểm của các nhà xã hội học hiện đại, biểu
tượng chính là những "đơn vị cơ bản" của văn hóa. Việt Nam là nơi quần tụ của hơn
năm mươi dân tộc anh em, mỗi dân tộc là một kho tàng văn hóa độc đáo và riêng biệt.
Trước nay, việc nghiên cứu biểu tượng trong văn học đã được đề cập trong một vài
công trình chuyên biệt, hoặc được lồng ghép trong các công trình nghiên cứu văn hóa
dân gian. Tuy nhiên, những nỗ lực nghiên cứu nói trên còn hết sức hạn chế bởi sự đa
dạng và phong phú của hệ thống biểu tượng. Trong đề tài này, chúng tôi sẽ triển khai
những biểu tượng văn hóa cụ thể thông qua tác phẩm của Đỗ Bích Thúy để thấy được
diện mạo văn hóa vật chất - tinh thần - tâm linh của các dân tộc sống ở miền núi cao.
Và ở một chừng mực nào đó - trong một cái nhìn rộng hơn, xác lập cái nhìn mới về
70
hiện thực và con người miền núi, đặc biệt là những biểu tượng liên quan đến người
phụ nữ qua những sáng tác của Đỗ Bích Thúy trong tương quan với hệ thống biểu
tượng.
STT Biểu tượng Tần suất xuất hiện
Trang phục 42 1
Lanh 34 2
Tiếng đàn môi 16 3
Bếp lửa 56 4
Ngô 134 5
(Bảng thống kê một số biểu tượng liên quan đến văn hóa miền núi Đông Bắc về
người phụ nữ trong các sáng tác của Đỗ Bích Thúy)
Kết quả khảo sát của chúng tôi cho thấy hệ thống biểu tượng mang đặc trưng
văn hóa miền núi xuất hiện với nhịp độ phong phú, với những biểu hiện cụ thể cho
từng mảng văn hóa khác nhau trong tổng quan văn hóa dân gian miền núi. Đỗ Bích
Thúy đã sử dụng những biểu tượng này như một phương pháp nghệ thuật đắc dụng
nhằm chuyển tải thông điệp nhân văn về hiện thực và con người miền núi đặc biệt là
người phụ nữ trong các tác phẩm của chị.
3.1.1. Trang phục
Trang phục là nơi bản sắc dân tộc biểu hiện rõ rệt, thường xuyên và lâu bền
nhất. Trang phục người Mông thể hiện sự tài hoa, sức sáng tạo bền bỉ của người phụ
nữ. Người phụ nữ Mông từ nhỏ được học cách may áo, may váy làm nên những bộ
trang phục truyền thống của dân tộc mình. Trong tác phẩm Đỗ Bích Thúy, nhà văn đã
có nhiều trang viết miêu tả vẻ đẹp bộ trang phục của dân tộc Mông và vẻ đẹp của con
người khi làm ra và mặc bộ trang phục ấy.
Trang phục của người Mông được làm bằng cây lanh. Cây lanh từ khi trồng, thu
hoạch đến khi may thành một bộ trang phục là cả một quá trình lâu dài, trải qua nhiều
công đoạn phức tạp. Phụ nữ là lanh - là cây tự nhiên và cây văn hóa. Chỉ họ mới biết
chọn khoảnh nương nào thích hợp nhất để gieo hạt lanh, lanh gieo dầy và đến thời
71
điểm nào có thể thu hoạch được để tước sợi. Từ hình hài cây lanh đến trở thành quần
áo phải trải qua tới 41 công đoạn khác nhau, từ trồng cây lanh, tới phơi, tước vỏ,
tước sợi, dập, luộc, hay nhuộm màu, dệt vải, vẽ sáp ong... làm ra miếng vải lanh thổ
cẩm đòi hỏi người phụ nữ sức khỏe, khéo léo, tỉ mẩn.
Người con gái luôn xe sợi dệt nên những bộ trang phục bằng vải lanh thổ cẩm
bền chắc và độc đáo nhất để mặc vào những dịp đặc biệt, khi đi lấy chồng cũng phải
có bộ quần áo bằng vải lanh, rồi khi qua đời cũng phải được chôn cùng bộ quần áo
bằng vải lanh để “tổ tiên nhận ra mình”. Người phụ nữ và lanh đã trở thành biểu tượng
văn hóa, biểu tượng thiêng của miền núi Đông Bắc, nhất là trong văn hóa Mông của
vùng cao nguyên đá.
Nghề dệt vải lanh truyền thống đã có từ lâu đời gắn liền với phong tục tập quán
và những nét sinh hoạt văn hóa cộng đồng của đồng bào nơi cực Bắc của Tổ quốc
“Trời mưa chẳng lên nương, cũng chẳng xuống ruộng được, cả nhà ngồi bên bếp tước
lanh, xe lanh, phần nào dệt được thì mang ra dệt” [28, tr.184]. Không khó để bắt gặp
hình ảnh người phụ nữ Mông trên đường đi làm, đi chợ phiên, đi gặp người yêu... luôn
se lanh, nối sợi; sợi lanh như vật bất ly thân của họ “Súa ngồi trên bậu cửa, tay thoăn
thoắt xe lanh, miệng cười tủm tỉm, chẳng nói câu gì” [30, tr.30]. Đôi tay người phụ nữ
phải hết sức khéo léo cho sợi lanh có độ mảnh đều nhau và không bị đứt nửa chừng.
Đến khoảng 13 -14 tuổi, con gái Mông phải biết xe lanh, dệt vải: "khi Súa bằng tuổi
nó, Súa đã biết xe lanh, dệt vải, thêu thùa, may váy áo" [30, tr.35]. Đó cũng là tiêu chí
đánh giá phẩm chất, đức hạnh của người phụ nữ “Con gái Sủng Thài đến tuổi lấy
chồng chỉ ở trong nhà dệt váy áo, đợi người đến leo cột nhà, chui qua cửa sổ vào
buồng, ưng ai thì theo người ấy” [28, tr.358], “Bằng tuổi tôi, mẹ bắt đầu dệt chăn màn,
váy áo, dệt khăn dệt túi …chuẩn bị về nhà chồng” [28, tr.387]. Hay câu đầu tiên mà
người chị dâu - Súa hỏi đứa em chồng là:
"- Năm nay mấy tuổi? Đã biết dệt lanh chưa?
Con bé im lặng.
- Này, chị dâu đang hỏi đấy. Có biết dệt lanh không?" [30, tr.20].
Trải qua bao thế hệ, người Mông đã tạo nên một nền văn hóa đặc sắc về lanh, từ
kỹ thuật canh tác đến việc sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống. Cây
72
lanh được đồng bào dân tộc Mông tận dụng triệt để, cây lanh được tước vỏ lấy sợi,
thân cây làm chất đốt; lá, rễ dùng làm thuốc chữa bệnh, thức ăn cho gia súc và làm
phân bón; hạt cây lanh có thể làm thành bánh...
Cây lanh còn là một trong những vật linh thiêng được sử dụng trong hầu khắp
các phong tục, tín ngưỡng của người Mông như trong dựng vợ gả chồng, ngày cúng,
giỗ, lễ, Tết. Lanh còn là một biểu tượng trong các khúc hát giao duyên với nhiều ý
nghĩa, cung bậc của tình yêu, tình vợ chồng. Theo quan niệm của đồng bào dân tộc
Mông, vải lanh được coi là sự gắn kết bền chặt giữa con người và thế giới tâm linh tồn
tại từ bao đời. Họ cho rằng, sợi lanh là sợi chỉ dẫn đường cho người chết về với tổ tiên
và đầu thai trở lại làm người. Nghề trồng lanh, dệt vải đã có từ lâu đời gắn liền với
phong tục tập quán và những nét sinh hoạt văn hóa cộng đồng của đồng bào dân tộc
Mông. Suốt chiều dài lịch sử, cây lanh và nghề dệt lanh luôn là phần không thể thiếu
trong văn hóa đặc sắc của người Mông. Dù họ định cư ở đâu, phụ nữ Mông luôn dành
một mảnh đất ẩm để gieo hạt lanh. Khi những cơn mưa đầu mùa xuất hiện cũng là lúc
người dân nơi đây bắt đầu vào vụ trồng lanh. Họ chăm sóc cây lanh rất cẩn thận. Khi
cây lanh trưởng thành họ sẽ thu hoạch, đem phơi khô rồi tách vỏ, xe sợi, dệt vải may
quần áo cho cả gia đình. Trong đời sống của đồng bào dân tộc Mông vùng cao nguyên
đá, nghề dệt thổ cẩm có vị trí rất quan trọng. Người Mông ưa chuộng vải lanh, bởi nó
có độ bền chắc, thông thoáng và không bị mốc. Hành trình từ cây lanh trở thành bộ
quần áo thổ cẩm bền đẹp thì người phụ nữ ngoài sự cần cù, khéo léo phải dồn hết tâm
tư tình cảm vào đó.
