intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ: Ảnh hưởng của đạo Công Giáo đối với việc giữ gìn trật tự an toàn xã hội ở vùng giáo Nghệ An hiện nay thực trạng và giải pháp

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:104

46
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích là làm rõ ảnh hưởng của đạo Công giáo đối với việc giữ gìn TT, ATXH ở Nghệ An, từ đó góp phần xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân ở vùng có đông đồng bào theo đạo Công giáo vì mục tiêu chung "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Mời các bạn tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ: Ảnh hưởng của đạo Công Giáo đối với việc giữ gìn trật tự an toàn xã hội ở vùng giáo Nghệ An hiện nay thực trạng và giải pháp

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN NGUYỄN THỊ THỦY ẢNH HƯỞNG CỦA ĐẠO CÔNG GIÁO ĐỐI VỚI VIỆC GIỮ GÌN TRẬT TỰ AN TOÀN XÃ HỘI Ở VÙNG GIÁO NGHỆ AN HIỆN NAY- THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP LUẬN VĂN THẠC SĨ Người hướng dẫn: TS. Hoàng Xuân Lương HÀ NỘI - 2007
  2. MỤC LỤC Mở đầu ............................................................................................................. 4 Chương 1. Đạo Công giáo và tình hình trật tự, an toàn xã hội ở vùng giáo Nghệ An............................................................................................... 9 1.1.Quá trình du nhập và phát triển Đạo công giáo ở Nghệ An ........................... 9 1.1.1. Khái niệm Đạo công giáo ...................................................................... 9 1.1.2. Những giai đoạn phát triển chủ yếu ..................................................... 13 1.2.Thực trạng tình hình TT, ATXH ở các vùng giáo Nghệ An ........................ 20 1.2.1.Thực trạng chấp hành pháp luật ............................................................ 20 1.2.2.Về tệ nạn xã hội .................................................................................... 26 1.2.3.Về đoàn kết cộng đồng ......................................................................... 29 Chương 2. Ảnh hưởng của đạo công giáo đối với việc giữ gìn trật tự, an toàn xã hội ở vùng giáo Nghệ An hiện nay ...................................... 35 2.1. Những ảnh hưởng tích cực và mặt hạn chế của đạo Công giáo đối với việc giữ gìn TT, ATXH ở vùng giáo 36 2.1.1.Về mặt niềm tin .................................................................................. 36 2.1.2.Về mặt giáo lý .................................................................................... 40 2.1.3. Về mặt tổ chức giáo hội ..................................................................... 45 2.1.4.Về truyền thống giáo dục trong gia đình ............................................. 50 2.2. Một số vấn đề đặt ra đối với việc giữ gìn TT, ATXH ................................ 56 2.2.1.Kết hợp niềm tin tôn giáo với niềm tin xã hội tiến bộ ........................... 56 2.2.2. Kết hợp gíao lý với luật pháp ............................................................... 60 2.2.3. Kết hợp sống đẹp đạo, tốt đời .............................................................. 63 2.2.4. Kết hợp tốt vấn đề xưng tội với khắc phục các căn bệnh xã hội ........... 68 Chương 3. Một số giải pháp nhằm phát huy mặt tích cực và khắc phục mặt hạn chế của đạo công giáo đối với việc giữ gìn trật tự, an toàn xã hội ở vùng giáo nghệ an hiện nay ..................................................... 72 3.1. Tăng cường tuyên truyền, giáo dục đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, nâng cao về mặt nhận thức ................................... 72 3.1.1. Đối với tầng lớp chức sắc, chức việc .................................................. 72 1
  3. 3.1.2. Đối với quần chúng giáo dân .............................................................. 74 3.2. Nghiên cứu vận dụng giáo lý, giáo luật đạo Công giáo vào công tác giữ gìn TT, ATXH .......................................................................................... 78 3.3. Củng cố bộ máy cán bộ làm công tác tôn giáo, duy trì bảo vệ TT, ATXH vùng giáo, chống địch lợi dụng đạo Công giáo ................................... 80 3.3.1. Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn cần đấu tranh chống hai xu hướng tả khuynh hoặc hữu khuynh .......................................... 82 3.3.2. Củng cố hoàn thiện bộ máy cán bộ làm công tác tôn giáo từ tỉnh xuống cơ sở ................................................................................................... 85 3.4. Đẩy mạnh phát triển kinh tế-xã hội ở vùng giáo, nâng cao đời sống cho đồng bào có đạo.................................................................................. 86 3.4.1. Về kinh tế ........................................................................................... 87 3.4.2. Về văn hoá - xã hội ............................................................................. 88 Kết luận........................................................................................................... 92 Danh mục tài liệu tham khảo ......................................................................... 98 Phụ lục ............................................................................................................ 99 2