Quá trình hình thành tấm vải lanh phải trải qua rất nhiều công đoạn cầu kì. Trong đó
có rất nhiều công đoạn khó, đòi hỏi sự nhẫn nại, bền bỉ từ việc trồng lanh, thu hoạch, phơi
khô, tước vỏ cho đến xe sợi, lên khung, dệt vải, nhuộm chàm, vẽ sáp ong...
Bí quyết để một tấm vải lanh bền đẹp không chỉ nhờ đôi bàn tay khéo léo, tỉ mỉ
của người phụ nữ mà còn ở kỹ thuật nhuộm chàm và vẽ sáp ong rất đặc biệt. Để cho
thớ vải không phai màu theo thời gian người phụ nữ Mông phải nhuộm vải rất nhiều
lần với những bí quyết riêng. Sau đó đem hong khô để vẽ sáp ong lên đó. Đây chính là
hai công đoạn rất vất vả, mất nhiều thời gian.
73
Thông thường, mỗi tấm vải lanh có kích thước bề ngang khoảng 40 đến 45cm.
Cùng với việc tìm cách làm ra vải thì khối óc tài hoa của người phụ nữ Mông cũng
nghĩ ra cách nhuộm vải và trang trí vải lanh rất tuyệt diệu. Mỗi tấm vải được nhuộm đi
nhuộm lại rất nhiều lần (ít nhất là 12 lần), mỗi lần nhuộm, họ cho vải vào ngâm, đun
sôi trong nước tro khoảng 30 phút, đến khi vải đạt được màu và mềm như ý muốn mới
thôi. Khi nhuộm xong, họ dùng sáp ong bôi lên mặt vải, lăn trên đá để vải được bóng
mịn, bền, đẹp.
Không chỉ là tiêu chí để đánh giá con người, lanh còn là hình ảnh tượng trưng
cho khát vọng tình yêu của trai gái người Mông, trong dân ca Mông, hình ảnh người
phụ nữ luôn xuất hiện và gắn liền với lanh. Lanh còn là khát vọng về một cuộc sống
gia đình đầm ấm, yêu thương
Từ chất liệu trong tự nhiên là lanh, là chàm, với bàn tay tài hoa của mình, người
phụ nữ dệt nên vải, nhuộm màu cho vải, tạo hoa văn cho vải…và dệt thành váy áo, mũ
khăn. Bộ váy mới của người phụ nữ Mông được mặc khi đi chợ, đi đám cưới, trong
các dịp lễ tết “Ngày xuân, má đứa nào cũng như hoa đào, miệng đứa nào cũng mọng
như quả hồng chín, đứa nào cũng mặc những bộ váy đẹp cả năm đi nương không được
mặc” [28, tr.197]. Đó là hình ảnh mẹ già trong Tiếng đàn môi sau bờ rào đá “Mẹ già
định mặc váy áo đẹp đến thế đi đâu? Hết mùa cưới rồi, họ hàng chắc cũng không còn
ai cưới vợ cưới chồng cho con nữa. Mẹ già đi đâu? Hay là mẹ già định đi hội chợ hai
bảy tới đây?” [28, tr.15]; là cô Chía trong Cột đá treo người “Năm Chía mười lăm
mười sáu, vẫn đi chơi với mấy đứa em thì bọn con gái cùng tuổi Chía đã biết mặc váy
áo đẹp đi hội hát gầu plềnh rồi” [28, tr.100], hay là Vi trong Giống như cái cối nước
“Hôm nay Vi cũng mặc bộ váy áo của mẹ, bộ váy áo bằng vải nhung màu xanh, rất
mềm, rất vừa vặn” [28, tr.140]. Trước khi đi lấy chồng, người mẹ chuẩn bị cho con gái
bộ váy áo thật đẹp "Trong cái hòm ấy mẹ già cất một bộ váy đẹp lắm, thêu bảy màu
như cầu vồng, mẹ bảo bao giờ con May lấy chồng thì mẹ cho mang theo" [28, tr.15].
Bộ váy của người phụ nữ Mông được Súa mặc khi về nhà chồng với "lớp áo mới còn
thơm mùi lá cây nhuộm màu" [30, tr.23]. Người phụ nữ "đắt chồng" là người biết thêu
thùa, khâu vá: "Ngày ấy cả vùng này biết tiếng cô Mao đẹp người, nết cũng đẹp, con
gái bản trên làng dưới không ai dám nhận mình thêu thùa, dệt vải vừa nhanh vừa đẹp
74
như cô" [28, tr.20] bởi thế nên "cả vùng này chỉ có nhà anh Chúng chồng đủ bạc
trắng, đủ gạo, rượu như bố mẹ Mao thách cưới" [28, tr.20].
Trang phục của người phụ nữ Mông rực rỡ sắc màu nổi bật giữa thiên nhiên
chứ không ẩn mình, hòa mình vào thiên nhiên bởi sắc chàm như trang phục của các cô
gái Tày, Nùng. Ta bắt gặp một cô gái Mông ở phiên chợ "Đôi chân bé bé đi trong giày
vải xanh, quấn xà cạp trắng, váy lanh trắng tinh, áo hoa có kim tuyến lóng lánh…Nhìn
lên nữa, cặp má như vừa cời ở bếp ra, ba tấm khăn vấn thật khéo, tròn vành vạnh"
[28, tr.233]. Trong bộ trang phục của dân tộc mình, các cô gái Mông đã khiến bao trái
tim chàng trai xao động "khi Súa đi qua, chiếc váy nhiều tầng rung rinh theo nhịp lắc
của cặp mông là tất cả đàn ông, kẻ có vợ và chưa vợ, đã uống say cũng như cầm bát
rượu trên tay, người trên ngựa thì ngã xuống đất, người dưới đất thì ngồi phịch xuống
lối đi…đều nhìn Súa không chớp mắt" [30, tr.30]. Mỗi khi nhảy múa, tấm váy sặc sỡ
như cầu vồng càng khiến cho người phụ nữ Mông thêm phần duyên dáng "Chá à, mày
có biết điệu nhảy này không? Điệu nhảy của loài sóc vừa cắn hạt dẻ vừa nhảy trên
ngọn cây dẻ đấy. Tấm váy dày cộp, sặc sỡ như cánh một con bướm của Nhí xoay
tròn." [30, tr.64]. Theo quan niệm của người Mông, quấn xà cạp là để thể hiện sự kín
đáo, tế nhị của người phụ nữ, chiếc xà cạp trắng tinh được quấn quanh bắp chân càng
tôn vẻ đẹp khỏe khoắn của các cô gái "Từng bước chân với hai bắp chân tròn căng,
chắc nịch sau lớp vải xà cạp vẫn bấm vào mép đường chênh vênh bước đi" [30, tr.66],
hay “Con gái miền núi có đôi bắp chân đẹp là nhờ quấn xà cạp lúc đi làm, lúc ra khỏi
cửa” [28, tr.343].
Trang phục chính là văn hóa, và người phụ nữ giữ vai trò kết nối, chuyển hóa từ
tự nhiên sang văn hóa, sáng tạo văn hóa. Những người phụ nữ dù bận bịu hay lúc nghỉ
ngơi, trên nương rẫy hay lúc xuống chợ, trên tay họ bao giờ cũng mang theo cuộn lanh
thô để tước sợi. Từ những sợi lanh đứt đoạn, họ nối kết lại, dệt nên khổ vải, từ thô mộc
khô cứng, qua bàn tay họ đã biến thành mềm mại óng tơ, từ không màu sắc, qua đôi
bàn tay nhuộm chàm để nên màu biểu tượng của vùng đất này, từ màu trơn, cũng qua
đôi bàn tay và khối óc sáng tạo, họ dệt vào đó những hoa văn, họa tiết, biểu tượng.
Trên hết trang phục chính là văn hóa, là sự sáng tạo và sản sinh văn hóa của con
người, và đó là những người phụ nữ miền núi Đông Bắc.
75
3.1.2. Bếp lửa
Nếu như với nhân loại, biểu tượng bếp lửa (bếp lò) “tượng trưng cho sự sống
chung, cho mái nhà, cho sự liên kết giữa người đàn ông và người đàn bà, cho tình
yêu, cho tập hợp và sự giữ gìn lửa. Như là mặt trời, bếp lò làm cho mọi người gần
nhau bởi sức nóng và ánh sáng của nó – đó cùng là nơi đun nấu thức ăn. Vì vậy bếp
lò là trung tâm của cuộc sống, là cuộc sống được ban cho, duy trì và sinh sôi. Bởi
vậy, bếp lò được tôn kính trong tất cả các xã hội, nó trở thành một điện thờ, nơi con
người cầu xin sự bảo hộ của Thượng Đế, nơi thờ cúng, nơi cất giữ những bức tượng
và những hình ảnh thiêng liêng…Trong rất nhiều nền văn hóa, bếp lò gia đình đóng
vai trò trung tâm hoặc cái rốn của thế giới…” [4, tr.78]. Với người dân miền núi
cũng vậy, bếp lò là nơi linh thiêng, là nơi họ rất coi trọng “Ở bếp có con ma bếp, ma
bếp cai quản việc sinh đẻ của đàn bà và phù hộ cho việc chăn nuôi gia súc. Vì thế
không được dẫm chân lên bếp lò, không được gõ vào thành bếp, lúc nào muốn nhấc
chảo cám lợn ra phải cho một hòn đá vào giữa” [28, tr.35].
Người dân miền núi thường đun nấu trong ngôi nhà sàn nên hầu hết tất cả sinh
hoạt của họ thường diễn ra bên bếp lửa “Người lớn vây quanh bếp lửa, chất đầy củi,
đun nước pha chè bồm, luộc một nồi sắn thơm lừng” [28, tr.127]. Dường như mọi vật
dụng trong nhà đều có mùi khói bếp, một mùi rất đặc trưng “Liêu kéo tấm chăn vừa
dày vừa nặng, vừa nồng nồng mùi khói bếp lên sát cằm. Bây giờ Liêu mới nhận ra
rằng mọi thứ trong nhà đều có mùi khói. Chén nước khúc khắc, bát cơm gạo nương
cũng thoang thoảng mùi khói” [28, tr.175]. Khói bếp là hình ảnh quen thuộc trong các
gia đình người dân miền núi “Gần nhất là Sán Séo Tỉ, lúc trời không có sương mù có
thể nhìn thấy khói bếp bốc lên từ mấy nóc nhà” [30, tr.27,28]. Thậm chí mùi khói bếp
còn được sử dụng trong việc miêu tả nội tâm nhân vật khi vui lẫn khi buồn với những
cung bậc tình cảm khác nhau. Dân trong Mặt trời lên, quả còn rơi xuống thoáng có
chút khó chịu với mùi đặc trưng của khói, của mùi mồ hôi lúc nằm cạnh vợ khi đang
xao lòng nghĩ về người đàn bà khác “Từ mái tóc dài xổ tung loáng thoáng mùi khói
bếp, mùi mồ hôi bay ra” [28, tr.201]. Có thể nói, bếp lửa và khói bếp là một nét đặc
trưng tiêu biểu cho cuộc sống sinh hoạt của người vùng cao.
Trong gia đình của những người miền núi, người gắn liền với bếp lửa, giữ trọng
trách duy trì ngọn lửa, sự sống chính là những người phụ nữ, bởi đặc tính thiên chức
76
của họ “Giữa sàn, bếp lửa vẫn còn ấm sực nhờ hai gộc củi lớn chụm vào nhau đang
ngun ngủn cháy không thành ngọn. Trong gia đình người Tày lửa không bao giờ được
tắt. Khi nào bếp không có lửa ắt là điểm gở. Người già chọn con dâu, chỉ cần nhìn
cách chụm lửa, cách đun bếp là đủ biết có khéo, có đảm hay không” [28, tr.124], hay
“Thế nên đàn bà Thài Phìn Tủng có ở trong nhà hay đi ra khỏi nhà chỉ nhìn lên mái
tranh có khói bếp bay lên hay không mới biết” [28, tr.77].
Hình ảnh bếp lửa được nhắc đến rất nhiều trong các sáng tác của Đỗ Bích Thúy.
Trong màu khói lam chiều lúc hoàng hôn phủ xuống bản, người phụ nữ vội vã trở về,
lặc lè gùi gánh, bó cỏ phủ kín cả thân hình, họ nhanh chóng khuất lấp sau cánh cổng
gỗ được mở. Những người phụ nữ lại chuyển sang không gian gia đình, với bao bộn bề
lo toan. Nơi bếp lửa (bếp lò) luôn gắn với hình ảnh những người phụ nữ tần tảo, cặm
cụi bên chảo cám lợn sôi sùng sục, bên nồi rượu ngô tỏa men “Trên nóc bếp lò, cạnh
chảo cám đang sôi sùng sục, có một cái muôi gỗ” [28, tr.78]. Đó là hình ảnh của Chía
trong Cột đá treo người “Lùi lũi làm, từ ngày này sang ngày khác, quanh quẩn với cái
bếp lò nấu rượu” [28, tr.96], là Kía trong Gió không ngừng thổi “Ngày đầu tiên về nhà
chồng, mẹ chồng dẫn Kía xuống bếp” [28, tr.35], là hình ảnh của mẹ già, của Mao
trong Tiếng đàn môi sau bờ rào đá “Mẹ già đi ra, bảo mang củi ướt ngoài chuồng
ngựa vào cho mẹ gác lên bếp lò” [28, tr.19], “Mẹ già đang ngồi hong tay trước cửa
bếp lò mới bén lửa, giục May lấy nước ấm đi rửa chân tay” [28, tr.30], “Mao dọn dẹp
nhà cửa xong cũng không đi ngủ mà mang bó mùng ra thái. Hai người không ai nói gì,
chỉ nghe tiếng dao sắc thái vào thân mùng phầm phập. Mao đứng dậy, đổ dọc mùng
vào chảo cám, cúi xuống đẩy mấy gộc củi vào sâu trong bếp…” [28, tr.22,23]. Hay là
hình ảnh của Súa trong Lặng yên dưới vực sâu “Đúng là đàn lợn đang thi nhau kêu
gào, gặm dóng chuồng sồn sột. Súa vội vã vào thẳng bếp lò, định lấy cám trong chảo”
[30, tr.41].
Bếp lò cũng gắn với sự ấm áp, sự lôi cuốn và cả vẻ đẹp, men say của người phụ
nữ. Đó là hình ảnh cô gái Mông xinh đẹp như Nhí với sự lôi cuốn được nhà văn mô tả
trong Lặng yên dưới vực sâu “Lưng Nhí lạnh buốt còn ngực, bụng, chân tay lại nóng
rừng rực như than còn trong lò” [30, tr.99], là cô gái May trong Tiếng đàn môi sau bờ
rào đá “Người May nóng gần bằng cái bếp lò, mẹ già bảo thế” [28, tr.14], hay là cô
77
gái Vi trong Cái ngưỡng cửa cao “Người Vi nóng rừng rực như bếp lò lúc được lửa”
[28, tr.70].
Trong những ngôi nhà luôn là hình ảnh những người phụ nữ tần tảo, họ phải
thức dậy từ sớm tinh mơ để chuẩn bị bữa ăn cho cả gia đình. Vì đặc thù sống chủ yếu
trên các rẻo núi cao nên ngô là cây lương thực chính. Ngô là một trong ba loại cây
lương thực quan trọng (lúa, ngô, sắn) đã giúp đồng bào vùng cao vượt qua khó khăn để
đứng vững và tồn tại giữa một vùng thiên nhiên khắc nghiệt “Năm nào cũng vậy, sau
mùa thu hoạch bao giờ trên cái gác chạy dài từ đầu nhà đến cuối nhà cũng đầy chật
lúa ngô. Ngô túm thành từng túm treo lủng lẳng, lúa xếp bên trên” [28, tr.224], “Năm
nay ngô được mùa, bắp nào cũng to, dày hạt, cầm nặng trình trịch, năm nào cũng
được thế này thì người Mông không bao giờ lo đói” [28, tr.39], hay “Ngô giống mới
cho hai ba bắp một cây, bắp nào cũng to, nhiều hạt” [28, tr.351].
Trong cái nắng gió khắc nghiệt của đá núi, không gian núi, khi cây trồng xanh
mướt phủ kín những nương đá, người phụ nữ cặm cụi, mồ hôi nhễ nhại đang cào cỏ,
vun gốc, gương mặt bừng đỏ vì nắng trên cao. Việc khai hoang, gieo trồng, chăm sóc
đều do một tay những người phụ nữ miền núi vất vả làm lụng “Nhưng bà vẫn đủ sức
đeo một quẩy tấu ngô giống lên gieo trên nương” [30, tr.51]. Rồi đến khi thu hoạch,
cũng vẫn là hình ảnh của những người phụ nữ địu quẩy tấu lên nương gùi những quẩy
tấu nhồi chật ních và cao ngất những bắp ngô vàng ươm đi phăng phăng vượt đèo dốc,
đá nhọn về nhà. Đó là hình ảnh của Súa trong Lặng yên dưới vực sâu “Gió từng đợt
đang cuồn cuộn đổ ra từ trong khe núi như muốn hất ngược cả Súa và bó ngô trở lại
chân nương” [28, tr.66], hay “Súa ngã ngữa ra sau vì giật mình. Hai sợi dây gùi ngô
vẫn chằng qua vai đau điếng” [28, tr.67].
Vào mỗi mùa thu hoạch, khi ngô tươi dùng không hết, người ta sẽ phơi khô để
dành “Súa đứng dậy, lê đến sau đống cây ngô khô ở góc sân, đợi ông già ra khỏi nhà.