  4. CÁC CHỮ VIẾT TẮT ĐƯỢC DÙNG TRONG LUẬN VĂN CNXH: Chủ nghĩa xã hội UBĐKCG Uỷ ban đoàn kết Công giáo UBMT: Uỷ ban mặt trận UBND: Uỷ ban nhân dân TT, ATXH: Trật tự, an toàn xã hội XHCN: Xã hội chủ nghĩa 3
  5. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Với tư cách là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng xã hội, tôn giáo có tác động mạnh mẽ đến tồn tại xã hội. Mặc dù phản ánh hư ảo đời sống xã hội, nhưng với sức mạnh của đức tin, tôn giáo có vai trò đặc biệt trong việc liên kết, tập hợp cộng đồng. Trong một chừng mực nhất định, tôn giáo như là một trong những nhân tố góp phần ổn định trật tự xã hội đang tồn tại, dựa trên các hệ thống giá trị và chuẩn mực chung mà nó hình thành. Nghệ An là một tỉnh đa tôn giáo (hiện nay ở Nghệ An có ba tôn giáo chính đó là Đạo công giáo, Tin lành và Phật giáo), hơn bao giờ hết, Đảng bộ, Chính quyền tỉnh Nghệ An cần nhận thức, đánh giá đúng vai trò và ảnh hưởng của các tôn giáo đối với trật tự xã hội, đặc biệt là ảnh hưởng của đạo Công giáo - tôn giáo có số lượng tín đồ đông nhất trên địa bàn tỉnh Nghệ An hiện nay. Đến nay, Nghệ An được coi là trung tâm vùng giáo Bắc miền Trung, toàn tỉnh có 232.228 tín đồ, chiếm xấp xỉ 8% dân số. Đồng bào theo Đạo công giáo sinh sống tại 184 xã, phường, thị trấn với trên 839 xóm; trong đó có 185 xóm giáo toàn tòng. Sự du nhập của đạo Công giáo vào Nghệ An đã đem lại cho một bộ phận dân chúng một niềm tin tôn giáo mới. Đó là tôn giáo có một bề dày lịch sử với nền thần học cao siêu, những giáo lý chặt chẽ và nhất là một hệ thống đạo đức giàu tính nhân văn, rất gần gũi với đạo lý đời thường cũng như có những quan điểm chung với hệ thống đạo đức luân lý của các tôn giáo đang hiện diện ở Việt Nam. Vì vậy, đánh giá về tác động của tôn giáo này đối với đời sống cộng đồng xã hội chúng ta phải đứng trên lập trường CNDVBC, phải thấy được tác động có tính hai mặt của nó; nghĩa là bên cạnh việc thừa nhận những ảnh hưởng tích cực của đạo Công giáo, chúng ta cũng không phủ nhận, lảng tránh những ảnh hưởng tiêu cực, hạn chế của tôn giáo này. Trong khuôn khổ của một luận văn thạc sỹ, tác giả chỉ đề cập đến một khía cạnh của sự ảnh hưởng, đó là ảnh hưởng của đạo Công giáo đối với việc giữ gìn TT, ATXH ở vùng giáo Nghệ An hiện nay. Nhìn từ góc độ triết học thì đây chính là mối quan hệ biện chứng giữa 4
  6. đạo Công giáo - một hình thái ý thức xã hội, đối với TT, ATXH - một lĩnh vực thuộc tồn tại xã hội. Nhìn chung, ở các vùng giáo tình hình TT, ATXH có phần ổn định hơn so với các địa bàn khác trong toàn tỉnh, nhưng bên cạnh đó có một số phần tử xấu đã và đang lợi dụng tôn giáo để thực hiện những hành vi gây rối, vi phạm chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và đi ngược lại những giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc nói chung, của giáo lý đạo Công giáo nói riêng, nổi lên hàng đầu hiện nay là vấn đề tranh chấp đất đai. Đặc biệt trong hoàn cảnh phức tạp như hiện nay, khi mà các thế lực phản động trong và ngoài nước đã, đang và sẽ lợi dụng vấn đề tôn giáo làm công cụ cho chúng trong âm mưu "Diễn biến hoà bình" thì việc nghiên cứu ảnh hưởng của đạo Công giáo đối với việc giữ gìn TT, ATXH vùng giáo không chỉ là nhiệm vụ của riêng bất cứ một địa phương nào mà còn là nhiệm vụ chung của toàn Đảng, toàn dân, góp thêm cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc hoàn thiện chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta, thực hiện một cách sáng tạo chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước vào điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của từng địa phương. Với ý nghĩa khoa học và thực tiễn sâu sắc như vậy, nên Tôi quyết định chọn đề tài "Ảnh hưởng của đạo công giáo đối với việc giữ gìn Trật tự an toàn xã hội ở vùng giáo Nghệ An hiện nay - Thực trạng và giải pháp" làm luận văn thạc sĩ triết học. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Từ trước tới nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về tôn giáo nói chung, đạo Công giáo nói riêng dưới các gióc độ và theo nhiều quan điểm tiếp cận khác nhau. Các tác giả đã đi sâu phân tích ảnh hưởng của tôn giáo này đến các mặt trong đời sống xã hội, trong đó có liên quan đến lĩnh vực TT, ATXH. Tác giả luận văn xin tạm chia các công trình đó thành các nhóm sau đây: - Nhóm các công trình nghiên cứu về vai trò của tôn giáo nói chung và ở Việt Nam nói riêng, như: “Về tín ngưỡng và tôn giáo hiện nay” do GS Đặng Nghiêm Vạn chủ biên; “Ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo đối với con 5
  7. người Việt Nam hiện nay” của GS Nguyễn Tài Thư; “Mười tôn giáo lớn trên thế giới” do Hoàng Tâm Xuyên chủ biên; “Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt Nam” của Nxb Chính trị quốc gia; “Một số hiểu biết về tôn giáo. Tôn giáo ở Việt Nam” của Nxb Quân đội nhân dân; “Mối quan hệ Thời đại - Dân tộc - Tôn giáo” của PGS Bùi Thị Kim Quỳ; “Những vấn đề lý luận và thực tiễn tôn giáo ở Việt Nam” của Viện nghiên cứu tôn giáo; “Vấn đề tôn giáo và chính sách tôn giáo của Đảng cộng sản Việt Nam”; “Tôn giáo và đời sống hiện đại” của Viện Thông tin Khoa học xã hội. - Nhóm các công trình nghiên cứu vai trò của đạo Công giáo với tính chất hai mặt vừa tích cực, vừa hạn chế, như: “Tìm hiểu nét đẹp văn hoá Thiên Chúa giáo” của tác giả Hà Huy Tú; “Nghi lễ và lối sống công giáo trong văn hoá Việt Nam” của Nxb Khoa học xã hội; “Sự du nhập của đạo Thiên Chúa vào Việt Nam. Từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX” của PGS Nguyễn Văn Kiệm; “Tìm hiểu đạo đức trong kinh thánh” của tác giả Trương Như Vương; “Tên gọi đạo Thiên Chúa ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Nghị đăng trên tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo (số 6, năm 2001). - Nhóm các công trình, luận văn, bài viết nghiên cứu vai trò của đạo Công giáo đối với TT, ATXH như: “Tổng kết lịch sử 60 năm đấu tranh chống địch lợi dụng đạo Thiên Chúa ở Nghệ An (1954-2005)” của Công an tỉnh Nghệ An; “Công tác an ninh trong quản lý Nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở Việt Nam” của Nxb Công an nhân dân; “Công tác bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội ở Nghệ An trong tiến trình đổi mới - Bài học và giải pháp” của đồng tác giả Trần Phồn - Phạm Xuân Cần; “Điều tra các vụ án xâm phạm An ninh quốc gia trong tình hình hiện nay ở Việt nam” của Nxb Công an nhân dân; “Ảnh hưởng của giáo quyền đạo Công giáo đối với đời sống của cộng đồng giáo dân ở tỉnh Nghệ An” - luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Văn Long, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; “Những giải pháp nâng cao vai trò, hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo của tổ chức cơ sở Đảng xã, phường có đồng bào theo đạo Công giáo ở Nghệ An” của Sở Khoa học công nghệ tỉnh Nghệ An; “Về tôn giáo và đấu tranh chống hoạt động lợi dụng tôn giáo” của tác giả Trần Phồn - Công an tỉnh Nghệ An;… 6
  8. Như vậy, việc nghiên cứu đạo Công giáo ở Việt Nam nói chung, Nghệ An nói riêng đã được đề cập tới trong nhiều tác phẩm. Các công trình này đã nghiên cứu một cách hệ thống đạo Công giáo ở Việt Nam, ở Nghệ An và một số địa phương; đề cập đến một số khía cạnh có liên quan đến TT, ATXH như niềm tin, đạo đức, giáo dục gia đình, âm mưu của bọn phản động lợi dụng đạo Công giáo… nhưng chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách trực tiếp, toàn diện và có hệ thống việc nghiên cứu ảnh hưởng của đạo Công giáo đến TT, ATXH. Trong luận văn này dựa trên cơ sở nguồn tài liệu cơ bản là qua điều tra thực tế tại các địa bàn xã, phường, thị trấn ở tỉnh Nghệ An có đông đồng bào theo đạo công giáo, tác giả mong muốn chỉ ra được những ảnh hưởng của đạo Công giáo đối với lĩnh vực TT, ATXH ở vùng giáo để thông qua đó đề ra được những giải pháp nhằm phát huy mặt tích cực và khắc phục những hạn chế của sự ảnh hưởng đó. Ngoài ra, đề tài cũng chọn lọc, sử dụng nhiều tài liệu báo cáo, tổng kết, sơ kết ...về tình hình tôn giáo và thực hiện chính sách tôn giáo; về tình hình TT, ATXH ở vùng giáo của Ban Tôn giáo, Ban dân vận, Uỷ ban nhân dân tỉnh Nghệ An, phòng PA38 công an tỉnh Nghệ An và các ngành có liên quan. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Đạo công giáo ở Nghệ An (đi sâu vào nghiên cứu ảnh hưởng của đạo Công giáo đối với việc giữ gìn TT, ATXH). - Phạm vi nghiên cứu: Chỉ nghiên cứu ảnh hưởng của đạo Công giáo đối với việc giữ gìn TT, ATXH ở Nghệ An trong những năm đổi mới, không nghiên cứu các lĩnh vực khác và ở các địa phương khác. 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu - Mục đích: Làm rõ ảnh hưởng của đạo Công giáo đối với việc giữ gìn TT, ATXH ở Nghệ An, từ đó góp phần xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân ở vùng có đông đồng bào theo đạo Công giáo vì mục tiêu chung "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". - Nhiệm vụ : + Làm rõ quá trình du nhập và phát triển đạo Công giáo ở Nghệ An và vai trò của nó đối với việc giữ gìn TT, ATXH ở Nghệ An. 7