Những bó cây ngô vừa khô tới, vẫn còn mùi ngòn ngọt đọng lại, váng vất” [30, tr.96].
Và cũng từ những hạt ngô khô này, người phụ nữ Mông đã nghĩ ra món mèn mén ăn
thay cơm hàng ngày “Súa dắt con Nhí vào bếp, lấy ngô cho vào chõ, đồ mèn mén” [30,
tr.34], hay hình ảnh gia đình ấm áp ăn mèn mén “Tối tối, ba ông bà cháu lại quây
quần bên bếp, ăn mèn mén với canh rau cải, thỉnh thoảng có cá khô nướng, có thịt kho
mặn” [30, tr.52].
78
Cách làm mèn mén khá cầu kì, ngô làm mèn mén là ngô tẻ được sàng lọc cẩn
thận, chọn những hạt đều nhau, bột ngô xay ra đem tẩm nước cho ẩm rồi bắc lên bếp
đồ. Mèn mén muốn ngon phải đồ hai lần, lần một sau khi thấy hơi nước bốc lên đầu
miệng chõ là có thể bắc ra, bột ngô đổ ra mẹt to rồi đánh tơi ra để nguội mới cho vào
đồ lần hai. Làm như vậy, mèn mén ăn sẽ dẻo, thơm và đậm đà hơn. Mèn mén là món
ăn truyền thống của đồng bào Mông từ xa xưa. Đứa trẻ lớn lên được người mẹ, người
bà truyền dạy cho cách làm mèn mén. Người bà ốm đã sắp qua đời nhưng vẫn nhớ hỏi
thằng cháu nội có còn nhớ cách đồ mèn mén hay không "Vừ nhớ cách đồ mèn mén rồi
nhỉ" [30, tr.52].
Và cũng từ chất liệu chính là ngô, người phụ nữ không chỉ chuyển hóa thành
thức ăn (mèn mén) mà thành cả thức uống đặc trưng của miền cao nguyên đá. Trên rẻo
đất xinh đẹp này, những cô gái được thừa hưởng nước da của xứ lạnh như đẹp hơn
trong những bộ đồ váy truyền thống muôn sắc màu và bát rượu ngô nồng thắm “Ngô
để dành nấu rượu là ngô trồng trên những hốc đá cao nhất, nơi thừa nắng thiếu nước,
có thế bát rượu đầu tiên chảy ra đem đốt mới cháy đùng đùng cho ngọn lửa xanh lè
được” [36, tr.243]. Rượu là văn hóa, là sự tinh lọc, là thứ tinh túy chắt ra từ đất, đá,
nước, nắng, gió cao nguyên và mồ hôi con người. Những hạt ngô không sử dụng hết
được các gia đình dành để nấu rượu. Công đoạn nấu rượu ngô cũng không phức tạp,
nhưng để nấu được một chum rượu ngô ngon thì không phải ai cũng làm được. Rượu
thường do phụ nữ nấu, phụ nữ ủ men, cất rượu và cũng chỉ có phụ nữ mới có thể tạo ra
được thứ rượu ngon nhất. Có lẽ việc vất vả nhất để nấu được nồi rượu ngô đó là việc
đi lấy nước và củi, bởi ở cao nguyên đá hầu như lúc nào cũng trong tình trạng thiếu
nước, còn chuyện kiếm củi trên vùng đá thì cũng không mấy dễ dàng.
Rượu trong văn hóa núi là một đặc trưng riêng biệt, là chất xúc tác để kết nối bè
bạn, để giao duyên và trút bầu tâm sự. Rượu không thể thiếu được trong đời sống hàng
ngày, trong các sự kiện trọng đại, nghi thức tâm linh. Rượu dùng khi vui và cũng uống
cả khi buồn, cái say của vui và buồn là hai cung bậc trái ngược nhau, cần cho trạng
thái cuộc sống, nhất là với sự khó khăn, lao động cực nhọc vất vả như miền núi Đông
Bắc. Sau những ngày vất vả, ngày Tết, ngày Lễ, đặc biệt là ngày chợ, người Mông
thường háo hức rủ nhau xuống chợ. Quan sát chợ phiên của cao nguyên đá, ta sẽ thấy
không phải thứ gì khác mà chính là rượu ngô mới là thứ níu chân đàn ông, đàn bà, trai
79
gái, già trẻ ở lại chợ cho đến xế chiều. Người ta cùng quây quần bên những gùi rượu,
bàn rượu để dốc bầu tâm sự, rất tình cảm “Rượu ngon, bát nào cũng đong đầy, uống
rượu uống cả thứ khác” [28, tr.391]. Như vậy, rượu ngô không chỉ là thức uống bình
thường nữa, nó được sinh ra từ cuộc sống lao động vất vả, mang trong mình giá trị tinh
thần và tiếp thêm sức sống cho cuộc sống ở một nơi đầy khắc nghiệt.
3.1.3. Tiếng đàn môi
Sinh hoạt văn nghệ dân gian của người miền núi được thể hiện sinh động qua
âm thanh réo rắt của đàn môi. Là bộ phận dân cư đã trải qua nhiều cuộc thiên di trong
lịch sử, các dân tộc thiểu số đều mang sẵn trong mình phẩm chất văn nghệ và khả năng
sáng tạo văn nghệ. Khảo sát các tác phẩm của Đỗ Bích Thúy chúng tôi nhận thấy,
tiếng đàn môi được xuất hiện trong thế đối sánh với hát dân ca của người miền núi. Dù
là biểu tượng âm thanh nhưng sức chiếu tỏa cả đàn môi trong tâm thức người dân miền
núi đặc biệt là các chàng trai, cô gái vô cùng rõ nét. Nó là lá thư được viết bằng âm
thanh, là lời tỏ tình của chàng trai với cô gái mình yêu, và đôi lúc như lời thở than,
trách móc “Tiếng đàn môi từ rất xa kia lại giống như mũi tên xuyên qua sương dày
đặc lao đến. Tiếng đàn môi buồn rầu, trách móc. Mao lặng lẽ khóc, từ hôm ấy Mao
không bao giờ nghe tiếng đàn môi dành cho riêng mình nữa” [28, tr.40]. Xuất phát từ
tâm lý bản địa, giá trị chủ yếu của âm nhạc các dân tộc thiểu số là ở chỗ các bài hát
phản ánh được trung thực những tình cảm, những ước mơ trong sáng giản dị của con
người. Từ những âm thanh ấy, ta có thể nhận thức được khá đầy đủ về nhiều mặt của
đời sống xã hội, đời sống tình cảm của người Mông, càng thấy họ là những người giàu
tình cảm, rất coi trọng tín nghĩa.
Người Mông thường chơi các nhạc cụ như: sáo, đàn môi, khèn…cùng với
những điệu hát của dân tộc như tiếng hát tình yêu (Gầu plềnh), tiếng hát cưới xin (Gầu
xuống), tiếng hát làm dâu (Gầu la nhéng), tiếng hát mồ côi (Gầu tú gua)…Với người
Mông, âm nhạc dân gian có vai trò vô cùng quan trọng, nó là linh hồn của người Mông
gửi gắm, thể hiện lòng mình với người yêu, với núi rừng, với thiên nhiên hùng vĩ.
Đàn môi là loại nhạc cụ dùng để tỏ tình, là nhạc cụ không thể thiếu trong tiếng
hát tình yêu của các chàng trai, cô gái người Mông. Âm thanh của đàn môi cũng chính
là tiếng lòng của chàng trai với các cô gái bản, là nét tươi sáng và giản dị của tâm hồn
80
người Mông. Trong những đêm trăng sáng, chàng trai đến nhà cô gái mình đem lòng
yêu mến cùng chiếc đàn môi, để rồi nhờ âm thanh dìu dặt của cây đàn ấy gửi tới cô gái
tâm sự của lòng mình. “Sau bờ rào đá, có tiếng đàn môi tự dưng cất lên, gọi mãi, gọi
mãi. Tiếng đàn môi ấy May gặp ở mấy phiên chợ rồi, lần nào cũng đuổi sau lưng, May
đi nhanh thì theo nhanh, May đi chậm thì theo chậm, bây giờ lại dám theo về tận nhà
người ta nữa … Tiếng đàn còn quanh quẩn mãi bên ngoài mới chịu đi” [28, tr.14,15].
Nhưng cũng lạ thật, sao tiếng đàn môi kia có thể giãi bày được tâm tình của chủ nó tài
tình đến vậy. Tiếng đàn môi gọi bạn tình tha thiết bên bờ rào đá “tiếng đàn cứ gọi mãi,
gọi mãi, mà tiếng đàn môi đêm nay cũng có gì khang khác, dài hơn, trầm hơn, ngập
ngừng hơn, vẫn tràn qua bờ đá vừa dày vừa cao như suối chảy. Nghe bao nhiêu lần
mà lần nào May cũng hồi hộp, tim đập thình thịch” [28, tr.31], rồi cả tiếng đàn môi
oán trách, đau khổ khi người con gái kia nỡ vội lấy chồng “Trước ngày cưới, cả đêm
tiếng chân ngựa bồn chồn ngoài bờ rào đá làm Mao thức trắng. Mờ sáng thì con ngựa
ấy bỏ đi, một lúc sau thì tiếng đàn môi cất lên từ sau hẻm núi. Tiếng đàn môi nghe rất
xa. Tiếng đàn môi từ rất xa kia lại giống như mũi tên xuyên qua sương dày đặc, lao
đến. Tiếng đàn môi buồn rầu, trách móc. Mao lặng lẽ khóc, từ hôm ấy Mao không bao
giờ nghe tiếng đàn môi dành cho riêng mình nữa” [28, tr.40]. Tiếng đàn môi là lời tâm
tình thủ thỉ của những đôi lứa yêu nhau. Âm sắc của đàn môi được mô phỏng theo làn
điệu dân ca Mông vì vậy nó tạo nên thứ ngôn ngữ âm nhạc rất riêng và độc đáo.
Đàn môi là loại nhạc cụ tuy đơn giản về hình thức nhưng lại diễn tả được cảm
xúc của con người, thể hiện tâm hồn dung dị, đẹp đẽ của con người, đó là nhạc cụ có
vai trò quan trọng trong đời sống văn hóa của người Mông. Nếu như người Dao có hát
Páo Dung, người Tày có lượn cọi thì người Mông có khúc Khơ chìa planh để bày tỏ
tình yêu đôi lứa. Nam nữ thanh niên Mông hát Gầu plềnh khi đi chơi chợ, trong ngày
hội Gầu tào hay trên nương rẫy. Đó là lời cô gái hát tình ta sâu nặng, đắm say đến con
chim dìa cơu cũng phải xúc động “Khi buổi sớm tinh mơ đôi ta cầm tay nhau dạo bên
bờ giếng nước, e rằng con chim dìa cơu ung dung bay qua uống phải, sẽ rung động
chín mươi tám trái tim. Khúc hát này phiên chợ nào Súa và bọn con gái cũng hát cho
người yêu nghe” [30, tr.11]. Những chàng trai cô gái Mông bày tỏ tình cảm với nhau
qua tiếng đàn môi, tiếng sáo, qua tiếng hát chứ không dùng lời nói. Những đứa trẻ
Mông sinh ra từ khi còn “ở trên lưng mẹ đã biết nghe tiếng hát của đám gái mặc váy
81
hoa, chân quấn xà cạp trắng tinh, vừa đi vừa soi gương xuống chợ” [30, tr.55]. Khi
Vừ bị mất người yêu “Vừ lấy khơ chìa planh ra gọi Súa: Yêu nhau đến dường ấy,
ngày mai lúc trời mờ sáng anh sẽ quay bước, quay vết chân về, thủng thỉnh trèo dốc
quanh co cao vút. Liệu em có lòng tốt, đem vật quý gì tặng anh để mặc mùa chống
rét..?” [30, tr.26]. Lời hát bày tỏ tâm sự của chàng trai với người yêu thật khéo léo, tế
nhị, mượn cách nói ẩn dụ để nói hộ lòng mình. Tiếc rằng, người yêu của anh không thể
ngờ được bài hát ấy lại chính là bài hát dành cho mình. Bên cạnh khúc hát tình yêu là
khúc hát làm dâu “Khúc hát lảnh lót, thanh mảnh bay vun vút lên cao” [30, tr.51].
Những câu hát dân gian Mông cất lên “những câu hát dịu dàng, mảnh dẻ và da diết có
thể vắt ngang được dãy Tây Côn Lĩnh như một dải mây. Những câu hát chứa đựng mọi
niềm vui và nỗi buồn, gặp mặt và chia tay, yêu thương và nhớ nhung, ước mơ và thất
vọng…những câu hát nuôi tình yêu suốt cuộc đời, mặc cho cơn khát làm khô từng
mỏm đá, mặc cho gió lạnh làm tuyết rơi như quả bông nở bị gió cuốn đi” [30, tr.64].
Họ hát cho vơi đi nỗi buồn, hát cho cuộc sống rộn ràng sắc xuân, hát cho tình yêu nở
hoa kết trái…
Về cơ bản, những biểu tượng mà chúng tôi vừa triển khai đều được xem xét như
một mã văn hóa trong mô thức truyền thống - hiện đại của văn hóa miền núi. Hệ thống
biểu tượng đó góp phần tích cực vào việc phản ánh tư duy, tình cảm, thói quen sinh
hoạt và những nét bản sắc riêng biệt của các dân tộc sống ở vùng núi cao, đặc biệt là
những người phụ nữ. Đồng thời, ở tầm cấp tổng quan, nó tạo nên diện mạo folklore
văn hóa miền núi thuần túy, tạo sự khu biệt giữa văn hóa miền ngược và văn hóa đồng
bằng.
3.2. Ngôn ngữ
Trong sáng tác văn học, ngôn ngữ hay giọng văn là nòng cốt tạo nên sức hấp
dẫn và độc đáo riêng cho tác phẩm. Ngôn ngữ là chất liệu, là phương diện biểu hiện
mang tính đặc trưng của văn học [13, tr.233]. Ngôn ngữ người kể chuyện, ngôn ngữ
nhân vật tạo nên những giá trị nghệ thuật của tác phẩm tự sự thông qua đối thoại. Nhờ
đối thoại mà các vấn đề trong tác phẩm đặt ra được xem xét dưới những điểm nhìn
khác nhau.
82
3.2.1. Ngôn ngữ đối thoại
Ngôn ngữ đối thoại trong tác phẩm thường gây ra được những tình huống bất
ngờ và tạo cảm giác thực của đời sống đã khúc xạ qua lăng kính của nhà văn. Ngôn
ngữ đối thoại đóng vai trò đáng kể trong việc khắc họa tính cách nhân vật. Mỗi nhân
vật được nhà văn quan niệm như một ý thức, một tiếng nói, một chủ thể độc lập. Nhà
văn không còn ở vị trí đứng trên, lấn lướt nhân vật, mà hòa nhập, tham gia vào cuộc
đối thoại của nhiều ý thức độc lập, qua hệ thống hình tượng.
Nhằm khắc họa rõ nét bản tính con người miền núi, ngôn ngữ đối thoại trong
văn xuôi Đỗ Bích Thúy thường là cách đối thoại khuyết chủ ngữ, phản ánh phần nào
thói quen giao tiếp của họ:
“- Về sớm thế? Sao không để sáng hẳn ra, sương tan cho đỡ lạnh.
- Ừ… Ở nhà có việc gì không?
- Vẫn thế thôi, chỉ có mấy thanh chuồng ngựa sắp gãy” [28, tr.44]
Qua cách giao tiếp người đọc có thể nhận thấy đó là những người ngang bằng về
vai vế trong gia đình, không còn khoảng cách xã giao thông thường mà là sự thân mật
rất tự nhiên của người miền núi. Ở một tình huống khác, ta cũng có thể thấy rõ ngôn
ngữ đối thoại của người dân tộc thiểu số qua cách nói chuyện không hiển lộ chủ thể:
“- Hỗ trợ...là phát cho mỗi nhà một ít à?
- Phát cho mỗi nhà một ít, nhưng một thời gian sau thì phải trả.
- Thế thì phát làm gì? Gọi là hỗ trợ sao được.
- Ơ hay, hỗ trợ vốn cơ mà. Vốn là cái gì? Là cái mà mình có nó rồi phải nghĩ ra
cách làm cho nó sinh con đẻ cái, làm cho nó một thành hai, thành ba...
- Làm là làm thế nào?” [29, tr.17]
Sử dụng ngôn ngữ đối thoại của nhân vật cũng là một cách để phác họa tính
cách và bản chất con người miền núi. Cách hô - ứng tự nhiên sẽ ảnh hiện trong tâm trí
người tiếp nhận những ấn tượng về tâm tính con người vùng cao:
“- Cô Kim, tại sao cô dám vào tận nhà người ta ăn cắp máy bơm? Cô có đi với ai nữa
không? Có đứa nào đứng ngoài cảnh giới cho cô không?
83
- Cường à, mình không ăn cắp. Đừng nói thế. Mình nghèo quá, mấy hôm nay đứa
bé bị ốm, muốn đưa đi viện thì phải có tiền, mình nghĩ mãi mới đến nhà Phấn. Nhà
Phấn giàu quá, mình định xin cái máy bơm nhà nó. Một cái máy bơm chỉ bằng hai cây
cam thôi mà...
… Cô Kim, trả lời nghiêm túc đi. Cô đã thực hiện bao nhiêu vụ trộm tương tự ở thôn
này rồi? Cô bắt đầu ăn trộm từ bao giờ? Có phải mấy vụ mất gà gần đây ở trong thôn
cũng đều do cô làm không? Cô mang gà đi đâu bán?
- Mình nói rồi mà. Mình không ăn trộm. Mình chỉ định xin nhà Phấn cái máy bơm
thôi, nhà mình nghèo quá, con thì bé, chồng không có... Mình không lấy gà nhà ai hết.
Mình khát nước quá, cho mình xin nước uống với...” [29, tr.2].
Ngôn ngữ đối thoại của nhân vật miền núi gần với ngôn ngữ đời thường, giàu
tính khẩu ngữ thể hiện cách nói dân dã của con người. Bên cạnh đó, nhà văn còn sử
dụng ngôn ngữ trực tiếp của nhân vật để nói lên những suy nghĩ, trăn trở của nhà văn
về những vấn đề đang tiếp diễn trong cuộc sống của chính họ. Đối khi cách thức giao
tiếp còn thể hiện rõ ngữ điệu của người bản địa. Cách sử dụng các quán từ “ầy”, “à”
đậm chất giao tiếp nơi vùng cao:
“- Bố nó ngủ chưa?
- Ngủ rồi. Có chuyện gì à?
- Ừ, có chuyện. Bố nó à...
- Gì thế?
- Có phải bố nó... bố nó... biết...
- Ầy dà, có chuyện gì mà ấp úng mãi thế, nói tuột ra xem nào” [30, tr.156].
Cùng với ngôn ngữ đối thoại là ngôn ngữ miêu tả tâm lý nhân vật nhằm đi sâu
vào thế giới nội tâm đầy bí ẩn của con người. Có thể nói, tính đến thời điểm hiện tại
nhân vật Kim trong tiểu thuyết Bóng của cây sồi được nhà văn dành cho nhiều sự quan
tâm nhất. Tâm lý cô gái này diễn biến thật phức tạp khi cô biết người cô yêu chỉ ngày
mai thôi sẽ làm chồng người khác: “Kim vùng dậy, chạy thật nhanh ra khỏi rừng. Gai
cào vào váy, tiếng vải rách loạt xoạt. Mặc kệ. Kim muốn đuổi kịp đám rước dâu, lôi
Phù trở lại nhà Kim, đợi Kim thay váy áo mới, vấn khăn, cho dù Kim không đeo vòng
84
cổ, hoa tai, không có xà tích bạc thì Kim vẫn đẹp gấp một trăm lần cô dâu kia, và Phù
phải đón Kim từ cuối làng về đầu làng, ngang qua cây sồi, chứ không phải đón Mai.
Tại sao Phù không làm cái điều mà cả hai người cùng nghĩ đến? Nếu Phù vẫn không
tin Kim thì Kim sẽ chặt đứt một ngón tay, cho máu chảy đầy bát, đầy chậu, cho cả Lao
Chải này nhìn xem trong người Kim máu gì đang chảy” [29, tr.95]. Chẳng có ở nơi
nào, tâm lý người con gái lại đau đớn, vật vã như ở miền núi cao. Ngôn ngữ đằm hậu
của nhà văn đã tái hiện cuộc đời, thân phận của những người phụ nữ miền núi suốt đời
bị chiết tỏa dưới ách thống trị của tín ngưỡng phong kiến.
3.2.2. Lối nói so sánh
Những trang viết của Ðỗ Bích Thúy luôn mang đậm hơi thở cuộc sống vùng
cao từ khung cảnh thiên nhiên, đời sống sinh hoạt đến tâm hồn, nếp nghĩ suy của con
người qua giọng văn bình dị đầy sức lôi cuốn, đặc biệt ở cách sử dụng cách nói ví von,
so sánh giàu biểu cảm - một đặc trưng trong tư duy người dân tộc thiểu số, có nguồn
gốc từ tục ngữ dân gian: "Con gái à, làm dâu mà không làm mẹ thì chỉ là cái cục đá kê
chân cột nhà chồng thôi. Ở hai mươi năm, ba mươi năm, ở đến lúc chết cũng chỉ là
cục đá kê cột thôi” [28, tr.60], khi ám dụ về sự nghèo khó của người dân miền núi
“căn nhà chỉ to hơn cái chuồng trâu nhà giàu một tí”.
Đỗ Bích Thúy đưa vào trong tác phẩm của mình một cách sinh động đó là ngôn
từ gắn bó với hình ảnh thiên nhiên. Người miền núi sống gần với thiên nhiên bởi vậy
cách nói của họ cũng thường xuyên được so sánh với cây cỏ, chim muông, sông suối:
“Cái giường nằm một nửa, nửa kia có gối mà không có người, gió chạy rầm rập trên
mặt chiếu hoa” [28, tr.53]; “Không có chiếc vòng, cánh tay Vi trơn như một con
rắn...” [28, tr.70]; “Một bày sóc lớn sóc bé năm sáu con lò dò xuống suối, đuôi lềnh
bềnh trên mặt nước như bông lau” [28, tr.115]. Cách nói đó thể hiện bản tính thật thà,
chất phác của những con người suốt đời đầu tắt mặt tối nhưng cũng rất lạc quan,
phóng khoáng. Đến cả những câu nói mắng mỏ, vẫn thấy một chút gì đó thật gần gũi,
xót xa: "Cái đầu ngu thế, ăn bao nhiêu mèn mén, bao nhiêu muối mà vẫn ngu. Vợ
mình tự mình mang về, tự mình lấy mất đời con gái người ta như vùi củ sắn vào bếp,
giờ bỏ mặc người ta mà nghĩ đến người khác được à?" [30, tr.213]. Những hình ảnh
ví von của Đỗ Bích Thúy luôn khiến độc giả cảm thấy thú vị. Bởi nhà văn luôn đưa tới
cho ta những bất ngờ bằng những so sánh không trùng lặp mà luôn thay đổi phù hợp
85
với hoàn cảnh và tính cách nhân vật “Giờ đứng đây, nhìn xuống Sủng Thài nằm tít
dưới sâu kia, lại nhớ đến lúc lăn lông lốc như một quả bí từ trên này xuống” [28,
tr.365], “Chía như cái vỏ chuối người ta ăn rồi vứt bỏ” [28, tr.101].
Trong các tác phẩm của mình, khi miêu tả vẻ đẹp của người phụ nữ miền núi,
Đỗ Bích Thúy thường hay so sánh với những sự vật, sự việc. Đó là vẻ đẹp của những
cô gái Mông “Mai là bông hoa hoa sắp nở rực rỡ nhất trường” [28, tr.74], “Ngày
xuân, má đứa nào cũng như hoa đào, miệng đứa nào cũng mọng như quả hồng chín”
[28, tr.197], “Má Thinh vẫn đỏ như hoa đào mùa xuân” [30, tr.203]; “Tại sao một
người đàn bà không đẻ được nữa lại cứ nở ra như một bông hoa chuối đỏ rực, căng
mọng thế này” [30, tr.38], “con gái Pụ Cháng thế nào má cũng hồng như quả lê chín”
[28, tr.426]. Trong truyện Lặng yên dưới vực sâu, nếu cô gái tên Súa được ví như bát
rượu nếp ủ kĩ “Gái mười lăm như quả táo sắp chín còn Súa như một bát rượu nếp ủ kĩ,
chưa cất thành rượu, từ xa ngửi thấy đã say…” [30, tr.30], hay như bông anh túc
“đừng như bông anh túc rực rỡ mà héo úa. Những bông anh túc mỗi năm nở một lần
trong hõm núi sau nhà” [30, tr.71] thì Nhí lại được ví như bông tam giác mạch “Lại là
một đứa bé gái xinh như một bông hoa Tam giác mạch sắp tàn. Nó đúng là một bông
tam giác mạch. Mảnh mai, xinh xắn, nhưng tam giác mạch chỉ đến khi sắp tàn mới vào
độ đẹp nhất” [30, tr.21]. Vẻ đẹp của Duân trong Mặt trời lên, quả còn rơi xuống là
hình ảnh “Ngày mới về với Dân đôi vai Duân tròn lắm lại mềm như hai nắm cơm nếp
mùa” [28, tr.203]. Vẻ đẹp của Kim trong Bóng của cây sồi là hình ảnh “cục than hừng
hực” hay “mùi bướng chín nẫu từ cơ thể Kim…” [29, tr.29]. Vẻ đẹp của bà Cả trong
Chúa đất được ví như “bông hoa đào vừa nở ở đầu cành” [32, tr.12], còn với Vàng
Chở là hình ảnh “Trông Chở lúc nào cũng như một bó đuốc đang cháy…Chở có cái
kiểu đi uốn éo như rắn bò” [32, tr.21-22]. Cô Xính với vẻ đẹp trong trắng, thơ ngây
“Răng Xính trắng lóa cả mắt. Còn mắt thì như hai sợi chỉ” [32, tr.109], là “một đám
mây trắng thật là trắng lững lờ mãi trên bầu trời” [32, tr.111].