  9. + Phân tích thực trạng và lý giải một số vấn đề đặt ra đối với đạo Công giáo ở Nghệ An trong việc phát huy vai trò giữ gìn TT, ATXH. + Đưa ra một số giải pháp để phát huy vai trò tích cực và khắc phục mặt hạn chế của đạo Công giáo trong việc giữ gìn TT, ATXH ở vùng giáo Nghệ An hiện nay. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu - Cơ sở lý luận: Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách Nhà nước ta về tôn giáo cũng như một số công trình nghiên cứu của các nhà khoa học về tôn giáo và công tác tôn giáo. - Phương pháp nghiên cứu: Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử; phương pháp lịch sử và lôgíc, phương pháp phân tích và tổng hợp, so sánh, thống kê, điều tra, khảo sát thực tế... 6. Đóng góp mới của đề tài Nghiên cứu, phân tích ảnh hưởng đạo Công giáo ở Nghệ An dưới góc độ để vận dụng, xây dựng giữ gìn TT, ATXH vùng giáo vững mạnh là vấn đề cấp thiết có ảnh hưởng tích cực đối với công cuộc đổi mới hiện nay ở nước ta nói chung và ở tỉnh Nghệ An nói riêng. Từ đó đặt ra những vấn đề cần phải giải quyết đối với tình hình TT, ATXH vùng giáo. Đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò của các cấp, các ngành có liên quan. Ngoài ra đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy và học tập lý luận về tôn giáo trong các trường Đại học, Cao đẳng. 7. Kết cấu của đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo đề tài gồm có 3 chương, 9 tiết. Chương 1: Đạo công giáo và tình hình trật tự, an toàn xã hội ở vùng giáo Nghệ An. Chương 2: Ảnh hưởng của đạo Công giáo đối với việc giữ gìn trật tự, an toàn xã hội ở vùng giáo Nghệ An hiện nay. 8
  10. Chương 3: Một số giải pháp nhằm phát huy mặt tích cực và khắc phục mặt hạn chế của đạo Công giáo đối với việc giữ gìn trật tự, an toàn xã hội ở vùng giáo Nghệ An hiện nay. Chương 1 ĐẠO CÔNG GIÁO VÀ TÌNH HÌNH TRẬT TỰ, AN TOÀN XÃ HỘI Ở VÙNG GIÁO NGHỆ AN 1.1. Quá trình du nhập và phát triển đạo Công giáo ở Nghệ An 1.1.1. Khái niệm Đạo công giáo Trong lịch sử, Thiên Chúa giáo là tôn giáo độc thần của những tín đồ tin theo và thờ phượng Chúa trời. Với họ, đó là một lực lượng siêu nhiên, toàn năng, tạo dựng, quản trị và quan phòng, nắm quyền hành điều khiển mọi trật tự trong vũ trụ, trần thế. Hình thức thờ Chúa trời đầu tiên trong lịch sử loài người là người Do Thái. Tôn giáo này vốn phát sinh từ đa thần giáo ngẫu tượng của các bộ lạc Do Thái thời cổ. Từ thế kỷ thứ VII trước công nguyên trở thành tôn giáo độc thần là thờ Thiên Chúa. Nguồn gốc giáo lý của đạo Do Thái là pho thánh kinh cựu ước. Họ tin rằng Thiên Chúa là đấng duy nhất, siêu việt và vô hình. Còn Đấng cứu thế (Kinh thánh Tân ước gọi là đức Giêsu Kitô) thì chưa đến nhưng sẽ đến để cứu rỗi nhân loại. Một tôn giáo khác cũng thờ phượng Chúa trời tuy giáo lý khác hơn, đó là Hồi giáo còn gọi là đạo Islam hay là đạo Mahômét đấng thiên sứ, vị tổ phụ và là nhà tiên tri của Hồi giáo, người được ơn Thiên chúa mạc khải và đã viết kinh Coran với nội dung cũng dựa trên cơ sở thánh kinh cựu ước. Hồi giáo ra đời vào thế kỷ thứ VII với giáo lý cho rằng Giêsu Kitô (ngôi hai trong Tân ước) không 9
  11. được gọi là con Thiên Chúa, không chấp nhận sự kiện Giêsu chết và sống lại. Thượng đế duy nhất của Hồi giáo là đấng Ala. Một tôn giáo khác nữa cũng thờ phượng Thiên Chúa là đạo Kitô hay còn gọi là đạo Cơ đốc. Ra đời từ những năm đầu công nguyên với truyền thuyết về Giêsu Kitô là ngôi hai của Thiên Chúa được đầu thai làm người qua bà Maria. Giêsu được coi là đấng cứu thế cho loài người, từ việc bị đóng đinh trên cây thập giá, chết, táng xác, rồi sống lại sau 3 ngày. Vì vậy mà cùng với lễ giáng sinh (nôen), lễ phục sinh được tín đồ Kitô giáo coi là lễ trọng nhất của Giáo hội. Các nhà thần học cho rằng nếu không có sự kiện phục sinh tức Chúa Giêsu không sống lại thì đức tin là vô ích. Trong quá trình tồn tại và phát triển, đạo Kitô đã bị phân hoá do những bất đồng về giáo lý, giáo luật, nghi lễ phụng vụ và những mâu thuẫn trong nội bộ giáo hội. Sự phân hoá đó đã sinh ra những tôn giáo mới, trong đó có Công giáo và được biểu đạt qua sơ đồ sau: Đạo Thiên Chúa Đạo Do Thái Đạo Kitô Đạo Hồi Công giáo Chính thống giáo Tin lành Anh giáo Công giáo là một tôn giáo thuộc Kitô giáo - tôn giáo thờ Đức Chúa Giêsu Kitô. Đạo xuất phát từ Đức Giêsu, người Nazareth, miền bắc xứ Palétxtin, vùng Cận Đông. Đạo công giáo được hình thành qua hai sự biến động: - Thứ nhất, sự ra đời của Kitô giáo gắn với cuộc đấu tranh chống đế quốc La Mã thế kỷ thứ II TCN. Sự ra đời của Kitô giáo là sự kế thừa cải cách Do thái giáo kết hợp với các tư tưởng triết học duy tâm, thần học Hy Lạp, La Mã cổ đại. 10
  12. Đạo Kitô ra đời với hai trung tâm lớn là Rôme và Côngstantinôv cùng các trung tâm khác như Antốt Gerusalem... Mâu thuẫn giữa hai trung tâm Rôme và Côngstantinôv diễn ra trong quá trình đấu tranh giành ngôi vị độc tôn, chi phối toàn bộ Giáo hội Kitô giáo. Mâu thuẫn dẫn đến năm 1054 (thế kỷ XI), trong Kitô giáo diễn ra cuộc phân liệt thứ nhất và dẫn đến sự hình thành của Công giáo - thế lực lớn nhất - thuộc phần tây đế chế La Mã và Chính thống giáo ở Phương Đông. Trong đó Công giáo thừa nhận quyền tối thượng của Giáo hoàng, giữ mối liên hệ hiệp thông với toà thánh Vatican trong các vấn đề về giáo lý, giáo luật, nghi lễ phụng tự và nền tảng của đức tin là bộ kinh thánh (Cựu ước và Tân ước). Công giáo là giáo hội Tây phương hay thường gọi là giáo hội La Mã; còn Chính thống giáo hay còn gọi là giáo hội Phương Đông lại không thừa nhận quyền tối thượng của Giáo hoàng; dựa vào phúc âm Gioan họ chỉ tin đức chúa Thánh thần (ngôi ba) bởi Chúa Cha (ngôi nhất mà ra chứ không phải từ cả ngôi hai (Giê su), không công nhận ơn vô ngộ của Giáo hoàng mà chỉ cộng đồng chung mới có. Tuy vẫn kính Đức mẹ nhưng không tin Maria là vô nhiễm nguyên tội. - Thứ hai, đến thế kỷ XVI, giai cấp Tư sản ở Châu Âu xuất hiện đã đặt ra yêu cầu cải cách Công giáo. Với những cải cách tôn giáo của Máctinluthơ (1483 - 1546) và GiăngCanVanh (1509-1546) đã dẫn đến sự xuất hiện của Giáo hội cải cách gọi là Tin lành, đây là cuộc phân liệt thứ hai. Trong đó, giữa giáo lý Tin lành và Công giáo có những điểm khác biệt cơ bản như: Tin lành không chấp nhận quyền tối thượng của Giáo hoàng, không công nhận các bí tích giải tội và thánh thể. Niềm tin duy nhất là kinh thánh. Ngày chủ nhật các tín đồ đến nhà thờ nghe mục sư giảng kinh thánh rồi cầu nguyện, ăn năn thú tội trực tiếp với Chúa. Cùng với cuộc cải cách dẫn đến sự ra đời của đạo Tin lành, ở nước Anh vào thời kỳ này (1533) cũng nảy sinh mâu thuẫn giữa Vua Henry VIII với Giáo hội dẫn đến sự ra đời của tôn giáo mới là Anh giáo. Tôn giáo này không chịu sự chỉ đạo của Roma. Về mặt giáo lý, Anh giáo gần giống như Công giáo trừ việc chối bỏ quyền tối thượng của Giáo hoàng và với phép truyền chức thì linh mục hay giám mục không bị buộc phải sống độc thân. 11
  13. Như vậy mỗi tôn giáo có một đặc điểm riêng biệt và chính tên gọi chỉ ra đặc điểm riêng biệt đó. Tin lành giáo chỉ đặc điểm là tôn giáo này coi trọng thánh kinh (theo họ, thánh kinh Tân ước chính là tin tốt lành nên gọi là Tin lành giáo); Anh giáo chỉ đặc điểm ở tính chất địa phương (chỉ có tại nước Anh); Chính thống giáo chỉ đặc điểm là cố lưu giữ những tính chất nguyên sơ ban đầu; Công giáo chỉ đặc điểm là trung thành với giáo hội Rô ma với tính chất phổ quát của nó là duy nhất, thánh thiện, công giáo, tông truyền. Theo ý nghĩa đó, Công giáo - tên gọi được dịch từ chữ la tinh: Catholica, xuất hiện lần đầu tiên trong một bức thư của Thánh Ignatiô tử đạo năm 107 gửi cho Giáo hội tại Smyrne: "Ubi christus, ibi Catholica Ecclesia"(ở đâu có Đức Kitô, ở đó có hội thánh Công giáo). Công giáo - như vậy là một thuộc tính của đạo xuất phát từ Đức Kitô. Định nghĩa đầu tiên của thuộc tính "Công giáo" đã do Thánh Cyrillô thành Giêrusalem đưa ra vào cuối thế kỷ II: "Giáo hội được gọi là Công giáo vì Giáo hội lan tràn trên khắp thế giới từ đầu này đến đầu kia của trái đất, vì Giáo hội giảng dạy một cách phổ biến, không loại trừ tất cả tín điều con người cần phải biết và cũng vì Giáo hội muốn cho loài người, vua quan cũng như thường dân, người thông thái cũng như kẻ dốt nát suy phục sự tôn sùng đích thực" [43, tr.34]. Ở cách hiểu này, Công giáo được coi là đạo chung cho mọi người hay quốc giáo. Dù có những khác biệt nhưng điểm chung cơ bản nhất là cả bốn tôn giáo này đều cho rằng Thiên Chúa là nhân vật tối cao của họ. Đạo Thiên Chúa du nhập vào nước ta gồm có Kitô giáo và Hồi giáo (một ít ở Miền Nam, cho đến nay tôn giáo này vẫn có mặt ở một số tỉnh Miền Nam nước ta), trong Kitô giáo chỉ có Tin lành và Công giáo. Tuy vậy, tôn giáo này khi được truyền vào Việt Nam (1553) đã được gọi bằng nhiều tên khác nhau, như: Đạo Giatô, đạo Cơ đốc, Công giáo, Kitô giáo, Thiên Chúa giáo... Mỗi tên gọi được giải thích khác nhau và nhấn mạnh vào một nội dung hoặc một khía cạnh riêng của tôn giáo này, ví dụ tên gọi đạo Gia tô, Thiên Chúa giáo nhấn mạnh vào đấng được gọi là Thiên Chúa, vị Chúa độc nhất, Đấng tạo hoá được thờ kính trong tôn giáo này; Kitô giáo nhấn mạnh vào Đức Kitô, Đấng cứu thế; Còn Công giáo có thể hiểu theo cả hai nghĩa này vì tín lý Công giáo là thờ Thiên 12