Không chỉ dùng lối so sánh để miêu tả vẻ đẹp của các cô gái, Đỗ Bích Thúy còn
dùng khi miêu tả tiếng hát của họ. Tiếng hát của Xính trong Chúa đất “trong như giọt
sương đang rơi từ trên ngọn lá xuống lưng chừng núi” [32, tr.106], “tiếng hát như một
dòng suối trong vắt, chảy trên những viên đá đầy màu sắc, dưới ánh nắng vàng như
mật ong, thỉnh thoảng một con cá nhỏ sáng lấp lánh quẫy lên” [32, tr.112], hay là
86
tiếng hát của Vi trong Giống như cái cối đá nước “Và tiếng hát của Vi đã bay lên cao,
cao hơn cả chiếc mâm đỏ ngất ngư, cao hơn cả những quả còn có tua rua đỏ vun vút
đan vào nhau, chạm vào một quả còn của người thắng cuộc” [28, tr.142].
Đặc biệt khi diễn tả những tâm tư tình cảm, đời sống nội tâm của người phụ nữ,
Đỗ Bích Thúy cũng sử dụng lối nói so sánh. Cô gái tên Súa trong Lặng yên dưới vực
sâu vô cùng đau đớn khi biết người mình lấy không phải là Vừ - người con trai Súa
yêu trên U Khố Sủ “Và người trai kia ơi, lúc ấy mới biết rằng lồng ngực Súa đã từng
vỡ tan ra như quả lê chín rơi trúng phiến đá. Đúng là lồng ngực Súa đang vỡ ra thành
từng mảnh, đang lạo xạo sau lớp áo mới còn thơm mùi lá cây nhuộm màu đây” [30,
tr.23], hay khi nhìn thấy chồng mình đang quấn quýt trên giường cùng với một người
đàn bà khác “Súa cảm thấy trong bụng mình ruột gan đang nhào lộn như có một bàn
tay nào đó thò vào mà bóp, vặn” [30, tr.42]. Chính vì vậy mà Súa được so sánh như “
cái chõ gỗ đã vét hết mèn mén, một hạt li ti cũng không còn. Súa biết, điều ấy còn làm
cho Phống kinh sợ hơn. Thà Súa cứ lồng lên như một con bò điên, thậm chí húc cho
chồng lòi ruột ra còn dễ chịu. Đằng này Súa y như một cái bóng. Cái bóng biết đi lại,
làm lụng, nấu nướng, cho con bú, nựng con, ngay trước mặt mà Phống không sao
chộp lấy được” [30, tr.56]. Đó là Vi trong Giống như cái cối nước “Chỉ tại Vi như cái
cánh cửa đóng chặt khiến các em không thể ra khỏi nhà” [28, tr.115] hay “Vi lên nhà,
mỗi bước chân nặng như đeo đá” [28, tr.138]. Đó còn là hình ảnh của người chị dâu
trong Sau những mùa trăng “Tiếng khóc bật ra như nước lũ thượng nguồn không gì
ngăn được. Khóc như để trôi đi những bức bối trong lòng” [28, tr.345]. Hay là bà Cả
trong Chúa đất, đã từ lâu bà không còn cảm giác buồn vui nữa rồi “Bà như cái vũng
nước dưới vực, tít dưới đáy sâu, tối tăm, câm lặng. Một cái vũng nước không ai nhìn
thấy, không ai động đến, kể cả gió, kể cả mặt trời” [32, tr.266].
Khung cảnh miền núi với làng bản hùng vĩ nên thơ; những chàng trai, cô gái nụ
cười hồng như hoa lê, hoa đào trong phiên chợ rộn ràng; những đêm trăng nồng nàn hò
hẹn có tiếng đàn môi réo rắt gọi mời; cả những cố gắng, khát vọng của con người
muốn nâng niu, gìn giữ vẻ đẹp quê hương, gìn giữ những giá trị đạo đức truyền thống
dân tộc. Tất cả đi vào trong những trang viết của Ðỗ Bích Thúy bằng giọng điệu ngôn
ngữ hết sức hồn nhiên, gợi cảm. Nó tạo nên sức sống, nét hấp dẫn riêng không thể trộn
lẫn nơi ngòi bút chị. Với bút pháp hiện thực khá nghiêm ngặt, cách nói đơn giản với sự
87
tỉnh táo vốn có, khi miêu tả về hiện thực và đời sống con người vùng cao, Đỗ Bích
Thúy vẫn thường tâm niệm “Khi viết về miền núi, tôi là chính mình”. Ngôn ngữ trong
văn xuôi Đỗ Bích Thúy là minh chứng sống động cho một thứ ngôn ngữ mộc mạc,
truyền cảm. Nó không bề bộn, thô nhám như ngôn ngữ của Tạ Duy Anh, không quá
trau chuốt điệu đà như văn của Võ Thị Hảo, không mấy khi váng vất chất liêu trai như
tiểu thuyết Nguyễn Huy Thiệp lại càng không mạnh mẽ, bạo dạn như ngôn ngữ của Y
Ban. Chính sự khác biệt này đã cho phép Đỗ Bích Thúy – và những nhà văn trên – có
được “tấm hộ chiếu” tin cậy để tạo lập bản – sắc – viết – văn trong thời đại văn học
vốn rất đa dạng này. Trong truyện ngắn Ngải đắng ở trên núi, Đỗ Bích Thúy viết
“Ngôi nhà nằm chênh vênh trên cao kia. Già nua cũ kỹ và nhỏ nhoi. Khi nào nhớ về
mẹ, tôi cũng hình dung thấy ngôi nhà với chín bậc cầu thang, nơi chân tôi run rẩy,
chập chững đi ra cuộc đời và từ cuộc đời đầy giông bão trở về” [28, tr.209]. Chính sức
nặng của tình yêu thương và những kỷ niệm thiết tha về quê hương đã giúp chị có
được một phong cách ngôn ngữ đằm lắng, nhân văn trên trang viết của mình.
Tiểu kết
Sức hấp dẫn và nét độc đáo riêng trong các sáng tác của Đỗ Bích Thúy về chủ
đề người phụ nữ miền núi chính là hệ thống hình ảnh mang tính biểu tượng và ngôn
ngữ sử dụng.
Về hệ thống hình ảnh mang tính biểu tượng đặc biệt chú ý đến những biểu
tượng liên quan tới vẻ đẹp và số phận của người phụ nữ như trang phục, bếp lửa, tiếng
đàn môi…
Đặc biệt là ngôn ngữ mang nét riêng của những người phụ nữ miền núi. Tác giả
đã sử dụng ngôn ngữ, lối nói so sánh mộc mạc giản dị, nhưng cũng đầy dí dỏm, sử
dụng tình huống giao tiếp của chính những con người sinh ra từ núi, từ nền văn hóa
núi. Mỗi một nhân vật đều có một lối nói và ngôn ngữ riêng, sinh động và chân thực.
Do có lợi thế là người am hiểu những đặc trưng văn hóa núi, con người miền
núi nên nhà văn đã tạo dựng được một không gian văn hóa núi chân thực và đậm đà, từ
các giá trị văn hóa vật chất cho tới tinh thần, và cả suy nghĩ diễn tiến của từng nhân vật
trong truyện đều rất chân thực, rất thực tế trong cuộc sống
88
KẾT LUẬN
Ân ức nữ tính xuất hiện với tần xuất dày đặc trong các sáng tác của Đỗ Bích
Thúy. Chị đã dành hết tình yêu và sự cảm thông cho số phận của những người phụ nữ
dân tộc thiểu số miền núi Đông Bắc - nơi chị sinh ra và lớn lên. Những người phụ nữ
miền núi Đông Bắc đa phần đều là những con người đẹp về cả hình dáng lẫn đức tính,
là những người đóng góp và kiến tạo nên đời sống vật chất và tinh thần cho tộc người
mình. Tuy thế, họ lại bị xã hội nhìn nhận phiến diện, bị coi nhẹ và xem thường.
Những ẩn ức mà người phụ nữ miền núi phải gánh chịu luôn chất chứa, ngồn
ngộn, đan xen vào nhau, tạo thành sức nặng đè nén và bóp nghẹt người phụ nữ, họ
phải sống trong dằn vặt, khao khát và héo mòn tàn lụi. Họ không có điều kiện, không
có cách nào để thoát ra khỏi trạng thái đó, bởi bối cảnh xã hội là cái vỏ khắc nghiệt,
bao bọc những định kiến sai lệch, bảo vệ những nguyên nhân gây ra số phận bất hạnh
và bi thương của người phụ nữ.
Trong các sáng tác của Đỗ Bích Thúy, không gian và văn hóa núi xuất hiện đậm
đà, đa diện tạo nên sức hấp dẫn ma mị trong trang văn Đỗ Bích Thúy. Đó là tâm trạng
của người con nhớ núi, khao khát về với quê hương, cội nguồn, cảnh sắc mùa xuân,
những ngôi nhà nhỏ nép mình vào bóng núi, tiếng suối chảy xen với tiếng cối giã gạo
nhịp nhàng, tiếng vó ngựa gõ vào đá núi, tiếng sáo xa xa trong gió, tiếng đàn môi hẹn
hò người yêu trong những đêm trăng sáng, những ngày hội, phiên chợ tình nhân văn.