  14. Chúa ba ngôi: Thiên Chúa - Chúa cha, Đức Giêsu Kitô - Chúa con và Chúa thánh thần. Thật ra, tại Việt Nam, các tên gọi này nhất là Thiên Chúa giáo, Kitô giáo, Công giáo thường được dùng một cách lẫn lộn, ít có sự phân biệt rõ ràng và chưa có một văn bản chính thức nào khẳng định nên gọi như thế nào cho phù hợp. Tuy nhiên theo những căn cứ sau đây chúng ta có thể đi đến khẳng định nên gọi như thế nào là phù hợp nhất: Thứ nhất: Với tên gọi là Thiên Chúa giáo, cách gọi này có ý nghĩa chỉ ra nhân vật tối cao được tôn thờ của Giáo hội là Thiên Chúa. Tuy nhiên trong lịch sử có 3 tôn giáo khác nhau cùng thờ Chúa trời là Do thái giáo, Hồi giáo và Kitô giáo. Do đó nếu gọi Thiên Chúa giáo thì có thể đúng với các tôn giáo nói trên và chưa có sự phân biệt để chỉ ra đặc điểm riêng vốn có của mỗi tôn giáo này. Thứ hai: Với tên gọi là Kitô giáo, tên gọi này chỉ ra nhân vật được thờ phụng là Đức Kitô hay còn gọi là Giêsu, theo kinh Tân ước đó chính là nhân vật đã sáng lập ra tôn giáo này. Tuy nhiên trong lịch sử phát triển do có sự xung đột, mâu thuẫn trong nội bộ Giáo hội nên từ Kitô giáo đã có sự phân hoá, tách thành 4 tôn giáo khác nhau là Công giáo, Chính thống giáo, Tin lành và Anh giáo. Tín đồ của cả 4 tôn giáo này đều có thể gọi là Kitô hữu. Vì vậy nếu gọi là Kitô giáo thì chưa chỉ ra được đặc điểm riêng của cả 4 tôn giáo nói trên nên rất dễ nhầm lẫn như cách gọi Thiên Chúa giáo. Thứ ba: Với tên gọi là Công giáo được Giáo hội tôn giáo này giải thích ý nghĩa là chỉ có tôn giáo của họ mới tính cách phổ quát cao nhất. Ba tôn giáo còn lại (Chính thống giáo, Tin lành và Anh giáo) chẳng qua là những dị biệt, do sự hiểu lầm đáng tiếc mà có. Và tôn giáo của họ mới có tính chất đại diện. Vì vậy tên gọi này nó có tính phổ biến, được Giáo hội Vatican và Giáo hội các quốc gia, trong đó có Việt Nam đồng tình thống nhất một tên gọi duy nhất là Công giáo. Thứ tư: Riêng ở Việt Nam, dù Công giáo không phải là tôn giáo chung cho mọi người hay là quốc giáo nhưng đây lại là tôn giáo có số lượng tín đồ đông, có khắp các miền đất nước. Và theo ý kiến của phần lớn các tín đồ của tôn giáo này ở nước ta cũng muốn được gọi tên của tôn giáo mình là Công giáo. 13
  15. Cách gọi này đã quy tụ được sự đồng thuận của đồng bào Công giáo Việt Nam trong chiến lược đại đoàn kết toàn dân. Từ những cách hiểu trên, đối với đạo Thiên Chúa ở Việt Nam (mà lâu nay ta quen gọi) - một tôn giáo chịu sự chỉ đạo của Hội đồng giám mục Việt Nam và toà thánh Vatican ở Rôma cần được gọi đúng tên riêng của nó là Công giáo. Trong luận văn này, tác giả cũng thống nhất cách gọi là đạo Công giáo. 1.1.2. Những giai đoạn phát triển chủ yếu Ý định "Phúc âm hoá" các dân tộc, "Mở rộng nước chúa" trên trái đất của Giáo hội Công giáo đã được thực hiện mạnh mẽ từ sau những phát kiến địa lý vĩ đại thế kỷ XV. Sự gặp gỡ của hai ý định lớn: ý định của Giáo hội Công giáo đem sự cứu rỗi của Chúa Kitô đến với mọi miền và ý định của giai cấp tư sản mở rộng thị trường đã trở thành động lực thúc đẩy việc truyền bá đạo Công giáo ra nhiều khu vực, trong đó có Đông Nam Á, Đông Dương và Việt Nam. Từ thế kỷ XV - XVI đã lác đác có giáo sĩ phương tây đến nước ta. Sang thế kỷ XVII, việc truyền bá đạo Công giáo vào Việt nam mới thực sự có kết quả và có hệ thống. Riêng với Nghệ An dưới thời phong kiến là mảnh đất nghèo khổ nhưng nhân dân ở đây có truyền thống chống ngoại xâm rất oai hùng - Thực dân Pháp biết rõ điều đó nên trong từng bước xâm lấn mảnh đất này, chúng đã triệt để lợi dụng việc truyền giáo để từng bước thực hiện âm mưu xâm lược và nô dịch. Quá trình du nhập và phát triển của tôn giáo này tại Nghệ An đã phản ánh đúng thực trạng tình hình đó. Nguyên nhân chủ yếu khiến cho đạo Công giáo phát triển ở Nghệ An nói riêng và cả nước nói chung là nguyên nhân xã hội lúc bấy giờ. Một thời gian dài đất nước không có chính quyền thống nhất. Các tập đoàn phong kiến không chú ý đến phát triển kinh tế, ổn định đời sống nhân dân mà chỉ lo "xưng bá, xưng hùng", Trịnh - Nguyễn phân tranh. Nhà Tây Sơn thống nhất quốc gia trong vinh quang chống ngoại xâm nhưng chưa đủ thời gian để thực thi quốc sách, vả lại còn lo đối phó với thù trong giặc ngoài. Triều Nguyễn không những không giải quyết được những vấn đề lớn của xã hội mà còn đưa đất nước vào con đường bế tắc, trì trệ, bảo thủ về mọi mặt. Hàng thế kỷ, người Việt Nam không còn cơ sở 14
  16. để đặt niềm tin vào bộ máy cai trị của Nhà nước phong kiến. Tâm trạng hoang mang, bế tắc không có đường ra là sự thực khá phổ biến trong nhiều tầng lớp nhân dân. Tôn giáo bản địa (thờ cúng tổ tiên) không có hệ thống lý luận hoàn chỉnh. Phật giáo và Nho giáo cũng ở vào tình trạng không làm nổi vai trò hướng đạo cho số đông quần chúng lao khổ... Vì vậy, trong sự khủng khoảng về tư tưởng đó thì những tác động của buổi đầu tiếp xúc với văn hoá văn minh Phương Tây tất nhiên sẽ được đón nhận dưới nhiều hình thức và nội dung khác nhau là điều dễ hiểu. Ngoài ra, lợi dụng tâm lý phiếm thần và niềm tin tôn giáo của người nông dân không có tính bền vững, hành động tôn giáo của họ mang tính thực dụng; lợi dụng lòng khao khát đượcgiải phóng, nhu cầu đòi hỏi cấp bách để duy trì cuộc sống "an bần lạc đạo" ở mức tối thiểu; sự bất mãn, phẫn uất vì chế độ hà khắc của vương triều nhà Nguyễn... nên thực dân Pháp mà trực tiếp là bọn gián điệp thầy tu trong Hội thừa sai Pari làm nhiệm vụ truyền giáo ở các nước Đông Dương đã đẩy mạnh tuyên truyền lừa bịp họ bằng các đạo lý "Chúa cứu thế", "tử vì đạo"... để mê hoặc nhân dân mất cảnh giác, buông lỏng ý thức dân tộc. Trong bối cảnh chung đó, ở Nghệ An đạo Công giáo cũng bắt đầu được du nhập và phát triển từ những năm 1629 - 1630. Cho đến nay, chúng ta có thể tạm chia thành các giai đoạn sau: - Giai đoạn từ 1630 đến 1846 (có giáo phận Vinh) - Giai đoạn từ 1846 đến tháng 8/1945 (cách mạng tháng 8 thành công) - Từ tháng 8/1945 đến nay. 1.1.2.1. Giai đoạn từ 1630 đến 1846 So với một số tỉnh Miền Bắc thì thời gian có người phương tây đến truyền đạo ở Nghệ An chậm hơn. Theo An bum của Giáo phận Vinh do Toà Giám mục Xã Đoài phát hành năm 1996 thì từ 1630, hai linh mục Alêxandrodes (Đắc Lộ) và Mamarquez bị trục xuất khỏi Đàng ngoài, trên đường bị áp giải vào Đàng trong để về Ma Cao, hai linh mục đã ghé vào cửa biển Nghệ -Tĩnh - Bình giảng đạo. Trong vòng 6 tháng họ đã làm lễ rửa tội cho 600 người ở xứ Nghệ. Thủ đoạn truyền đạo vẫn theo phương thức cổ truyền là thu phục nhân tâm bằng các 15
  17. hoạt động như: chữa bệnh, cứu trợ từ thiện, tổ chức học chữ, học nghề... dần giảng dạy giáo lý và làm phép. Đến năm 1632, có một số thừa sai Dòng Tên tiếp tục đến Nghệ An để truyền đạo. Tiêu biểu nhất là linh mục Magorica người Italia. Theo số liệu không chính thức của một số thừa sai, vào cuối năm 1659, ở Nghệ An đã có tới 120 nhà thờ (trên tổng số 414 nhà thờ toàn Miền Bắc). Cũng năm 1659, hai địa phận Đàng Trong và Đàng Ngoài được thành lập. Nghệ - Tĩnh - Bình là những tỉnh cực nam của Đàng Ngoài, thuộc khu vực truyền giáo của các thừa sai người Pháp. Đến năm 1668, linh mục xứ Nghệ đầu tiên được phong tại Thái Lan là linh mục Bênêđiô Hiền. Năm 1679, xứ Nghệ đã có một toà giám mục giành cho Đức giám mục phó để coi sóc giáo dân đặt tại Tràng Đen (Nam Đàn); đến 1792, toà Phó giám mục được di chuyển xuống Thọ Kỳ (Đức Thọ, Hà Tĩnh) và đến năm 1842, Đức cha Hậu II (Jean Denis Gauthier) Đức cha phó cuối cùng của giáo phận Tây đàng ngoài coi sóc phần lãnh thổ này đã quyết định dời Toà giám mục từ Thọ Kỳ ra làng Đoài (Xã Đoài, Nghi Diên, Nghi Lộc) và ổn định cho đến ngày nay. Đánh giá về thực trạng tình hình giáo hội Thiên Chúa giáo ở Nghệ Tĩnh trong giai đoạn này, năm 1893, Giám mục Liêu (Mgr. retordd) đã viết trong báo cáo gửi về Rôma rằng: "Tại Hà Tĩnh và Nghệ An có 45.364 bổn đạo, bổn đạo trong hai tỉnh này là những bổn đạo sốt sắng nhất địa phận" [14, tr.396]. Như vậy, mặc dù về tổ chức cho mãi đến năm 1845 vẫn chưa có giáo phận Vinh tồn tại độc lập, các hoạt động tôn giáo của các tín đồ Công giáo từ năm 1679 trở về trước phụ thuộc vào giáo phận Đàng Ngoài, từ 1679 đến 1845 phụ thuộc vào giáo phận Tây Đàng Ngoài, nhưng các hoạt động về tôn giáo đã diễn ra sôi nổi và liên tục. Về mặt tổ chức, các tổ chức bên dưới như: xứ, họ đã hình thành một hệ thống cơ sở tương đối bền vững - đây là yếu tố hạt nhân, là cơ sở hạ tầng đặc biệt quan trọng để Giáo hoàng cho phép thành lập Giáo phận Vinh sau này. 1.1.2.2. Giai đoạn từ 1846 đến 1945 16
  18. Trong thời gian này, Giáo hội Công giáo tại Nghệ An nói riêng và địa phận Vinh nói chung đã hoàn chỉnh về tổ chức, phát triển nhanh, mạnh về lực lượng và thực tế đã trở thành một lực lượng chính trị xã hội quan trọng trong đời sống chính trị xã hội ở khu vực và địa phương. Ngày 27/03/1846, Giáo hoàng Grêgôrox đã ban sắc chỉ thành lập giáo phận Nam Đàng Ngoài (còn gọi là giáo phận Nam, từ năm 1924 gọi là giáo phận Vĩnh, rồi sau gọi là Giáo phận Vinh cho đến nay) và bổ nhiệm Giám mục Ngô Gia Hậu làm đại diện tổng toà giáo phận mới. Giám mục phó lúc này là ông Masson Nghiêm. Cho đến thời điểm này (1848) theo thống kê của giáo phận Vinh, toàn giáo phậnđã có: 1 giám mục, 1 giám mục phó, 4 linh mục thừa sai Pháp, 35 linh mục Việt Nam, 75 thầy giảng, 18 giáo xứ, 66.350 giáo dân. Như vậy, vượt qua bao dâu bể thăng trầm với những biến cố lịch sử chông gai, mặc dù bị sự đàn áp của triều đình nhà Nguyễn nhưng đạo Công giáo vẫn không ngừng phát triển về tổ chức và lực lượng. Đến năm 1892, một sự kiện lịch sử đáng ghi nhận ở Giáo phận Vinh là Giám mục Lpineau (tên thường gọi là Đức cha Trị) ra thư chung nhận lễ Mẹ lên trời làm quan thầy Giáo phận và ngày dâng hiến Giáo phận cho Đức mẹ. Vào thời điểm này, Giáo phận Vinh đã có 1 giám mục, 72 linh mục Việt Nam, 31 linh mục thừa sai, 12 giáo hạt, 51giáo xứ, 51 giáo họ, 300 nhà thờ, 88.227 giáo dân... Đây là giai đoạn "sự đạo" ở Nghệ An nói riêng, Việt Nam nói chung được ghi nhận là "khởi sắc nhất". Số linh mục Việt Nam một năm tăng xấp xỉ 1,33%,số giáo dân tăng hơn 1,22%, về tổ chức và cơ sở vật chất được tăng lên không ngừng, cơ sở in ấn, phát hành các loại kinh bổn dần hoàn thiện... Sau ngày tổng khởi nghĩa tháng 8 năm 1945, ngày 27/8/1945 Đại hội linh mục giáo phận Vinh đã được tiến hành càng khẳng định rõ hơn sự phát triển lớn mạnh của giáo phận. Theo báo cáo của đại hội , cho đến thời điểm tiến hành đại hội thì toàn giáo phận đã có: 178 linh mục Việt Nam, 194 chủng sinh, 200 nữ tu, 185.000 giáo dân... Đại hội đã cử linh mục Trần Hữu Đức làm tổng quản, tạm quyền thay thế Giám mục Auêlêô Giuerla (tên thường gọi là Đức cha Bắc) lúc này vì lý do sức khoẻ nên không làm việc được. 17
  19. Như vậy, trong gần 100 năm tính từ ngày thành lập Giáo phận Vinh đến cách mạng tháng 8 năm 1945, Giáo phận Vinh đã đạt được một số kết quả lớn như: giành được thế và lực hợp pháp trong các hoạt động xã hội , hoàn chỉnh hệ thống tổ chức từ Họ, Xứ đến Toà giám mục, phát triển nhanh lực lượng giáo sĩ và giáo dân. 1.1.2.3. Từ 1945 đến nay Sau năm 1945, Công giáo địa phận phát triển nhanh, mạnh. Việc chỉ đạo cũng rất chặt chẽ từ trên xuống dưới qua các hệ thống của tôn giáo. Trong thời kỳ này, toàn dân ta đang ra sức kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược lần thứ hai, đại bộ phận người công giáo Việt Nam đã cảm nhận sâu sắc nỗi nhục mất nước, tích cực tham gia, đóng góp sức mình vào sự nghiệp chung của Tổ Quốc. Hàng nghìn thanh niên Công giáo yêu nước đã trực tiếp tham gia chiến đấu trên tất cả các chiến trường với quyết tâm tất cả cho Tổ quốc quyết sinh. Ngày 7/10/1945, hơn 30.000 đồng bào giáo dân cùng giáo sỹ đã kéo về sân vận động Vinh dâng thánh lễ cầu nguyện cho Tổ quốc, nói lên quyết tâm bảo vệ Tổ quốc bằng bất cứ giá nào. Trong thời gian này chúng ta cần ghi nhận công lao đóng góp của một bộ phận không nhỏ đồng bào giáo dân và các linh mục tiến bộ, yêu nước; tiêu biểu như linh mục Nguyễn Văn Tường, Đậu Quang Lĩnh, Lê Đình Huân, Trần Đức Triều... Thế nhưng bên cạnh đó vẫn có những thế lực đen tối cố tình khoét sâu mâu thuẫn giữa vô thần và hữu thần, chia rẽ giáo dân với cách mạng, một số chức sắc giáo hội đã đi theo đường lối chính trị, không đồng hành với dân tộc, với nhân dân trong cuộc đấu tranh giành độc lập cho dân tộc. Thậm chí những phần tử này còn liên kết với thực dân và các đối tượng ngăn cản, chống phá cách mạng. Vì vậy sau 1954, Giáo phận Vinh tuy nằm trong vùng tự do nhưng vẫn bị ảnh hưởng bởi các luận điệu tuyên truyền tâm lý chiến rằng "Việt minh cấm đạo, cộng sản cấm đạo"... kết quả là có khoảng 61 linh mục, 27 chủng sinh, 52 tiểu chủng sinh, 43 nữ tu và khoảng 45.000 giáo dân Nghệ An đã di cư vào Nam, làm cho hoạt động công giáo của địa phận bị xáo trộn và trở nên rất nhạy cảm, phức tạp. 18
  20. Trong những năm 60-70, tình hình giáo phận Vinh tiếp tục có những thay đổi, tình trạng thiếu linh mục cai quản các giáo xứ cũng là một trở ngại lớn đối với việc khôi phục và củng cố giáo xứ, họ đạo. ở những vùng công giáo vốn trước đây là toàn tòng nhưng về những năm sau đã có một số lượng khá đông đồng bào ngoài công giáo ở các vùng xung quanh tới sinh sống. Trong những thập kỷ gần đây, toà giám mục Xã Đoài, dưới sự chỉ đạo của toà thánh Vatican và sự tác động của các thế lực bên ngoài nên đã có một số chuyển hướng hoạt động: từ chỗ cực đoan không tuân thủ, thậm chí chống lại các cấp chính quyền địa phương trước kia thì nay chuyển dần sang ôn hoà, tận dụng chủ trương dân chủ để đổi mới từng bước, củng cố phát triển giáo hội, tìm mọi cách tách dần sự quản lý của Nhà nước; tận dụng các ngày lễ trọng đại, các sự kiện lịch sử của giáo hội để đẩy mạnh các hoạt động khuyếch trương thanh thế của Giáo hội, củng cố đức tin cũng như để tuyên truyền, phát triển đạo. Cho đến nay, Nghệ An có trên 23 vạn đồng bào công giáo, cư trú chủ yếu ở 13 huyện, trong 184 xã, phường, thị trấn, 839 xóm vùng đồng bằng và núi thấp. Toàn tỉnh có 2 xã và 185 xóm giáo toàn tòng, có 14 xã và 106 xóm, bản xen đồng bào công giáo và đồng bào dân tộc thiểu số. Có toà giám mục Xã Đoài, 9 hạt, 72 nhà thờ xứ, 245 nhà thờ họ, 1 giám mục, 76 linh mục. Các huyện có đông đồng bào công giáo sinh sống là Nghi Lộc, Diễn Châu, Quỳnh Lưu, Yên Thành, Hưng Nguyên. (Xem biểu tổng hợp 1). Tóm lại, quá trình du nhập và phát triển đạo công giáo ở Nghệ An có nhiều bước thăng trầm, để lại những dấu ấn khá rõ nét, thể hiện trên một số điểm cơ bản như: Một là, sau khi dòng tên bị Toà thánh giải thể, công cuộc truyền đạo tại giáo phận Vinh hoàn toàn do các thừa sai của Hội thừa sai Pari đảm nhận. Chúng ta cần hiểu rằng đối với các thừa sai này, việc thánh hoá nhân loại theo tinh thần Phúc Âm và mở đường cho ách đô hộ của chế độ thực dân Pháp được đặt ưu tiên ngang nhau. Chính vì thế tính vong bản của tôn giáo này thể hiện rất rõ trong cộng đồng giáo dân Nghệ An. Hai là, do tính cách có phần cực đoan của một bộ phận người dân xứ Nghệ (theo nhận xét của nhiều học gỉả, trong đó có nhà văn hoá Phan Ngọc) nên 19
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2