Khu vực miền núi phía Bắc là nơi lưu giữ rất nhiều vỉa tầng văn hóa độc đáo,
những giá trị nhân văn. Tuy nhiên, cũng bao chứa nhiều nỗi đắng cay, tủi nhục, nghèo
khó, tụt hậu và kìm hãm con người, số phận con người. Người phụ nữ dân tộc thiểu số
miền núi Đông Bắc đẹp, rạng ngời, giỏi giang hết mực, nhưng lại phải gánh chịu một số
phận nghiệt ngã, khổ đau. Họ luôn phải sống trong kìm nén, chịu đựng, khổ đau, giày
vò…nhưng không hề bi lụy tuyệt vọng, mà luôn ẩn giữ một khát khao mạnh mẽ hướng
đến tự do, tình yêu, hạnh phúc và sức sống mãnh liệt không bao giờ lụi tàn, chủ động
lựa chọn cái chết để có tự do.
Tính nhân văn, cao cả của những người phụ nữ dân tộc miền núi Đông Bắc là
điểm nổi lên trên hết, đáng trân trọng và khâm phục hơn hết, nhất là hình ảnh những
89
người mẹ già. Ở họ hội đủ sự khắc khổ, khô héo của thời gian, của cuộc sống đọa đầy,
của những gì chất chứa, chịu đựng…nhưng vượt trội lên trên hết là lẽ sống nhân văn, sự
vị tha và bao dung, một sức sống mãnh liệt. Lời nói của người mẹ già như một phát
ngôn nhân văn và bao dung của biết bao người phụ nữ miền núi Đông Bắc “Ầy, chuyện
cũ đừng nhắc nữa. Cái gì cần nhớ hãy nhớ, cái gì nên quên phải biết quên. Hôm qua
trời mưa nước suối đục, nhưng không đục mãi được. Con người cũng thế…?" [28, tr.20]
90
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lại Nguyên Ân (2003), Sống với văn học cùng thời, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
2. Nguyễn Duy Bắc, Về bản sắc dân tộc trong sáng tác của các nhà thơ dân tộc thiểu
số, Tạp chí Nghiên cứu văn học số 9/1994.
3. M. Bakhtin (1992), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, Trường viết văn Nguyễn Du,
Hà Nội
4. Jean Chevalier – Alain Gheerbrant (2015), Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới
(Phạm Vĩnh Cư, Nguyễn Xuân Giao, Lưu Huy Khánh, Nguyên Ngọc, Vũ Đình
Phòng, Nguyễn Văn Vĩ – dịch), Nxb Đà Nẵng. ĐN
5. Nguyễn Văn Chính, Văn hóa và con người các dân tộc thiểu số trên một số báo
viết Việt Nam, Tạp chí Văn hóa dân gian số 4/2010.
6. Bàn Thị Quỳnh Dao, Thơ Bàn Tài Đoàn - Tiếng nói tâm hồn đích thực của người
Dao, Tạp chí Văn hóa các dân tộc số 8/2010.
7. Nguyễn Văn Dân (2004), Phương pháp luận nghiên cứu văn học, Nxb Khoa học
xã hội, HN.
8. Bế Viết Đẳng - Nguyễn Khắc Tụng - Nông Trung - Nguyễn Nam Tiến (1971),
Người Dao ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
9. Nguyễn Thị Bích Hà (2009), Mã và mã văn hóa, Tạp chí văn hóa dân gian số 6
10. Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (2005), Từ điển thuật ngữ văn học,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
11. Nguyễn Phương Hoa (2013), Tính nữ và nữ quyền trong dân ca Mông, Luận văn
thạc sĩ văn học, ĐHSP Thái nguyên
12. Cao Hồng (2011), Một chặng đường đổi mới lý luận văn học Việt Nam (1986 –
2011), Nxb Hội nhà văn, HN.
13. Nguyễn Văn Long – Lã Nhâm Thìn (đồng chủ biên) (2005), Văn học Việt Nam sau
1975 – Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, Nxb giáo dục, Hà Nội.
14. Phương Lựu (chủ biên) (2005), Lý luận văn học, Nxb Giáo du ̣c, Hà Nô ̣i.
15. Trần Thị Nhung (2010), Người phụ nữ trong Truyền kì mạn lục nhìn từ quan điểm
giới, Luận văn thạc sĩ ngữ văn, ĐHSP Thái Nguyên
16. Phạm Duy Nghĩa, Quan hệ con người tự nhiên trong văn xuôi miền núi, Tạp chí
Nghiên cứu Văn học số 10.2009.
91
17. Nhiều tác giả (1985), 40 năm văn hóa nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam,
Nxb Văn hóa.
18. Nhiều tác giả (1997), Nghiên cứu văn nghệ dân gian Việt Nam (Tập I), Nxb Văn
hóa dân tộc, Hà Nội
19. Đặng Thị Oanh (2006), Biểu tượng lanh trong dân ca Mông, Luận văn thạc sĩ ngữ
văn, ĐHSP Thái Nguyên
20. Văn Quân (1998), Về các giá trị dân tộc, NxbVăn hóa dân tộc, Hà Nội.
21. Hùng Đình Qúy (2001), Dân ca Hmông Hà Giang – tập 1, Sở văn hóa thông tin
Hà Giang
22. Hùng Đình Qúy (2003), Dân ca Hmông Hà Giang – tập 2, Sở văn hóa thông tin
Hà Giang
23. Hùng Đình Qúy (2003), Dân ca Hmông Hà Giang – tập 3, Sở văn hóa thông tin
Hà Giang
24. Trần Hữu Sơn (1996), Văn hóa HMông, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
25. Bùi Việt Thắng (2004), Tiểu thuyết đương đại (Tiểu luận – phê bình văn học),
Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
26. Dương Thị Kim Thoa (2008), Tiếp cận sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư và Đỗ Bích
Thúy từ phương diện giá trị văn hóa – văn học, Luận văn Thạc sĩ Trường Đại học
Khoa học xã hội nhân văn Hà Nội.
27. Đỗ Bích Thúy (2002), Những buổi chiều ngang qua cuộc đời (tập truyện ngắn),
Nxb Thanh niên, Hà Nội.
28. Đỗ Bích Thúy (2005), Tiếng đàn môi sau bờ rào đá (tập truyện ngắn), Nxb Công
an nhân dân. Hà Nội.
29. Đỗ Bích Thúy (2005), Bóng của cây sồi (tiểu thuyết), Nxb Thanh niên, Hà Nội.
30. Đỗ Bích Thúy (2008), Người đàn bà miền núi, Nxb Phụ nữ, Hà Nội
31. Đỗ Bích Thúy (2014), Cánh chim kiêu hãnh, Nxb tổng hợp TP. Hồ Chí Minh
32. Đỗ Bích Thúy (2015), Chúa đất (tiểu thuyết), Nxb Phụ nữ, Hà Nội
33. Đinh Quang Tốn (2004), Ấn tượng văn chương, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
34. Lâm Tiến, Vấn đề truyền thống và hiện đại trong văn học các dân tộc thiểu số
Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Văn học số 4/1991.
35. Lâm Tiến (1995), Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại, Nxb Văn hóa
dân tộc.
92
36. Trần Thị Việt Trung (2010), Bản sắc dân tộc trong thơ các dân tộc thiểu số Việt
Nam hiện đại, Nxb ĐH Thái Nguyên.
37. Trần Thị Việt Trung (2008), Hình tượng nhân vật phụ nữ trong văn xuôi Việt Nam
hiện đại, Nxb Đại học Thái Nguyên.
38. Trần Thị Việt Trung (Đồng chủ biên) (2011), Văn học dân tộc thiểu số Việt Nam
thời kì hiện đại - Một số đặc điểm, Nxb Đại học Thái Nguyên.
39. Đặng Nghiêm Vạn (2007), Văn hóa Việt Nam đa tộc người, NXB Giáo dục, HN.
40. http://tiasang.com.vn/-van-hoa/phan-tam-hoc-trong-nghien-cuu-van-hoc-3236
41. http://giaitri.vnexpress.net/tin-tuc/sach/lang-van/phan-tam-hoc-va-van-hoc-5-doc-
con-nguoi-phan-22-1973757.html
42. http://web.cema.gov.vn/modules.php?name=Content&op=details&mid=117450989
43. http://cand.com.vn/van-hoa/Do-Bich-Thuy-voi-tieu-thuyet-Bong-cua-cay-soi-
16815/
44. http://vietvan.vn/vi/bvct/id231/Tieu-thuyet-cua-cac-cay-but-tre,-doc-va-cam-nhan/